Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

Chiếc la bàn vàng 1: Ánh sáng phương Bắc 1

The gold compass – Chiếc la bàn vàng.

Tập 1: Ánh sáng phương Bắc

Tác giả: Philip Pullman

Người dịch: Nhật Thu

Mục lục:

PHẦN MỘT

TRƯỜNG ĐẠI HỌCOXFORD

Chương 1

Chương 2

Chương 3

Chương 4

Chương 5

Chương 6

Chương 7

Chương 8

Chương 9

PHẦN HAI

BOLVANGAR

Chương 10

Chương 11

PHẦN MỘT

TRƯỜNG ĐẠI HỌCOXFORD

Chương 1: Bình rượu Tokey

Lyra và con nhân tinh của cô đi qua khu Sảnh đang tối dần, cố cẩn thận nép sang một bên để tránh bị phát hiện. Ba chiếc bàn lớn chạy dọc hết chiều dài của Sảnh đã được đặt ở đó, đồ đạc và gỗ thủy tinh phản chiếu chút ánh sáng, chiếc ghế dài đã được kéo ra để phục vụ khách mời. Các bức chân dung của những Hiệu trưởng cũ treo cao ẩn trong bóng tối của những bức tường. Lyra đi đến bên chiếc bục và nhìn lại cánh cửa đang mở của nhà bếp, không thấy có ai, cô bước lên bên cạnh chiếc bàn cao. Đồ ở đây toàn bằng vàng, không phải bạc, và mười bốn chiếc ghế ngồi không làm bằng gỗ sồi mà là gỗ gụ, phủ vải nhung.

Lyra đứng lại bên cạnh chiếc ghế dành cho ông Hiệu trưởng và búng ngón tay vào chiếc cốc thủy tinh lớn nhất. Tiếng leng keng vọng rõ trong căn Sảnh.

“Cậu chẳng cẩn thận chút nào,” con nhân tinh của cô thầm thì,” hãy cư xử đúng mực một chút đi.”

Nhân tinh của cô tên là Pantalaimon, bây giờ nó đang trong hình dáng một chú bướm đêm màu nâu sẫm để không bị nhận ra trong bóng tối của gian sảnh.

“Trong bếp rất ồn ào,” Lyra thì thầm trả lời, “và ông quản gia sẽ không xuất hiện cho đến tận khi hồi chuông đầu tiên vang lên đâu. Đừng có cuống lên thế.”

Nhưng cô cũng nắm chặt lấy chiếc cốc đang kêu leng keng và Pantalaimon bay trước qua cánh cửa hé mở của Phòng nghỉ ở đầu bên kia chiếc bục. Một thoáng sau nó lại xuất hiện

“Không có ai trong đó cả,” nó thì thầm, “nhưng chúng ta phải nhanh lên.”

Cúi mình dưới chiếc bàn cao, Lyra chạy nhanh qua cửa vào Phòng nghỉ, đứng lại và nhìn xung quanh. Ánh sáng duy nhất tại đây đến từ lò sưởi, nơi những khúc gỗ với tia lửa rực rỡ đang cháy nhẹ nhàng, tạo nên một làn khói mỏng trên ống khói. Cô đã sống rất lâu trong Học viện, nhưng chưa bao giờ được nhìn thấy Phòng nghỉ. Chỉ có các Học giả và các khách mời của họ được phép vào đây, và không bao giờ có phụ nữ. Thậm chí cả những người hầu gái cũng không được vào dọn dẹp. Đó là công việc riêng của Quản gia.

Pantalaimon đậu trên vai cô.

“Giờ thì cậu vui rồi chứ? Chúng ta đi được chưa?” Nó thì thầm.

“Đừng có ngốc thế! Mình muốn nhìn ngắm xung quanh!”

Đó là căn phòng rộng, có một chiếc bàn tròn bằng gỗ hồng mộc đánh bóng, trên có bày rất nhiều chai và cốc uống rượu khác nhau, và một máy nghiền thuốc bằng gạc với chiếc giàn tẩu thuốc. Trên chiếc tủ búp phê gần đó có một lò hâm rượu và một giỏ thuốc phiện.

“Họ tự phục vụ mình cũng đầy đủ đấy chứ, phải vậy không Pan?” Cô nói trong hơi thở.

Cô ngồi xuống một trong những chiếc ghế bành bọc da xanh lá cây. Nó sâu đến mức cô cảm thấy mình gần như mất hút trong đó, nhưng cô đứng lên và quỳ gối nhìn những bức chân dung trên tường. Lại thêm những học giả nữa, khoác áo choàng, để râu quai nón và nét mặt u sầu. Họ nhìn ra khỏi khung tranh với cái nhìn chê trách nghiêm nghị.

“Cậu nghĩ họ muốn nói điều gì?” Lyra hỏi, hoặc là bắt đầu nói, bởi trước khi hỏi xong, cô nghe có tiếng nói ngoài cửa.

“Trốòn xuống dưới ghế, nhanh lên!” Pantalaimon thì thầm, trong nháy mắt Lyra tụt khỏi ghế và bò ra sau nó. Đó không phải là chiếc ghế lý tưởng nhất để nấp, cô đã chọn chiếc ở ngay giữa phòng, và trừ khi cô thật yên lặng...

Cửa ra vào bật mở, ánh sáng trong phòng thay đổi: một trong những người đi vào cầm một cây đèn mà anh ta đặt trên tủ búp phê. Lyra có thể nhìn thấy chân ông ta, trong chiếc quần màu xanh sẫm và đôi giày đen bóng. Đó là người giúp việc. Rồi một giọng nói trầm vang lên:”Ngài Asriel đã đến chưa vậy?”

Đó là ông Hiệu trưởng. Trong khi Lyra cố ghìm hơi thở, cô nhìn thấy con nhân tinh của người Quản gia (một chú chó, giống như nhân tinh của mọi người giúp việc khác) chạy lon ton vào và ngồi im bên chân chủ, rồi đôi chân của ông Hiệu trưởng cũng trở nên vô hình, trong đôi giầy xấu xí ông ta vẫn thường mang.

“Chưa thưa ông.” Người quản gia nói.

“Ta mong ông ta sẽ đói khi đến đây. Hãy dẫn ông ta đến thẳng Sảnh, nghe chưa?”

“Vâng thưa ông Hiệu trưởng.”

“Và hãy chắt một ít rượu Tokey hảo hạng cho ông ấy.”

“Vâng, thưa ông Hiệu trưởng. Loại từ năm 1898, như ông đã ra lệnh. Ngài Asriel rất yêu thích loại đó, tôi nhớ là như vậy.”

“Tốt, giờ thì hãy để ta một mình.”

“Ngài có cần nến không ạ?”

“Có, cứ để lại đó. Hãy chú ý suốt buổi tối gạt bấc đèn, nghe chưa?”

Người quản gia hơi cúi mình và quay đi, con nhân tinh ngoan ngoãn chạy lon ton theo ông ta. Từ nơi không-lý-tưởng-lắm-để-ẩn-náu, Lyra quan sát ông Hiệu trưởng đi đến chiếc tủ quần áo lớn làm từ gỗ sồi đặt trong góc phòng, lấy ra chiếc áo choàng trên mắc và chật vật khoác lên người. Ông Hiệu trưởng là một người quyền lực, nhưng ông ta đã hơn bảy mươi tuổi rồi, cử chỉ của ông có vẻ vất vả và chậm chạp. Nhân tinh của ông Hiệu trưởng có hình dáng một con quạ, ngay khi ông mặc xong áo khoác, nó nhảy từ trên tủ quần áo xuống và đậu lên vai phải ông, chỗ đứng quen thuộc của nó.

Lyra có thể cảm thấy Pantalaimon đang vẫy râu một cách lo lắng, dù không tạo ra một tiếng động nào. Còn với cô, cô đang cảm thấy hứng thú một cách dễ chịu. Người khách mà ông Hiệu trưởng nói đến, ngài Asriel, là chú của cô, người đàn ông cô ngưỡng mộ và cũng rất e sợ. Người ta nói ông dính dáng đến chính trị, đến những cuộc thám hiểm bí mật và đến cuộc chiến sắp tới, và cô không bao giờ biết lúc nào ông sẽ xuất hiện. Ông là ngườiS hung dữ, nếu bắt gặp cô ở đây, cô sẽ bị phạt nặng, nhưng cô có thể chịu được nếu điều đó xảy ra.

Tuy thế, những điều cô được chứng kiến tiếp theo đã hoàn toàn thay đổi mọi chuyện.

Ông hiệu trưởng rút ra từ trong túi áo một gói giấy và đặt lên bàn. Ông rút chiếc nắp đậy khỏi miệng chiếc bình chứa thứ rượu đặc màu vàng, mở gói giấy và đổ một dòng bột trắng vào bình trước khi vò nát tờ giấy rồi vứt nó vào ngọn lửa. Sau đó ông ta rút một chiếc bút chì trong túi và nguấy rượu cho đến khi chất bột tan hết, rồi đậy nắp bình lại.

Con nhân tinh của ông ta kêu khẽ một tiếng. Ông Hiệu trưởng trả lời lại bằng giọng rất nhỏ và nhìn quanh bằng đôi mắt đục ngầu sùm sụp trước khi đi khỏi qua cánh cửa đã đi vào.

Lyra thì thầm, “Cậu có nhìn thấy gì không, Pan?”

“Tất nhiên là có! Nào bây giờ thì nhanh lên, trước khi ông Quản lý đến!”

Nhưng khi nó đang nói, một tiếng chuông vang lên từ phía kia của đại Sảnh.

“Đó là chuông dành cho người Quản lý!” Lyra nói. “Mình đã nghĩ là chúng ta có nhiều thời gian hơn thế.”

Pantalaimon bay vụt đến cửa dẫn ra đại Sảnh, rồi lại vụt bay về.

“Ông Quản lý đến mất rồi” nó nói, “cậu không thể ra ngoài qua cửa khác...”

Cánh cửa khác, cánh cửa ông Hiệu trưởng đã vào và ra, mở ra một hành lang đông người qua lại giữa Thư viện và Phòng chung của các học giả. Vào thời gian này trong ngày, nó đang chật kín những người cởi áo khoác để ăn tối, hay vội vã để giấy tờ và ca táp trong Phòng chung trước khi vào đại Sảnh. Lyra đã định trở ra theo đường cô đã vào, tận dụng vài phút trước khi chuông dành cho người Quản lý vang lên.

Và nếu cô không chứng kiến ông Hiệu trưởng đổ chất bột kia vào rượu, có thể cô đã phải đụng đầu với cơn giận dữ của người Quản lý, hay hi vọng không bị để ý trong dãy hành lang đông đúc. Nhưng cô đã tính nhầm, điều này làm cô bối rối.

Rồi cô nghe thấy tiếng bước chân nặng nề trên bục. Người Quản lý đang đến để đảm bảo Phòng nghỉ đã sẵn sàng cho cuộc hút thuốc phiện và uống rượu của các Học giả sau bữa tối. Lyra bò đến chiếc tủ quần áo làm bằng gỗ sồi, mở cánh ra và trốn vào trong. kéo cánh tủ lại vừa lúc người Quản lý bước vào. Cô không lo lắng gì cho Pantalaimon: Căn phòng được sơn màu tối, và nó luôn có thể trốn dưới ghế. Cô nghe thấy hơi thở khò khè nặng nhọc của ông Quản lý, qua khe hở do cánh cửa tủ chưa đóng chặt, cô thấy ông ta đang sửa lại các ống điếu trên giá gần chiếc máy nghiền thuốc và nhìn qua một lượt các bình rượu cũng như ly uống rượu. Rồi ông ta dùng cả hai tay vuốt tóc qua tai và nói điều gì đó với con nhân tinh của mình. Ông ta là người giúp việc, nên nhân tinh là một con chó, nhưng ông ta là người giúp việc cao cấvp, nên nó cũng là một con chó cao cấp. Thực ra, nó có hình dáng một con chó săn lông xù đỏ. Con nhân tinh có vẻ cảnh giác và đưa mắt nhìn xung quanh như thể nó cảm thấy có kẻ đột nhập, nhưng không quan tâm đến chiếc tủ quần áo như Lyra đang lo lắng. Lyra đang sợ ông quản lý, người từng đánh cô hai lần.

Lyra nghe thấy tiếng thì thầm nho nhỏ, rõ ràng Pantalaimon đã chen đến gần cô.

“Chúng ta sẽ cứ phải ở trong này thôi. Sao cậu lại không nghe lời mình nhỉ?”

Cô không trả lời cho đến khi người Quản lý đi khỏi. Ông ta có trách nhiệm trông coi phục vụ bàn cao. Cô có thể nghe thấy các Học giả đi vào đại Sảnh, tiếng người nói xôn xao, tiếng bước chân rộn rã.

“Thật tốt là mình đã không nghe cậu,” cô thì thầm trả lời lại, “nếu không chúng ta đã không thấy ông Hiệu trưởng bỏ thuốc độc vào rượu. Pan, đó chính là d loại rượu Tokey ông ta nói với ông Quản gia! Họ sắp ám sát ngài Asriel!”

“Cậu không biết đó là thuốc độc!”

“À, chắc chắn đó là thuốc độc rồi. Cậu không nhớ sao, ông ta cho người Quản gia lui trước khi làm việc đó? Nếu việc đó vô tội, để cho người Quản gia nhìn thấy cũng chẳng ảnh hưởng gì. Và mình biết đang có chuyện gì đó dính dáng đến chính trị. Những người giúp việc đã bàn tán rất nhiều ngày nay. Pan, chúng ta có thế ngăn chặn một vụ giết người.”

“Mình chưa bao giờ nghe điều gì ngớ ngẩn đến thế,” nó nói. “Làm thế nào mà cậu lại nghĩ có thể ở yên trong chiếc tủ quần áo chật chội này suốt bón tiếng đồng hồ nữa? Để mình ra ngoài và thám thính hành lang. Mình sẽ báo cho cậu khi nào hết người.”

Nó bay khỏi vai cô, và cô thấy chiếc bóng nhỏ bé của nó xuất hiện trong vệt sáng.

“Chẳng để làm gì đâu, Pan, mình sẽ ở lại đây.” Cô nói. “Sẽ có một chiếc áo choàng khác hay cái gì đó. Mình sẽ đặt nó lên sàn nhà và thấy dễ chịu hơn. Mình nhất định phải biết họ định làm gì.”

Lúc đó cô đang ngồi thu mình. Cô cẩn thận đứng lên, cố tránh những móc áo để không gây tiếng động và nhận ra chiếc tủ lớn hơn cô tưởng, Có rất nhiều áo choàng dành cho viện sĩ và mũ đội đầu, một số có lông vũ xung quanh, hầu hết bọc vải lụa.

“Mình tự hỏi không biết tất cả chỗ này có phải của ông Hiệu trưởng hay không?” Cô thì thầm. “Có lẽ là khi ông ấy nhận bằng danh dự ở các nơi khác, họ đưa cho ông ta những chiếc áo choàng vui mắt và ông ấy giữ chúng ở đây để thỉnh thoảng khoác vào... Pan, cậu thực sự nghĩ trong rượu không có thuốc độc sao?”

“Không,” nó nói. “Mình nghĩ chất bột đó là thuốc độc, như cậu nghĩ. Và mình nghĩ đó không phải là việc của chúng ta. Mình nghĩ đây là việc ngốc nghếch nhất cậu từng làm trong đời.”

“Đừng có ngu ngốc như vậy.” Lyra nói. “Mình không thể ngồi đây và nhìn người ta đầu độc ông ấy.”

“Vậy thì đến chỗ nào khác đi.”

“Cậu là đồ hèn, Pan ạ.”

“Tất nhiên rồi, mình là đồ hèn. Mình có thể hỏi cậu định sẽ làm gì không? Có phải cậu định lao ra và giật lấy chiếc ly từ những ngón tay run lẩy bẩy của ông ta không? Cậu có ý tưởng gì trong đầu vậy?”

“Tớ chẳng có ý tưởng gì trong đầu cả, và cậu cũng biết rõ là như vậy,” cô khẽ vặc lại, “nhưng giờ đây mình đã chứng kiến ông Hiệu trưởng làm gì, mình chẳng còn lựa chọn nào cả. Chắc cậu cũng biết đến lương tâm chứ, phải không? Làm sao mình có thể đi khỏi, ngồi trong Thư viện hay một nơi nào đó và xoắn tay vào nhau trong khi biết tường tận chuyện gì sắp xảy ra? Mình không định làm thế, mình hứa với cậu như vậy đấy.”

“Đây là điều lúc nào cậu cũng muốn.” Nó nói sau một lúc, “Cậu muốn trốn ở đây và quan sát. Sao mình lại không nhận ra điều này trước đó nhỉ?”

“Đúng vậy, mình là thế đấy.” Cô nói. “Mỗi người đều biết mình sở hữu một bí mật nào đó. Họ sẽ có một nghi lễ hay gì đó. Và mình muốn biết đó là chuyện gì.”

“òĐiều đó không liên quan gì đến chúng ta! Nếu họ muốn thưởng thức những bí mật nho nhỏ của họ, cậu nên cảm thấy tự trọng và để mặc họ. Việc ẩn náu và nhìn trộm chỉ dành cho trẻ con thôi.”

“Mình hiểu chính xác điều cậu nói. Giờ thì đừng có càu nhàu nữa.”

Cả hai ngồi trong im lặng một lúc. Lyra cảm thấy không thoải mái trên sàn tủ cứng và Pantalaimon tự cho mình cái quyền gại râu vào một chiếc áo choàng. Lyra cảm thấy những ý nghĩ lộn xộn trong đầu mình, và cô chẳng muốn gì khác ngoài chia sẻ với nhân tinh của mình, nhưng cô cũng rất tự trọng. Có lẽ cô nên tự gạt bỏ chúng ra khỏi đầu mà không nhờ đến sự giúp đỡ.

Ý nghĩ choáng hết tâm trí cô là lo lắng, nhưng không phải cho bản thân cô. Cô thường xuyên gặp rắc rối đến mức quen với nó. Lần này cô lo lắng cho Ngài Asriel, lo lắng vềkh ý nghĩa của tất cả những chuyện này. Ông không thường xuyên đến thăm Học viện, và thực tế tình hình chính trị căng thẳng hiện tại cho thấy ông không đến đơn giản chỉ để ăn, uống và hút thuốc với mấy người bạn cũ. Cô biết cả Ngài Asriel và ông Hiệu trưởng đều là thành viên của Hội đồng chính phủ, tổ chức cố vấn đặc biệt của Thủ tướng, vì vậy chắc phải có chuyện gì liên quan đến tổ chức này. Nhưng các cuộc họp của Hội đồng chính phủ được tổ chức ở Cung điện chư không phải ở Phòng nghỉ của Học việnJordan.

Rồi có những lời đồn khiến những người giúp việc trong Học viện thì thầm trong nhiều ngày nay. Người ta nói rằng người Tartar đã xâm chiếm Muscovy và đang tràn xuống miềịn Bắc đếnSt. Petersburg. Từ đó, có thể họ sẽ thống trị vùng biển Baltic rồi cuối cùng đánh thắng toàn bộ vùng Tây âu. Và Ngài Asriel đang ở vùng cực Bắc. Lần cuối cô gặp ông, ông đang chuẩn bị thám hiểm cùngLapland...

“Pan,” cô thì thầm.

“Gì vậy?”

“Cậu có nghĩ sẽ có một cuộc chiến tranh không?”

“Chưa đâu. Ngài Asriel sẽ chẳng ngồi đây ăn tối nếu chiến tranh sẽ nổ ra vào tuần sau hay khoảng như vậy.”

“Mình cũng nghĩ thế. Nhưng sau đó thì sao?”

“Suỵt! Có ai đang đến đấy.”

Cô đứng lên và ghé mặt vào khe cửa. Đó là người Quản gia đến khơi bấc đèn theo lệnh của ông Hiệu trưởng. Phòng chung và thư viện được chiếu bằng đèn thường, nhưng các Học giả lại thích những cây đèn dầu mềm mại và cũ kỹ hơn trong Phòng nghỉ. Họ không thay đổi sở thích đó trong suốt quãng thời gian giữ chức của ông Hiệu trưởng.

Ông Quản gia khơi bấc đèn và đặt một khúc gỗ nữa vào lò sưởi rồi lắng nghe động tĩnh ở gian Sảnh trước khi vơ cho mình một nắm lá thuốc trong máy nghiền.

Ông ta đang dịch chuyển chiếc nắp vung thì nắm đấm của cánh cửa kia dịch chuyển, khiến ông ta hốt hoảng nhảy dựng lên. Lyra cố nén cười. Người Quản gia vội vã giúi nắm thuốc vào túi áo và quay lại nhìn người đi vào.

“Ngài Asriel!” Ông ta nói, một sự ngạc nhiên đến lạnh người chạy dọc sống lưng Lyra. Cô không thể nhìn thấy ông từ nơi đang đứng và cố ghìm nén sự nôn nóng được dịch chuyển và quan sát.

“Chào buổi tối, Wren,” Ngài Asriel nói. Lyra luôn nghe giọng nói chói tai đó pha trộn giữa sự thoải mái và e dè. “Tôi đến quá muộn để dự bữa tối. Tôi sẽ chờ ở đây.”

Trông ông quản gia có vẻ không thoải mái. Khách khứa chỉ vào Phòng nghỉ theo lời mời của ông Hiệu trưởng, và ngài Asriel cũng biết thế. Nhưng người Quản gia cũng thấy là Ngài Asriel đang nhìn chằm chằm vào chỗ phồng lên trong túi áo mình, và quyết định không phản đối.

“Tôi có cần báo cho ông Hiệu trưởng biết là ngài đã đến không, thưa ngài?”

“Thế cũng không có hại gì. Ông mang cho tôi chút cà phê được không?”

“Vâng thưa ngài.”

Ông Quản gia cúi mình và vội vã đi ra, con nhân tinh của ông ta ngoan ngoãn chạy lon ton bên gót chân. Người chú của Lyra đi qua phòng đến bên lò sưởi và vươn tay cao trên đầu, gầm gừ như một con sư tử. Ông đang mặc quần áo đi đường. Lyra nhớ lại, mỗi lần cô gặp lại ông, rằng ông làm cô sợ đến mức nào. Không thể có chuyện bất cẩn bò ra ngoài vào lúc này. Tốt hơn là cô ngồi im và hi vọng.

Con nhân tinh của Ngài Asriel, một con báo tuyết, ngồi bên cạnh ông.

“Ông sẽ trình bày ở đây chứ?” Nó khẽ hỏi.

“Đúng thế. Như thế ít gây ầm ỹ hơn là đến Giảng đường. Họ cũng sẽ muốn xem các mẫu vật. Ta sẽ gọi người khuân vác trong một phút nữa. Đang trong giai đoạn khó khăn, Salmaria ạ.”

“Ngài nên nghỉ ngơi một chút.”

Ông ngả người trên một trong những chiếc ghế bành, do đó Lyra không còn nhìn thấy khuôn mặt ông nữa.

“Đúng, đúng. Ta còn nên thay quần áo nữa. Có thể có vài quy tắc nào đó cho phép họ phạt ta một tá chai rượu v đến đây với trang phục không phù hợp. Ta cần ngủ trong ba ngày. Thực tế là…”

Có một tiếng gõ cửa, ông Quản gia đi vào cùng một khay bạc, phía trên có một bình cà phê và một chiếc cốc.

“Cám ơn, Wren,” Ngài Asriel nói, “Có phải cái tôi nhìn thấy trên bàn là rượu Tokey không nhỉ?”

“Ngài Hiệu trưởng đã lệnh chắt riêng cho ngài đấy, thưa ngài,” ông Quản gia nói, “chỉ còn ba tá rượu của năm 98 nữa thôi.”

“Tất cả những điều tốt đẹp đã qua đi mất rồi. Hãy để khay gần ta. À, hãy bảo người khuân vác mang hai chiếc thùng ta để ngoài cửa vào đây.”

“Vào đây ư, thưa ngài?”

“Đúng, vào đây, ông bạn ạ.. Ta còn cần một màn hình và một đèn chiếu nữa, cũng ở đây, ngay bây giờ.”

Ông Quản gia không khỏi há to miệng vì ngạc nhiên, nhưng cố ngăn không đưa ra câu hỏi hay phản đối.

“Wren, anh đang quên mất vị trí của mình đấy,” ngài Asriel nói, “đừng chất vấn ta, chỉ cần làm theo những gì ta ra lệnh thôi.”

“Vâng, thưa ngài,” người quản gia nói, “nếu được nói thì có lẽ tôi cần để ông Cawson biết dự định của ngài, thưa ngài, đề phòng ông ấy sẽ có phần không hài lòng, mong ngài hiểu ý tôi muốn nói gì.”

“Đượ, c. thế thì cứ báo cho ông ta biết.”

Ông Cawson là người Quản lý ở đây. Có một sự kình địch lâu dài và sâu sắc giữa ông ta và người quản gia. Ông Quản lý có quyền cao hơn, nhưng ông Quản gia có nhiều cơ hội lấy lòng các Học giả hơn, và ông ta thu được nhiều lợi ích từ việc đó. Ông ta sẽ hào hứng vì có cơ hội thể hiện cho ông Quản lý biết mình biết nhiều hơn về chuyện gì sắp diễn ra trong Phòng nghỉ.an

Ông ta cúi chào và đi ra. Lyra theo dõi khi chú cô rót một tách cà phê và uống cạn ngay lập tức, rồi rót một tách khác trước khi hợp từng ngụm một cách chậm rãi hơn. Cô cảm thấy thắc mắc: Những thùng mẫu vật? Một đèn máy chiếu? Phải chăng ông ấy phải chỉ cho các Học giả một điều gì đó khẩn cấp và quan trọng?

Rồi ngài Asriel đứng lên và bước khỏi lò sưởi. Cô nhìn rõ ông từ đầu đến chân, và ngạc nhiên trước sự trái ngược của ông với ông Quản gia. Ngài Asriel là một người đàn ông cao với đôi vai rộng và khỏe khoắn, một khuôn mặt tối sầm hung dữ và một đôi mắt lóe sáng với nụ cười độc ác. Đó là một khuôn mặt để thống trị, hay chiến đấu chứ không bao giờ là khuôn mặt của sự hạ cố hay trắc ẩn. Mọi di chuyển của ông đều có khoảng cách lớn và thăng bằng đến hoàn hảo, như chuyển động của loại thú hoang, khi ông xuất hiện trong một căn phòng như thế này, ông dường như giống một con thú hoang nhốt trong chiếc lồng quá chật chội.

Vào lúc đó, cử chỉ của ông có vẻ uể oải và lo lắng. Con nhân tinh của ông đến gần hơn dựa đầu vào thắt lưng ông, ông cúi xuống nhìn nó với vẻ khó hiểu trước khi đến bên chiếc bàn. Lyra đột nhiên cảm thấy nôn nao trong ruột, vì Ngài Asriel đã mở nắp rượu Tokey và đang rót rượu ra ly.

“Không!”

Tiếng kêu khẽ bật ra trước khi cô kịp nén lại. Ngài Asriel nghe thấy và quay phắt lại.

“Ai ở đây vậy?”

Cô không thể tự giúp mình nữa rồi. Cô lộn nhào khỏi chiếc tủ, nhảy lên giật lấy ly rượu trên tay ông. Rượu chảy tràn ra mép bàn và tấm thảm, chiếc ly rơi xuống vỡ tan. Ông ta chộp lấy cổ tay cô, vặn chặt.

“Lyra, mày đang làm cái quái gì ở đây vậy?”

“Thả cháu ra rồi cháu sẽ nói cho chú nghe!”

“Ta sẽ bẻ gãy tay mày trước. Sao mày dám vào đây hả?”

“Cháu vừa cứu mạng chú đấy!”

Họ đờ người ra trong một khoảnh khắc, cô bé vặn vẹo người vì đau nhưng cố nhăn mặt để ngăn mình không khóc to hơn, người đàn ông không thèm quan tâm đến nỗi đau đớn của cô bé.

“Mày vừa nói gì?” Ông nói nhỏ hơn.

“Bình rượu đã bị bỏ thuốc độc,” cô thì thầm giữa hai hàm răng nghiến chặt, “cháu nhìn thấy ông Hiệu trưởng cho thứ bột gì đó vào trong bình.”

Ông buông cô bé ra. Cô ngã nhào xuống sàn, Pantalaimon lo lắng bay đến đậu vào vai cô. Chú cô nhìn xuống với cơn thịnh nộ cốd kìm nén, cô không dám nhìn vào mắt chú mình.

“Cháu chỉ định vào nhìn ngắm căn phòng thôi.” Cô nói. “Cháu biết là đáng ra không nên như vậy. Nhưng cháu đã định ra trước khi có ai đó đi vào, ngoại trừ việc cháu nghe tiếng ông Hiệu trưởng đi vào và mắc kẹt trong này. Chỗ trốn duy nhất là chiếc tủ quần áo. Và cháu thấy ông ấy đổ bột vào rượu. Nếu cháu không…”

Có tiếng gõ cửa.

“Chắc là người khuân vác đấy” Ngài Asriel nói, “Hãy quau trở lại tủ quần áo. Nếu tao nghe thấy một tiếng động, dù là nhỏ nhất, tao sẽ khiến mày phải ước là chết đi cho xong đấy.”

Cô bò vào tủ ngay lập tức, và đúng lúc cô vừa kéo cánh cửa tủ, Ngài Asriel nói, “Vào đi.”

Đúng như ông ta nói, đó là người khuân vác.

“Mang vào trong này phải không, thưa ngài?”

Lyra nhìn thấy người đàn ông có tuổi đang lưỡng lự đứng ở cửa ra vào, phía sau ông lộ ra một góc của chiếc thùng gỗ to.

“Đúng đây, Shutter ạ.” Ngài Asriel nói. “Hãy mang cả hai chiếc thùng vào và đặt xuống cạnh chiếc bàn.”

Lyra thư giãn một chút và cảm thấy vết đau trên vai và cổ tay. Nó cũng đủ đau để khiến cô bật khóc, nếu cô thuộc kiểu các cô bé hay khóc. Thay vào đó cô nghiến răng lại và nhẹ nhàng động đậy cánh tay cho đến khi cảm thấy thoải mái hơn.

Rồi có tiếng cốc thủy tinh xô vào nhau và tiếng chất lỏng đổ ộc ra.

“Đồ quỷ tha ma bắt, Shutter, ông là đồ già ngu ngốc bất cẩn! Mở to mắt ra xem ông đã làm gì!”

Lyra có thể thấy, chú cô đã sắp đặt để đầy bình rượu Tokey ra khỏi bàn, và khiến mọi việc diễn ra như thể người khuân vác đã làm, Ông già cẩn thận đặt chiếc hòm xuống và bắt đầu xin lỗi.

“Tôi thực sự xin lỗi, thưa ngài, chắc là tôi đã đứng gần chiếc bàn hơn tôi tưởng…”

“Hãy tìm thứ gì để dọn đống lộn xộn này đi. Nhanh lên, trước khi nó ngấm vào thảm!”

Người khuân vác và anh giúp việc trẻ tuổi vội vã chạy ra ngoài. Ngài Asriel tiến gần hơn đến chiếc tủ quần áo và nói rất nhỏ.

“Vì mày đã ở đây, mày có thể có một chút tác dụng. Hãy theo dõi nhất cử nhất động của ông Hiệu trưởng khi ông ta quay lại. Nếu mày kể cho tao tin gì hay ho về ông ta, tao sẽ giữ kín việc mày trốn trong phòng Nghỉ. Hiểu chưa?”

“Vâng, thưa chú.”

“Nếu mày gây ra một tiếng ồn, tao sẽ không giúp đỡ gì nữa đâu, Mày tự quyết định lấy số phận mình đấy.”

Ông ta quay ộđi và lại đứng quay lưng vào lò sưởi khi người khuân vác quay lại với chổi, xẻng hót rác, bát hoa và giẻ lau.

“Tôi chỉ có thể nói lại một lần nữa, thưa ngài, tôi xin có lời cầu khẩn tha thiết nhất, xin ngài tha lỗi. Tôi không biết điều gì…”

“Ông chỉ việc dọn đống lộn xộn này đi thôi.”

Khi người khuân vác bắt đầu lau rượu trên tấm thảm, người Quản gia gõ cửa và đi vào cũng người hầu nam của ngài Asriel, một người đàn ông tên làThorold. Họ đang bê một chiếc hòm nặng làm bằng gỗ đánh bóng có quai bằng đồng. Họ nhìn thấy việc người khuân vác đang làm và đứng chết lặng.

“Đúng. Rượu Tokey đấy,” Ngài Asriel nói. “Tệ quá, đèn chiếu đấy phải không? Hãy thắp nó bên cạnh tủ búp phê,Thorold, nếu ông có thể. Tôi muốn màn hình được đặt ở đầu bên kia.”

Lyra nhận ra cô có thể nhìn thấy màn hình và tất cả những gì hiện trên đó qua khe hở của cánh cửa tủ, và tự hỏi không hiểu chú cô lắp đặt chuyện gì. Trong tiếng ồn ào do người hầu nam trải cuộn lanh cứng ra và căng nó lên khung, cô thì thầm:

“Nhìn thấy không? Cũng đáng tò mò đấy chứ, phải vậy không?”

“Cũng có thể như vậy,” Pantalaimon nói với vẻ đau khổ, với giọng nhỏ tí của con sâu bướm, “và cũng có thể không phải.”

Ngài Asriel đứng bên lò sưởi nhấm nháp nốt chỗ cà phê và nhìn với ánh mắt tối sầm khiThoroldmở chiếc hòm đựng đèn chiếu và mở các thấu kính trước khi kiểm tra bình đựng dầu.

“Có rất nhiều dầu, thưa ngài.” Ông ta nói., “Tôi có cần gọi một kỹ sư đến vận hành không?”

“Không, ta sẽ tự làm. Cảm ơnThorold. Họ đã kết thúc bữa tối chưa, Wren?”

“Sắp rồi đấy ạ, tôi nghĩ thế, thưa ngài,” người Quản gia trả lời. “Nếu ông Cawson biết cách diễn đạt, ông Hiệu trưởng và các vị khách của ông ấy sẽ không muốn chần chừ khi họ biết ngài đang ở đây. Tôi đã mang khay cà phê đi được chưa ạ?”

“Mang đi đi.”

“Vâng thưa ngài.”

Người Quản gia hơi cúi mình cầm lấy chiếc khay và đi ra,Thoroldđi cùng ông ta. Ngay khi cánh cửa đóng lại, Ngài Asriel nhìn thẳng vào tủ quần áo và Lyra cảm thấy sức mạnh của ánh mắt ấy như nó là một vật thể hiện hữu, giống như một mũi tên, hay mũi giáo. Rồi ông nhìn đi chỗ khác và nói nhỏ với nhân tinh của mình.

Nó đến ngồi lặng lẽ cạnh ông, cảnh giác, duyên dáng và nguy hiểm. Đôi mắt màu xanh lá cây dò xét cả căn phòng trước khi quay sang cánh cửa thông với đại Sảnh khi nắm tay cầm bắt đầu xoay. Lyra không thể nhìn thấy cánh cửa, nhưng cô nghe thấy tiếng thở khi người đàn ông đầu tiên bước vào.

“Ông Hiệu trưởng,” tiếng Ngài Asriel. “Vâng tôi đã quay trở lại. Hãy mời các vị khách của ông vào đi, tôi có thứ này rất hay muốn cho ông xem.”

Chương 2: Ý tưởng về phương bắc

“Ngài Asriel.” Ông Hiệu trưởng nói với giọng nặng nề và đến gần bắt tay ông ta. Từ nơi ẩn náu, Lyra dõi theo ánh mắt của ông Hiệu trưởng, và thấy ánh mắt ấy ném về phía trước bàn khoảng một giây, nơi đặt bình rượu Tokey.

“Ông Hiệu trưởng,” Ngài Asriel nói, “tôi đến quá muộn để tham dự bữa tối của ông, vì thế tôi đã tự nhiên như ở nhà trong căn phòng này. Xin chào ông Hiệu phó, thật mừng vì trông ông vẫn rất khỏe. Xin lỗi vì sự xuất hiện đột ngột của tôi. Tôi chỉ vừa mới đặt chân xuống đất. Vâng. Thưa ông Hiệu trưởng, rượu Tokey đổ hết mất rồi. Tôi nghĩ là ông đang đứng lên nó đấy. Người khuân vác đánh đổ nó, nhưng đó là lỗi của tôi. Chào Cha tuyên úy, tôi đã rất thích thú khi đọc bài viết gần đây nhất của Cha…”

Ông ta đến chỗ Cha tuyên úy khiến Lyra có thể nhìn rõ khuôn mặt của ông Hiệu trưởng. Một khuôn mặt vô cảm, còn con nhân tinh trên vai ông ta đang rỉa lông cánh và đi lại liên tục. Ngài Asriel đã chế ngự cả căn phòng, và dù ông đã cẩn thận để cố tỏ ra nhã nhặn với ông Hiệu trưởng trong học viện này, việc ai là người chiếm ưu thế thật rõ nhận biết.

Các Học giả chào đón người khách và đi vào phòng, một số ngồi quanh bànột số trên ghế bành và những cuộc đàm thoại ồn ào nhanh chóng đầy ắp không gian. Lyra có thể thấy họ bị thu hút mạnh bởi chiếc hòm gỗ, màn hình và đèn chiếu. Cô biết rất rõ các Học giả: Ông Quản lý thư viện, ông Hiệu phó và những người còn lại. Họ là những người đã ở quanh cô trong suốt cuộc đời cô, dạy cô học, trừng phạt cô, an ủi cô, cho cô những món quà nho nhỏ, đuổi cô khỏi những cây ăquả trong vườn. Họ là tất cả những người cô có trong gia đình của mình. Có thể họ còn coi cô như một thành viên trong gia đinh, nếu cô biết gia đình là gì. Nhưng nếu cô có biết, có lẽ cô sẽ cảm thấy gần gũi hơn với những người giúp việc trong học viện. Các Học giả có nhiều việc quan trọng cần làm hơn là tham gia vào trò chơi tình cảm với một con bé nửa hoang dã, nửa văn minh sống giữa họ do một sự tình cờ.

Ông Hiệu trưởng thắp cây đèn cồn phía dưới lò hâm thuốc bằng bạc nhỏ và đun nóng một chút bơ trước khi cho thuốc phiện vào. Thuốc phiện luôn được phục vụ sau bữa tiệc, nó làm đầu óc minh mẫn và kích thích nói chuyện, nó mang lại những cuộc nói chuyện hay ho. Ông Hiệu trưởng thường tự mình chuẩn bị thuốc phiện.

Trong tiếng bơ rán xèo xèo và tiếng nói chuyện lao xao, Lyra nhìn xung quanh để tìm một vị trí thoải mái hơn cho mình. Cô lấy một chiếc áo choàng ra khỏi mắc một cách thận trọng—một chiếc áo lông dài chấm đất và đặt nó xuống sàn tủ.

“Đáng ra cậu không nên dùng một cái áo cũ chẳng có chọn lựa gì như thế,” Pantalaimon thì thầm. “Nếu thoải mái quá, cậu sẽ ngủ cho mà xem.”

“Nếu thế thật, nhiệm vụ của cậu là đánh thức mình dậy.” Cô trả lời.

Cô ngồi và lắng nghe cuộc nói chuyện. Cuộc nói chuyện cũng vô cùng chán, phần lớn là về chính trị và tình hình chính trị củaLondonvào thời điểm đó, cũng chẳng có tin tức gì thú vị về quân Tartar. Hương thơm của thuốc phiện đun nóng và lá thuốc len vào tủ quần áo khiến hơn một lần Lyra phát hiện mình đang ngủ gật. Nhưng cuối cùng cô nghe thấy tiếng người nào đó đập bàn. Các giọng nói im bặt, rồài sau đó tiếng ông Hiệu trưởng vang lên.

“Thưa các quý ngài,” ông nói, “tôi cảm thấy chắc chắn rằng tôi đang đại diện cho tất cả chúng ta khi tôi mời Ngài Asriel đến đây. Các chuyến viếng thăm của ông ấy rất hiếm hoi nhưng lại vô cùng quý giá, và tôi hiểu là ông ấy có điều gì đó đặc biệt thú vị muốn cho chúng ta thấy đêm nay. Hiện đang trong thời kỳ căng thẳntng về chính trị, như chúng ta đã biết. Sáng sớm mai Ngài Asriel được yêu cầu phải có mặt tại Nhà trắng, một chuyến tàu hơi nước đang sẵn sang chờ để đưa ông ấy đếnLondonngay sau khi chúng ta kết thúc câu chuyện tại đây, vì thế chúng ta phải biết sử dụng thời gian một cách khôn ngoan. Khi ông ấy nói xong, tôi nghĩ sẽ có một vài câu hỏi. Xin hãy hỏi ngắn gọn và thẳng vào vấn đề. Ngài Asriel, ông đã muốnn, bắt đầu chưa?.

“Cảm ơn ngài Hiệu trưởng.” Ngài Asriel nói. “Để bắt đầu, tôi có một vài bản kính dương muốn cho các ngài xem. Ông Hiệu phó, tôi nghĩ ông có thể nhìn rõ khi đứng ở đây. Có thể ông Hiệu trưởng muốn chuyển sang chiếc ghế gần tủ quần áo?”

Ông Hiệu phó già gần như đã bị lòa, vì thế việc dành chỗ gần màn hình cho ông là việc làm lịch sự, và việc ông chuyển lên trên có nghĩa ông Hiệu trưởng sẽ ngồi gần ông Quản lý thư viện, chỉ cách tủ quần áo nơi Lyra đang trốn khoảng một mét. Khi ông Hiệu trưởng ngồi vào ghế bành, Lyra nghe tiếng ông ta thì thầm.

“Hắn là một con quỷ! Hắn biết rượu có độc, tôi chắc chắn thế đấy.”

Ông quản lý thư viện thì thầm trả lời, “Hắn ta sẽ yêu cầu được tài trợ. Nếu hắn ta buộc chúng ta phải biểu quyết…”

“Nếu hắn làm thế, chúng ta sẽ phải tranh cãi chống lại, với tất cả tài hùng biện mà chúng ta có.”

Đèn chiếu bắt đầu rít lên khi Ngài Asriel bơm mạnh . Lyra khẽ dịch chuyển và cô có thể nhìn thấy màn hình, trên đó có một vòng tròn màu trắng đang bắt đầu sáng lấp lánh. Ngài Asriel gọi, “Ai đó giúp tôi tắt đèn trong phòng được không?”

Một trong số các Học giảay đứng lên và tắt đèn, căn phòng tối dần. Ngài Asriel bắt đầu:

“Như một vài người trong số các ngài đã biết, tôi lên đường đến phương Bắc mười hai tháng trước vì một nhiệm vụ ngoại giao với vuaLapland. Ít nhất, đó cũng là điều tôi định làm. Thực ra mục tiêu thực sự tôi hướng đến là đi xa hơn về phương Bắc, vùng băng tuyết, để thử và khám phá điều gì đã xảy ra với đoàn thắm hiểm của Grumman. Một trong những thông điệp cuối cùng của Grumman gửi về Viện Hàn Lâm tại Berlin nói về một hiện tượng tự nhiên nào đó chỉ có thể nhìn thấy trên vùng đất phương Bắc. Tôi đã quyết tâm điều tra cũng như tìm ra tôi có thể làm gì với Grumman. Nhưng bức ảnh đầu tiên tôi sắp cho các ngài thấy không trực tiế những điều này.”

Ông đặt bản kính dương đầu tiên vào khung và trượt nó dưới các ống kính. Một bức ảnh đen trắng sắc nét hiện lên trên màn hình. Nó được chụp vào ban đêm, dưới ánh trăng sáng rõ, và nó cho thấy một túp lều gỗ ở giữa khoảng không, những bức tường màu tối nổi bật trên nền tuyết bao xung quanh và tạo thành một lớp dày trên mái lều. Bên cạnh túp lều là một dãy các thiết bị đo đạc phức tạp mà với Lyra trông nó giống thứ gì đó trong công viên Anbaric trên đường đến Yarnton: ăng ten, dây cáp, sứ cách điện lấp lánh dưới ánh trăng và phủ một lớp sương giá dày. Một người đàn ông mặc quần áo may bằng lông, khuôn mặt ông ta khó nhìn rõ trong chiếc mũ dày, đứng trước sân giơ tay lên như đang vẫy chào. Một bên ông ta có một chiếc bóng nhỏ hơn. Ánh trăng chiếu sáng vạn vật bằng thứ ánh sáng yếu ớt vàng vọ

“Bức ảnh này được chụp bằng chất nitrat bạc tiêu chuẩn.” Ngài Asriel nói. “Tôi muốn các ngài xem một bức khác, cũng chụp ở vị trí đó chỉ một phút sau, với một chất bắt sáng mới được chuẩn bị đặc biệt.”

Ông nâng bản kính dương đầu tiên lên và cho một bản khác vào khung. Bức ảnh này tối hơn nhiều, như thể ánh trăng đã biến mất.

Đường chân trời vẫn được nhìn thấy, với hình dáng mờ tối của túp lều và mái lều phủ đầy tuyết màu sáng của nó nổi bật lên, nhưng đống dụng cụ đã bị ẩn đi trong bóng tối. Người đàn ông đã thay đổi gần như hoàn toàn: ông ta tắm trong ánh sáng, một dòng hạt lấp lánh dường như chảy xuống từ cánh tay giơ cao.

“Ánh sáng đó,” Cha tuyên úy nói, “đang đi xuống hay đi lên?” .

“Nó đang đi xuống.” Ngài Asriel nói. “Nhưng đó không phải ánh sáng, đó là Bụi.”

Điều gì đó trong cách nói của ông khiến Lyra tưởng tượng Bụi được viết hoa, như thể nó không phải là Bụi thông thường. Phản ứng của các Học giả làm chắc chắn thêm cảm giác của cô, những lời của Ngài Asriel tạo ra một sự im lặng đột ngột, theo sau là nhưng cái há hốc mồm ngờ vực.

“Nhưng làm thế nào mà…”

“Không thể nào lại…”

“Thưa các ngài,” giọng Cha tuyên úy vang lên. “Hãy đề Ngài Asriel giải thích.”

“Đó là Bụi,” Ngài Asriel nhắc lại. “Nó được ghi lại trên đĩa như ánh sáng vì các hạt Bụi tác động đến chất bắt sáng như những photon tác động đến nitrate bạc. Cũng một phần để kiểm tra lại điều này mà tôi lên phương Bắc. Như các ngài thấy, cái bóng của người đàn ông hoàn toàn không nhìn thấy. Giờ tôi muốn các ngài nhìn vào hình bên trái của người đàn ông.”

Ông chỉ vào cái bóng nhỏ hơn bị che mờ.

“Tôi nghĩ đo là con nhân tinh của người đàn ông.” Ông giám thị nói.

“Không phải, Lúc đó con nhân tinh có hình dáng một con rắn và đang cuốn trên cổ ông ta. Hình dáng các ngài có thể nhìn lờ mờ đó là một ứa trẻ.”

“Một đứa trẻ bị chia tách?” Ai đó nói, và cái cách ông ta ngừng lại cho thấy ông biết đó là điều không nên nói ra.

Sự im lặng căng thăng bao trùm.

Rồi ngài Asriel, nói với giọng bình tĩnh, “Một đứa trẻ hoàn chỉnh. Và đó là đứa trẻ, dưới tính chất của Bụi. Đây chính xác là tâm điểm của vấn đề, phải vậy không?”

Không ai nói gì trong nhiều giây. Rồi tiếng Cha tuyên úy vang lên.

“A,” ông nói, như một người chết khát vừa uống say, đặt cốc xuống để thờ ra hơi thở đã tìm kiếm suốt thời gian uống, “và những dòng Bụi…”

“… Đến từ bầu trời, bao phủ người này trong một thứ giống như ánh sáng. Ông có thể kiểm tra bức ảnh này gần đến mức ông muốn. Tôi sẽ để chúng lại đây sau khi đi. Tôi đang cho các ngài xem vì tôi muốn mô tả tác động của loại chất dẫn sáng mới này. Giờ tôi muốn cho các ngài xem một bức ảnh khác.”

Ông đổi bản kính dương. Bức ảnh tiếp theo cũng được chụp vào ban đêm, nhưng lần này không có ánh trăng. Nó cho thấy một nhóm những ngôi lều ở vị trí cận cảnh, hiện ra lờ mờ trên đường chân trời, bên cạnh họ là một đống thùng gỗ và một chiếc xe trượt bẩn thỉu. Nhưng điểm thú vị chính của bức ảnh nằm ở bầu trời. Những dòng và màn ánh sáng treo như những tấm rèm, cuốn lại và kết tràng thành những cái móc cao hàng trăm mét hay thổi về một bên trong những luồng gió không thể nhìn thấy bằng mắt thường.

“Đó là cái gì vậy?” Ông Hiệu phó hỏi.

“Đây là một bức ảnh chụp Hiện tượng cực quang.”

“Một bức ảnh rất đẹp.” Giáo sư Palmerian nói, “một trong những bức ảnh đẹp nhất tôi từng xem.”

“Xin lượng thứ cho tính đãng trí của tôi,” giọng run run của người lĩnh xướng già vang lên, “nhưng nếu tôi từng biết Hiện tượng cực quang là gì thì đến giờ toi cũng quên mất rồi. Có phải đó là cái người ta gọi là Ánh Sáng Phương Bắc?”

“Đúng vậy. Nó có nhiều tên gọi. Nó là hòa trộn của những trận bão các hạt cháy và những tia mặt trời dữ dội có cường độ lớn—không nhìn thấy bằng mắt thường nhưng gây ra bức xạ dạ quang khi tương tác với khí quyển. Nếu có thời gian, tôi đã nhuộm bản kính dương này và chỉ cho các ngài thấy các màu sắc: xanh lá cây nhạt và màu hoa hồng, phần lớn là như vậy, với một chút đỏ sẫm dọc mép dưới của tấm màn này—như cấu tạo của nó. Bức này được chụp với chất dẫn sáng thông thường. Giờ tôi muốn các ngài xem tấm ảnh chụp bằng chất dẫn sáng đặc biệt.”

Ông tháo bản dương kính ra. Lyra nghe thấy tiếng ông Hiệu trưởng nói khẽ, “Nếu hắn bắt phải có một cuộc biểu quyết, chúng ta có thể viện dẫn điều khoản cư trú. Hắn ta đã không ở trong Học viện vượt quá ba mươi tuần trên năm mươi hai tuần.”

“Hắn ta đã lôi kéo được Cha tuyên úy về phía mình rồi…” Ông Quản lý thư viện thì thầm đáp lại.

Ngài Asriel đặt một bản dương kính mới vào khung đèn chiếu. Nó cũng cho thấy cảnh tương tự. Cũng giống cặp ảnh đầu tiên, nhiều đường nét nhìn thấy dưới ánh sáng thông thường đã mờ hơn rất nhiều trong tấm ảnh này, cả các vệt bức xạ trên bầu trời cũng vậy.

Nhưng ở giữa Hiện tượng cực quang, cao phía trên khung cảnh hoang vắng, Lyra có thể nhìn thấy thứ gì đó có hình khối. Cô dí sát mặt vào khe hở để nhìn rõ hơn, và cô có thể thấy các Học giả ngồi gần màn hình cũng đang ngóng lên. Khi nhìn vào màn hình, sự thắc mắc của cô càng tăng lên vì không thể nhầm lẫn được, trên bầu trời có đường nét một thành phố: Các gác chuông, mái vòm, các bức tường… Những tòa nhà và đường phố treo lơ lừng trên không! Cô gần như nín thở vì ngạc nhiên.

Học giả Cassington nói, “Đây trông giống… một thành phố.”

“Chính xác là như vậy.” Ngài Asriel nói.

“Một thành phố trông một thế giới khác, không nghi ngờ gì nữa phải không?” Ông Chủ nhiệm khoa nói với giọng coi thường.

Ngài Asriel không để ý đến ông ta. Một số Học giả cảm thấy rất thích thú, việc này giống như viết các hiệp ước bảo vệ sự tồn tại của kỳ lân trong khi chưa từng nhìn thấy con nào, họ đang được giới thiệu một mẫu vật sống mới bắt được.

“Đây có phải là công việc của Barnard—Stokes không?” Giáo sư Palmerian hỏi. “Đúng thế phải không?”

“Đó là điều tôi muốn tìm hiểu cho ra.” Ngài Asriel nói.

Ông đứng một bên của màn hình, Lyra có thể nhìn thấy đôi mắt đen của ông tìm kiếm giữa đám Học giả khi họ nhìn vào bản dương kính về Hiện tượng cực quang, những tia sáng xanh lá cây ánh lên từ đôi mắt con nhân tinh ngồi bên cạnh ông. Tất cả những mái đầu đáng kính nghển lên, những mắt kính phản chiếu ánh sáng lóa, chỉ có ông Hiệu trưởng và ông Quản lý thư viện là ngồi tựa vào ghế bành, đầu họ chụm vào nhau.

Cha tuyên úy nói, “Ngài nói ngài đang tìm kiếm tin tức về chuyến thám hiểm của Grumman, thưa Ngài Asriel. Tiến sĩ Grumman cũng nghiên cứu hiện tượng này chứ?”

“Tôi tin là ông ấy cũng đã nghiên cứu, và tôi tin ông ấy có rất nhiều thông tin về vấn đề này. Nhưng ông ấy sẽ không thể nói cho chúng ta, vì ông ta đã chết.”

“Không thể thế được” Cha tuyên úy nói.

“Tôi e là đúng như vậy và tôi có bằng chứngc đây.”

Một làn sóng xôn xao lan khắp Phòng nghỉ, khi dưới sự chỉ dẫn của Ngài Asriel, hai hay ba Học giả trẻ tuổi kéo chiếc hòm gỗ ra trước phòng. Ngài Asriel rút bản dương kính cuối cùng ra nhưng vẫn để đèn chiếu sáng, trong ánh sáng chói lòa của vòng tròn, ông cúi xuống mở chiếc hòm. Lyra nghe thấy tiếng rít của móng tay cọ vào gỗ ẩm. Ông Hiệu trưởng đứng lên nhìn, chắn mất tầm nhìn của Lyra. Chú cô nói tiếp:

“Nếu các vị còn nhớ, đ àn thám hiểm của Grumman biến mất mười tám tháng trước. Viện hàn lâm nước Đức cử ông ta đến đó để đi xa tận đến hố từ và thực hiện nhiều quan sát khác nhau về bầu trời. Chính trong khuôn khổ chuyến đi này ông ta đã quan sát được hiện tượng kỳ lạ chúng ta vừa xem. Không lâu sau đó, ông ta biến mất. Có giả thiết rằng ông ta gặp tai nạn và rằng xác ông ta đang trong một kẽ nứt nào đó cho đến tận bây giờ. Trong thực tế, không có tai nạn nào cả.”

“Ông có gì ở đó vậy?” ông trưởng khoa nói. “Có phải có một chiếc thùng chân không không?”

Ngài Asriel không trả lời ngay. Lyra nghe thấy tiếng bật của khóa kim loại và tiếng rít khi không khí tràn vào một khoang trống, sau đó là sự im lặng. Nhưng sự im lặng không kéo dài. Sau một lúc, Lyra nghe thấy những tiếng nói pha trộn những tiếng kêu sợ hãi, tiếng phản đối, giọng người bực bội và sợ hãi.

“Nhưng cái gì…”

“… Thật là dã man…”

“…Nó đã bị…”

“…Chuyện gì đã xảy ra?”

Ông Hiệu trưởng cắt ngang những tiếng nói đó.

“Ngài Asriel, ông có thứ quái quỷ gì ở đây vậy?”

“Đây là đầu của Stanislaus Grumman.” Tiếng Ngài Asriel vang lên.

Trong tiếng hét, Lyra nghe tiếng ai đó chạy về phía cửa và lao ra với những tiếng kêu rời rạc và đau đớn. Cô ước có thể nhìn thấy cái họ đang nhìn.

Ngài Asriel nói, “Tôi tìm thấy xác ông ta vùi trong băng tuyết dướiSvalbard. Cái đầu đã bị làm như vậy bởi kẻ giết người. Các ngài có thể thấy những đường nét đục khắc đặc biệt. Tôi nghĩ có thể ông cũng quen với nó, thưa ông Hiệu phó. “

Giọng ông già rất chắc chắn khi ông nói, “Tôi đã nhìn thấy người Tartar làm như vậy. Đó là kỹ thuật có thể tìm thấy ở những người thổ dânSiberiavà Tungusk. Từ đó, tất nhiên, nó thâm nhập sang các vùng đất Skaraeling. Tôi có thể xem xét nó gần hơn không, ngài Asriel?”

Sau một lúc im lặng, ông lại nói tiếp:

“Mắt tôi không được rõ lắm, và băng tuyết cũng hơi bẩn, nhưng có vẻ như có một lỗ thủng trên chóp sọ, đúng không?”

“Đúng thế.”

“Bị khoan phải không?”

“Chính xác.”

Việc này làm dấy lên những lời thì thầm thích thú. Ông Hiệu trưởng dịch chuyển và Lyra lại có thể nhìn thấy. Ông Hiệu phó, trong vòng tròn sáng phát ra từ đèn chiếu, đang cầm một chiếc đầu phủ băng lên gần mắt, Lyra có thể thấy những thứ phía trong nó: một đống màu khó nhận ra là đầu người. Pantalaimon bay vòng quanh Lyra, sự đau đớn của nó làm ảnh hưởng đến cô.

“Này,” cô thì thầm, “hãy lắng nghe xem.”

“Tiến sĩ Grumman từng là Học giả của học viện này,” ông trưởng khoa nói với giọng kịch liệt.

“Rơi vào tay quân Tartar…”

“Nhưng đó là phía cực Bắc?”

“Chắc chúng đã tiến vào sâu hơn mức bất cứ ai có thể tưởng tượng? “

“Có phải tôi nghe ngài nói ngài tìm thấy ở gần Savalbard?” ông trưởng khoa hỏi.

“Đúng vậy.”

“Liệu chúng ta có phải hiểu rằng panserbjorne có dính dáng gì vào vụ này?”

Lyra không hiểu từ này, nhưng rõ rang các Học giả thì có.

“Không thể nào,” Học giả Cassington nói chắc nịch. “Họ không bao giờ cư xử với thái độ như vậy đâu.”

“Thế thì ngài không hiểu Iofur Raknison rồi,” Giáo sư Palmerian, người đã thực hiện rất nhiều chuyến thám hiểm đến vùng Bắc cực nói. “Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên chút nào khi biết ông ta đã bị đưa đến những người chuyên lột da đầu theo phong tục của người Tartar.”

Lyra lại nhìn chú Asriel. Ông đang nhìn các Học giả với ánh mắt lấp lánh sự vui thích đầy vẻ châm biếm và không nói gì.

“Iofur Raknison là ai vậy?” có ai đó hỏi.

“Là vua xứSvalbard,” Giáo sư Palmerian nói, “Vâng, đúng thế, một trong những panserbjorne. Ông ta là một kẻ đoạt ngôi, gần như vậy, dùng thủ đoạn để giành được ngai vàng, hay theo tôi hiểu là như vậy, nhưng là một nhân vật đầy quyền lực, chứ không hề ngốc nghếch, dù điệu bộ màu mè lố lăng. Ông ta có một cung điện xây bằng đá cẩm thạch nhập khẩu, tạo thành cái mà ông ta gọi l trường đại học…”

“Để cho ai chứ? Những con gấu chăng?” Ai đó nói, và mọi người cười rộ.

Nhưng Giáo sư Palmerian vẫn tiếp tục, “Vì tất cả những điều đó, tôi nói cho các ngài biết là Iofur Raknison rất có thể làm chuyện này với Grumman. Hơn nữa, khi được tăng bốc, ông ta có thể cư xử rất khác thưởng, nếu hoàn cảnh đòi hỏi.” o

“Và ngài biết làm thế nào để ông ta cư xử khác đi, phải không Trelawney?” Ông Trưởng khoa hỏi với giọng nhạo báng.

“Thực sự là tôi biết. Ngài có biết ông ta muốn điều gì là trên hết không? Thậm chí hơn cả một tấm bằng danh dự? Ông ta muốn một nhân tinh! Hãy tìm cách cho ông ta một nhân tinh, và ông ta sẽ làm bất cứ điều gì cho ông.”

Các Học giả cười ầm lên.

