Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

Chiếc la bàn vàng 1: Ánh sáng phương Bắc 2

The gold compass – Chiếc la bàn vàng.

Tập 1: Ánh sáng phương Bắc

Tác giả: Philip Pullman

Người dịch: Nhật Thu

Mục lục:

PHẦN HAI(tt)

BOLVANGAR

Chương 12

Chương 13

Chương 14

Chương 15

Chương 16

Chương 17

PHẦN BA

SVALBARD

Chương 18

Chương 19

Chương 20

Chương 21

Chương 22

Chương 23

Chương 12: Cậu bé mất tích

Họ đi nhiều giờ trước khi dừng lại để ăn. Trong khi những người đàn ông nhóm lửa và đun tuyết lấy nước uống, Iorek Byrnison xem Lee Scoresby nướng thịt hải cẩu bên cạnh, John Faa nói chuyện với Lyra.

“Lyra, cháu có nhìn rõ mặt chiếc máy để đọc nó không?”

Mặt trăng đã lặn từ lâu. Ánh sáng từ hiện tượng cực quang sáng hơn ánh trăng, nhưng không thường xuyên. Tuy nhiên, mắt Lyra rất tinh, cô loay hoay trong chiếc áo choàng lông thú rồi rút gói bọc vải nhung ra.

“Vâng, cháu có thể nhìn nó rất rõ,” cô nói. “Nhưng dù thế nào thì đến bây giờ cháu cũng biết vị trí của hầu hết các biểu tượng rồi. Cháu sẽ hỏi nó chuyện gì, Ngài Faa?”

“Ta muốn biết người ta bảo vệ nơi này như thế nào, Bolvangar ấy,” ông trả lời.

Thậm chí không cần suy nghĩ, các ngón tay cô chuyển dời những chiếc kim đến vị trí chiếc mũ sắt, quái vật sư tử mình chim và chiếc nồi nấu kim loại. Cô cảm thấy tâm trí mình hướng về các ý nghĩa như một biểu đồ phức tạp ba chiều. Ngay lập tức chiếc kim dài bắt đầu quay vòng, quay ngược lại, rồi lại quay vòng, như một con ông đang bay lượn để báo chỗ có phấn hoa cho bạn cùng tổ. Cô bình tĩnh theo dõi theo, tập trung, không phải để biết kết quả mà biết rằng một ý nghĩa nào đó sắp được xác định, và bắt đầu trở nên rõ ràng. Cô để nó quay cho đến khi chắc chắn.

“Giống như lời vị nhân tinh của bà phù thủy đã nói, thưa Ngài Faa. Có một nhóm người Tartar đang canh giữ trạm, người ta chăng dây thép gai ở khắp mọi nơi. Họ không thực sự cho rằng sẽ bị tấn công. Đó là điều chiếc máy đọc biểu tượng nói. Nhưng Ngài Faa…”

“Gì thế cháu?”

“Nó còn nói cho cháu biết điều gì đó nữa. Trong thung lũng bên cạnh có một ngôi làng ở gần hồ, cư dân ở đó đang bị một con ma quấy nhiễu.”

John Faa lắc đầu sốt ruột và nói, “Bây giờ thì điều đó không quan trọng với chúng ta. Chắc đó là một loại linh hồn nào đó lẩn khuất trong các khu rừng. Hãy nói lại ta nghe về bọn người Tartar. Ví dụ như họ có bao nhiêu người? Họ được trang bị loại vũ khí nào?”

Lyra ngoan ngoãn hỏi chiếc máy đọc biểu tượng rồi trả lời, “Có sáu mươi người đàn ông trang bị súng trường, họ có hai khẩu súng lớn hơn, kiểu súng thần công. Họ còn có cả máy ném lửa. Và… nhân tinh của họ đều là sói, chiếc máy nói như vậy.”

Lời nói của Lyra tạo nên sự xao động giữa những người Gypsy cao tuổi đã từng nam chinh bắc chiến khắp nơi.

“Người Sibirsk có nhân tinh là sói,” một người nói.

John Faa nói, “Tôi chưa từng gặp một người nào hung dữ hơn họ. Hãy hỏi ý kiến con gấu, nó là một chiến binh nhiều kinh nghiệm.”

Lyra không thể kiên nhẫn hơn, cô nói, “Nhưng Ngài Faa, con ma này… cháu nghĩ nó là con ma của một trong những đứa trẻ bị bắt cóc.”

“À, thậm chí là như vậy, Lyra ạ, ta không biết người nào có thể làm bất cứ điều gì với chuyện này. Sáu mươi người Sibirsk có trang bị súng trường, và những chiếc máy ném lửa… Ông Scoresby, hãy bước qua đây nếu ông có thể, một lúc thôi.”

Trong khi người lái khinh khí cầu đến chỗ xe kéo, Lyra tụt xuống và nói chuyện với con gấu.

“Iorek, trước đây anh từng đi qua con đường này bao giờ chưa?”

“Một lần.” Nó nói với giọng trầm và thấp.

“Có một ngôi làng ở gần đây, đúng không?”

“Phía sau quả đồi,” nó nói, nhìn lên phía những ngọn cây.

“Có xa lắm không?”

“Với cô hay với tôi?”

“Với tôi,” cô trả lời.

“Quá xa. Với tôi thì không chút nào.”

“Vậy thì anh cần bao lâu để tới được đó?”

“Tôi có thể đi và về ba lần trước khi trời sáng.”

“Bởi vì, Iorek, nghe này: tôi có một chiếc máy đọc biểu tượng nói tôi biết mọi chuyện. Nó nói cho tôi về một điều gì đó quan trọng mà tôi cần phải làm ở ngôi làng đấy. Ngài Faa sẽ không cho tôi đến đó. Ông ấy chỉ muốn nhanh chóng tiếp tục lên đường. Tôi biết điều này cũng quan trọng. Nhưng trừ khi tôi đi và tìm ra, chúng ta sẽ không biết bọn Gà trống tây thực sự đang làm gì.”

Con gấu không nói gì cả. Nó đang ngồi trong tư thế giống con người, hai chiếc tay to bè gập lại trước ngực. Đôi mắt nâu sẫm của nó nhìn xuống cô đang đứng dưới mũi mình. Nó biết cô đang muốn một điều gì đó.

Pantalaimon nói, “Anh có thể đưa chúng tôi đến đó rồi sau đó đuổi theo đoàn xe kéo được không?”

“Tôi có thể. Nhưng tôi đã hứa với Ngài Faa là sẽ theo lệnh ông ấy, chứ không phải bất cứ người nào khác.”

“Nếu tôi được ông ấy cho phép thì sao?” Lyra hỏi.

“Vậy thì được.”

Cô quay đi và chạy trở lại trên nền tuyết.

“Ngài Faa! Nếu Iorek Byrnison đưa cháu qua ngọn đồi đến ngôi làng, chúng cháu sẽ có thể tìm ra nó là gì, rồi sau đó bắt kịp cả đoàn. Anh ấy biết hành trình chúng ta sẽ đi mà,” cô năn nỉ. “Cháu sẽ không đòi hỏi, trừ khi nó giống như trước đây cháu đã làm, Farder Coram, ông nhớ chứ, chuyện về con tắc kè hoa ấy? Lúc đầu cháu đã không hiểu, nhưng điều linh cảm đó đã đúng, và chúng ta đã nhanh chóng kiểm chứng được. Bây giờ cháu cũng có cảm giác tương tự. Cháu không thể hiểu chính xác điều nó muốn nói, cháu chỉ biết nó quan trọng thôi. Iorek Byrnison biết đường, anh ấy nói anh ấy có thể đi và về ba lần trước khi mặt trời mọc. Cháu sẽ càng an toàn nếu đi với anh ấy, phải vậy không? Nhưng anh ấy sẽ không đi nếu không được sự cho phép của Ngài Faa.”

Tiếp theo đó là sự im lặng. Farder Coram thở dài. John Faa cau mày và môi ông mím chặt dưới bóng chiếc mũ trùm đầu.

Trước khi ông lên tiếng, người lái khinh khí cầu chen vào, “Ngài Faa, nếu Iorek Byrnison đưa cô bé đi, cô bé sẽ được an toàn như khi đang ở đây với chúng ta vậy. Tất cả các con gấu đều trung thành, mà thôi thì đã biết Iorek nhiều năm, và chẳng có gì trên đời có thể khiến anh ấy phá bỏ lời hứa. Hãy giao nhiệm vụ trôm nom cô bé cho anh ấy, anh ấy sẽ làm được, không có một sai sót nào. Còn về tốc độ của chuyến đi, anh ấy có thể đi hàng giờ mà không thấy mệt mỏi.

