Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

Chương 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Mẹ, rồi bố tôi mất, từ đó tôi sống một mình trong căn nhà này. Hai năm trước, vú em chăm nom tôi từ khi tôi còn nhỏ cũng đã ra đi sau một cơn đau tim. Tôi tin rằng mình có một người anh em họ sống trong ngôi làng nơi ngọn nguồn con sông ở phía sườn xa của dãy núi phương bắc, nhưng tôi chưa từng gặp người đó. Các sườn núi được bao phủ bởi những cây gai và đỉnh núi thì luôn ẩn mình trong lớp sương mù, nên chẳng có ai cố vượt qua chúng. Và do trên đảo không có bản đồ - bản đồ đã biến mất từ lâu – không ai biết hình dáng chính xác hay có gì nằm ở sườn bên kia dãy núi.

Bố tôi là một nhà điểu học. Ông làm việc trên một chòi quan sát nằm trên đỉnh đồi phía nam. Ông dành vài tháng trong một năm ở đó để thu thập dữ liệu, chụp ảnh các sinh vật và cố ấp trứng. Tôi rất thích đi thăm ông và thường lui tới khi có thể - lấy cớ mang cơm trưa cho ông. Các nhà nghiên cứu trẻ đối với tôi rất tốt và thường chiều tôi bằng bánh quy và sô cô la nóng.

Tôi thường ngồi lên đùi bố và ngắm nhìn các sinh vật của ông thông qua chiếc ống nhòm. Hình dáng mỏ, màu sắc lông vũ quanh đôi mắt, cách vỗ cánh – chẳng điều gì mà ông không chú ý khi làm việc với chúng. Chiếc ống nhòm quá nặng đối với một cô bé, và khi đôi tay tôi rã rời, bố sẽ luồn tay xuống phía dưới để đỡ lấy sức nặng ấy. Khi chúng tôi gần nhau, cùng xem đàn chim tung cánh, tôi luôn muốn hỏi liệu ông có biết những ngăn kéo trong cái tủ cũ dưới studio của mẹ ẩn chứa điều gì hay không. Nhưng khi tôi vừa định cất lời thì hình ảnh mẹ nhìn chằm chằm lên mảnh trăng khuyết qua khung cửa sổ lại hiện ra trong tâm trí, tôi lại chẳng thể nói được câu gì. Tôi hài lòng vì bản thân mình và thay vào đó, tôi chuyển lại lời mẹ tới bố rằng ông ấy phải ăn xong bữa trưa kẻo thiu.

Đến lúc tôi phải ra về, ông dạo bước cùng tôi tới điểm dừng xe buýt. Tôi thường dừng lại tại một điểm dọc con đường nơi chim chóc đến kiếm ăn để bẻ vụn một trong những chiếc bánh quy mà các trợ lí của bố cho tôi.

"Khi nào bố về nhà ạ?" tôi hỏi ông.

"Bố nghĩ là tối thứ bảy," ông hay nói với tôi như vậy với vẻ không thoải mái. "Nhớ chuyển tình yêu của bố tới mẹ con nhé." Ông vẫy tay chào tạm biệt mạnh đến nỗi suýt làm rơi chiếc bút chì đỏ - hoặc cái compa, bút nhớ dòng, thước kẻ hoặc cái nhíp – được nhét trong ngực áo.

. . .

Thật may mắn khi những loài chim không biến mất cho đến khi bố qua đời. Đa số những người trên đảo nhanh chóng tìm thấy công việc khác khi một thứ gì đó biến mất mà ảnh hưởng đến việc làm của họ, nhưng tôi không nghĩ rằng ông có thể làm vậy. Phát hiện ra những sinh vật hoang dã thật sự là tài năng thiên phú của ông.