Lyra dõi theo câu chuyện một cách mơ hồ: những điều Giáo sư Palmerian nói chẳng có nghĩa lý gì. Bên cạnh đó, cô không còn đủ kiên nhẫn để nghe thêm bất cứ điều gì về thuật lột da đầu và Ánh Sáng Phương Bắc cũng như thứ Bụi huyền diệu kia. Nhưng cô đã thất vọng, vì Ngài Asriel đã kết thúc việc trình diễn các thành tích và các bức ảnh của mình, câu chuyện nhanh chóng chuyển sang hướng tranh cãi xem có nên đưa cho ông thêm tiền để thực hiện một chuyến thám hiểm khác không. Những lời tranh cãi qua lại, Lyra cảm thấy mí mắt nặng trĩu. Cô nhanh chóng rơi vào giấc ngủ, còn Pantalaimon cuộn người quanh cổ cô trong hình dáng yêu thích khi ngủ của nó, một chú chồn ecmin.

Cô choàng tỉnh dậy khi ai đó lay vai.

“Khẽ thôi,” chú cô nói. Tủ quần áo đã mở, và ông đang quỳ gối ở đó, quay lưng lại ánh đèn. “Họ đi hết rồi, nhưng quanh rđây vẫn có vài người giúp việc. Quay về phòng ngủ của mày ngay, và hãy cẩn thận không được hé răng một lời nào về chuyện này đấy.”

“Họ có biểu quyết cấp tiền cho chú không?” Cô hỏi với giọng ngái ngủ.

“Có.”

“Bụi là gì vậy?” Cô hỏi, cố gắng đứng lên sau khi đã ngồi quá lâu ở tư thế gò bó.

“Không phải việc của mày.”

“Nó thực sự liên quan đến cháu đấy,” cô nói “nếu chú muốn cháu làm một gián điệp trong tủ quần áo, chú phải nói cho cháu biết cháu đang thăm dò chuyện gì. Cháu xem cái đầu của người đàn ông được không?”

Bộ lông chồn ecmin trắng của Pantalaimon dựng đứng lên. Cô cảm thấy nó gãi vào cổ mình. Ngài Asriel cười nhưng nụ cười tắt rất nhanh.

“Đừng có làm ta bực mình,” ông nói, và bắt đầu đóng gói các bản dương kính vào thùng đựng mẫu vật. “Mày có theo dõi ông Hiệu trưởng đấy chứ?”

“Có ạ, ông ta tìm bình rượu trước khi làm bất cứ điều gì .”

“Tốt, nhưng ta đã làm ông ta đau đớn rồi. Hãy làm như mày được bảo và đi ngủ đi.”

“Nhưng chú sắp đi đâu vậy?”

“Trờ lại miền Bắc. Ta sẽ đi trong mười phút nữa.”

“Cháu đi cùng chú được không?”

Ông dừng tay và nhìn cô như thể đây là lần đầu tiên hai người gặp nhau. Con nhân tinh của ông ta quay sang nhìn cô với đôi mắt báo màu xanh lá cây rất to, và dưới cái nhìn chăm chú của cả hai, Lyra đỏ bừng mặt. Nhưng cô cũng nhìn lại dữ dội.

“Chỗ của mày là ở đây,” cuối cùng chú cô lên tiếng.

“Nhưng tại sao? Tại sao chỗ của cháu lại ở đây? Tại sao cháu không thể lên phương Bắc cùng chú? Cháu muốn được nhìn thấy Ánh Sáng Phương Bắc, những con gấu, băng tuyết và tất cả mọi thứ. Cháu muốn biết về Bụi. Và cả thành phố trong không khí nữa. Đó có phải là một thế giới khác không?”

“Mày sẽ không được đi cùng ta, nhóc con ạ. Hãy gạt ý nghĩ đó ra khỏi đầu đi. Thời gian này đang rất nguy hiểm. Hãy làm như mày được bảo và đi ngủ đi, nếu mày là một cô bé ngoan, ta sẽ mang về cho chiếc răng của con mooc có hình khắc của người Eskimo. Đừng có lèo nhèo thêm nữa nếu không ta sẽ nổi giận đấy.”

Con nhân tinh của ông gầm lên một tiếng hung dữ khiến Lyra chợt nhận thấy điều gì có thể xảy ra khi răng nó ngoạm vào cổ họng mình.

Lyra mím môi và nhăn mặt nhìn chú. Ông đang bơm khí khỏi chiếc bình chân không, và không để ý gì đến cô, như thể đã hoàn toàn quên mất có cô ở đây vậy. Không nói một lời nào, nhưng vừa mím môi vừa nhăn mặt, cô bé cùng con nhân tình của mình đi ra và lên giường đi ngủ.

Ông Hiệu trưởng và ông Quản lý thư viện là bạn cũ và cũng là đồng minh, đã thành thói quen, sau mỗi bận gay cấn, họ lại làm một ly rượu brantwin và an ủi lẫn nhau. Vì thế sau khi thấy Ngài Asriel đã đi khỏi, họ đi dạo tại nhà ông Hiệu trưởng và ngồi trong phòng làm việc, buông rèm và đốt lò sưởi, các con nhân tinh của họ ngồi ở những vị trí quen thuộc, trên đầu gối hay vai chủ, và họ bắt đầu suy nghĩ xem chuyện gì vừa xảy ra.

“Ông có thực sự tin rằng hắn biết trong rượu có độc không?” Ông Quản lý thư viện hỏi.

“Tất nhiên là hắn đã biết, tôi không biết vì sao, nhưng hắn đã biết, và chính hắn đã làm đổ bình rượu. Tất nhiên là hắn đã làm việc đó rồi” .

“Tha lỗi cho tôi, ông Hiệu trưởng, nhưng tôi không thể yên tâm được. Tôi không bao giờ vui vẻ với ý nghĩ…”

“Về việc đầu độc hắn?”

“Đúng, về việc giết người.”

“Khó có ai vui vẻ được với ý nghĩ đó, Charles. Vấn đề là như vậy có tồi tệ hơn là kết quả nếu không làm hay không. Được rồi, Chúa đã can thiệp, và làm chuyện đó không xảy ra. Tôi chỉ tiếc là đã làm ông cảm thấy nặng nề khi biết chuyện này.“

“Không, không.” Ông Quản lý thư viện phản đối. “Nhưng tôi ước gì ông đãkỹ hơn với tôi.”

Ông Hiệu trưởng im lặng một lúc trước khi lên tiếng, “Đúng vậy, có lẽ đáng ra tôi nên làm thế. Chiếc Chân-kế đã cảnh báo hậu quả kinh hoàng nếu Ngài Asriel theo đuổi nghiên cứu này. Không kể đến những việc khác, đứa trẻ sẽ bị lôi kéo vào, và tôi muốn giữ an toàn cho nó càng lâu càng tốt.”

“Liệu công việc của Ngài Asriel có gì liên quan đến luật lệ trong Kỷ luật của tòa tôn giáo không? Cái mà người ta gọi là Ủy ban tôn giáo ấy?”

“Ngài Asriel—không, không. Hoàn toàn ngược lại. Ủy ban tôn giáo cũng hoàn toàn không thể bác lại được Tòa án tôn giáo. Đó là một luật lệ mang tính áp đặt cá nhân, nó được điều hành bởi người nào đó không thích ngài Asriel. Ở giữa hai bọn họ, tôi thấy run rẩy, Charles ạ.”

Đến lượt ông Quản lý thư viện im lặng. Kể từ khi giáo trưởng John Calvin chuyển sang ghế giáo hoàng ởGenevavà thiết lập Kỷ luật của Tòa án tôn giáo, quyền lực của Giáo hội trở nên tuyệt đối trong tất cả các mặt của cuộc sống. Bản thân chức giáo hoàng đã bị bãi bỏ sau khi Calvin qua đời, và tam giác được thiết lập bởi tòa án, học viện và hội đồng, thường được gọi là Hội tam điểm và lớn dần lên. Những tổ chức này không phải lúc nào cũng thống nhất, đôi khi sự kình địch nổi lên giữa chúng. Phần lớn thế kỷ trước, tổ chức quyền lực nhất là Học viện của các Giám mục, nhưng trong những năm gần đây, Kỷ luật cảu Tòa án tôn giáo đã thế chỗ và là tổ chức có ảnh hưởng và đáng sợ nhất trong số các tổ chức Giáo hội.

Nhưng luôn có hội cho những tổ chức độc lập lớn mạnh dưới sự bảo hộ của một thành phần khác trong Hội tam điểm; Ủy ban tôn giáo, tổ chức ông Quản lý thư viện nói đến, là một trong số đó. Ông Quản lý thư viện không biết nhiều về tổ chức này, nhưng ông không thích sự sợ hãi mình vừa nghe thấy, và ông hoàn toàn hiểu sự lo lắng của ông Hiệu trưởng.

“Giáo sư Palmerian có nhắc đến một cái tên, ông nói sau khoảng một phút, “Barnard—Stokes phải không? Chức năng của Barnard—Stokes là gì vậy?”“ y

“À, đó không thuộc lĩnh vực của chúng ta, Charles ạ. Theo tôi hiểu, Giáo hội linh thiêng dạy rằng tồn tại hai thế giới: thế giới của tất cả những thứ chúng ta có thể nhìn, nghe, sờ mó, và một thế giới khác, thế giới tinh thần của thiên đường và địa ngục. Barnard và Stokes là hai—tôi phải nói thể nào nhỉ —nhà thần học phản bội đã mặc nhiên thừa nhận sự tồn tại của rất nhiều thế giới khác như thế giới này, không phải thiên đường hay địa ngục mà là thế giới vật chất và đầy tội lỗi. Những thế giới đó ở đây, rất gần, nhưng không nhìn thấy và không đến gần được. Giáo hội thiêng liêng tất nhiên không đồng ý với ý tưởng dị giáo xấu xa này rồi, và Barnard cùng Stokes đã bị buộc phải im lặng.”

“Nhưng không may cho hội Tam điểܭ, dường như có những tranh cãi về toán học khá thuyết phục cho lý thuyết về thế giới này. Bản thân tôi chưa bao giờ ủng hộ cả, nhưng Học giả Cassinton nói với tôi chúng rất thuyết phục”

“Bây giờ Ngài Asriel đã chụp một bức ảnh về một trong những thế giới đó.” Ông Quản lý thư viện nói “Và chúng ta đã cấp tiền cho ông ấy đi đến thế giới đó. Tôi biết vlậy.”

“Đúng vậy, có vẻ với Ủy ban tôn giáo, và những người bảo hộ quyền lực của nó nữa, Học việnJordanlà một lò ủng hộ dị giáo. Giữa Ủy ban tôn giáo và kỷ luật của Tòa án tôn giáo, tôi cần phải cân bằng, Charles ạ. Trong lúc đó, đứa trẻ vẫn tiếp tục lớn lên. Họ vẫn chưa quên con bé. Sớm muộn rồi nó cũng sẽ quan tâm đến điều đó, nó sẽ bị kéo vào dù tôi có muốn bảo vệ nó hay không.”

“Nhưng làm sao ông biết điều đó, vì Chúa? Lại chiếc Chân-kế cho biết phải không?”

“Đúng vậy. Lyra có một phần trong tất cả những chuyện này, và là phần chủ yếu. Điều mỉa mai là ở chỗ nó phải làm tất cả mọi chuyện mà không nhận ra mình đang làm gì. Nó có thể được giúp đỡ, tuy nhiên, nếu kế hoạch rượu Tokey của tôi thành công, nó đã có thể an toàn thêm chút nữa. Tôi muốn tránh cho nó một cuộc hành trình lên phương Bắc. Tôi ước gì có thể giải thích cho nó về tất cả những chuyện vừa rồi…”

“Nó sẽ chẳng nghe đâu.” Ông Quản lý thư viện nói. “Tôi biết quá rõ tính tình con bé. Cứ thử nói với nó điều gì quan trọng, nó sẽ nghe tai nọ qua tai kia trong năm phút rồi bắt đầu nhấp nhổm không yên. Nếu kiểm tra nó vào lần sau thì đảm bảo nó đã quên sạch rồi. “

“Nếu tôi nói với nó về Bụi thì sao? Ông có nghĩ nó sẽ chăm chú lắng nghe không?”

Ông Quản lý thư viện làm một tiếng động tỏ ý không tin.

“Sao nó lại phải thế chứ?” ông nói. “Tại sao một điều bí ẩn mang tính lý thuyết ở một nơi xa lắc lơ lại thu hút một đứa trẻ khỏe mạnh vô tư chứ?”

“Vì đó là điều nó sẽ phải trải qua. Một phần trong đó có cả một cuộc phản bội nặng nề.”

“Ai sẽ phản bội con bé?”

“Không, không, đó là điều đáng buồn nhất: nó sẽ là kẻ phản bội, và đó là một việc thật tồi tệ. Nó không được biết điều đó, tất nhiên, nhưng không có lý do gì nó lại không biết về Bụi. Có thể ông đã sai, Charles ạ, có thể nó sẽ thích thú lắng nghe chuyện này, nếu chúng ta giải thích cho nó một cách đơn giản. Và như thế có thể giúp ích cho nó sau này. Nhờ vậy sẽ giúp tôi bớt lo lắng hơn về con bé.”

“Trách nhiệm của người già,” ông Quản lý thư viện nói, “là lo lắng cho con trẻ, Và trách nhiệm của con trẻ là coi thường sự lo lắng của người già.”

Họ ngồi thêm một lúc nữa rồi chia tay, vì đã muộn, vì họ đều đã già và đều đang lo lắng.

Chương 3: Học việnJordancủa Lyra

Học việnJordanlà Học viện uy nghi va giàu có nhất trong số các Học viện thuộc đại họcOxford. Có lẽ nó cũng là Học viện rộng lớn nhất, dù không ai chắc chắn cả. Những tòa nhà được xây dựng xung quanh ba chiếc sân ra đời suốt dọc thời gian từ thời Trung cổ cho đến giữa thế kỷ mười tám. Nó chưa bao giờ được thiết kế hoàn chỉnh mà xây dựng từng phần, những nét hiện đại và quá khứ đối nhau chan chát ở khắp mọi nơi, kết quả cuối cùng là một sự vĩ đại lộn xộn và ngổn ngang. Một số phần của toàn bộ tòa nhà luôn trong tình trạng sắp rơi xuống đến nơi, năm thế hệ trong gia đình nhà Parslow đã được Học việnJordanthuê làm thợ nề và các việc thủ công. Ông Parslow hiện đang dạy con trai nghề mộc, hai người bọn họ cùng ba người làm khác có thể bò ra làm việc như những con mối chăm chỉ trên những đống gỗ chất ở góc thư viện, hay trên mái Phòng nguyện, kéo những viên gạch mới tươi màu hay lăn những xà nhà gỗ nhẵn bóng.

Học viện sở hữu nhiều nông trại và bất động sản khắp vùngBritain. Người ta nói có thể đi bộ từOxfordđếnBristoltheo một hướng và đếnLondontheo một hướng khác, nhưng không bao giờ ra khỏi đất củaJordan. Trong mỗi phần đất của vương quốc, có những xưởng nhuộm, lò nung gạch, các khu rừng phải trả tiền thuê đất choJordan. Vào mỗi ngày đầu quý, người thủ quỹ và kế toán sẽ cộng hết số tiền lại và thông báo số tiền cho Hội đồng Học viện rồi gọi hai con thiên nga cho bữa đại tiệc. Một phần tiền được dùng để tái đầu tư—Hội đồng Học viện vừa phê chuẩn việc mua một tòa nhà văn phòng ở Manchester; phần còn lại dùng để trả số lương ít ỏi cho các Học giả và tiền công cho người giúp việc (người nhà Parslow hay hàng tá các gia đình thợ thủ công và người buôn bán phục vụ Học viện), để giữ cho hầm rượu luôn đầy, để mua sách cho Thư viện bao la, và một phần không ít dùng để mua những dụng cụ hiện đại nhất trang bị cho Nhà nguyện.

Việc giữ cho Nhà nguyện luôn thức thời rất quan trọng, vì Học viện Jordan không có đối thủ cạnh tranh, cả ở Châu Âu lẫn tân Pháp quốc, trong việc là một trung tâm thần học thực nghiệm. Ít nhất Lyra biết điều này. Cô tự hào về sự lỗi lạc Học viện của mình và thích khoe khoang về nó với rất nhiều đứa trẻ lang thang đầu đường xó chợ mà cô chơi cùng ở gần kênh. Cô coi thường việc gặp các Học giả hay Giáo sư lỗi lạc từ các nơi khác đến, vì họ không thuộc về Học việnJordanvà như thế chắc hẳn phải hiểu biết ít hơn dù là so với những học giả trẻ tuổi nhất tạiJordan.

Còn về chuyệ này n thần học thực nghiệm là gì, Lyra chẳng biết gì nhiều hơn những đứa trẻ lang thang kia. Cô có ý niệm rằng nó liên hệ với phép thần, với sự chuyển dịch của các ngôi sao và hành tinh, với những vật thể bé nhỏ, nhưng đó thực sự chỉ là việc phán đoán. Có thể các ngôi sao cũng có nhân tinh, giống như con người, và thần học thực nghiệm quan tâm đến việc nói về chúng. Lyra tưởng tượng ra cảnh Cha tuyên úy nói mộttự hào, lắng nghe lời nhận xét của con nhân tinh của một ngôi sao nào đó, rồi gật đầu thận trọng hay lắc đầu tiếc nuối. Nhưng những gì có thể xảy ra giữa họ thì cô không thể hiểu nổi.

Và cô cũng không thực sự quan tâm. Về nhiều mặt, Lyra là một cô bé vẫn còn những nét hoang dã. Điều cô thích nhất là được trèo lên mái Học viện cùng Roger, cậu bé làm trong nhà bếp, người bạn đặ cc biệt của cô để cùng ném đá vào đầu những vị Học giả, huýt sao giả tiếng cú kêu ngoài cứa sổ khi các buổi dạy kèm đang diễn ra hay chạy thi trên những con đường hẹp, ăn trộm táo ngoài chợ, hay khiêu khích các cuộc đánh nhau. Chỉ vì cô không biết gì về những dòng chính trị bị che giấu dưới bề mặt của các vụ việc trong Học viện, vì thế, về phần mình, các Học giả có thể không nhìn thấy được những nỗi lo âu ghê gớm của các đồng minh hay kẻ thù, hay sự thù hận và thỏa thuận trong cuộc sống của một đứa trẻ tại Oxford. Bọn trẻ chơi đùa cùng nhau: nhìn cảnh đó thật vui! Còn gì ngây thơ và đáng yêu hơn nữa?

Thực ra, tất nhiên, Lyra và các bạn của mình bị lôi kéo vào một cuộc chiến tranh chết người. Trước hết, trẻ con trong Học viện (những người giúp việc nhỏ tuổi, con của những người giúp việc, và Lyra) gây chiến với trẻ con của những Học viện khác. Nhưng sự thù địch này bị gạt sang một bên khi trẻ con thành thị khiêu khích người của Học viện, vậy là tất cả những người trong các Học viện kết lại với nhau để bước vào cuộc chiến với người thành thị. Sự kình địch này đã kéo dài hàng trăm năm, rất sâu sắc và làm thỏa mãn các bên.

Nhưng ngay cả nó cũng bị lãng quên khi kẻ thù khác đến đe dọa. Một kẻ thù quanh năm: lũ trẻ con lò gạch sống gần Mỏ đất sét bị các Học giả và những người thành phố coi thường. Năm ngoái, Lyra và vài người thành phố đã có một thỏa hiệp ngừng bắn để quay sang tấn công Mỏ đất sét, trút xuống đầu lũ trẻ lò gạch hàng đống những cục đất nung và giẫm nát những lâu đài còn ẩm chúng vừa xây, trước khi lăn chúng qua lại trong thứ chất dính nhớp nháp cho đến khi cả người thắng trận lẫn kẻ bại trận đều hòa vào nhau thành một bầy, kêu thét dữ dội.

Những kẻ thù bình thường khác thì xuất hiện theo mùa vụ. Những gia đình người Gypsy sống trên thuyền, đến và đi vào các hội chợ mùa xuân và mùa hạ luôn là những người thích đánh nhau. Đặc biệt có gia đình một người Gypsy thường hạ neo ởJerichothuộc thành phố này, những người cô đã có xô sát ngay từ khi biết ném viên đá đầu tiên.

Lần cuối cùng họ ở Oxford, cô, Roger cùng mấy cậu bé làm bếp khác của Học viện Jordan và Học viện Thánh Michael đã có một buổi phục kích, ném đá vào chiếc thuyền nhỏ quét sơn màu sáng của họ cho đến khi cả gia đình phải ra và đuổi chúng đi. Kể từ thời điểm đó, đội phục kích dưới sự chỉ huy của Lyra đã tấn công con thuyền và đuổi nó khỏi bờ. Con thuyền phải chạy xuôi xuống theo dòng cùng các con thuyền khác. Trong khi đội tấn công của Lyra tìm kiếm con thuyền khắp từng ngóc ngách. Chúng chờ đợi một cuộc tấn công ném đá. Lyra tin chắc sẽ chiến thắng trong cuộc tấn công này. Nếu con thuyền xuất hiện, Lyra cam đoan với đội quân của mình rằng nó sẽ bị đắm ngay. Nhưng bọn trẻ không tìm thấy bóng dáng nó đâu cả.

Đó là thế giới và niềm vui của Lyra. Cô là một cô bé còn hoang dã và gai góc. Nhưng cô luôn có một cảm giác mơ hồ rằng đó không phải là toàn bộ thế giới của mình, một phần trong con người cô còn thuộc về sự lớn lao và nghi lễ của Học viện Jordan, và rằng ở đâu đó trong cuộc sống của mình, có một sự liên hệ với thế giới chính trị quan trọng của Ngài Asriel. Tất cả những gì cô làm với những hiểu biết đó là ra vẻ ta đây và áp đặt nó lên những đứa trẻ lang thang khác. Cô chẳng bao giờ muốn tìm hiểu thêm điều gì khác.

Vì thế cô đã trải qua thời thơ ấu của mình như một chú mèo hoanga. Chuyện chỉ khác đi vào những dịp hiếm hoi Ngài Asriel đến thăm Học viện. Một người chú giàu có và quyền lực thật đáng để tự hào, nhưng cái giá của sự tự hào đó là khi cô đang tìm cách lẩn đi chơi thì bị một Học giả nào đó nhanh nhẹn nhất bắt lại và đưa đến chỗ bà quản gia để tắm rửa và mặc áo choàng sạch sẽ, tiếp đó là bị hộ tống đến Phòng chung của các Học giả để uống trà cùng ngài Asriel. Một nhóm các Học giả lớn tuổi cũng có thể được mời đến. Lyra sẽ ngồi lọt thỏm với vẻ sốt ruột trong chiếc ghế bành cho đến khi ông Hiệu trưởng nghiêm khắc ra lệnh cho cô phải ngồi thẳng lên, và cô sẽ nhìn chằm chằm vào họ cho đến khi Cha tuyên úy bật cười. Chuyện xảy ra trong các cuộc viếng thăm kỳ quặc và hình thức đó thường chẳng bao giờ thay đổi. Sau bữa trà, ông Hiệu trưởng và vài Học giả khác được mời rút lui để Lyra và chú mình được ngồi với nhau. Ông gọi cô đến ngồi trước mặt mình và nói cho ông biết cô đã học được gì kể từ lần ông đến thăm gần đây nhất. Cô sẽ lúng búng nói về bất cứ thứ gì cô moi móc ra được trong trí nhớ về môn hình học hay số học, lịch sử hay địa lý. Còn ông thì ngồi ngả ra sau, vắt chân lên đầu gối, nhìn cô một cách khó hiểu cho đến khi cô không còn gì để nói nữa.

Năm ngoái, trước chuyến thám hiểm phương Bắc, ông đến và hỏi cô, “Thế cháu đã sử dụng thời gian vào việc gì khi không chịu chăm chỉ học hành?”

Cô lẩm bẩm, “Cháu chỉ chơi thôi. Xung quanh Học viện. Chỉ…chơ chuyi thôi, thực sự là như vậy đấy ạ.”

Ông nói, “Đưa tay cho ta xem, cô bé.”

Cô giơ tay lên cho ông khám xét. Ông cầm lấy tay cô, lật úp xuống để xem móng tay. Bên cạnh ông, con nhân tinh nằm dài như con nhân sư trên tấm thảm, thình thoảng lại quất đuôi và nhìn Lyra không chớp mắt.

“Bẩn quá.” Ngài Asriel nói và đẩy tay Lyra ra. “Ở đây họ không bắt cháu tắm rửa sao?”

“Có chứ ạ.” Lyra trả lời, “nhưng móng tay Cha tuyên úy cũng luôn bẩn đấy thôi. Thậm chí còn bẩn hơn cả móng tay cháu.”

“Ông ấy là người có học thức. Lý do bào chữa của cháu mới hay ho làm sao?”

“Cháu làm móng tay bẩn sau khi tắm.”

“Cháu chơi ở đâu mà bẩn như vậy?”

Cô nhìn ông vẻ ngờ vực. Cô có cảm giác việc trèo lên mái nhà là bị cấm, dù không ai nói hẳn ra như vậy. “Ở một vài căn phòng cũ,” cuối cùng cô trả lời.

“Và ở đâu nữa?”

“Bến Jericho và cảng Meadow.”

“Không còn nơi nào nữa sao?”

“Không ạ.”

“Cháu nói dối. Hôm qua ta nhìn thấy cháu trên mái nhà.”

Cô cắn môi và không nói gì. Ông đang nhìn cô một cách nhạo báng.

“Như thế có nghĩa là cháu còn chơi cả trên mái nhà nữa,” ông tiếp tục. “Cháu đã vào Thư viện bao giờ chưa?”

“Chưa ạ. Nhưng cháu tìm được một con quạ trên mái nhà.” Cô tiếp tục.

“Vậy sao? Cháu có bắt nó không?”

“Một chân nó bị đau, Cháu định giết và quay nó lên ăn thịt nhưng Roger nói bọn cháu nên chữa cho nó khỏe lên. Vì thế bọn cháu cho nó ít vụn thức ăn và uống rượu, rồi nó lành bệnh và bay đi.”

“Roger là ai thế?”

“Bạn cháu. Cậu ấy làm việc trong bếp.”

“Ta hiểu rồi. Vậy là cháu đã trèo lên khắp các mái nhà…”

“Không phải là khắp đâu ạ. Chú không thể lên được mái tòa nhà Sheldon vì phải nhảy từ tháp Pilgrim qua một khoảng trống. Có một cửa sổ áp mái mở ra ở đó, nhưng cháu không đủ cao để với tới.”

“Cháu đã leo lên khắp các mái nhà ngoại trú tòa nhà Sheldon vì cháu không đủ cao. Thế còn tầng ngầm dưới đất thì sao?”

“Tầng ngầm dưới đất ạ?”

“Một phần rộng như thế này nữa của Học viện nằm dưới mặt đất. Ta ngạc nhiên là cháu chưa khám phá ra điều này. Thôi, ta sắp phải vào rồi. Trông cháu cũng đủ khỏe mạnh đấy. Đây.”

Ông lục túi và bốc ra một nắm tiền xu, lấy trong đó ra năm đô la vàng.

“Họ đã dạy cháu nói cảm ơn chưa vậy?” Ông hỏi.

“Cảm ơn chú.” Cô lúng búng.

“Cháu có nghe lời ông Hiệu trưởng không?”

“À, có ạ.”

“Và kính trọng các Học giả?”

“Có ạ.”

Con nhân tinh của Ngài Asriel khẽ cười. Đó là âm thanh đầu tiên nó phát ra, và Lyra đỏ mặt.

“Thôi đi chơi đi,” Ngài Asriel nói

Lyra quay đi và thở phào lần ra cửa, sau đó cô bỗng nhớ ra và quay lại nói, “Tạm biệt.”

Cuộc sống của Lyra là như vậy, trước cái ngày cô quyết định trốn trong Phòng nghỉ, và lần đầu tiên nghe về Bụi.

Tất nhiên ông Quản lý thư viện đã sai lầm khi nói với ông Hiệu trưởng rằng cô sẽ không quan tâm. Giờ thì cô có thể lắng nghe với thái độ háo hức bất cứ người nào nói cho cô nghe về Bụi. Cô sẽ phải nghe thêm rất nhiều về nó trong những tháng tới, và cuối cùng cô là người hiểu về Bụi hơn bất cứ ai trên thế giới này. Nhưng hiện tại, cuộc sống phong phú tạiJordanvẫn đang bao bọc và cuốn hút cô.

Trong bất kỳ trường hợp nào, vẫn có điều gì đó khác để suy nghĩ. Mấy tuần gần đây, khắp các đường phố nổi lên một lời đồn đại. Lời đồn này khiến một số người bật cười, một số người im lặng, như thể một số người phỉ báng ma quỷ, những người khác lại sợ chúng. Không biết vì nguyên nhân gì, trẻ con bắt đầu biến mất.

Chuyện xảy ra như thế này.

Phía Đông dọc theo đường cao tốc lớn của song Isis đỗ đầy những chiếc thuyền chở gạch, thuyền chở đầy nhựa đường và thuyền chở ngũ cốc đang trên đường đi qua Henley và Maidenhead xuống Teddington, nơi thủy triều từ biển German tràn tới, và đậu bến ở Mortlake. Những chiếc thuyền đi tới, và đậu bến ở Mortlake. Những chiếc thuyền đi qua ngôi nhà của pháp sư nổi tiếngDee, qua Falkeshall, nơi những dòng suối và băng rôn vào buổi sáng, những ngọn đèn treo trên cây và pháo hoa vào ban đêm. Thuyền đi qua Cung điện Nhà Trắng—nơi đức vua chủ trì Hội đồng nhà nước mỗi tuần; qua tháp Shot rồi xuống tiếp phía dưới, nơi dòng song, rộng lớn và nhiều rác bẩn, trải rộng chỗ uốn lượn của mình về phíaNam.

Đây là Limehouse, nơi trẻ con biến mất.

Cậu bé có tên Tony Makarios. Mẹ của cậu nghĩ rằng cậu đã lên chín tuổi nhưng trí nhớ của chị tồi đến mức đã bị rượu hủy hoại, có thể cậu mới tám tuổi, hoặc đã mười tuổi rồi. Tên đệm của cậu là Greek, nhưng cũng giống như số tuổi, đây chỉ là suy đoán của người mẹ, vì trông cậu giống người Trung Quốc hơn là người Hi Lạp. Cậu còn thừựa hưởng dòng máu Ai-len, Skraeling và Lascar từ bên họ ngoại. Tony không thông minh lắm, nhưng cậu có sự dịu dàng vụng về khiến đôi khi cậu đến ôm mẹ thật lâu và đặt một nụ hôn ấm áp vào má mẹ. Người phụ nữ khốn khổ thường quá say để làm như vậy lại với con, nhưng chị cũng đáp lại đủ nồng nhiệt, khi nhận ra điều gì đang xảy ra.

Lúc đó Tonyả đang lang thang tại khu chợ trên đường Pie. Nó đang đói. Đó là vào lúc sáng sớm, và nó sẽ không được ăn nếu về nhà. Trong túi nó có một si-linh mà một người lính cho nó vì nó đưa thư của anh đến người bạn anh yêu nhất, nhưng Tony sẽ không tiêu nó vào đồ ăn.

Vì thế cậu bé lang thang khắp chợ, giữa những quầy bán quần áo cũ và xổ số, những lái buôn hoa quả và người bán cá rán; chú nhân tinh bé nhỏ trên vai, một con vẹt, nhìn ngó xung quanh; khi người bán hàng và nhân tinh của họ cùng nhìn đi chỗ khác, một tiếng hót vang lên, tay Tony vươn ra và rụt về chiếc áo sơ mi rộng lụng thụng của chú, mang theo một quả táo hay mấy củ lạc, và cuối cùng là một chiếc bánh pa-tê nóng hổi.

Người bán hàng này nhìn thấy, và la lên. Con nhân tinh trong hình dáng con mèo nhảy vọt ra, nhưng con vẹt của Tony ở trên cao và bản thân Tony đã chạy được nửa đường xuống phố. Những lời chửi rủa đuổi theo cậu bé, nhưng chỉ được một đoạn ngắn. Cậu thôi không chạy nữa mà dừng chân tại nhà thờ Thánh Catherine, ngồi xuống và lôi chiếc lợi phẩm là chiếc bánh méo mó đang bốc khói, để lại một vệt nước sốt trên áo cậu.

Và có một ánh mắt đang dõi theo cậu. Một quý bà trong chiếc áo choàng lông cáo màu đỏ và vàng, một quý bà xinh đẹp với mái tóc bóng mượt buông dài thanh lịch dưới chiếc mũ viền lông đang đứng trước cửa nhà thờ, độ vài bước phía trên cậu. Có lẽ buổi lễ nhà thờ đã kết thúc, vì ánh sáng chiếu từ cánh cửa phía sau bà, tiếng dương cầm vang lên bên trong, người phụ nữ cầm trên tay một cuốn kinh thánh bìa dát vàng.

Tony không biết gì cả. Mặt cậu cúi ngập trong chiếc bánh, những ngón chân quặp lại, cậu cắn và nhai trong khi con nhân tinh biến thành một con chuột đang chải chuốt bộ ria của nó.

Con nhân tinh của người phụ nữ trẻ chui ra từ chiếc áo choàng lông cáo. Nó là một con khỉ, nhưng không phải khỉ bình thường: lông nó dài, có ánh bạc và vàng lấp lánh. Với những bước bong vèo, nó bước từng bước về phía cậu bé, ngồi phía trên cậu một bước.

Con chuột như cảm thấy được điều gì, và lại trở về hình dáng một con vẹt. Nó nghển cổ một chút sang bên và nhảy lò còn từng một hai bước dọc bờ đá.

Con khỉ nhìn chú vẹt, chú vẹt nhìn con khỉ.

Con khỉ chậm chạp tiến đến. Bàn tay bé nhỏ của nó màu đen, móng vuốt bằng sừng, chuyển động của nó nhẹ nhàng và mời mọc. Con vẹt không thể cưỡng lại, Nó nhảy lò cò xa hơn, xa hơn, và sau đó, với một bước ngắn, nó nhảy lên tay đ con khỉ.

Con khỉ nâng nó lên, nhìn chăm chú trước khi đứng và đu đưa qua lại cùng con nhân tinh vẹt. Quý bà cúi mái đầu sức nước hoa thì thầm gì đó.

Tony quay lại. Cậu không thể làm thế.

“Ratter,” cậu nói, một nửa là để nhắc nhở, với cái mồm đầy bánh.

Chú vẹt kêu líu lo. Chắc chắn là an toàn. Tony nuốt chỗ bánh trong mồm và nhìn ra.

“Xin chào,” quý bà xinh đẹp nói. “Cháu t là gì?”

“Tony.”

“Cháu sống ở đâu vậy Tony.”

“Clarice Walk.”

“Bánh kẹp nhân là gì vậy?”

“Thịt bò.”

“Cháu có thích nước chocolate không?”

“Có!”

“Thật ra, cô có nhiều nước chocolate lắm mà lại không uống hết được. Cháu có muốn đến uống giúp cô không?”

Giờ thì cậu bé đã mất tích. Cậu mất tích từ lúc con nhân tinh ngốc nghếch của mình nhảy vào tay con khỉ. Cậu đi theo người phụ nữ xinh đẹp và con khỉ vàng xuống đường Denmark, đi dọc bến tàu Hangman, xuống các bậc thang King George đến một cánh cửa xanh lá cây bên sườn một ngôi nhà kính cao. Quý bà gõ cửa và cánh cửa mở ra. Họ đi vào, cánh cửa lại đóng lại. Tony không bao giờ đi ra nữa, hay ít nhất là bằng cửa ra vào, và cậu cũng không bao giờ gặp lại mẹ nữa. Người phụ nữ nghiện rượu đáng thương sẽ nghĩ cậu bỏ đi, khi nhớ đến nó, chị sẽ nghĩ đó là lỗi của mình, và trái tim người mẹ lại thổn thức trong đêm.

Tony Makarios bé nhỏ không phải là cậu bé duy nhất bị quý bà có con khỉ vàng bắt cóc. Cậu còn thấy hàng chục đứa bé khác trong hầm nhà, cả trai lẫn gái, không có đứa nào vượt quá mười hai tuổi, và dù tấ cả đều có những câu chuyện như nhau, không đứa nào biết chắc về tuổi của mình. Điều Tony không để ý, tất nhiên là yếu tố tất cả chúng đều có điểm chung với nhau: không có đứa trẻ nào trong chiếc hầm ấm áp và ướt át đó đã đến tuổi dậy thì.

Quý bà tốt bụng nhìn cậu ngồi trên chiếc ghế dài dựa vào tường và được mộtit bà giúp việc đưa cho một cốc nước chocolate từ chiếc xoong đặt trên bếp lò sắt. Tony ăn nốt chiếc bánh kẹp và uống chất nước ngọt ngào mà không quan tâm gì nhiều đến xung quanh, những người xung quanh cũng không mấy quan tâm đến cậu: cậu quá bé nhỏ để trờ thành một mối đe dọa, và quá dửng dưng để biết mình trở thành một nạn nhân.

Một cậu bé khác đưa câu hỏi.

“Thưa bà. Bà đưa chúng cháu đến đây làm gì?”

Đó là một cậu bé có vẻ ngoài khá bướng bỉnh. Nước chocolate cậu vừa uống vẫn còn bám trên môi. Nhân tình của cậu là một chú chuột đen gầy. Quý bà đứng nói chuyện với người đàn ông mập mạp có phong cách của một thuyền trưởng viễn dương, và khi bà quay lại để trả lời, đôi mắt bà nhìn vào chiếc đèn dầu với khuôn mặt thiên thần, tất cả bọn trẻ đều im lặng.

“Chúng tôi cần sự giúp đỡ của các cháu. Vác cháu không ngại giúp chúng tôi, phải vậy không?”

Không đứa trẻ nào có thể nói được một lời. Chúng đều nhìn bà chằm chằm, rồi bất giác ngượng nghịu. Chưa bao giờ chúng gặp một quý bà như thế này, bà quá dịu dàng, ngọt ngào và tốt bụng đến mức chúng cảm thấy mình không xứng đáng được hưởng sự may mắn được bà nhờ giúp đỡ. Dù bà có yêu cầu điều gì, chúng cũng thấy hạnh phúc vì được gần bà thêm một lúc nữa.

Bà ta nói với chúng rằng họ sắp có một chuyến đi. Chúng ta sẽ được ăn uống no nê và mặc quần áo đầy đủ, và ai muốn đều có thể gửi thư về nhà cho gia đình báo cho mọi người biết mình vẫn an toàn. Thuyền tr܆Xng Magnusson sẽ đưa chúng lên thuyền sớm, và khi thủy triều lên, họ sẽ ra biển để đi về hướng Bắc.

Những đứa trẻ muốn gửi thư về nhà nhanh chóng ngồi quanh quý bà xinh đẹp khi bà viết mấy dòng theo ý chúng. Bà để chúng vạch một dấu X nguệch ngoạc ở cuối tờ giấy rồi gấp lại cho vào một phong bì ướp nước hoa, cuối cùng viết địa chỉ chúng đọc. Tony y cũng muốn gửi thư về nhà cho mẹ, nhưng cậu có một suy nghĩ thực tế rằng mẹ cậu không biết chữ. Cậu bám lấy tay áo lông cáo của quý bà và thì thầm rằng nó muốn bà nói với mẹ cậu nơi cậu sẽ đến, thế thôi, quý bà cúi chiếc đầu thơm tho xuống đủ gần cậu bé hôi hám để nghe, và gật đầu hứa sẽ chuyển lời nhắn của cậu.

Rồi bọn trẻ tụ tập lại để tạm biệt. Con khỉ vàng vuốt ve tất cả các nhân tinh của lũ trẻ, và chúng đều vuốt ve chiếc áo lông cáo của bà để lấy may. Cũng có thể chúng đang vẽ ra chút sức mạnh hay hi vọng từ lòng tốt của quý bà, và bà ta đảm bảo mọi lợi ích của chúng, nhìn ngắm chúng được thuyền trưởng dũng cảm chăm sóc trên chiếc tàu hơi nước tại cầu tàu. Trời đã tối, ánh sáng lấp lánh trên sông. Quý bà đứng trên cầu tàu và vẫy cho đến khi không thể nhìn thấy mặt bọn trẻ nữa.

Rồi bà ta quay vào với con khỉ vàng nép bên ngực, ném xấp thư bé nhỏ vào đống lửa trước khi quay trở lại đường cũ.

Bọn trẻ sống tại khu nhà ổ chuột rất dễ bị dụ dỗ và bắt cóc, nhưng cuối cùng mọi người cũng phát hiện ra, còn cảnh sát thì miễn cưỡng điều tra tìm kiếm. Rồi không còn ai quan tâm nữa. Nhưng những lời đồn đại bắt đầu lan tràn, qua từng người, từng người một, nó thay đổi và được thêm bớt. Một thời gian sau lũ trẻ con biến mất ởNorwich, sau đó là Sheffield, rồiManchester. Những người dân đã nghe chuyện ở những nơi này thêm vào những vụ bắt cóc mới khiến câu chuyện hấp dẫn hơn.

Và thế là huyền thoại về những nhóm người bỏ bùa mê bắt cóc trẻ con huyền bí xuất hiện. Một số người nói trưởng nhóm là một quý bà xinh đẹp, những người khác lại nói đó là một người đàn ông cao mắt đỏ, trong khi đó, câu chuyện thứ ba lại nói về một thanh niên cười và hát cho nạn nhân của mình nghe khiến chúng đi theo ngoan ngoãn như một con cừu.

Còn về việc họ đemọn trẻ đi đâu, không có lời giải thích nào giống lời giải thích nào. Người thì nói chúng bị đưa xuống địa ngục, dưới mặt đất, đến chốn thần tiên. Người khác nói đến một nông trại nơi bọn trẻ bị giam cầm và vỗ béo để ăn thịt.

Người khác nói chúng bị bắt và bán làm nô lệ cho những người Tartar giàu có… Và còn nhiều cách nói khác nữa.

Nhưng một điều mọi người đều đồng ý là về chuyện tên của những kẻ bắt cóc giấu mặt kia, chúng phải có một cái tên, hoặc không bị đánh đồng chung chung, và nói về chúng—đặc biệt là khi bạn đang an toàn và yên ở nhà, hay trong Học việnJordan, thật là một chuyện thú vị. Cái tên được dành cho chúng, mà chẳng ai biết tại sao, là Gà trống tây.

“Đừng có về muộn, nếu không bọn Gà trống tây sẽ bắt đấy.”

“Cháu trai tôi ởNorthampton, nó biết một người phụ nữ có con bị bọn Gà trống tây bắt cóc...”

“Bọn Gà trống tây đã ởStratford. Chúng nói chúng đang đi về phíaNam.”

Và, đây là kết quả không thể tránh:

“Hãy chơi trò trẻ con và bọn Gà trống tây đi!” Lyra nói với Roger, cậu bé làm bếp. Cậu có thể đi theo cô đến cùng trời cuối đất.

“Chơi trò đó thế nào?”

“Cậu trốn còn mình sẽ tìm và cắt cậu thành từng miếng, ngay lập tức, như bọn Gà trống tây vẫn làm.”

“Cậu không biết chúng làm gì. Có thể chúng không hề làm như vậy.”

“Cậu sợ chúng,” cô nói, “mình chắc chắn thế đấy.”

“Mình không sợ. Dù sao, mình cũng không tin chúng.”

“Mình cũng thế,” cô nói vẻ quả quyết, “mình chỉ làm những gì chú mình đã làm vào lần gần đây nhất ông ấy đến Học việnJordan. Mình đã nhìn thấy. Ông ấy ở trong Phòng nghỉ, trong đó có những người khách không mấy lịch sự, chú mình chỉ nhìn người đó một cách nghiêm khắc và người đó ngã xuống chết ngay lập tức, miệng sùi đầy bọt mép.”

“Còn lâu mới có chuyện đó.” Roger nói với giọng nghi ngờ. “Không thấy ai nói gì về chuyện ấy trong bngếp cả. Dù sao, cậu cũng không được phép vào Phòng nghỉ.”

“Tất nhiên là không. Họ không nói cho những người giúp việc những chuyện như vậy. Và mình đã từng ở trong Phòng nghỉ. Dù sao đi nữa, chú mình luôn luôn làm như vậy. Chú ấy đã làm như vậy với một vài người Tartar khi họ bắt chú ấy. Họ trói chú ấy lại và chuẩn bị mổ bụng chú ấy. Nhưng khi người đàn ông đầu tiên xông tới với con dao trên tay, chú mình chỉ việc nhìn vào hắn ta, và hắn ta lăn ra chết. Bọn còn lại chạy đến và chú ấy cũng làm tương tự, cuối cùng chỉ còn lại một tên. Chú mình nói ông sẽ tha cho hắn sống nếu hắn cởi trói cho chú ấy. Hắn đã làm theo, và chú mình vẫn giết hắn để dạy cho hắn một bài học.”

Roger không chắc chắn lắm về điều này cũng như về bọn Gà trống tây. Nhưng câu chuyện quá thú vị để có thể bỏ phí, vì thế chúng chuyển sang đóng vai Ngài Asriel và bọn Tartar, và dùng nước tắm cốt chanh để làm bọt mép.

Tuy nhiên, đó chỉ là một cách lấp liếm vì Lyra vẫn muốn chơi trò Gà trống tây. Cô dụ dỗ Roger xuống hầm rượu và chúng vào đó bằng bộ chìa khóa sơ cua của ông quản gia. Cùng nhau chúng nhón chân đi dưới những mái vòm, nơi rượu Tokey, Canary,Burgundyvà Brantwin của Học viện được sắp xếp một cách rắc rối theo số năm tuổi. Những khung tò vò bằng đá cổ phía trên đầu chúng được đỡ bởi những cây cột to gấp mười lần độ lớn của một thân cây, các phiến đá lát các chai và thùng rượu. Thật là cuốn hút. Những tên Gà trống tây lại bị lãng quên, hai đứa trẻ nhón gót đi từ đầu này đến đầu kia, cầm một cây nến trên tay với những ngón tay run rẩy, nhìn ngó từng góc tối. Một câu hỏi nảy ra trong óc Lyra mỗi lúc một bức bối: Rượu có mùi vị thế nào?

Có một cách đơn giản để trả lời câu hỏi của Lyra. Lyra, bỏ qua sự phản đối kịch liệt của Roger, cầm lên một chai lâu năm nhất, hình dáng kỳ lạ nhất và có màu xanh lá cây đậm nhất có thể tìm thấy. Không có gì để mở nút chai, cô đập vỡ chỗ cổ chai. Chúng ngồi tụm với nhau trong góc xa nhất, uống từng ngụm chất lỏng đỏ sẫm rất bốc, tự hỏi bao giờ thì chúng sẽ say, và làm thế nào chúng có thể nói khi đã say. Lyra không thích mùi vị của rượu lắm, nhưng cô phải công nhận loại rượu này rất ngon và dễ uống. Buồn cười nhất là nhìn hai con nhân tinh của họ, có vẻ như đầu óc chúng ngày càng mụ đi. Chúng ngã lăn ra và cười rúc rich như điên, biến thành những cái phễu và cố trở nên xấu xí hơn.

Cuối cùng, gần như cùng lúc, bọn trẻ nhận ra say rượu là thế nào.

“Có phải say rượu là thế này không?” Roger thở hổn hển, sau khi nôn thốc nôn tháo.

“Đúng vậy.” Lyra nói, cũng trong tình trạng tương tự. “Cả mình cũng say rồi.” Cô nói thêm một cách bướng bỉnh.

Lyra chẳng học được gì từ việc đó ngoại trừ việc chơi trò Gà trống tây dẫn đến những nơi rất thú vị. Cô nhớ đến những lời chú mình nói trong lần nói chuyện gần đây nhất giữa họ, và bắt đầu khám phá tầng hầm, vì những gì trên mặt đất chỉ là một phần nhỏ của cả khu Học viện. Khoảng từ thời Trung cổ, Jordan (nhận thấy nó đang chen nhau một bên là Học viện Thánh Michael, một bên là Học viện Gabriel, còn phía sau là Thư viện của đại học) đã bắt đầu mở rộng khu tầng ngầm của mình. Những đường hầm, đường ống thông, mái vòm, mái trần, cầu thang được đào sâu trong lòng đất phía dướiJordanrộng hàng nghìn mét đến mức bên dưới cũng có nhiều không gian như bên trên. Học việnJordanđang đứng trên một cái móng rỗng.

Và bây giờ Lyra thích thú được khám phá nó, cô từ bỏ sào huyệt cũ của mình, những chỗ trú ẩn trên mái trần Học viện và cùng Roger lao vào thế giới lạ lẫm này. Từ việc chơi trò Gà trống tây, hai đứa trẻ chuyển sang săn chúng, vì còn gì giống hơn việc chúng đang lẩn dưới lòng đất?

Vì thế một ngày nọ cô và Roger tìm đường vào khu hầm mộ dưới Nhà nguyện. Đây là nơi các thế hệ Hiệu trưởng đã được chôn cất, mỗi người được đặt trong chiếc quan tài gỗ sồi nẹp chì xếp dọc những bức tường đá. Một viên đá phía dưới viết tên họ:

SIMON LE CLERC

HIỆU TRƯỞNG 1765—1789

CEREBATON

YÊN NGHỈ

“Thế có nghĩa là gì vậy?” Roger hỏi.

“Phần đầu tiên là tên ông Hiệu trưởng, và cụm cuối cùng là chữ La Mã. Còn các năm ở giữa là thời gian ông ta làm Hiệu trưởng. Cái tên còn lại chắc là nhân tinh của ông ta. “

Chúng đi dọc mái vòm tĩnh lặng, nhìn những chữ trên các tấm đá khác.

FRNCIS LYALL

HIỆU TRƯỞNG 1748—1765

ZOHARIAL

YÊN NGHỈ

IGNATIUS COLE

HIỆU TRƯỞNG 1745—1765

MUSCA

YÊN NGHỈ

Trên mỗi chiếc quan tài, Lyra thích thú khi thấy một tấm bảng đồng gắn những hình ảnh khác nhau: một con giống túi, một con rắn, hay một con khỉ. Cô nhận ra đó là hình ảnh những con nhân tinh của người chết. Khi con người đến giai đoạn trưởng thành, nhân tinh của họ sẽ mất đi sức mạnh biến hình và khoác lấy một bộ dạng cố định không thay đổi nữa.

“Trong mỗi chiếc quan tài này có một bộ xương người!” Roger thầm thì.

“Thân xác vẫn còn nguyên,” Lyra thì thầm lại, “và giòi bọ đang ngọ nguậy trong mắt bọn họ đấy.”

“Chắc dưới này thể nào cũng có ma,” Roger nói rùng mình một cách thích thú.

Dưới hầm mộ đầu tiên chúng tìm thấy một lối đi hai bên có xếp các giá xây bằng đá. Mỗi giá chia thành từng ô vuông, trong mỗi ô vuông là một chiếc xương sọ.

Nhân tinh của Roger, đuôi nhét chặt giữa hai chân, run rẩy nép vào người Roger và khe tru lên.

“Suỵt,” Roger nói.

Lyra không nhìn thấy Pantalaimon, nhưng cô biết nó đã biến thành bướm đêm đậu trên vai cô, có lẽ cũng đang run bắn.

Cô tiến đến và nhẹ nhàng nhấc chiếc xương sọ gần nhất khỏi nơi đặt nó.

“Cậu đang làm gì vậy?,” Roger hỏi. “Cậu không được phép động vào chúng!”

Cô lật đi lật lại nó, không quan tâm đến lời Roger. Có gì đó đột nhiên rơi khỏi cái lỗ dưới đáy xương sọ, lọt qua kẽ tay cô và rơi xuống sàn nhà khiến cô suýt đánh rơi chiếc sọ vì bất ngờ.

“Một đồng xu!” Roger nói, sờ vào nó. “Có lẽ là một kho báu đấy!”

Cậu mang đồng xu đến gần ngọn nến và cả hai đứa trẻ đều mở to mắt. Đó không phải là một đồng xu, mà là một tấm đồng nhỏ khắc hình một con mèo.

“Giống như hình trên chiếc quan tài,” Lyra nói. “Đây là nhân tinh của ông ta. Chắc chắn là vậy.”

“Tốt hơn là trả nó về chỗ cũ.” Roger nói một cách khó khăn, và Lyra lật ngược chiếc xương sọ, thả tấm đồng lại nơi an nghỉ từ xa xưa trước khi trả chiếc sọ vào vị trí trên giá. Chúng phát hiện ra trong mỗi chiếc sọ đều có hình tấm đồng khắc hình con nhân tinh của người đó, thể hiện rằng người bạn đồng hành suốt đời của chủ nhân vẫn gần bên cả trong cái chết.

“Cậu nghĩ những người này là ai khi còn sống?” Lyra hỏi. “Có lẽ là các Học giả, mình đoán vậy. Chỉ có các Hiệu trưởng mới có quan tài. Có thể qua hàng thế kỷ có quá nhiều Học giả đến mức không đủ chỗ đề mai táng họ, vì thế người ta chỉ cắt đầu họ và giữ lại. Dù sao thì đó cũng là phần quan trọng nhất của họ.”

Chúng không tìm được một tên Gà trống tây nào, nhưng những hầm mộ dưới Nhà nguyện giữ Lyra và Roger bận bịu cả ngày. Một lần cô đã thử trêu đùa với các Học giả đã chết, bằng cách thay đổi vị trí các tấm đồng trong chiếc sọ khiến con nhân tinh trong đó không còn đúng với người chủ nữa. Pantalaimon bị kích động bởi chuyện này đến mức nó biến thành một con dơi, bay lên bay xuống kêu lên những tiếng the thé điếc tai và đập cánh vào mặt Lyra, nhưng cô không quan tâm, đây là một trò đùa quá vui để có thể bỏ qua. Tuy nhiên, sau đó cô đã phải trả giá cho chuyện này. Trên chiếc giường trong căn phòng nhỏ tại đỉnh của Cầu thang Mười hai, cô được mấy bóng ma viếng thăm đứng bên cạnh giường. Họ giơ những ngón tay xương xẩu về phía cô rồi giật chiếc mũ trùm đầu của mình ra để lộ vết thương đang rỉ máu nơi đáng lẽ phải có chiếc đầu. Chỉ khi Pantalaimon biến thành con sư tử và gầm lên, họ mới chịu rút lui qua các bức tường cho đến khi tất cả những gì còn nhìn thấy được là cánh tay, rồi những bàn tay vàng vọt xanh xao, rồi đến những ngón tay cào xé, và không còn gì nữa. Điều đầu tiên cô làm vào sáng hôm sau là hối hả lao xuống hầm mộ vừa đặt những tấm đồng về đúng chỗ cũ vừa thì thầm “Xin lỗi! Xin lỗi!” với những chiếc xương sọ.

Khu hầm mộ rộng lớn hơn hầm rượu rất nhiều nhưng nó cũng có giới hạn. Khi Lyra và Roger đã khám phá hết tất cả các góc và chắc chắn không có tên Gà trống tây nào để tìm kiếm ở đây, chúng chuyển sự quan tâm sang hướng khác—nhưng chưa kịp làm thì chúng bị Cha cố gọi trở lại Nhà nguyện.

Cha cố là mộtđ người đàn ông cao tuổi béo mập thường được gọi là Cha Heyst. Công việc của cha là chủ trì mọi vấn đề tế lễ của Học viện, thuyết giáo, cầu nguyện và nghe xưng tội. Khi Lyra còn nhỏ, Cha đã quan tâm đến phần hồn của cô. Cô đáp lại bằng cách giễu cợt với thái độ lãnh đạm láu cá và sự ăn năn giả bộ của mình. Cô không hứa hẹn là một con chiên ngoan đạo, ông đã nhận ra là như vậy.

Khi nghe tiếng ông gọi, Lyra và Roger miễn cưỡng quay ra, kéo lê chân, bước vào Nhà nguyện rộng lớn tù mù toàn mùi nấm mốc. Ánh nến lung linh khắp mọi phía trước các bức tượng thánh, tiếng lách cách xa xa vọng lại từ phòng để đàn ống, một người Gypsy đang đánh bóng bục giảng kinh bằng đồng thau. Cha Heyst đang vẫy từ cửa vào phòng họp dành cho những người đống góp cho nhà xứ.

“Các con vừa ấở đâu vậy?” Ông nói với chúng. “Ta chỉ thấy con đến đây được hai hay ba lần. Các con phải làm gì nào?”

Giọng điệu ông ta không có vẻ kết tội. Có vẻ ông muốn thể hiện mình chỉ có ý quan tâm. Con nhân tinh của ông đang đập chiếc đuôi thằn lằn trên vai ông.

Lyra trả lời, “Chúng con muốn xem hầm mộ một chút.”

“Để làm gì mới được chứ?”

“Để xem… quan tài. Chúng con muốn xem tất cả các quan tài. “ Cô trả lời.

“Nhưng tại sao nào?”

Cô nhún vai. Đây là phản ứng quen thuộc của cô mỗi khi bị hỏi dồn.

“Còn con,” ông tiếp tục, quay sang Roger, nhân tinh của Roger đang lo lắng vẫy chiếc đuôi chó sục của mình để làm ông nguôi ngoai, “tên con là gì?”

“Roger, thưa Cha.”

“Nếu con là một người giúp việc, thì con làm việc ở đâu?”

“Trong bếp, thưa Cha.”

“Vậy con có phải có mặt ở đó vào lúc này không?”

“Có, thưa Cha.”

“Vậy thì cho con đi.”

Roger quay người chạy đi. Lyra di di chân trên nền nhà.

“Còn với con, Lyra.” Cha Heyst nói, “ta thấy hài lòng khi thấy con quan tâm đến những gì nằm trong Nhà nguyện. Con là một đứa trẻ may mắn, khi được sống trong tất cà những thứ thuộc về lịch sử như thế này.”

“Vâng,” Lyra nói.

“Nhưng ta thấy thắc mắc về cách chọn bạn của con. Con có phải một đứa trẻ cô độc không?”

“Không.” Cô nói.

“Con có… con có thèm muốn cuộc sống của những đứa trẻ khác không?”

“Không.”

“Ta không nói đến cậu bé Roger làm bếp. Ta muốn nói đến những đứa trẻ giống như con. Những đứa trẻ xuất thân cao quý. Con có muốn có vài người bạn như thế?“

“Không.”

“Những… những cô bé gái khác, có thể…”

“Không.”

“Con biết đấy, không ai trong chúng ta muốn mất đi tất cả những niềm vui và trò tiêu khiền bình thường của tuổi thơ. Đôi lú ta nghĩ cuộc sống sẽ cô đơn lắm với con ở đây giữa những Học giả lớn tuổi, Lyra ạ. Con có thấy vậy không?”

“Không.”

Ông chụm hai ngón cái vào nhau trên hai bàn tay đang đan các ngón, không nghĩ ra thêm bất cứ điều gì để nói với đứa trẻ bướng bỉnh này.

“Nếu có điều gì khó khăn với con,” cuối cùng ông nói, “con biết con có thể đến tâm sự với ta. Ta hi vọng con luôn cảm thấy có thể làm như vậy.”

“Vâng,” cô nói.

“Con vân cầu nguyện đấy chứ?”

“Vâng.”

“Cô bé ngoan. Thôi, con đi chơi đi.”

Với một vẻ được giải thoát khó giấu giếm, cô quay người đi. Không tìm được những Gà trống tây dưới lòng đất, cô quay ra đường. Ở đó, cô như được về nhà.

Rồi, khi cô gần như đã không còn hứng thú gì với chúng, những con Gà trống tây lại xuất hiện tạiOxford.

Đó là vào quãng thời gian diễn ra Hội chợ ngựa, lòng sông chật kín những chiếc thuyền nhỏ và thuyền nửa mui, những thương nhân và khách du lịch. Những bến tàu dọc khu cảng tạiJerichorực rỡ ánh đèn cùng tiếng ồn ào của móng ngựa xen lẫn tiếng người mặc cả. Lyra luôn thích thú với các Hội chợ ngựa, cũng như cơ hội được ngồi thử trên lưng một con ngựa không-hiếu-thắng-lắm, có vô số các nguy cơ có thể khiến chúng nổi khùng.

Và năm nay cô có một kế hoạch lớn. Thích thú với cuộc truy đuổi chiếc thuyền nhỏ năm trước, lần này cô định có một chuyến đi trước khi bị phát hiện. Nếu cô và các đồng đội làm việc trong các bếp ăn Học viện của mình có thể đến được tận Abingdon, họ có thể đánh chiếm đập nước…

Nhưng năm nay không có cuộc chiến nào cả. Khi cô đi tha thẩn quanh khu đỗ thuyền tại cảng Meadow trong ánh nắng sớm cùng hai đứa trẻ lang thang khác, truyền tay nhau điếu thuốc lá ăn cắp được và phì khói thuốc một cách tự hào, cô nghe thấy một tiếng hét rất quen.