“Nhưng tại sao không phải là vài người đàn ông khác đi?” John Faa hỏi.

“Vì họ sẽ phải đi bộ,” Lyra giải thích. “Không thể chạy xe kéo trên quả đồi đó được. Iorek Byrnison có thể đi nhanh hơn bất cứ người đàn ông nào trên địa hình đó, cháu cũng đủ nhẹ để không làm anh ấy phải đi chậm lại. Cháu xin hứa, Ngài Faa, cháu xin hứa sẽ không ở lại đó lâu hơn mức cần thiết, và không để lộ thông tin gì về chúng ta, hoặc vướng vào nguy hiểm nào.”

“Cháu có chắc là mình phải làm như vậy không? Chiếc máy đọc biểu tượng đó không đánh lừa cháu đấy chứ?”

“Nó không bao giờ làm vậy đâu, Ngài Faa, và cháu không nghĩ nó có khả năng đó.”

John Faa xoa cằm.

“Thôi được rồi, nếu tất cả mọi việc đều diễn ra suôn sẻ, chúng ta sẽ có thêm chút ít thông tin so với hiện tại. Iorek Byrnison,” ông gọi to, “anh có sẵn sàng làm theo yêu cầu của cô bé này không?”

“Tôi làm theo lệnh của ông, thưa Ngài Faa. Chỉ cần ông ra lệnh tôi đưa đứa trẻ này đến đó, tôi sẽ làm theo như vậy.”

“Tốt lắm. Anh có trách nhiệm đưa nó đến nơi nó muốn và làm theo lời nó ra lệnh. Lyra, ta đang giao nhiệm vụ cho cháu, cháu rõ chưa?”

“Rõ, thưa Ngài Faa.”

“Cháu hãy đi và tìm hiểu xem đó là thứ gì, khi đã tìm được, cháu phải quay về ngay lập tức. Iorek Byrnison, trong lúc đó thì cả đoàn sẽ đi tiếp, vì thế anh sẽ phải đuổi theo để bắt kịp chúng tôi.”

Con gấu gật gật chiếc đầu khổng lồ của mình.

“Có người lính nào trong làng không?” nó hỏi Lyra. “Tôi có cần đến bộ giáp sắt không? Chúng ta sẽ đi nhanh hơn nếu không có nó.”

“Không,” cô trả lời. “Tôi có thể chắc chắn về điều này, Iorek. Cảm ơn Ngài Faa, cháu hứa sẽ làm đúng như lời ông dặn.”

Tony Costa đưa cho cô một rẻo thịt hải cẩu sấy khô để nhai, rồi cùng với Pantalaimon đã biến thành một con chuột nằm trong chiếc mũ trùm đầu của cô, Lyra leo lên lưng con gấu lớn, nắm chắc lấy lông nó bằng đôi tay đeo găng và áp chặt hai khuỷu chân vào hai bên sườn đầy cơ bắp của nó. Lông nó dày một cách kỳ lạ, và cảm giác về sức mạnh to lớn như tràn ngập. Như thể cô không nặng chút nào, nó quay người và lướt nhanh theo con đường dài vòng quanh lên đồi rồi lẫn vào giữa những hàng cây.

Phải mất một lúc cô mới quen với kiểu đi này, rồi sau đó cô cảm thấy vô cùng vui sướng. Cô đang cưỡi trên lưng một con gấu! Hiện tượng cực quang chiếu sáng trên đầu họ với những vầng và quầng sáng. Khắp xung quanh là sự giá lạnh tê buốt của Bắc cực và sự im lặng tuyệt đối của phương Bắc.

Móng vuốt của Iorek Byrnison hầu như không tạo ra một tiếng động gì khi nó đạp trên nền tuyết. Những hàng cây ở đây khẳng khiu và cằn cỗi. Vì họ đang ở bên rìa của lãnh nguyên, nhưng cũng có những bụi cây nhỏ và gai. Con gấu giẫm lên chúng nhưng giẫm lên đám mạng nhện vậy.

Họ trèo qua quả đồi thấp, xung quanh là đám đá đen trồi lên trên mặt đất và nhanh chóng rời khỏi tầm mắt của những người đứng phía dưới. Lyra muốn nói chuyện với con gấu, nếu nó là con người thì cô đã có thể tâm sự với nó. Nhưng nó quá xa lạ, hoang dã và lạnh lùng đến mức cô e ngại. Gần như đây là lần đầu tiên trong đời cô phải e ngại trước một chuyện. Vì thế trong khi nó đi nhanh, đôi chân to lớn chuyển động không ngừng, cô ngồi im không nói gì cả. Dù sao có thể nó lại thích thế, cô nghĩ. Chắc hẳn cô chỉ như một đứa trẻ nghịch ngợm trong mắt một con gấu mặc áo giáp sắt.

Trước đây rất hiếm khi cô tự suy xét lại bản thân mình, và nhận thấy đó là một cảm giác thú vi nhưng không dễ chịu, rất giống với việc cưỡi trên lưng một con gấu, thực sự vậy. Iorek Byrnison đang bước đi rất nhanh, cả hai chân bước khỏi mặt đất cùng lúc, lắc lư bên này bên kia theo một nhịp điệu nhanh và mạnh. Cô nhận thấy mình không thể chỉ ngồi, cô phải cưỡi một cách linh động.

Họ đã đi được một giờ đồng hồ hoặc hơn thế nữa, Lyra đã lạnh cóng và đau đớn, nhưng hạnh phúc vô cùng, Iorek Byrnison đi chậm dần rồi dừng lại.

“Nhìn lên trên kia kìa,” nó nói.

Lyra ngước mắt lên và phải dụi mắt bằng phía bên trong của cổ tay, vì trời lạnh đến nỗi nước mắt làm mở cả mắt cô rồi. Khi đã có thể nhìn rõ ràng cô kinh ngạc trước cảnh tượng trên bầu trời. Hiện tượng cực quang đã giảm dần chỉ còn những ánh sáng le lói vàng vọt, nhưng những ngôi sao lại sáng rực như kim cương, ngang qua bầu trời tối đen rộng lớn dát đầy kim cương đó, hàng trăm, hàng nghìn những hình thù màu đen nhỏ xíu đang bay từ phía đông và phía nam về hướng bắc.

“Đó là những con chim phải không?” cô hỏi.

“Họ là các phù thủy,” con gấu trả lời.

“Các phù thủy! Họ đang làm gì thế?”

“Bay đến tham chiến ở một nơi nào đó, có thể là như vậy. Tôi chưa từng thấy cùng một lúc nhiều phù thủy đến mức này.”

“Anh có quen phù thủy nào không, Iorek?”

“Tôi từng làm việc cho vài người. Và đánh nhau với vài người. Đây là một cảnh tượng đáng làm cho Ngài Faa lo sợ. Nếu họ đang bay đi yểm trợ cho kẻ thù của các cô, tất cả các cô nên e sợ.”

“Ngài Faa sẽ không sợ hãi đâu. Anh cũng không sợ hãi, phải không?”

“Vẫn chưa. Khi tôi sợ hãi, tôi chế ngự nó. Nhưng tốt hơn chúng ta nên nói cho Ngài Faa về chuyện các phù thủy, bởi có thể những người đàn ông đó không nhìn thấy họ.”

Nó tiếp tục đi chậm hơn, cô cứ nhìn lên bầu trời cho đến khi mắt giàn giụa nước vì lạnh. Cô thấy dòng phù thủy bay về hướng bắc vẫn chưa kết thúc.

Cuối cùng Iorek Byrnison dừng lại và nói, “Ngôi là đây rồi.” Họ đang nhìn xuống một con dốc gồ ghề gãy gục dẫn xuống một nhóm những ngôi nhà gỗ bên cạnh một dài tuyết hẹp, Lyra cho rằng đó là một chiếc hồ. Một bến thuyền bằng gỗ cho thấy cô đã đoán đúng. Họ chỉ còn cách nơi đó chưa đầy năm phút.

“Cô muốn làm gì bây giờ?” con gấu hỏi.