Khi các chiếc mũ biến mất, người thợ làm mũ sống phía bên kia đường chuyển sang làm ô. Chồng bà vú của tôi từng là thợ máy trên phà, chuyển sang làm bảo vệ tại một nhà kho. Một cô gái học trước tôi vài năm đã làm trong một thẩm mỹ viện, nhưng lại nhanh chóng tìm được một công việc hộ sinh. Không ai trong số họ nói lấy một lời về việc này. Ngay cả khi công việc mới có thu nhập ít hơn, họ dường như không chút tiếc nuối công việc cũ. Tất nhiên, nếu họ phàn nàn thì họ đã có thể bị Cảnh sát Kí ức chú ý.

Mọi người – và tôi cũng không phải ngoại lệ - dường như có thể quên gần như mọi thứ, giống như thể hòn đảo của chúng tôi không thể nổi trên bất cứ thứ gì ngoài một vùng biển trống rỗng mênh mông.

Vào một buổi sáng nào đó, các loài chim đột ngột biến mất, cũng giống như nhiều thứ khác. Khi thức giấc, tôi có thể cảm thấy không khí có gì đó lạ thường, đến mức gần như thô ráp. Dấu hiệu của sự mất mát. Tôi cẩn thận nhìn quanh căn phòng trong khi vẫn cuộn tròn trong chăn. Mỹ phẩm trên bàn trang điểm, kẹp giấy và ghi chú rải rác trên bàn làm việc, lớp ren của rèm cửa, giá đựng tài liệu – bất cứ thứ gì cũng có thể biến mất. Cần phải thật kiên nhẫn và tập trung để có thể phát hiện thứ đó là gì. Tôi ra khỏi giường, mặc áo len rồi đi vào vườn. Những người hàng xóm cũng đã ở bên ngoài, lo lắng nhìn xung quanh. Chú chó sân bệnh cạnh đang gầm gừ khe khẽ.

Rồi tôi nhận thấy một sinh vật nhỏ màu nâu đang bay cao trên bầu trời. Trông nó phúng phính, với thứ gì đó như một nhúm lông trắng trên ngực. Tôi chỉ vừa tự hỏi liệu đó có phải một trong những sinh vật mà tôi từng quan sát với bố hay không thì chợt nhận ra mọi thứ tôi biết về chúng đã không còn trong tâm trí: kí ức, cảm xúc về chúng, ý nghĩa của từ "chim" – tất cả mọi thứ.

"Các loài chim,", người đã từng là thợ mũ phía bên kia đường lẩm bẩm. "Đáng lắm. Tôi nghĩ sẽ chẳng có ai nhớ chúng đâu." Anh ta chỉnh lại khăn quàng cổ và khẽ hắt hơi, rồi bắt gặp ánh mắt của tôi. Chắc vì nhớ ra bố tôi từng là một nhà điểu học nên anh ta ái ngại cười trừ rồi quay lại làm việc. Khi những người khác nhận ra thứ gì đã biến mất, họ cũng có vẻ nhẹ nhõm hơn. Họ trở về với công việc buổi sáng, bỏ lại mình tôi nhìn chằm chằm lên bầu trời.

Sinh vật nhỏ màu nâu đó bay một vòng rộng rồi biến mất về phương bắc. Tôi không thể nhớ ra tên loài sinh vật đó, và ước rằng lẽ ra mình phải chú ý hơn khi ở cùng cha trên đài quan sát. Tôi cố níu giữ dáng vẻ của chúng khi bay, tiếng hót hay màu lông vũ trong tâm trí, nhưng tôi biết rằng điều đó là vô ích. Con chim này, lẽ ra phải gắn liền với những kỉ niệm về bố, nhưng lại chẳng thể gợi lên bất cứ cảm xúc nào trong tôi. Nó chẳng qua chỉ là một sinh vật giản đơn, di chuyển trong không gian bằng cách vận động đôi cánh lên và xuống.

Chiều hôm đó, tôi ra chợ mua đồ. Đó đây, tôi thấy vài nhóm người cầm lồng chim với những con vẹt đuôi dài, sẻ Java và hoàng yến run rẩy vì kích động bên trong, cứ như thể chúng biết chuyện gì sắp xảy đến. Họ cầm lồng trong câm lặng, gần như choáng váng, có lẽ vẫn đang cố thích ứng với sự biến mất này.