“À, hóa ra mày đã làm thế với nó hả, đồ ngu?”

Đó là một giọng nói khỏe khoắn, giọng phụ nữ, như"ng là một người phụ nữ có lá phổi bằng đồng. Ngay lập tức Lyra nhìn quanh tìm kiếm, vì đó là Mẹ Costa, người đã tát Lyra chóng váng hai lần nhưng lại cho cô bánh gừng nóng đến ba lần, và gia đình bà được chú ý bởi họ có một chiếc thuyền to lớn và lộng lẫy. Họ là hoàng tử giữa đám người Gypsy, Lyra rất hâm mộ Mẹ Costa, nhưng dù gì thỉnh thoảng cô vẫn cảnh giác với bà, vì đó là con thuyền bà ta đã đánh cắ.

Một trong những đồng minh của Lyra tự động nhặt một hòn đá khi cậu nghe thấy tiếng nói, nhưng Lyra nói, “Hãy vứt xuống. Bà ấy đang nổi cơn tam bành. Bà ấy có thể bẻ gẫy xương sống cậu như bẻ một cành củi đấy.”

Thực ra, trông Mẹ Costa có vẻ lo lắng hơn là tức giận. Người đàn ông đang nói chuyện với bà, một lái buôn ngựa, đang nhún vai và giang tay.

“Vâng, tôi không biết.” Ông ta nói. “Ông ta ở đây một phút rồi đi ngay. Tôi không biết ông ta đi đâu…”

“Ông ta đang giúp anh! Ông ta đang giữ những con ngựa hăng máu của anh để giúp đỡ anh!”

“Ồ, ông ta không thể ở đây được, phải không? Bỏ việc giữa chừng…”

Ông ta không nói gì thêm, vì Mẹ Costa đột ngột cho ông ta một nắm đấm vào thái dương, và theo sau đó là một tràng những lời chửi bới nguyền rủa ông ta văng ra rồi quay người bỏ đi. Những lái buôn ngựa gần đó cười to chế nhạo, và một tiếng súng côn ré lên tức tối.

“Chuyện gì xảy ra vậy?” Lyra hỏi một đứa trẻ người Gypsy đang đứng há miệng nhìn. “Bà ấy bực bội vì chuyện gì vậy?”

“Về con bà ấy.” Đứa trẻ nói. “Tên nó là Billy, có thể bà ấy cho rằng bọn Gà trống tây đã bắt nó. Cũng có thể là đúng như vậy. Tớ cũng chưa nhìn thấy nó lần nào kể từ…”

“Bọn Gà trống tây hả? Vậy là chúng đã đếnOxfordrồi sao?”

Cậu bé người Gypsy quay ra hỏi các bạn, bọn chúng đều đang nhìn Mẹ Costa.

“Cậu ấy không biết điều gì đang xảy ra! Cậàu ấy không biết bọn Gà trống tây đã đến đây.”

Nhận thấy bọn trẻ lang thang quay lại nhìn mình với vẻ chế giễu, Lyra ném điếu thuốc xuống, gợi ý một cuộc chiến. Con nhân tinh của mọi người đều trở nên sẵn sang chiến đấu: Mỗi đứa trẻ được hỗ trợ bởi những con nhân tinh đầy răng nanh, móng vuốt, hay những bộ lông dày, và Pantalaimon khinh thường trí tưởng tượng hạn hẹp của bọn nhân tinh kia, biến thành một con rồng to bằng một chú chó săn Ê-cốt.

Nhưng trước khi bọn trẻ kịp lao vào cuộc ẩu đả, chính Mẹ Costa xông vào, lôi hai đứa trẻ sang một bên và đứng đối mặt với Lyra như một võ sĩ quyền anh.

“Cháu có gặp nó không?” bà hỏi gặng Lyra, “Cháu có gặp Billy không?”

“Không,” Lyra trả lời. “Chúng cháu vừa mới đến đây. Hàng tháng nay cháu không gặp Billy.”

Con nhân tinh của Mẹ Costa đang lăn trong không khí rực rỡ phía trên đầu bà, một con quạ, đôi mắt vàng hung dữ đảo từ bên này sang bên kia không chớp. Lyra cảm thấy sợ hãi. Chẳng ai lo lắng về chuyện một đứa trẻ mất tích vài giờ, tất nhiên không, với một đứa trẻ người Gypsy cũng vậy. Trong thế giới chen chúc của những chiếc thuyềnư của người Gypsy, đứa trẻ nào cũng quý giá và rất được nâng niu, và một người mẹ biết nếu đứa trẻ vượt ra khỏi tầm mắt, nó sẽ không đi quá xa khỏi ai đó khác có thể bảo vệ nó theo bản năng.

Nhưng đây là Mẹ Costa, một vị nữ hoàng giữa những người Gypsy, hốt hoảng bởi một đứa trẻ bị mất tích. Chuyện gì đang xảy ra vậy?

Mẹ Costa tìm kiếm một cách tuyệt vọng trong đám trẻ con rồi quay đi và lẫn vào đám đông tại bến cảng, kêu gào tên con. Lập tức bọn trẻ quay lại nhìn nhau, mối thù hằn của chúng tắt ngấm trước khuôn mặt đau thương của người mẹ.

“Bọn Gà trống tây đó là ai vậy?” Simon Parlow, một người bạn của Lyra hỏi.

Cậu bé người Gypsy đầ>u tiên trả lời, “Mày biết đấy. Chúng ăn cắp trẻ con ở khắp nơi trên đất nước. Chúng là cướp biển…”

“Chúng không phải là cướp biển.” Cậu bé người Gypsy khác đính chính. “Chúng là bọn dụ dỗ trẻ con. Chính vì thế người ta mới gọi chúng là Gà trống tây.”

“Chúng có ăn thịt trẻ con không?” Hugh Lovat, cậu bạn nối khố khác của Lyra, làm bếp tại Học viện Thánh Michael hỏi.

“Ai mà biết được.” Cậu bé Gypsy đầu tiên trả lời. “Chúng mang bọn trẻ đi và không ai còn gặp lại chúng nữa.”

“Bọn tao cũng biết vậy.” Lyra nói. “Bọn tao còn chơi trò trẻ con và tụi Gà trống tây hàng tháng nay, trước khi bọn mày biết, tao cá đấy. Nhưng tao cá không ai từng nhìn thấy chúng.”

“Có đấy” một cậu bé nói.

“Ai nào?” Lyra kiên trì hỏi tiếp. “Mày đã nhìn thấy chúng chưa? Làm sao mày biết chúng chỉ là mộtề người?”

“Charlie đã gặp chúng ở Banbury.” Một cô bé người Gypsy trả lời. “Chúng đến và nói chuyện với quý bà đó trong khi một người đàn ông khác bắt cóc con trai bà ấy ra khỏi vườn.”

“Đúng vậy.” Charlie gật đầu lia lịa. “Tao đã nhìn thấy ông ta làm thế.”

“Trông ông ta thế nào” Lyra hỏi.

“Tao chưa bao giờ nhìn rõ chúng cả.” Charlie nói. “Nhưng tao đã nhìn thấy chiếc xe tải của chúng,” nó nói thêm, “Chúng lái imột chiếc xe tải màu trắng. Chúng cho đứa bé vào xe và lao vụt đi.”

“Nhưng tại sao người ta gọi chúng là bọn Gà trống tây?” Lyra hỏi.

“Vì chúng ăn thịt bọn trẻ.” Cậu bé người Gypsy đầu tiên trả lời. “ỞNorthamptonngười ta nói với chúng tao như vậy. Bọn chúng đã ở đó và các nơi khác nữa. Có một con bé ởNorthampton, anh trai nó bị bắt, và nó nói người đàn ông khi bắt cóc đã nói chúng sẽ ăn thịt thằng bé. Ai cũng biết việc này. Chúng sẽ ăn thịt bọn trẻ.”

Một cô bé Gypsy đứng gần đó bắt đầu khóc to.

“Đó là chị họ của Billy,” Charlie nói.

Lyra hỏi, “Ai là người gặp Billy cuối cùng?”

“Tao.” Cả nửa tá giọng nhao nhao. “Tao nhìn thấy nó giữ con ngựa già của Johnny Fiorelli—Tao nhìn thấy nó gần chỗ người bán bánh táo—Tao nhìn thấy nó đánh đu ở chỗ cần trục…”

Khi Lyra phân loại các câu trả lời, cô nhận thấy Billy vẫn còn ở đây ít nhất hai giờ đồng hồ trước.

“Vậy thì,” cô nói “trong khoảng hai tiếng đồng hồ trở lại, bọn Gà trống tây đã ở đây…”

Bọn trẻ nhìn ra xung quanh, run rẩy dù đang đứng dưới ánh nắng mặt trời ấm áp, bến tàu đông đa đường, mùi ngựa và mùi lá thuốc quen thuộc. Rắc rối là không ai biết bọn Gà trống tây trông như thế nào, bất cứ ai cũng có khả năng là một tên Gà trống tây, như Lyra đã chỉ ra cho các đồng đội của mình, tất cả chúng đang ở dưới sự lãnh đạo của cô, cả những đứa ở trường cao đẳng lẫn đám người Gypsy bên ngoài.

“Chắc chắn chúng trông cũng như những người bình thường khác, nếu không chúng đã bị phát hiện ra ngay,” cô giải thích. “Nếu chúng chỉ đến vào ban đêm, chúng có thể trong bất cứ hình dáng nào. Nhưng nếu chúng xuất hiện ban ngày, chắc chúng phải trông như những người bình thường. Vì thế bất cứ ai cũng có thể là một tên Gà trống tây…”

“Không thể.” Một cậu bé người Gypsy nói chắc chắn. “Tôi biết tất cả bọn họ mà.”

“Đúng vậy, không phải ở đây, nhưng có thể là bất cứ người nào khác ,” Lyra nói, “hãy đi tìm chúng! Và chiếc xe tải màu trắng của chúng!”

Cả nhóm tản ra như bầy ong vỡ tổ. Một số thành viên tìm kiếm mới cũng nhập cuộc, và không lâu sau, khoảng ba mười đứa trẻ người Gypsy đã chạy từ đầu đến cuối bến tàu, chui ra chui vào các tàu ngựa, trèo lên các cần trục và cần cẩu tại bến tàu, nhảy qua các hàng rào vào khu bãi cỏ, lay lay lại hàng chục lần chiếc cầu treo cũ kỹ bắc qua mặt nước xanh, chạy thục mạng qua những con phố chật hẹp ở Jericho, giữa những ngôi nhà gạch bé nhỏ hoặc chạy vào Nhà nguyện lớn hình tháp vuông Chymist của Thánh Barnabas. Một nửa trong số chúng không biết chúng đang tìm kiếm cái gì, và dù chỉ là một trò bông đùa, nhưng những đứa trẻ thân thiết với Lyra nhất cảm thấy một cảm giác sợ hãi và e dè thật sự mỗi khi chúng nhìn thấy bóng một giáo sĩ trên một ngõ nhỏ hay trong sự âm u của Nhà nguyện: đó có phải là một tên Gà trống tây không?

Nhưng tất nhiên là không phải. Cuối cùng chẳng gặt hái được một thành công nào, với nỗi buồn về chuyện Billy thực sự đã mất tích treo trên đầu, sự hào hứng đã nhạt dần. Khi Lyra và Hia người bạn cùng Học viện rời khỏi Jericho vì đã gần đến giờ ăn tối, hrọ nhìn thấy những người Gypsy đang tụ tập với nhau trên bến tàu gần nơi tàu nhà Costa nhả neo. Mấy người phụ nữ đang khóc to, những người đàn ông giận dữ đứng với nhau thành từng nhóm, những con nhân tinh của họ đang bị kích động và vỗ cánh lo lắng hay gầm gừ trong bóng tối.

“Tớ đoán bọn Gà trống tây không dám đến đây đâu.” Lyra nói với Simon Parslow khi hai đứa bướuyc chân qua ngưỡng cửa lớn của trườngJordan.

“Không,” cậu nói một cách không chắc chắn, “nhưng tớ biết có một đứa bé bị mất tích ở Khu chợ.”

“Ai vậy?” Lyra hỏi. Cô biết hầu hết lũ trẻ ở Khu chợ, nhưng chưa từng nghe thấy chuyện này.

“Jessie Reynolds, nhà người thợ làm yên cương. Nó không ở đó vào giờ đóng cửa tàu ngày hôm qua, nó chỉ đi trước giờ> uống trà của ông bố một tẹo. Nó không quay lại và không ai nhìn thấy nó cả. Họ đã tìm kiếm khắp Khu chợ và cả những nơi khác nữa.”

“Mình chưa từng nghe nói về chuyện này?” Lyra nói với giọng phẫn nộ. Cô cho dây là một sai sót tệ hại của đám lâu la khi không nói cho cô biết mọi chuyện kịp thời.

“Ừ, mới ngày hôm qua thôi. Có thể bây giờ nó lại về rồi cũng nên.”

“Mình sẽ đi hỏi,” Lyra nói và quay người khỏi cánh cổng trường. Nhưng chưa ra khỏi cổng thì cô bị người khuân vác gọi lại.

“Cô đây rồi, Lyra! Tối nay cô không được đi đâu nữa đâu. Ông Hiệu trưởng có lệnh rồi!”

“Tại sao lại không?”

“Thì tôi đã nói với cô rồi, đó là lệnh của ông Hiệu trưởng. Ông ấy nói khi nào cô về thì phải ở trong trường luôn.”

“Thử bắt tôi xem.” Cô nói và lủi ra trước khi người đàn ông lớn tuổi kịp ra khỏi cánh cửa của mình.

Cô chạy qua những con đường hẹp và xuống những ngõ nhỏ nơi các xe tải đang dỡ hàng dùng cho chợ vải. Đang là giờ đóng cửa, chỉ còn vài chiếc xe tải ở đây, nhưng có một tốp thanh niên đứng hút thuốc và nói chuyện gần cửa chính đối diện với bức tường đá cao của Học viện Thánh Michael. Lyra biết một người trong số họ, một cậu con trai mười sáu tuổi cô rất ấn tượng vì cậu có thể phì nước bọt xa hơn tất cả những người cô từng nghe nói. Cô bước đến, kiên nhẫn đứng chờ đợi anh chú ý đến cô.

“Em cần gì nào?” Cuối cùng anh nói.

“Có phải Jessie Reynolds đã biến mất không?”

“Đúng, sao emi hỏi vậy?”

“Vì có một đứa trẻ người Gypsy mất tích ngay hôm nay, tất cả chỉ có thế.”

“Họ luôn luôn biến mất, những người Gypsy ấy. Cứ sau mỗi hội chợ ngựa là họ lại biến mất.”

“Như những con ngựa vậy.” Một trong những người bạn của anh nói.

“Chuyện này khác,” Lyra nói. “Lần này là một đứa bé. Chúng em đã tìm kiếaim nó cả buổi chiều nay và những đứa trẻ khác nói bọn Gà trống tây đã bắt nó.”

“Bọn nào cơ?”

“Bọn Gà trống tây,” cô nói, “các anh chưa nghe về bọn Gà trống tây bao giờ sao?”

Đây cũng là tim mới đói với những cậu con trai khác, họ không bình luận những câu thô lỗ nữa. Họ chăm chú lắng nghe những lời Lyra nói.

“Bọn Gà trống tây à.” Dick, một người quen của Lyra nói. “Thật ngớ ngẩn, bọn người Gypsy đó, họ luôn có những ý tưởng ngớ ngẩn.”

“Họ nói có bọn Gà trống tây ở Banbury hai tuần trước,” Lyra khăng khăng, “và năm đứa trẻ đã bị bắt cóc. Có thể bây giờ chúng đã đếnOxfordđể bắt những đứa trẻ của chúng ta. Chắc chắn chúng đã bắt Jessie.”

“Cũng có một vụ trẻ con mất tích ở đường Cowley,” một trong những cậu con trai còn lại nói. “Tôi nhớ ra rồi. Dì tôi đến đây hôm qua vì bà ấy bán cá và khoai tây rán, và bà ấy nghe được chuyện này… Mấy cậu bé, đó là… Tuy thế, tớ không biết về bọn Gà trống tây. Chúng không có thật, bọn Gà trống tây ấy. Chỉ là thêu dệt thôi.”

“Chúng có thực!” Lyra nói, “những người Gypsy đã nhìn thấy chúng. Họ đoán là chúng ăn thịt những đứa trẻ con bắt được, và…”

Cô ngừng lại giữa câu, vì có điều gì đó đột ngột nảy ra trong đầu cô. Trong suốt buổi tối kỳ lạ trong Phòng nghỉ. Ngài Asriel đã cho mọi người nhìn thấy qua đèn chiếu một người đàn ông cầm một cây gậy với những dòng ánh sáng đang chảy vào đó. Có một chiếc bóng nhỏ bên cạnh ông ta, ít ánh sáng chiếu tới hơn. Ông nói đó là một đứa trẻ, rồi người nào đó đã hỏi nó có phải đứa trẻ bị chia tách không. Chú cô nói không phải, đó chỉ là một cái chấm. Lyra còn nhớ rằng bị chia tách có nghĩa là “bị cắt”.

Và rồi có điều gì đó nhói lên trong tim cô: Roger đang ở đâu?

Cô không trông thấy cậu từ buổi sáng…

Đột nhiên cô cảm thấy lo sợ. Pantalaimon, trong hình dáng một con sư tử nhỏ, nhảy ra và gầm gừ. Cô chào tạm biệt các anh bạn và lặng lẽ quay trở lại phố Tuck và chạy nhanh về cồng trường Jordan, nhảy ra cánh cửa trước con nhân tinh giờ đã biến thành con báo Gêpa.

Người khuân vác tỏ ra nhân đạo.

“Tôi đã gọi điện nói với ông Hiệu trưởng rồi, ông ấy không hài lòng chút nào. Tôi sẽ chẳng muốn lâm vào tình cảnh của cô đâu, nếu không phải vì tiền.”

“Roger đâu?” Cô hỏi.

“Tôi không trông thấy nó đâu cả. Cậu ta cũng bị phạt vì chuyện này cho mà xem. À khi ông Cawson bắt được cậu ta…”

Lyra chạy đến khu nhà bếp và lao vào cái đám hối hả nóng nôi, chói tai và đầy hơi nước đó.

“Roger đâu rồi?” Cô hét to.

“Ra khỏi đây đi, Lyra! Chúng tôi đang bận lắm!”

“Nhưng cậu ấy đâu rồi? Cậu ấy đã về hay chưa?”in

Dường như chẳng ai thèm bận tâm.

“Nhưng cậu ấy đang ở đâu? Bà phải biết chứ!”

Lyra hét lên với người đầu bếp, bà ta giả điếc và không quan tâm gì đến cơn thịnh nộ của cô.

“Chúng đã bắt cậu ấy rồi! Bọn Gà trống tây ấy, đáng lẽ người ta phải bắt và giết chúng ngay! Tôi ghét các người. Các người chẳng quan tâm gì đến Roger cả…”

“Lyra, >ều quan tâm đến Roger…”

“Các người không quan tâm, nếu không tất cả các người đã ngừng công việc và đi tìm cậu ấy ngay bây giờ rồi! Tôi ghét các người!”

“Có thể có hàng tá lý do Roger không có mặt tại đây. Hãy nghe những điều đúng đắn. Chúng tôi phải chuẩn bị bữa tối và phục vụ trong gần một tiếng nữa; ông Hiệu trưởng mời khách trong Phòng riêng, và ông ấy sẽ ăn ở đấy. Như thế có nghĩa là Đầu bếp phải phụ trách đưa thức ăn đến đó thật nhanh để không bị nguội. Dù có điều gì xảy ra, Lyra, mọi chuyện vẫn phải được thực hiện. Tôi chắc chắn Roger sẽ có mặt ở đây…”

Lyra quay đi và chạy khỏi Nhà bếp, giật mạnh đống khăn trải bàn và không thèm quan tâm đến tiếng hét bực bội của đám người trong Nhà bếp. Cô lao xuống cầu thang và chạy qua Sân, giữa Tháp Chapel và Palmer, vào Sân Yaxley, nơi có những tòa nhà cổ kính nhất của Học viện.

Pantalaimon hối hả chạy theo cô trong hình con báo Gêpa thu nhỏ, trèo lên các bậc thang cho đến tận bậc trên cùng, nơi có phòng ngủ của Lyra. Lyra bật tung cửa, kéo chiếc ghế khập khiễng của mình đến cửa sổ, mở tung hai cánh cửa và bò ra ngoài. Có một máng nước bằng đá rộng khoảng nửa mét ngay phía dưới bậu cửa, khi đã đứng được trên đó, cô quay người và trèo lên các viên ngói thô ráp cho đến khi đứng trên đỉnh mái nhà. Ở đây cô hét lên thật to. Pantalaimon, thường biến thành một con chim mỗi khi ở trên mái nhà, bay vòng quanh cô và giả tiếng quạ kêu.

Bầu trời ban đêm tràn ngập đào, mơ, kem: những đám mây nhẹ như kem trên một bầu trời giống như quả cam khổng lồ. Những ngọn tháp và mái vòm của Oxford đứng xung quanh họ. Những khu rừng của Château - Vert và White Ham mọc ở cả hai bên bờ đông và tây. Có tiếng quạ kêu đâu đó, những chiếc chuông đang được gióng lên; từ phía Oxpens, những tiếng động cơ khí gas vang lên báo hiệu khí cầu đưa thư của Hoàng gia tới London bắt đầu khởi hành. Lyra nhìn nó bay đi qua những mái vòm của nhà thờ Thánh Michael, đầu tiên là to như đầu ngón tay út rồi nhanh chóng bé dần đến khi chỉ là một chấm nhỏ trên bầu trời long lanh như ngọc trai.

Cô quay lại và nhìn xuống chiếc sân tràn đầy bóng tối, nơi những bóng áo choàng đen của các độc giả đã bắt đầu tụm năm tụm ba. Các con nhân tinh của họ đi thong dong, bay bên cạnh hay lặng lẽ đậu trên vai chủ. Ánh đèn thắp sáng trong Sảnh. Cô có thể nhìn thấy những khung cửa sổ khung kính thép dần lấp lánh khi một người Gypsy đi thắp đèn dầu ở từng bàn. Tiếng chuông dành cho người Quản lý bắt đầu rung, bào rằng còn nửa tiếng đồng hồ nữa là đến bữa tối.

Đây là thế giới của cô. Cô muốn giữ nó nguyên như vậy mãi mãi, nhưng nó đang thay đổi quanh cô, vì có vài người đang đánh cắp trẻ con. Cô ngồi trên mái nhà, hai tay ôm má.

“Tốt hơn hết là chúng ta phải cứu cậu ấy, Pantalaimon ạ,” cô nói.

Nó trả lời từ trong ống khói với giọng của một con quạ.

“Sẽ rất nguy hiểm đấy.” Nó nói.

“Tất nhiên rồi! Mình biết điều đó.”

“Hãy nhớ lại họ đã nói gì trong Phòng nghỉ.”

“Gì vậy?”

“Điều gì đó về một đứa trẻ ở Bắc cực. Đứa trẻ không bị bắt Bụi.”

“Họ nói đó là một đứa trẻ nguyên vẹn… Thế thì sao?”

“Như thế có thể là điều họ sẽ làm với Roger và những đứa trẻ người Gypsy khác.”

“Làm gì?”

“Ừ, thế nguyên vẹn có nghĩa là gì?”

“Không biết. Chúng cắt họ ra làm đôi, có thể là như vậy. Mình đoán là chúng bắt họ làm nô lệ. Như thế có tác dụng hơn. Có thể ở đó có các mỏ than. Những mỏ uranium phục vụ việc chế tạo tàu nguyên tử. Mình cá là như vậy. Và nếu họ cho những người đã lớn xuống hầm, có thể họ sẽ chết, vì thế thay vào đó họ dùng trẻ con cho rẻ. Đó là điều họ làm với cậu ấy.”

“Mình nghĩ…”

Nhưng điều Pantalaimon nghĩ phải chờ đợi chưa được nói ra, vì có ai đó đang gọi to bên dưới.

“Lyra! Lyra! Cô vào trong ngay lập tức!”

Có tiếng đập vào khung cửa sổ. Lyra quen giọng nói và sự nóng nảy đó: đó là bà Lonslale, Quản gia trông nom việc giặt giũ. Không chỗ trốn nào có thể qua mắt bà.

Với khuôn mặt cau có, Lyra trượt khỏi mái nhà vào ống máng, rồi từ đó lại treo qua cửa sổ. Bà Lonslale đang cho nước vào một cái chảo đựng khoai tây nhỏ cùng tiếng quai búa nện vào những ống nước.

“Đã không biết bao nhiêu lần cô được nhắc nhở về chuyện trèo lên đó… Nhìn cô mà xem! Xem chiếc váy của cô kìa—bẩn thỉu quá đi mất! Cởi ra ngay lập tức và tự giặt đi trong khi tôi tìm xem có thứ gì tươm tất chưa bị rách hay không. Sao cô không thể giữ cho mình gọn gàng và sạch sẽ nhỉ… “

Lyra quá tự ái để hỏi tại sao cô phải tự giặt và mặc quần áo, và chẳng có người trưởng thành nào đưa ra những lý do về những ý thích của mình. Cô kéo chiếc váy qua đầu và vứt vào chiếc chậu nhỏ rồi bắt đầu giặt một cách chán nản trong khi Pantalaimon, giờ là một chú chim hoàng yến, nhảy từng bước một đến gần con nhân tinh của bà Lonslale, một con chó săn lạnh lung, cố gắng chọc giận nó nhưng vô ích.

“Nhìn chiếc tủ quần áo của cô này! Hàng tuần nay cô chẳng treo cái gì lên mắc cả! Nhìn những nếp nhăn trên chiếc…”

Nhìn cái này, nhìn cái kia… Lyra chẳng muốn nhìn gì cả. Cô nhắm mắt lại khi lau mặt bằng chiếc khăn nhỏ.

“Cô phải mặc nguyên như thế này vậy. Chẳng còn đủ thời gian đề là nữa. Cầu chúa phù hộ cô bé, đầu gối cô kìa, nhìn xem chúng…”

“Chẳng muốn nhìn gì hết.” Lyra thì thầm.

Bà Lonslale đập vào chn cô. “Rửa đi,” bà ta nói với vẻ hung tợn, “cô phải rửa sạch hết các vết bẩn. “

“Tại sao?” cuối cùng Lyra cũng lên tiếng. “Tôi chẳng bao giờ thường xuyên lau rửa đầu gối cả. Sẽ chẳng có ai nhìn vào đầu gối tôi đâu. Tôi phải làm tất cả những chuyện này để làm gì? Bà cũng chẳng quan tâm gì đến Roger, chẳng hơn gì bà Đầu bếp. Tôi là người duy nhất…”

Một cú đập nữa, vào chân kia.

“Thật là ngớ ngẩn quá đi mất. Tôi là một người nhà Parslow, giống như cha của Roger. Nó là cháu trai thứ hai của tôi. Tôi cá là cô không biết điều này, vì tôi cá là cô chẳng bao giờ hỏi cả, Tiểu thư Lyra ạ. Tôi cá là chuyện đó chẳng bao giờ xảy ra với cô. Sao cô không trách móc tôi vì không quan tâm chăm sóc đến thằng bé. Có Chúa chứng giám, thậm chí tôi còn chăm sóc cho cô, còn cô chỉ luôn vô lý và chẳng biết cám ơn tôi gì cả.”

Bà chộp lấy mẩu vải chùi bằng flanen và cọ đầu gối Lyra mạnh đến nỗi cô cảm thấy da mình đỏ lên và đau đớn, nhưng như thế mới lau sạch các vết bẩn.

“Lý do cho chuyện này là vì cô sắp phải ăn tối với ông Hiệu trưởng và khách của ông ấy. Tôi mong rằng cô biết cư xử thế nào cho phải phép. Hãy nói khi người ta nói với cô, hãy yên lặng và lịch sự, mỉm cười dịu dàng và đừng có bao giờ trả lời là ‘không biết’ khi ai đó hỏi cô một câu hỏi nào đó.”

Bà lồng chiếc váy đẹp nhất vào thân hình gầy giơ xương của Lyra, kéo chúng thẳng ra, lấy một dải ruy băng đỏ trong mớ hỗn độn trong ngăn kéo và chải mái tóc của Lyra thật mạnh.

“Nếu họ cho tôi biết sớm hơn, tôi có thể gội đầu cẩn thận hơn cho cô. Ôi, thế này thì tệ quá. Nếu họ không nhìn quá gần thì còn đỡ… Đây, giờ thì đứng thẳng người lên. Đôi giày da sơn đẹp nhất đâu rồi?”

Năm phút sau, Lyra đã gõ cửa Phòng riêng của ông Hiệu trưởng, căn nhà rộng và hơi ảm đạm ở cửa vào Sân Yaxley và quay lưng ra Vườn Thư viện. Pantalaimon, giờ là một con chồn ecmin lịch lãm, cọ mình vào lưng cô. Cánh cửa được mở bởi Cousins, người hầu nam của ông Hiệu trưở bng và là kẻ thù truyền kiếp của Lyra, nhưng cả hai đều biết đây là lúc cần ngưng chiến.

“Bà Lonslale nói tôi phải đến đây.” Lyra nói.

“Đúng vậy.” Cousins nói, và bước sang bên, “ông Hiệu trưởng đang trong phòng vẽ.”

Anh ta dẫn cô vào một căn phòng lớn nhìn ra Vườn thư viện. Những ánh nắng cuối cùng của buổi chiều chiếu vào phòng, qua khoảng trống giữa Thư viện và Tháp Palmer, chiếu sáng những bức tranh nặng nề và đồ đạc buồn bã ông Hiệu trưởng sưu tập được. Nó cũng chiếu sáng những vị khách, và Lyra hiểu ra vì sao họ không ăn tối tại Sảnh: ba trong số những vị khách là phụ nữ.

“À, Lyra,” ông Hiệu trưởng nói. “Ta rất vui là cháu có thể tham gia. Cousins, anh có thể tìm cho loại đồ uống nhẹ nào đó được không? Bá tước phu nhân Hannah, tôi nghĩ là bà từng gặp Lyra, cháu gái ngài Asriel, bà biết ông ấy đấy.”ܠ

Bá tước phu nhân Hannah Relf là một trong những người thuộc Học Viện là phụ nữ, một quý bà nhiều tuổi với mái tóc màu xám, có con nhân tinh là khỉ đuôi sóc. Lyra bắt tay lịch sự hết mức cô có thể, sau đó cô được giới thiệu với những người khách khác, giống như Bá tước phu nhân Hannah, là các Học giả từ các Học viện khác, một cách khá nhạt nhẽo. Rồi ông Hiệu trưởng quay sang người khách cuối cùng.

“Bà Coulter,” ông nói, “đây là Lyra củsa chúng tôi. Lyra, đến chào bà Coulter đi.”

“Chào Lyra.” Bà Coulter nói.

Bà Coulter xinh đẹp và còn trẻ. Mái tóc đen óng ả của bà viền quanh hai má và nhân tinh của bà là một con khỉ vàng.

Chương 4: Chiếc Chân-kế

“Ta hi vọng cháu sẽ ngồi cạnh ta suốt bữa tối,” bà Coulter nói, nhường chỗ cho Lyra trên ghế sofa. “Ta không quen với các phép tắc trong nhà ông Hiệu trưởng. Cháu sẽ hướng dẫn cho ta phải dùng dao và dĩa nào.”

“Bà có phải một Học giả nữ không ạ?” Lyra hỏi. Cô nghĩ về các nữ Học giả với thái độ coi thường rất đặc trưng ở Jordan: có những người như thế, nhưng thật tội nghiệp, họ chẳng bao giờ có thể quan trọng hơn những con thú mặc quần áo và diễn kịch trên sân khấu. Bà Coulter, ngược lại, không giống bất cứ nữ Học giả nào Lyra từng gặp, và tất nhiên, cũng không giống hai quý bà khách nghiêm trang còn lại. Lyra đặt câu hỏi với tâm trạng mong chờ câu trả lời sẽ là không, thực ra là vì ở bà tỏa ra một sức quyến rũ huyền bí đến nỗi Lyra bị mê hoặc. Cô khó có thể rời mắt khỏi bà.

“Không thực sự như vậy.” Bà Coulter nói. “Ta là một thành viên trong Học viện của Bá tước phu nhân Hannah, nhưng phần lớn công việc của ta cần thực hiện là ở bên ngoài Oxford… Hãy nói cho ta nghe về mình đi, Lyra. Cháu luôn sống ở Học viện Jordan phải không?“ nh

Trong vòng năm phút, Lyra đã kể cho bà nghe tất cả mọi thứ về cuộc sống nửa hoang dã của mình: những cuộc hành trình yêu thích trên mái nhà, cuộc chiến ở Mỏ đất sét, cái lần cô và Roger bắt và định hướng một con quạ, dự định bắt giữ một chiếc thuyền nhỏ của đám người Gypsy và chèo đến Abingdon, còn nhiều chuyện khác nữa. Cô thậm chí nói với bà (khi đã nhìn quanh và hạ thấp giọng) về trò đùa cô và Roger đã làm với những chiếc xương sọ dưới hầm mộ.

“Và những con ma đó đã đến, đúng như vậy đấy, chúng đến bên cạnh giường ngủ của cháu trong tình trạng không đầu. Chúng không thể nói mà chỉ gây ra những tiếng líu ríu, nhưng cháu biết chính xác điều chúng muốn. Vì thế ngày hôm sau cháu đi xuống và đặt lại vị trí các đồng xu. Nếu không có lẽ chúng đã git cháu rồi.“

“Cháu không sợ sao?” Bà Coulter nói với giọng khâm phục. Lúc đó họ đang ngòi trên bàn ăn tối, và như bà Coulter đã mong muốn, họ ngồi bên cạnh nhau. Lyra lãng quên hẳn ông Quản lý thư viện ngồi bên cạnh và chỉ nói chuyện với bà Coulter suốt bữa ăn.

Khi các quý bà rút lui để uống cà phê, Bá tước phu nhân Hannah hỏi, “Lyra, nói cho ta biết, họ sắp cho cháu đi học đúng không?”

Lyra nhìn lại với cái nhìn trống rỗng, “Cháu không… cháu không biết.” Cô nói. “Có lẽ là không.” Cô nói thêm cho an toàn. “Cháu không muốn gây rắc rối cho họ,” cô tiếp tục với giọng lễ độ, “hay tốn kém, có lẽ sẽ tốt hơn nếu cháu chỉ tiếp tục ở trong Jordan và được các Học giả dạy học khi họ có một chút thời gian rảnh rỗi. Khi họ đã ở đây, có thể là họ đang rảnh rỗi.”

“Và Ngài Asriel chú của cháu có dự định nào cho cháu chưa?“ Quý bà là Học giả tại Học viện hỏi.

“Có” Lyra trả lời, “Cháu mong là như vậy. Nhưng không phải là trường học. Chú ấy sẽ đưa cháu lên miền Bắc vào lần sau khi chú ấy đi.”

“Ta nhớ ông ấy có nói với ta về chuyện này.” Bà Coulter nói.

Lyra chớp mắt. Hai nữ Học viện nhẹ nhàng đứng dậy, dù nhân tinh của họ, không biết là nhanh nhẹn hay lù dù, chẳng làm gì ngoài việc nhìn nhau.

“Ta gặp ông ấy tại Viện Bắc cực Hoàng gia.” Bà Coulter tiếp tục. “Thực ra thì ta đến đây hôm nay một phần vì cuộc gặp đó.”

“Bà cũng là một nhà thám hiểm ạ?” Lyra hỏi.

“Một kiểu như vậy. Ta đã đến phương Bắc rất nhiều lần. Năm ngoái ta đã ở Greenland ba tháng để quan sát Hiện tượng cực quang.”

Chính là nó; không còn gi và không còn ai tồn tại với Lyra lúc này. Cô nhìn bà Coulter với sự sợ hãi, cô lắng nghe mê say và yên lặng nghe những câu chuyện của bà về những căn lều tuyết của người Eskimo, những chuyến săn hải cẩu hay đàm phán với các phù thủy ở Lapland. Hai nữ Học giả chẳng có gì thú vị như vậy để kể, họ ngồi im lặng cho đến khi những người đàn ông đi vào.

Sau đó, khi khách khứa sắp ra về, ông Hiệu trưởng nói, “Lyra, cháu h ở lại. Ta muốn nói chuyện vói cháu một hai phút. Hãy đến phòng làm việc của ta, cô bé; hãy ngồi đó và đợi ta.”

Bối rối, mệt mỏi và hồ hởi, Lyra làm như lời ông Hiệu trưởng. Cousins, người hầu nam đưa cô vào, và để cửa mở một cách chủ tâm để anh ta có thể thấy cô đang làm gì từ đại Sảnh, nơi anh ta đang giúp mọi người khoác áo choàng. Lyra nhìn bà Coulter, nhưng bà không nhìn thấy cô, rồi ông Hiệu trưởng đi vào phòng đọc sách và đóng cửa lại.

Ông ngồi nặng nề trên chiếc ghế bành gần lò sưởi. Con nhân tinh của ông nhảy lên ngồi bên cạnh đầu ông, đôi mắt hùm hụp của ông nhìn xoáy vào Lyra. Chiếc đèn rít lên khe khẽ khi ông Hiệu trưởng nói:

“Nào, Lyra cháu đã nói chuyện với bà Coulter, cháu có thích thú khi nghe những gì bà ấy nói không? “

“Có ạ!”

“Bà ấy là một phụ nữ xuất sắc.” g

“Bà ấy thật tuyệt vời. Bà ấy là một người tuyệt vời nhất cháu từng gặp.”

Ông Hiệu trưởng thở dài. Trong bộ veston và cà vạt đen, trông ông giống con nhân tinh của mình hơn bất cứ ai, và đột nhiên Lyra nghĩ rằng một ngày nào đó, sớm thôi, ông sẽ được mai táng trong hầm mộ dưới Nhà nguyện, một nghệ nhân sẽ khắc hình con nhân tinh của ông trên một tấm đồng để đặ vào quan tài và tên nó sẽ được đặt bên cạnh ông.

“Đáng ra ta nên dành thời gian nói chuyện với cháu sớm hơn, Lyra ạ.” Ông nói sau một lúc im lặng. “Ta đã định làm thế vào bất cứ lúc nào thuận tiện nhưng có vẻ thời điểm đó lâu hơn ta tưởng. Cháu đã an toàn ở đây, tại Jordan này, cháu yêu ạ. Ta nghĩ là cháu đã vui vẻ. Cháu không cảm thấy dễ dàng để nghe lời chúng ta, nhưng chúng ta rất yêu quý cháu, cháu chưa bao giờ là một đứa trẻ hư. Trong tính cách của cháu có rất nhiều nét trong sáng và đáng yêu, và cũng rất quyết liệt nữa. Cháu sẽ cần tất cả những điều đó. Mọi chuyện vẫn diễn ra trong cái thế giới rộng lớn mà ta muốn bảo vệ cháu khỏi nó, bằng cách giữ cháu tại Jordan này, ý ta là như vậy. Nhưng điều đó không còn được nữa rồi.”

Cô ghé mắt nhìn. Phải chăng họ sắp gửi cô đi đâu đó.

“Cháu biết là đến một lúc nào đó, cháu sẽ phải đến trường học,” ông Hiệu trưởng tiếp tục. “Ở đây chúng ta đã dạy cháu được một số điều, nhưng không được phù hợp và hệ thống lắm. Kiến thức của chúng ta thuộc một thể loại khác. Cháu cần phải biết những điều mà những ông già không thể dạy cháu, đặc biệt là ở độ tuổi này của cháu. Cháu cần phải nhận thức được điều này. Cháu cũng không phải con cái những người giúp việc, chúng ta không thể để cháu cho một gia đình bình thường nuôi nấng. Họ có thể chăm sóc cháu theo một cách nào đó, nhưng những điều cháu cần không phải là như vậy. Cháu biết không, những gì ta đang nói với cháu, Lyra ạ, là phần đi thuộc về Học viện Jordan của cháu sắp kết thúc.”

“Không,” cô nói, “không cháu không muốn rời khỏi Jordan. Cháu muốn ở đây. Cháu muốn ở đây mãi mãi.”

“Khi cháu còn nhỏ, cháu luôn nghĩ rằng mọi chuyện sẽ kéo dài mãi mãi. Thật không may, chuyện không như vậy. Lyra, sẽ không lâu nữa, nhiều nhất là một hai năm nữa, trước khi cháu trở thành một phụ nữa trẻ, và không còn là một đứa trẻ nữa. Một quý bà trẻ tuổi. Và hãy tin ta đi, khi đó cháu sẽ nhận thấy Học viện Jordan không hề là một nơi dễ sống.”

“Nhưng đây là nhà của cháu!”

“Nó từng là nhà của cháu. Nhưng giờ cháu cần điều gì đó khác nữa.”

“Không phải trường học. Cháu sẽ không đến trường đâu.”

“Cháu cần những người bạn gái. Cháu cần sự dẫn dắt của những người phụ nữ.”

Từ “phụ nữ” chỉ gợi cho Lyra về các nữ Học giả, và cô nhăn mặt khó chịu. Bị tách khỏi sự vĩ đại của Jordan, sự huy hoàng và danh tiếng của nó, đến một căn nhà trọ xây bằng gạch nhếch nhác của một trường học tại đầu phía bắc của Oxford với những nữ Học giả ăn mặc lỗi thời, người ám đầy mùi bắp cải và băng phiến như hai vị khách trong bữa tối.

Ông Hiệu trưởng nhận thấy thái độ của cô, và nhìn thấy đôi mắt của Pantalaimon trong hình dạng một con chồn hôi đang ánh lên tia đỏ.

Ông nói, “Nhưng nếu đó là bà Coulter thì sao?”

Ngay lập tức bộ lông của Pantalaimon chuyền từ những sợi to màu nâu thành những sợi trắng mịn như tơ. Lyra mở mắt.

“Thật chứ ạ?”

“Đó là vì sự quen biết giữa bà ấy và Ngài Asriel, chú của cháu, tất nhiên rất quan tâm đến các phúc lợi cháu được hưởng. Và khi bà Coulter được nghe về cháu, ngay lập tức bà ấy đề nghị được giúp đỡ. Hơn nữa, không có ông Coulter nào cả; bà ấy là một góa phụ, chồng bà ấy qua đời rất đáng tiếc trong một tai nạn vài năm trước. Cháu nên biết trước như vậy khi định hỏi gì.”

Lyra háo hức gật đầu và nói, “Bà ấy thực sự sẽ… chăm sóc cháu?”

“Cháu có thích thế không?”

“Có ạ!”

Cô khó mà ngồi yên được. Ông Hiệu trưởng mỉm cười. Ông ít cười đến mức đó là một điều không thuộc loại thói quen, và bất cứ người nào nhìn thấy (lúc đó Lyra không để ý) sẽ nói đó là một dáng điệu buồn bã.

“Được, vậy tốt hơn chúng ta sẽ mời bà ấy đến để nói chuyện,” ông nói.

Ông rời khỏi phòng, và khi ông trở lại sau đó một phút cùng bà Coulter, Lyra đang đứng, quá phấn khích để có thể ngồi yên. Bà Coulter mỉm cười, con nhân tinh của bà nhe hàm răng trắng một cách ranh mãnh. Khi đi đến chỗ chiếc ghế bành, bà Coulter chạm nhẹ tay vào tóc Lyra, và Lyra cảm thấy có một luồng hơi ấm truyền vào cơ thể mình, cô đỏ mặt.

Khi ông Hiệu trưởng rót cho bà chút rượu Brantwin, bà Coulter nói, “Vậy là, Lyra, ta sắp có một người trợ lý đúng không?”

“Vâng.” Lyra trả lời ngắn gọn. Cô muốn trả lời “Vâng” với mọi câu hỏi của bà.

“Có rất nhiều việc ta cần được trợ giúp.”

“Cháu có thể làm!”

“Và có thể chúng ta sẽ phải đi đây đó.”

“Cháu không ngại. Cháu có thể đi bất cứ đâu.”

“Nhưng như thế có thể rất nguy hiểm. Có thể chúng ta sẽ phải lên phương Bắc.”

Lyra không nói gì. Rồi cô nghe tiếng mình hỏi, “Sớm chứ ạ?”

Bà Coulter bật cười, bà nói, “Cũng có thể. Nhưng cháu biết là cháu sẽ phải làm việc rất vấ‴ vả. Cháu sẽ phải học toán, hàng hải và địa lý bầu trời.”

“Bà sẽ dạy cháu chứ?”

“Đúng, cháu sẽ phải giúp ta bằng cách viết các ghi chú và xếp các giấy tờ của ta theo thứ tự và làm rất nhiều những việc tính toán cơ bản khác nhau. Và vì chúng ta sẽ đến thăm một số người quan trọng, chúng ta sẽ tìm cho cháu mấy bộ quần áo thật đẹp. Có rất nhiều điều cần học, Lyra ạ.”

“Cháu không sợ. Cháu muốn học tất cả.”

“Ta chắc chắn cháu muốn học tất cả. Khi cháu quay trở lại Học viện Jordan, cháu sẽ là một nhà du hành nổi tiếng. Giờ thì chúng ta sẽ rời khỏi đây rất sớm vào buổi sáng, bằng khí cầu zeppelin chuyến bay buổi sáng, vì thế tốt hơn là cháu về phòng ngủ ngay đi. Ta sẽ gặp cháu vào bữa sáng. Chúc cháu ngủ ngon!”

“Chúc bà ngủ ngon,” Lyra nói, cố nhớ những phép tắc mình cần theo, quay ra cửa và nói “Chúc ông ngủ ngon, ông Hiệu trưởng.”

Ông Hiệu trưởng gật đầu “Về ngủ đi.”

“Và cảm ơn bà.” Lyra nói thêm với bà Coulter.

Cuối cùng, cô cũng ngủ, dù Pantalaimon không thể nằm yên cho đến khi co phải phát cho nó mấy cái, khi nó biến thành một con nhím vì tức giận. Ai đó lay cô dậy khi trời vẫn còn tối.

“Lyra,… suỵt,… đừng kêu to… dậ my đi cô bé.”

Đó là bà Lonsdale. Bà cầm trong tay cây nến, cúi lưng vã khẽ gọi, tay kia đỡ Lyra dậy.

“Nghe này, ông Hiệu trưởng muốn gặp cô trước khi cô cùng ăn sáng với bà Coulter. Dậy nhanh lên và chạy đến Nhà ông Hiệu trưởng ngay. Hãy vào vườn và đạp vào cửa sổ phòng làm việc. Cô hiểu không?”

Đã tỉnh hẳn và hoàn toàn bối rối, Lyra gật đầu rồi đút hai chân trần vào đôi giày bà Lonsdale đặt dưới đất.

“Không cần rửa mặt đâu—chuyện đó sẽ làm sau. Hãy đến đó và quay trở về ngay. Tôi sẽ bắt đầu gói ghém đồ đạc và chuẩn bị quần áo cho cô. Giờ thì nhanh lên.”

Khoảng sân tối vẫn tràn ngập không khí lạnh buốt của buổi đêm. Phía trên cao, những ngôi sao cuối cùng vẫn lấp lánh, nhưng ánh sáng phía đông đang dần lấn sang bầu trời phía trên đại Sảnh. Lyra chạy vào Vườn thư viện, và đứng một lúc trong sự tĩnh lặng bao la, nhìn lên tháp chuông xây bằng đá của Nhà thờ, những đỉnh vòm màu xanh ngọc trai, ngọn đèn sơn trắng trong Thư viện. Giờ thì cô sắp rời xa tất cả những cảnh tượng này, cô tự hỏi không biết rồi mình sẽ nhớ chúng đến mức nào.

Có gì đó lay động ở cửa sổ phòng làm việc và những tia sáng chiếu ra một lúc. Cô nhớ ra điều mình cần làm và đập vào cánh cửa kính. Nó gần như mở ra ngay lập tức.

“Cô bé ngoan, vào nhanh lên, chúng ta không có nhiều thời gian đâu.” Ông Hiệu trưởng nói, và kéo màn gió che cửa ngay sau khi cô bước vào. Ông vẫn mặc bộ đồ màu đen quen thuộc.

“Cuối cùng cháu sẽ vẫn đi chứ ạ” Lyra hỏi.

“Đúng vậy, ta không thể ngăn cản điều đó.” Ông Hiệu trưởng nói, Lyra lúc đó không chú ý sự kỳ lạ trong lời nói đó. “Lyra, ta sắp đưa cho cháu một thứ và cháu phải hứa sẽ giữ bí mật. Cháu có thể làm như vậy không?”

“Vâng.” Lyra nói.

Ông quay trở lại bàn làm việc, lấy ra từ ngăn kéo một gói nhỏ bọc vải nhung. Khi ông mở lớp vải, Lyra nhìn thấy một thứ giống một chiếc đồng hồ đeo tay lớn hoặc một chiế đồng hồ treo tường nhỏ: Một chiếc đĩa đồng và pha lê dày. Đó có thể là một chiếc la bàn hoặc kiểu như vậy.

“Nó là gì vậy?” Lyra hỏi.

“Đó là một chiếc Chân-kế. Nó là một trong sáu chiếc duy nhất được chế tạo, Lyra, ta cảnh báo cháu một lần nữa, hãy bí mật tuyệt đối chuyện này. Sẽ tốt hơn nếu bà Coulter không biết về nó. Chú của cháu…”

“Nhưng nó dùng để làm gì?”

“Nó nói cho cháu biết sự thực. Còn về chuyện làm thế nào để đọc được nó, cháu sẽ phải tự tìm hiểu. Giờ thì đi đi, trời bắt đầu sáng rồi. Hãy nhanh chóng quay về phòng ngủ trước khi có ai nhìn thấy cháu.”

Ông gói chiếc máy lại và giúi vào tay cô. Nó nặng đến đáng ngạc nhiên. Rồi ông giơ hai tay ôm lấy đầu cô và dịu dàng ôm cô một lúc. đ

Cô cố nhìn lên ông, và nói, “Ông định nói gì về chú Asriel?”

“Chú của cháu tặng nó cho Học viện Jordan mấy năm trước. Có thể ông ấy…”

Trước khi ông kịp nói hết câu, có một tiếng gõ nhẹ gấp gáp vào cánh cửa. Cô có thể cảm thấy đôi tay ông bất giác run rẩy.

“Nhanh lên, cô bé.” Ông khẽ nói. “Các quyền lực của thế giới này rất mạnh mẽ. Nhưng người đàn ông và đàn bà bị cuốưn đi một cách dữ dội hơn cháu có thể tưởng tượng, và nó quét tất cả chúng ta theo dòng chảy của nó. Hãy ra đi thuận buồm xuôi gió nhé, Lyra. Chúa phù hộ cho cháu. Chúa phù hộ cho cháu. Hãy làm theo những dự định của mình.”

“Cảm ơn ông Hiệu trưởng.” Cô nói một cách nghiêm trang.

Ôm chặt chiếc Chân-kế vào ngực, cô rời khỏi phòng làm việc bằng cửa đi ra vườn, ngoái lại một chút để nhìn con nhân tinh của ông Hiệu trưởng đang nhìn cô qua bậu cửa sổ. Bầu trời đã sáng rõ hơn, luồng không khí thoáng đãng đang khuấy động.

“Cô có thứ gì vậy?” bà Lonsdale hỏi, đóng sập chiếc vali nhỏ cũ sờn.

“Ông Hiệu trưởng đưa cho cháu. Có cho nó vào vali được không?”

“Quá muộn rồi. Giờ thì tôi không mở ra nữa đâu. Chắc sẽ phải cho nó vào túi áo khoác của cô thôi, dù nó là thứ gì. Hãy nhanh chóng xuống Phòng ăn. nhĐừng để họ phải đợi…”

Chỉ sau khi cô chào tạm biệt mấy người giúp việc có mặt tại đó, chào bà Lonsdale, cô mới nhớ ra Roger và lúc đó cô cảm thấy tội lỗi vì đã không nghĩ gì đến cậu từ khi gặp bà Coulter. Mọi chuyện xảy ra nhanh làm sao!

Giờ thì cô đang trên đường đến London: ngồi bên cửa sổ của khí cầu zeppelin, với chiếc móng vuốt nhỏ của chồn ecmin Pantalaimon biến thành cắm vào đùi, trong khi móng vuốt chân trước của nó đạp vào tấm kính nó đang nhìn qua. Bên kia, bà Coulter đang làm việc với một số giấy tờ, nhưng bà nhanh chóng gạt nó sang bên để hai người nói chuyện. Một cuộc nói chuyện tuyệt vời! Lyra cảm thấy say sưa, lần này thì không phải về phương Bắc mà là về London, những nhà hàng và phòng khiêu vũ, những buổi dạ hội tại các Đại sứ quán hay Lãnh sự quán, về mối quan hệ ngầm giữa Nhà trắng và Westminster. Lyra gần như bị cuốn hút với chuyện này hơn là sự thay đổi phong cảnh bên dưới khí cầu. Những điều bà Coulter nói dường như được đi kèm với hương thơm của sự trưởng thành, một thứ vừa phiền phức vừa cám dỗ: đó là hương vị của sự quyến rũ.

Khí cầu hạ xuống Falkeshall Gardens, họ đi thuytền qua sông rộng màu nâu và đến khu biệt thự rộng lớn trên đường đê nơi một người gác của chào đón bà Coulter và nháy mắt với Lyra—người rất có ấn tượng với anh.

Và tiếp đến là những dãy phòng…

Lyra chỉ có thề tròn mắt kinh ngạc.

Cô đã nhìn thấy rất nhiều thứ đẹp với số tuổi ít ỏi của mình, nhưng đó là vẻ đẹp của Học viện Jordan, vẻ đẹp của Oxford to lớn, lạnh lẽo và đậm chất nam tính. Tại học viện Jordan, hầu hết mọi thứ đều tráng lệ, nhưng không duyên dáng. Trong ngôi nhà của bà Coulter, thứ nào cũng nữ tính. Nơi đó tràn ngập ánh sáng, vì những ô cửa sổ rộng quay về hướng nam, các bức tường được bao phủ bởi giấy dán tường kẻ sọc vàng và trắng rất tinh tế. Những bức tranh đáng yêu có khung mạ vàng, một chiếc gương soi cổ, những chân đèn vui mắt đỡ lấy những chiếc đèn anbaric có chụp đèn xếp nếp, những tấm màn gió cũng xếp nếp, những vòng vải trên các ống cuộn màn gió, một tấm thảm họa tiết hình chiếc là màu xanh lá cây nhạt mềm mại, những chiếc hộp sứ bé nhỏ đáng yêu và những đồ sứ in hình những cô gái chăn cừu hay anh hề.

Bà Coulter mỉm cười trước sự sững sờ của cô.

“Đúng thế, Lyra,” bà nói, “tại đây có rất nhiều thứ chỉ để cho cháu! Hãy cởi áo khoác ra và ta sẽ đưa cháu đến phòng tắm. Cháu sẽ tắm rửa, rồi sau đó chúng ta ăn trưa chút gì đó, rồi đi mua sắm…”

Phòng tắm lại là một điều tuyệt diệu khác. Lyra đã quen với việc tắm rửa bằng xà phòng cứng màu vàng trong một chiếc chậu sứt, trong đó nước chảy nhỏ giọt từ các vòi nước chỉ hơi ấm, và thường là đầy rỉ sắt. Nhưng nước ở đây nóng ấm, xà phòng màu hoa hồng và tỏa hương thơm nhẹ nhàng, khăn tắm dày và mềm mại như mây. Và xung quanh tấm gương nhuộm màu có những bóng đèn anbaric nhỏ xíu màu hồng, vì thế khi Lyra nhìn vào cô có thể thấy một khuôn mặt rực sáng trông chẳng giống Lyra cô vẫn nhìn thấy chút nào.

Pantalaimon đang bắt chước hình dáng con nhân tinh của bà Coulter, bò quanh miệng chiếc chậu và nhăn mặt với cô. Cô đẩy nó vào chậu nước đầy xà phòng và đột nhiên nhớ tới chiếc Chân-kế trong túi chiếc áo khoác. Cô để chiếc áo trên một chiếc ghế trong phòng khác. Cô đã hứa với ông Hiệu trưởng là giữ bí mật không cho bà Coulter biết…

Ôi điều này thật khó hiểu. Bà Coulter thật tốt bụng và khéo léo, trong khi Lyra đã tận mắt chứng kiến ông Hiệu trưởng tìm cách đầu độc chú Asriel. Ai là người cô nghe lời hơn trong hai người này?

Cô hối hả lau khô người và nhanh chóng trở lại phòng khách, nơi chiếc áo khoác của cô vẫn còn nguyên chưa có ai động đến, tất nhiên là vậy.

“Sẵn sàng chưa?” Bà Coulter hỏi. “Ta nghĩ chúng ta nên đến ăn trưa tại Viện Bắc Cực Hoàng gia. Ta là một trong số rất ít các thành viên nữ, vì thế ta cũng nên sử dụng đặc quyền mình có.”

Hai mươi phút đi bộ đưa họ đến một tòa nhà lớn phía trước lát đá, trong đó họ ngồi trong phòng ăn rộng với những tấm khăn trải bàn trắng muốt, các đồi bạc sáng loáng trên bàn ăn và ăn món gan bò cái cùng thịt nguội.

“Gan bò rất bổ,” bà Coulter nói với cô “và gan hải cẩu cũng vậy, nhưng nếu chắn ăn uống ở Bắc cực cháu không được ăn gan gấu. Nó nhiều độc tố đến nỗi có thể giết chết cháu trong vài phút.”

Trong khi ăn, bà Coulter chỉ cho cô mấy thành viên khác đang ngồi ở các bàn bên.

“Cháu có nhìn thấy quý ông cao tuổi thắt cà vạt đỏ không? Đó là đại tá Carbone. Ông ấy đã thực hiện chuyến bay đầu tiên bằng khinh khí cầu đến Bắc Cực. Và người đàn ông cao ngồi gần cửa sổ vừa mới đứng dậy là Tiến sĩ Broken Arrow.”

“Ông ấy là người Skraeling phải không ạ?”

“Đúng vậy. Ông ấy là người đã chỉ ra các dòng đại dương trên Đại dương lớn phương Bắc…”

Lyra nhìn tất cả những người đó, những con người vĩ đại, với ánh mắt tò mò và kính sợ. Họ là các Học giả, không nghi ngờ gì nữa, nhưng họ cũng là những nhà thám hiểm. Tiến sĩ Broken Arrow chắc sẽ biết về gan gấu, cô nghi ngờ không biết ông Quản lý thư viện Học viện Jordan có biết điều này không.

Sau bữa trưa bà Coulter chỉ cho Lyra một vài trong số những di vật quý giá về Bắc cực trong Thư viện của Viện Bắc cực hoàng gia—cây lao móc đã giết chết con cá voi lớn Grimssdur, hòn đá có khắc một câu bằng ngôn ngữ không ai đọc được tìm thấy trong tay một nhà thám hiểm, Ngài Rukh, người bị chết cóng trong căn lều đơn độc của mình; một chiếc bật lửa được Thuyền trưởng Hudson dùng trong chuyến đi nổi tiếng của ông đến vùng đất của Van Tieren. Bà kể câu chuyện của từng di vật, và Lyra cảm thấy trái tim mình rung động vì khâm phục những người anh hùng vĩ đại, dũng cảm và xa lạ này.

Rồi sau đó họ đi mua sắm. Tất cả những điều trong cái ngày phi thường này là một trải nghiệm mới với Lyra, nhưng mua sắm là việc khiến cô choáng váng nhất. Bước vào một tòa nhà rộng mênh mông đầy những quần áo đẹp, nơi có những khách hàng mặc thử, nơi có thể nhìn mình trong các tấm gương… Và quần áo mới đẹp làm sao…Trước đây quần áo của Lyra do bà Lonsdale lo, phần nhiều trong số đó đã được cắt ngắn và sửa chữa từ quần áo cũ. Hiếm khi cô có thứ quần áo mới. Nếu có thì chúng được chọn lựa để mặc chứ không phải để ngắm. Cô chưa bao giờ lựa chọn thứ gì cho chính mình. Còn giờ đây bà Coulter đang gợi ý chiếc này, khen ngợi chiếc kia, trả tiền cho tất cả, và còn nhiều thứ khác nữa…

Khi họ đã mua sắm xong, Lyra thấy người nóng lên, mắt cô đỏ lên vì mệt. Bà Coulter yêu cầu phần lớn số quần áo được gói lại và chuyển về sau. Bà mang vài thứ theo người khi họ đi bộ về nhà.