Lyra tụt khỏi lưng nó và thấy khó mà đứng vững được. Mặt cô lạnh cóng, hai chân mỗi nhừ, nhưng cô bám chặt lấy lưng nó và đứng cho đến khi cảm thấy khỏe hẳn.

“Có một đứa bé hay một con ma hoặc thứ gì đó dưới ngôi làng này,” cô nói, “hay có thể gần đó, tôi cũng không biết chắc nữa. Tôi muốn đến và tìm nó rồi đưa về cho Ngài Faa cùng những người khác nếu có thể. Tôi nghĩ đó là một con ma, nhưng có khi chiếc máy đọc biểu tượng đã nói gì đó mà tôi không hiểu.”

Nếu nó không ở bên ngoài,” con gấu nói, “hẳn là nó có một chỗ trú ngụ.”

“Tôi không nghĩ là nó đã chết…” Lyra nói, nhưng cô không chắc chắn chút nào về việc đó. La bàng vàng đã chỉ vào điều gì đó, huyền bí và không tự nhiên, đang hoảng sợ. Nhưng cô là ai chứ? Cô là con gái của Ngài Asriel. Và ai đang dưới quyền chỉ huy của cô nào? Một con gấu dũng mãnh. Làm sao cô có thể tỏ ra mình đang sợ hãi được?

“Chúng ta cứ đến và xem xem,” cô nói.

Cô lại trèo lên lưng con gấu, nó bắt đầu đi xuống con dốc mấp mô, đi thật vững và không chạy nhanh nữa. Những con chó trong làng đánh hơi hay nghe thấy hay cảm nhận được có người đang đến, bắt đầu sủa lên đầy hoảng sợ; những con tuần lộc nuôi trong sân chạy cuống lên, sừng đập chan chát như những chiếc gậy gỗ. Trong không gian tĩnh lặng, mỗi cử động đều có thể nghe thấy từ khoảng cách rất xa.

Khi họ đến được căn nhà đầu tiên, Lyra nhìn trước nhìn sau, cố căng mắt nhìn vào bóng tối, vì hiện tượng cực quang đã giảm và mặt trăng còn lâu mới nhô lên. Thấp thoáng đây đó có ánh đèn dưới những mái nhà tuyết phủ dày, Lyra nghĩ cô đã nhìn thấy vài khuôn mặt tái xanh phía sau những ô cửa sổ, họ sẽ ngạc nhiên đến mức nào khi nhìn thấy một cô bé đang cưỡi trên lưng con gấu trắng vĩ đại.

Chính giữa ngôi làng có một khoảng đất trống bên cạnh bến tàu, nơi các con thuyền được cột lại và nổi lên thành từng đống do bị tuyết bao phủ. Tiếng chó sủa đinh tai, nhức óc, đúng như Lyra dự đoán, nó đã đánh thức tất cả người dân trong làng. Một cánh cửa bật mở và một người đàn ông tay cầm súng trường bước ra. Con nhân tinh sói của ông ta đến bên đống củi cạnh cửa làm mớ tuyết ở đó bay tóe tung.

Lyra lập tức tụt xuống, đứng chắn giữa ông ta Iorek Byrnison, ý thức được việc chính cô đã nói với con gấu không cần phải mang bộ giáp sắt đi theo.

Người đàn ông nói thứ tiếng cô không hiểu. Iorek Byrnison đáp lại bằng ngôn ngữ đó, làm ông ta sợ hãi rên lên.

“Ông ta nghĩ chúng ta là ma quỷ,” Iorek nói với Lyra. “Tôi sẽ nói gì đây?”

“Nói với ông ta chúng ta không phải là ma quỷ, nhưng chúng ta có những người bạn như thế. Và chúng ta đang tìm kiếm… cứ nói là một đứa trẻ được rồi. Một đứa trẻ kỳ lạ. Nói với ông ta như vậy.”

Con gấu vừa nói dứt lời, người đàn ông chỉ sang bên phải, thể hiện một nơi cách xa, và nói rất nhanh.

Iorek Byrnison nói, “Ông ta hỏi chúng ta có đến và đưa đứa trẻ đó đi không. Họ sợ nó. Họ đã cố đuổi nó đi, nhưng nó cứ quay lại.”

“Nói với ông ta chúng ta sẽ đưa nó đi, nhưng họ thật xấu bụng khi đối xử với nó như vậy. Nó đầu rồi?”

Người đàn ông giải thích, hoa chân múa tay một cách sợ hãi. Lyra sợ ông ta sơ ý làm cướp cò súng, nhưng ngay khi nói xong, ông ta lẩn vào nhà và đóng sầm cửa lại. Lyra nhìn thấy những khuôn mặt dòm ra từ những chiếc cửa sổ.

“Đứa bé đó đang ở đâu thế?” cô hỏi.

“Trong ngôi nhà để đựng cá,” con gấu nói với cô, và quay đầu đi xuống bến thuyền.

Lyra theo sau. Cô cảm thấy vô cùng hồi hộp. Con gấu đang đi đến một túp lều gỗ chật hẹp. Nó ngẩng cao đầu hít chỗ nọ chỗ kia, và khi đến được cửa, nó dừng lại nói, “Đây rồi.”

Tim Lyra đập nhanh đến nỗi cô gần như không thở nổi. Cô giơ tay lên gõ cửa, nhưng rồi cảm thấy thế thật kỳ cục, bèn hít một hơi sâu để gọi to, nhưng nhận thấy không biết phải gọi như thế nào. Ôi, trời tối quá! Đáng lẽ cô nên mang theo một cây đèn.

Nhưng dù sao cũng không còn sự lựa chọn nào khác, cô không muốn để con gấu thấy mình đang hoảng sợ. Nó đã nói về chuyện chế ngự lòng sợ hãi, đó là điều cô cần làm. Cô nâng chiếc chốt làm bằng sừng tuần lộc lên, giữ lấy then cửa và đẩy mạnh vào lớp băng đang chẹn chặt cửa. Nó hơi hé ra. Cô phải đá đống tuyết phía dưới cửa đi trước khi kéo cửa mở rộng. Pantalaimon chẳng giúp đỡ gì cả, nó chị chạy lên chạy xuống trong hình dáng con chồn ecmin, như một cái bóng trên nền tuyết trắng, kêu lên những tiếng hãi sợ.

“Pan, vì Chúa!” cô nói. “Biến thành dơi đi. Hãy vào và tìm giúp mình…”

Nhưng nó không làm theo, và cũng không nói gì cả. Cô chưa bao giờ thấy nó như vậy, ngoại trừ lần cô và Roger tráo đổi các đồng xu khắc hình nhân tinh vào các xương sọ khác nhau trong hầm mộ ởJordan. Thậm chí trông nó còn sợ hãi hơn cả cô. Còn về phần Iorek Byrnison, nó nằm trên nền tuyết gần đó, quan sát trong im lặng.

“Ra đây đi,” Lyra nói với giọng to nhất cô dám nói. “Ra đây đi nào.”

Không có một âm thanh nào trả lời lại. Cô đẩy cửa rộng thêm một chút. Pantalaimon nhảy vào lòng cô, đầy giúi giụi vào người cô trong hình dạng một con mèo và nói, “Đi khỏi đây thôi! Đừng ở lại đây! Ôi, Lyra, đi nào! Quay về đi thôi!” Vừa cố gắng giữ chặt nó, cô vừa để ý thấy Iorek Byrnison đang đứng trên hai chân và quay lại nhìn thấy một bóng người đang hối hả đi xuống con đường từ trong làng ra, trên tay cầm một cây đèn. Khi đến đủ gần để nói chuyện, ông giơ ngọn đèn lên và giữ nó ngang mặt: một ông già có khuôn mặt to bè và nhiều nếp nhăn, đôi mắt gần như bị che lấp bởi hàng nghìn nếp hằn. Nhân tinh của ông ta là một con cáo Bắc cực.

Ông ta lên tiếng, Iorek Byrnison nói lại với Lyra:

“Ông ta nói đây không phải là đứa trẻ duy nhất bị như vậy. Ông ấy từng nhìn thấy những đứa khác ở trong rừng. Đôi khi chúng chết rất nhanh, đôi khi chúng lại không chết. Đức trẻ này sống rất dai, ông ta nghĩ vậy. Nhưng sẽ tốt hơn cho nó nếu nó chết đi.”

“Hãy hỏi ông ta liệu tôi có mượn ông ấy cây đèn được không?” Lyra nói.