Mỗi người chủ dường như đang nói lời vĩnh biệt với chú chim của mình theo cách riêng. Có người gọi tên chúng, người cọ má, người khác thì đãi chúng, miệng chu mỏ. Nhưng khi xong xuôi, họ mở lồng và hướng chúng lên trời. Những sinh vật nhỏ ấy ban đầu còn bối rối, bay lượn xung quanh chủ nhân của chúng, nhưng nhanh chóng biến đi, như thể bị hút vào một khoảng không vô tận.

Khi chúng ra đi, sự thanh thản đổ xuống cứ như không khí đang mang một hơi thở đầy quan tâm dịu dàng. Mọi người trở về nhà, trong tay là những chiếc lồng trống rỗng.

Và đó là cách những chú chim biến mất.

. . .

Một điều khá bất ngờ xảy ra vào hôm sau. Chuông cửa reo lên khi tôi đang ăn sáng và xem tivi. Tiếng chuông dữ dội báo hiệu điều gì đó chẳng lành.

"Đưa chúng tôi đến văn phòng của bố cô ngay," một Cảnh sát Kí ức đang đứng ở ngưỡng cửa, nói. Bọn họ có năm người, mặc đồng phục màu xanh lá đậm với thắt lưng lớn và đi ủng đen. Họ đeo găng tay da, khẩu súng mang theo lấp ló phân nửa trong bao da ở bên hông. Bọn họ trông gần như giống hệt nhau, chỉ có thể phân biệt qua huy hiệu trên cổ áo – mặc dù tôi không có thời gian dò xét kĩ lưỡng.

"Đưa chúng tôi đến văn phòng của bố cô ngay," người đàn ông thứ hai nhắc lại, âm điệu y hệt như người nói trước đó. Người ngày đeo huy hiệu hình kim cương, hạt đậu và hình thang.

"Bố tôi đã mất năm năm trước rồi," tôi nói chậm nhất có thể, cố giữ bình tĩnh.

"Chúng tôi biết," một người khác đeo phù hiệu hình nêm, hình lục giác và chữ cái "T". Như thể lời nói của hắn là một loại tín hiệu, năm tay cảnh sát xông vào nhà mà không hề cởi ủng. Đột nhiên, hàng lang trở nên ồn ào với tiếng ủng và súng.

"Tôi vừa giặt thảm xong đấy," tôi nói. "Xin các vị cởi bỏ giày." Tôi biết lẽ ra mình cần nói điều gì đó mạnh mẽ hơn, nhưng yêu cầu đơn giản ấy là tất cả những gì tôi nghĩ đến. Nhưng cũng chẳng ích gì, vì họ không quan tâm đến tôi và đã bước lên cầu thang.

Có vẻ họ biết chính xác nơi cần đến, và chỉ một loáng sau họ đã tới văn phòng của bố ở phía đông ngôi nhà, bắt tay vào công việc với hiệu quả đáng kinh ngạc. Đầu tiên, một trong số họ mở tung hết các cửa sổ đã bị khóa kín kể từ khi bố mất. Cùng lúc, một người khác dùng một vật dài và mỏng như con dao mổ đổ chọc các ổ khóa trên tủ và ngăn kéo bàn. Những người còn lại lướt ngón tay trên chiều dài bức tường như đang tìm kiếm những ngăn chứa bí mật.

Rồi họ bắt đầu lục tung giấy tờ của bố, lướt qua các ghi chú, bản thảo, sách và những tấm ảnh. Khi họ bắt gặp thứ họ cho là nguy hiểm – nói cách khác, là bất kì thứ nào có từ "chim" – họ ném thẳng xuống sàn. Tôi dựa vào khung cửa khi nhìn họ làm việc, bất giác chạm vào ổ khóa trong lo lắng.