Sau đó họ đi tắm, với bọt biển ướp hương thơm. Bà Coulter vào phòng tắm để gội đầu cho Lyra, bà không chải và lau tóc như bà Lonsdale thường làm, Bà thật nhẹ nhàng, Pantalaimon nhìn với vẻ rất ghen tị cho đến khi bà Coulter nhìn sang nó, và nó biết ý bà là gì và quay đi, chuyển ánh mắt khỏi những bí mật của phụ nữ một cách lịch sự như con khỉ vàng đang làm. Trước đây, chưa bao giờ nó phải quay mặt không được nhìn Lyra như thế.

Sau khi tắm xong là đồ uống ấm với sữa và thảo dược, cô mặc lên người chiếc váy ngủ vải flannel mới in hoa và viền ren vỏ sò, đôi tất chân bằng da cừu nhuộm xanh mềm mại. Giờ thì đã đến lúc đi ngủ.

Chiếôc giường mới êm làm sao! Một cây đèn anbaric trên mặt bàn đầu giường! Và căn buồng ngủ thật ấm áp với chiếc tủ búp phê nhỏ và một chiếc tủ quần áo, một chiếc tủ com mốt để những quần áo mới mua của cô, một tấm thảm trải từ phía tường bên này sang bên kia, những tấm màn gió đáng yêu in hình trăng, sao và các hành tinh! Lyra nằm trằn trọc, quá mệt đến mức khó có thể ngủ được, và quá say sưa để hỏi về bất cứ điều gì.

Khi bà Coulter đã chúc cô ngủ ngon với thái độ thật dịu dàng và đi ra, Pantalaimon kéo tóc cô. Cô xua nó đi, nhưng nó thì thầm “Thứ đó đâu rồi?”

Cô hiểu ngay lập tức ý nó muốn nói đến điều gì. Chiếc áo khoác cũ sờn của cô treo trong tủ quần áo, mấy phút sau, cô quay lại giường ngủ, ngồi bắt chéo chân dưới ánh đèn. Pantalaimon nhìn chăm chú trong khi cô mở lớp nhung đen và xem ông Hiệu trưởng đã đưa cho mình thứ gì.

“Ông ấy gọi nó là gì?” cô thì thầm.

“Một chiếc Chân-kế.”

Chẳng có lý do gì để hỏi cái tên đó có nghĩa gì. Nó nằm nặng trịch trên hai bàn tay cô, chiếc mặt pha lê phát ra những tia sáng yếu ớt, chiếc thân bằng đồng là một chiếc máy thiết kế tinh xảo. Trông nó rất giống chiếc đồ tng hồ, hay một chiếc la bàn vì có những chiếc kim quay xung quanh mặt đồng hồ, nhưng thay vì các vạch chỉ giờ của đồng hồ hay phương hướng của la bàn, có rất nhiều những bức tranh nhỏ, mỗi bức đều vẽ rất sắc nét, như thể vẽ trên ngà voi bằng bút vẽ lông chồn zibeline loại mảnh nhất. Cô quay chiếc mặt vòng quanh để xem được hết chúng. Có một mỏ neo; một chiếc đồng hồ cát, nổi lên trên là hình lên một chiếc đầu lâu, một con bò, một tổ ong…

Tất cả có ba mươi sáu bức tranh và cô thậm chí chẳng thể đoán nổi chúng có ý nghĩa gì.

“Nhìn này, có một bánh xe.” Pantalaimon nói “cậu thử đi xem có xoay được không?”

Thực ra, có ba chiếc bánh xe quay có khía, ba chiếc kim này ngắn quay xung quanh mặt đồng hồ với những tiếng lách tách rất êm tai. Bạn có thể xoay chúng để chỉ vào bất cứ một bức tranh nào và khi chúng đã nhảy vào vị trí đó, chỉ chính xác vào tâm điểm mỗi bức tranh thì nó sẽ không di chuyển nữa.

Kim thứ tư dài và mảnh hơn, và có vẻ được làm bằng thứ kim loại xỉn màu hơn ba chiếc còn lại. Lyra không thể điều khiển cho nó di chuyển, nó đung đưa ở vị trí nó muốn, như một chiếc kim la bàn, ngoại trừ việc nó không thể xoay.

“Kế có nghĩa là một loại máy đo,” Pantalaimon nói, “như cái nhiệt kế. Cha tuyên úy từng bảo bọn mình thế.”

“Ừ, nhưng vậy thì thường quá.” Cô thì thầm trả lời. “Theo cậu nó dùng để làm gì?”

Chẳng ai trong chúng đoán ra được. Lyra chuyển các kim từ bức tranh này sang bức tranh khác (thiên thần, mũ cát, cá heo, quả địa cầu, đàn luýt, la bàn, nến, tia sét, ngựa) và quan sát chiếc kim dài treo trên vị trí cố định của nó. Trí tò mò của cô bị kích thích và thích thú bởi sự phức tạp và tinh tế của nó. Pantalaimon biến thành một chú chuột để lại gần chiếc máy hơn, và đặt chiếc móng nhỏ xíu của nó lên gờ chiếc máy, đôi mắt trông như hai chiếc cúc ao màu đen sáng lên đầy tò mò khi nó nhìn chiếc kim di chuyển.

“Theo cậu thì ông Hiệu trưởng có ý gì về chú Asriel?” cô hỏi.

“Có lẽ chúng ta phải giữ nó an toàn và trả lại cho ông ấy.”

“Nhưng suýt nữa ông Hiệu trưởng đã đầu độc chú ấy! Có lẽ ngược lại thì đúng hơn. Có lẽ ông ấy định nói là đừng đưa cho chú ấy.”

“Không,” Pantalaimon nói, “chính bà ấy mới là người chúng ta phải giữ bí mật về nó…”

Có tiếng gõ cửa khe khẽ.

Có tiếng bà Coulter, “Lyra, nếu là cháu thì ta đã tắt đèn đi rồi. Cháu mệt rồ i, và sáng mai chúng ta rất bận rộn.”

Lyra giúi vội chiếc Chân-kế dưới tấm đệm.

“Vâng, thưa bà Coulter.” Cô nói.

“Giờ thì chúc cháu ngủ ngon”

“Chúc bà ngủ ngon.”

Cô tụt xuống giường và tắt đèn. Trước khi chìm vào giấc ngủ, cô giấu chiếc Chân-kế dưới gối, để đề phòng bất trắc.

Chương 5: Bữa tiệc Cocktail

Những ngày sau đó, Lyra đi khắp nơi cùng bà Coulter, cứ như thể cô là con nhân tinh của chính bà vậy. Bà Coulter quen biết rất nhiều người, và họ gặp gỡ ở tất cả mọi nơi. Vào buổi sáng, có thể có một cuộc họp của các nhà địa lý học tại Viện Bắc cực Hoàng gia, Lyra có thể ngồi bên cạnh lắng nghe; rồi sau đó có thể bà Coulter sẽ gặp một chính trị gia hay một mục sư để cùng ăn trưa trong những nhà hàng sang trọng. Họ rất quan tâm đến Lyra và gọi cho cô những món ăn đặc biệt, cô có thể học cách ăn măng tây hay nếm xem lá lách cừu non có mùi vị ra sao. Rồi sau đó, vào buổi chiều, có thể họ lại đi mua sắm, vì bà Coulter đang chuẩn bị cho chuyến thám hiểm của mình. Họ mua áo khoác lông thú, quần áo vài dầu và ủng không thấm nước, lại còn túi ngủ, dao và các dụng cụ để vẽ khiến trái tim Lyra bừng bừng hồi hộp. Sau đó, có thể họ đi uống trà và gặp mặt vài quý bà: nếu không xinh đẹp, nhã nhặn như bà Coulter thì cũng ăn mặc đẹp như vậy—những người phụ nữ rất khác các nam học giả hay các bà mẹ chủ nhân các con thuyền của đám người Gypsy, hay những người giúp việc trong các học viện, gần như họ là một giới khác vậy, một giới với những quyền lực đáng sợ và những phẩm chất như thanh lịch, duyên dáng và quyến rũ. Vào những dịp như vậy, Lyra được ăn mặc đẹp. Các quý bà rất chiều chuộng cô và kéo cô vào câu chuyện lịch thiệp nhẹ nhàng của họ, những câu chuyện toàn về con người: nghệ sĩ này, chính trị gia kia hay những người tình của họ.

Đến tối, bà Coulter có thể đưa Lyra đến rạp hát. Tại đây họ lại gặp những con người đầy lôi cuốn để cùng nói chuyện và ngưỡng mộ, vì dường như bà Coulter quen tất cả những người quan trọng ở London.

Vào những khoảng thời gian trống giữa tất cả những hoạt động đó, bà Coulter dạy cô những kiến thức sơ đẳng về vật lý học và toán học. Kiến thức của Lyra bị hổng một khoảng lớn trong lĩnh vực này, như thể chiếc bản đồ thế giới bị chuột gặm một miếng to, vì tại Jordan họ dạy cô cách quãng và rời rạc. Một học giả tập sự có thể được giao trách nhiệm bắt cô về và dạy cô học theo một cách nào đó. Các bài học tiếp diễn trong buồn chán khoảng một tuần hoặc hơn cho đến khi cô “quên” không đến học, và Học giả đó được giải thoát. Hay nếu không thế thì ng thì ười Học giả cũng quên mất cần phải dạy cô nội dung gì, và lên lớp cho cô những bài giảng dài bất tận về chuyên ngành ông đang nghiên cứu, dù đó là chuyên ngành gì. Không có gì đáng nghi ngờ về chuyện kiến thức cô học được rất chắp vá. Cô biết về nguyên tử và hạt cơ bản, bốn lực nền tảng và những thứ khác của thần học thực nghiệm nhưng chẳng biết chút gì về hệ mặt trời. Thế nên, khi bà Coulter nhận ra việc này và giải thích làm thế nào trái đất và năm hành tinh khác quay xung quanh mặt trời, Lyra đã cười ngặt nghẽo.

Tuy nhiên, cô rất giỏi trong việc thể hiện mình cũng biết được điều gì đó, và khi bà Coulter đang giảng giải cho cô về các điện tử, cô nói có vẻ rất thông thạo, “Vâng, chúng là các hạt điện tích âm. Một dạng như Bụi, ngoại trừ việc Bụi khôngô được tích điện.”

Vừa nghe thấy cô nói đến đó, con nhân tinh của bà Coulter ngẩng phắt đầu lên nhìn cô, tất cả những sợi lông vàng trên cơ thể bé nhỏ của nó dựng đứng, như thể chính nó bị tích điện vậy. Bà Coulter đặt một tay lên lưng nó.

“Bụi à?” Bà hỏi.

“Vâng. Bà biết đấy, trong không gian, loại Bụi đó đấy.” ì

“Cháu biết gì về Bụi, Lyra?”

“À nó bay trong không gian, và nó chiếu sáng con người, nếu bà có một loại máy chụp đặc biệt để nhìn nó. Nhưng ngoại trừ trẻ con. Nó không tương tác với trẻ con.”

“Cháu học được điều đó từ đâu vậy?”

Đến lúc đó, Lyra mới nhận thấy có một sự căng thẳng nghẹt thở trong phòng, vì Pantalaimon đã trèo vào lòng Lyra trong hình thù chú chồn ecmin và run rẩy ghê gớm.

“Chỉ là từ một người nào đó ở Jordan.” Lyra trả lời mập mờ. “Cháu quên mất là ai rồi. Cháu nghĩ đó là một trong số các học giả.”

“Có phải đó là một trong các bài học cháu được học không?”

“Vâng, có thể là như vậy. Nếu không có lẽ cháu chỉ tình cờ nghe được thôi. Vâng, cháu nghĩ đúng là như vậy. Học giả này, cháu nghĩ ông y đến từ Tân Đan Mạch, lúc đó ông ấy đang nói chuyện gì với Cha tuyên úy về Bụi và cháu chỉ đi ngang qua, thấy có vẻ thú vị đến nỗi không thể không lắng nghe. Chuyện là như thế đấy ạ.”

“Ta hiểu rồi,” bà Coulter nói.

“Có đúng như vậy không, điều ông ấy nói ấy? Cháu có nghe sai không?”

“À, ta không biết. Ta chắc cháu biết nhiều hơn ta. Hãy quay trở lại vi các hạt điện tử nào…”

Sau đó, Pantalaimon kể lại với Lyra, “Cậu có biết chuyện khi tất cả các sợi lông dựng đứng trên người con nhân tinh không? Lúc đó mình ở ngay sau nó, và bà ấy túm lông nó chặt đến nỗi các đốt ngón tay trắng bệch ra. Cậu không nhìn thấy đâu. Phải mất một lúc lâu lông nó mới xẹp xuống. Tớ nghĩ nó sắp vồ cậu đến nơi.”

Điều này thật kỳ lạ, nhưng cả Lyra và con nhân tinh đều không thể giải thích được tại sao.

Cuối cùng là đến những bài học nhẹ nhàng và thú vị đến nỗi họ không cảm thấy là đang học, làm thế nào để tự gội đầu; làm thế nào để xác định người nào hợp với màu nào; làm thế nào để nói chuyện mà không xúc phạm đến ai; làm thế nào để sử dụng son, phấn và niước hoa. Chắc chắn, bà Coulter không trực tiếp dạy Lyra mấy môn nghệ thuật cuối cùng trên, nhưng bà biết Lyra đang quan sát khi bà tự trang điểm cho mình. Bà cẩn thận đề cho Lyra biết bà cất đồ trang điểm ở đâu và cho cô có thời gian một mình khám phá hay thử lên mình.

Thời gian qua đi, thu bắt đầu ngả sang đông. Ngày này sang ngày khác, Lyra nghĩ về học viện Jordan, nhưng dường như nó thật nhỏ bé và lặng l</span> so với cuộc sống bận rộn của cô hiện nay. Cô cũng rất thường xuyên nghĩ về Roger. Cô cảm thấy không vui nhưng ở đây có một nhà hát để đến xem, một chiếc váy mới để mặc, hay Viện Bắc cực Hoàng gia để đến thăm, và rồi cô lại quên mất cậu.

Khi Lyra đã sống ở đó được khoảng sáu tháng, bà Coulter quyết định tổ ch n3;c một bữa tiệc Cocktail. Lyra có ấn tượng bữa tiệc này là nhằm kỷ niệm sự kiện nào đó, dù bà Coulter không bao giờ nói đó là sự kiện gì. Bà đặt hoa, ,mặc cả đồ ăn, nước uống với người cung cấp lương thực và dành cả buổi tối cùng Lyra quyết định khách mời.

“Chúng ta phải mời Đức Tổng giám mục, ta không thể loại ông ta ra được dù ông ta là một lão già hợm hĩônh đáng ghét. Ngài Boreal đang ở thành phố, ông ấy rất vui tính, và công chúa Postnikova. Cháu có nghĩ nên mời Erik Andersson không? Ta không biết đã đến lúc thu nạp ông ấy chưa?”

Erik Andersson là vũ công nổi tiếng nhất. Lyra không hiểu “thu nạp ông ấy” có nghĩa là gì, nhưng dù sao cô vẫn thích đưa ra ý kiến của mình. Cô cẩn thận viết tất cả những cái tên bà Coulter đề nghị, đọc to lên rồi gạch bỏ khi cuối cùng bà Coulter đưa ra quyết định phản đối.

Khi Lyra lên giường ngủ, Pantalaimon thì thầm bên gối.

“Bà ấy sẽ chẳng bao giờ lên phương Bắc đâu. Bà ấy sẽ giữ chúng ta ở đây mãi mãi. Khi nào thì chúng ta trốn đi vậy?”

“Chắc chắn bà ấy sẽ đi.” Lyra thì thầm trả lời, “Cậu không thích bà ấy. Ôi, thật là không hay. Mình thích bà ấy. Và tại sao bà ấy lại dạy bọn mình về hàng hải và tất cả những th,ứ đó nếu bà ấy không sắp đưa bọn mình lên phương Bắc?”

“Để xoa dịu sự nôn nóng của cậu, lý do là như vậy đấy. Cậu không thực sự muốn loanh quanh tại bữa tiệc Cocktail và cố tỏ ra ngọt ngào dịu dàng. Bà ấy chỉ đang làm cậu trở lên ngoan ngoãn như một con cún.”

Lyra quay lưng đi và nhắm mắt lại. Nhưng điều Pantalaimon nói là sự thực. Côc cảm thấy bức bối và bó buộc với cuộc sống tao nhã này rồi, dù nó rất sang trọng. Cô có thể từ bỏ tất cả những người bạn đầu đường xó chợ tại Oxford, với những trận chiến tại mỏ đất sét và cuộc rượt đuổi dọc bên sông trong một ngày. Điều khiến cô lễ phép và nghe lời bà Coulter là niềm hi vọng khốn khổ được lên phương Bắc. Có thể họ sẽ gặp Ngài Asriel. Có thể ông và bà Coulter sẽ phải lòng nhau, họ sẽ làm đám cưới rồi nhận Lyra làm con nuôi và đi cứu Roger khỏi tay bọn Gà trống tây.

Vào buổi chiều diễn ra bữa tiệc cocktail, bà Coulter đưa Lyra đến một hiệu làm tóc sang trọng tại đó mái tóc màu vàng sẫm cứng đơ của cô được làm mềm và uốn sóng, các móng tay cô được mài giũa và đánh bóng, tại đó người ta còn đánh mắt và thoa chút son cho cô để dạy cô cách trang điểm. Rồi họ đi lấy một chiếc váy bà Coulter đã đặt riêng cho cô, mua mấy đôi giày da sơn, rồi đã đến giờ về nhà để kiểm tra hoa và mặc váy áo.

“ Không phải là ra ngoài cùng chiếc túi khoác đó đâu, cưng.” Bà Coulter nói khi Lyra ra khỏi phòng riêng, ánh mắt lấp lánh sự duyên dáng chỉ riêng bà có.

Lyra đã khoác một chiếc túi nhỏ màu trắng đến khắp nơi để giữ chiếc Chân-kế luôn bên mình. Bà Coulter bỏ bớt mấy bông hoa hồng ra khỏi bình và thấy Lyra không động đậy, nhìn chằm chằm ra ngoài cửa.

“Ôi, cháu xin bà đấy, bà Coulter cháu thực sự yêu quý chiếc túi này.”

“Nhưng không phải ở trong nhà, Lyra. Trông sẽ rất lố bịch nếu mang một chiếc túi khoác ngay trong nhà mình. Bỏ ngay nó ra và đến giúp ta kiểm tra những chiếc ly này.”

Sự bực bội của bà không làm Lyra tiếp tục lì lợm bằng mấy từ “ngay trong nhà mình,” Pantalaimon bay xuống sàn nhà và ngay lập tức biến thành một chú chồn nâu, uốn cong lưng dựa vào đôi tất ngắn đến mắt cá chân của cô. Được khích lệ bởi thái độ đó, Lyra nói:

“Nhưng không phải theo cách như vậy. Và nó là thứ duy nhất cháu thực sự thích mang theo. Cháu nghĩ nó thực sự phù hợp với…”

Cô khôn nói được hết câu, vì con nhân tinh của bà Coulter lao khỏi ghế sofa với bộ lông vàng mờ ảo và đ be nghiến Pantalaimon xuống tấm thảm trước khi nó kịp chạy. Lyra hét lên để báo động, sau đó là sợ hãi đau đớn, khi Pantalaimon giãy giụa, la hét và kêu gào vì không thể giải thoát khỏi nanh vuốt của con khỉ. Chỉ vài giây, con khỉ đã hoàn toàn chế ngự nó: với một tay màu đen hung dữ chặn ngang cổ họng và hai chân sau của nó kẹp lấy nửa người dưới của chú chồn nâu, nó gặm lấy hai tai Pantalaimon bằng tay kia và kéo giật như thể muốn xé rách nó. Không giận dữ, nhưng với một sức mạnh tàn nhẫn lạnh lung khiến người ta hoảng sợ khi nhìn thấy và cảm giác còn khủng khiếp hơn khi cảm nhận thấy.

Lyra khóc nức nở vì hoảng sợ.

“Đừng! Xin hãy dừng lại! Đừng làm chúng tôi đau.”

Bà Coulter đưa mắt khỏi những bông hoa.

“Vậy hãy làm theo lời ta nói” Bà nói.

“Cháu xin hứa!”

Con khỉ vàng nhảy khỏi Pantalaimon như thể nó đột nhiên cảm thấy chán. Pantalaimon lẩn đến cạnh Lyra ngay lập tức, cô bế nó lên hôn hít và vuốt ve.

“Nào, Lyra” Bà Coulter nói.

Lyra quay ngoắt người và đóng sầm cửa phòng ngủ, nhưng trước khi cánh cửa đóng lại, nó lại mở ra. Bà Coulter đã đứng cách đó chỉ vài mét.

“Lyra, nếu cháu cư xử thô lỗ và thiếu tế nhị như vậy, chúng ta sẽ có mộiat cuộc đối đầu mà chắc chắn ta sẽ thắng. Hãy bỏ ngay chiếc túi ra. Ghìm nén sự bực dọc của cháu lại. Đừng bao giờ đóng sầm của mà để ta nghe thấy. Người khách đầu tiên sắp đến trong vài phút nữa, ta muốn họ sẽ thấy cháu cư xử lễ độ, ngọt ngào, duyên dáng, ngây thơ, ngoan ngoãn và vui vẻ. Ta đặc biệt mong muốn như vậy, Lyra, cháu có hiểu lời ta nói không?”

“Có thưa bà Coulter.”

“Vậy thì hãy hôn ta đi.”

Bà hơi cúi xuống và chìa má ra. Lyra phải đứng nhón mũi chân mới hôn được. Cô nhận thấy nó thật mịn màng, mùi da thịt hòa trộn của bà Coulter thơm ngát, nhưng có gì đó lạnh lẽo như kim khí. Cô quay đi và để chiếc túi lên bàn trang điểm trước khi theo bà Coulter trở lại phòng khách.

“Cháu thấy những bông hoa thế nào, cháu yêu?” Bà Coulter nói với giọng ngọt ngào như thể chưa có chuyện gì xảy ra. “Ta cho rằng người ta không thể sai lầm với những bông hồng, nhưng có thể có được nhiều điều tốt đẹp…Không biết những người cung cấp thực phẩm đã mang đủ đá đến chưa? Hãy là một cô bé đáng yêu và đi hỏi cho ta. Đồ uống nóng thật là khủng khiếp…”

Lyra nhận thấy cúng khá dễ dàng để giả bộ nhẹ dạ và đáng yêu, dù cô để ý từng cử chỉ thể hiện thái độ ghê tởm và căm ghét của Pantalaimon với con khỉ vàng. Ngay lúc đó, tiếng chuông vang lên, căn phòng nhanh chóng bị chiếm lĩnh bởi những quý bà ăn mặc hợp thời trang hay các quý ông hào hoa và đạo mạo. Lyra đi xung quanh họ với ly rượu Canapés hay mỉm cười ngọt ngào và trả lời thật lễ phép khi có người nói chuyện với cô. Cô cảm thấy như mình là một con vật yêu của chung tất cả mọi người, và những lời cô nói là điều cô nghĩ. Pantalaimon sải đôi cánh màu vàng, kêu ríu rít.

Cô cảm nhận được sự hân hoan của nó khi được thể hiện quyền lực của cô và trở nên khiêm tốn một chút.

“Cháu đã học ở trường nào vậy, cưng?” Một quý bà nhiều tuổi hỏi, nhìn Lyra chăm chú qua một chiếc kính cầm tay.

“Cháu không đến trường,” Lyra nói với bà này.

“Thật sao? Ta nghĩ mẹ cháu phải gửi cháu đến trường trước đây bà ấy học chứ. Một nơi rất tốt…”

Lyra cảm thấy bối rối cho đến khi cô nhận ra bà ta nhầm lẫn.

“À, bà ấy không phải là mẹ cháu. Cháu ở đây chỉ là để giúp công việc cho bà ấy thôi, cháu là trợ lý riêng của bà ấy.” Cô nói vẻ quan trọng.

“Ta hiểu rồi. Vậy ai là người của cháu?”

Lại một lần nữa Lyra không hiểu ý của bà là gì trước khi trả lời.

“Họ là một bá tước và bá tước phu nhân.” Cô trả lời, “Họ đều chết trong một tai nạn khí cầu ở phương Bắc.”

“Bá tước nào vây?”

“Bá tước Belacqua. Đó là anh trai của ngài Asriel.”

Con nhân tinh của quý bà lớn tuổi, một con vẹt đuôi dài màu đỏ thắm đang đứng đổi chân liên tục như thể nó đang bực dọc chuyện gì. Quý bà đang bắt đầu bị cuốn hút bởi tính tò mò vì thế Lyra mỉm cười ngọt ngào rồi đi khỏi.

Cô đang đi qua một nhóm các quý ông và một phụ nữ trẻ gần chiếc sofa lớn thì nghe thấy chữ Bụi. Cô đã đủ biết về xã hội để hiểu khi nào đàn ông và đàn bà tán tỉnh nhau, và cô theo dõi cuộc tán tỉnh đó với sự thích thú, dù cô còn thích thú hơn khi họ đề cập đến Bụi, cô dừng chân để lắng nghe. Mấy người đàn ông có vẻ là các học giả; từ cách người phụ nữ đang hỏi họ, Lyra cho rằng bà là một sinh viên về mặt nào đó.

“Nó được tìm thấy bởi một người Nga—hãy ngắt lời tôi nếu các vị đã biết điều này rồi…” Người đàn ông trung niên đang nói, trong khi đó người phụ nữ nhìn ông chăm chú với vè khâm phục. “Một người tên là Rusakov, và chúng thường được gọi tên là Hạt Rusakov, theo tên ông. Các hạt cơ bản không bao giờ tương tác với nhau theo bất cứ cách nào—rất khó phát hiện nhưng điều phi thường nhất là dường như chúng bị hút bởi con người.”

“Thật vậy sao?” Người phụ nữ trẻ nói, đôi mắt mở to.

“Và phi thường hơn nữa,” ông ta tiếp tục. “Một số người hút nó, nhưng trẻ con thì không. Ít nhất cũng không nhiều, cho đến khi không còn là thiếu niên nữa. Thực ra đây chính là lý do…” Người đàn ông hạ giọng và ông đến gần người phụ nữ hơn, đặt tay lên vai bà một cách tin tưởng. “Đó chính là lý do Ủy ban Tôn giáo được thành lập. Điều này thì nữ chủ nhân tốt bụng của chúng ta ở đây có thể nói cho bà biết.”

“Thật sao? Bà ấy ở trong Ủy ban Tôn giáo. Đó hoàn toàn là kế hoạch của bà ấy…”

Người đàn ông đang định nói tiếp thì bắt gặp cái nhìn của Lyra. Cô nhìn lại ông không chớp mắt, có thể ông đã uống hơi nhiều, hay có thể ông muốn gây ấn tượng với người phụ nữ, vì ông nói:

“Quý cô nhỏ tuổi này biết tất cả về chuyện đó, tôi chắc chắn đấy. Cháu không liên quan gì đến Ủy ban Tôn giáo đấy chứ, phải không, cưng?”

“Ồ, vâng,” Lyra trả lời. “Cháu không liên quan gì đến tất cả mọi người ở đây. Nơi cháu thường sống, tại Oxford, có rất nhiều thứ nguy hiểm. Có những người Gypsy. Trẻ con bị bán cho người Thổ Nhĩ Kỳ làm nô lệ. Và ở cảng Meadow, vào ngày rằm còn có một con ma sói chạy ra từ nữ tu viện ở Godstow. Cháu từng nghe nó hú một lần. Và có bọn Gà trống tây…”

“Đó là điều tôi muốn nói đấy,” Người đàn ông nói. “Đó là tên họ đặt cho Ủy ban Tôn giáo phải không?”

Lyra cảm thấy Pantalaimon run bắn lên, nhưng nó đang thể hiện thái độ đàng hoàng. Nhân tinh của hai người lớn, một con mèo và một con bướm có vẻ không để ý đến.

“Bọn Gà trống tây à? Người phụ nữ trẻ hỏi. “Cái tên nghe kỳ lạ thật đấy! Tại sao người ta lại gọi họ là bọn Gà trống tây?”

Lyra đang định kể cho bà nghe một trong những câu chuyện rùng rợn nhất cô thêu dệt để dọa bọn trẻ con Oxford, nhưng người đàn ông đã bắt đầu nói.

“Về bản chất, các vị có nhận thấy không? Ủy ban Tôn giáo. Một ý tưởng cũ rich, thực tế là như vậy. Vào thời Trung cổ, cha mẹ có thể cho con vào nhà thờ để làm thầy tu hay nữ tu, và những đứa trẻ hỗn xược được coi là những người dâng hiến hết mình cho tôn giáo. Có nghĩa là một sự hi sinh, sự dâng tặng hay đại loại như vậy. Vì thế ý tưởng tương tự cũng được sử dụng khi người ta tìm kiếm Bụi… Như người bạn nhỏ của chúng ta có thể biết. Sao cháu không đến nói chuyệtn trực tiếp với Ngài Boreal?” Ông nói thêm với Lyra. “Ta chắc chắn là ông ấy muốn gặp người được bà Coulter bảo hộ… Ông ấy kia, người đàn ông tóc hoa râm có con nhân tinh rắn.”

Ông ta muốn thoát khỏi Lyra để có thể nói chuyện riêng tư thoải mái hơn với người phụ nữ, Lyra dễ dàng nhận ra điều đó. Nhưng có vẻ người phụ nữ trẻ vẫn rất quan tâm đến Lyra, nên quay khỏi người đàn ông để nói chuyện với cô.

“Dừng lại một chút đã… Tên cháu là gì nhỉ?”

“Lyra.”

“Cô là Adele Starminster. Cô là phóng viên. Chúng ta có thể nói chuyện riêng với nhau không?”

Chỉ nghĩ đơn giản là có thể ai đó sẽ muốn nói chuyện với cô, Lyra trả lời “Vâng.”

Con nhân tinh bướm của người phụ nữ bay lên, lượn sang phải rồi sang trái và bay xuống để thì thầm gì đó,MsoNormal">Đây là chỗ ngồi ưa thích của Lyra; từ đây có thể nhìn ra sông, vào giờ này ban đêm, những ánh đèn điện anbaric dọc bờ nam lấp lánh rực rỡ do được phản chiếu dưới mặt nước đen khi thủy triều dâng lên cao. Một hàng xà lan được kéo bởi một chiếc tàu kéo đi ngược dòng sông. Adele Starminster ngồi xuống và ngồi dịch ra xa trên chiếc ghế bọc vải đề nhường chỗ.

“Giáo sư Docker nói rằng cháu có quan hệ thế nào đó với bà Coulter phải không?”

“Vâng.”

“Quan hệ thế nào vậy? Cháu không phải con gái bà ấy, hay đại loại như vậy đúng không? Cô cho rằng cô nên biết rằng…”

“Không!” Lyra nói. “Tất nhiên là không. Cháu chỉ là trợ lý riêng cho bà ấy.”

“Trợ lý riêng của bà ấy sao? Cháu hơi nhỏ quá đấy,l đúng vậy không? Cô nghĩ cháu có họ hàng gì đó với bà ấy hoặc sao đó. Bà ấy là người thế nào?”

“Bà ấy rất thông minh.” Lyra nói. Trước buổi tối nay thì cô đã có rất nhiều chuyện để nói nhưng mọi chuyện đã thay đổi.

“Đúng, nhưng về mặt tính cách cơ,” Adele Starminster nhấn mạnh. “Ý cô là bà ấy thân thiện hay nóng nảy hay sao đó? Cháu có sống ở đây với bà ấy không? Về đời sống riêng tư thì bà ấy thế nào?”

“Bà ấy rất tốt,” Lyra nói với giọng thản nhiên.

“Cháu làm loại công việc gì? Lầm thế nào cháu giúp bà ấy được?”

“Cháu làm các phép tính toán và tất cả chỉ có thế. Như các phép toán trong ngành hàng hải.”

“A, cô hiểu rồi… Và cháu đến từ đâu vậy? Cho cô hỏi lại một lần nữa tên cháu là gì?”

“Lyra. Cháu đến từ Oxford.”

“Tại sao bà Coulter lại đưa cháu đến…”

Cô ta đột ngột dừng lại vì chính bà Coulter đang đến gần. Qua cách Adele Starminster ngước lên nhìn bà, và cách con nhân tinh của cô đang bay một cách kích động quanh đầu chủ, Lyra có thể thấy rằng người phụ nữ trẻ này không được mời tới bữa tiệc.

“Tôi không biết tên cô,” bà Coulter nói rất khẽ, “nhưng tôi sẽ tìm ra trong vòng năm phút, và sau đó cô sẽ không bao giờ còn làm nghề phóng viên nữa. Giờ thì hãy đứng lên thật lặng lẽ, không gây ồn ào, và rời khỏi đây ngay. Tôi phải nói thêm rằng dù ai là người đưa cô đến đây thì người đó cũng sẽ phải chịu hậu quả.”

Dường như bà Coulter được nạp vào thứ gì đó kiểu như năng lượng anbaric. Thậm chí mùi hương của bà cũng thay đổi, một mùi nóng, như kim loại đun sôi, bốc ra từ cơ thể bà. Lyra đã cảm nhận thấy nó lúc trước, nhưng giờ cô mới thấy nó nhằm vào một người nào đó, và Adele Starminster đáng thương không có cách gì chống chọi lại được. Con nhân tinh của cô nằm ủ rũ trên vai cô, vỗ đôi cánh rực rỡ của nó một hai lần trước khi lả đi, và chính người phụ nữ dường như cũng không thể đứng vững được. Né người sang bên một cách khó nhọc, cô đi qua những người khách đang nói chuyện to tiếng và ra khỏi cửa phòng khách. Một tay cô bám chặt trên vai để giữ con nhân tinh đang bất tỉnh.

“Có chuyện gì vậy?” Bà Coulter nói với Lyra.

“Cháu không nói bất cứ điều gì quan trọng với cô ấy đâu,” Lyra nói.

“Cô ta hỏi han những gì?”

“Chỉ là chuyện cháu đang làm gì và cháu là ai, và những chuyện đại loại như vậy.”

Khi nói đến đó, Lyra để ý rằng bà Coulter chỉ có một mình, không có con nhân tinh bên cạnh. Làm sao có thể như vậy được? Nhưng chỉ một lát sau, con khỉ vàng xuất hiện bên cạnh bà và bà cúi xuống nắm tay nó, nhẹ nhàng nhấc nó lên vai. Dường như ngay lập tức bà lại dịu xuống.

“Nếu cháu gặp phải người nào rõ ràng là khách không mời, cưng ạ, hãy tìm ta được chứ?”

Mùi kim loại nóng chảy đã biến mất. Có thể Lyra chỉ tưởng tượng ra như vậy. Cô lại ngửi thấy hương thơm của bà Coulter, mùi hoa hồng, mùi xì gà, mùi nước hoa của những người phụ nữ khác. Bà Coulter mỉm cười với Lyra theo cách dường như hàm ý nói “Cháu và ta hiểu chuyện này phải không nào?” rồi chào đón các vị khách khác.

Pantalaimon đang thì thầm vào tai Lyra.

“Trong khi bà ta ở đây, con nhân tinh của bà ấy đang lẻn ra khỏi phòng ngủọ của chúng ta. Nó đã lục soát. Nó đã biết về chiếc Chân-kế.”

Lyra cảm thấy có thể đúng như vậy nhưng co chẳng làm gì được. Ông Giáo sư đó đã nói gì về bọn Gà trống tây? Cô nhìn quanh để tìm lại ông ta, nhưng ngay khi cô vừa nhìn thấy ông thì người gác cổng (trong bộ đồ người phục vụ buổi tối) cùng một người đàn ông khác vỗ vai ông Giáo sư và nói khẽ gì đó với ông ta, ôngta tái mặt và theo họ ra ngoài. Chuyện đó không mất hơn hai giây, và được làm kín đáo đến mức khó ai nhận ra. Nhưng nó khiến Lyra cảm thấy lo lắng và bức bối.

Cô lang thang qua hai phòng lớn nơi bữa tiệc đang diễn ra, nửa lắng nghe những cuộc nói chuyện xung quanh mình, nửa bị cuốn hút bởi mùi cocktail mà cô không được phép thử. Cô không nhận thấy ai đó đang quan sát mình cho đến khi người gác cổng hiện ra bên cạnh và cúi mình nói:

“Cô Lyra quý ông bên lò sưởi muốn nói chuyện với cô, nếu cô chưa biết thì đó là ngài Boreal.”

Lyra nhìn sang phía bên kia căn phòng. Người đàn ông tóc hoa râm trông có vẻ quyền lực đang nhìn thẳng vào cô, và khi mắt họ gặp nhau, ông gật đầu và vẫy tay.

Chần chừ, nhưng lại thấy thích thú, cô bước đến.

“Chào buổi tối, cô bé.” Ông ta nói. Giọng ông nhẹ nhàng và oai vệ. Chiếc đầu bọc giáp sắt và đôi mắt màu lục bảo của con nhân tinh của ông lấp lánh trong ánh đèn treo trên tường gần đó.

“Xin chào ông.” Lyra nói.

“Ông Hiệu trưởng Jordan bạn cũ của tôi thế nào rồi?”

“Rất khỏe thưa ông.”

“Ta nghĩ chắc tất cả bọn họ đều cảm thấy nuối tiếc khi chia tay cháu.”

“Vâng đúng thế ạ.”

“Và bà Coulter lúc nào cũớng bắt cháu bận bịu phải không? Bà ấy đang dạy cháu những gì vậy?”

Vì Lyra đang cảm thấy nổi loạn và khó chịu, cô không muốn trả lời câu hỏi trên theo đúng sự thật hay với thái độ vui nhộn thưởng xuyên của mình. Thay vào đó, cô nói, “Cháu đang học về Hạt Rusakov, và về Ủy ban Tôn giáo.”

Dường như ông ta chú ý ngay lập tức, giống như cách người ta hội tụ tia sáng của một chiếc đèn lồng anbaric. Mọi sự chú ý của ông ta đều dồn cả vào Lyra.

“Cháu nên kể cho ta cháu biết những gì,” ông ta nói.

“Người ta đang tiến hành các thí nghiệm tại phương Bắc,” Lyra nói. Giờ thì cô cảm thấy liều lĩnh. “Như tiến sĩ Grumman chẳng hạn.”

“Tiếp đi.”

“Họ có được loại ảnh đặc biệt này tại nơi ông có thể nhìn thấy Bụi, và khi ông nhìn thấy một người đàn ông trong tình trạng như thể mọi tia sáng đang tụ lại tại người đó, không có tia sáng nào chiếu vào đứa trẻ cả. Ít nhất cũng không nhiều.”

“Bà Coulter đã cho cháu xem một bức ảnh như thế à?”

Lyra lưỡng lự, vì đây không phải là nói dối mà là một điều gì đó khác và cô không quen như thế.

“Không,” cô trả lời s một lúc, “cháu xem bức ảnh đó tại học viện Jordan.”

“Ai cho cháu xem vậy?”

“Ông ấy không thực sự cho cháu xem,” Lyra thừa nhận. “Cháu chỉ tình cờ đi qua và nhìn thấy. Và sau đó Roger bạn cháu bị Ủy ban Tôn giáo bắt đi. Nhưng…”

“Ai cho cháu xem bức ảnh đó?”

“Chú Asriel của cháu.”

“Khi nào vậy?”

“Vào lần gần đây nhất khi chú ấy đến Học viện Jordan.”

“Ta hiểu rồi. Và cháu còn được học gì nữa? Có phải ta nghe cháu nhắc đến Ủy ban Tôn giáo không nhỉ? “

“Vâng nhưng cháu không được nghe về nó từ chú ấy. Cháu nghe được ở đây.”

Điều này là sự thực, cô nghĩ.

Ông ta đang nhìn cô chăm chú. Cô nhìn lại với tất cả vẻ ngây thơ cô có. Cuối cùng ông ta gật đầu.

“Vậy chắc chắn bà Coulter phải quyết định cháu đã sẵn sàng trợ giúp bà ấy trong công việc đó. Thú vị thật. Cháu đã tham gia vào chưa?”

“Chưa ạ.” Lyra trả lời. Ông ta đang nói đến chuyện gì vậy nhỉ? Pantalaimon đang ở trong hình dạng ít diễn cảm nhất của nó, một chú bướm đêm, và không thể phản bội những cảm giác của cô vì cô chắc chắn mình có thể giữ cho nét mặt thật ngây thơ.

“Bà ấy đã nói cho cháu biết chuyện gì xảy ra với bọn trẻ chưa?”

“Chưa, bà ấy không nói cho cháu biết chuyện đó. Cháu chỉ biết công việc đó liên quan đến Bụi, và như một sự hi sinh.”

Lại một lần nữa, đó không chính xác là một lời nói dối, cô nghĩ; cô chưa bao giờ nói chính bà Coulter đã nói cho cô biết.

“Hi sinh là một cách nói kcịch hơn. Những gì xảy ra là vì lợi ích của chúng cũng như của chúng ta. Và tất nhiên chúng đều đến với bà Coulter một cách tự nguyện. Đó là lý do tại sao bà ấy rất quý giá. Bọn trẻ phải muốn được góp phần, có đứa trẻ nào lại từ chối bà ấy chứ? Và nếu bà ấy cũng sắp dùng cháu để lôi kéo chúng, có lẽ còn hiệu quả hơn nhiều. Ta thấy rất hài lòng.”

Ông ta mỉm cười vớ c>i cô giống như cách bà Coulter đã cười: như thể cả hai bọn họ đều đang có cùng một bí mật. Cô mỉm cười lịch sự đáp lại và ông ta quay đi để nói chuyện với người khác.

Cô và Pantalaimon có thể cảm nhận thấy sự sợ hãi của nhau. Cô muốn một mình đi khỏi và nói chuyện với nó; cô muốn rời khỏi căn phòng, cô muốn quay trở lại Học viện Jordan và căn phòng nhỏN bé tồi tàn của mình trên cầu thang số Mười hai, cô muốn tìm ngài Asriel…

Và như thể là câu trả lời cho mong muốn cuối cùng của cô, cô nghe thấy có người nhắc đến tên ông, và đến gần nhóm người đang bàn luận với cái cớ là lấy thêm bánh nướng từ chiếc đĩa trên bàn. Người đàn ông mặc chiếc áo đỏ tía của giám mục đang nói:

”Không, tôi không nghĩ sẽ có một lúc nào đó ngài Asriel sẽ gây phiền phức cho chúng ta.”

“Ông vừa nói ông ta đang bị giữ ở đâu nhỉ?”

“Trong một pháo đài tại Svalbard, tôi nghe nói thế. Bị canh giữ bởi panserbjorne, ông biết đấy, có nghĩa là những con gấu mặc áo giáp sắt. Những sinh vật ghê tởm! Ông ta sẽ không trốn thoát khỏi chúng nếu mạng sống của ông ta đáng già hàng nghìn. Thực tế là tôi thực sự nghĩ mọi chuyện rất rõ ràng, gần như rất rõ ràng…”

“Thí nghiệm cuối cùng đã khẳng định điều tôi luôn tin tưởng rằng Bụi xuất phát ra từ nguyên lý bóng tối, và…”

“Tôi đâu có bảo vệ Đạo thờ lửa dị giáo…”

“Thường thì thế nào là dị giáo…”

“Và nếu chúng ta có thể cô lập nguyên lý bóng tối…”

“Svalbard, có phải ông đã nói thế không?”

“Những con gấu mặc áo giáp…”

“Ủy ban Tôn giáo…”

“Bọn trẻ không bị đau đớn, tôi chắc chắn như vậy…”

“Ngài Asriel đã bị cầm tù…”

Lyra đã nghe đủ, cô quay đi, khẽ khàng đi về phòng và đóng cửa lại. Sự ồn ào của bữa tiệc lập tức bị chặn lại bên ngoài cánh cửa.

“Thế nào?” cô thì thầm, nhân tinh của cô biến thành mộܴ chú chim kim tước trên vai cô.

“Chúng ta sẽ trốn khỏi đây chứ?” Nó thì thầm đáp lời.

“Tất nhiên, nếu chúng ta đi ngay bây giờ khi còn rất nhiều người ở đây, có thể bà ta sẽ không để ý.”

“Nó sẽ phát hiện ra.”

Ý Pantalaimon nói đến con nhân tinh của bà Coulter. Khi Lyra nghĩ đến bóng dáng màu vàng của nó, cô cảm thấy run lên vì sợ hãi.

“Lần này mình sẽ chiếna, đấu với nó.” Pantalaimon nói với giọng can đảm. “Mình có thể thay đổi hình dáng còn nó thì không. Mình sẽ thay đổi nhanh đến mức nó không thể bắt được mình. Lần này mình sẽ thắng, rồi cậu sẽ thấy.”

Lyra gật đầu lia lịa. Cô nên mặc gì đây? Làm thế nào cô có thể ra khỏi đây mà không bị nhìn thấy?

“Cậu phải ra thám thính trước.” Cô thì thầm.

“Ngay khi an toàn chúng ta sẽ chạy. Hãy biến thành bướm đêm.” Cô nói thêm. “Hãy nhớ nhé, ngay lúc không ai để ý…”

Cô hé mở mộ khe cửa và nó lẻn ra, náu mình trong ánh đèn màu vàng ấm áp ở hành lang.

Trong lúc đó, cô hối hả khoác vào người những quần áo ấm nhất cô có và nhét thêm mấy chiếc vào một trong chiếc túi mua từ cửa hàng thời trang họ thường đến mỗi chiều. Bà Coulter tiêu tiền như rác, và dù bà tiêu xài hoang phí, vẫn còn rất nhiều túi da sói của bà.

Cuối cùng cô gói chiếc Chân-kế trong tấm vải bọc nhung của nó. Không biết con khỉ già ghê tởm đó đã tìm ra nó chưa? Chắc chắn nó đã tìm thấy, chắc chắn nó đã nói cho bà ta biết. Ôi, giá mà cô giấu nó kỹ hơn.

Cô nhón chân ra khỏi cửa. Phòng cô mở cửa ra cuối hàng lang gần đại sảnh nhất, thật may mắn là phần lớn khách mời đang ở trong hai căn phòng lớn phía xa hơn hành lang. Có tiếng người nói ồn ào, tiếng cười, tiếng xả nước khe khẽ trong phòng rửa mặt, tiếng cốc tách leng keng, và rồi tiếng chú bướm đêm khe vang lên bên tai cô:

“Nào! Nhanh chân lên!”

Cô lao qua cửa và chạy vào đại sảnh, trong chưa đầy ba giây cô đã mở cửa trước của căn phòng. Ngay lập tức cô đi qua và nhẹ nhàng kéo cánh cửa đóng lại, cùng với Pantalaimon, một chú chim kim tước, cô chạy đến chỗ cầu thang và biến mất.

Chương 6: Những chiếc bẫy ném m

Cô nhanh chóng đi xa con sông, vì bờ đê rất rộng rãi và sáng sủa. Giữa nơi đây và viện Bắc cực Hoàng gia, nơi duy nhất Lyra chắc chắn mình có thể tìm thấy là những con đường rối rắm, giờ thì cô đang vội vã đi trong mê cung đêm tối.

Giá mà cô cũng thông thuộc London như Oxford! Nếu thế cô có thể biết đường nào cần tránh, hay chỗ nào cô có thể xoáy chút đồ ăn, hay hơ>n cả là cánh cửa nào có thể gõ và xin trú nhờ. Trong đêm lạnh đó, những con hẻm tràn đầy bóng tối xung quanh đang sống động với sự chuyển động và đời sống bí mật của nó, cô chẳng biết điều gì trong số đó.

Pantalaimon biến thành một con mèo hoang dã dò xét bóng tối xung quanh với đôi mắt trong suốt. Nó thường xuyên dừng lại, xù lông, Lyra có thể núp vào một ngõ hẻm gần đó. Đêm ngập tràn âm thanh: những tiếng cười vỡ òa của đám người say rượu, hay tiếng khàn khàn đang vang lên từ một tầng hầm. Lyra cẩn thận đi qua tất cả, các giác quan của cô căng ra và hòa vào cùng giác quan của Pantalaimon trong bống tối đầy ắp những con hẻm chật hẹp.

Rất nhiều lần cô phải băng qua một con đường rộng hơn và sáng hơn, nơi những chiếc xe điện kêu leng keng dưới những sợi cáp anbaric. Có những quy định khi qua đường tại London, nhưng cô không quan tâm, và khi có ai đó la lên, cô chạy trốn thật nhanh.

Thật sung sướng vì lại được tự do. Cô biết rằng Pantalaimon lúc đó đang đi trên móng vuốt mèo hoang, cũng cảm nhận được niềm vui giống cô khi được ở trong bầu không khí bên ngoài, dù là màn không khí âm u đầy sương khói và âm thanh lanh lảnh he chói tai. Rồi sẽ đến lúc họ phải suy nghĩ về ý nghĩa của những điều đã nghe được trong nhà bà Coulter, nhưng chưa phải lúc này. Cuối cùng, sẽ đến lúc họ phải tìm một nơi đẻ ngủ.

Tại một ngã tư gần một cửa hàng bách hóa lớn, nơi những khung cửa sổ chiếu sáng rực rỡ hắt ánh sáng ra vỉa hè ẩm ướt, có một cửi a hàng cà phê: một túp lều có bánh xe để một quầy hàng dưới một gờ hiên bằng gỗ. Ánh đèn vàng hắt sáng từ bên trong và hương cà phê tỏa ra. Ông chủ cửa hàng mặc áo khoác trắng đang lau chùi quầy hàng và nói chuyện với vài người khách.

Thật là hấp dẫn! Lyra đã đi bộ được một tiếng đồng hồ. Ngoài trời thật lạnh lẽo và ẩm ướt, Cùng Pantalaimon trong hình dáng con vẹt, cô đi vào quầy hàng và kiễng chân để người chủ chú ý.

“Cho cháu một tách cà phê và một bánh kẹp nhé.” Cô nói.

“Cháu vào hàng muộn quá, cháu yêu.” Người đàn ông đội mũ chop cao và quấn khăn quàng cổ lụa trắng nói với cô.

“Vâng” cô nói, quay mặt khỏi ông ta để quan sát ngã tư đông đúc. Nhà hát gần đó vừa kết thúc buổi diễn, mọi người đang đi lại loanh quanh trong phòng chờ, gọi xe ngựa, choàng áo khoác lên vai. Theo một hướng khác là lối vào ga xe lửa ngầm, nơi mọi người đang túa ra, đi lên đi xuống tấp lập.

“Của cháu đây, nhóc.” Người đàn ông bán cà phê nói, “Hai si-linh.”

“Để tôi trả tiền cho,” người đàn ông đội mũ chóp cao nói.

Lyra nghĩ, tại sao lại không? Mình có thể chạy nhanh hơn ông ta, và mình sẽ cần tất cả số tiền mình có vào việc sau này. Người đàn ông đội mũ thả một đồng xu lên quầy hàng và cúi xuống mỉm cười với cô. Nhân tinh của ông ta là một con vượn cáo. Nó đang treo người trên ve áo ông, tròn mắt nhìn Lyra.

Cô cắn một miếng bánh và tiếp tục quan sát đường phố đông đúc. Cô không biết mình đang ở đâu, vì cô chưa bao giờ xem bản đồ London, thậm chí cô còn không biết nó lớn đến đâu và mình cần đi bao xa để ra ngoại thành.

“Tên cháu là gì?” Ông ta hỏi.

“Alice.”

“Đó là một cái tên đáng yêu. Để ta cho một giọt này vào cà phê của cháu… Cho cháu ấm người lên…”

Ông ta đang mở nút một chiếc chai bẹt đựng rượu bằng bạc.

“Cháu không thích thế,” Lyra nói. “Cháu chỉ thích cà phê thôi.”

“Ta cá là cháu chưa từng uống rượu brandy kiểu này trước đây.”

“Cháu đã uống rồi, và cháu đã bị say lê lết. Cháu uống sạch cả một chai hay gần như vậy.”

“Tùy ý cháu thôi,” người đàn ông nói, nghiêng chai rượu vào cốc cà phê của mình. “Cháu đang đi đâu vậy, lại có một mình thế này?”

“Đi gặp cha cháu.”

“Thế ông ấy là ai?”

“Ông ấy là một kẻ giết người.”

“Ông ấy sao cơ?”

“Cháu đã nói rồi, ông ấy là một kẻ giết người. Đó là nghề của ông ấy. Đêm nay ông ấy đang làm một phi vụ. Cháu có đem theo quần áo sạch cho ông ấy đây, vì cả người ông ấy thường đầm đìa máu khi ông ấy làm xong việc.”

“À cháu đang đùa ta rồi.”

“Cháu không đùa.”

Con Vượn cáo thốt ra những tiếng meo meo khe khẽ và từ từ trèo lên phía sau đầu người đàn ông và nhìn cô chằm chằm.

“Chúc ngủ ngon,” cô nói. “Cháu có thể thấy bố cháu đang đến. Trông ông ấy hơi giận dữ.”

Người đàn ông đội mũ chóp cao liếc nhìn quanh, Lyra bước về phía đám đông tại nhà hát. Cô mong muốn được nhìn thấy đường xe lửa ngầm biết bao (bà Coulter nói nó không được xây dựng cho những người thuộc giai cấp của họ). Cô cũng rất sợ sẽ bị bắt ở dưới đó. Tốt hơn là nên ở ngoài, nơi cô có thể chạy nếu buộc phải vậy.

Cô lại tiếp tục đi, những đại lộ trở nên tối hơn và vắng vẻ hơn. Trời đang mưa phùn, nhưng dù không có đám mây nào, bầu trời thành phố cũng quá ảm đạm với những ánh đèn để có thể nhìn thấy những ngôi sao. Pantalaimon nghĩ rằng họ đang đi về hướng Bắc, nhưng cả hai đều không thể chắc chắn về điều này.

Những đại lộ dài bất tận hai bên là những căn nhà gạch giống hệt nhau, với những mảnh vườn chỉ đủ lớn để đặt thùng rác. Những nhà máy lớn tồi tàn phía sau hàng rào thép gai, với một chiếc đèn anbaric treo trên tường cao và một người bảo vệ đêm đang ngáy ngon lành bên cạnh chiếc lò than. Thỉnh thoảng có một nhà nguyện dáng vẻ sầu thảm, trông chẳng khác nhà kho là mấy. Mỗi khi thừ gõ cửa một trong những nơi đó, cô chỉ nghe thấy tiếng rền rĩ trong bóng tối.

“Chúng mình đi đâu để ngủ bây giờ, Pan?” Cô hỏi khi họ lê bước xuống m >ột con phố toàn những dãy cửa hàng đã đóng cửa.

“Sẽ có một lối đi nào đó.”

“Nhưng mình không muốn bị bắt gặp. Ở đây trống trải lắm.”

“Dưới kia có một con sông…”

Nó đang nhìn sang bên trái xuống một con đường. Không nghi ngờ gì nữa, những vệt sáng lấp lánh cho thấy một vùng nước, và khi họ cẩn thận đến gần để nhìn, họ thấy một con kênh nhỏ có hơn chục chiếc thuyền mui đang buộc bên bờ. Mấy chiếc đang ở cao trên mặt nước, mấy chiếc thấp hơn và đã được chất hàng dưới những chiếc cần cẩu trông như giá treo cổ. Một ánh đèn tù mù chiếu sang khung cửa sổ một túp lều gỗ, mùi khói tỏa ra từ ống khói kim loại. Bến tàu đầy những thù gỗ tròn, những cuộn dây cáp.

Lyra nhón chân lên và nhìn qua khung cửa sổ căn lều. Một ông già đang chăm chú đọc một trang truyện tranh và hút tẩu thuốc, con nhân tinh giống chó Tây Ban Nha cuộn tròn ngủ trên bàn. Khi cô nhìn vào, người đàn ông đứng dậy và mang một chiếc ấm đun nước muội bám đen từ chiếc lò sắt và đổ ít nước nóng vào một chiếc chén vại đã nứt trước khi lại ngồi xuố>ng với tờ báo của mình.

“Chúng ta có nên xin ông ta cho vào nhà không, Pan?” Cô thì thầm, nhưng nó không chú ý. Nó đang trong hình dáng một con dơi, rồi một con cú, rồi lại thành con mèo hoang. Cô nhìn khắp xung quanh, bắt gặp sự hoang mang của nó, cùng một lúc, cả hai nhìn thấy hai người đàn ông chạy về phía cô, từ hai phía, người gần hơn cầm một chiếc bẫy ném.

Pantalaimon thốt ra một tiếng kêu hốt hoảng và trong hình hài một con báo, nó lao đến con nhân tinh B của người đàn ông gần hơn, một con cáo trông rất hung tợn, xô mạnh vào chân sau nó khiến nó vướng vào chân người đàn ông. Ông ta chửi thề rồi đứng tránh sang bên, Lyra thừa cơ chạy xuống khoảng trống của bến tàu. Cô không thể đứng im chờ chết được.

Pantalaimon giờ là một con đại bàng, xà xuống bên cô và hét, “Bên trái! Bên trái!”

Cô chạy chệch theo hướng đó, thấy một khe trống gn nàyiữa những thùng than và một chiếc thùng kim loại, cô lao vào đó như một viên đạn.

Nhưng chiếc bẫy ném đã lao đến!

Cô nghe thấy một tiếng rít trong không khí, sát má cô có gì đó quật vào đau nhói, những sợi dây bôi hắc ín ghê tởm trùm qua mặt cô, cánh tay cô, hai bàn tay cô bị kéo giật và trùm chặt lấy cô. Cô ngã xuống, gào thét, khóc lóc, và giãy giụa trong tuyệt vọng.

“Pan! Pan!”

Nhưng con nhân tinh cáo đang cắn xé con mèo Pantalaimon, Lyra cảm thấy chính mình đang đau đớn, cô bật khóc to khi nó ngã xuống. Một gã đàn ông đang buộc chặt sợi dây thừng xung quanh người cô, quanh tay chân, cổ họng, đầu, lăn đi lăn lại cô trên nền đất ẩm. Cô không thể cầu cứu sự giúp đỡ, giống hệt như một con ruồi bị con nhện chộp được. Pantalaimon đau đớn tội nghiệp đang cố giằng mình ra để chạy về phía cô, con nhân tinh cáo đang chặn trên lưng, nó không còn chút sức lực nào để xoay chuyển tình thế. Gã đàn ông còn lại đang nằm trên vũng nước, với một mũi tên xuyên qua họng.

Mọi chuyện như ngừng lại khi gã đang buộc chiếc bẫy nhìn thấy bạn mình.

Pantalaimon đứng lên và chớp mắt, rồi sau đó là tiếng rơi ngã, rồi gã đàn ông ngã xu>ống ngang qua người Lyra, thở khò khè và mồm há hốc. Cô hét lên vì sợ hãi, má phụt ra từ người gã.

Những bước chân đang chạy, ai đó kéo người đàn ông đi, rồi một cánh tay khác nhấc Lyra lên, một con dao lách vào và kéo những vòng dây đứt dần, cô giằng chúng ra, phun phì phì và lao đến bên Pantalaimon.

Vừa quỳ, cô vừa quay ra nhìn những người mới đến. Ba người đàn ông trong bóng tối, một người cầm cung tên, hai người còn lại cầm dao găm. Khi cô quay ra, người đàn ông cầm cung tên thốt lên:

“Kia không phải Lyra sao?”

Một giọng nói rất quen, nhưng cô không thể nhớ ra cho đến khi anh ta bước về phía cô và ánh sáng chiếu vào khuôn mặt cùng con nhân tinh diều hâu trên vai anh. Giờ thì cô nhân ra rồi. Một người Gypsy Oxford thật sự.

“Tôi là Tony Costa.” Anh ta nói. “Cô có nhớ không? Cô thường chơi với em trai Billy của tôi trên những chiếc thuyền ở Jericho, trước khi bọn Gà tống tây bắt cóc nó.”

“Ôi, Chúa ơi, Pan, chúng ta an toàn rồi!” Cô khóc thổn thức, nhưng sau đó một ý nghĩ lướt qua trong tâm trí cô: cô đã tấn công chính thuyền của nhà Costa hôm đó. Nhỡ anh ta vẫn nhớ thì sao?

“Tốt nhất là cô đi cùng chúng tôi,” anh nói. “Cô chỉ có một mình đúng không?”