Con gấu hỏi, người đàn ông đưa nó cho cô ngay lập tức, gật đầu lia lịa. Cô nhận ra ông ta đến là để mang cho cô cây đèn và cảm ơn ông ta, ông ta lại gật đầu rồi đứng lùi lại, cách xa khỏi cô, khỏi căn lều và con gấu.

Lyra đột nhiên nghĩ: nếu đứa bé là Roger thì sao? Cô ra sức cầu nguyện để điều đó không phải là sự thực. Pantalaimon đang bám chặt lấy cô, nó đã lại biến thành chồn ecmin. Những móng vuốt bé xíu của nó bám chắc vào tấm áo choàng của cô.

Cô nâng cao chiếc đèn, bước một bước vào căn lều, và nhìn thấy điều bọn Gà trống tây đang làm, và thực chất của việc hi sinh bọn trẻ đang phải chịu.

Cậu bé đang ngồi giúi vào một giàn treo những hàng cá đã moi ruột, tất cả đều cứng đơ. Cậu đang ôm chặt một miếng cá vào lòng như Lyra ôm chặt Pantalaimon, bằng cả hai tay, thật chặt, sát bên trái tim cô. Nhưng đó là tất cả những gì cậu có, một miếng cá phơi khô, bởi vì cậu bé không còn nhân tinh nữa. Bọn Gà trống tây đã tách nó khỏi cậu. Đó chính là sự chia cắt, và đây là một đứa trẻ bị chia tách.

Chương 13: Che chở

Ý nghĩ đầu tiên đến với cô là quay đầu và bỏ chạy, hay ngất xỉu. Một con người không có nhân tinh cũng giống như sống mà không có mặt, hay một bộ ngực phanh ra để lộ trái tim. Một điều gì đó huyền bí và không tự nhiên thuộc về thế giới của những con ma đêm, không phải thế giới của nhận thức, thế giới đang sống.

Vì thế Lyra ôm chặt lấy Pantalaimon, trái tim cô đập loạn nhịp và cổ họng khô đắng, lạnh lẽo như màn đêm. Cơ thể cô vã mồ hôi lạnh bởi một cảm giác còn lạnh lẽo hơn.

“Ratter,” cậu bé nói, “các người đã bắt mất Ratter phải không?”

Lyra không thắc mắc gì về điều cậu nói.

“Không,” cô nói với giọng run rẩy và sợ hãi. “Tên cậu là gì?”

“Tony Makarios,” cậu nói. “Ratter đâu?”

“Mình không biết…” Cô bắt đầu cố nuốt thật mạnh để ngăn cơn buồn nôn. “Bọn Gà trống tây…” nhưng cô không thể nói hết câu. Cô phải chạy ra khỏi lều, ngồi một mình trên tuyết, tất nhiên cô không cô đơn, vì Pantalaimon luôn ở đó. Ôi, bị tách khỏi nó như cậu bé kia bị tách khỏi Ratter! Điều tồi tệ nhất trên đời này! Cô thấy mình đang khóc thổn thức, Pantalaimon cũng nức nở, cả hai đều cảm thấy buồn đau, thương cảm với cậu bé chỉ còn một nửa.

Rồi cô lại đứng lên.

“Ra đây nào,” cô gọi với giọng run run. “Tony, ra đây đi. Bọn mình sẽ đưa cậu đến nơi an toàn.”

Có tiếng động trong căn nhà cá, rồi cậu bé xuất hiện trước ngưỡng cửa, vẫn ôm chặt con cá khô của mình. Cậu đã mặc đủ quần áo ấm, một chiếc áo choàng có mũ chần bông dày và ủng lót lông thú, nhưng trông chúng cũ kỹ và không vừa vặn. Trong vùng sáng rộng hơn đến từ những quầng sáng đã nhạt màu của hiện tượng cực quang và mặt đất phủ đầy tuyết, trông cậu còn đáng thương, mất mát hơn lúc trước nhiều, khi nép mình tránh ánh đèn bên chiếc giá phơ cá.

Người đàn ông mang chiếc đèn tới đã lùi lại cách đó mấy mét, giờ to tiếng gọi họ.

Iorek Byrnison dịch lại: “Ông ta nói cô phải trả tiền cho con cá kia.”

Lyra chỉ muốn bảo con gấu giết phức ông ta, nhưng cô bình tĩnh lại và nói, “Chúng ta sắp đưa đứa bé này đi khỏi bọn họ. Họ có thể trả công cho chúng ta bằng một con cá.”

Con gấu thuật lại. Người đàn ông càu nhàu, nhưng không tranh cãi. Lyra đặt cây đèn của ông ta xuống đất và cầm lấy tay cậu bé chỉ còn một nửa đến chỗ con gấu. Nó trở nên lóng ngóng, không sợ hãi hay ngạc nhiên trước con gấu trắng to lớn đang đứng rất gần. Khi Lyra giúp cậu ngồi lên lưng Iorek, cậu chỉ nói, “Tôi không biết Ratter của tôi đâu rồi.”

“Không, bọn mình cũng không biết, Tony ạ,” cô nói. “Nhưng bọn mình sẽ… Bọn mình sẽ trừng phạt lũ Gà trống tây. Bọn mình sẽ làm vậy, mình hứa đấy. Iorek, tôi ngồi lên cũng không sao chứ?”

“Bộ áo giáp sắt của tôi còn nặng hơn mấy đứa trẻ con nhiều,” nó nói.

Thế là cô trèo lên ngồi sau Tony và giúp cậu bám chặt lấy bộ lông dài. Pantalaimon ngồi trong chiếc mũ trùm đầu của cô, ấm áp, gần gũi và tràn đầy thương cảm. Lyra biết rằng mong muốn của Pantalaimon là đến bên cạnh vuốt ve cậu bé bất hạnh, liếm láp, vuốt ve và sưởi ấm cho cậu như con nhân tinh của chính cậu sẽ làm. Nhưng tất nhiên điều cấm kỵ nặng nề đã ngăn cản nó lại.

Họ đi qua làng rồi leo lên đồi, những khuôn mặt người dân trong làng giãn ra vì nhẹ nhõm hi nhìn thấy thứ sinh vật què quặt gớm ghiếc đó đã được một cô bé và một con gấu trắng vì đại đem đi.

Trong trái tim Lyra, nỗi ác cảm đang vần nhau với lòng trắc ẩn, và lòng trắc ẩn đã thắng. Cô đặt tay lên hình dáng bé nhỏ gầy gò và giữ chặt cậu. Cuộc hành trình quay về lạnh lẽo, khó khăn, tăm tối hơn, nhưng dường như chính vì những điều đó mà nó diễn ra nhanh chóng hơn. Iorek Byrnison không hề mệt mỏi, Lyra đã biết cách cưỡi trên lưng nó, vì thế cô không bao giờ có nguy cơ ngã xuống. Còn cái cơ thể giá lạnh trong tay cô nhẹ tới mức một mặt nó rất dễ điều chỉnh, nhưng lại cũng rất trì trệ; cậu ngồi cứng đơ không động đậy trong khi con gấu di chuyện, vì vậy mặt khác nó cũng có cả khó khăn.

Cậu bé nói mải miết một điều gì đó.

“Cậu muốn nói gì thế?” Lyra hỏi.

“Mình nói là nó sẽ biết mình ở đâu chứ?”

“Ừ, nó sẽ biết thôi. Nó sẽ tìm cậu và bọn mình sẽ tìm nó. Giờ thì giữ thật chặt vào, Tony, không còn xa nữa đâu…”

Con gấu vẫn tiếp tục lướt đi. Lyra không biết mình mệt mỏi đến mức nào cho đến khi họ bắt kịp đoàn xe kéo. Đoàn xe phải dừng lại để cho đàn chó nghỉ sức, và đột nhiên tất cả bọn họ đều ở đó, Farder Coram, Ngài Faa, Lee Scoresby, tất cả ùa tới giúp đỡ và rồi im bặt khi thấy nhân dạng đi cùng với Lyra kia. Cô bị lạnh cóng đến mức thậm chí không nới lỏng vòng tay ôm quanh người cậu bé. Chính John Faa phải nhẹ nhàng tách hai đứa ra và nhấc cô xuống.

“Chúa nhân từ, cái gì đây?” ông nói. “Lyra, cháu yêu, cháu tìm được thứ gì thế này?”