Tôi đã được nghe về Cảnh sát Kí ức thực hiện những nhiệm vụ được giao theo cách hiệu quả nhất. Họ làm việc trong im lặng, mắt chăm chú, không có bất kì động tác nào thừa thãi. Âm thanh duy nhất phát ra chỉ là tiếng giấy sột soạt, giống như tiếng chim vỗ cánh.

Thoáng chốc, trên sàn nhà là một núi giấy tờ. Gần như mọi thứ trong căn phòng đều liên quan đến công việc của bố theo một cách nào đó. Tài liệu có nét chữ quen thuộc của bố và những tấm ảnh ông chụp trên đài quan sát lần lượt bị các cảnh sát ném ra. Rõ ràng là họ đang tạo ra một mớ hỗn độn, nhưng họ xử lí nó một cách chính xác tới mức ta lại cảm thấy ngăn nắp trật tự. Tôi cảm thấy mình nên dừng họ lại, nhưng tim tôi đập thình thịch và không biết phải làm gì.

"Xin hãy cẩn thận," tôi thì thầm, nhưng họ phớt lờ tôi. "Đó là tất cả những gì tôi có về bố." Không ai trong số họ quay lại nhìn tôi, và giọng tôi chìm dần trong những mảnh kí ức la liệt trên sàn nhà.

Một người trong số họ chạm tới tay nắm ngăn kéo cuối cùng của chiếc bàn.

"Không có gì trong đó liên quan đến chim chóc cả," tôi bật khóc. Trong ngăn kéo đó bố tôi chỉ giữ những bức thư và tấm ảnh gia đình. Tên cảnh sát đeo huy hiệu tạo thành từ các vòng tròn đồng tâm, một hình như hình chữ nhật và một thì như giọt nước mắt, tiếp tục tìm kiếm. Món đồ vi phạm duy nhất trong ngăn kéo là tấm ảnh cả gia đình tôi cùng một chú chim quý hiếm có màu sắc rực rỡ mà tôi không tài nào nhớ nổi tên – chú chim nở từ một quả trứng mà bố ấp. Tay cảnh sát cẩn thận gom những bức thư và tấm ảnh còn lại rồi để vào ngăn kéo - cử chỉ tốt đẹp duy nhất họ làm trong ngày hôm đó.

Khi các tay cảnh sát đã phân loại xong mọi thứ, họ gom những thứ chất đống trên sàn và nhét vào các túi nhựa đen to lấy ra từ trong túi áo khoác. Rõ ràng với cái cách nhồi nhét thô bạo đó, họ sẽ vứt đi những gì đã lấy. Họ không tìm kiếm điều gì cụ thể; chỉ đơn giản là muốn loại bỏ mọi dấu vết liên quan đến chim chóc. Nhiệm vụ đầu tiên của Cánh sát Kí ức là bảo đảm những gì biến mất thật sự biến mất.

Tôi nhận ra một vài điểm rằng cuộc tìm kiếm này không giống cái ngày họ bắt mẹ đi. Hôm nay, họ dường như đã tìm thấy mọi thứ họ muốn, và tôi khá chắc rằng họ sẽ không quay trở lại. Bố đã mất, và những kí ức về chim đang dần phai nhạt khỏi căn nhà.

Cuộc tìm kiếm kéo dài cả tiếng đồng hồ đã thu được mười cái túi lớn. Văn phòng đã trở nên khá ấm áp nhờ ánh nắng chói chang chiếu vào. Những chiếc huy hiệu sáng loáng trên cổ áo cảnh sát, nhưng chẳng ai trong số họ có vẻ đổ mồ hôi hay cảm thấy nóng. Mỗi người vác trên vai hai túi và chất lên chiếc xe tải đỗ bên ngoài.

Căn phòng đã hoàn toàn thay đổi. Những dấu vết về sự hiện diện của bố mà tôi cố hết sức để gìn giữ đã biến mất, chỉ còn lại sự trống rỗng không thể lấp đầy. Tôi lọt thỏm trong sự trống trải đó, cảm giác bản thân đang đứng trên bờ vực chực chờ bị nuốt chửng vào độ sâu khủng khiếp của nó. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top