“Vâng, tôi đang chạy trốn…”

“Được rồi, đừng nói gì bây giờ. Chỉ cần im lặng là được. Jaxer, hãy kéo những cái xác này vào chỗ khuất. Kerim, trông chừng xung quanh “

Lyra run rẩy đứng lên, ôm Pantalaimon—mèo hoang vào ngực. Nó đang quay xung quanh tìm kiếm thứ gì đó. Cô nhìn theo ánh mắt nó, hiểu ý và ngay lập tức tò mò: điều gì đã xảy ra với con nhân tinh của những người chết kia? Chúng đã tan biến, đó chính là câu trả lời. Chúng tan ra và biến mất như những hạt cát hay bụi khói, vì chúng cố gắng luôn theo sát chủ mình. Pantalaimon nhắm mắt lại, Lyra hối hả chạy theo sau Tony Costa.

“Anh làm gì ở đây vậy?”

“Im lặng nào cô bé, đã có quá đủ rắc rối rồi, đừng khuấy động thêm nữa. Chúng ta sẽ nói chuyện trên thuyền.”

Anh dẫn cô đi qua một chiếc cầu gỗ nhỏ dẫn vào giữa con kênh. Hai người con trai kia lặng lẽ đi theo sau họ. Tony đi dọc bến tàu và đến một cầu tàu, từ đó anh bước lên một chiếc thuyền hẹp và mở cánh cửa vào cabin.

“Vào đi.” Anh nói. “Nhanh lên nào.”

Lyra làm theo, đập tay vào chiếc túi (cô chưa bao giờ rời nó, ngay cả khi nằm trong bẫy) để chắc chắn chiếc Chân-kế vẫn còn. Trong chiếc cabin hẹp và dài, với ánh đèn dầu treo trên chiếc móc, cô nhìn thấy một người phụ nữ to béo khỏe mạnh tóc muối tiêu, ngồi bên một chiếc bàn cùng một tờ giấy. Lyra nhận ra x đó là mẹ của Billy.

“Ai thế này?” Người phụ nữ nói “Không phải Lyra đấy chứ?”

“Đúng cô ấy đấy. Mẹ, chúng ta phải rời đi thôi. Chúng con đã giết hai người đàn ông trên kênh, chúng con nghĩ là bọn Gà trống tây, nhưng con đoán chúng là bọn lái buôn Thổ Nhĩ Kỳ. Chúng bắt Lyra. Đừng nói chuyện gì hết. Chúng ta sẽ nói trong khi đi.”

“Đến đây nào cô bé,” Mẹ Costa nói.

Lyra làm theo, nửa vui sướng, nửa sợ hãi vì Mẹ Costa có hai bàn tay to khỏe, giờ cô đã chắc chắn: đây chính là con thuyền cô đã tấn công cùng Roger và đám đàn em của mình. Nhưng bà mẹ đặt tay lên hai bên đầu Lyra. Và con nhân tinh của bà, một con chó lớn màu xám rất giống sói, nhẹ nhàng cúi xuống liếm chiếc đầu mèo hoang của Pantalaimon. Rồi mẹ Costa vòng cánh tay to lớn của mình quanh người Lyra, ôm chặt cô vào lòng

“Ta không biết cháu đang làm gì ở đây, nhưng trông cháu kiệt sức rồi. Cháu có thể nghĩ ở chỗ của Billy, ta sẽ mang nước nóng vào cho cháu ngay. Hãy ở lại đây, cô bé.”

Có vẻ như tội lỗi của cô đã được tha thứ, hay ít nhất là đã bị lãng quên. Lyra năm soài người trên tấm ghế dài bọc vải phía sau một chiếc bàn bằng gỗ thông đánh bóng khi tiếng máy khẽ gầm lên làm rung động con thuyền.

“Chúng ta sẽ đi đâu vậy?”

Mẹ Costa đã đặt một chảo sữa lên chiếc lò sắt và gạt chiếc vỉ lò để khơi ngọn lửa cháy to hơn.

“Đi khỏi đây, bây giờ thì không nói gì hết. Sáng mai chúng ta sẽ nói chuyện.”

Bà không nói gì nữa, đưa cho Lyra một cốc sữa sau khi đã hâm nóng và đi lên boong khi con thuyền bắt đầu dời bến, thỉnh thoảng bà lại thì thầm trao đổi với mấy người con trai. Lyra uống từng ngụm sữa và nhấc một góc tấm mà che để nhìn bến tàu tối đen lùi về phía sau. Mấy phút sau cô đã ngủ ngon lành.

Cô thức giấc trong một chiếc giường hẹp, phía dưới là biển cả đang khẽ rì rầm êm đềm. Cô ngồi lên, vỗ đầu, nhăn nhó, nghe ngóng xung quanh và thận trọng đứng dậy. Một ánh đèn màu xám hẹp chỉ cho cô thấy ba chiếc giường ngủ nữa, chiếc nào cũng xếp ngăn nắp và không có người nằm, một chiếc phía dưới giường cô nằm, hai chiếc khác kê ngang căn phòng bé xíu. Cô lăn sang một bên và nhận ra mình đang mặc đồ lót. Cô thấy váy và áo khoác da sói của mình gấp để ở cuối giường cùng chiếc túi du lịch của cô. Chiếc Chân-kế vẫn còn nguyên đó.

Cô nhanh chóng mặc quần áo, đi ra cửa và thấy mình trong cabin có chiếc bếp lò, trong đó ấm áp, không có ai cả. Qua những khung cửa sổ, cô nhìn thấy hai bên thuyền là một màn sương dày đặc, thỉnh thoảng lại có những bóng sẫm màu có thể là nhà cửa hoặc cây cối.

Trước khi cô ra ngoài lên boong, cửa bật mở ra mẹ Costa đi xuống, mình quấn áo choàng may bằng vải tuýt, trên đó những giọt sương bám vào như hàng ngàn viên ngọc trai bé xíu.

“Ngủ ngon không?” Bà hỏi, với tay lấy chiếc chảo rán, “giờ thì ngồi sang một bên để ta nấu cho cháu chút gì ăn sáng. Đừng đi lại lung tung, không có chỗ đâu.”

“Chúng ta đang ở đâu vậy?” Lyra hỏi.

“Trên dòng kênh Đại Hội Tụ, đừng có ra ngoài nhé, cô bé. Ta không muốn thấy cháu trên nóc thuyền đâu, sẽ rắc rối đấy.”

Bà thái hai miếng thịt lợn muối xông khói cho vào chảo và đập một quả trứng vào.

“Rắc rối thế nào ạ?”

“Không có gì chúng ta không đương đầu được, nếu cháu ngoan ngoãn nghe lời.”

Bà không nói gì thêm nữa cho đến khi Lyra ăn sáng. Có lúc con thuyền đi chậm lại, có gì đó va chạm vào mạn thuyền, cô nghe giọng những người con trai vang lên giận dữ; rồi có ai đó đùa tếu làm họ bật cười. Những giọng người xa dần, con thuyền tiếp tục tiến về phía trước.

Lúc này Tony Costa đang đi xuống cabin. Giống như mẹ Costa, người anh bám đầy những giọt sương như ngọc trai, anh treo chiếc mũ len phía trên lò nấu để hạt sương rơi xuống và khô đi.

“Chúng ta sẽ nói với cô ấy chuyện gì, Mẹ?”

“Hỏi trước, nói sau.”

Anh đổ một ít cà phê vào một chiếc cốc thiếc và ngồi xuống. Anh là một người con trai khỏe mạnh với khuôn mặt đen sạm. Giờ đây khi nhìn anh dưới ánh sáng ban ngày, Lyra thấy gương mặt anh có những nét quyết liệt và u buồn.

“Đúng vậy” anh nói, “giờ cô hãy nói cho chúng tôi biết cô đang làm gì ở London, Lyra. Chúng tôi đưa cô xuống đây khi cô đang bị bọn Gà trống tây bắt cóc. “

“Tôi đang sống cùng một quý bà, vâng…”

Lyra vụng về chắp vá câu chuyện của mình và sắp xếp nó theo thứ tự như thể cô đang xếp một bộ bài trước khi chơi. Cô kể cho họ tất cả mọi chuyện, trừ về chiếc Chân-kế.

“Và rồi trong bữa tiệc cocktail đêm hôm qua, tôi phát hiện ra điều họ thực sự đang làm. Chính bà Coulter là một trong số bọn Gà trống tây, bà ấy sắp sử dụng tôi để bắt thêm những đứa trẻ khác, và điều họ làm là…”

Mẹ Costa ra khỏi cabin và đi lên buồng lái. Tony đợi đến khi cánh cửa đóng lại rồi tiếp tục nói:

“Chúng tôi biết họ làm gì. Ít nhất, chúng tôi cũng biết một phần. Chúng tôi biết bọn trẻ sẽ không trở lại. Bọn trẻ con bị đưa lên miền Bắc, một nơi rất hẻo lánh, và người ta làm thí nghiệm trên người chúng. Lúc đầu chúng tôi đoán họ khác thử nghiệm những loại bệnh và thuốc lạ, nhưng không có lý do gì để bắt đầu tất cả những việc đó đột ngột hai hay ba năm về trước. Rồi chúng tôi nghĩ về bọn Tartar, có thể họ có những vụ trao đổi bí mật nào đó. Người Tartar muốn tiến càng sâu về phía Bắc càng tốt, vì ở đó có những mỏ than và mỏ khí, lại có những lời đồn đạvề chiến tranh từ lâu trước khi xuất hiện bọn Gà trống tây. Và chúng tôi đoán bọn Gà trống tây đang mua chuộc những tù trưởng Tartar bằng cách cung cấp trẻ con cho họ, vì người Tartar ăn thịt trẻ con, đúng vậy không? Họ nướng trẻ con lên và ăn thịt chúng.”

“Họ không bao giờ làm vậy dâu!” Lyra nói.

“Họ làm vậy đấy. Còn rất nhiều điều khác nữa có thể kể cho cô nghe. Cô đã bao giờ nghe về lũ Nalkainen chưa?”

Lyra trả lời, “Chưa, ngay cả trong thời gian tôi sống cùng bà Coulter. Họ là ai vậy?”

“Đó là một loại ma ở trong những khu rừng trên đó. Chúng lớn bằng một đứa trẻ, nhưng không có đầu. Chúng tự đánh hơi thấy đường trong đêm tối, nếu cô ngủ trong rừng, chúng sẽ bắt cô và không gì có thể làm chúng thả ra được. Nalkainen là một từ của Phương Bắc và Windsucker nữ chúng cúng rất nguy hiểm. Chúng trôi dạt trong không khí. Thỉnh thoảng cô cũng bắt gặp chúng kết thành từng hòn và trôi nổi, hay vướng vào một bụi cây. Ngay khi chúng chạm vào người cô, mọi sức lực của cô sẽ bị hút hết. Cô không thể nhìn thấy chúng ngoài một loại ánh sáng lờ mờ trong không khí, và những Kẻ tắt thở…”

“Chúng là ai vậy?”

“Những chiến binh bị giết một nửa. Sống là một chuyện, chết là một chuyện khác, nhưng b giết một nửa thì tệ hại hơn cả hai chuyện đó. Họ không thể chết, và sống là điều vượt quá sức của họ. Họ vĩnh viễn đi lang thang. Họ bị gọi là Những kẻ tắt thở vì điều đã xảy ra với họ.”

“Và đó là gì vậy?” Lyra hỏi, mắt mở to ngạc nhiên.

“Người Tartar trên phương Bắc mở lồng ngực của họ và lấy lá phổi ra. Đó là cả một nghệ thuật tinh vi. Người ta thực hiện việc này mà không giết chết họ, nhưng phổi của họ không làm việc được nữa nếu không có con nhân tinh của họ phải bơm phổi bằng tay, và kết quả là họ nửa thở nửa không thở, nửa sống nửa chết, cô thấy đấy. Con nhân tinh của họ phải bơm phổi họ suốt ngày đêm nếu không nó cũng chết cùng chủ. Thỉnh thoảng có thể bắt gặp cả một đoàn những Kẻ tắt thở trong rừng, tôi nghe nói thế. Và còn có Panserbjorne—nghĩa là những con gấu mặc áo giáp sắt. Chúng giống một loại gấu Bắc cực, ngoại trừ… “

“Có! Tôi đã nghe nói! Một trong những người khách đêm qua nói rằng, chú tôi ngài Asriel, đang bị giam trong một pháo đài do những con gấu mặc áo giáp canh giữ.”

“Thế sao? Ông ấy làm gì trên đó vậy?”

“Thám hiểm. Nhưng theo cách người đàn ông nói chuyện, tôi không nghĩ chú tôi cùng hội cùng thuyền với bọn Gà trống tây. Tôi nghĩ là chúng đang vui mừng vì chú tôi bị cầm tù.”

“Ừ vậy thì ông ấy sẽ không thể thoát ra được nếu những con gấu mặc áo giáp đang canh giữ ông ấy. Chúng giống bọn lính đánh thuê, cô có hiểu ý tôi nói không? Chúng bán sức lực của mình cho bất cứ người nào mua. Chúng có những bàn tay giống như của con người, và chúng học được thủ thuật luyện sắt, phần lớn là sắt rơi từ trên sao băng xuống, chúng làm thành những tấm và phiến để che thân mình. Chúng đã cướp bóc của người Skraeling trong nhiều thế kỷ. Chúng là những sát thủ độc ác, không một chút thương hại nào. Nhưng chúng rất giữ lời. Nếu cô có một thỏa thuận với một Panserbjorne, cô có thể yên tâm về điều đó.”

Lyra sợ hãi cân nhắc sự khủng khiếp đó.

“Mẹ tôi không thích nghe chuyện về phương Bắc,” Tony nói sau một lúc, “vì đó là những chuyện có thể xảy đến với Billy. Chúng tôi biết chúng đã đưa nó lên phương Bắc.”

“Làm sao anh biết được điều đó?”

“Chúng tôi bắt được một trong những tên Gà trống tây và bắt nó phải khai ra. Nhờ đó chúng tôi biết được chút ítề việc chúng đang làm. Hai tên đêm hôm qua không phải bọn Gà trống tây; chúng quá vụng về, nếu chúng là bọn Gà trống tây, bọn tôi đã bắt sống chúng. Cô thấy đấy, những người Gypsy, chúng tôi là những người chịu thiệt thòi hơn cả bọn Gà trống tây. Chúng tôi sẽ họp lại để quyết định cần làm gì. Đó là nguyên nhân chúng tôi có mặt trên kênh đêm hôm qua, vì chúng tôi sắp có một cuộc gặp mặt. Tôi đoán chúng tôi sẽ tổ chức một cuộc họp bàn về việc giải cứu, khi chúng tôi nghe nói tất cả những người Gypsy khác biết, khi chúng tôi chia sẻ những hiểu biết với nhau. Nếu tôi là John Faa, tôi cũng làm như vậy.”

“John Faa là ai ?”

“Vua của những người Gypsy.”

“Và các anh thực sự sẽ đi cứu bọn trẻ? Còn Roger thì sao”“

“Roger là ai vậy?”

“Cậu bé làm bếp tại Học viện Jordan. Cậu ấy cũng bị bắt giống Billy một ngày trước khi tôi đi cùng bà Coulter. Tôi cá là nếu tôi bị bắt, cậu ấy cũng sẽ đến cứu. Nếu anh đang đi cứu Billy, tôi muốn đi cùng để cứu Roger.”

Và cả chú Asriel nữa, cô nghĩ, nhưng cô không nhắc đến điều đó.

Chương 7: John Faa

Giờ thì trong tâm trí Lyra đã có một mục tiêu, cô cảm thấy phấn chấn hơn rất nhiều. Việc giúp đỡ bà Coulter đã diễn ra rất tốt đẹp, nhưng Pantalaimon nói đúng: cô chẳng thực sự làm gì ở đó cả, cô chỉ như một con vật yêu thôi. Trên chiếc thuyền của người Gypsy, có những việc thực sự để làm, và Mẹ Costa nói chắc chắn cô có thể làm được. Cô lau chùi, quét dọn, gọt khoai tây, pha trà, bôi dầu mỡ vào cần trục chân vịt, gỡ các sợi rong tảo qun vào chân vịt, rửa bát đũa, mở các ổ khóa, buộc thuyền vào bến hạ neo. Chỉ trong vòng hai ngày, cô đã quen với cuộc sống này như thể cô sinh ra đã là người Gypsy vậy.

Điều cô không để ý là người nhà Costa rất cảnh giác với bất cứ dấu hiệu bất thường nào từ những người trên bờ nhằm vào Lyra. Cô không nhận thấy cô rất quan trọng, vì bà Coulter cùng Ủy ban Tôn giáo đang tìm kiếm cô khắp nơi. Thực sự, Tony nghe thấy người ta bàn tán dọc đường đi rằng cảnh sát đang tiến hàng khám xét nhà cửa, nông trại, nhà kho và phân xưởng mà không một lời giải thích, dù người ta đồn rằng họ đang tìm kiếm một bé gái đang mất tích. Bản thân việc này thật kỳ quặc, vì tất cả những đứa trẻ mất tích đều không được tìm kiếm. Những người Gypsy và dân thường trên đất liền đều rất hoݡX hốt và lo lắng.

Có một nguyên nhân khác khiến nhà Costa quan tâm đến Lyra nhưng cô không biết điều đó trong vài ngày tới.

Vì thế họ giữ cô dưới khoang khi đi qua túp lều của người coi cổng hay một lòng kênh, hay bất cứ nơi nào nhiều bọn ngồi lê đôi mách. Mỗi khi đi qua một thành phố cảnh sát lục soát tất cả những con thuyền qua lại và phong tỏa cả hai đầu kênh, nhà Costa cũng có cách của mình. Có một ngăn kín bí mật dưới giường ngủ của Mẹ Costa, nơi Lyra nằm trốn khoảng hai tiếng đồng hồ trong khi cảnh sát lục soát từ đầu đến cuối con thuyền nhưng vẫn thất bại.

“Nhưng tại sao nhân tinh của họ không tìm thấy cháu?” Sau đó cô thắc mắc, Mẹ Costa chỉ cho cô lớp gỗ đậy nơi trốn bí mật đó: gỗ tuyết tùng. Loại gỗ này có tác dụng gây ngủ với nhân tinh, và đúng là Pantalaimon đã ngủ ngon lành trên đầu Lyra suốt thời gian trốn đó.

Dần dần, với nhiều khoảng dừng và đường vòng, con thuyền nhà Costa đã đến vùng đầm lầy, khoảng trời rộng mênh mông không giới hạn và những đầm lầy phía đông Anglia. Ranh giới xa nhất nó hòa trộn vào đến mức không thể phân biệt được với con lạch và vùng nước do thủy triều lên để lại do biển trước giờ đây đã cạn, và phía kia của biển trộn lẫn với vùng đất của Hà Lan. Nhiều phần của vùng đầm lầy đã bị người Hà Lan làm chỗ tiêu nước, một số người trong số đó đã định cư lại; vì thế ngôn ngữ của vùng đầm lầy bị ảnh hương rất nhiều tiếng Hà Lan. Nhưng có những chỗ không bị làm tiêu nước, trồng cây hay định cư, và tại những vùng trung tâm hoang sơ nhất, nơi lũ trườn bò và chim nước đậu thành đàn, nơi những ngọn lửa đầm lầy bí ẩn lấp lánh dụ dỗ những lữ khách bất cẩn lạc vào tử địa của những đầm lầy. Người Gypsy luôn coi đây là lãnh địa dùng để tụ họp.

Và giờ đây trên hàng nghìn dòng kênh, lạch và suối ngoằn ngoèo, những con thuyền của người Gypsy đang tiến về phía vùng Byan, mảnh đất duy nhất cao hơn các phần khác một chút trong số hàng nghìn kilomet vuông đầm lầy. Có một phòng họp mặt lớn bằng gỗ từ lâu đời tại đây, xung quanh có một số cư dân thường xuyên, một bến tàu, một con đê và một Chợ lươn. Khi người Gypsy kêu gọi một Hội nghị Byan, tức là một sự triệu tập hay gặp mặt của các gia tộc, rất nhiều con thuyền tràn ngập mặt nước đến mức có thể đi hàng kilomet theo bất cứ hướng nào trên boong của các con thuyền, hay ít ra cũng là nghe nói như vậy. Người Gypsy thống trị Vùng đầm lầy. Không người nào khác dám xâm phạm; chừng nào người Gypsy còn giữ hòa khí và làm ăn sòng phẳng, những người trên bờ vẫn lờ đi cho họ những vụ buôn lậu thường xuyên hay thỉnh thoảng có các vụ trả thù. Nếu xác một người Gypsy nổi lên bờ biển, hay vướng vào lưới đánh cá, thì, đó chỉ là một người Gypsy, và những người trên bờ không truy cứu gì thêm.

Lyra say sưa lắng nghe những huyền thoại về cư dân Vùng đầm lầy, về con chó ma Shuck Đen to lớn, về những ngọn lửa đầm lầy nổi lên từ bong bóng tinh dầu do phù thủy chiết xuất, và cô bắt đầu nghĩ mình là một người Gypsy ngay trước khi đến được Vùng đầm lầy. Cô đã nhanh chóng nói giọng Oxford trở lại, và giờ cô đang muốn nói được giọng người Gypsy, pha trộn giữa ngôn ngữ Vùng đầm lầy và tiếng Hà Lan. Mẹ Costa đã nhắc nhở cô vài điều.

“Cháu không phải người Gypsy, Lyra ạ. Cháu có thể thử làm người Gypsy một chút, nhưng với chúng tôi thì còn nhiều điều hơn là chỉ có ngôn ngữ. Nó ở sâu thẳm trong con người chúng tôi và chảy thành dòng rấtđ mạnh mẽ. Chúng tôi là người của nước từ đầu đến chân, nhưng cháu thì không, cháu là người của lửa. Cái cháu giống nhất là ngọn lửa đầm lầy, đó là một thuật ngữ của người Gypsy. Trong tâm hồn cháu có chất tinh dầu do phù thủy chiết xuất. Lừa dối, đó là bản chất của cháu, cô bé ạ.”

Lyra cảm thấy đau đớn.

“Cháu chư bao giờ lừa gạt ai! Bác nói…”

Chẳng có ai để hỏi được cả, tất nhiên là như vậy, và Mẹ Costa bật cười, nhưng với thái độ rất hiền từ.

“Cháu không thấy là ta đang khen ngợi cháu sao, con ngỗng non?” Bà nói, và Lyra cảm thấy nguôi ngoai, dù cô không hiểu ý bà là gì.

Khi họ đến vùng Byan vào buổi tối, mặt trời đang sắp lặn trên bầu trời đỏ ối. Hòn đảo thấp, Phòng họp mặt tạo thành một vùng tối đen dưới ánh sáng, như những căn nhà xung quanh, những đám khói bay lên trong không khí tĩnh lặng, và từ những con thuyền đậu khắp xung quanh bay ra mùi cá rán và mùi lá thuốc.

Họ buộc thuyền gần ngay Phòng họp mặt, tại một nơi buộc thuyền Tony nói được gia đình anh dùng trong nhiều thế hệ. Lúc này Mẹ Costa đang nổi lửa đặt chảo lên lò với hai con lươn béo cùng một nồi bội t khoai tây. Tony và Kerim bôi dầu lên tóc, khoác lên mình những chiếc khăn quàng cổ đốm xanh dương, lồng đầy vào ngón tay những chiếc nhẫn bạc và đi thăm những người bạn thân thiết trên các thuyền lân cận rồi uống một hai cốc tại quán rượu gần nhất. Họ quay về với những tin quan trọng.

“Chúng ta đến đây vừa đúng lúc. Cuộc họp sẽ được tổ chức chính vào đêm nay. Trong thị trấn người ta đồn đại, mẹ có biết người ta nói gì không, người ta nói đứa trẻ mất tích đi trên một con thuyền của người Gypsy, nó sẽ xuất hiện đêm nay tại buổi họp mặt!”

Anh cười to và làm tóc Lyra rối bù. Kể từ khi họ vào Vùng đầm lầy, anh càng lúc càng dễ chịu hơn, như thể sự ủ rũ hung tàn trên khuôn mặt anh chỉ là một sự cải trang. Lyra cảm thấy một sự hồi hộp ngày càng tăng thêm trong lồng ngực khi cô ăn uống thật nhanh và rửa bát đũa trước khi chải đầu, đút chiếc Chân-kế vào túi chiếc áo khoác da sói và nhảy lên bờ cùng những gia đình khác leo lên con dốc dẫn đến Phòng họp mặt.

Cô đã tưởng Tony nói đùa. Cô nhanh chóng nhận thấy anh không đùa, hoặc cô không giống một người Gypsy như mình nghĩ, vì rất nhiều người nhìn ngó, lũ trẻ con chỉ trỏ, đến lúc họ đến những cánh cửa lớn của Phòng họp mặt họ đi riêng lẻ, còn bên kia là cả một đám đông, họ đi lùi lại phía sau để nhìn ngó và nhường đường.

Lyra bắt đầu cảm thấy thực sự bồn chồn. Cô nép sát vào Mẹ Costa, Pantalaimon phình to hết mức nó có thể và chọn hình dáng con báo để làm cô yên lòng. Mẹ Costa bước từng bước như thể không có gì trên đời này có thể chặn bước chân bà hay làm bà đi nhanh hơn chút ít, còn Tony và Kerim tự hào đi hai bên như hai hoàng tử.

Phòng họp được thắp bằng đèn dầu, chiếu sáng đủ khuôn mặt và hình dáng của những người đến dự, nhưng lại để ghế người chủ tọa chìm trong bóng tối. Người đi vào phải tranh nhau chỗ trên sàn nhà, vì các ghế dài đã ngồi kín chỗ, nhưng nhiều gia đình chen lấn để có chỗ. Bọn trẻkh chiếm lĩnh vòng ngoài cùng và các nhân tinh cuốn mình dưới chân chủ hay đậu trên những bờ tường gỗ xù xì.

Phía trước Phòng họp mặt có một bục diễn thuyết đặt tám chiếc ghế gỗ có khắc hình. Khi Lyra và nhà Costa đi tìm chỗ đứng dọc căn phòng (không còn chỗ nào để ngồi), tám người đàn ông xuất hiện từ bóng tối phía sau bục diễn thuyết và đứng phía trước mấy chiếc ghế. Một làn sóng hào hứng nổi lên giữa các thính giả khi họ xô đẩy nhau để chen lên chỗ gần với cái ghế dài nhất. Cuối cùng mọi người im lặng và bảy người đàn ông trên bục ngồi xuống.

Người vẫn đứng khoảng bảy mươi tuổi, nhưng cao lớn, cổ to, ngắn và trông rất khỏe mạnh. Ông mặc một chiếc áo khoác giản dị bằng vải bạt cùng một chiếc sơ mi kẻ caro, như nhiều người đàn ông Gypsy khác. Không có gì làm ông nổi bật ngoại trừ không khí tràn ngập sức mạnh và quyền lực ông tạo ra. Lyra đã nhận ra nó: chú Asriel cũng có thứ quyền lực đó, cả ông Hiệu trưởng Jordan cũng vậy. Nhân tinh của người đàn ông này là một con quạ, rất giống con quạ của ông Hiệu trưởng.

“Đó là John Faa, vua của những người Gypsy phía tây.” Tony thì thầm.

John Faa bắt đầu nói, giọng ông chậm rãi và sâuắng.

“Thưa các bạn Gypsy! Chào mừng các bạn đến với buổi họp mặt. Chúng ta đến là để lắng nghe và đến để quyết định. Tất cả các bạn đều biết vì lý do gì. Có rất nhiều các gia đình tại đây đã bị mất trẻ em. Có gia đình còn mất hai em bé. Có ai đó đã đánh cắp chúng. Chắc chắn, những người dân trên bờ cũng đang bị mất trẻ em. Chúng ta không có tranh cãi gì với những người trên về chuyện này.

Hiện nay người ta đang đồn đại về một đứa trẻ và một phần thưởng. Đây chính là sự thực để chấm dứt tất cả những chuyện ngồi lê đôi mách. Tên đứa trẻ là Lyra Belacqua, cô bé đang bị cảnh sát trên bờ tìm kiếm. Phần thưởng là một nghìn đồng vàng cho ai giao cô bé cho họ. Cô bé là một đứa trẻ của người trên bờ, và cô bé đang trong vòng tay che chở của chúng ta, đây là nơi cô bé sẽ ở lại. Bất cứ ai bị lóa mắt bởi một nghìn đồng vàng tốt nhất hãy đi tìm một nơi nào đó trên đất liền mà ở thay vì trên mặt nước. Chúng ta sẽ không giao nộp cô bé.”

Lyra cảm thấy đỏ bừng từ chân tóc cho tới đầu ngón chân, Pantalaimon biến thành một con bướm đm màu nân để lẩn trốn. Mọi con mắt xung quanh đều dồn vào họ, và cô chỉ còn cách nhìn lên Mẹ Costa để tìm sự che chở.

Nhưng John Faa lại tiếp tục nói:

“Hãy bàn bạc về tất cả những gì chúng ta có thế làm. Chúng ta phải hành động nếu muốn thay đổi cục diện này. Có một tin nữa cho các bạn: bọn Gà trống tây, những kẻ ăn cắp trẻ con đó đang đưa những tù nhân của chúng đến một thành phố ở vùng cực Bắc, vùng đất của bóng tối. Tôi không biết họ làm gì chúng ở trên đó. Một số người nói họ giết chúng, một số người lại nói khác. Chúng ta không biết thực hư thế nào.

Điều chúng ta biết chắc chắn là chúng làm như vậy với sự giúp đỡ của cảnh sát trên đất liền và giới giáo sĩ. Mọi thế lực trên đất liền đang hậu thuẫn chúng. Hãy nhớ lấy điều này. Họ không biết điều gì đang xảy ra và sẽ tiếp tục giúp chúng bất cứ khi nào có thể.”

“Vì thế điều tôi đề xuất không hề dễ dàng. Và tôi cần sự đồng tình của các bạn. Tôi đề nghị cử một nhóm các chiến binh lên phương Bắc để cứu lũ trẻ và đưa chúng còn sống trở về. Tôi đề nghị rằng chúng ta quyên góp vàng bạc của mình vào đây và tất cả tâm huyết cùng lòng dũng cảm chúng ta có thể có. Vâng, Raymond van Gerrit?”

Một người trong số người tham dự đã giơ tay, và John Faa ngồi xuống để ông ta phát biểu.

“Phiền ngài, thưa ngài John Faa. Trẻ con của người trên đất liền cũng như của người Gypsy đều bị bắt cóc. Có phải ý ngài nói chúng ta sẽ cứu cả chúng nữa?”

John Faa đứng lên trả lời.

“Raymond, có phải anh đang nói chúng ta phải vượt qua bao nhiêu nguy hiểm để tìm được một nhóm trẻ con đang hoảng sợ, rồi nói với một số rằng chúng có thể về nhà, và số còn lại phải ở lại? Không, anh tốt bụng hơn thế nhiều. Nào, tôi có được sự ủng hộ của các bạn không, các bạn của tôi?”

Câu hỏi đếi họ đột ngột. vì có một khoảng thời gian do dự, nhưng sau đó là một tiếng hét hào sảng rung động căn phòng, những bàn tay vỗ lên trong không khí, những nắm đấm rung lên, những giọng người cất lên hào hứng. Những chiếc cột trong phòng họp rung rinh, từ trong bóng tối, một loạt chim đêm đang ngủ thức giấc sợ hãi vỗ cánh bay lên, những hạt bụi rơi xuống.

John Faa để tiếng kêu gào tiếp tục trong một phút rồi giơ tay lên để giữ trật tự.

“Cần một khoảng thời gian để tổ chức. Tôi muốn những người chủ gia đình đưa ra một định mức đóng góp tiền bạc và số người trong gia đình có thể tham gia. Chúng ta sẽ gặp lại nhau trong ba ngày tới tại đây. Từ bây giờ đến đó, tôi sẽ nói chuyện với đứa trẻh tôi đã nói đến và với Farder Coram, và lập một kế hoạch trước khi chúng ta gặp lại nhau. Xin chào tất cả các bạn.”

Sự vĩ đại, giản dị và bình tĩnh của ông đã đủ làm họ dịu lại. Khi các thính giả bắt đầu ra khỏi các cánh cửa trong đêm tối lạnh lẽo để quay về thuyền hay các quán rượu, Lyra nói với Mẹ Costa:

“Những người đàn ông khác trên bục diễn thuyết là ai vậy?”

“Những người chủ của sáu gia đình, người còn lại là Farder Coram.”

Rất dễ phân biệt người còn lại bà nói đến là ai, vì ông là người già nhất trong số đó. Ông đi lại với một cây gậy chống và trong suốt thời gian ngồi sau John Faa, người ông run rẩy như thể đang trong một cuộc tranh luận.

“Đi nào.” Tony nói. “Tốt nhất là tôi đưa cô đến để tỏ lòng tôn kính với John Faa. Cô hãy gọi ông ta là ngài Faa. Tôi không biết cô sẽ được hỏi những chuyện gì, nhưng hãy nhớ là phải nói sự thật.”

Pantalaimon giờ đã biến thành một chú vẹt, và nó đứng với vẻ lo lắng trên vai cô, móng vuốt nó cắm sâu vào lớp áo khoác lông sói khi cô theo Tony len qua những đám đông để lên phía bục diễn thuyết.

Anh nhấc cô lên. Nhận thấy tất cả những người trong phòngù đang nhìn cô và ý thức về số tiền thưởng một nghìn đồng vàng mình bất ngờ đáng giá, cô đỏ bừng mặt, luống cuống. Pantalaimon nép vào lòng cô, rồi biến thành một con mèo hoang, nằm trên tay cô rên lên khe khẽ khi nhìn xung quanh.

Lyra cảm thấy bị đẩy sau lưng, cô bước về phía John Faa. Trông ông nghiêm nghị, to lớn và không biểu lộ chút tình cảm nào, giống một chiếc cột đá hơn là một người đàn ông, ông khom lưng và đưa tay ra bắt. Khi cô đặ>t tay mình vào tay ông, nó gần như biến mất trong bàn tay vĩ đại.

“Chào mừng cháu, Lyra,” Ông nói.

Lại gần hơn, cô cảm thấy giọng ông rung rinh. Cô hơi lo lắng một chút, nhưng là cho Pantalaimon. Thái độ lạnh lùng của John Faa đã ấm áp hơn. Ông đang đối xử rất dịu dàng với cô.

“Cảm ơn ngài Faa,” Cô đáp lời.

“Giờ cháu hãy vào phòng khách, chúng ta sẽ nói chuyện.” John Faa nói. “Cháu đã ăn lươn trong bữa tối chưa vậy?”

“Ồ, rồi ạ. Chúng cháu đã ăn lươn trong bữa tối.”

“Lươn Vùng đầm lầy hảo hạng, ta mong rằng như thế.”

Phòng khách là nơi thoải mái với một lò sưởi lớn, những chiếc tủ búp phê xếp đồ bạc và đồ sứ, một chiếc bàn lớn màu tối được đánh bóng lâu năm, xung quanh xếp mười hai chiếc ghế.

Những người đàn ông khác trên bục đã đi đâu đó, nhưng ông già run rẩy vẫn ở lại cùng họ. John Faa giúp ông ngồi xuống một chiếc ghế bên bàn.

“Giờ thì cháu hãy ngồi xuống bên phải ta đây.”

John Faa nói với Lyra, và tự mình ngồi vào chiếc ghế ở đầu bàn. Lyra thấy mình ngồi đối diện với Farder Coram. Cô hơi sợ trước khuôn mặt xương xẩu và dáng người run rẩy liên tục của ông. Nhân tinh của ông là một chú mèo màu vàng lớn rất đẹp đang nằm xoài trên bàn, chiếc đuôi ve vẩy. Nó duyên dáng nhìn Pantalaimon, khẽ khịt mũi trước khi nằm yên trên lòng Farder Coram, khéo hờ mắt và khẽ rên rừ rừ.

Một người phụ nữ Lyra không để ý thấy bước ra từ bóng tối với một chiếc khay, để nó bên cạnh John Faa, khẽ nhún đầu gối cúi chào rồi đi ra. John Faa rót hai cốc nhỏ Jenniver từ chiếc bình đá cho mình, cho Farder và rót một ít rượu cho Lyra.

“Vậy là,” John Faa nói, “cháu đã chạy trốn phải không Lyra?”

“Vâng ạ.”

“Và quý bà cháu chạy trốn khỏi là ai vậy?”

“Đó là bà Coulter. Mặc dù bà ấy rất tốt, cháu đã phát hiện ra bà ấy là một trong những tên Gà trống tây. Cháu nghe ai đó giải thích bọn Gà trống tây là ai, chúng được gọi là Ủy ban Tôn giáoi , bà ấy chịu trách nhiệm về ủy ban đó, đó hoàn toàn là ý tưởng của bà ấy. Tất cả bọn chúng đang thực hiện một kế hoạch nào đó, cháu không biết kế hoạch đó là gì, chỉ biết họ đang chuẩn bị bắt cháu giúp bà ấy bắt cóc trẻ con cho họ. Nhưng họ không bao giờ biết…”

“Chúng không bao giờ biết điều gì?”

“Vâng, trước hết họ không bao giờ biết cháu quen một vài đứa trẻ đã bị bắt cóc. Roger bạn cháu làm việc trong nhà bếp ở Học viện Jordan, Billy Costa, một cô bé trong chợ Vải ở Oxford. Và những điều khác nữa… Chú cháu, vâng. Ngài Asriel. Cháu nghe họ nói về chuyến đi của chú ấy lên phương Bắc, cháu không nghĩ chú ấy có liên quan gì đến bọn Gà trống tây. Vì cháu đã theo dõi ông Hiệu trưởng và các Học giả tại Jordan, vâng, cháu trốn trong phòng nghỉ, không ai được phép vào đó ngoại trừ họ, cháu nghe chú ấy nói với các Học giả tất cả về chuyến thám hiểm của chú ấy trên phương Bắc, về thứ Bụi chú ấy nhìn thấy, và chú ấy mang về chiếc đầu của Stanislaus Grumman, trên đó có một cái lỗ mà người Tartar đã đục. Bây giờ bọn Gà trống tây đã giam cầm chú ấy ở một nơi nào đó. Những con gấu mặc áo giáp sắt đang canh giữ chú ấy. Và cháu muốn đi giải cứu chú ấy. “

Trông cô dữ dội, bướng bỉnh khi ngồi đó, bé nhỏ và tương phản với chiếc lưng ghế chạm trổ màu đen. Hai người đàn ông không nén nổi nụ cười, nhưng trong khi nụ cười của Farder Coram mang nét do dự, thỏa thuê, phức tạp rung rinh trên gương mặt ông giống như ánh mặt trời đuổi theo bóng mình trong một ngày tháng ba tràn ngập gió, nụ cười của John Faa lại chậm rãi, ấm áp, giản dị và nhân hậu.à

“Tốt hơn là cháu hãy kể cho chúng ta những gì cháu nghe chú cháu nói buổi tối hôm đó,” John Faa nói. “Đừng bỏ sót bất cứ điều gì, nhớ là như vậy. Hãy nói cho chúng ta tất cả mọi thứ.”

Lyra làm theo đúng như vậy, chậm rãi hơn so với khi cô kể cho nhà Costa nhưng trung thực hơn. Cô e sợ John Faa, và điều cô sợ nhất chính là sự tốt bụng của ông. Khi cô kể xong, lần đầu tiên Farder Coram lên tiếng. Giọng ông giàu âm điệu và ấm áp, giọng điệu trong lời nói của ông cũng nhiều như số lông trên bộ lông con nhân tinh của ông vậy.

“Loại Bụi này,” ông nói, “người ta gọi nó bằng tên nào khác không, Lyra?”

“Không, chỉ là Bụi thôi. Bà Coulter giảng cho cháu bản chất của nó. Đó là các hạt cơ bản, nhưng bà ấy chỉ gọi nó như vậy thôi.”

“Và họ cho rằng bằng cách làm điều gì đó với bọn trẻ, họ có thể tìm hiểu thêm về nó?”

“Vâng. Nhưng cháu không biết là điều gì. Ngoại trừ chú cháu…Có một điều cháu quên chưa kể. Trong khi ông ấy đang cho họ xem các tấm hình bằng đèn chiếu, ông ấy có một tấm hình khác. Đó là hiện tượng Quang cực…”

“Cái gì cơ?” John Faa hỏi.

“Hiện tượng cực quang,” Farder Coram nói, “Đúng thế không, Lyra?”

“Vâng, đúng rồi. Và trong hiện tượng Quang cực có một cái gì đó như một thành phố. Tất cả các ngọn tháp và nhà thờ, mái vòm và nhiều thứ nữa. Nó hơi giống Oxford, dù sao, cháu cũng nghĩ như thế. Chú Asriel, chú ấy quan tâm đến nó hơn, cháu nghĩ thế, nhưng ông Hiệu trưởng và các Học giả khác, như bà Coulter và Ngài Boreal quan tâm đến Bụi hơn.”

“Ta hiểu,” John Faa nói. “Điều này thật thú vị.”

“Nào, Lyra,” John Faa nói, “Ta sắp nói cho cháu một số chuyện. Farder Coram ở đây, ông ấy là một người khôn ngoan. Ông ấy là một nhà tiên tri, Ông ấy đã theo đuổi tất cả những gì liên quan đến Bụi, bọn Gà trống tây và Ngài Asriel và mọi thứ khác, ông ấy cũng luôn theo sát cháu. Mỗi lần nhà Costa đến Oxford, cùng phân nửa các gia đình Gypsy khác, họ đều mang lại chút tin tức. Về cháu, cô bé ạ. Cháu có biết việc này không?”

Lyra lắc đầu. Cô bắt đầu lo sợ. Pantalaimon gầm gừ quá nhỏ đến mức chẳng ai nghe thấy, nhưng cô có thể cảm nhận thấy qua những ngón tay đang luồn vào lông nó.

“À, đúng,” John Faa nói, “tất cả những gì cháu đang làm, họ đều nói lại cho Farder Coram ở đây.”

Lyra không thể bình tĩnh nổi nữa.

“Chúng cháu không hề phá hoại nó! Thật đấy ạ! Đó chỉ là một ít bùn thôi! Chúng cháu không bao giờ đi quá xa…”

“Cháu đang nói chuyện gì vậy?” John Faa hỏi.

Farder Coram bật cười. Khi ông cười, cơn run rẩy của ông ngừng lại, khuôn mặt ông trở nên rạng rỡ và trẻ trung.

Nhưng Lyra không cười. Môi cô run rẩy. “Và dù nếu chúng cháu đã tìm thấy cái nút thùng, chúng cháu cũng không bao giờ rút nó ra! Đó chỉ là một trò đùa thôi. Chúng cháu không bao giờ đánh đấm nó, không bao giờ!”

Giờ thì đến lượt John Faa cười to. Ông đập một bàn tay rộng lớn xuống bàn mạnh đến nỗi cốc tách rung lanh canh, bờ vai khổng lồ của ông rung lên, ông phải lấy tay chùi nước mắt. Lyra chưa bao giờ nhìn thấy một cảnh tượng như vậy, cũng chưa từng nghe một tiếng gầm nào như thế, cứ như thể một ngọn núi đang cười vậy.

“À, đúng,” ông lên tiếng khi đã có thể nói lại, “chúng ta cũng được nghe về chuyện đó, cô bé ạ! Ta không cho rằng kể từ đó nhà Costa đi đến bất cứ nơi nào mà không nhắc lại chuyện đó. Mọi người bảo: ‘Tony, tốt nhất là cậu hãy cắt một bảo vệ ở lại trên thuyền! Những cô bé hung hăng như thế có ở khắp xung quanh đây đấy!’ Câu chuyện lan khắp vùng Đầm lầy, cô bé ạ. Nhưng chúng ta sẽ không phạt cháu về chuyện này đâu. Không! Không cháu đừng lo.”

Ông nhìn Farder Coram, hai người đàn ông lại cười to, nhưng nhẹ nhàng hơn. Lyra cảm thấy yên tâm và an toàn.

Cuối cùng, John Faa lắc đầu, nghiêm túc trở lại.

“Ta đang nói, Lyra ạ, rằng chúng ta biết về cháu từ khi cháu còn là một đứa trẻ. Từ khi mới sinh ra. Cháu cần phải rõ là chúng ta biết những gì. Ta không chắc người ta nói với cháu điều gì ở Jordan về nơi cháu sinh ra, nhưng họ không biết tất cả sự thực. Họ từng nói ai là cha mẹ của cháu chưa?”

Giờ thì Lyra hoàn toàn choáng váng.

“Có” cô trả lời, “họ nói cháu là… họ nói họ…họ nói ngài Asriel đưa cháu đến đó khi cha và mẹ cháu qua đời trong một tai nạn khinh khí cầu. Đó là điều người ta nói với cháu.“

“À, họ nói thế hả? Vậy thì, cô bé, ta sẽ kể cho cháu một câu chuyện, một câu chuyện có thật. Ta biết nó là sự thực, vì một người phụ nữ Gypsy kể cho ta, tất cả bọn họ đều nói thật với John Faa và Farder Coram. Vì thế đây là sự thật về chính cháu, Lyra ạ. Cha cháu chưa bao giờ gặp tai nạn khinh khí cầu, vì cha cháu là Ngài Asriel.”

Lyra chỉ có thể ngồi yên trong thắc mắc.

“Câu chuyện xảy ra như thế này,” John Faa tiếp tục. “Khi còn trẻ, Ngài Asriel đã đi thám hiểm toàn bộ phương Bắc, và quay trở về với một gia tài khổng lồ. Ông là một người đàn ông dũng cảm, dễ nổi nóng và nồng nàn. “

“Và mẹ cháu cùng là một người nồng nàn. Không có xuất thân cao quý bằng ông, nhưng là một phụ nữ thông minh. Thậm chí, là một học giả, những người nhìn thấy bà đều nói bà rất xinh đẹp. Bà ấy và cha cháu đã yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên.”

“Rắc rối là ở chỗ, mẹ cháu đã kết hôn. Bà đã lấy một chính trị gia. Ông ta là một thành viên trong phe của Đức vua, một trong những cố vấn thân cận nhất. Một nhân vật có thế lực.”

“Đến khi mẹ cháu biết mình có mang, bà ta sợ phải nói với chồng về đứa bé không phải con của ông ta. Và khi đứa bé chào đời—chính là cháu đấy, cô bé ạ, nhìn bên ngoài đã thấy rõ cháu không giống chồng bà ta, mà giống cha đẻ của cháu, bà ấy nghĩ tốt nhất là giấu cháu đi và nói dối rằng cháu đã chết.”

“Thế là cháu được đưa đến quận Oxford, nơi cha cháu có tài sản cố định, và đặt dưới sự trông nom của một người phụ nữ Gypsy. Nhưng có người đã rỉ tai chồng mẹ cháu về điều xảy ra, ông ta lao đến lục soát căn nhà nơi người phụ nữ Gypsy sống, bà ta đã trốn đến một căn nhà lớn hơn, người chồng theo sau, với lòng hận thù ngút trời.”

“Cha cháu ra ngoài đi săn, nhưng nghe được tin và phi ngựa về vừa lúc chồng mẹ cháu đến được chân cầu thang lớn. Chỉ một phút nữa thôi ông ta đã mở được cửa căn buồng nhỏ nơi người phụ nữ Gypsy và cháu đang ẩn náu, nhưng Ngài Asriel thách thức ông ta, rồi họ lao vào đánh nhau, Ngài Asriel đã giết chết ông ta.”

“Người phụ nữ Gypsy đã nghe và chứng kiến tất cả, Lyra, vì thế chúng ta mới biết chuyện.”

“Kết quả là một vụ kiện rùm beng. Cha cháu không phải loại đàn ông chối bỏ hay che dấu sự thực, và điều này gây rắc rối cho các quan tòa. Đúng là ông ấy đã giết người, ông đã gây đổ máu, nhưng ông đang bảo vệ nhà mình và con mình trước sự đe dọa của một kẻ đột nhập. Mặt khác, luật pháp cho phép bất cứ người đàn ông nào c Nũng có quyền được trả thù các tội do người vợ gây nên và luật sư của người chết tranh cãi rằng thân chủ ông ta chỉ làm đúng như vậy.”

“Phiên tòa kéo dài nhiều tuần, với rất nhiều lời buộc tội qua lại lẫn nhau. Cuối cùng các quan tòa phạt Ngài Asriel bằng cách tịch thu toàn bộ tài sản và đất đai của ông, khiến ông trở thành một người bần cùng, trong khi ông từng giàu có hơn cả một vị vua.”

“Còn về phần mẹ cháu, bà ta chẳng muốn làm chuyện gì với việc này, cũng như với cháu. Bà ta hoàn toàn quay lưng lại. Người phụ nữ Gypsy trông trẻ nói với ta rằng bà ấy thường lo sợ không biết mẹ cháu sẽ đối xử với cháu ra sao, vì đó là một phụ nữ ngạo mạn và khinh miệt. Đúng là như vậy. Và rồi cháu đã đến đó. Nếu mọi chuyện khác đi. Lyra ạ, có thể cháu đã được nuôi nấng thành một người Gypsy, vì người vú nuôi đã nài nỉ quan tòa cho bà ta nuôi cháu; nhưng người Gypsy chẳng có vị trí gì trước pháp luật. Tòa án quyết định cháu phải được đưa vào Tu viện, và cháu đã ở đó, với các Nữ tu sĩ tại Watlington. Chắc cháu không thể nhớ đâu.

Nhưng Ngài Asriel không chịu chấp nhận như vậy. Ông rất ghét tu viện, các thầy tu và nữ tu sĩ; vốn là một người đàn ông quả quyết, một ngày nọ ông đã đột nhập vào đó và bắt cóc cháu đi. Không phải để chính ông nuôi nấng, cũng không mang cho người Gypsy. Ông ấy mang cháu đến Học viện Jordan, và thách thức pháp luật nếu không cho phép ông làm thế.

Luật pháp đã thuận theo. Ngài Asriel quay trở lại với những chuyến thám hiểm của mình, và cháu lớn lên tại Học viện Jordan. Điều duy nhất ông ấy nói, cha của cháu nói, một điều kiện ông ấy đưa ra, là mẹ cháu không được gặp cháu. Nếu bà ta thử tìm cách gặp cháu, bà ta sẽ bị ngăn lại, và ông phải được thông báo, bởi tất cả những giận dữ trong con người ông giờ đã đổ dồn vào bà. Ông Hiệu trưởng đã hứa danh dự làm đúng như vậy. Thời gian cứ thế trôi đi. Rồi xuất hiện tin đồn về Bụi. Khắp ngang cùng ngõ hẻm, những người đàn ông thông thái và cả những phụ nữ nữa bắt đầu lo lắng về nó. Việc này không hề liên quan gì đến những người Gypsy chúng ta, cho đến khi bọn trẻ bị bắt cóc. Đó là lúc chúng ta phải quan tâm. Và chúng ta có những liên lạc với tất cả những nơi cháu không thể tưởng tượng đến, trong đó có Học viện Jordan. Cháu không biết đâu, nhưng ở đó cũng có người theo dõi cháu và thông báo lại cho chúng ta mọi việc kể từ khi cháu bước chân vào đó. Bởi vì chúng ta quan tâm đến cháu, và người phụ nữ Gypsy đã nuôi nấng cháu, bà ấy không thôi lo lắng cho cuộc sống của cháu.”

Ai đã theo dõi cháu vậy?” Lyra hỏi. Cô cảm thấy hết sức nghiêm trọng và kỷ quặc, rằng tất cả những việc cô làm có thể là mục tiêu của một mối quan tâm rất xa như thế này.

“Đó là một người phụ bếp. Bernie Johansen, anh thợ nướng bánh. Cậu ta mang nửa dòng máu của người Gypsy, cháu chưa bao giờ biết điều đó, ta chắc chắn như vậy.”

Bernie là một người tốt bụng và cô độc, một trong số rất ít người có nhân tinh cùng giới tính với mình. Chính Bernie là người Lyra đã hét lên trong cơn giận dữ vì Roger bị bắt cóc. Và Bernie đã kể lại cho những người Gypsy hết mọi chuyện! Cô cảm thấy thật kinh ngạc.

“Vì thế,” John Faa tiếp tục, “chúng ta nghe nói cháu rời khỏi Học viện Jordan, cùng lúc Ngài Asriel bị cầm tù và không thể ngăn cản điều này xảy đến. Chúng ta nhớ rằng ông ấy đã bảo ông Hiệu trưởng không được làm như vậy. Chúng ta cũng nhớ người đàn ông mẹ cháu đã kết hôn, chính trị gia mà Asriel đã giết chết, tên là Edward Coulter.”

“Bà Coulter?” Lyra sững sờ nói. “Bà ấy không phải là mẹ cháu đúng không?”

“Chính bà ấy là mẹ cháu đấy. Nếu cha cháu vẫn còn tự do, bà ấy sẽ không bao giờ dám làm trái ý ông ấy, và cháu vẫn còn ở lại Jordan, không biết một chút sự thật nào. Nhưng việc ông Hiệu trưởng để cháu đi là một bí ẩn ta không thể giải thích nổi. Ông ấy được trả công để trông nom cháu. Tất cả những gì ta có thể suy đoán là bà ấy có những thế mạnh để chi phối ông ta.”

Lyra lập tức hiểu ra thái động lo lắng của ông Hiệu trưởng vào buổi sáng cô rời đi.

“Nhưng ông ấy không muốn…” cô nói, cố gắng nhớ lại thật chính xác. “Ông ấy… Cháu đã phải đến và gặp ông ấy đầu tiên buổi sáng hôm đó, và cháu không được nói cho bà Coulter biết việc đó…” cô ngừng lại, nhìn hai người đàn ông chăm chú, và quyết định kể cho họ tất cả sự thật cô chứng kiến trong Phòng nghỉ. “Vâng, còn có một chuyện nữa. Tối hôm đó cháu trốn trong Phòng nghỉ, cháu nhìn thấy ông Hiệu trưởng cố tìm cách đầu độc Ngài Asriel. Cháu nhìn thấy ông ấy đổ một ít bột trắng vào rượu. Cháu nói cho chú cháu biết và ông ấy xô chiếc bình khỏi bàn làm rượu đổ hết. Vì thế cháu đã cứu mạng ông ấy. Cháu không thể hiểu nổi tại sao ông Hiệu trưởng lại muốn đầu độc chú ấy, vì ông ấy luôn rất tốt bụng. Rồi vào buổi sáng cháu đi khỏi Jordan, ông ấy gọi cháu đến phòng làm việc lúc sáng sớm, bảo cháu phải đến thật kín đáo không để ai trong thấy, ông ấy nói…” Lyra bóp trán cố nhớ chính xác điều ông Hiệu trưởng đã nói. Nhưng cô không thể nhớ nổi điều gì. Cô lắc đầu, “Điều duy nhất cháu có thể hiểu là ông ấy đưa cháu thứ gì đó và cháu phải giữ bí mật không cho bà ấy, bà Coulter biết. Cháu nghĩ là nên nói cho ngài…”

Cô cho tay vào túi áo khoác lông sói và lấy ra chiếc gói bọc vải nhung. Cô đặt nó trên bàn, nhận thấy sự tò mò của John Faa và sự hiểu biết rạng rỡ bừng sáng của Farder Coram đang dồn vào nó như hai chiếc đèn pha.

Khi cô để chiếc Chân-kế ra, Farder Coram là người lên tiếng đầu tiên.

“Tôi không bao giờ nghĩ mình còn có thể nhìn lại một trong số chúng một lần nữa. Đó là một chiếc máy giải mã các biểu tượ hng. Ông ấy có nói gì với cháu về nó không, cô bé?”

“Không ạ. Ông ấy chỉ nói cháu phải tự tìm cách đọc được nó. Và ông ấy gọi nó là Chân-kế.”

“Có nghĩa là gì vậy?” John Faa hỏi và quay sang người bạn đồng minh của mình.

“Đó là một chữ bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp. Nó có nghĩa là một loại máy đo sự thật, cũng có nghĩa là La bàn vàng. Và cháu đã tìm ra được cách dùng chưa?” Ông hỏi cô.

“Chưa ạ. Ít nhất cháu cũng biết làm cho ba kim ngắn chỉ vào các bức tranh khác nhau, nhưng cháu không làm gì được chiếc kim dài. Nó dịch chuyển khắp các vị trí. Ngoại trừ thỉnh thoảng, vâng, thỉnh thoảng khi cháu thật tập trung, cháu có thể làm cho chiếc kim dài đi đường này hay đường khác chỉ bằng ý nghĩ.”

“Nó hoạt động thế nào, Farder Coram?” John Faa hỏi. “Và làm thế nào đọc nó được?”ng

“Tất cả những bức tranh này xếp xung quanh viền vòng tròn,” Farder Coram nói và cẩn thận đưa nó cho John Faa nhìn, “chúng là các biểu tượng, và mỗi biểu tượng tượng trưng cho cả một loạt sự kiện. Thử lấy chiếc mỏ neo. Ý nghĩa đầu tiên của nó là hi vọng, vì hi vọng giúp con người ta tiến nhanh và không chịu bỏ cuộc. Ý nghĩa thứ hai là tính kiên định. Ý nghĩa thứ ba là khó khăn, hay trở ngại. Ý nghĩa thứ tư là biển cả. V cứ thế tiếp tục, xuống đến mười, mười hai và có thể là một loạt những ý nghĩa vô tận.”

“Và làm thế nào anh biết hết được?”

“Tôi biết một số, nhưng để đọc được hết tôi cần cuốn sách. Tôi đã nhìn thấy nó và biết nó ở đâu, nhưng tôi không có nó.”

“Chúng ta sẽ nói lại chuyện này sau,” John Faa nói. “Giờ hãy tiếp tục với chuyện làm thế nào người ta đọc được nó.”

“Chúng ta có ba chiếc kim có thể điều khiển được,” Farder Coram giải thích, “và ta dùng nó để hỏi một câu hỏi. Bằng cách chỉ vào ba biểu tượng ta có thể hỏi bất cứ câu hỏi nào nghĩ ra được, bởi mỗi biểu tượng có rất nhiều ý nghĩa. Khi ta đã vạch ra được câu hỏi của mình rồi, chiếc kim còn lại quay xung quanh và chỉ vào những biểu tượng khác để cho ta câu trả lời.”

“Nhưng làm thế nào nó biết ý nghĩa mà ta đang nghĩ đến khi đặt câu hỏi?” John Faa hỏi.

“À, tự nó không biết hết được. Nó chỉ hoạt động nếu người hỏi đặt ra ý nghĩa đó trong óc mình. Ta phải biết tất cả các ý nghĩa, trước tiên là như vậy, và phải có đến một nghìn ý nghĩa hoặc hơn nữa. Rồi ta phải có khả năng giữ nó trong tâm trí mà không sốt ruột hay vội vã có được câu trả lời, và chỉ quan sát trong khi chiếc kim đi lang thang. Khi nó đã đi hết quãng đường cần thiết, chúng ta sẽ biết được câu trả lời. Tôi biết được cách nó làm việc vì tôi đã nhìn thấy một người đàn ông thông thái làm nó ở Uppsala, đó là lần duy nhất tôi từng nhìn thấy một chiếc. Cháu có biết nó hiếm như thế nào không?”

“Ông Hiệu trưởng nói người ta chỉ chế tạo có sáu chiếc thôi,” Lyra trả lời.

“Dù là bao nhiêu thì số lượng cũng không nhiều đâu.”

“Cháu đã giữ bí mật về nó không cho bà Coulter biết, theo lời ông Hiệu trưởng dặn?” John Faa hỏi.

“Vâng. Nhưng con nhân tinh của bà ấy, vâng, nó thường vào phòng cháu. Cháu chắc chắn nó đã tìm thấy.”

“Ta hiểu. Được rồi, Lyra, ta không biết chúng ta đã biết hết sự thật hay chưa, nhưng đây là suy đoán của ta. Ông Hiệu trưởng đã được Ngài Asriel trả công để trông nom cháu và giữ cháu an toàn khỏi mẹ cháu. Đó là điều ông ấy đã làm, trong mười năm hoặc hơn thế. Rồi những người bạn của bà Coulter trong Giáo hội giúp bà ấy thiết lập ra Ủy ban Tôn giáo, mà mục đích của Ủy ban này là gì thì chúng ta không rõ. Bà ấy xuất hiện, cũng nhiều quyềc như Ngài Asriel. Cha mẹ cháu, cả hai đều có thế lực, đều tham vọng, ông Hiệu trưởng Jordan giữ cháu cân bằng giữa hai người bọn họ.”

“Giờ đây ông Hiệu trưởng có hàng trăm việc phải lo lắng. Điều quan tâm đầu tiên cảu ông ấy là Học viện của mình và việc nghiên cứu tại đó. Vì vậy nếu ông ta thấy có gì đe dọa nó, ông ta sẽ tìm cách dẹp bỏ nó đi. Trong thời gian gần đây, Lyra ạ, Giáo hội ngày càng có khả năng chi phối nhiều hơn. Có những hội đồng này, hội đồng khác, có những buổi hội thảo về việc phục hồi Văn phòng Tòa án dị giáo, cầu Chúa đừng để chuyện đó xảy ra. Ông Hiệu trưởng quay như chong chóng giữa các thế lực này. Ông ta buộc phải giữ cho Học viện Jordan ở cùng phe với Giáo hội, nếu không nó sẽ không thể tồn tại được.”