“Cậu ấy tên Tony,” cô lập bập qua làn môi lạnh giá. “Người ta đã cướp mất nhân tinh của cậu ấy. Đó là điều bọn Gà trống tây làm.”

Những người đàn ông chững lại, sợ hãi, nhưng con gấu đã lên tiếng trách mắng trước sự ngạc nhiên rã rời của Lyra.

“Thật đáng hổ thẹn cho các người! Hãy nghĩ xem đứa bé này đã làm gì! Các người có thể không can đảm hơn được vậy, nhưng các người nên thấy hổ thẹn khi thể hiện là mình kém can đảm hơn.”

“Anh nói đúng, Iorek Byrnison,” John Faa nói và quay lại ra lệnh. “Hãy khơi to lửa lên và hâm nóng cháo cho đứa nhỏ. Cho cả hai đứa. Farder Coram, chỗ ngủ của anh đủ rộng chứ?”

“Có, John ạ. Hãy đưa nó đến đó và chúng ta sẽ làm cô bé ấm lên…”

“Còn cậu bé,” có ai đó nói, “nó có thể ăn và sưởi ấm, ngay cả nếu…”

Lyra đang cố nói với John Faa về chuyện các phù thủy, nhưng tất cả mọi người đều quá bận bịu còn cô đã quá mệt mỏi. Sau vài phút mơ màng với những ánh đèn, khói thuốc, những dáng người hối hả qua lại, cô cảm thấy những chiếc răng chồn ecmin của Pantalaimon đang cắn nhẹ vào tai mình. Cô tỉnh lại và thấy khuôn mặt con gấu đang ngay sát trước mặt.

“Những phù thủy,” Pantalaimon thì thầm. “Mình đã gọi Iorek.”

“À, đúng rồi,” cô thều thào. “Iorek, cảm ơn anh đã đưa tôi đến đó và trở về. Tôi quên mất việc kể cho Ngài Faa về các phù thủy, vì thế tốt hơn hết là anh hãy làm thay tôi.”

Cô nghe tiếng con gấu đồng ý, và rồi cô chìm sâu vào giấc ngủ.

Khi Lyra tỉnh dậy, trời đã sáng. Bầu trời phía đông nam sáng mờ và không khí ướt đẫm sương đêm. Trong làn sương đó những người Gypsy di lại như những bóng ma nặng nề, chất đồ lên và buộc chó vào xe.

Cô nhìn thấy toàn bộ cảnh tượng từ trong chỗ nằm trên xe trượt của Farder Coram. Cô đang nằm dưới một đống chăn may bằng lông thú. Pantalaimon đã tỉnh táo hoàn toàn trước cô, cố gắng biến thành một con cáo Bắc cực trước khi quay về với hình dáng chồn ecmin ưa thích của mình.

Iorek Byrnison ngủ trên nền tuyết gần đó, đầu gối lên hai bàn tay to rộng. Farder Coram đã dậy và đang bận rộn. Ngay khi nhìn thấy Pantalaimon ló ra, ông đến gần để gọi Lyra dậy hẳn.

Cô nhìn thấy ông đang đến và ngồi dậy để nói chuyện.

“Farder Coram, cháu đã biết điều cháu không hiểu là gì rồi. Chiếc chân-kế cứ chỉ vào chim và không, lý nào lại thế chứ, vì đó có nghĩa là không có nhân tinh và cháu không hiểu làm sao mà có thể… Chuyện gì vậy?”

“Lyra, ta e là phải nói với cháu chuyện này sau hết thảy những gì cháu đã làm, nhưng cậu bé đó đã chết cách đây một tiếng. Cậu ấu không thể ngồi yên, không thể ở nguyên một chỗ; cậu cứ liên tục hỏi về con nhân tinh của mình, nó đang ở đâu, có phải nó sẽ tới ngay không, và lung tung cả; nó cứ ôm chặt lấy miếng cá để lâu ngày như thế… ôi, ta không biết nói gì hơn nữa, cháu ạ; nhưng cuối cùng nó cũng nhắm mắt lại và nằm im, đó là lần đầu tiên trông nó thanh thản, giống như những người chết khác, con nhân tinh tan biến vào không gian. Mọi người định đào một chiếc huyệt cho nó, nhưng mặt đất cứng như thép. Vì thế John Faa ra lệnh lập một giàn thiêu, và họ sẽ hỏa táng nó để cơ thể nó không bị hủy hoại bởi những động vật ăn xác chết.

“Cô bé, cháu đã làm một việc can đảm, một việc tốt đẹp, ta tự hào về cháu. Giờ thì chúng ta đã biết điều ác độc tồi tệ mà đám người đó có thể làm, và nhiệm vụ của chúng ta rõ ràng hơn bao giờ hết. Điều cháu cần làm là nghỉ ngơi và ăn chút gì đó, vì cháu đi ngủ quá sớm nên chưa ăn gì đêm qua, cháu phải ăn trong nhiệt độ này để cơ thể không bị yếu đi…”

Ông đang luôn tay làm việc, đặt những tấm chăn vào đúng chỗ, buộc chặt lại sợi dây thừng quanh thân xe trượt, cuốn những sợi dây quanh tay cho khỏi rối.

“Farder Coram, cậu ấy đang ở đâu? Mọi người đã thiêu cậu ấy chưa vậy?”

“Chưa đâu, Lyra, cậu ấy đang nằm ở đằng sau kia.”

“Cháu muốn đến nhìn cậu ấy.”

Ông không thể từ chối cô điều đó, vì trông cô còn đáng sợ hơn cả xác chết, việc nhìn thấy cậu bé có thể khiến cô bình tâm lại. Cùng với Pantalaimon trong hình dáng con thỏ rừng trắng chạy thoăn thoắt bên cạnh, Lyra lảo đảo đi dọc các dãy xe trượt nơi những người đàn ông chất củi thành đống lớn.

Cơ thể cậu bé nằm dưới một tấm chăn kẻ ca rô để cạnh đường đi. Cô quỳ xuống và lật tấm chăn lên bằng hai bàn tay đeo găng. Một người đàn ông định ngăn cô lại, nhưng những người khác lắc đầu.

Pantalaimon trườn đến sát bên Lyra khi Lyra nhìn xuống khuôn mặt đáng thương. Cô tháo găng tay ra và chạm vào đôi mắt cậu. Chúng đã lạnh như băng, Farder Coram đã nói đúng; Tony Makarios không có gì khác với bất cứ người bình thường nào phải chia cách nhân tinh vì cái chết. Ôi, nếu người ta cướp mất Pantalaimon khỏi cô? Cô đỡ cậu bé lên và ôm cậu như thể muốn ghì sát cậu vào trái tim mình. Tất cả những gì Tony bé nhỏ đáng thương có là một miếng cá khô…

Nhưng miếng cá đâu rồi?

Cô kéo tấm chăn ra. Nó không còn ở đó nữa.

Cô lập tức đứng ngay dậy, đôi mắt giận giữ tóe lửa nhìn vào đám người gần đó.

“Con cá của cậu ấy đâu?”

Họ dừng lại, bối rối, không hiểu cô muốn nói gì; tuy thế vài nhân tinh trong số họ hiểu, và quay sang nhìn nhau. Một trong số những người đàn ông bắt đầu nhăn nhở cười trừ.

“Anh còn dám cười sao! Tôi sẽ xé xác anh nếu anh dám cười cậu ấy! Đó là tất cả những gì cậu ấy có, chỉ là một mẩu cá khô, nhưng đó là tất cả những gì cậu ấy có thay cho một con nhân tinh để yêu thương và đối xử tốt! Ai đã mang nó khỏi cậu ấy? Nó đâu rồi?”

Pantalaimon đã biến thành một con báo tuyết, rất giống nhân tinh của Ngài Asriel, nhưng cô không nhận thấy. Tất cả những gì cô quan tâm lúc này là con cá đã bị người nào lấy đi.

“Bình tĩnh nào, Lyra,” một người đàn ông nói. “Bình tĩnh lại đi, cô bé.”

“Ai đã lấy nó đi?” Cô lại nổi nóng, và người đàn ông Gypsy lùi một bước trước cơn thịnh nộ của cô.