“Và mối quan tâm khác của ông Hiệu trưởng là điều này. Ông Hiệu trưởng Học viện Jordan và các Học giả khác nữa, họ yêu thương cháu như con đẻ của mình. Họ làm tất cả để cháu được an toàn, không chỉ bởi họ đã hứa với Ngài Asriel, mà còn vì lợi ích của chính cháu. Vì thế nếu ông Hiệu trưởng giao cháu cho bà Coulter trong khi đã hứa với Ngài Asriel sẽ không làm như vậy, chắc hẳn ông ấy cho rằng cháu sẽ an toàn khi đi cùng bà ấy hơn là ở lại Học viện Jordan, dù bề ngoài có thế nào đi nữa. Khi đã ra tay đầu độc Ngài Asriel, chắc hẳn ông ta phải nghĩ điều Ngài Asriel đang làm có thể đặt tất cả bọn họ vào tình trạng nguy hiểm, và có thể là nguy hiểm cho tất cả chúng ra, có thể là cho toàn bộ thế giới. Ta nghĩ ông Hiệu trưởng là người phải đưa ra những lựa chọn sinh tử, dù chọn bên nào cũng có hại, nhưng có thể nếu ông làm đúng, sẽ đỡ nguy hại hơn so với ông chọn sai. Chúa sẽ che chở cho ta nếu ta phải có những chọn lựa kiểu như vậy.”

“Đến khi ông ta phải để cháu đi, ông ấy đưa cháu chiếc máy đọc biểu tượng và bảo cháu phải giữ nó an toàn. Ta thắc mắc không hiểu ông ấy suy tính gì khi để cháu làm thế, vì cháu không biết đọc nó. Ta rất muốn biết ông ta đã nghĩfont> gì.”

“Ông ấy nói Ngài Asriel đã tặng La bàn vàng cho Học viện Jordan nhiều năm trước.” Lyra nói, cố gắng nhớ lại. “Ông ấy đang định nói thêm gì đó thì có ai đó gõ cửa và ông ấy phải ngừng thôi. Cháu nghĩ rằng có thể ông ấy cũng muốn cháu giữ nó khỏi ngài Asriel.”

“Hay có khi là ngược lại,” John Faa nói.

“Ý anh muốn nói gì, John?” Farder Coram hỏi.

“Có thể ông ta có ý định bảo Lyra trả lại nó cho Ngài Asriel, như một sự bồi thường vì đã cố gắng đầu độc chủ nó. Có thể ông ta nghĩ sự nguy hiểm đến từ phía Ngài Asriel đã qua. Hay ngài Asriel có thể đọc được điều gì khôn ngoan từ chiếc máy và cố nén những dự định chưa thực hiện được vào của mình lại. Nếu hiện tại Ngài Asriel đang bị bắt giữ, nó có thể giúp ông ấy được tự do. Nào Lyra, tốt hơn là cháu nên cầm lấy chiếc máy đọc biểu tượng này và giữ nó an toàn. Nếu cháu có thể giữ nó an toàn cho đến tận bây giờ thì ta cũng không lo lắng gì khi để cháu giữ nó. Nhưng có thể đến một lúc nào đó chúng ta phải hỏi ý kiến của nó, và ta đoán rằng chúng ta phải hỏi mượn nó.”

Ông phủ lớp nhung lên chiếc máy và đẩy nó trượt ngang qua bàn. Lyra muốn hỏi tất cả các câu hỏi cô đang thắc mắc, nhưng tự nhiên cô cảm thấy dè dặt trước người đàn ông vĩ đại này, đôi mắt nhỏ của ông thật sắc sảo và nhân hậu giữa những nếp nhăn.

Nhưng có một điều cô vẫn phải hỏi.

“Ai là người phụ nữ Gypsy đã nuôi cháu vậy?”

“Cháu muốn biết hả, đó là mẹ của Billy: Costa, tất nhiên rồi. Bà ấyo đã không nói cho cháu biết, vì ta không cho phép, nhưng bà ấy biết chúng ta không cho phép, nhưng bà ấy biết chúng ta đang nói chuyện gì ở đây, vì thế không có gì là bí mật cả.”

“Giờ thì tốt hơn là cháu hãy quay lại với bà ấy. Cháu có nhiều điều phải suy nghĩ đấy, cô bé ạ. Sau ba ngày chúng ta sẽ có một Buổi họp mặt khác va bàn bạc tất cả những việc phải làm. Cháu là một cô bé ngoan. Chúc cháu ngủ ngon, Lyra.”

“Chúc ngủ ngon, John Faa. Chúc ngủ ngon, Farder Coram.” Cô nói mộspan>ỏt cách nhã nhặn, ôm chặt La bàn vàng vào lòng bằng một tay và tay kia thì xốc Pantalaimon lên.

Cả hai người đều hiền hậu cười với cô. Bên ngoài phòng họp Mẹ Costa đang chờ, và như thể không có gì xảy ra từ khi Lyra chào đời, người mẹ chủ thuyền kéo cô vào vòng tay rộng lớn của mình và hôn cô trước khi đưa cô vào giường ngủ.

Chương 8: Sự thất vọng

Lyra phải tự điều chỉnh để thích ứng với cảm giác mới xuất phát từ chính câu chuyện của mình, và điều này không thể làm được trong một ngày. Phải nhìn nhận Ngài Asriel là cha mình là một chuyện, nhưng để chấp nhận bà Coulter là mẹ mình thật là vô cùng khó. Hai tháng trước cô có thể hào hứng với điều đó, tất nhiên là vậy, cô cũng biết thế, và cảm thấy bối rối.

Nhưng, vốn là Lyra, cô không buồn phiền về chuyện đó lâu, vì có rất nhiều điều cần khám phá và nhiều đứa trẻ Gypsy để kết bạn trong Vùng đầm lầy này. Chỉ mất có ba ngày, cô đã trở thành một chuyên gia trên chiếc thuyền thúng (ít nhất cô cũng tự cho là như vậy). Cô tụ tập một đám trẻ lang thang xung quanh mình với những huyền thoại về người cha hùng mạnh của mình, người đã bị bắt giam một cách vô lý.

“Một buổi tối ông Đại sứ Thổ Nhĩ Kỳ được mời đến ăn tối tại Jordan. Ông ta được lệnh của Vua Thổ Nhĩ Kỳ để ám sát cha tôi, thật sự như vậy đấy, và ông ta đeo một chiếc nhẫn trên ngón tay có gắn một hòn đá rỗng bên trong chứa đầy chất độc. Khi rượu được mang ra, ông ta làm ra vẻ tình cờ đi qua cốc rượu của cha tôi rồi rắc thuốc độc vào đó. Việc đó được làm nhanh đến nỗi không ai nhìn thấy, nhưng…”

“Đó là loại chất độc nào vậy?” Một cô bé có khuôn mặt gầy gò hỏi.

“Chất độc chiết xuất từ một loài rắn cực độc của Thổ Nhĩ Kỳ,” Lyra thêu dệt, “loài rắn người ta bắt bằng cách dùng một chiếc ống để nhử chúng ra, sau đó ném cho chúng mộ chuy>t miếng bọt biển tẩm mật, con rắn cắn vào đó rồi không thể rút răng nọc của nó ra được nữa. Người ta bắt rắn và nặn lấy nọc độc của nó. Nhưng dù sao, cha tôi cũng đã nhìn thấy tên người Thổ Nhĩ Kỳ làm gì, ông ấy nói: Thưa quý ngài, tôi muốn đề nghị chúng ta nâng chén chúc mừng cho tình bạn giữa Học viện Jordan và Học viện Izmir, đó là học viện mà người Đại sứV Thổ Nhĩ Kỳ làm việc. Và để thể hiện sự mong muốn được trở thành bạn bè, chúng ta sẽ đổi cốc và uống rượu cho nhau.”

“Ông đại sứ đó rơi vào tình thế khó xử, ông ta không thể từ chối uống rượu vì đó được coi là sự xúc phạm ghê gớm. Ông ta cũng không thể uống vì biết rượu đã bị hạ độc. Ông ta tái xanh mặt và choáng váng ngay bên bàn tiệc. Khi ông ta tỉnh lại, mọi người vẫn đứng đó, chờ đợi và nhìn ông ta chằm chằm. Vậy là hoặc là ông ra uống rượu, hai là phải thú nhận.”

“Vậy ông ta đã làm gì?”

“Ông ta uống rượu. Sau năm phút ông ta đã chết, trong vòng năm phút đó ông ta đã phải chịu giày vò ghê gớm.”

“Cậu có chứng kiến chuyện xảy ra không?”

“Không, vì nữ giới không được phép ngồi tại Bàn cao. Nhưng sau đó tớ đã nhìn thấy xác ông ta khi người ta đưa ra ngoài. Da ông ta co rúm lại như một quả táo héo, mắt mở trừng trừng. Thực ra người ta đã phải vuốt mắt cho ông ta…”

Và câu chuyện cứ thế tiếp diễn.

Trong khi đó, xung quanh rìa Vùng đầm lầy, cảnh sát đang gõ cửa từng nhà, lục soát các gian gác mái cũng như nhà phụ, xem xét các thứ giấy tờ và chất vấn tất cả những người khai là từng nhìn thấy một cô bé tóc vàng. Tại Oxford, cuộc truy tìm còn gắt gao hơn. Học viện Jordan bị lục soát từ những thùng rác bẩn thỉu cho đến những gian hầm tăm tối nhất, cả Học viện Gabriel và Thánh Michael cũng vậy, cho đến khi những người đứng đầu Học viện phải cùng lên tiếng phản đối khẳng định những quyền lợi từ xa xưa của mình. Nhận thức duy nhất của Lyra về cuộc truy tìm là tiếng động cơ gas của những chiếc khinh khí cầu ù ù không ngừng bay qua bay lại trên bầu trời. Chúng không lộ ra, vì các đám mây rất thấp, còn khinh khí cầu lại phải duy trì ở một độ cao nhất định phía trên Vùng đầm lầy, nhưng ai mà biết được họ đem theo dụng cụ tìm kiếm tinh xảo nào trên đó? Tốt nhất là trốn đi khi cô nghe thấy tiếng máy, hay trùm một chiếc áo khoác vải đầu lên mái tóc dễ bị phát hiện của mình.

Cô chất vấn Mẹ Costa về tất cả các chi tiết về sự ra đời của mình. Cô đan các chi tiết thành một tấm thảm tưởng tượng thậm chí còn rõ ràng và sắc nét hơn cả câu chuyện thực. Cô thêu dệt thêm, kể đi kể lại những chuyện về căn lều nhỏ, chỗ ẩn náu trong gian hầm, kẻ thù có giọng nói chói tai và tiếng kiếm va vào nhau loảng xoảng…t

“Những lưỡi kiếm à? Lạy chúa, cô bé, cháu đang mơ đấy à?” Mẹ Costa nói. “Ông Coulter có một khẩu súng lục, Ngài Asriel đánh nó bay khỏi tay ông ta và đánh gục ông ta chỉ bằng một cánh tay. Rồi sau đó có hai tiếng súng. Chắc là cháu không thể nhớ được vì lúc đó còn bé quá. Phát súng đầu tiên là của Edward Coulter, ông ta rút súng và bóp cò, phát thứ hai là của Ngài Asriel, ông chộp lấy súng và quay nòng vào Edward Coulter. Phát súng đúng vào giữa mắt và làm vỡ sọ ông ta. Rồi ông ấy nói với thái độ bình tĩnh khủng khiếp, “Ra đi, bà Costa, và bế đứa bé ra đây,” vì lúc đó cháu đang khóc thét lên, cháu và con nhân tinh bướm đêm của cháu. Ông ấy bế lấy cháu, nựng cháu và cho cháu ngồi trên vai, đi qua đi lại với tâm trạng vui tươi hớn hở, trong khi xác người đàn ông nằm sõng sượt dưới chân. Ông ấy gọi người mang rượu tới và bảo ta lau sàn nhà.”

Đến lần kể đi kể lại thứ tư thì Lyra hoàn toàn bị cháu thuyết phục rằng cô nhớ được câu chuyện xảy ra thế nào, thậm chí còn thêm vào chi tiết về màu áo khoác của ông Coulter, chiếc áo choàng va áo lông treo trong căn phòng nhỏ. Mẹ Costa bật cười trước câu chuyện của Lyra.

Mỗi khi cô có một mình, Lyra lại mang La bàn vàng ra và nghiền ngẫm nó như một người đang yêu say mê ngắm bức hình của người mình thương mến. Vậy là mỗi bức hình có rất nhiều ý nghĩa, phải không nhỉ? Tại sao cô không tìm ra chúng chứ? Phải chăng cô không phải con gái của Ngài Asriel?

Nhớ lại những điều Farder Coram nói, cô cố gắng tập trung tư tưởng vào ba biểu tượng chọn ngẫu nhiên và chuyển các chiếc kim cho chúng chỉ vào ba biểu tượng đó. Cô nhận thấy rằng nếu cô giữ yên chiếc La bàn vàng trên lòng bàn tay và nhìn chăm chú vào nó, khi cô nghĩ về nó, chiếc kim dài bắt đầu chuyển dịch có định hướng hơn. Thay vì cứ bướng bỉnh lang thang xung quanh mặt, nó chuyển dịch nhẹ nhàng từ bức tranh này sang bức tranh khác. Đôi khi nó dừng lại ở số ba, số hai, đôi khi là năm vị trí hoặc hơn nữa, và mặc dù cô chằng hiểu gì cả, cô cũng có được sự thích thú êm dịu sâu lắng từ nó, không giống bất cứ thứ gì cô biết. Pantalaimon bò xung quanh mặt La bàn, thỉnh thoảng trong hình dáng một chú mèo, thỉnh thoảng là một chú chuột, ngó ngoáy đầu theo chiếc kim. Một đôi lần cả hai cùng thoáng thấy như thể một tia sáng mặt trời đã xuyên qua những đám mây để chiếu sáng một dải đồi rộng lớn hùng vĩ phía xa, thậm chí là rất xa. Và mỗi lần như vậy Lyra lại rùng mình như mỗi lần cô nghe thấy từ “phương Bắc” trong suốt cuộc đời mình.

Vậy là thời gian ba ngày đã qua, trong khoảng thời gian đó, các con thuyền vẫn tấp nập đến Phòng họp mặt. Vào buổi tối tổ chức Buổi họp mặt th̙ hai. Phòng họp còn đông hơn cả lần trước, nếu có đủ chỗ đứng cho tất cả mọi người. Lyra cùng nhà Costa đến đó kịp lúc để ngồi ở hàng ghế trên, ngay khi ánh đèn lung linh cho thấy gian phòng đã chật kín người, John Faa và Farder Coram lên trên bục diễn thuyết và ngồi sau chiếc bàn. John Faa không ra dấu hiệu bảo mọi người im lặng; ông chỉ đặt hai bàn tay to lớn của mình trên mặt bàn và nhìn vào đám người phía dưới, những tiếng huyên náo tắt hẳn.

“Vậy là,” ông nói, “các bạn đã làm điều tôi yêu cầu. Và còn tốt hơn tôi hi vọng. Tôi sẽ triệu tập người đứng đầu của sáu gia đình lên đây ngay bây giờ để quyên vàng và tuyên bố những lời hứa của họ. Nicholas Rokeby, anh lên đầu tiên.”

Người đàn ông râu quai nón đen to béo trèo lên bục diễn thuyết và đặt một chiếc túi da nặng lên bàn.

“Đây là vàng của chúng tôi,” ông ta nói. “Chúng tôi góp cho ba mươi tám người đàn ông.”

“Cảm ơn anh, Nicholas,” John Faa nói. Farder Coram đang ghi chép lại. Người đàn ông đầu tiên đứng xuống phía sau bục diễn thuyết khi John Faa đứng gọi đến người tiếp theo, và người tiếp theo nữa. Mỗi người đi lên, đặt một chiếc túi trên bàn và tuyên bố số người họ có thể đóng góp. Nhà Costa là một nhánh của gia đình Stefanski, và tất nhiên Tony là một trong những người tì nguyện đầu tiên. Lyra để ý thấy con nhân tinh chim ưng của anh nhấc chân nọ rồi đến chân kia va sải cánh khi số tiền và lời hứa góp cho hai mươi ba người đàn ông của gia đình Stefanski được đặt trước mặt John Faa.

Khi người đứng đầu cả sáu gia đình đã lên hết, Farder Coram đưa mảnh giấy của mình cho John Faa, ông đứng dậy giữ mọi người yên lặng.

“Thưa các bạn, đây là sự chung sức của một trăm bảy mươi người đàn ông. Tôi cảm thấy tự hào khi được cảm ơn các bạn. Còn về số vàng, từ cân nặng của nó tôi không nghi ngờ rằng tất cả các bạn đã phải đào sâu xuống những chiếc quan tài của gia đình tổ tiên mình, và lời cảm ơn sâu sắc nhất của tôi gửi đến tất cả những điều này.

Điều chúng ta sắp làm tiếp theo đây là thế này. Chúng ta sẽ mua một con tàu và đi lên phương Bắc, tìm những đứa trẻ rồi trả tự do cho chúng. Từ những gì chúng ta biết, có thể sẽ phải chiến đấu. Đó sẽ không phải là lần đầu tiên, và cũng không phải là lần cuối cùng nhưng chúng ta vẫn chưa phải đánh nhau với những kẻ bắt cóc trẻ con, chúng ta sẽ phải có những kỹ xảo khéo léo khác bình thường, nhưng chúng ta sẽ không trở về mà không đưa theo lũ trẻ. Vâng, Dirk Vries?”

Một người đàn ông đứng lên và nói, “Ngài Faa, ngài có biết tại sao họ lại bắt cóc trẻ con không?”

“Chúng ta nghe nói đó liên quan đến vấn đề thần học. Người ta đang tiến hành một thí nghiệm, nhưng bản chất của thí nghiệm đó thế nào thì chúng ta không biết. Nếu muốn nói cho các bạn toàn bộ sự thực, chúng ta thậm chí còn không biết những thí nghiệm này có nguy hại gì đến với chúng ta hay không nữa. Nhưng dù đó là gì, tốt hay xấu, người ta cũng không được quyền cướp những đứa trẻ khỏi sự yên ấm cùng gia đình mình. Vâng, Raymond van Gerrit?”

Người đàn ông nêu câu hỏi trong buổi họp đầu tiên đứng lên và nói, “Đứa bé đó, Ngài Faa, đứa bé ngài nói là đang bị truy tìm, đứa bé đang ngồi trên hàng ghế trên cùng kia. Tôi nghe nói t nhất cả những cư dân sống ven rìa ngoài Vùng đầm lầy đang bị lật tung nhà cửa chỉ vì nó. Tôi nghe nói có một quyết định trong Nghị viện vào đúng ngày hôm nay nhằm tiêu hủy ngôi làng cổ kính của chúng ta vì nó. Vâng, thưa các bạn.” Ông ta nói, kéo theo những lời thì thầm lo lắng. “Họ sắp thông qua một đạo luật xóa bỏ quyền ra vào Vùng đầm lầy của chúng ta. Giờ thì, thưa Ngài Faa, điều chúng tôi muốn biết là: Đứa bé này là ai mà có thể đẩy chúng ta vào tình thế gay go như vậy? Nó không phải là một đứa bé Gypsy, theo tôi nghe nói thì không phải. Làm thế nào mà một đứa bé trên đất liền có thể đẩy tất cả chúng ta vào vòng nguy hiểm?”

Lyra nhìn lên khuôn người to lớn của John Faa. Tim cô đập thình thịch đến nỗi cô nghe không rõ lời đầu tiên ông nói khi trả lời.

“Giờ thì nói toạc ra đi, Raymond, đừng ngại ngần,” ông nói, “anh muốn chúng ta giao đứa bé này cho những người nó đã trốn chạy khỏi, phải vậy không?”

Người đàn ông vẫn ngoan cố đứng với nét mặt cau có, nhưng không nói gì cả.

“Được rồi, có thể anh muốn như vậy, và cũng có thể là không,” John Faa tiếp tục. “Nhưng nếu bất cứ người đàn ông hay người đàn bà nào cần một lý do để làm việc tốt, hãy cân nhắc điều này. Cô bé này là con gái của Ngài Asriel, chỉ thế thôi. Nếu ai đơã quên thì Ngài Asriel là người đã làm trung gian đàm phán với người Thổ Nhĩ Kỳ để cứu mạng Sam Broekman. Chính Ngài Asriel là người đã cho phép thuyền của người Gypsy được qua lại những con kênh nằm trên đất đai của mình. Chính Ngài Asriel là người đã đánh bại phe Watercourse Bill tại nghị viện vì lợi ích to lớn và lâu dài của chúng ta. Và cũng chính Ngài Asriel đã túc trực ngày đêm trong cơn bão '53 và hai lần lao xuống dòng nước để cứu mạng Ruud và Nellie Koopman bé nhỏ của chúng ta. Anh đã quên rồi sao? Thật là hổ thẹn, hổ thẹn cho anh, thật đáng hổ thẹn.

Và giờ đây cũng chính là Ngài Asriel này đang bị kẹt trên những vùng đất tối tăm lạnh lẽo xa xôi nhất của những con thú hoang dã, bị bắt giữ trong một pháo đài tại Svalbard. Tôi có cần phải nói cho anh biết loài sinh vật nào đang canh giữ ông ấy trên đó không? Và đây chính là cô con gái bé nhỏ của ông ấy đang dưới sự trông nom của chúng ta, và Raymond van Gerrit có thể giao nộp cô bé cho các nhà chức trách chỉ để đổi lại một chút hòa bình và yên ổn. Có đúng vậy không? Raymond? Hãy đứng lên và trả lời đi anh bạn.”

Nhưng Raymond van Gerrit cứ bám dính lấy chỗ ngồi của mình, và không gì có thể làm ông ta đứng dậy. Một làn sóng phản đối nổi lên trong căn phòng họp rộng lớn. Lyra cảm nhận được sự hổ thẹan ông ta đang cảm thấy, cũng như sự tự hào sâu sắc về người cha của mình.

John Faa quay đi và nhìn vào một người đàn ông khác trên bục.

“Nicholas Rokeby, tôi giao nhiệm vụ cho anh tìm một con thuyền, và chỉ huy nó khi chúng ta ra khơi. Adam Stefanski, tôi muốn anh chịu trách nhiệm về vũ khí đạn dược, và chỉ huy trận chiến. Roger van Poppel, anh để mắt đến những thứ khác, từ thực phẩm cho đến quần áo chống rét. Simon Hartmann, anh là thủ quỹ và có trác nhiệm chia vàng thành những phần bằng nhau. Benjamin de Ruyter, tôi muốn anh nhận trách nhiệm trinh sát. Có rất nhiều điều chúng ta cần phải tìm hiểu, tôi giao cho anh nhiệm vụ đó, và Canzona, anh sẽ có trách nhiệm kết hợp công việc của bốn người lãnh đạo đầu tiên, báo cáo lại với tôi, và nếu tôi chết, anh sẽ là người thay thế công việc điều khiển của tôi.

Giờ thì tôi đã sắp xếp xong công việc, và nếun này bất cứ người đàn ông hay đàn bà nào thấy không đồng ý, chúng ta có thể tự do nêu ý kiến.

Sau một lúc, một người phụ nữ đứng lên.

“Ngài Faa, ngài không định đưa người phụ nữ nào theo chuyến đi để chăm sóc bọn trẻ sau khi chúng ta đã tìm được chúng sao?”

“Không, Nell. Chúng ta không có nhiều chỗ đâu. Bất cứ đứa trẻ nào đó trong số chúng ta giải thoát cũng sẽ tốt hơn dưới sự chăm sóc của chúng ta so với lúc trước đó.”

“Nhưng nếu ngài nhận thấy rằng ngài sẽ không thể cứu thoát chúng nếu không có người phụ nữ nào đó cải trang thành một người nấu bếp hay ý tá hay đại loại như vậy?”

“Ồ, tôi đã không tính đến điều đó,” John Faa thừa nhận. “Chúng ta sẽ xem xét vấn đề này thật cẩn thận khi nghỉ ngơi trong phòng khách. Tôi hứa như vậy đấy.”

Bà ngồi xuống và một người đàn ông đứng dậy.

“Ngài Faa, tôi nghe ngài nói Ngài Asriel đang bị bắt giữ. Có phải một phần trong kế hoạch của ngài là giải cứu cho ông ấy không? Bởi vì nếu thế, và nếu ông ấy đang ở dưới quyền lực của những con gấu theo như tôi hiểu ý ngài nói, sẽ cần nhiều hơn con số một trăm bảy mươi người. Và một người bạn tốt với chúng ta như Ngài Asriel, tôi không biết còn lời kêu gọi đi xa nào với chúng ta đáng hưởng ứng hơn thế.”

“Adriaan Braks, anh nói không sai. Điều tôi dự định là mở to mắt và lắng tai nghe để xem chúng ta có thể lượm lặt được thông tin gì khi lên đến phương Bắc. Có thể chúng ta sẽ làm được gì đó để giúp ông ấy, và nếu không thể, các anh có thể tin tưởng vào việc tôi không dùng cái mọi người gom góp, những người đàn ông và tiền vàng, vào bất cứ một mục đích nào khác ngoài tìm kiếm lũ trẻ và đưa chúng về nhà.”

Một người phụ nữ khác đứng lên.

“Ngài Faa, chúng tôi không biết bọn Gà trống tây có thể làm gì với bọn trẻ. Tất cả chúng tôi đều đã nghe được những lời đồn đại vàụ những câu chuyện đáng sợ. Chúng tôi nghe kể về những đứa trẻ con không có đầu, hay bị cắt làm đôi và khâu lại với nhau, hay về những điều khác quá khủng khiếp để nhắc lại. Tôi thực sự xin lỗi nếu làm mọi người lo lắng, nhưng tất cả chúng ta đều đã nghe nói đến điều này, và tôi muốn làm rõ chuyện. Vậy nếu ngài tìm thấy bất cứ thứ gì khủng khiếp nnghư thế, Ngài Faa, tôi hi vọng ngài sẽ có một cuộc trả thù dữ dội. Tôi hi vọng ngài sẽ không để những ý nghĩ thương hại hay cho qua những gì níu giữ đôi tay mình mà không tấn công và tấn công mạnh mẽ, giáng một nắm đấm nặng ngàn cân vào giữa sào huyệt của sự độc ác địa ngục đó. Và tôi chắc chắn rằng tôi đang nói thay tất cả những người mẹ bị mất con vào tay bọn Gà trống tây.”

Những lời thì thầm đồng tình nổi lên khi bà ngồi xuống. Khắp trong Phòng họp mặt là những cái gật đầu hưởng ứng.

John Faa đợi cho đến khi mọi người yên lặng và nói:

“Không gì có thể níu giữ được bàn tay tôi, Margaret. Nếu tôi ngừng tay trên phương Bắc, nó sẽ chỉ vì dành sức tấn công mạnh mẽ hơn ở phương Nam. Ra ta quá sớm một ngày cũng tệ hại như tay trước hàng kilomet. Chắc chắn rằng, phía sau những lời nói của chị là một tình yêu thương nồng ấm. Nhưng nếu các bạn để tình cảm chi phối, các bạn của tôi, các bạn đang làm điều tôi luôn luôn cảnh giác: các bạn đang đặt sự thỏa mãn những cảm giác của chính mình lên công việc phải làm. Công việc đầu tiên của chúng ta là giải cứu, sau đó mới là trừng phạt. Những cảm giác đau buồn không phải là phần thưởng. Điều quan trọng không phải là những cảm giác của chúng ta. Nếu chúng ta có thể cứu bọn trẻ nhưng không trừng phạt bọn Gà trống tây, chúng ta đã hoàn thành được nhiệm vụ của chính mình. Nhưng nếu chúng ta chỉ chăm chăm trả thù bọn Gà trống tây trước và do đó mất đi cơ hội cứu thoát bọn trẻ, chúng ta đã thất bại.

Hãy yên tâm, Margaret. Khi thời cơ trả thù đến, chúng ta sẽ giáng cho chúng, một nắm đấm khiến chúng phải hốt hoảng và run sợ. Chúng ta sẽ đánh khiến chúng mất hết sức mạnh. Chúng ta sẽ khiến chúng tàn tạ và kiệt sức, suy sụp và tiêu tan, tan ra thành hàng ngàn mảnh nhỏ và cuốn theo gió bốn phương. Chiếc búa của tôi đang khát máu. Nó chưa được nếm mùi máu kể từ khi tôi giết nhà vô địch Tartar tại thảo nguyên Kazakhstan; nó vẫn bị treo trên thuyền của tôi và đang nằm mơ lại những chiến công ngày xưa, nhưng nó có thể ngửi thấy mùi máu từ phương Bắc bay lại. Tối hôm qua nó đã nói chuyện với tôi và kể cho tôi nghe cơn khát của nó, tôi nói với nó là sẽ sớm thôi, sớm thôi. Margaret, có thể chị có rất nhiều điều để lo lắng, nhưng chị không phải lo rằng trái tim của John Faa quá yếu mềm để ra một nắm đấm khi thời cơ đến. Và thời cơ sẽ đến dựa trên phán đoán, không phải trên tình cảm. Có ai muốn nói nữa không? Hãy lên tiếng nếu các bạn muốn.”

Nhưng không có ai cả, John Faa tiến đến chiếc chuông rung báo hiệu kết thúc, đánh thật mạnh và vang khiến cả gian phòng tràn ngập tiếng chuông, các cột nhà rung lên.

John Faa và mấy người đàn ông khác rời bục diễn thuyết để vào phòng bàn bạc. Lyra hơi thất vọng. Họ không muốn cô cũng có mặt ở đó sao? Nhưng Tony cười lớn.

“H phải lập các kế hoạch,” anh nói. “Cô đã làm phần việc của mình, Lyra. Giờ thì đến lượt John Faa và hội đồng.”

“Nhưng tôi đã làm được gì đâu!” Lyra phản đối, khi cô theo những người khác ra khỏi Phòng họp và đi xuống con đường trải đá cuội dẫn xuống cầu tàu. “Tất cả những gì tôi làm được là chạy khỏi bà Coulter! Đó mới chỉ là bước khởi đầu. Tôi muốn được lên phương Bắc!”

“Biết nói sao với cô bây giờ nhỉ,” Tony nói. “Tôi sẽ mang về cho cô một chiếc răng con mooc, tôi hứa đấy.”

Lyra phụng phịu. Về phần mình, Pantalaimon đang bận rộn làm mặt khỉ với nhân tinh của Tony, nó nhắm đôi mắt màu hung lại với vẻ khinh khỉnh. Lyra chèo bè ra cầu tàu và chơi đùa cùng những người bạn mới, treo đèn trên những sợi dây bên trên mặt nước đen để lôi kéo những con cá mắt lồi bơi rất chậm rồi đâm chúng bằng một cây gậy.

Nhưng tâm trí cô vẫn để ở chỗ John Faa và phòng họp, không lâu cô đã quay lại con đường trải đá cuội dẫn đến Phòng họp mặt. Có ánh đèn sáng trên ô cửa sổ phòng khách. Cửa sổ quá cao để có thể nhìn qua, nhưng cô có thể nghe thấy những lời thì thầm bàn bạac bên trong.

Vậy là cô đi đến bên cửa ra vào và gõ năm tiếng dứt khoát. Tiếng người im bặt, một chiếc ghế xê dịch trên nền nhà, cánh cửa bật mở, ánh đèn dầu ấm áp tiến theo bước chân người.

“Gì vậy?” Người đàn ông mở cửa hỏi.

Phía sau người đàn ông Lyra có thể thấy những người ngồi quanh bàn, với những chiếc túi vàng xếp ngay ngắn, giấy và bút, những chiếc cốc và bình đựng Jenniver.

“Cháu muốn lên phương Bắc.” Lyra nói và tất cả bọn họ đều có thể nghe thấy. “Cháu muốn đến đó và giúp giải cứu bọn trẻ. Đó là điều cháu đã dự định sẽ làm khi chạy khỏi bà Coulter. Và thậm chí ngay trước đó, cháu đã muốn cứu thoát bạn Roger của cháu, cậu bé làm trong Nhà bếp ở Jordan, cậu ấy cũng bị bắt cóc. Cháu muốn đi và góp phần vào việc này. Cháu biết về hàng hải và hiện tượng Cực quang, cháu biết phần nào trong con gấu có thể ăn được, tất cả những điều có ích khác. Mọi người sẽ hối tiếc nếu đã lên trên đó, rồi nhận ra mọi người cần cháu và đã để cháu lại. Như người phụ nữ kia đã nói, các bác sẽ cần đến những người phụ nữu , các bác có thể cũng cần cả trẻ con nữa. Các bác không biết được đâu. Vì thế các bác nên đưa cháu đi, Ngài Faa, cháu xin lỗi vì đã làm ngắt quãng cuộc nói chuyện của ngài.”

Giờ thì cô đã ở trong phòng, tất cả những người đàn ông cùng nhân tinh của họ đang nhìn cô, một số người thấy thích thú, một số bực mình, nhưng cô chỉ nhìn John Faa. Pantalaimon ngồi trên tay cô, đôi mắt mèo hoang của nó ánh lên màu xanh lá cây.

John Faa nói, “Lyra, không có lý do gì để đẩy cháu vào vòng nguy hiểm, bởi vậy đừng tự lừa dối mình nữa, cô bé. Hãy ở lại đây giúp đỡ Mẹ Costa và giữ an toàn. Đó là điều cháu phải làm!”

“Nhưng cháu cũng đang học cách sử dụng chiếc La bàn vàng. Cháu càng ngày càng hiểu nó hơn! Ngài sẽ phải cần đến nó, chắc chắn đây!”

Ông lắc đầu.

“Không,” Ông nói. “Ta biết cháu nóng lòng muốn lên phương Bắc, nhưng ta tin rằng không chỉ có bà Coulter muốn bắt cháu. Nếu cháu muốn nhìn thấy phương Bắc cháu phải đợi cho đến khi nguy cơ này qua đi. Giờ thì hãy về đi.”

Pantalaimon khẽ rít lên, nhưng nhân tinh của John Faa đứng lên từ sau ghế của ông và bay về phía họ với đôi cánh đen, không phải để đe dọa, nhưng như một lời nhắc nhở phải cư xử cho phải phép. Lyra quay gót khi con quạ bay lướt qua đầu cô và quay lại với John Faa. Cánh cửa đóng ngay sau lưng cô với tiếng sập dứt khoát.

“Chúng ta sẽ đi,” Cô nói với Pantalaimon. “Mặc kệ họ cố gắng ngăn cản chúng ta lại. Chúng ta sẽ đi.”

Chương 9: Những sinh vật gián điệp

Những ngày tiếp theo, Lyra vẽ nên hàng tá kế hoạch rồi lại gạt bỏ không thương tiếc vì tất cả mxọi người đang hối hả với việc chuẩn bị lên tàu. Làm thế nào để trốn trên một con tàu, làm thế nào để trốn trên một con tàu? Chắc chắn, một chuyến đi biển thực thụ sẽ cần đến một con tàu phù hợp, và cô được nghe nhiều chuyện đến mức có thể biết tất cả những chỗ trốn trên một con tàu lớn: các phao cứu sinh, các phòng, đáy tàu, bất cứ chỗ nào khác; nhưng đầu tiên cô phải lên được tàu đã, rời khỏi Vùng đầm lầy cũng có nghĩa là bước vào một chuyến phiêu lưu theo kiểu của người Gypsy.

Ngay cả khi tự cô đến được bờ biển, có thể cô sẽ trốn nhầm thuyền. Thật là hay ho nếu trốn trong phao cứu sinh của một con tàu và thức dậy khi đang trên đường đến High Brazil.

Trong khi đó, như để trêu ngươi, công việc chuẩn bị cho chuyến đi đang diễn ra ngày đêm. Cô bám theo Adam Stefanski, quan sát khi ông chọn lựa những người tình nguyện cho trận đánh. Cô gây khó chịu cho Roger van Poppel với những câu hỏi về các thứ họ cần mang theo: ông đã nhớ mang theo kính râm đi tuyết chưa? Ông có biết nơi tốt nhất để mua bản đồ Bắc Cực là ở đâu không?

Người đàn ông cô muốn giúp đỡ nhất là Benjamin de Ruyter, người trinh sát. Nhưng anh đã biến mất chỉ vài giờ sau Buổi họp mặt lần thứ hai, và tất nhiên không ai có thể nói anh đi đâu hay bao giờ thì về. Vì thế, để thay vào đó, Lyra cứ bám dính lấy Farder Coram.

“Cháu nghĩ tốt nhất là để cháu giúp ông, Farder Coram,” cô nói “vì có thể cháu biết nhiều về bọn Gà trống tây hơn bất cứ người nào, vì cháu gần như đã là một trong số họ rồi. Có thể ông sẽ cần cháu để giúp ông đọc những thông điệp của ông Benjamin de Ruyter.”

Ông cảm thấy thương cô bé có tính cách dữ dội và liều lĩnh này và không muốn đuổi cô đi. Thay vào đó ông nói chuyện với cô, lắng nghe những kỷ niệm của cô về Oxford và bà Coulter, quan sát khi cô đọc La bàn vàng.

“Cuốn sách nói về tất cả các biểu tượng ở đâu ạ?” Một hôm cô hỏi ông.

“Ở Heidelberg,” Ông trả lời.

“Có phải chỉ có duy nhất một cuốn không?”

“Có thể còn có những cuốn khác nữa, nhưng đó là cuốn ta nhìn thấy.”

“Cháu cá là có một cuốn trong Thư viện của Bodley tại Oxford,” cô nói.

Cô không thể rời mắt khỏi con nhân tinh của Farder Coram, nó là con nhân tinh đẹp nhất cô từng nhìn thấy. Khi Pantalaimon biến thành một chú mèo, nó gầy còm, lông bù xù và luộm thuộm, nhưng Sophonax, tên con nhân tinh đó là một con mèo mắt vàng trang nhã, to gấp†đôi con mèo bình thường và có bộ lông rất dày. Khi ánh mặt trời chiếu vào nó, nó sáng lên màu cây gụ – mùa thu – màu vàng, hạt ngô – màu đỏ, lá cây – nâu – hung hung đến mức Lyra không biết gọi là màu gì. Cô mong muốn được chạm vào lông nói, để cọ má mình vào đó, nhưng tất nhiên là không bao giờ cô làm được. Có một quy ước bất thành văn mặc nhận rằng sẽ là rất thô lỗ nếu chạm vào nhân tinh của người khác. Các con nhân tinh có thể chạm vào nhau, tất nhiên, hay đánh nhau nữa; nhưng sự ngăn cấm đụng chạm giữa người và nhân tinh đã sâu sắc tới mức ngay trong một trận đánh, không có chiến binh nào được chạm vào nhân tinh của kẻ thù. Điều này bị cấm tuyệt đối. Lyra không nhớ là mình được nghe nói như vậy, cô chỉ biết thế thôi, theo bản năng như thể cô cảm thấy buồn nôn là không tốt, còn dễ chịu là tốt. Vì thế dù mê mẩn bộ lông của Sophonax, thậm chí còn mường tư̝ng nó sẽ thế nào, cô không bao giờ tiến thêm một bước dù là nhỏ nhất để vuốt ve nó, và cũng chẳng bao giờ nó để cô làm thế.

Sophonax càng mỡ màng, khỏe mạnh và đẹp đẽ bao nhiêu thì Farder Coram càng héo hon và gầy yếu bấy nhiêu. Có thể ông đang bị ốm, hoặc ông phải chịu một tai họa khủng khiếp, nhưng kết quả là ông không thể đi lại được nếu thiếu hai chiếc gậy, và lúc nào người ông cũng run rẩy như một chiếc lá trước gió. Tuy nhiên, trí tuệ của ông nhạy bén, sáng suốt và mạnh mẽ, Lyra nhanh chóng yêu mến ông vì kiến thức và cách ông chỉ bảo cho cô.

“Cái đồng hồ cát này có nghĩa là gì vậy, Farder Coram?” Cô hỏi khi đang cầm La bàn vàng vào một buổi sáng, ánh nắng mặt trời chan hòa trên chiếc thuyền của ông. “Chiếc kim cứ quay lại biểu tượng đó.”

“Thường luôn có một gợi ý khi cháu nhìn kỹ hơn. Có thứ gì nho nhỏ ở trên đầu nó vậy?”

Cô nheo mắt và nhìn chăm chú.

“Đó là một cái đầu lâu!”

“Vậy theo cháu nó có ý nghĩa là gì?”

“Cái chết… Có phải là cái chết không ạ?”

“Đúng thế. Vậy là trong dãy ý nghĩa của đồng hồ cát cháu đã có cái chết. Thực ra, thời gian là ý nghĩa đầu tiên, cái chết là ý nghĩa thứ hai.”

“Ông có biết cháu đ</span> ý đến điều gì không, Farder Coram? Chiếc kim dừng lại ở đó sau khi đi vòng quanh hai vòng! Trong vòng thứ nhất nó bị kéo mạnh, còn ở vòng thứ hai thì nó dừng lại. Có phải như thế có nghĩa là ý nghĩa thứ hai, phải vậy không?”

“Có thể là như vậy, cháu hỏi nó về điều gì vậy, Lyra?”

“Cháu đang nghĩ…” Cô ngừng lại, ngạc nhiên khi nhận ra cô thực sự hỏi một câu hỏi mà không nhn ra nó. “Cháu chỉ đặt ba bức tranh lại với nhau vì… Cháu đang nghĩ về ông de Ruyter… Cháu đặt con rắn, nồi nấu kim loại và tổ ong, để hỏi xem ông ấy đang làm gì với nhiệm vụ gián điệp của mình, và…”

“Tại sao lại là ba biểu tượng đó?”

“Vì cháu nghĩ con rắn rất xảo quyệt, như một người trinh sát cần phải thế, nồi nấu kim loại có thểkh mang ý nghĩa của sự hiểu biết, một loại chưng cất, và tổ ong có nghĩa là làm việc chăm chỉ; vậy là nhờ có làm việc chăm chỉ nên có được kiến thức sắc bén, đó là công việc của người trinh sát, và cháu chỉ vào chúng khi cháu nghĩ câu hỏi trong đầu. Chiếc kim chỉ vào cái chết… Ông có nghĩ nó thực sự làm việc không, Farder Coram?”

“Đúng là nó đang làm việc, Lyra ạ. Điều chúng ta không biết là liệu chúng ta có đọc nó đúng hay không. Đây là cả một nghệ thuật phức tạp. Ta tự hỏi…”

Nhưng trước khi ông nói hết câu, một tiếng gõ cửa gấp gáp, và một người đàn ông Gypsy trẻ tuổi bước vào.

“Xin thứ lỗi cho tôi, Farder Coram, Jacob Huismans vừa trở về, anh ấy bị thương rất nặng.”

“Anh ta đi cùng Benjamin de Ruyter,” Farder Coram nói. “Có chuyện gì xảy ra vậy?”

“Anh ấy không nói,” người đàn ông trẻ tuổi nói. “Tốt hơn là ông nên đến, Farder Coram, vì anh ấy không sống được lâu nữa đâu, máu ra nhiều quá.”

Farder Coram và Lyra trao đổi một ánh mắt lo sợ và kinh ngạc, nhưng chỉ sau một giây, Farder Coram đã chộp lấy hai cây gậy nhanh hết mức có thể, con nhân tinh chạy phía trước. Lyra cũng hối hả chạy theo sau.

Người đàn ông dẫn họ đến một chiếc thuyền buộc vào cầu tàu, ởp đó một người phụ nữ đeo tạp dề bằng vải flannel đỏ đang giữ cửa mở cho họ. Nhận ra ánh mắt nghi ngại của bà với Lyra, Farder Coram nói, “Việc để cô bé này nghe được lời Jacob nói rất quan trọng, thưa bà.”

Vì thế người phụ nữ để họ vào và đứng về phía sau, con nhân tinh sóc của bà đang đứng lặng im. Trên chiếc giường phủ tấm ga vá víu, một người đàn ông đang nằm, khuôn mặt trắng bệch nhễ nhại mồ hôi, ánh mắt đờ đẫn.

“Tôi đã gọi thầy thuốc, thưa Farder Coram,” người phụ nữ run run nói. “Xin đừng làm anh ấy bị kích động. Anh ấy đang phải vật lộn với cơn đau đớn. Anh ấy vừa ra khỏi thuyền của Peter Hawker vài phút trước đây.”

“Peter đâu rồi?”

“Anh ấy đang buộc thuyền. Chính anh ấy bảo tôi phải mời ông đến.”

“Rất sáng suốt. Nào, Jacob, anh có nghe thấy tôi nói không?”

Jacob ngước mắt nhìn Farder Coram đang ngồi trên chiếc giường đối diện, chỉ cách khoảng vài mét.

“Chào Farder Coram.” Ông thì thầm.

Lyra nhìn sang con nhân tinh của ông. Đó là một con chồn sương, nó nằm rất im bên cạnh đầu chủ, cuộn tròn không ngủ, vì mắt nó cũng đang mở to giống chủ của mình.

“Điều gì đã xảy ra vậy?” Farder Coram hỏi.

“Benjamin chết rồi,” ông trả lời. “Anh ấy đã chết, còn Gerard thì bị bắt.”

Giọng ông khản đặc và hơi thở rất yếu. Khi ông ngừng nói, con nhân tinh đau đớn duỗi người ra, liếm má chủ, và được tiếp thêm sức mạnh từ đó, ông tiếp tục:

“Chúng tôi đột nhập vào Bộ Thần học, vì Benjamin nghe được từ một tên Gà trống tây chúng tôi bắt được nói rằng sào huyệt của chúng ở đó, đó là nơi ban hành những mệnh lệnh…”

Ông lại ngừng lại.

“Anh đã bắt được vài tên Gà trống tây?” Farder Coram hỏi.

Jacob gật đầu, và đưa mắt nhìn con nhân tinh. Thường thì các nhân tinh khôngấ nói chuyện với những người khác ngoài chủ của mình, nhưng đôi lúc việc này cũng xảy ra. Nó lên tiếng.

“Chúng tôi bắt được ba tên Gà trống tây tại Clerkenwell và bắt chúng phải khai ra chúng làm việc cho ai, mệnh lệnh phát ra từ đâu và đại loại các chuyện như vậy. Chúng không biết bọn trẻ bị mang đi đâu, ngoại trừ việc lên phương Bắc, đến vùng Lapland…”

Nó ngừng lại và thở hổn hể n một lúc, bộ ngực bé nhỏ của nó phập phồng rồi lại tiếp tục.

“Bọn Gà trống tây đó nói cho chúng tôi về Bộ Thần học và Ngài Boreal. Benjamin nói ông ấy và Gerard Hook phải đột nhập vào đó, còn Frans Broekman cùng Tom Mendham sẽ đi thăm dò về Ngài Boreal.”

“Họ làm đúng như vậy chứ?”

“Chúng tôi không biết. Họ không trở về. Farder Coram, đó dường như là tất cả những điều chúng tôi đã làm, chúng tôi đã biết trước khi hành động, và theo những gì chúng tôi đoán thì Frans và Tom đã bị nuốt sống ngay khi tiếp cận Ngài Boreal.”

“Hãy quay lại với Benjamin,” Farder Coram nói, nghe thấy hơi thở của Jacob ngày càng gấp gáp và đôi mắt nhắm nghiền trong đau đớn.

Con nhân tinh của Jacob kêu khẽ một tiếng tràn ngập lo lắng và yêu thương, người phụ nữ tiến lại gần thêm một hay hai bước, tay bịt miệng, nhưng bà không nói gì, con nhân tinh yếu ớt tiếp tục nói:

“Benjamin, Gerard và chúng tôi đến Bộ Thần học tại Nhà Trắng và tìm thấy một cửa ngách nhỏ, nó không bị canh phòng nghiêm ngặt lắm, chúng tôi đứng trông chừng xung quanh trong khi họ mở khóa đi vào. Họ chưa vào được bên trong nhưng khoảng một phút sau chúng tôi nghe thấy một tiếng kêu đau đớn, con nhân tinh của Benjamin bay ra ngoài để vẫy chúng tôi vào giúp đỡ rồi lại bay vào, chúng tôi rút dao ra và chạy theo sau; nơi đó quá tối, đầy những thứ và âm thanh ghê rợn khiến chúng tôi nhầm lẫn những chuyển động của chúng; chúng tôi quan sát xung quanh, nhưng phía trên có một sự rung chuyển, một tiếng hét sợ hãi, Benjamin và con nhân tinh ngã xuống từ trên cầu thang phía trên chúng tôi, con nhân tinh cố gắng lôi mạnh và vùng vẫy để đỡ anh ấy, nhưng không có kết quả, vì họ lao xuống sàn nhà, cả hai chết ngay lập tức.

Chúng tôi không nhìn thấy Gerard đâu cả, nhưng tiến Bg anh ấy rú lên phía trên, chúng tôi quá sợ hãi và choáng váng đến nỗi không nhúc nhích nổi. Sau đó một mũi tên bắn vào vai chúng tôi và đâm rất sâu vào… “

Giọng con nhân tinh càng yếu hơn, tiếng rên rỉ phát ra từ người đàn ông bị thương. Farder Coram cúi xuống nhẹ nhàng lật tấm khăn trải giường lên, và từ phía vai của ông nhô ra đầu có cắm lông chim của một mũi tên trong một đám máu đóng hòn lớn. Phần máu và đầu tên cắm sâu vào ngựcS người đàn ông xấu số đến nỗi vượt ra khỏi lớp da đến mười phân. Lyra cảm thấy choáng váng.

Có tiếng chân người và giọng nói ngoài cầu tàu.

Farder Coram đứng lên và nói, “Thầy thuốc đã đến, Jacob. Chúng tôi sẽ để anh nghỉ ngơi. Chúng ta sẽ nói chuyện nhiều khi anh đã cảm thấy khá hơn.”

Ông vỗ vai người phụ nữ khi đi ra. Lyra nép vào người đàn ông khi đến cầu tàu, vì có một đám đông đã đứng đó, thì thầm và chỉ trỏ. Farder Coram lệnh cho Peter Hawker phải đến ngay chỗ John Faa và nói:

“Lyra, ngay khi chúng ta biết Jacob sống hay chết, chúng ta phải nói chuyện về La bàn vàng. Cháu hay đi đi và ở nguyên một chỗ, cô bé. Chúng ta sẽ cho gọi cháu.”

Lyra lang thang trên đường về, và đi đến bờ sông đầy cây lau sậy ngồi ném bùn xuống nước. Cô biết một điều: cô không thích thú hay tự hào khi có thể đọc được La bàn vàng—cô cảm thấy sợ hãi. Bất cứ sức mạnh nào có thể khiến chiếc kim quay và dừng lại, nó cũng biết mọi chuyện như một con người có lý trí.

“Mình đoán đó là một con quỷ,” Lyra nói, và trong một lúc cô cảm thấy bứt rứt muốn ném thứ đồ bé nhỏ xuống giữa đầm lầy.

“Mình sẽ nhìn thấy nếu chúng ta có một linh hồn trong đó,” Pantalaimon nói. “Như con ma ở Godstow. Mình thì nhìn được còn cậu lại không.”

“Không phải chỉ có một loại linh hồn.” Lyra nói với giọng trách móc. “Dù sao cậu cũng không thể nhìn thấy hết được bọn chúng. Hơn nữa, thế chuyện những học giả đã chết hiện lên không đầu? Mình đã nhìn thấy, nhớ không?”

“Đó chỉ là một cơn ác mộng thôi.” bi</font>

“Không phải. Đó là những linh hồn có thực, và cậu cũng biết thế. Nhưng dù là loại linh hồn nào điều khiển chiếc kim thì cũng không phải loại linh hồn đó.”

“Có thể nó không phải một loại linh hồn,” Pantalaimon bướng bỉnh.

“Vậy thì đó là cái gì?”

“Nó có thể là… Nó có thể là những hạt cơ bản.”

Cô lắc đầu quầy quậy.

“Có thể là nó đấy!” Pantalaimon khăng khăng. “Cậu có nhớ chiếc máy đo ánh sáng ở Gabriel không? Sao nào?”

Tại Học viện Gabriel có một thứ linh thiêng được giữ nguyên trên bệ thờ của Nhà nguyện, được phủ (giờ Lyra mới nhớ ra) nhung đen, giống tấm vải bọc La bàn vàng. Cô nhìn thấy nó khi đi cùng ông Quản lý thư viện Jordan sang bên đó dự lễ. Khi lời khẩn cầu cất lên cao, Người trợ lễ nâng tấm vải lên để lộ một vòm kính lờ mờ bên trong là một thứ gì đó không thấy rõ vì quá xa, cho đến khi người bên trên, để một tia nắng mặt trời xuyên vào đúng giữa mái vòm. Giờ thì mọi thứ mới rõ ràng: một thứ giống như chiếc chong chóng chỉ chiều gió, một bên có bốn bản hứng gió, một bên màu đen, ánh sáng chiếu vào. Nó thể hiện một bài học đạo lý, Người trợ lễ giải thích, vì màu đen của sự ngu dốt chạy trốn khỏi ánh sáng, trong khi sự khôn ngoan của màu trắng lao theo kéo nó lại. Lyra nghe ông ta nói nhưng không mấy quan tâm, nhưng những cánh gió quay tít thật là hay dù chúng dùng để làm gì, và tất cả đều được thực hiện dưới lực đẩy của hạt, ông Quản lý thư viện nói như vậy khi họ trên đường trở về Jordan.

Vì thế cũng có thể Pantalaimon nói đúng. Nếu các hạt cơ bản có thể đẩy một chiếc máy đo sáng quay vòng, không nghi ngờ gì nó có thể khiến ánh sáng hoạt động làm quay chiếc kim, nhưng điều này vẫn khiến cô băn khoăn.

“Lyra! Lyra!”

Có tiếng Tony Costa, anh đang vẫy cô từ bến thuyền.

“Đến đây đi.” Anh gọi. “Cô phải đến gặp John Faa tại Phòng họp mặt. Chạy đi, cô bé, việc gấp đấy.”

Cô nhận thấy John Faa, Farder Coram và những lãnh đạo khác, tất cả đều trông rất lo lắng.

John Faa lên tiếng:

“Lyra, cô bé, Farder Coram đã kể cho ta nghe về chuyện cháu đọc chiếc máy đó. Và ta rất tiếc khi phải thông báo rằng Jacob đáng thương đã qua đời. Ta nghĩ sau cùng có lẽ chúng ta sẽ đưa cháu đi cùng, ngược lại với dự định của ta ban đầu. Tâm trí ta đang rối bời về chuyện đó, nhưng có vẻ như không còn sự chọn lựa nào khác. Ngay sau khi Jacob được mai táng theo phong tục, chúng ta sẽ lên đường. Cháu hiểu ý ta chứ, Lyra: cháu sẽ cùng đi, nhưng đây không phải là một dịp để cháu vui chơi và mừng rỡ. Có rất nhiều khó khăn và nguy hiểm đang đợi chúng ta ở phía trước.”

“Ta đặt cháu dưới sự trông nom của Farder Coram. Cháu không được gây phiền phức hay vướng víu gì cho ông ấy, nếu không cháu sẽ được nngếm cơn thịnh nộ của ta đấy. Giờ thì hãy về ngay và nói cho Mẹ Costa biết, hãy luôn trong tư thế sẵn sàng.”

Hai tuần tiếp theo trôi qua trong bận rộn nhất từ trước đến nay trong đời Lyra. Bận rộn, nhưng không vội vã, vì có những khoảng thời gian chờ đợi chán ngắt, cô trốn trong những cabin trên thuyền, hay chờ đợi khung cảnh mùa thu đẫm nước mưa ảm đạm trôi qua khung cửa sổ, rồi lại chơi trốn trong cabin, hay ngủ cạnh đầu máy hơi gas và thức giấc với cơn đau đầu mệt mỏi; và tệ hơn cả, không bao giờ được phép đi ra ngoài để chạy dọc bờ sông hay trèo lên boong tàu hay kéo cửa cống hay bắt một chiếc dây neo quăng lên.

Bởi vì tất nhiên cô phải náu mình. Tony Costa kể cho cô nghe những chuyện bàn tán trong các quán rượu trên bờ: rằng có một cuộc săn đuổi trên khắp vương quốc tìm một cô bé tóc sáng màu với một phần thưởng lớn cho ai tìm được và lệnh trừng phạt nặng nề cho ai che giấu cô. Cũng có những lời đồn đại kỳ lạ: người ta nói rằng cô là đứa trẻ duy nhất trốn thoát được khỏi bọn Gà trống tây, và cô nắm trong tay những bí mật chết người. Một lời đồn đại khác nói rằng cô không phải là một đứa trẻ bình thường mà là một đôi quỷ đội lốt một đứa trẻ và con nhân tinh, đến được thế giới nhờ những thế lực địa ngục để hủy hoại nhân loại; còn một lời đồn đại nữa cho rằng không có đứa trẻ nào cả mà là một người lớn, bị phép thuật làm bé lại và bị người Tartar niệm chú, đến do thám những người dân nước Anh tốt bụng và dọn đường cho cuộc xâm lược của người Tartar.

Đầu tiên Lyra nghe những câu chuyện đó với thái độ vui vẻ, còn sau đó là chán nản. Tất cả mọi người đều ghét và sợ cô! Cô mong mỏi được ra khỏi chiếc cabin chật hẹp như một chiếc thùng này. Cô mong rằng mình đã ở trên phương Bắc, trong màn tuyết mênh mông dưới hiện tượng Cực quang rực rỡ. Và đôi khi cô mong được quay trở về Học viện Jordan, bò lê trên những mái nhà cùng Roger, nghe tiếng chuông của người Quản lý rung lên nửa tiếng trước bữa tối và những tiếng loảng xoảng, lèo xèo hay kêu la trong Nhà bếp… Rồi cô lại say sưa mơ rằng chưa có chuyện gì thay đổi, không có chuyện gì thay đổi, rằng cô có thể là Lyra của Học viện Jordan mãi mãi, mãi mãi.

Điều duy nhất có thể kéo cô ra khỏi nỗi chán chường và bực bội là La bàn vàng. Cô đọc nó hàng ngày, đôi khi cùng Farder Coram, đôi khi một mình, cô nhận thấy cô có thể ngày càng ham thích đắm mình vào sự tĩnh tâm để nghiên cứu những ý nghĩa của biểu tượng, những dãy núi sừng sững được ánh mặt trời chiếu sáng xuất hiện trong tâm trí.

Cô gắng hết sức giải thích cho Farder Coram nó có cảm giác thế nào.

“Nó gần giống như nói chuyện với ai đó, chỉ có điều ông không thể nghe rõ họ nói gì, và ông cảm thấy như thể mình ngớ ngẩn vì họ thông minh hơn ông, chỉ có điều họ không chịu đau khổ hay gì đó… Họ biết rất nhiều, Farder Coram ạ! Dường như họ biết hết mọi thứ, gần như vậy! Bà Coulter rất thông minh, bà ấy biết rất nhiều, nhưng đây là một loại kiến thức khác… Đó giống như sự thấu hiểu, cháu nghĩ vậy…”

Ông thường đưa ra những câu hỏi đặc biệt, còn cô tìm kiếm câu trả lời.

“Hiện bà Coulter đang làm gì vậy?” Ông hỏi, đôi tay cô làm việc ngay lập tức. Ông hỏi, “Hãy nói cho ta biết mẹ cháu đang làm gì?”

“Vâng, Đức mẹ là bà Coulter, cháu nghĩ đến mẹ cháu khi đặt chiếc kim vào đó; con kiến là sự bận rộn—cái này thì dễ, đó là ý nghĩa đầu tiên; và một trong những ý nghĩa của chiếc đồng hồ cát là thời gian. Giờ thì gạt chiếc kim xuống đây, và cháu vừa áp đặt suy nghĩ của mình lên nó.”

“Và làm thế nào cháu biết được ý nghĩa đó ở đâu?”

“Gần như cháu nhìn thấy nó. Hay đúng hơn là cảm nhận nó, như leo xuống một chiếc thang vào ban đêm, đặt chân xuống và lại có một thanh ngang khác. Vậy, cháu đặt tâm trí của mình xuống và lại có một ý nghĩa khác, cháu gần như cảm nhận được nó là gì. Rồi cháu đặt chúng lại gần nhau. Có một thủ thuật, như làm lác mắt ấy.”

“Vậy hãy làm đi, rồi xem nó nói gì?”