“Tôi đã không biết,” một người đàn ông khác nói với vẻ hối lỗi. “Tôi nghĩ đó chỉ là thứ cậu bé dùng để ăn. Tôi lấy nó ra khỏi tay cậu ấy vì nghĩ nó không còn tác dụng gì nữa. Mọi chuyện là vậy, Lyra.”

Vậy thì giờ nó đâu rồi?”

Người đàn ông nói một cách khó khăn. “Vì không nghĩ là cậu ấy cần nó nữa nên tôi đã vứt cho mấy con chó. Tôi thực sự xin lỗi cô.”

“Người anh cần xin lỗi không phải tôi, mà là cậu ấy.” Cô nói, và quỳ ngay xuống, đặt tay lên hai gò má giá lạnh của cậu.

Rồi một ý tưởng chợt nảy đến trong đầu cô. Cô lục lọi trong chiếc áo khoác. Không khí lạnh lùa vào khi cô cởi chiếc áo, nhưng chỉ trong vài giây, cô đã tìm thấy thứ đang cần, lấy ra một đồng tiền vàng trong chiếc ví trước khi mặc lại áo.

“Tôi muốn mượn con dao của anh,” cô bảo người đàn ông đã lấy con cá đi. Khi anh ta đưa cho cô, cô nói với Pantalaimon, “Tên nó là gì?”

Tất nhiên nó hiểu ý cô muốn hỏi, và trả lời, “Ratter.”

Cô giữ đồng xu thật chặt bằng một bàn tay đeo găng, tay kia cầm con dao như một chiếc bút chì, khắc tên con nhân tinh mất tích lên đồng tiền vàng.

“Mình hi vọng là nó sẽ có tác dụng, nếu mình coi cậu như một Học giảJordan,” cô thì thầm với cậu bé đã chết, và cố mở miệng cậu để nhét đồng xu vào. Việc này thật khó khăn, nhưng cô xoay xở được, rồi lại loay hoay để khép hàm cậu lại.

Cô trả lại con dao cho người đàn ông cùng lời cảm ơn và quay lại chỗ Farder Coram trong ánh nắng sớm lờ mờ.

Ông đưa cho cô một bát súp mới lấy từ trên bếp xuống, cô húp từng ngụm một cách ngon lành.

“Chúng ta sẽ làm gì với những phù thùy đó, Farder Coram?” cô nói. “Cháu tự hỏi không biết bà phù thủy của ông có trong số đó không nữa?”

“Bà phù thủy của ta ư? Ta sẽ không giả định xa đến thế đâu, Lyra. Có thể họ đang đi đâu đó. Có rất nhiều mối quan tâm trong cuộc sống của một phù thủy; những điều chúng ta không nhìn thấy được; những căn bệnh bí hiểm họ phù phép mà chúng ta cho là chẳng có gì đáng ngại; những nguyên nhân chiến tranh chúng ta không hiểu nổi; những niềm vui và nỗi buồn liên quan tới những loài cây nhỏ xíu có hoa mọc trên lãnh nguyên… Nhưng ta ước gì có thể nhìn thấy họ đang bay, Lyra ạ. Ta ước ta có thể được nhìn một cảnh tượng như vậy. Giờ thì hãy ăn hết chỗ súp đó đi. Cháu có muốn chút nữa không? Còn cả bánh mì nữa đấy. Ăn thật nhiều vào, cô bé, vì chúng ta sẽ nhanh chóng lên đường.

Thức ăn đã làm Lyra sống lại, giờ đây sự lạnh gái trong tâm hồn cô bắt đầu tan chảy. Cùng với những người khác, cô đến nhìn cậu bé chỉ còn một nửa nằm trên giàn hỏa thiêu, cúi đầu và nhắm mắt nghe lời cầu nguyện của John Faa, rồi những người đàn ông rải dần lên và châm lửa, ngọn lửa bừng lên trong phút chốc.

Khi đã chắc chắn nó đã được thiêu hết, mọi người bắt đầu lên đường. Đây là một cuộc hành trình gian khổ. Tuyết bắt đầu rơi sớm, rồi rất nhanh chóng cả thế giới thu hẹp lại chỉ còn những cái bóng màu xám của đầu lũ chó kéo xe, tiếng lắc lư và cọt kẹt của xe kéo, cái lạnh như cắt da cát thịt, cả một đại dương mênh mông những bông tuyết lớn chỉ tối hơn bầu trời và chỉ sáng hơn mặt đất mà thôi.

Trong khung cảnh đó, đàn chó vẫn tiếp tục chạy, những cái mõm vểnh cao, thở ra đầy hơi nước. Chúng tiếp tục chạy xa về phía bắc, trong khi ánh sáng buổi trưa vàng vọt đến và đi trong cảnh tranh tối tranh sáng bao trùm lấy cả thế giới. Họ dừng lại để ăn uống và cầu nguyện. Trong khi John Faa nói chuyện với Lee Scoresby về cách họ có thể sử dụng khinh khí cầu, Lyra nghĩ về loài sinh vật bay do thám. Cô hỏi Farder Coram chuyện gì đã xảy ra với chiếc hộp đựng lá thuốc dùng để nhốt nó.

“Ta đã cất kỹ đi rồi,” ông nói. “Nó ở dưới đáy túi đựng quần áo, nhưng chẳng có gì để xem đâu. Ta đã hàn dính nó vào rồi, như ta đã nói. Ta không biết chúng ta sẽ làm gì với nó nữa, nói thật với cháu như vậy. Có thể chúng ta sẽ giết chết nó. Nhưng cháu không cần phải lo lắng, Lyra ạ. Khi ta còn giữ nó, cháu sẽ được an toàn.”

Ngay khi có cơ hội, cô thò tay vào túi đựng quần áo may bằng vải dầu lạnh cóng và lấy chiếc hộp thiếc bé xíu ra. Cô có thể cảm nhận tiếng đập cánh liên tục khi chạm vào chiếc hộp.

Trong khi Farder Coram đang nói chuyện với các lãnh tụ khác, cô mang chiếc hộp đến chỗ Iorek Byrnison và giải thích với nó ý tưởng của mình. Cô chợt nảy ra ý định đó khi nhớ lại cảnh nó đã chọc thủng tấm kim loại như thế nào.

Nó lắng nghe chăm chú, rồi lấy một chiếc nắp hộp bánh bích quy, gập nó thành một hình trụ dẹt. Cô thán phục trước sự khéo léo của đôi tay nó: không như hầu hết những con gấu bình thường khác, móng vuốt ngón chân cái của nó có hướng ngược lại giúp chúng có thể giữ chặt các đồ vật trong khi làm việc. Nó có khả năng bẩm sinh về sức mạnh và sự khéo léo với kim loại. Chỉ cần nhấc mảnh kim loại lên một hai lần, uốn sang bên này bên kia rồi dùng móng vuốt vạch một đường vòng quanh, và gập lại. Giờ thì nó cũng đang gập các mép gờ lại cho đến khi chúng dựng đứng rồi làm một cái nắp để đậy vừa lại. Theo yêu cầu của Lyra nó làm ra hai chiếc: một chiếc kích thước với chiếc hộp đựng thuốc lá ban đầu, chiếc còn lại đủ lớn để chứa chính chiếc hộp đó cùng một ít tóc, rong rêu và địa y lèn thật chặt để bưng kín không để tiếng ồn lọt ra. Khi chiếc hộp đóng lại, nó to đúng bằng chiếc chân-kế.

Khi mọi việc đã hoàn thành, cô ngồi bên Iorek Byrnison trong khi nó gặm một chiếc đùi tuần lộc đã đông cứng như gỗ.

“Iorek,” cô nói, “có khó khăn lắm không khi sống mà không có một con nhân tinh? Anh không cảm thấy cô đơn à?”

“Cô đơn?” nó nói. “Tôi không biết. Họ nói với tôi như thế này là lạnh. Tôi không biết lạnh là thế nào, vì tôi không bị lạnh. Vì thế tôi cũng không hiểu cô đơn nghĩa thế nào. Những con gấu sinh ra là để sống một mình.”

“Thế còn những con gấuSvalbardthì sao?” cô hỏi. “Có hàng nghìn con, đúng không? Tôi nghe nói thế.”

Nó không nói không rằng mà bẻ khớp tay phát ra âm thanh như một súc gỗ bị gãy.

“Thứ lỗi cho tôi, Iorek,” cô nói. “Tôi hi vọng đã không xúc phạm anh. Chỉ là tôi thấy tò mò thôi. Anh biết không, tôi tò mò quá mức về những con gấuSvalbardnhư vậy là vì cha tôi đấy.”

“Cha cô là ai?”

“Ngài Asriel. Người ta đã bắt giam ông ấy tạiSvalbard. Tôi nghĩ bọn Gà trống tây đã phản bội và trả tiến cho lũ gấu để giữ ông trong tù.”

“Tôi không biết. Tôi không phải là một con gấuSvalbard.”

“Tôi đã nghĩ anh là…”

“Phải. Tôi đã từng là một con gấuSvalbard. Nhưng bây giờ không còn nữa. Tôi đã bị đày đi vì tội giết một con gấu khác. Vì thế tôi bị tước mất tước hiệu, tài sản cùng bộ giáp sắt và bị đày đến sống bên kia rìa thế giới của loài người và chiến đấu nếu tìm được người thuê mình làm việc đó, hay những việc làm chân tay và nhấn chìm ký ức của mình trong men rượu.”

“Sao anh lại giết con gấu đó?”

“Vì giận dữ. Có rất nhiều cách để những con gấu trút giận lên nhau, nhưng tôi đã mất kiểm soát. Vì thế tôi đã giết nó và phải trả một cái giá quá đắt.”

“Vậy là anh đã từng có tước vị cao và giàu có,” Lyra nói với giọng thán phục. “Giống hết cha tôi, Iorek ạ! Mọi chuyện cũng xảy ra với ông ấy như thế sau khi tôi ra dời. Ông ấy cũng giết ai đó và người ta lấy đi mọi tài sản của ông ấy. Chuyện xảy ra rất lâu trước khi ông ấy trở thành tù nhân ởSvalbard. Tôi không biết chút gì vềSvalbard, ngoại trừ nó ở rất xa trên phương Bắc… Có phải nó được bao phủ bởi băng tuyết không? Anh có thể đến được đó băng qua biển băng không?”

“Không phải từ bở bên bày. Đôi khi phía nam nó đóng băng, đôi khi lại không. Cô cần có một cái thuyền.”

“Hay một chiếc khinh khí cầu, có lẽ thế.”

“Hay một chiếc khinh khí cầu, đúng vậy, nhưng phải cần gió thổi đúng chiều nữa.

Nó gặm nhấm chiếc đùi tuần lộc, và một ý niệm len vào tâm trí Lyra nhắc cô nhớ về những phù thủy trên bầu trời đêm; nhưng cô không nói gì về chuyện đó. Thay vào đó cô hỏi Iorek Byrnison về Svalbard, và háo hức lắng nghe nó kể về những dòng sông băng, những mỏm đá và tảng băng nổi, nơi những con moóc nanh trắng nằm thành từng đàn hàng trăm con hoặc hơn nữa, về những bở biển đầy hải cẩu, hay kỳ lân biển đập những chiếc nanh vào nhau chan chát trên mặt biển băng; về những bờ biển ảm đạm lởm chởm đá, những mỏm cao hàng nghìn mét hoặc hơn, nơi những con má núi ngồi trên mỏm đá và nhảy bổ xuống, về những mỏ than và mỏ dầu nơi những con gấu làm thợ rèn đập mỏng những mảnh kim loại và tán chúng thành bộ giáp sắt…

“Nếu người ta đã tước mất bộ giáp của anh, Iorek, vậy anh lấy đâu ra bộ này?”

“Tôi tự làm cho mình tại Nova Zembla bằng kim loại đến từ bầu trời. Cho đến khi tôi làm xong nó, tôi vẫn chưa hoàn thiện.”

“Vậy là những con gấu có thể tự tạo nên linh hồn của mình…” cô nói. Có rất nhiều điều cần biết trên đời. “Ai là Vua củaSvalbardthế?” Cô tiếp tục. “Những con gấu có Vua không?”

“Ông ta tên là Iofur Raknison.”

Cái tên này ngân lên một hồi chuông trong tâm trí Lyra. Cô từng nghe thấy nó trước đây, những là ở đâu? Và không phải qua miệng một con gấu, cũng không phải qua lời người Gypsy. Người nhắc đến nó là một Học giả, những kẻ thông thái rởm kiêu ngạo, chắc chắn là được nói tại Học việnJordan. Cô có gắng nhớ lại. Ồ, cô rất quen với nó.

Giờ thì cô đã nhớ ra rồi: Phòng nghỉ. Các Học giả đang lắng nghe Ngài Asriel. Chính là Giáo sư Palmerian đã nói gì đó về Iofur Raknison. Ông ta dùng từ panserbjorne mà Lyra không hiểu, và cô không biết Iofur Raknison là một con gấu. Nhưng lúc đó ông ta nói nó thế nào nhỉ? Vua củaSvalbardlà một kẻ tự phụ và ưa nịnh. Còn có điều gì nữa, giá mà cô nhớ được, nhưng đã có rất nhiều chuyện xảy ra kể từ lúc đó…

“Nếu cha cô là tù nhân của những con gấuSvalbard,” Iorek Byrnison nói, “ông ấy sẽ không trốn thoát được đâu. Ở đó không có khu rừng nào để lấy gỗ đóng thuyền. Mặt khác, nếu ông ta là người cao quý, ông ta sẽ được đối xử xứng đáng. Họ sẽ cho ông ấy một ngôi nhà để ở, người hầu để sai bảo, thực phẩm và chất đốt.”

“Liệu bọn gấu có bao giờ bị đánh bại không Iorek?”

“Không.”

“Hoặc bị lừa, có thể lắm chứ?”

Nó ngừng nhai và nhìn thẳng vào cô. Rồi nó nói, “Cô sẽ không bao giờ lừa được những con gấu mặc giáp. Cô đã nhìn thấy bộ áo giáp sắt, giờ hay xem những vũ khí của tôi.”

Nó buôn rơi miếng thịt và giơ tay ra, lòng bàn tay ngửa lên cho cô nhìn. Mỗi lòng bàn tay đều được phủ một lớp sừng dày vài centimet, và mỗi móng vuốt ít nhất là dài bằng cả bàn tay Lyra, sắc như dao. Nó để cô vuốt vào chúng với vẻ ngạc nhiên.

“Chỉ cần một cú bợp là nghiền nát đầu một con hải cẩu,” nó nói, “hay làm gẫy lưng một người, hay xé đôi một đứa trẻ. Tôi còn có thể cắn nữa. Nếu cô không ngăn cản tôi ở Trollesund, tôi đã bóp nát sọ người đàn ông dó như bóp một quả trứng. Sức mạnh đó quá lớn cho những trò lừa bịp. Cô không thể đánh lừa một con gấu. Cô muốn tôi chứng minh không? Hãy lấy một cây gậy và đấu với tôi.”

Háo hức muốn thử, cô bẻ một cành cây trong bụi cây bám đầy tuyết, bẻ hết những nhánh nhỏ xung quanh và vụt nó vun vút bên này bên kia như một thanh kiếm. Iorek Byrnison ngồi bệt xuống và chờ đợi, tay khoanh trước ngực. Khi đã sẵn sàng đối mặt với nó, cô không muốn đâm nó vì trông nó rất thản nhiên. Thế là cô khoa chiếc gậy lên, huơ sang phải rồi sang trái, không định đánh vào người nó, nó vẫn không hề động đậy. Cô làm như thế nhiều lần, và không lần nào nó xê dịch dù chỉ là một phân.

Cuối cùng cô quyết định xiên thẳng vào người nó, không mạnh, nhưng để cái que chọc vào bụng nó. Ngay lập tức nó giơ tay gạt cây gậy sang bên.

Ngạc nhiên quá, cô thử lại lần nữa và kết quả cũng tương tự. Nó chuyển động nhanh nhẹn và chính xác hơn cô rất nhiều. Cô cố gắng đánh lạc hướng nó, cầm chiếc gậy như một thanh kiếm, và chẳng lần nào chạm được vào người con gấu cả. Dường như nó biết cô định làm gì trước khi cô hành động, khi cô chọc vào đầu nó, cái chân to lớn gạt cây gậy sang bên rất nhẹ nhàng, và khi cô dùng đòn nhử, nó không hề động đậy.

Cô tức điên lên, lao cả người vào cuộc tấn công dữ dội, thọc, quật, xỉa, đâm và chẳng lần nào qua được đôi tay của nó. Chúng vươn ra khắp mọi nơi, đúng lúc để đỡ đòn, đúng vào vị trí có thể chặn đánh.