Lyra làm theo. Chiếc kim dài lập tức dịch chuyển, và dừng lại, lại dịch chuyển, lại dừng lại tại hàng loạt những điềm chính xác rồi lại dừng lại. Nó cũng có cảm giác uyển chuyển và mạnh mẽ như Lyra đang cảm nhận, như một con chim non đang tập bay. Farder Coram, quan sát từ phía bên kia bàn, chú ý những nơi chiếc kim dừng lại, quan sát cô bé giữ cho tóc khỏi xòa vào mặt và khẽ cắn môi, đôi mắt cô dõi theo chiếc kim, nhưng sau đó, khi hành trình của nó đã được xác định, cô lại nhìn đâu đó trên mặt La bàn. Tuy nhiên, đó không phải là ngẫu nhiên. Farder Coram là người chơi cờ, ông biết những người chơi nhìn nhận cuộc chơi như thế nào trong khi chơi. Một tay chơi chuyên nghiệp dường như thấy được những đườ phòng ng lực và ảnh hưởng trên bàn cờ, nhìn dọc những tuyến quan trọng mà bỏ qua những điểm yếu; đôi mắt Lyra cũng dõi theo một đường như vậy, theo một từ trường tương tự mà cô có thể thấy, còn ông thì không.

Chiếc kim dừng lại ở tia sét, đứa bé, con rắn, con voi, và một vật Lyra không tìm ra tên để đặt cho nó: một loại thằn lằn mắt to, chiếc đuôi cuốn xung quanh cành cây nó đang đứng. Sự kết hợp này lặp đi lặp lại nhiều lần, trong khi đó Lyra vẫn quan sát.

“Con thằn lằn đó mang ý nghĩa gì vậy?” Farder Coram hỏi, phá vỡ sự tập trung của cô.

“Cháu không có ý tưởng gì… Cháu có thể hiểu nó nói gì, nhưng chắc hẳn cháu không đọc ra được nó. Cháu nghĩ tia sét là sự giận dữ, đứa bé, cháu nghĩ là cháu… Cháu đang cố cho con thằn lằn một ý nghphĩa, nhưng ông hỏi cháu, Farder Coram, làm cháu quên béng mất. Đấy, giờ thì không biết nó trôi nổi đi đâu mất rồi.”

“À, ta thấy rồi. Ta xin lỗi, Lyra ta thật là đáng trách. Cháu đã mệt chưa? Cháu có muốn nghỉ không?”

“Không, cháu không muốn nghỉ,” cô nói, nhưng hai má cô ửng đỏ và đôi mắt sáng rực. Cô có tất cả các dấu hiệu của việc bực bội do hào hứng quá mức, và nó còn trở nên tệ hn do cô phải trốn trong cabin chật hẹp quá lâu.

Ông nhìn ra ngoài cửa sổ. Trời đã gần tối, họ đang đi dọc theo dải nước trong nội địa trước khi đến được bờ biển. Vùng bọt váng màu nâu rộng lớn của sông dưới bầu trời ảm đạm kéo dài đến một dải những thùng đựng than, bên cạnh một nhà máy lọc dầu tỏa khói đen dày đặc đang uể oải hòa vào những đám mây.

“Chúng ta đang ở đâu vậy?” Lyra hỏi. “Cháu có thể thấy ra ngoài một chút được không, Farder Coram?”

“Đây là vùng sông Colby,” ông trả lời. “Cửa sông Cole. Khi chúng ta ra đến được thành phố, chúng ta sẽ buộc thuyền gần khu Chợ khói và đi bộ lên bến tàu. Chúng ta sẽ đến đó trong một hoặc hai giờ tới…”

Nhưng trời đang tối dần, trong khung cảnh hoang vắng tiêu tàn của con sông, chẳng có gì chuyển động ngoài con thuyền của họ và tiếng máy vang lên từ nhà máy lọc dầu xa xa; Lyra đang mệt đến phát sốt, cô đã ở bên trong thuyền quá lâu; vì thế Farder Coram nói tiếp:

“Ừ, ta không cho rằng việc ở bên ngoài vài phút là chuyện gì ghê gớm. Nhưng ta không coi như thế là hít thở không khí trong lành cho đến khi chúng ta ra được đến biển. Nhưng cháu có thể đứng ở đầu thuyền và nhìn ra ngoài trong khi ờ đợi đến lúc đó.“

Lyra đứng lên, Pantalaimon biến thành một con hải âu ngay lập tức, hào hứng sải đôi cánh trong không gian. Bên ngoài rất lạnh, dù cô đã mặc áo ấm cẩn thận, Lyra nhanh chóng rùng mình. Pantalaimon, ngược lại, bay lượn trong không khí, kêu to thích thú, nhào lộn, lướt và lao như mũi tên, lúc thì phía trước thuyền, lúc dưới đuôi tàu. Lyra cảm thấy hân hoan trước cảnh đó, cảm thấy như mình cũng đang bay như nó, và giục nó hãy thách con nhân tinh—chim cốc của người thợ máy cùng đua. Nhưng con chim cốc phớt lờ nó và đậu xuống ngủ trên chiếc máy xới gần chủ của mình.

Không có sự sống nào trên vùng đất nâu cằn cỗi này, chỉ có tiếng máy bình bịch và tiếng nước bắn tung tóe dưới mũi tàu phá vỡ sự im lặng mênh mông. Những đám mây nặng nề treo là là nhưng không mang theo mưa, vùng không khí phía dưới đầy khói ảm đạm. Chỉ có Pantalaimon đang duyên dáng bay lượn là mang chút hơi hướng sự sống và tươi vui.

Khi nó đang lao lên lao xuống lặn ngụp với sải cánh trắng nổi bật trên nền trời màu nâu, một thứ gì đó màu đen văng tới và đập vào người nó. Nó ngã sang một bên vì sốc và đau, Lyra hét lên, cảm thấy như chính mình đang đau đớn. Một thứ màu đen khác nữa hợp vào với cái thứ nhất, chúng chuyển động không giống loài chim, mà giống những con bọ cánh cứng bay, nặng nề và thẳng hướng, phát ra những tiếng vo ve.

Khi Pantalaimon ngã xuống, cố gắng quay người và trở lại chiếc thuyền cùng đôi tay Lyra đang tuyệt vọng, những thứ màu đen vẫn tiếp tục lao vào nó, kêu vo ve, lao xao và đầy thù hằn. Lyra gần như phát điên với sự sợ hãi của Pantalaimon và của chính mình. Nhưng lúc đó có thứ gì đó lao qua cô bay lên trên.

Đó là con nhân tinh của người thợ máy, dù trông có vẻ chậm chạp và nặng nề, nó bay rất khỏe và nhanh. Nó táp bên này bên kia, đôi cánh đen vùng vẫy, thứ gì màu trắng vỡ ra, và một thứ nhỏ màu đen rơi xuống mặt sàn trải nhựa đường của cabin ngay dưới chân Lyra, đúng lúc Pantalaimon đậu xuống cánh tay vươn thẳng của cô.

Trước khi cô kịp vỗ về nó, nó biến thành một con mèo hoang và lao xuống sinh vật lạ, đánh nó lui vào chân tường, nó quay cuồng cào cấu để thoát thân. Pantalaimon giữ chặt nó xuống bằng những móng vuốt sắc nhọn và nhìn lên bầu trời đang sẫm dần, nơi đôi cánh đen của con chim cốc đang lượn vòng cao hơn để tìm kiếm sinh vật màu đen khác.

Rồi con chim cốc lượn nhanh về và kêu gì đó với người thợ máy. Ông ta nói, “Nó đi rồi. Đừng để con kia trốn thoát. Đây…” và ông hắt chút nước còn lại trong chiếc ca sắt ông đang uống đi rồi ném nó cho Lyra.

Cô chụp nó ngay lên sinh vật lạ đó. Nó kêu vè vè và gầm gừ như một động cơ.

“Giữ chặt nó đấy nhé,” Farder Coram từ phía sau cô nói, rồi ông quỳ xuống luồn một tấm bài phía dưới chiếc ca.

“Nó là thứ gì vậy, Farder Coram?” Cô run rẩy hỏi.

“Chúng ta hãy xuống phía dưới xem thế nào. Cầm nó cẩn thận nhé, Lyra. Cầm thật chắc vào.”

Cô nhìn con nhân tinh của người thợ máy khi đi xuống, định cảm ơn nó, nhưng đôi mắt già cả của nó đang nhắm. Thay vào đó cô cảm ơn người thợ máy.

“Cô nên ở bên dưới thì hơn.” Ông chỉ nói có vậy.

Cô mang chiếc ca vào trong ca bin, Farder Coram đã tìm thấy một chiếc cốc đựng bia. Ông dốc ngược chiếc ca sắt lên trên chiếc cốc rồi rút tấm bài chắn giữa chúng ra, sinh vật lạ rơi xuống chiếc cốc. Ông nâng nó lên để mọi người có thể thấy rõ thứ sinh vật bé nhỏ đang giận dữ.

Nó dài khoảng bằng ngón tay cái của Lyra, màu xanh lá cây thẫm, không phải màu đen. Cánh cứng của nó giương lên, như một con bọ dừa đang sắp bay, chiếc cánh bên trong đang đạp dữ dội đến mức trông nó chỉ như một vết mờ. Sáu chân có móng của nó đang bám lấy mặt thủy tinh nhẵn bóng.

“Nó là cái gì vậy?” Lyra hỏi.

Pantalaimon, vẫn trong hình dáng một con mèo hoang, trèo lên chiếc bàn cách đó mấy mét, đôi mắt màu xanh lá cây của nó đảo qua đảo lại, nhìn theo sinh vật trong chiếc cốc.

“Nếu cháu bẻ nó ra,” Farder Coram nói, “cháu sẽ thấy không có thứ gì sống trong đó cả. Không phải động vật cũng không phải côn trùng, chắc chắn là như vậy. Trước đây ta đã nhìn thấy một con như thế này ta không bao giờ nghĩ có thể gặp lại chúng ở một nơi mãi tận phương Bắc. Một thứ đến từ Châu Phi. Có một bộ máy chạy trong đó, có thứ đồng hồ lên dây cót làm con tim chi phối nó.”

“Nhưng ai gửi nó đến đây chứ?”

“Cháu thậm chí không cần phải đọc được biểu tượng, Lyra. Cháu có thể đoán dễ dàng như ta vậy.”

“Bà Coulter?”

“Tất nhiên rồi. Bà ta không chỉ lên thám hiểm phương Bắc, có rất nhiều thứ kỳ lạ có thể tìm thấy ở phương Nam hoang dã. Morocco là nơi lần cuối cùng ta nhìn thấy một trong những thứ này. Nguy hiểm chết người; một khi đồng hồ dây cót vẫn còn chế ngự nó, nó sẽ không bao giờ ngừng lại, và khi cháu thả tự do cho nó, nó sẽ nổi giận khủng khiếp đến mức nó giết chết thứ gì đầu tiênậ gặp được”

“Nhưng mục đích phía sau nó là gì?”

“Do thám. Ta thật là ngu ngốc khi để cháu ra ngoài. Và đáng lẽ ta phải không cắt đứt dòng suy nghĩ của cháu để cháu tìm ra ý nghĩa của biểu tượng.”

“Cháu nghĩ ra rồi!” Lyra đột ngột reo lên thích thú. “Nó có nghĩa là không khí, con thằn lằn ấy! Cháu nhìn thấy, nhưng không thể hiểu được tại sao, vì thế cháu cố gắng tìm ra, rồi cháu bị đứt mạch suy nghĩ và quên mất.”

“À,” Farder Coram nói, “thế thì ta cũng hiểu rồi. Đó không phải là một con thằn lằn, nguyên nhân là như thế đấy. Đó là một con tắc kè hoa. Và nó tượng trưng cho không khí vì nó không ăn cũng không uống, nó chỉ sống nhờ không khí.”

“Còn con voi?”

“Châu Phi.” Ông nói, và reo lên “Aha.”

Họ nhìn nhau. Càng khám phá thêm về sức mạnh của La bàn vàng, họ càng thấy sợ hãi trước nó.

“Lần nào nó cũng cảnh báo chúng ta về những chuyện này,” Lyra nói, “Đáng ra chúng ta phải nghe nó. Nhưng chúng ta có thể làm gì với thứ này, Farder Coram? Chúng ta có nên giết nó hay làm gì không?”

“Ta không biết, vì ta có thể làm bất cứ điều gì cũng được. Có thể chúng ta chỉ việc giữ chặt nó trong một chiếc hộp và không bao giờ thả nó ra. Điều làm ta lo lắng là con còn lại, đã trốn thoát. Giờ thì nó đang bay trở lại với bà Coulter, báo tin rằ khácng nó đã nhìn thấy cháu. Ta thật đáng nguyền rủa, Lyra ạ. Sao ta lại ngu ngốc thế chứ.”

Ông loay hoay một lúc ở chiếc tủ búp phê và tìm thấy một hộp thiếc đựng lá thuốc có đường kính khoảng tám xăngtimet. Nó vốn được dùng để đựng các thứ ốc vít, nhưng ông đổ các thứ trong đó ra và lau mặt trong bằng một tấm vải buồm trước khi dốc ngược chiếc cốc lên trên, tấm bìa vẫn để trên miệng cốc.

Sau một lúc, khi một trong những chiếc chân của sinh vật thò ra và đẩy chiếc hộp với sức mạnh bất ngờ, họ bắt nó lại và đóng chặt chiếc hộp.

“Ngay khi chúng ta đến được tàu, ta sẽ cắt một số lính canh quanh bờ để đảm bảo an toàn,” Farder Coram nói.

“Nhưng bộ máy trong người nó có thể bị hỏng chứ?”

“Với một bộ máy bình thường, thì đúng là như vậy. Nhưng như ta đã nói, nó bị trói buộc bởi thứ tinh thần đó đến tận giây phút cuối cùng. Càng vùng vẫy, nó sẽ càng bị buộc chặt hơn, và sức mạnh chi phối nó càng trở nên dữ dội. Giờ thì hãy cho anh chàng này vào một chỗ…”

Ông gói chiếc hộp thiếc bằng một mảnh vải flannel để giảm bớt tiếng vù vù không ngớt, rồi cất nó dưới gầm chiếc giường ông nằm.

Trời đã tối, Lyra nhìn ra ngoài cửa sổ khi những vùng sáng của Colby tiến lại gần hơn. Bầu không khí nặng nề ngày càng dày đặc và trở thành sương mù. Đến khi họ buộc thuyền vào bến tàu dọc Chợ khói, mọi thứ trong tầm mắt trở nên mờ ảo. Bóng tối lan đến những tấm lợp màu xám bạc long lanh như đính ngọc trai do dính sương đêm phủ trên những mái nhà kho hay cần trục, những quầy bán thuốc đóng bằng gỗ, tòa nhà nhiều ống khói bằng đá granit mà khu chợ được đặt tên theo đó, nơi suốt ngày đêm cá được treo và hun khói góp phần làm bầu không khí ẩm ướt, mùi nồng nồng dễ chịu của cá hồi, cá thu và cá êfin hun khói dường như ngấm vào từng viên cuội lót đường.

Lyra, cuốn mình trong tấm áo choàng với một chiếc mũ chụp lớn che mái tóc, đi giữa Farder Coram và người thợ máy. Cả ba con nhân tinh đều rất cảnh giác, sục sạo từng ngóc ngách phía trước, trông chừng phía sau, lắng nghe từng bước chân xa nhất vọng lại.

Nhưng họ là những người duy nhất trên đường. Những người dân Colby đều đã ở trong nhà, có lẽ họ đang nhấm nháp từng ngụm Jenniver bên cạnh bếp lò rít. Họ không nhìn thấy người nào cho đến khi đến được bến tàu, người đầu tiên họ nhìn thấy là Tony Costa, anh đang đứng cạnh cửa.

“Ơn Chúa, mọi người đã đến.” Anh khẽ nói, để họ đi qua. “Chúng tôi vừa nghe tin Jack Verhoeven đã bị bắn và thuyền của ông ấy bị đắm. Không ai biết tin ông đang ở đâu. John Faa đã lên tàu và nóng lòng muốn khởi hành.”

Với Lyra chiếc tàu thật vĩ đại: một phòng lái và ống khói ở giữa tàu, một boong lớn ở đuôi tàu, một cần trục to phía trên cửa sập che vải bạt; ô cửa sổ có ánh đèn vàng và chiếc cầu, ánh đèn màu trắng ở đầu cột buồm; ba hay bốn người đàn ông đang đứng trên boong, hối hả làm một việc gì đấy mà cô nhìn không rõ.

Cô vội vã đi lên cầu tàu phía trước Farder Coram và nhìn quanh một cách thích thú. Pantalaimon biến thành một con khỉ và ngay lập tức trèo ngay lên cần trục, nhưng cô gọi nó xuống ngay. Farder Coram muốn học ở bên trong, hoặc bên dưới, những phòng dùng cho một con tàu lớn.

Xuống dưới mấy bậc cầu thang có một phòng khách nhỏ nơi John Faa đang rì rầm bàn bạc cùng Nicholas Rokeby, người đàn ông Gypsy chịu trách nhiệm về con tàu. John Faa không làm việc gì vội vàng. Lyra đang đợi ông đón chào cô, nhưng ông kết thúc những nhận xét về thủy triều và hoa tiêu trước khi quay sang những người mới đến.

“Xin chào, các bạn của tôi.” Ông nói. “Jack Verhoeven đáng thươngề đã qua đời, chắc các bạn đã nghe nói. Còn con trai anh ấy thì bị bắt.”

“Chúng tôi cũng có tin xấu đây,” Farder Coram nói, và kể về cuộc chạm trán của họ với những sinh vật do thám biết bay.

John Faa lắc chiếc đầu lớn của mình, nhưng không trách cứ gì họ.

“Giờ thì sinh vật đó ở đâu?” Ông hỏi.

Farder Coram mang chiếc hộp thiếc ra và đặt trên bàn. Tiếng vù vù điên loạn phát ra từ chiếc hộp vang ra khắp phòng.

“Tôi đã nghe nói về con quỷ bị chi phối bởi thứ đồng hồ lên dây cót này, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy,” John Faa nói. “Không có cách nào để thuần phục nó và trả nó trở về, tôi không biết nhiều lắm về chuyện này. Cũng như tôi không biết liệu có tác dụng gì không khi bọc chì nó rồi thả xuống biển, vì một ngày nào đó nó có thể thoát ra, con quỷ sẽ đến tìm cô bé dù nó đang ở đâu. Không, chúng ta phải giữ nó bên mình, và canh phòng cẩn mật.”

Lyra là người phụ nữ duy nhất trong boong (vì John Faa đã quyết định không cho phụ nữ đi theo, sau khi đã cân nhắc rất lâu), cô có một cabin riêng. Không phải là một cabin rộng, chắc chắn là như vậy, thực ra nó chỉ vừa đủ kê một chiếc giường và có một lỗ thông hơi, tên đó phù hợp hơn là một ô cửa sổ. Cô xếp mấy thứ đồ mang theo vào ngăn kéo bên dưới giường, hào hứng chạy lên trên để được đứng dựa vào thành tàu và nhìn nước Anh biến mất phía sau lưng. Ngay sau đó cô nhận ra cả nước Anh biến mất trong sương mù trước khi lên được bên trên.

Nhưng bản thân tiếng nước vỗ dưới chân tàu, sự chuyển động của không khí, ánh sáng phát ra từ cửa sổ con tàu lấp lánh hùng dũng trong bóng đêm, tiếng gầm của động cơ, mùi muối, mùi cá và mùi than đã có sức cuốn hút riêng của chúng rồi. Không lâu sau, một sự hấp dẫn nữa xuất hiện, đó là khi con tàu bắt đầu tiến vào Biển German. Rồi ai đó gọi Lyra xuống ăn tối. Cô nhận thấy không đói như mình vẫn tưởng và quyết định sẽ là một ý kiến hay nếu đi nằm, vì Pantalaimon, con nhân tinh đáng thương của cô cảm thấy rất mệt mỏi.

Vậy là cuộc hành trình lên phương Bắc của cô bắt đầu.

PHẦN HAI

BOLVANGAR

Chương 10: Ông Lãnh sự và Con gấu

John Faa và những lãnh tụ khác đã quyết định sẽ đến Trollesund, cảng chính của Lapland. Các phù thủy có một tòa lãnh sự tại thành phố, John Faa biết nếu không có sự giúp đỡ hay ít nhất là thái độ trung lập thiện chí của họ, sẽ không thể cứu được những đứa trẻ đang bị giam cầm.

Ông giải thích ý nghĩa của mình cho Lyra và Farder Coram vào ngày hôm sau, khi cơn say sóng của Lyra đã hơi giảm. Mặt trời chiếu sáng rực rỡ và những làn sóng vỗ vào mạn tàu, làm tung lên những làn bọt trắng khi chúng cuộn tròn ra xa. Trên boong tàu, với những làn gió mơn man và cả một đại dương lấp lánh rì rào, cô vẫn cảm thấy hơi bị say sóng. Pantalaimon đang phát hiện sự thú vị khi là một con hải âu, rồi sau đó là một con hải âu pêtren bay là là trên những ngọn sóng, Lyra say sưa trước niềm hân hoan của nó đến nỗi cô cảm nhận thấy nỗi buồn của một người đã quen sống trên cạn.

John Faa, Farder Coram và hai hay ba người khác ngồi ở phía đuôi tàu, dưới ánh nắng mặt trời chan hòa, bàn luận xem sẽ phải làm gì sắp tới.

“Vậy là Farder Coram quen biết những phù thủy đó,” John Faa nói, “và nếu không nhầm thì có một giao ước gì đó trong vụ này.”

“Đúng như vậy, John,” Farder Coram nói, “đó là chuyện của bốn mươi năm về trước, nhưng khoảng thời gian đó chẳng là gì đối với một phù thủy. Một số phù thủy sống lâu gấp nhiều lần như thế.”

“Điều gì sẽ xảy ra nếu đồng ý với giao ước này, Farder Coram?” Adam Stefanski, người đàn ông chịu trách nhiệm về quân đội hỏi.

“Tôi đã cứu sống một phù thủy,” Farder Coram giải thích. “Bà ta bị ngã vì có một con chim màu đỏ to đến mức từ trước đến nay tôi chưa bao giờ nhìn thấy đuổi theo. Bà ta bị thương rồi ngã xuống đầm lầy, tôi đã tìm thấy bà ta. Bà ta gần chết đuối, tôi đưa bà ta lên thuyền và bắn rơi con chim. Nó rơi xuống một bãi lầy, tiếc thật, vì nó to như một con vạc, và đỏ như lửa.”

“À!” những người khác thì thầm, bị cuốn hút vào câu chuyện của Farder Coram.

“Trở lại chuyện tôi đưa bà ta lên thuyền.” Ông tiếp tục kể “Tôi đã bị sốc nặng khi biết người phụ nữ trẻ đó không có nhân tinh.”

Điều này đồng nghĩa với việc ông mu</span>n nói “người phụ nữ này không có đầu.” Ý nghĩ này gợi lên cảm giác thật ghê tởm. Những người đàn ông rùng mình, nhân tinh của họ dựng đứng lông lên hay lắc mình hoặc kêu những tiếng chói tai, những người đàn ông vuốt ve chúng. Pantalaimon leo vào lòng Lyra, trái tim họ đập chung một nhịp.

“Ít nhất,” Farder Coram nói, “là cũng có vẻ như vậy. Vì bà ta rơi từ trên trời xuống nên tôi nghĩ bà ta là phù thủy. Chính xác thì bà ta giống một người phụ nữ trẻ, mảnh mai và vô cùng xinh đẹp, nhưng việc không thấy con nhân tinh khiến tôi cảm thấy ghê sợ.”

“Vậy là họ có nhân tinh hay không, những phù thủy ấy?” Michael Canzona, một người đàn ông khác hỏi.

“Nhân tinh của họ vô hình, tôi cho là vậy,” Adam Stefanski nói. “Nó vẫn luôn ở đó, nhưng Farder Coram không nhìn thấy nó.”

“Không phải đâu, anh sai rồi, Adam,” Farder Coram nói. “Nó không hề ở đó. Các phù thủy có một sức mạnh để tách chính mình ra khỏi nhân tinh trong một khoảng cách xa hơn chúng ta rất nhiều. Nếu cần họ có thể để nhân tinh của mình lên những tầng mây, trên những ngọn gió hay lặn sâu dưới lòng đại dương. Phù thủy mà tôi gặp này, bà ta vừa nằm trên thuyền chưa đến một giờ đồng hồ thì con nhân tinh bay trở lại, vì nó cảm nhận được sự sợ hãi và đau đớn của chủ, tất nhiên là như vậy. Tôi tin, dù bà ta không bao giờ thừa nhận, rằng con chim lớn màu đỏ đó là nhân tinh của một phù thủy khác đang đuổi bắt bà ta. Lạy Chúa! Điều đó làm tôi run rẩy khi nghĩ đến. Tôi đã làm không biết bao nhiêu điều, tôi đã đi khắp cùng trời cuối đất, nhưng rồi cuối cùng lại ở đó và cứu sống một phù thủy. Dù sao, không nghi ngờ gì về việc tôi đã cứu sống bà ta, và ta rất biết ơn về điều đó. Bà ta nói tôi có thể nhờ đến sự giúp đỡ của bà ta nếu cần. Lần đầu tiên tôi phải gọi đến sự giúp đỡ của bà ta là khi người Skraeling bắn tôi bằng mũi tên tẩm thuốc độc. Chúng tôi còn có những liên hệ khác nữa… Tôi đã không gặp lại bà ta trong nhiều năm, nhưng bà ta sẽ nhớ thôi.”

“Bà ta có sống ở Trollesund không, bà phù thủy này ấy?”

“Không, không. Họ sống trong các khu rừng và trên các lành nguyên, không phải một hải cảng giữa những người bình thường. Công việc của họ là ở những nơi hoang vu. Nhưng ở đó họ có một tòa lãnh sự, và tôi sẽ nhắn cho bà ấy, chắc chắn là như vậy.”

Lyra mong muốn được biết nhiều hơn về các phù thủy, nhưng mấy người đàn ông đã chuyển sang bàn luận về vấn đề nhiên liệu và đồ đạc. Cho đến lúc này cô cũng không thểe chờ đợi thêm để đi xem phần còn lại của con tàu. Cô lang thang dọc boong tàu về phía mũi tàu và nhanh chóng làm quen với một thủy thủ lành nghề bằng cách búng những hạt táo cô giữ lại sau bữa sáng vào người ông. Đó là một người đàn ông mập mạp và điềm tĩnh. Khi ông nói tếu táo với cô và cô đáp trả, họ đã trở thành những người bạn tâm đầu ý hợp. Ông tên là Jerry. Với sự hướng dẫn của ông, cô nhận ra nếu làm một việc gì đó sẽ ngăn cảm giác say sóng, dù là việc cọ rửa sàn tàu cũng được, nếu nó được thực hiện theo cách giống như những người thủy thủ vẫn làm. Cô cảm giác rất thích thú với ý tưởng này, từ đó về sau cô gấp tấm chăn trên giường ngủ của mình theo kiểu thủy thủ, xếp đồ đạc của mình trong ngăn tủ giống cách của thủy thủ, và dùng từ “gọn gàng” thay vì “ngăn nắp” giống cách nói của các thủy thủ.

Sau hai ngày trên biển, Lyra đã khẳng định được đây là cuộc sống dành cho cô. Cô điều hành con tàu, từ phòng máy đến cầu tàu, tên cô nhanh chóng được các thủy thủ nhớ đến. Thuyền trưởng Rokeby cho cô ra còi báo hiệu với một tàu khu trực nhỏ của Hà Lan bằng cách kéo còi hơi nước; người đầu bếp để cô giúp trộn bột với nho kho; chỉ có lời nói nghiêm khắc của John Faa là ngăn cô không dám leo lên cột buồm ở mũi tàu để quan sát đường chân trời.

Suốt cả thời gian con tàu đi về phía bắc, không khí lạnh thêm từng ngày một. Kho hàng của tàu bị lộn tung để tìm loại vải dầu có thể may quần áo cho cô. Jerry dạy cô cách khâu, một nghệ thuật cô sẵn sàng học từ ông, dù ở Jordan cô rất coi thường và thường không thèm quan tâm mỗi khi bà Lonsdale có ý muốn dạy cô học. Họ cùng nhau khâu một chiếc túi bằng vải không thấm nước để đựng La bàn vàng, như thế cô có thể đeo quanh bụng, phòng khi cô bị rơi xuống biền, cô nói thế. La bàn vàng đã có chỗ để an toàn, cô tung tăng trên lan can nhìn những bụi nước tung trắng xóa trước mũi tàu và loanh quanh trên boong. Thỉnh thoảng cô vẫn cảm thấy say sóng, đặc biệt là khi gió thổi mạnh và con thuyền lắc lư ghê gớm trên đỉnh ngọn sóng màu xanh xám. Lúc đó trách nhiệm của Pantalaimon là làm cô mất tập trung bằng cách biến thành một con hải âu pêtren và lướt trên sóng. Như thế cô có thể cảm thấy niềm hân hoan vô bờ bến của nó giữa sóng gió và quên đi cơn say sóng. Rất nhiều lần nó còn thử biến thành một con cá, có lần nó còn hòa vào một đàn cá voi trước sự ngạc nhiên và thích thú của chúng. Lyra đứng run rẩy trên boong trước mũi tàu, cười sung sướng khi Pantalaimon yêu quý của cô, mỡ màng và khỏe mạnh, nhảy lên trên mặt nước cùng nửa tá những chú cá heo màu xám đang lắc lư khác. Đó là niềm vui sướng, nhưng không phải niềm vui sướng thông thường, vì còn có cả sự đau đớn và sợ hãi trong đó nữa. Nhỡ nó thích được làm một chú cá voi hơn thích ở bên cạnh cô thì sao?

Người bạn thủy thủ lành nghề của cô ở gần đó, ông ngừng tay khi chỉnh lại tấm vải bạt che trước cửa hầm chứa hàng để nhìn con nhân tinh của cô bé lướt trên sóng và nhảy lên mặt nước cùng đàná heo. Con nhân tinh của ông, một con hải âu đang đậu trên chiếc tời cuốn dây leo, dụi đầu vào cánh. Ông biết cảm giác của Lyra lúc này.

“Tôi nhớ lần đầu tiên ra biển, Belisaria của tôi vẫn chưa cố định ở một hình dạng nào cả. Lúc đó tôi còn trẻ lắm, nó muốn biến thành một chú cá heo. Tôi đã rất sợ nó sẽ biến thành hẳn như vậy. Trên chiếc tàu lần đó có một thủy thủ không bao giờ có thể lên bờ vì nhân tinh của ông ta có hình dáng cố định là cá voi, và nó không thể rời mặt nước. Ông ấy là một thủy thủ tuyệt vời, một nhà đi biển giỏi nhất cô có thể gặp được. Ông ấy có thể kiếm được cả một gia tài bằng nghề đánh cá, nhưng ông ấy không vì thế mà hạnh phúc. Ông ấy chẳng bao giờ thực sự được hạnh phúc cho đến khi chết đi và có thể được mai táng trên biển.”

“Tại sao các con nhân tinh lại phải cố định lại hình dáng?” Lyra hỏi “Cháu muốn Pantalaimon có thể thay đổi hình dạng mãi mãi. Nó cũng muốn thế.”

“À, chúng luôn phải cố định lại, và sẽ là vậy. Đó là một phần của sự trưởng thành. Sẽ đến một lúc nào đó cháu mệt mỏi vì sự luôn thay đổi của nó, và muốn cố định cho nó một hình dạng.”

“Cháu sẽ chẳng bao giờ thế đâu.”

“Ồ, cháu sẽ thế đấy. Cháu sẽ muốn lớn lên như tất cả các cô bé khác. Dù sao, cũng có những đền bù cho sự cố định hình dáng đó.”

“Đó là gì vậy?

“Biết được mình là loại người nào. Lấy Belisaria làm ví dụ. Nó là một con hải âu, và như thế bác cũng là một loại hải âu. Bác không vĩ đại, rực rỡ hay đẹp đẽ, nhưng bác là một thứ đồ già bền bỉ và có thể sống sót ở bất cứ nơi nào, luôn tìm được chút thức ăn cũng như tình bạn. Cái đó đáng để biết lắm chứ, phải vậy không. Và khi con nhân tinh của cháu đã cố định lại, cháu sẽ biết cháu là người như thế nào.”

“Nhưng nếu con nhân tinh của bác cố định lại trong hình dáng bác không thích thì sao?”

“À, nếu thế, cháu sẽ không hài lòng, đúng không? Rất nhiều người muốn có một con nhân tinh là sư tử nhưng cuối cùng nó lại biến ra một con chó xù. Và cho đến khi họ chưa đọc được cách hài lòng với điều mình có, họ sẽ luôn cáu kỉnh vì điều đó. Cũng mất nhiều thời gian đấy.”

Nhưng dường như với Lyra cô sẽ chẳng bao giờ trưởng thành cả.

Một buổi sáng, có thứ mùi lạ trong không khí và con thuyền đang chuyển động một cách kỳ lạ. Nó lắc liên tục từ bên nọ sang bên kia thay vì chúi về phía trước hay chồm lên. Lyra lên boong tàu ngay một phút sau khi thức giấc, nhìn chăm chú về phía đất liền: một cảnh tượng thật lạ lùng; sau khoảng thời gian xung quanh chỉ có nước, vì dù họ mới chỉ ở trên biển được ít ngày, Lyra tưởng như đã hàng tháng trời; ngay phía trước con tàu là một ngọn núi, sườn núi màu xanh còn đỉnh phủ đầy tuyết trắng. Một thành phố nhỏ và bến cảng nằm dưới chân núi: những ngôi nhà gỗ với mái dốc, một tháp chuông nhà nguyện, những cần cẩu trên cảng, những đám mây chim mòng biển đang bay vòng và kêu ầm ĩ. Mùi nặng nhất là mùi cá, nhưng vẫn pha trộn với những mùi đến từ đất liền: nhựa thông, đất, mùi động vật, mùi xạ hương, và thứ mùi gì đó lạnh lẽo, trống trải và hoang dã: đó có thể là mùi tuyết. Nơi đây có mùi của phương Bắc.

Những con hải cẩu nô đùa quanh tàu, để lộ những khuôn mặt giống các chú hề trên mặt nước trước khi lặn xuống làm nước bắn tung tóe. Làn gió làm tung những ngọn sóng bạc đầu lạnh một cách kỳ lạ, và luồn vào từng khoảng trống trong chiếc áo da sói của Lyra. Tay cô nhanh chóng cảm thấy đau đớn và khuôn mặt cô tê cóng. Pantalaimon, trong hình hài chồn ecmin, giúp cô làm ấm chiếc cổ, nhưng sẽ quá lạnh nếu ở bên ngoài lâu mà không làm việc gì, dù chỉ đơn giản ngắm những con hải cẩu. Lyra đi xuống dưới ăn bữa sáng với cháo yến mạch và nhìn ra ngoài qua lỗ thông hơi trong phòng khách.

Bên trong cảng, nước rất yên. Lyra bắt đầu cảm thấy bứt rứt vì thiếu hoạt động. Cô và Pantalaimon thèm thuồng nhìn xung quanh khi con tàu nặng nề chậm chạp tiến dần vào bến tàu. Suốt một giờ đồng hồ tiếp theo đó, tiếng máy tắt dần đến mức chỉ rì rầm khe khẽ phía sau tàu, những tiếng người hét lên ra lệnh hay hỏi han, những sợi dây thừng tung lên, cầu tàu hạ xuống, cửa hầm tàu bật mở.

“Nhanh lên nào, Lyra,” Farder Coram gọi. “Mọi thứ đã được gói ghém chưa?”

Đồ đạc của Lyra, nếu có thể gọi như vậy, đã được thu dọn ngay từ khi cô thức giấc và nhìn thấy đất liền. Tất cả những gì cô cần làm là chạy đến cabin, nhấc chiếc túi ra, giờ thì cô đã sẵn sàng.

Việc đầu tiên cô và Farder Coram làm khi lên bờ là đến thăm tòa nhà được dùng làm Tòa lãnh sự của Phù thủy. Không mất nhiều thời gian để tìm nó; thành phố bé nhỏ chỉ quay xung quanh bến cảng, nhà thờ và Tòa lãnh sự là bề thế nhất. Tòa lãnh sự của các Phù thủy đặt trong một ngôi nhà gỗ sơnr màu xanh lá cây nhìn ra biển. Khi họ gọi cửa, chiếc chuông rung lên chói tai trên con đường yên tĩnh.

Một người hầu dẫn họ đến một phòng khách, mang cà phê ra cho họ. Ngay lập tức ông Lãnh sự thân chinh ra tiếp họ. Ông là một người to béo với khuôn mặt hồng hào và bộ comple đen nhã nhặn, tên là Martin Lanselius. Nhân tinh của ông là một con rắn, màu xanh lá cây nồng nhiệt và sáng lấp lánh giống như mắt ông, đó là điều duy nhất ở ông giống với một phù thủy dù Lyra cũng không chưắc theo cô một phù thủy phải trông như thế nào.

“Tôi có thể giúp gì cho ông, Farder Coram?” Ông ta hỏi.

“Có hai việc, thưa tiến sĩ Lanselius. Thứ nhất, tôi đang nóng lòng muốn liên lạc với một bà phù thủy tôi gặp nhiều năm trước, tại vùng Đầm lầy phía Đông Anglia. Tên bà ấy là Serafina Pekkala.”

Tiến sĩ Lanselius ghi chú bằng một chiếc bút chỉ bạc.

“Ông gặp bà ấy lâu chưa?” Ông hỏi.

“Phải được bốn mươi năm rồi. Nhưng tôi nghĩ bà ấy vẫn còn nhớ.”

“Và điều thứ hai ông cần đến sự giúp đỡ của tôi là gì vậy?”

“Tôi đang đại diện cho một số gia đình người Gypsy có trẻ em bị bắt cóc. Chúng tôi có lý do để tin rằng có một tổ chức đã bắt cóc những đứa trẻ này, những ứa trẻ của chúng tôi và những người khác, rồi mang chúng lên phương Bắc vì một vài mục đích nào đó chưa rõ. Tôi muốn biết liệu ông hay người của ông có nghe nói gì về việc này hay không?”

Tiến sĩ Lanselius từ tốn nhấp một ngụm cà phê.

“Không thể có chuyện không chú ý đến một vài hành động như vậy về phía chúng tôi,” ông nói. “Chắc ông cũng nhận thấy, những mối quan hệ giữa người của tôii. với những người phương Bắc là rất khăng khít. Sẽ là khó cho tôi nếu gây phiền phức cho họ.”

Farder Coram nói như thế ông rất hiểu vấn đề.

“Chắc chắn là như vậy rồi.” Ông nói. “Và tôi không cần thiết phải hỏi ông liệu có cách khác để tôi có được những thông tin này hay không. Đó là lý do tôi hỏi về bà phù thủy trước.”

Giờ thì tiến sĩ Lanselius gật đầu như thể ông rấit hiểu vấn đề. Lyra theo dõi cuộc nói chuyện với tâm trạng bối rối và thán phục. Có rất nhiều điều ẩn sau từng lời nói, và cô thấy rằng ông Lãnh sự của các Phù thủy đã có một quyết định.

“Rất tốt,” ông nói. “Tất nhiên, đúng là như vậy, ông sẽ nhận ra là tên ông sẽ không lạ lẫm với chúng tôi, Farder Coram. Serafina là nữ hoàng của một bộ tộc phù thủy trong vùng Hồ Enara. Còn về câu hỏi kia của ông, tất nhiên chuyện này sẽ được hiểu là thông tin đến được với ông không phải qua tôi.”

“Đúng thế.”

“Vậy thì, tại chính thành phố này có một chi nhánh của một tổ chức có tên là Công ty Thám hiểm Phát triển phương Bắc, mục đích hoạt động là thăm dò các mỏ than, nhưng thực chất là được điều hành bởi một Ủy ban Tôn giáo chung nào đấy của London. Tổ chức này, theo như tôi tình cờ được biết, nhập khẩu trẻ con. Điều này không được biết rộng rãi trong thành phố. Chính quyền Norroway không chính thức được biết về điều này. Bọn trẻ không được giữ ở đây lâu. Chúng được đưa đi đâu đó sâu trong đất liền.”

“Ông có biết là ở đâu không, tiến sĩ Lanselius?”

“Không. Nếu biết tôi đã nói cho ông.”

“Và ông có biết chuyện gì xảy ra với bọn trẻ không?”

Lần đầu tiên tiến sĩ Lanselius nhìn sang Lyra. Cô dửng dưng nhìn lại. Con rắn nhỏ màu xanh lá cây ngóc đầu dậy từ cổ áo của ông Lãnh sự và thì thầm lúng búng câu gì đó vào tai chủ.

Ông Lãnh sự trả lời, “Tôi có nghe đến cụm từ quá trình M.aystadt có liên quan đến vấn đề này. Tôi nghĩ họ dùng cụm từ này để tránh phải nói tên thật của công việc họ làm. Tôi còn nghe thấy từ ‘sự chia cắt’, nhưng tôi không thể nói nó nghĩa gì.”

“Hiện nay có đứa trẻ nào trong thành phố không?” Farder Coram hỏi.

Ông vuốt ve lông con nhân tinh trong khi nó ngồi cảnh giác trong lòng ông. Lyra để ý thấy nó đã thôi không kêu rừ rừ.

“Không, tôi nghĩ là không.” Tiến sĩ Lanselius nói. “Một nhóm khoảng mười hai đứa đến đây khoảng một tuần trước và đã chuyển đi vào ngày hôm kia.”

“À! Gần đây như vậy sao? Vậy là chúng tôi còn có chút hi vọng. Họ đi bằng gì, tiến sĩ Lanselius?”

“Bằng xe kéo.”

“Và ông không biết họ đi đâu sao?”

“Rất ít. Đó không phải là vấn đề chúng tôi quan tâm.”

“Đúng vậy. Giờ thì ông đã trả lời tất cả các câu hỏi của tôi một cách thành thật, thưa ông, và chỉ còn một câu nữa thôi. Nếu ông là tôi, ông sẽ hỏi ngài Lãnh sự của Phù thủy câu hỏi nào?”

Lần đầu tiên tiến sĩ Lanselius mỉm cười.

“Tôi sẽ hỏi tôi có thể thuê một con gấu mặc áo giáp sắt ở đâu.” Ông trả lời.

Lyra đứng lên, và cảm thấy trái tim Pantalaimon nảy lên trên tay cô.

“Theo tôi hiểu những con gấu mặc áo giáp sắt phải phục vụ Ủy ban Tôn giáo,” Farder Coram ngạc nhiên nói. “Ý tôi là, Công ty Thám hiểm Phát triển phương Bắc, hay bất cứ tên nào họ tự gọi mình.”

“Có ít nhất một con không nằm trong số đó. Ông sẽ tìm được nó tại kho chứa xe kéo ở cuối đường Langlokur. Hiện nó đang kiếm sống tại đó, nhưng với tính khí của nó và việc dọa dẫm làm lũ chó ở đó sợ, chắc công việc của nó cũng không kéo dài được lâu đâu.”

“Vậy nó có phải là một con phản bội lại đồng loại không?”

“Có vẻ như vậy. Tên nó là Iorek Byrnison. Ông hỏi tôi xem nếu là ông tôi sẽ muốn hỏi câu hỏi gì, tôi đã nói với ông. Và đây sẽ là điều tôi sẽ làm nếu là ông: tôi sẽ chộp ngay lấy cơ hội thuê một con gấu mặc áo giáp sắt, dù nó có ở cách xa đây hơn chăng nữa.”

Lyra khó mà ngồi yên được. Tuy nhiên Farder Coram hiểu nghi thức cho một cuộc gặp mặt kiểu này va nhón lấy một chiếc bánh mật thơm nức từ chiếc đĩa trên bàn. Trong khi ông ăn bánh, tiến sĩ Lanselius quay sang nhìn Lyra.

“Ta biết cháu đang sở hữu một La Bàn Vàng.” Ông nói, trước sự ngạc nhiên ghê gớm của cô, vì cô không hiểu làm sao ông ta biết được điều này?

“Vâng,” cô trả lời, và sau đó, bị kích thích bởi cú véo của Pantalaimon, nói thêm “ông có muốn xem không?”

“Ta rất muốn được như vậy.”

Cô không ngần ngại đút ngay tay vào túi chiếc áo khoác da sói và đưa cho ông cái bọc vải nhung. Ông mở nó ra và rất cẩn thận cầm nó lên, nhìn chăm chú vào mặt la bàn như một học giả quan sát một mẫu vật hiếm.

“Thật là tinh xảo!” ông nói. “Tôi đã nhìn thấy một cái khác, nhưng không đẹp được bằng cái này. Cháu có sở hữu cuốn sách để đọc nó không?”

“Không,” Lyra bắt đầu, nhưng trước khi cô kịp nói điều gì, Farder Coram đã lên tiếng.

“Không,điều đáng tiếc lớn là tuy Lyra sở hữu nó, nhưng không có cách nào để đọc được nó cả,” Ông nói. “Nó cũng bí ẩn như những hồ mực người Hindu dùng để đọc tương lai. Cuốn sách giải thích gần đây nhất tôi biết đang ở Tu viện Thánh Johann tại Heidelberg.”

Lyra có thể hiểu tại sao ông lại nói như vậy. Ông không muốn tiến sĩ Lanselius biết được sức mạnh của Lyra. Nhộưng cô còn có thể thấy vài điều Farder Coram không thể, đó là sự kích động của con nhân tinh của tiến sĩ Lanselius, và cô biết ngay rằng không nên giả vờ như vậy.

Vì thế cô nói, “Thực ra thì cháu có thể đọc được,” nửa nói với tiến sĩ Lanselius, nửa với Farder Coram.

Và ông Lãnh sự trả lời, “Cháu thật là thông minh,” ông nói. “Từ đâu mà cháu có được nó vậy?”

“Ông Hiệu trưởng Học việ sn Jordan tại Oxford đưa cho cháu,” cô nói. “Tiến sĩ Lanselius, ông có biết ai đã làm ra chúng không?”

“Người ta đồn rằng nó có nguồn gốc từ thành phố Prague,” ông Lãnh sự nói. “Người học giả phát minh ra La bàn vàng đầu tiên lúc đó đã cố tìm ra một cách để đo mức độ ảnh hưởng của các hành tinh, theo các khái niệm của ngành chiêm tinh học. Ông ta định làm ra một thiết bị có thể vận động phản ứng lại các lực hút củSao Hỏa và Sao Kim như một chiếc la bàn phản ứng lại các lực hút của phương Bắc. Về mặt này ông ta đã thất bại, nhưng bộ máy ông phát minh ra rõ ràng đã phản ứng lại với một vài thứ, dù thậm chí không ai biết đó là thứ gì.”

“Họ lấy các biểu tượng ở đâu ạ?”

“À, đó là vào thế kỷ thứ mười bảy. Biểu tượng và ký hiệu có ở khắp mọi nơi. Các tòa nhà và bức tranh được thiết kế để có đọc được như các cuốn sách. Tất cả mọi thứ đều có thể thay mặt được một thứ gì đó khác. Nếu cháu có được đúng cuốn từ điển cần thiết, cháu có thể đọc được chính cả Tự nhiên. Bởi thế không có gì là đáng ngạc nhiên khi một nhà khoa học sử dụng hệ thống ký hiệu đươ thời để diễn đạt những kiến thức có nguồn gốc bí ẩn. Nhưng, cháu biết đấy, chúng đã không hề được sử dụng trong vòng hai thế kỷ hay hơn nữa. “

Ông đưa trả chiếc máy cho Lyra và nói thêm:

“Ta có thể hỏi một câu hỏi được không? Không có cuốn sách giải thích các biểu tượng, cháu làm thế nào mà đọc được?”

“Cháu chỉ làm cho tư tưởng của mình thật rõ ràsau đó là một kiểu giống như nhìn sâu xuống mặt nước. Bác phải để cho mắt mình tìm đúng tầm mức, vì đó là cái duy nhất cần tập trung. Kiểu kiểu vậy.” Cô nói.

“Ta tự hỏi không biết có thể đề nghị cháu làm thử được không?” Ông hỏi.

Lyra nhìn sang Farder Coram. Cô muốn trả lời có nhưng vẫn chờ được ông cho phép. Ông già gật đầu.

“Cháu sẽ hỏi nó vấnr đề gì ạ?” Lyra hỏi.

“Người Tartar có ý định gì về vấn đề Kamchatka?”

Câu hỏi không khó. Lyra quay chiếc kim vào con lạc đà, có nghĩa là châu Á, cũng có nghĩa là quân Tartar; vào chiếc sừng dê kết hoa, tượng trưng cho Kamchatka, nơi có rất nhiều mỏ vàng; rồi vào con kiến, có nghĩa là hoạt động, mục đích hay dự định. Rồi cô ngồi yên, tập trung tư tưởng để ghép nối ba mức độ ý nghĩa lại, rồi thư giãn để tìm câu trả lời. Chiếc kim dài rung rinh dịch đến con cá voi, chiếc mũ sắt, đứa trẻ và chiếc mỏ neo, nhảy nhót giữa các biểu tượng đó và về phía nồi nấu kim loại theo một hành trình phức tạp khiến Lyra phải dõi theo không chớp mắt, nhưng lại vô cùng khó hiểu với hai người đàn ông.

Sau khi nó đã hoàn thành việc dịch chuyển nhiều lần, Lyra nhìn lại. Cô chớp mắt một hai lần như thể vừa ra khỏi một đường hầm.

“Họ đang dự định tấn công nơi đó, nhưng chưa thực sự bắt đầu, vì quãng đường xa và họ đã quá mệt mỏi,” cô nói.

“Cháu nói cho ta biết làm thế nào cháu đọc ra được không?”

“Con cá voi, một trong những ý nghĩa tiếp theo của nó là chơi, một dạng vui chơi.” Cô giải thích. “Cháu biết là nó nói đến ý nghĩa đó vì nó dừng lại tại đó sau khi đã quay từng ấy số vòng và cháu nhận thức được ở mức độ đó chứ không phải bất cứ ý nghĩa nào khác. Chiếc mũ sắt có nghĩa là chiến tranh, hai cái đi cùng nhau có nghĩa là họ định gây chiến nhưng không gấp lắm. Đứa bé có nghĩa là… nó nghĩa là khó khăn… quá khó cho họ để có thể tấn công nơi đó, còn chiếc mỏ neo cho biết tại sao, vì họ đã kiệt sức vì đã phải căng mình như một sợi dây treo. Cháu nhìn thấy tất cả như vậy.”

Tiến sĩ Lanselius gật đầu.

“Thật xuất sắc,” ông nói “ Ta rất cảm ơn cháu, ta sẽ không quên được điều này đâu.”

Rồi ông nhìn Farder Coram với ánh mắt kỳ lạ, rồi quay lại nhìn Lyra.ng

“Ta có thể hỏi thêm một câu nữa không?” ông nói. “Trong khoảng sân phía sau căn nhà này có rất nhiều cành thông mây treo trên tường. Serafina Pekkala đã dùng một trong số đó, số còn lại thì không. Cháu có thể cho ta biết là cành nào được không?”

“Được chứ ạ!” Lyra nói. Cô luôn muốn thể hiện mình. Thế là cô cầm lấy La bàn vàng và hối hả chạy ra. Cô nóng lòng muốn nhìn thấy cành thông mây, vì các phù thủy cưỡi chúng để bay, và cô chưa từng nhìn thấy chúng trước đây.

Khi cô đã đi khỏi, ông Lãnh sự nói, “Ông có nhận ra đứa bé này là ai không?”

“Nó là con gái của Ngài Asriel,” Farder Coram nói, “mẹ của nó là bà Coulter, người sáng lập Ủy ban Tôn giáo.”

“Ngoài những điều đó ra thì sao?”

Người đàn ông Gypsy già lắc đầu. “Không,” ông nói, “tôi không biết thêm gì nữa cả. Nhưng nó là một sinh linh vô tội lạ lùng, tôi sẽ không để nó gặp nguy hiểm trên thế giới này. Tôi không thể đoán được tại sao nó đọc được chiếc máy đó, nhưng tôi tin những gì nó nói. Sao ông lại hỏi tôi như vậy, Tiến sĩ Lanselius? Ông biết điều gì về cô bé sao?”

“Các phù thủy đã nói về đứa bé này nhiều năm nay,” ông Lãnh sự nói. “Bởi vì họ sống gần nơi mà bức màn ranh giới giữa các thế giới là rất mỏng, họ nghe được những lời thì thầm bất tử từ thế hệ này sang thế hệ khác, qua tiếng nói của những người đã vượt qua được ranh giới giữa các thế giới. Họ đã nói về một đứa bé như thế này, nó có một số mệnh phi thường chỉ có thể được thực hiện ở một nơi nào đó, không phải trong thế giới này, mà xa xôi hơn rất nhiều. Không có đứa bé này, tất cả chúng ta sẽ chết. Các phù thủy đã nói như vậy. Nhưng nó phải làm tròn số mệnh này trong tình trạng không hề biết mình đang làm gì, vì chỉ khi nó không biết như vậy, chúng ta mới được an toàn. Ông có hiểu điều đó không, Farder Coram?”

“Không,” Farder Coram nói, “tôi không thể nói là tôi hiểu được.”

“Điều đó có nghĩa là nó không được mắc sai lầm. Chúng ta phải hi vọng nó sẽ không sai lầm, nhưng lại không thể dẫn dắt cho nó. Tôi mừng là có thể nhìn thấy đứa bé này trước khi chết.”

“Nhưng làm thế nào ôngnhận ra cô bé là đứa trẻ đặc biệt đó chứ? Và ý ông là gì khi nói về những người đã vượt qua ranh giới giữa các thế giới? Tôi cảm thấy mơ hồ về những gì ông nói, thưa Tiến sĩ Lanselius, vì tôi luôn đánh giá ông là một người trung thực…”

Nhưng trước khi ông Lãnh sự kịp trả lời, cánh cửa bật mở và Lyra đi vào với vẻ hân hoan đắc thắng, tay cầm một nhánh thông mây nhỏ.

“Chính là cành này!” Cô nói. “Cháu đã thử tất cả chúng, và chính là cành này, cháu chắc chắn đấy.”

Ông lãnh sự nhìn kỹ rồi gật đầu.

“Chính xác,” ông nói. “Chà, Lyra, thật là đáng khen. Cháu thật may mắn vì có một chiếc máy như thế này, ta mong rằng cháu sẽ luôn may mắn với nó. Ta muốn cho cháu một thứ để mang theo bên mình đây…”

Ông cầm cành cây lên và bẻ một nhánh nhỏ đưa cho cô.

“Có phải bà ấy đã dùng nó để bay không?” Lyra hỏi, có đôi chút sợ hãi.

“Đúng, bà ấy đã dùng nó để bay. Ta không thể cho cháu cả cành cây được, ta cần nó để liên lạc với bà ấy, nhưng thế này cũng là đủ rồi. Cháu hãy giữ gìn cẩn thận.”

“Vâng, cháu sẽ làm như vậy,” cô nói, “cảm ơn ông.”

Cô đặt nó vào chiếc túi bên cạnh La bàn vàng. Farder Coram chạm vào cành thông mây như để lấy may, và trên mặt ông có một vẻ Lyra chưa từng thấy trước đây: vẻ mặt đó gần như sự mong mỏi. Ông Lãnh sự đưa họ ra cửa, bắt tay Farder Coram và bắt tay cả Lyra nữa.

“Tôi hi vọng mọi người sẽ thành công,” ông nói và đứng trước ngưỡng cửa trong thời tiết lạnh giá để nhìn theo họ đi xa dần trong con đường nhỏ.

“Ông ấy biết câu trả lời về người Tartar trước cháu,” Lyra nói với Farder Coram. “La bàn vàng nói với cháu như vậy, nhưng cháu không nói ra thôi. Đó quả là một thử thách ghê gớm.”

“Ta cho rằng ông ấy đang thử cháu, cô bé ạ. Nhưng cháu đã đúng khi tỏ ra lịch sự, giả như chúng ta không chắc ông ấy đã biết trước điều gì. Việc mách nước về con gấu cũng rất bổ ích. Ta không biết nếu không gặp ông ấy chúng ta sẽ nghe được về nó từ ai nữa.”

Họ tự tìm đường đến kho chứa xe kéo. Đó là hai nhà kho bằng bê tông giữa một vùng đất nhiều bụi rậm mọc đầy cỏ giữa những khe đá màu xám và những vũng bùn lạnh giá. Một người đàn ông cáu kỉnh trong văn phòng nói cho họ biết họ có thể tìm con gấu khi nó hết giờ làm vào lúc sáu giờ, nhưng họ phải nhanh lên, vì nó luôn đến thẳng chiếc sân phía sau quán rượu Einarsson, nơi người ta cho nó uống.

Sau đó Farder Coram đưa Lyra đến chỗ người bán quần áo tốt nhất trong thành phố và mua cho cô ít quần áo ấm phù hợp. Họ mua một chiếc áo có mũ trùm đầu làm bằng da tuần lộc, vì lông tuần lộc cắm ẩn trong da và cách nhiệt tốt, còn chiếc mũ được may viền bằng lông chồn gulo, vì nó ngăn những lớp băng người ta tạo ra khi hít thở. Họ mua quần áo lót và vải lót ủng bằng da tuần lộc nhỏ, găng tay lụa đ</span> đi bên trong găng tay bằng lông to. Ủng và bao tay làm bằng da chân trước của tuần lộc, vì da ở đó đặc biệt dai. Để ủng được làm bằng da hải cẩu có ngạnh dai như da con mooc, nhưng lại nhẹ hơn. Cuối cùng họ mua một chiếc áo choàng không tay không thấm nước có thể bao trọn cả người cô, làm bằng ruột hải cẩu.

Với tất cả những thứ đó trên người, thêm một chiếc khăn lụa quàng quanh cổ, một chiếc mũ len trùm qua tai và một chiếc mũ chụp lớn phía trước mặt, cô cảm thấy ấm áp một cách vướng víu, nhưng họ đang sắp đến những vùng đất lạnh lẽo hơn thế này nhiều.

John Faa đang trong nom việc dỡ hàng khỏi tàu, rất thích thú trước tin tức từ Lãnh sự của các phù thủy. và còn thích thú hơn khi nghe về con gấu.

“Chúng ta sẽ đến tìm nó ngay tối hôm nay,” ông nói.

“Ông đã bao giờ nói chuyện với một sinh vật như vậy chưa, Farder Coram?”

“Có, tôi từng nói chuyện rồi, và còn đánh nhau với một con, dù không phải là một mình, ơn Chúa. Chúng ta phải chuẩn bị sẵn tinh thần để đương đầu với nó, John. Nó sẽ đòi hỏi nhiều đấy, tôi không nghi ngờ gì về chuyện ấy, sẽ cáu kỉnh và khó chịu, nhưng chúng ta nhất định phải cóữ được nó.”

“Chà, chúng ta phải vậy thôi. Còn về bà phù thủy của ông thì sao?”

“À, chắc chắn bà ấy ở cách xa đây lắm, giờ là nữ hoàng của một bộ tộc phù thủy,” Farder Coram nói, “Tôi thực sự hi vọng có thể gửi một thông điệp đến chỗ bà ấy, nhưng sẽ là quá lâu để đợi trả lời.”

“À, thế hả. Giờ thì để tôi kể cho ông tôi đã tìma được gì, ông bạn già.”

John Faa đã quá nóng lòng sốt ruột muốn kể cho họ biết vài chuyện. Ông đã gặp một người lái khinh khí cầu, một người Tân Đan Mạch tên là Lee Scoresby, đến từ Texas, người đàn ông này có một khinh khí cầu, điều quan trọng là như vậy. Cuộc thám hiểm ông ta đang mong đợi đã thất bại do thiếu tiền ngay trước khi nó rời Amsterdam.

“Hãy nghĩ xem chúng ta có thể làm gì dướíi sự giúp đỡ của một người lái khinh khí cầu, Farder Coram!” John Faa nói, xoắn hai bàn tay khổng lồ vào nhau. “Tôi đã mời ông ấy tham gia cùng chúng ta. Với tôi, dường như thần may mắn sắp tới đây gõ cửa rồi.”

“Nhưng còn may mắn hơn nếu chúng ta biết rõ chúng ta sẽ đi đâu,” Farder Coram nói, nhưng không gì có thể dập tắt sự hào hứng sắp được vào chiếc dịch một lần nữa của John Faa.

Trước khi màn đêm buông xuống, khi hàng hóa và các dụng cụ đã được gỡ xuống an toàn, nằm chờ đợi trên bến cảng, Farder Coram dắt Lyra đi dọc khu cảng va tìm kiếm quán rượu Einarsson. Họ dễ dàng tìm thấy nó: một túp lều tồi tàn với ánh đèn huỳnh quang đỏ chiếu chập chờn trên cửa và những tiếng ồn ào phát ra qua những ô cửa sổ đầy sương đêm.

Một lối đi gập ghềnh bên cạnh dẫn đến một cánh cổng đi vào sân sau, nơi đó có một túp lều xiêu vẹo nằm ọp ẹp trên sàn đầy bùn đông đặc. Ánh đèn tù mù qua ô cửa sổ quán rượu chiếu sáng một bóng dáng lờ mờ đang nằm ngửa và gặm một chiếc đùi bê bằng cả hai tay. Lyra thấy một chiếc mõm và khuôn mặt nhuốm máu, đôi mắt đen độc ác và bộ lông vàng vàng bẩn thỉu bết lại. Khi nó gặm thịt, tiếng gầm gừ, nhai ngấu nghiến va mút mát ghê rợn vang lên. Farder Coram đứng ngoài cửa và gọi.

“Iorek Byrnison!”

Con gấu ngừng nhai. Tại khoảng cách đó, nó nhìn họ chằm chằm, nhưng không thể đọc được nét biểu cảm nào trên mặt nó.

“Iorek Byrnison,” Farder Coram lại nói, “tôi có thể nói chuyện với anh được không?”

Tim Lyra đập mạnh, vì điều gì đó ở con gấu khiến cô có cảm giác gầnhi với sự lạnh lẽo, nguy hiểm, sức mạnh tàn bạo, nhưng là một thứ sức mạnh điều khiển với trí thông minh, không phải trí thông minh của loài người, không có chút gì mang hơi hướng con người ở đây, vì tất nhiên loài gấu không có nhân tinh. Khối to lớn kỳ lạ đang gặm thịt này không giống bất cứ thứ gì cô từng tưởng tượng, cô cảm thấy một sự khâm phục và đáng thương sâu sắc cho con vật cô đơn này. b

Nó đánh rơi chiếc đùi tuần lộc xuống đất bẩn và bò bằng cả bốn chân ra cửa. Rồi nó đứng lên một cách hùng dũng, cao đến ba mét hoặc hơn nữa, như thể để thể hiện sức mạnh của mình, để nhắc nhở họ cánh cửa không có tác dụng che chắn gì cả, và nó nói chuyện với họ ở độ cao đó.

“Sao? Các người là ai?”

Giọng nó trầm đến mức như thể làm rung chuyển cả mặt đất. Mùi hôi khét lẹt bốc ra từ cơ thể nó làm người khác gần như bị tê liệt.

“Tôi là Farder Coram, đại diện cho người Gypsy ở Đông Anglia. Còn cô bé này là Lyra Belacqua.”

“Các ngươi muốn gì?”

“Chúng tôi muốn thuê anh làm việc, Iorek Byrnison.”

“Tôi đã có việc rồi.”

Con gấu thả người rơi xuốnng và đứng bằng bốn chân. Rất khó để phát hiện được bất cứ sắc thái tình cảm nào trong giọng nói của nó, dù là lạnh lùng hay giận dữ, vì nó quá trầm và đều đều.

“Anh làm gì tại nhà kho xe kéo vậy?” Farder Coram hỏi.

“Tôi sửa chữa máy móc và các bộ phận bằng sắt bị hỏng. Tôi nâng những vật nặng.”

“Đó là loại công việc gì dành cho Panserbjorne vậy?”

“Việc được trả công.”

Phía sau con gấu, cánh cửa quán rượu hé mở, một người đàn ông đặt chiếc bình đất nung lớn xuống trước khi ngẩng lên và nhìn họ chằm chằm.

“Ai vậy?”

“Người lạ,” con gấu nói.

Dường như người chủ quán muốn hỏi điều gì nữa, nhưng con gấu bất ngờ đảo người về phía ông ta và người đàn ông vội vã đóng sầm cửa lại. Con gấu cầm lấy quai bình và nhấc nó lên miệng. Lyra có thể ngửi thấy mùi rượu bay ra.

Sau khi đã nốc rượu nhiều lần, con gấu đặt chiếc bình xuống và quay lại gặm chiếc đùi tuần lộc, dường như không để ý gì đến sự có mặt của Farder Coram và Lyra, nhưng rồi nó lại lên tiếng.

“Các ông đề nghị tôi làm việc gì?”

“Chiến đấu, bằng toàn bộ sức lực,” Farder Coram trả lời. “Chúng tôi đang đi lên phương Bắc cho đến khi tìm được nơi người ta giam giữ một số đứa trẻ. Khi tìm được, chúng tôi sẽ phải chiến đấu để giải thoát cho bọn trẻ, sau đó chúng tôi sẽ đưa chúng trở về.”

“Các ông sẽ trả công cho tôi bằng gì?”

“Tôi không biết nên trả cho anh cái gì, Iorek Byrnison. Nếu vàng là thứ anh muốn, anh sẽ có vàng.”

“Chẳng có tác dụng gì đâu.”

“Thế tại nhà kho xe kéo người ta trả cho anh bằng gì?”

“Ở đây tôi nuôi sống mình bằng rượu và thịt.”

Rồi con gấu im lặng. Nó thả cục xương gặm nham nhở xuống và nhấc bình rượu lên ngang miệng, uống ừng ực thứ rượu mạnh như uống nước lã.

“Xin thứ lỗi cho câu hỏi của tôi, Iorek Byrnison.” Farder Coram nói. “Nhưng anh có thể sống một cuộc đời tự do hùng dũng săn hải cẩu và mooc trên băng tuyết, hay anh có thể tham gia chiến tranh với những phần thưởng lớn. Cái gì đã buộc anh lại Trollesund và Quán rượu Einarsson vậy?”

Lyra cảm thấy toàn thân mình run rẩy. Cô cũng đã nghĩ đến câu hỏi tương tự, một câu hỏi gần như là xúc phạm, có thể khiến sinh vật khổng lồ này nổi điên, và cô ngạc nhiên trước sự dũng cảm của Farder Coram khi hỏi như vậy. Iorek Byrnison đặt bình rượu xuống, đến gần cánh cổng nhìn chằm chằm vào khuôn mặt ông già. Farder Coram không hề nao núng.

“Tôi biết người các ông đang tìm, những kẻ làm thịt trẻ con,” con gấu nói, “Họ rời thành phố vào ngày hôm kia để lên phương Bắc cùng nhiều đứa trẻ khác nữa. Sẽ không có ai nói cho các người về chúng đâu; họ giả như không biết gì hết, vì những kẻ làm thịt trẻ con mang lại cho họ tiền bạc va công việc. Giờ thì tôi không thích bọn làm thịt trẻ con, vì thế tôi sẽ trả lời câu hỏi của ông một cách từ tốn. Tôi ở lại đây và uống rượu vì những người đàn ông ở đây đã lấy mất áo giáp sắt của tôi, không có nó, tôi vẫn có thể săn hải cẩu, nhưng không thể tham gia chiến tranh; vì tôi là một con gấu mặc áo giáp sắt: chiến tranh là biển để tôi bơi, là không khí để tôi thở. N0hững người đàn ông trong thành phố này chuốc cho tôi uống say ngủ lịm đi, rồi chúng lấy ao giáp sắt của tôi. Nếu tôi biết chúng giấu nó ở đâu, tôi có thể… tôi có thể xới tung cả thành phố này lên để tìm cho ra. Nếu ông muốn tôi phục vụ ông, tiền công phải trả là: hãy mang trả cho tôi bộ áo giáp. Hãy làm như thế, và tôi sẽ phục vụ các người trong chiến dịch của các người, dù đến khi tôi chết hay các người giành được chiến thắđng. Tiền công chính là bộ áo giáp sắt. Tôi muốn có lại nó, rồi tôi sẽ không bao giờ cần đến rượu nữa.”

Chương 11: Bộ áo giáp sắt

Khi họ quay trở lại tàu, Farder Coram, John Faa và những lãnh tụ khác bàn bạc rất lâu trong phòng khách, còn Lyra quay về cabin để hỏi La bàn vàng. Trong vòng năm phút, cô biết chính xác bộ áo giáp sắt đang ở đâu, và tại sao việc mang nó trở về lại khó khăn đến thế.

Cô băn khoăn không biết có nên đến phòng khách và nói với John Faa cùng những người khác hay không, nhưng cô quyết định cứ để họ hỏi nếu họ muốn biết. Có lẽ họ đã biết rồi.

Cô nằm trên giường và nghĩ về con gấu to lớn hung dữ, cái cách bất cần đời khi nó uống thứ rượu mạnh cháy ruột và sự cô độc của nó trong căn lều bẩn thỉu. Tại sao với con người thì lại khác xa đến thế, luôn có một con nhân tinh bên cạnh để nói chuyện! Trong sự tĩnh lặng của con tàu đang đứng yên, không có những tiếng kim loại và gỗ va vào nhau loảng xoảng liên hồi hay tiếng động cơ gào rú hay tiếng nước vỗ hai bên mạn tàu, Lyra dần chìm vào giấc ngủ, Pantalaimon cũng ngủ trên gối cô.

Khi đang mơ về người cha vĩ đại đang bị cầm tù của mình thì đột nhiên, cô choàng tỉnh. Cô không biết lúc đó là mấy giờ. Có một ánh sáng lờ mờ trong cabin mà cô cho là ánh trăng, nó chiếu sáng những quần áo lông mới mua của cô để ở góc cabin. Vừa nhìn thấy chúng, cô đã muốn mặc chúng lên người một lần nữa.

Khi đã mặc xong, cô lên boong, một phút sau cô đã ở cánh cửa phía trên cùng của cầu thang và bước ra ngoài.

Ngay lập tức cô thấy có điều gì kỳ lạ đang xảy ra trên bầu trời. Cô nghĩ đó là các đám mây, di chuyển và rung rinh, nhưng Pantalaimon thì thầm:

“Hiện tượng cực quang!”

Cô bất ngờ đến nỗi phải bám lấy thành tàu để khỏi ngã.

Cảnh tượng choán hết bầu trời phía bắc; sự rộng lớn mênh mông của nó khó mà tưởng tượng được. Như thể từ chính Thiên đường, những bức màn khổng lồ của ánh sáng huyền ảo đang treo và run rẩy. Màu xanh lá cây nhạt và màu hoa hồng, trong suốt như pha lê. Ở gờ dưới một vực thẳm đỏ sẫm như lửa Địa ngục, chúng đu đưa và lung linh duyên dáng hơn bất cứ vũ công lành nghề nào. Lyra nghĩ thậm chí cô có thể nghe thấy chúng: một lời thì thầm ở rất xa. Trong khoảnh khắc, cô cảm thấy có điều gì hụt hẫng giống cảm giác khi ở gần con gấu. Cô cảm động vì cảnh tượng này: nó quá đẹp, gần như là cảnh thần tiên. Cô cảm giác như nước mắt đang trào ra, và những giọt nước mắt khiến ánh sáng vụn ra thành những cầu vồng rực rỡ. Rất nhanh chóng cô nhận ra mình đang bước vào một cánh cổng giống như lúc cô hỏi ý kiến La bàn vàng. Có thể là, cô lặng lẽ nghĩ, điều khiến kim của La bàn vàng quay cũng làm cho hiện tượng cực quang phát sáng. Thậm chí có thể chính nó là Bụi. Cô nghĩ thế mà không hề để ý là mình đang nghĩ và nhanh chóng quên đi, và chỉ nhớ lại điều này rất lâu sau đó.

Khi cô nhìn chăm chú, hình ảnh một thành phố dường như tự hình thành dưới những dải và dòng màu sắc trong mờ: các tháp chuông và mái vòm, những ngôi đền và hàng cột màu mật ong. Nhìn nó khiến cô có cảm giác chóng mặt, như thể không phải cô đang nhìn xuôi mà là nhìn ngược, và cho cô cảm giác về một vực thẳm rộng lớn đến mức không gì có thể vượt qua được. Đó là cả một thế giới cách biệt.

Nhưng có gì đó đang bay qua nó, trong khi cô đang cố dõi theo, cô cảm thấy chóng mặt và hoa mắt, dù vật nhỏ bé đang chuyển động không phải một phần của Hiện tượng cực quang hay của thế giới khác phía sau nó. Nó ở trên bầu trời bên trên những mái nhà thành phố. Khi cô có thể nhìn nó rõ hơn, cô trở nên hoàn toàn tỉnh táo và thành phố trên bầu trời biến mất.

Vật đang bay đến gần hơn, lượn vòng quanh chiếc tàu với sải cánh mở rộng. Rồi nó lượn xuống, đôi cánh vỗ nhanh mạnh mẽ và đậu xuống nghỉ trên sàn tàu bằng gỗ cách cô vài mét.

Trong ánh sáng của Hiện tượng cực quang cô nhìn thấy một con chim rất lớn, một con ngỗng màu xám duyên dáng, trên đầu đeo vương miện trắng muốt. Cuối cùng cô nhận ra nó không phải một con chim: đó là một con nhân tinh, dù Lyra không còn nhìn thấy ai bên cạnh nó nữa cả. Điều này khiến cô cảm thấy vô cùng sợ hãi.

Con chim nói:

“Farder Coram đâu?”

Ngay lập tức Lyra nhận ra nó là ai. Đây là con nhân tinh của Serafina Pekkala, nữ hoàng của bộ tộc phù thủy, người bạn phù thủy của Farder Coram.

Cô lắp bắp trả lời:

“Tôi…ông ấy…tôi sẽ đi gọi ông ấy…”

Cô quay người chạy đi và lao xuống cầu thang dẫn đến cabin của Farder Coram, mở cửa và nói vào bóng tối:

“Farder Coram! Con nhân tinh của bà phù thủy đến! Nó đang đợi trên boong tàu! Nó tự bay đến đây, cháu nhìn thấy nó bay trên bầu trời…”

Tiếng ông già vang lên, “Bảo nó chờ ta ở boong phía đuôi tàu, cô bé.”

Con ngỗng trịnh trọng đi xuống đuôi tàu, ở đó nó nhìn xung quanh, trang nhã và cũng rất hoang dã. Một nỗi e sợ thú vị dấy lên trong lòng Lyra, cô cảm thấy như mình đang đối diện với một bóng ma.

Sau đó Farder Coram xuất hiện, quấn mình một lớp áo ấm, John Faa theo sát bên cạnh. Cả hai người đàn ông đều cung kính cúi mình, nhân tinh của họ cũng chào vị khách mới đến.

“Xin chào mừng,” Farder Coram nói. “Tôi rất vui và vinh hạnh lại được gặp lại ngài, Kaisa. Giờ thì, ngài có muốn vào bên trong không, hay muốn ở bên ngoài như thế này?”

“Tôi muốn ở ngoài này hơn, cảm ơn ông, Farder Coram. Ông có chịu lạnh được mộ nt lúc không?”

Các phù thủy và nhân tinh của họ không cảm thấy lạnh, nhưng họ biết con người thì có.

Farder Coram cam đoan vơi nó rằng mọi người đều đã mặc đủ ấm và nói, “Serafina Pekkala thế nào?”

“Bà ấy gửi lời chào mừng đến ông, Farder Coram, bà ấy vẫn ổn và khỏe mạnh. Hai người này là ai?”

Farder Coram giới thiệu hai người. Con ngỗng nhìn Lyra chằm chằm.

“Tôi đã nghe nói về đứa bé này,” nó nói. “Nó được nhắc đến trong đám phù thủy. Vậy nó đến đây để gây chiến tranh phải không?”

“Không phải chiến tranh, Kaisa ạ. Chúng tôi cần trả tự do cho những đứa trẻ của chúng tôi đã bị đánh cắp. Và tôi hi vọng các phù thủy sẽ giúp đỡ.”

“Không phải tất cả bọn họ đâu. Một vài bộ tộc đang làm việc cho Những kẻ săn Bụi.”

“Đó có phải là cách ngài gọi Ủy ban Tôn giáo không?”

“Tôi không biết Ủy ban này có ý nghĩa là gì. Họ là Những kẻ săn Bụi. Mười năm trước họ đến vùng đất này của chúng tôi với những thiết bị khoa học. Họ trả tiền cho chúng tôi để được phép lập các trạm trên đất đai của chúng tôi, và họ đối xử với chúng tôi rấtị lịch sự.”

“Thứ Bụi này là gì vậy?”

“Nó đến từ bầu trời. Người thì nói nó luôn luôn ở đó, người thì nói nó mới rơi xuống. Điều đương nhiên là khi mọi người nhận thức được về nó, một nỗi sợ hãi ghê gớm bao trùm lên họ và họ sẽ không từ một biện pháp nào để tìm hiểu về nó. Nhưng những điều này chẳng liên quan gì đến các phù thủy.”

“Và bọn họ đang ở đâu, Những kẻ săn Bụi ấy?”

“Cách đây bốn ngày đường về phía đông bắc, tại một nơi có tên là Bolvangar. Bộ lạc của chúng tôi không có thỏa thuận gì với họ cả, còn giao ước xưa với ông, Farder Coram, tôi sẽ phải chỉ cho ông cách tìm được Những kẻ săn Bụi đó.”

Farder Coram mỉm cười, John Faa vỗ hai bàn tay to lớn của mình vào nhau với thái độ hài lòng.

“Cảm ơn lòng tốt của ngài,” ông nói với con ngỗng. “Nhưng hãy nói cho chúng tôi biết điều này: ngài có biết thêm bất cứ điều gì về Những kẻ săn Bụi này không? Họ làm gì tại Bolvangar?”

“Họ đã xây dựng các tòa nhà bằng kim loại và bê tông, những căn buông dưới lòng đất. Họ đốt thứ than mà họ đưa đến rất tốn kém. Chúng tôi không biết họ làm gì, nhưng có một bầu không khí căm ghét, sợ hãi bao trùm nơi đó và hàng dặm xung quanh. Các phù thủy có thể nhìn thấy những điều con người không thể. Các con vật cũng tránh xa chỗ đó. Không có loài chim nào bay qua chỗ đó, loài lemmut và cáo đã chạy trốn hết. Kể từ đó, cái tên Bolvangar có nghĩa là: vùng đất của quỷ dữ. Họ không gọi nó như thế. Họ gọi nó là Trạm. Nhưng với tất cả những người khác, nó là Bolvaar.”

“Ở đó họ bảo vệ an toàn như thế nào?”

“Họ có một đội quân người Tartar phương Bắc trang bị súng trường. Đó là những chiến binh thiện chiến, nhưng họ không được rèn luyện, vì chưa có ai từng tấn công vào nơi đó kể từ khi nó được xây dựng. Hơn nữa có một hàng rào dây kim loại xung quanh khu vực đó, được tích đầy điện anbaric. Có thể còn có những hình thức bảo vệ khác nữa mà chúng tôi không biết, vì như tôi đã nói, họ chẳng liên quan gì đến chúng tôi cả.”

Lyra đang nóng lòng muốn hỏi, con nhân tinh ngỗng biết điều này nên nó nhìn cô như thể cho phép cô.

“Tại sao các phù thủy lại nói về tôi?” Cô hỏi.

“Vì người cha của cô, hiểu biết của ông ấy về những thế giới khác,” con nhân tinh trả lời.

Điều này làm kinh ngạc cả ba người. Lyra nhìn sang Farder Coram, ông nhìn lại đầy vẻ thắc mắc, rồi nhìn John Faa, người đang có vẻ rất lo lắng.

“Những thế giới khác sao?” ông hỏi. “Xin thứ lỗi cho tôi, thưa ngài, nhưng đó có thể là những thế giới nào? Có phải ý ông nói đến những ngôi sao không?”

“Thực sự là không.”

“Có lẽ là thế giới về tâm linh chăng?” Farder Coram nói.

“Cũng không phải.”

“Có phải là thành phố không ánh sáng không?” Lyra hỏi. “Là nó, phải vậy không?”

Con ngỗng quay đầu về phía Lyra. Mắt nó màu đen, viền một nét mảnh màu xanh da trời, nhưng cái nhìn chăm chú của nó thật dữ dội.

“Đúng vậy,” nó nói. “Các phù thủy đã biết về những thế giới khác hàng nghìn năm nay. Thỉnh thoảng các người có thể nhìn thấy nó trong Ánh Sáng Phương Bắc. Nó hoàn toàn không phải là một phần của vũ trụ. Ngay cả những ngôi sao ở xa nhất cũng là một phần của vũ trụ này, nhưng ánh sáng cho chúng ta thấy một thế giới hoàn toàn mới. Không cách xa, nhưng đan xen với thế giới này. Tại đây, trên boong tàu này, hàng triệu thế giới khác đang tồn tại, không biết đến nhau…”

Nó vươn cánh ra và sải rộng trước khi gập lại như cũ.

“Đó,” nó nói. “Tôi vừa mới chạm khẽ vào mười triệu thế giới khác, và chúng không biết gì về điều đt ó. Chúng ta rất gần nhau, nhưng chúng ta không thể chạm vào hay nghe hay nhìn thấy những thế giới này ngoại trừ trong Ánh Sáng Phương Bắc.”

“Và tại sao lại như vậy?” Farder Coram hỏi.

“Vì những hạt tích điện trong Hiện tượng cực quang có tính chất làm cho vật chất của thế giới trở nên loãng hơn, nhờ đó chúng ta có thể nhìn xuyên qua nó trong một khoảng thời gian ngắn. Các phù thủy luôn biết điều này, nhưng hiếm khi chúng tôi nói về nó.”

“Cha cháu tin vào điều này,” Lyra nói. “Cháu biết thế vì cháu đã nghe ông ấy thuyết trình và mọi người xem các bức ảnh chụp hiện tượng cực quang.”

“Chuyện này có gì liên quan đến Bụi không?” John Faa hỏi.

“Ai có thể nói chắc được?” Con nhân tinh ngỗng nói. “Tất cả những gì tôi có thể nói cho các người là Những kẻ săn Bụi rất sợ nó như thể nó là một thứ chất độc chết người. Đó là nguyên nh tân họ bắt giam Ngài Asriel.”

“Nhưng tại sao chứ?” Lyra hỏi.

“Họ nghĩ ông ta định dùng Bụi để làm một cây cầu nối giữa thế giới này và thế giới khác trong ánh sáng của hiện tượng cực quang bằng một cách nào đó.”

Đầu Lyra trở nên trống rỗng.

Cô nghe thấy Farder Coram hỏi, “Và đúng là ông ta có dự định đó chứ?”

“Đúng vậy,” con nhân tinh ngỗng trả lời. “Họ không tin là ông ta có thể, vì họ nghĩ ông ta điên thì mới tin rằng có những thế giới khác. Nhưng sự thực là như vậy: đó là dự định của ông ta. Và ông ta là một nhân vật có ảnh hưởng lớn đến nỗi họ sợ ông ta sẽ gây phiền phức cho các kế hoạch của mình. Vì thế họ thỏa thuận với những con gấu mặc áo giáp sắt để bắt ông ta và giam vào một pháo đài ở Svalbard, rất xa xôi hẻo lánh. Có lời đồn rằng một phần trong cuộc mặc cả quy định họ phải giúp vua gấu giành được vương quyền.”

Lyra hỏi, “Những phù thủy có muốn ông ấy tạo ra chiếc cầu không? Họ đứng về phía ông ấy hay là chống lại?”

“Đây là câu hỏi mà câu trả lời sẽ rất phức tạp. Thứ nhất, các phù thủy không đoàn kết với nhau. Có rất nhiều ý kiến trái ngược giữa chúng tôi. Thứ hai, cây cầu của Ngài Asriel bị đe dọa bởi một cuộc chiến tranh đang có nguy cơ bùng nổ hiện nay giữa các phù thủy và nhiều thế lực khác, một vài trong đó là ở thế giới tâm linh. Việc sở hữu cây cầu, nếu nó tồn tại thực sự, sẽ mang lại lợi thế ghê gớm cho người giành được nó. Thứ ba, bộ tộc phù thủy của Serafina Pekkala—bộ tộc của tô—vẫn chưa tham gia một đồng minh nào, dù chúng tôi đang phải chịu áp lực rất lớn bắt phải tuyên bố theo phe nào. Cô thấy đấy, đó là các vấn đề chính trị quan trọng và không phải dễ giải quyết.”

“Còn về những con gấu thì sao?” Lyra hỏi. “Chúng theo phe nào?”

“Theo phe nào trả tiền cho chúng. Chúng không quan tâm dù chuyện xảy ra thế nào. Chúng không có nhân tinh. Chúng không quan tâm về các vấn đề của con người. Ít nhất thì loài gấu cũng thường như vậy, nhưng chúng tôi có nghe nói vua mới của chúng đang có ý đồ thay đổi những đường lối cũ… bằng bất cứ giá nào. Những kẻ săn Bụi cũng phải trả tiền để chúng bắt giam Ngài Asriel, và chúng sẽ giữ ông ta ở Svalbard cho đến khi giọt máu cuối cùng rơi khỏi cơ thể của con gấu sống sót cuối cùng.”

“Nhưng không phải tất cả các con gấu đều như vậy!” Lyra nói. “Còn có một con không đếnn Svalbard. Nó là một con gấu bị ruồng bỏ, và nó sắp đến với chúng tôi.”

Con ngỗng lại nhìn Lyra chằm chằm. Lần này cô có thể cảm nhận được sự ngạc nhiên lạnh lùng của nó.

Farder Coram vặn vẹo người một cách không thoải mái và nói, “Sự thực là, Lyra, ta không nghĩ nó như vậy đâu. Chúng ta nghe nói nó đang phải lao động như một kẻ bị đi đày, nó không tự do, như chúng ta vẫn tưởng, nó đang phải lĩnh án. Cho đến khi nó được tha, nó không thể tự do đi cùng chúng ta, dù là có bộ áo giáp sắt hay không; và nó cũng không thể lấy lại được bộ áo giáp sắt đó.”

“Nhưng nó nói người ta đã lừa nó! Họ cho nó uống say rồi ăn cắp bộ áo giáp sắt mang đi!”

“Chúng ta lại được nghe một câu chuyện khác.” John Faa nói. “Nó là một kẻ lừa đảo nguy hiểm, người ta nói như vậy đấy.”>

“Nếu…” Lyra cảm thấy giận dữ, cô khó lòng nói lên sự bực bội của mình. “Nếu La bàn vàng nói điều gì đó, cháu biết là nó nói thật. Cháu đã hỏi nó, nó nói con gấu đó đã nói thật, đúng là người ta đã lừa nó, người ta đã nói dối chứ không phải nó. Cháu tin nó, Ngài Faa! Farder Coram—ông cũng đã gặp nó, ông cũng tin nó, đúng vậy không?”

“Ta nghĩ là ta đã tin nó, cô bé ạ. Ta cũng chắc chắvề điều đó như cháu vậy.”

“Nhưng họ sợ hãi điều gì chứ? Có phải họ nghĩ nó sẽ đi lung tung và giết người ngay khi có lại được bộ áo giáp sắt? Ngay bây giờ nó đã có thể giết hàng tá người rồi!”

“Nó đã làm như vậy.” John Faa nói. “Ồ, nếu không phải là hàng tá, thì cũng vài người. Ngay sau khi người ta tước mất của nó bộ áo giáp sắt, nó điên cuồng tìm kiếm khắp mọi nơi. Nó phá tan hoang đồn cảnh sát, ngân hàng và ta không biết còn nơi nào nữa hay không. Có ít nhất hai người đàn ông bị nó giết chết. Lý do duy nhất người ta chưa bắn chết nó là khả năng tài tình với đồ kim loại của nó, người ta muốn dùng nó như một thợ thủ công.”

“Như một nô lệ thì đúng hơn!” Lyra nóng nảy nói. “Họ không có quyền làm như vậy.”

“Đáng ra họ đã có thể bắn chết nó vì tội giết người, nhưng họ không làm như vậy. Họ bắt nó lao động phục vụ dân thành phố cho đến khi nó trả được tiền bồi thường tổn thất và tiền bồi thường cho thân nhân người bị giết.”

“John,” Farder Coram nói, “tôi không biết anh cảm thấy thế nào, nhưng tôi tin là họ sẽ chẳng bao giờ trả lại bộ áo giáp sắt cho nó. Họ càng giam chân nó lâu, nó sẽ càng giận dữ khi lấy lại được bộ áo giáp sắt.”

“Nhưng nếu chúng ta tìm lại bộ áo giáp sắt cho nó, nó sẽ đi cùng chúng ta và không bao giờ làm phiền họ nữa,” Lyra nói, “cháu hứa đấy, Ngài Faa.”

“Làm thế nào chúng ta làm thế được?”

“Cháu biết nó ở đâu!”

Sau đó là sự im lặng, cả ba người nhận thấy con nhân tinh của bà phù thủy đang nhìn Lyra chằm chằm. Cả ba người quay sang nó, ba con nhân tinh cũng vậy, chúng đến giờ vẫn giữ đúng phép lịch sự không nhìn vào con nhân tinh đi một mình có chủ bên cạnh này.

“Cô sẽ không ngạc nhiên đâu,” con ngỗng nói “khi biết rằng La bàn vàng là một nguyên nhân khác khiến các phù thủy quan tâm đến cô, Lyra ạ. Ông Lãnh sự đã nói cho chúng tôi biết về cuộc viếng thăm của cô sáng nay. Tôi tin là chính Tiến sĩ Lanselius đã nói cho các người về chuyện con gấu.”

“Vâng, đúng là vậy,” John Faa nói. “Cô bé và Farder Coram đã đến nói chuyện với ông ấy. Tôi dám chắc điều Lyra nói là sự thực, nhưng nếu chúng ta vi phạm luật lệ của những người bản địa, chúng ta sẽ chỉ vướng vào tranh chấp với họ. Điều chúng ta cần làm là tiến nhanh về phía Bolvangar, dù có con gấu đi cùng hay không.”

“À, nhưng anh vẫn chưa nhìn thấy nó, John ạ,” Farder Coram nói. “Và tôi thực sự tin Lyra. Chúng tôi có thể thay mặt nó để hứa, có thể là như vậy. Nó có thể làm mọi chuyện khác hắn.”

“Ý kiến của ngài thế nào?” John Faa nói với con nhân tinh của bà phù thủy.

“Chúng tôi ít qua lại với những con gấu. Những mong muốn của chúng xa lạ với chúng tôi như những mong muốn của chúng tôi xa lạ với chúng vậy. Nếu con gấu này bị ruồng bỏ, có thể nó không đáng tin như người ta nói. Các người phải tự phải quyết định thôi.”

“Chúng tôi sẽ làm như vậy,” John Faa nói chắc chắn. “Nhưng bây giờ, thưa ngài, ngài có thể nói cho tôi biếngt làm thế nào để đến được Bolvangar không?”

Con nhân tinh ngỗng bắt đầu giảng giải. Nó nói về những thung lũng và đồi núi, về những hàng cây và lãnh nguyên, về những ánh sao. Lyra lắng nghe một lúc rồi ngồi xuống chiếc ghế trên boong với Pantalaimon cuốn quanh cổ và nghĩ về viễn cảnh tươi sáng con nhân tinh ngỗng mang tới. Một cây cầu nối liền hai thế giới… Điều này choáng ngợp hơn bất cứ thứ gì cô từng hi vọng! Và chỉ có người cha vĩ đại của cô mới có thể biến nó thành hiện thực. Ngay cả khi họ cứu được bọn trẻ, cô sẽ đến Svalbard cùng con gấu và đưa La bàn vàng cho Ngài Asriel, dùng nó để giải thoát cho ông; họ sẽ cùng xây dựng chiếc cầu, và là người đầu tiên bước qua…

Chắc vào ban đêm, John Faa đã bế Lyra về giường, vì khi thức giấc cô thấy mình ở đó. Mặt trời ờlờ mờ đã lên cao đến mức nó có thể, chỉ cách đường chân trời một sải tay, vì thế chắc chắn đã gần trưa, cô nghĩ vậy. Rất nhanh thôi, khi họ đi xa hơn về phía bắc, sẽ không còn mặt trời nữa.

Cô nhanh chóng thay quần áo và chạy lên boong. Tất cả hàng hóa đã được dỡ xong, xe kéo và đội chó kéo xe đã được thuê và chuẩn bị xuất phát. Mọi thứ đã sẵn sàng nhđưng chưa có gì bắt đầu cả. Phần lớn những người Gypsy đang ngồi trong một quán cà phê mù mịt khói thuốc lá nhìn ra mặt nước, ăn bánh kẹp và uống cà phê đặc pha đường trên một chiếc bàn gỗ dài dưới tiếng xì xèo kêu lách tách của mấy ngọn đèn anbaric cổ xưa.

“Ngài Faa đâu rồi?” Cô hỏi rồi ngồi xuống chỗ Tony Costa và các bạn anh. “Và cả Farder Coram nữa? Có phải họã đang đi lấy bộ áo giáp sắt về cho con gấu không?”

“Họ đang nói chuyện với quận trưởng. Đó là từ họ dùng để chỉ nhà cầm quyền. Vậy là cô đã nhìn thấy con gấu đó, phải không Lyra?”

“Vâng!” Cô nói, và kể về con gấu. Trong khi cô kể, có ai đó kéo một chiếc ghế đến ngồi cùng cả nhóm tại bàn.

“Vậy là cô đã nói chuyện với Iorek phải không?” ông hỏi.

Cô ngạc nhiên nhìn người mới đến. Đó là một người đàn ông cao, gầy gò với hàng ria mép mỏng và màu xanh lơ, có một vẻ gì đó xa cách và khôi hài châm biếm thường trực. Cô có ấn tượng sâu sắc với ông ngay lập tức, dù không chắc đó là yêu thích hay không yêu thích. Nhân tinh của ông ta là một con thỏ rừng bẩn thỉu gầy gò, lôi thôi giống hệt chủ.

Ông ta giơ tay ra và cô bắt tay ông với thái độ cảnh giác.

“Tôi là Lee Scoresby,” ông ta nói.

“Người lái khinh khí cầu!” Cô reo lên. “Chiếc khinh khí cầu của ông đâu rồi? Cháu có thể trèo lên nó được không?”

“Ngay lúc này thì nó đang được xếp lại, thưa cô.”

“Chắc chắn cháu là Lyra nổi tiếng. Làm thế nào mà cháu gặp được Iorek Byrnison?”

“Ông biết an ta sao?”

“Ta đã chiến đấu bên cạnh anh ta trong chiến dịch Tunguska. Chết tiệt thật, ta đã biết Iorek trong nhiều năm, dù thế nào thì loài gấu cũng rất khó nhằn, nhưng anh ta rất cừ, và không bao giờ phạm sai lầm. Nói cho ta biết, đã có quý ông nào ở đây chơi trò xúc xắc may mắn chưa?”

Một hộp tú lơ khơ bất ngờ xuất hiện trên tay ông. Ông tráo các quân bài khiến chúng kêu lên tanh tách.

“Giờ thì tôi đã được nghe về sức mạnh của các quân bài từ người của cô,” Lee Scoresby nói, một tay thoăn thoắt chia và gộp các quân bài lại, tay kia thò vào túi rút ra một điếu xì gà. “Và tôi nghĩ cô không nên phản đối để cho người lữ khách tầm thường người Texas có cơ hội thi thố tài năng cũng như thể hiện chút tài nghệ trong thế giới của các quân bài. Các quý ông thấy thế nào ạ?”

Những người Gypsy vẫn thường tự hào về khả năng với những quân bài của họ, nhiều người đàn ông lộ rõ vẻ thích thú và kéo ghế lên ngồi cùng bàn. Trong khi họ đang thỏa thuận với Lee Scoresby về cách thức chơi, con nhân tinh của ông ta ghé tai vào Pantalaimon, nó hiểu ý nên biến thành một con sóc và nép sát hơn một chút vào con nhân tinh này.

Tất nhiên, nó cũng đang nói vào tai Lyra, và Lyra nghe thấy nó nói khẽ, “Hãy đến ngay chỗ con gấu và nói với nó. Ngay khi người ta biết chuyện gì đang xảy ra, họ sẽ chuyển bộ áo giáp sắt của nó đi chỗ khác.”

Lyra đứng lên, cầm theo chiếc bánh, không ai để ý đến cô. Lee Scoresby đã bắt đầhiu biểu diễn với các quân bài, mọi con mắt tò mò đổ dồn cả vào đôi tay ông.

Trong ánh sáng lờ mờ đang nhạt dần của một buổi chiều dài bất tận, cô tìm đường đến nhà kho xe trượt tuyết. Cô biết mình phải làm điều gì đó, nhưng cô cảm thấy không dễ chịu chút nào, và sợ nữa.

Bên ngoài căn phòng bê tông lớn nhất, con gấu đang làm việc, Lyra đứng bên ngoài cánh cổng mở to và quan sát, Iorek Byrnison đang tháo dỡ một đầu máy chạy bằng hơi gas bị đâm hỏng. Tấm kim loại che phủ bộ máy đã bị cong vênh và bộ máy bên trong đã hỏng nặng. Con gấu nhấc tấm kim loại lên như thể nó là một thùng bìa các tông, rồi quay nó sang bên này bên kia với đôi tay to lớn của mình, như để kiểm tra chất lượng của nó hay sao đó, trước khi đặt một bàn chân có móng vuốt của mình vào một góc rồi uốn cả tấm kim loại theo một cách khiến các vết lõm thẳng ra và trở lại nguyên hình dáng cũ. Áp tấm kim loại vào bức tường, nó nâng cả đầu máy nặng lên bằng một chân và đặt bên cạnh mình trước khi bẻ cong để kiểm tra chiếc máy đã bị đâm rúm ró.

Trong lúc làm việc đó, nó bắt gặp cái nhìn của Lyra. Cô cảm thấy rùng mình sợ hãi, vì nó thật to lớn và xa lạ. Cô đang nhìn nó qua tấm hàng rào cách nó khoảng bốn mươi mét, cô nghĩ đến chuyện nó có thể lao đến chỗ cô chỉ với một hay hai bước và phá tan hàng rào như gạt một chiếc mạng nhện, gần như cô đã quay người chạy đi, nhưng Pantalaimon nói, “Đừng chạy! Để mình đến nói chuyện với anh ta.”

Nó biến thành một con nhạn biển, trước khi cô kịp trả lời, nó đã bay qua hàng rào xuống mặt đất đầy tuyết phía dưới. Có một chiếc cổng nhỏ đang mở phía dưới, Lyra có thể chạy theo Pantalaimon, nhưng cô ngần ngại đứng lại, Pantalaimon nhìn cô, rồi biến thành một con lửng.

Cô biết nó đang làm gì. Các nhân tinh không thể rời xa khỏi chủ quá vài mét, nếu cô đứng ngoài hàng rào và nó vẫn là một con chim, nó không thể đến gần con gấu. Nó đang sắp mạo hiểm.

Cô cảm thấy tức giận và đau khổ. Những móng vuốt của nó cắm sâu vào đất khnó tiến lại gần con gấu. Đó là một cảm giác giày vò đau đớn khi con nhân tinh của bạn đang phá vỡ giới hạn trong mối liên kết với mình; một phần là sự đau đớn về thể chất trong ngực, một phần là cảm giác buồn bã và yêu thương sâu sắc. Cô biết nó cũng đang cảm thấy như vậy. Tất cả mọi người đều trải qua cảm giác này khi họ lớn lên: nhận thấy họ có thể xa nhau bao xa, và thở phào nhẹ nhõm khi quay trở lại với nhau.

Nó đã tiến lại gần thêm một chút.

“Đừng, Pan!”

Nhưng nó không dừng lại. Con gấu đứng nhìn, không động đậy. Sự đau đớn trong tim Lyra càng lúc càng không thể chịu đựng nổi, và một tiếng khóc bật lên từ cổ họng cô.

“Pan…”

Rồi cô lao qua cánh cổng, bò qua mặt đất đầy bụi và tuyết về phía nó. Nó biến thành một con mèo hoang và lao và lòng tay cô, rồi họ ôm chặt lấy nhau với những tiếng thổn thức sợ hãi.

“Mình đã nghĩ là cậu chắc chắn sẽ…”

“Không…”

“Mình không thể tưởng tượng được nó lại đau đớn đến thế…”

Rồi cô giận dữ lau nước mắt và khụt mũi thậTt mạnh. Nó nằm gọn trong lòng cô, cô biết cô thà chết chứ không để họ phải xa nhau và đối mặt với sự đau đớn thêm một lần nữa, việc đó sẽ làm cô phát điên vì đau đớn và sợ hãi. Nếu cô chết họ sẽ vẫn ở bên cạnh nhau, như các Học giả trong hầm mộ ở Jordan.

Cô bé và con nhân tinh nhìn lên con gấu đang đứng cô độc một mình. Nó không có nhân tinh. Nó đang chỉ có một mình, luôn luôn một mình. Cô cảm thấy thương xót và thông cảm cho nó, cô gần như tiến đến chạm vào bộ lông bẩn bê bết của nó, chỉ có những ánh mắt lạnh lùng hung dữ của nó mới có thể chặn cô lại.

“Iorek Byrnison,” cô gọi.

“Có chuyện gì vậy?”

“Ngài Faa và Farder Coram đã đi và cố gắng tìm lại bộ áo giáp sắt cho anh.”

Nó không xê dịch hay lên tiếng. Rõ ràng là nó đang nghĩ xem cơ hội của họ lớn đến đâu.

“Tuy thế, tôi biết nó đang ở đâu,” cô nói. “Và nếu tôi nói cho anh biết, có thể anh sẽ tự tìm về được, tôi cũng không biết nữa.”

“Làm sao cô biết nó đang ở đâu?”

“Tôi có một chiếc máy đọc các biểu tượng. Tôi nghĩ là tôi nên nói với anh, Iorek Byrnison, trước tình cảnh anh bị người ta lừa gạt như vậy. Tôi không nghĩ họ làm như vậy là đúng. Đáng lẽ họ không được làm như vậy. Ngài Faa đang đi đàm phán với quận trưởng, nhưng có thể họ sẽ không trả lại anh dù ông ấy có nói gì chăng nữa. Vì thế nếu tôi nói cho anh biết chỗ người ta giấu nó, anh sẽ đi cùng chúng tôi và giúp cứu thoát bọn trẻ ở Bolvangar chứ?”

“Được.”

“Tôi…” cô không muốn là kẻ tọc mạch, nhưng không thể kìm nổi sự tò mò của mình. Cô nói “tại sao anh không làm một vài bộ áo giáp sắt khác bằng kim loại ở đây, Iorek Byrnison?”

“Vì nó chẳng có giá trị gì hết. Nhìn đây này,” nó nói và nhấc tấm kim loại phủ cỗ máy bằng một tay. Nó thò móng vuốt ra khỏi bàn tay kia và chọc thủng như dùng một chiếc mở hộp. “Bộ áo giáp sắt của tôi được làm từ sắt đến từ bầu trời, được làm riêng cho tôi. Bộ áo giáp sắt của một con gấu chính là linh hồn của nó, cũng như con nhân tinh là linh hồn của cô. Cô không thể cho nó đi,” con gấu chỉ vào Pantalaimon, “và thay bằng một con búp bê nhồi mạt cưa. Đó lại là chuyện khác. Giờ thì bộ áo giáp sắt của tôi ở đâu?”

“Nghe này, anh phải hứa với tôi là sẽ không trả thù. Họ đã sai khi ăn cắp nó, nhưng anh phải chịu đựng điều đó.”

“Được rồi. Sẽ không có trả thù sau khi tôi đã lấy lại được bộ áo giáp sắt. Nhưng họ cũng không được chống cự trong khi tôi lấy nó. Nếu chống cự, họ sẽ chết.”

“Nó được giấu trên trần nhà của một thầy tu.” Cô nói với con gấu. “Ông ta nghĩ có một linh hồn trong đó, và ông ta đang cố thử làm trò ảo thuật gì đó với nó. Nhưng mà nó ở đó đấy.”

Nó đứng lên bằng chân sau, nhìn về phía tây, tia nắng cuối cùng trong ngày nhuộm màu khuôn mặt nó một màu vàng rạng rỡ như kem giữa cả một bầu trời ảm đạm. Cô có thể cảm thấy sức mạnh của sinh vật to lớn tỏa ra như những làn sóng nhiệt.

“Tôi phải làm việc cho đến lúc mặt trời lặn,” nó nói. “Tôi đã hứa với người chủ ở đây rồi. Tôi vẫn còn phải làm vài phút nữa.”

“Mặt trời đã lặn đến chỗ tôi rồi,” cô nói, vì từ điểm cô chỉ tay, mặt trời đã biến mất phía sau dãy núi đá về phía tây nam.

Nó thả cả bốn chân xuống.

“Đúng thế,” nó nói, khuôn mặt nó giờ đã chìm trong bóng nắng như cô. “Tên cô là gì, cô bé?”

“Lyra Belacqua.”

“Vậy tôi nợ cô một chuyện, Lyra Belacqua,” nó nói.

Rồi nó quay người và lảo đảo chạy đi, nó đi trên nền đất đóng băng nhanh đến mức Lyra không theo kịp, dù là chạy. Cô hối hả chạy, Pantalaimon biến thành một con hải âu bay phía trên để dõi xem con gấu chạy theo hướng nào rồi nói to để Lyra chạy theo.

Iorek Byrnison lao ra khỏi khu nhà kho và chạy dọc con đường hẹp phía trước khi rẽ sang con phố chính của thành phố, đi qua sân khu nhà có cắm một lá cờ của quận trưởng và một người lính gác đang trang nghiêm đi đi lại lại, xuống dưới quíả đồi phía cuối con đường có tòa Lãnh sự của các phù thủy. Đến lúc này người lính gác mới nhận thấy điều gì đang xảy ra và cố gắng bình tĩnh, nhưng Iorek Byrnison đã rẽ sang góc đường gần bến cảng.

Mọi người dừng lại để nhìn ngó hay tránh khỏi đường chạy của nó. Người lính gác nổ hai phát súng lên trời và lao xuống dưới đuổi theo con gấu, trượt xuống sườn đồi trơn trượt và chỉ lấy lại được thăng bằng sau khi đã chộp được tay vịn gần nhất. Lyra ở dưới anh ta không xa. Trong lúc chạy qua ngôi nhà của quận trưởng, cô nhận thấy có mấy người ra sân xem chuyện gì đang xảy ra, cô nghĩ đã nhìn thấy Farder Coram trong số đó, nhưng rồi cô chạy qua, lao xuống con đường về phía góc đường nơi người lính gác đã rẽ vào và chạy theo con gấu.

Ngôi nhà của ông thầy tu là cũ nhất trong thành phố được xây bằng gạch đắt tiền. Ba bậc cửa dẫn đến cửa trước, lúc này có những vệt gỗ bị xước, từ trong nhà vang ra những tiếng gào thét, xô đẩy và đồ gỗ gãy nát. Người lính gác lưỡng lự bên ngoài, cây súng trường của anh đã sẵn sàng; nhưng sau đó, khi những người qua đường bắt đầu tụ tập, phía bên kia đường, những người dân nhìn qua khung cửa sổ, anh nhận ra mình phải hành động. Anh ta nổ một phát súng vào không khí trước khi chạy vào.

Một lát sau, toàn bộ ngôi nhà dường như rung động. Kính ở ba ô cửa sổ vỡ tan tành và một viên ngói trượt khỏi mái nhà, rồi sau đó một người hầu gái chạy ra, hoảng hốt, con nhân tinh gà mái của bà ta bay phần phật phía sau.

Một tiếng súng nữa vang lên trong nhà, rồi sau đó là một tiếng gầm khủng khiếp khiến người hầNu gái hét lên. Nhanh như ngọn lửa phụt ra từ nòng súng ca nông, chính ông thầy tu cũng lao ra, con nhân tinh bồ nông đập cánh điên cuồng và vênh vang trong thương tích. Lyra nghe thấy những tiếng hét ra lệnh, cô quay lại và thấy một đội cảnh sát có vũ trang đang tiến nhanh đến từ phía góc quanh của con đường, cách họ không xa là John Faa cùng hình dáng to béo lũn cũn đầy kiểu cách của ông quận trưởng.

Một âm thanh đau đớn và chói tai khiến tất cả mọi người quay lại ngôi nhà. Cửa sổ tầng dưới cùng, rõ ràng đang mở ở hầm rượu bị giật tung cùng tiếng kính vỡ loảng xoảng và tiếng gỗ bị xé rin rít. Người lính canh đi theo Iorek Byrnison vào nhà chạy ra và đứng nhìn chăm chú vào cửa sổ hầm rượu, khẩu súng trường vác trên vai, cánh cửa đã bị bật tung hoàn toàn, và từ đó Iorek Byrnison trèo ra trong bộ áo giáp sắt.

Khi không có bộ áo, nó đã dữ dội rồi. Với bộ áo giáp sắt, nó trởo nên đáng kinh sợ. Bộ áo giáp sắt đỏ lên vì gỉ sét và được ghép bằng đinh tán khá thô sơ: những phiến và mảnh kim loại không màu lớn được rập nổi kêu loảng xoảng và rít lên khi chạm vào nhau. Chiếc mũ sắt hình nhọn như chiếc rọ mõm, có khe hở cho mắt, để hở phần dưới hàm để có thể cắn xé.

Người lính gác bắn nhiều phát súng, những người cảnh sát cũng vác vũ khí lên, nhưng tậm chí Iorek Byrnison không tránh những làn đạn như mưa và tiến về phía trước khi người lính canh kịp trốn thoát, con gấu đánh anh ta ngã xuống đất. Con nhân tinh của anh ta, một con chó Eskimo, lao vào cổ họng con gấu, nhưng Iorek Byrnison không quan tâm nhiều đến nó nhiều hơn đến một con ruồi và lôi người lính gác lại gần chỉ bằng một chân. Nó co người và dùng móng vuốt chụp lấy đầu người lính. Lyra có thể biết chính xác điều gì sẽ xảy ra tiếp theo: nó sẽ bóp vỡ sọ người đàn ông như bóp một quả trứng, rồi sau đó có thể là một cuộc ẩu đả đẫm máu, với nhiều người chết hơn.

Không suy nghĩ gì thêm, cô lao đến và đặt tay vào một điểm nhạy cảm trên bộ áo giáp sắt của con gấu, khoảng trống giữa chiếc mũ và miếng kim loại lớn che vai khi nó cúi đầu xuống, nơi cô có thể nhìn thấy lớp lông màu trắng vàng giữa những gờ kim loại rỉ sét. Cô dí ngón tay vào đó, và Pantalaimon lập tức bay đến đó, biến thành một con mèo hoang, cào cấu để bảo vệ cô; nhưng Iorek Byrnison vẫn không chuyển biến gì, những người cảnh sát lên nòng súng.

“Iorek!” cô thấp giọng nói với vẻ dữ dội. “Nghe đây! Anh còn nợ tôi một chuyện, đúng không? Vậy thì giờ anh có thể trả nợ được rồi đấy. Hãy làm như tôi yêu cầu. Không được đánh những người này. Chỉ cần quay đi và đi với tôi. Chúng tôi cần anh, Iorek, anh không thể ở lại đây được. Anh chỉ cần đi xuống bến cảng với tôi và không cần nhìn lại. Farder Coram và John Faa, hãy để họ đi thương thuyết, họ sẽ dàn xếp ổn thỏa mọi chuyện. Hãy thả người đàn ông này ra và đi với tôi…”

Con gấu từ từ thả những móng vuốt ra. Chiếc đầug của người lính canh bê bết máu và xám ngoét. Anh ta ngã ngất đi trên nền đất, con nhân tinh ở bên an ủi chăm sóc khi con gấu bước đến bên Lyra.

Không ai dám động đậy. Họ nhìn con gấu đi khỏi nạn nhân theo mệnh lệnh của cô bé có con nhân tinh mèo hoang, họ lùi sang bên để nhường đường cho Iorek Byrnison đi những bước nặng nề qua đám người bên Lyra hướng ra phía bến cảng.

Tâm trí cô đã dồn hết vào nó, cô không nhận ra thấy sự tức giận phía sau lưng mình, nỗi sợ hãi và bực bội chỉ nổi lên sau khi cô đã đi khỏi. Cô đi cùng với nó, Pantalaimon chạy phía trước cả hai như để dọn đường.

Khi họ đến bến cảng, Iorek Byrnison cúi đầu và tháo chiếc mũ sắt bằng một chân, để nó rơi xuống mặt đất đóng băng. Những người Gypsy cảm thấy có điều gì đang xảy ra và ra khỏi quán cà phê, đứng nhìn trong ánh đèn hắt xuống từ boong tàu. Iorek Byrnison cởi bỏ cả bộ áo giáp sắt rồi để nó lại thành một đống bên bến cảng. Không nói một lời, nó bước xuống nước, ngụp xuống mà không làm một gợn nước lay động, rồi biến mất.

“Có chuyện gì xảy ra vậy?” Tony Costa nói, anh nghe thấy những tiếng kêu căm phẫn vọng lại từ phố trên, khi những người dân thành phố và các cảnh sát chạy ra bến cảng.

Lyra kể cho anh nghe, rõ ràng hết mức có thể.

“Nhưng nó đi đâu mất rồi?” anh hỏi. “Chẳng phải nó vứt bộ áo giáp sắt trên mặt đất đây sao? Họ sẽ cướp nó lại, ngay khi họ đến đây!”

Lyra cũng sợ người ta sẽ làm vậy, vì ở phía góc đường xuất hiện người cảnh sát đầu tiên, ròi thêm iều người nữa rồi đến quận trưởng và ông thầy tu cùng hai mươi hay ba mươi người xem, cuối cùng là Farder Coram và John Faa đang cố gắng đuổi kịp phía sau.

Nhưng khi nhìn thấy nhóm người trên bến tàu, họ dừng lại, vì có ai đó đã xuất hiện. Ngồi trên một tảng đá, chân nọ vắt lên chân kia là dáng hình gầy nhẳng của Lee Scoresby. Trên tay ông là một khẩu súng lục dài nhất Lyra từng nhìn thấy từ trước đến nay, chĩa thẳng vào cái bụng to phệ của quận trưởng.

“Theo tôi thấy thì ông không chăm sóc tốt lắm cho bộ áo giáp sắt của bạn tôi đấy nhỉ?” Ông nói với vẻ bông đùa, “Tại sao à? Nhìn vào chỗ bị rỉ sét mà xem! Và tôi cũng chẳng ngạc nhiên đâu nếu tìm thấy cả nhện làm tổ trong đó. Giờ thì hãy đứng nguyên ở chỗ ông đang đứng, đứng im và thư giãn đi, đừng có người nào di chuyển cho đến khi con gấu trở lại với bộ áo giáp sắt đã được bôi trơn. Hay theo tôi thì tất cả các người có thể về nhà và đọc báo. Tùy các người cả đấy.”

“Nó kia rồi!” Tony nói, chỉ về con dốc phía xa bến tàu, nơi Iorek Byrnison đang xuất hiện từ mặt nước, cầm theo một thứ gì đó màu tối. Khi đã lên trên bến tàu, nó lắc người, làm tung tóe nước ra khắp nơi, cho đến khi lông nó đã dựng đứng và dày trở lại. Sau đó nó khom lưng để cắn lấy vật màu đen và đi đến chỗ để bộ áo giáp sắt của mình. Vật màu đen đó là một con hải cẩu đã chết.

“Iorek,” người lái khinh khí cầu nói, lười biếng đứng lên, khẩu súng lục vẫn gí sát vào lão quận trưởng, “dạo này anh thế nào?”

Con gấu nhìn lên và khẽ gầm một tiếng, trước khi nó xé con hải cẩu bằng một tay. Lyra thích thú nhìn con gấu lột lớp da, xé những thớ mỡ và bôi lên khắp bộ áo giáp sắt của mình, xoa cẩn thận vào những điểm nối giữa các tấm kim loại.

“Anh có đi cùng những người này không?” con gấu nói với Lee Scoresby trong khi làm việc.

“Chắc chắn rồi. Tôi đoán là cả hai chúng tôi đều được thuê, Iorek ạ.”

“Chiếc khinh khí cầu của ông đâu rồi?” Lyra hỏi người đàn ông đến từ Texas.

“Đã được xếp lên hai chiếc xe kéo,” ông nói. “Các ông chủ đến rồi đây.”

John Faa và Farder Coram, cùng lão quận trưởng xuống bến tàu cùng bốn người cảnh sát mang vũ khí.

“Này gấu!” Quận trưởng nói với giọng cao và gấp gáp, “bây giờ anh được phép ra đi cùng với những người này. Nhưng tôi nói cho anh biết nếu anh lại xuất hiện trong thành phốù một lần nữa, anh sẽ bị trừng phạt không thương tiếc.”

Iorek Byrnison chẳng thèm quan tâm mà vẫn tiếp tục chà miếng mỡ hải cẩu lên khắp bộ áo giáp sắt của nó; sự cẩn thận và tỉ mỉ nó thể hiện trong công việc đó nhắc Lyra nhớ đến sự tận tâm của chính mình đối với Pantalaimon. Đúng như con gấu đã nói: bộ áo giáp sắt chính là linh hồn của nó. Quận trưởng và đíám cảnh sát đã rút lui, những người dân thành phố khác cũng dần quay đi, dù một vài người vẫn còn nán lại.

John Faa đưa tay lên miệng và gọi to, “Hỡi các anh em Gypsy!”

Tất cả bọn họ đã sẵn sàng để lên đường. Họ đã nóng lòng muốn ra đi ngay từ khi lên bờ; những chiếc xe kéo đã được chất hàng, đội chó kéo xe đã được buộc sẵn.

John Faa nói, “Đã đến giờ lên đường, các anh em. Tất cả chúng ta sẽ tập trung ngay bây giờ, và con đường đã rộng mở. Ông Scoresby, ông đã sắp xếp hành lý xong chưa?”

“Tôi đã sẵn sàng lên đường, thưa ngài Faa.”

“Còn anh thì sao, Iorek Byrnison?”

“Sau khi tôi mặc bộ áo giáp sắt đã.” Con gấu trả lời.

Nó đã bôi xong dầu cho bộ áo giáp sắt. Không muốn bỏ phí mất chỗ thịt hải cẩu, nó cắn lấy phần thịt và quẳng vào phía sau chiếc xe kéo lớn của Lee Scoresby trước khi mặc áo giáp sắt lên. Thật ngạc nhiên trước việc nó đã thay đổi bộ áo đến mức nào: những miếng kim loại gần như dày đến ba xăngtimet, vậy mà nó mặc lên người vừa vặn như một tấm áo choàng lụa mềm mại. Mất không đến một phút, và lần này thì không còn tiếng kêu rít của rỉ sét nữa.

Vì thế trong vòng chưa đầy nửa giờ đồng hồ, cuộc hành trình đã bắt đầu tiến về phía bắc. Dưới bầu trời có hàng triệu ngôi sao và một mặt trăng sáng lung linh, những chiếc xe kéo xóc nẩy lên, kêu lọc xọc trên vết lún và đá đường cho đến khi họ đến được phần tuyết ở rìa thành phố. Âm thanh chuyển thành tiếng nghiến tuyết nhẹ nhàng và tiếng cọt kẹt của các khớp gỗ. Những con chó bắt đầy u tiến bước đầy hào hứng, sự chuyển động trở nên mau lẹ và êm ái.

Lyra, cuốn mình thật dày ngồi phía sau xe kéo của Farder Coram đến mức chỉ lộ ra mỗi đôi mắt, thì thầm với Pantalaimon.

“Cậu có nhìn thấy Iorek không?”

“Nó đang đi cạnh xe kéo của Lee Scoresby.” Con nhân tinh trả lời, quay đầu nhìn lại trong hình dạng con chồn ecmin khi nó bám vào chiếc mũ chum đầu may bằng lông chồn gulo của cô.

Phía trước họ, trên những dãy núi phía bắc, những đường vòng cung của Ánh Sáng Phương Bắc bắt đầu lấp lánh và rung động. Lyra nhìn chúng qua đôi mắt khép hờ và cảm thấy cơn buồn ngủ nặng trĩu trong niềm hạnh phúc trọn vẹn, vì cả đoàn đang tăng tốc về phía dưới Hiện tượng cực quang. Pantalaimon cố gắng chặn cơn buồn ngủ của cô, nhưng không được. Nó cuộn tròn trong hình dáng một con chuột bên chiếc mũ của cô. Như thế khi cô tỉnh dậy, nó có thể nói chuyện với cô về một con chồn mactet, hay một giấc mơ, hay một loại linh hồn vô hại nào đó trong vùng. Nhưng có gì đó dang theo sau dòng xe trượt, bay từ nhánh này sang nhánh khác trên những cây thông đan nhánh vào nhau, khiến Pantalaimon cảm thấy không yên chút nào.

(còn tiếp)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top