Cuối cùng cô cảm thấy sợ, và dừng lại. Cô đã toát hết mồ hôi trong lớp áo lông thú, mệt đứt hơi, kiệt sức, còn con gấu vẫn ngồi yên không xê dịch. Nếu cô có một lưỡi gươm sắc thật sự, chắc nó cũng chẳng hề hấn gì.

“Tôi cá là anh có thể bị trúng đạn,” cô nói, rồi ném cây gậy đi. “Làm sao anh có thể làm được như vậy?”

“Bằng cách không phải là con người,” nó nói. “Đó là nguyên nhân tại sao cô không bao giờ có thể lừa một con gấu. Chúng tôi nhìn thấy các trò lừa bịp và dối trá rõ như ban ngày. Chúng tôi có thể nhìn nhận chuyện đó theo một cách loài người đã quên mất. Nhưng cô thì lại biết đấy; cô có thể hiểu được chiếc máy đọc biểu tượng.”

“Cái đó đâu giống nhau, phải không?” cô nói. Giờ thì cô thấy bồn chồn về con gấu còn hơn cả khi cô chứng kiến cơn thịnh nộ của nó nữa.

“Giống nhau đấy,” nó nói. “Người lớn không đọc được chiếc máy đó, theo như tôi biết. Cũng như tôi giỏi hơn những chiến binh là con người, cô cũng giỏi hơn người lớn vì đọc được chiếc máy biểu tượng.”

“Vâng, tôi cho là thế,” cô nói, bối rối và không hài lòng. “Như vậy nghĩa là tôi sẽ quên cách dùng nó khi tôi lớn lên phải không?”

“Ai mà biết được? Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một chiếc máy biểu tượng, hay một người có thể đọc được nó.”

Nó thả rơi người xuống bốn chân và đi nhai khúc thịt của mình. Lyra đã cởi bớt áo choàng lông thú, nhưng giờ trời rất lạnh nên cô phải mặc vào. Dù gì thì cô cũng đang cảm thấy rất băn khoăn. Cô muốn hỏi ý kiến chiếc chân-kế ngay bây giờ, nhưng trời quá lạnh, mọi người đang gọi cô vì đã đến lúc phải đi tiếp. Cô cầm lấy chiếc hộp thiếc Iorek đã làm, đặt chiếc hộp trống không trở lại túi quần áo của Farder Coram và đặt chiếc hộp có sinh vật bay do thám vào chiếc túi đeo trên vai cô bên cạnh chân-kế. Cô thấy vui vì cuộc hành trình lại bắt đầu.

Các lãnh tụ đã đồng ý với Lee Scoresby rằng khi đến điểm dừng chân kế tiếp, họ sẽ bơm căng khinh khí cầu để ông có thể theo dõi từ trên cao. Tất nhiên Lyra rất mong được bay cùng ông, và tất nhiên nó bị cấm; nhưng cô vẫn bám theo ông trên đường đến đó để quấy rầy ông bằng những câu hỏi.

“Ông Scoresby, ông sẽ bay tớiSvalbardnhư thế nào?”

“Cháu cần một chiếc khí cầu điều khiển được và một động cơ chạy bằng khí gas, thứ gì đó như zeppelin, hoặc cách khác là một ngọn gió nam tốt lành. Nhưng chết tiệt, ta chẳng dám thử đâu. Cháu từng đến nơi đó chưa? Một nơi khỉ ho cò gáy, tồi tàn hoang vu nhất, trống trải nhất và bất tiện nhất trên đời.”

“Cháu chỉ đang thắc mắc, nếu Iorek Byrnison muốn quay lại…”

“Anh ta sẽ bị giết. Iorek đang chịu án đày. Ngay khi anh ta đặt chân lên đó, chúng sẽ xé xác anh ta ra thành từng mảnh.”

“Ông bơm hơi vào khinh khí cầu như thế nào, ông Scoresby?”

“Có hai cách. Ta có thể tạo khí hidro bằng cách bơn axit sulphuric vào bột sắt. Ta thu lấy khí thoát ra và bơm dần vào khinh khí cầu như vậy. Cách còn lại là tìm một cái ống dẫn khi gần một lò đốt than, hoặc lò nung vôi. Ta có thể lấy khí từ lò nung vôi nếu cần, và từ đầu nữa. Việc tạo ra khí gas không khó. Nhưng cách nhanh nhất là dẫn khí từ dưới đất lên. Một đường ống dẫn khí tốt sẽ làm đầy khí cầu trong vòng một giờ.

“Ông có thể chở được mấy người?”

“Sáu, nếu cần.”

“Ông có chở được Iorek Byrnison khi đang mặc bộ áo giáp của anh ấy không?”

“Ta đã từng làm thế rồi. Ta từng một lần cứu anh ta từ trong tay những người Tartar, khi anh ta bị thương và bị bỏ đói—đó là trong chiến dịchTunguska, rồi ta bay đến và đưa anh ấy đi. Nghe thì có vẻ dễ, nhưng chết tiệt, ta đã phải tính toán trọng lượng của anh chàng to đầu đó dựa trên ước đoán. Rồi ta còn phải hạ xuống để tìm khí gas dưới cái pháo đài bằng băng giá anh ta đã làm. Nhưng từ trên không ta có thể biết ở dưới là loại đất nào, ta đoán đào sâu xuống sẽ không sao. Cháu biết đấy, để hạ xuống ta phải xả khí ra khỏi khí cầu, không thể cất cánh lại nếu không được bơm thêm. Dù thế nào, bọn ta cũng đã xoay xở được, cùng với cả bộ giáp và tất nhiên cả những thứ cần thiết khác.”

“Ông có biết về chuyện người Tartar đục những cái lỗ trên đầu người không?”

“Ồ, dĩ nhiên là ta phải biết chứ. Họ đã làm như vậy hàng nghìn năm nay. Trong chiến dịchTunguskachúng tôi bắt sống được năm người Tartar và ba người trong đó có lỗ trên đầu, một người có đến hai lỗ.”

“Họ làm như vậy cho nhau sao?”

“Đúng thế. Đầu tiên họ cắt rời ra một khoanh da đầu, như thế họ có thể nhấc phần đó lên để lộ xương sọ. Sau đó họ cắt một vòng tròn xương nhỏ ra khỏi xương sọ, rất cẩn thận để không đâm thủng não, rồi họ khâu mảnh da đầu lại như cũ.”

“Cháu nghĩ họ làm thế với những kẻ thù!”

“Quỷ thật, không. Đây là một đặc quyền thiêng liêng. Họ làm như vậy để thần linh có thể nói chuyện với họ.”

“Ông từng nghe về một nhà thám hiểm tên là Stanislaus Grumman chưa?”

“Grumman hả? Tất nhiên rồi. Ta gặp một người trong đội thám hiểm của ông ấy khi bay trên sôngYeniseihai năm trước. Ông ấy đang theo đường đó để đến sống giữa các bộ lạc người Tartar. Thực ra, ta nghĩ ông ta đã để người khác đục lỗ trên đầu mình. Đó là một nghi thức trong lễ kết nạp, nhưng người đàn ông nói chuyện với tôi không biết nhiều về chuyện này.”

“Vậy thì… nếu ông ta là một người công dân danh dự của người Tartar, họ sẽ không giết ông ấy phải không?”

“Giết ông ấy ư? Vậy ông ấy chết rồi sao?”

“Vâng, cháu đã nhìn thấy xương sọ của ông ấy,” Lyra nói với giọng tự hào. “Cha cháu đã tìm thấy nó. Cháu nhìn thấy khi ông ấy cho các Học giả xem tại Học việnJordanởOxford. Người ta đã đục lỗ trên đó.”

“Vậy ai đục lỗ trên đó?”

“Thì những người Tartar. Các Học giả nghĩ như vậy… Nhưng cũng có thể không phải.”

“Có thể đó không phải là đầu của Grumman,” Lee Scoresby nói. “Có lẽ cha cháu muốn đánh lạc hướng các học giả.”

“Cháu nghĩ là ông ấy muốn như vậy thật,” Lyra trầm tư nói. “Ông ấy đang muốn yêu cầu họ đưa tiền.”

“Và khi họ trông thấy cái đầu, họ đưa tiền cho ông ấy?”

“Vâng.”

“Một cú lừa ngoạn mục. Người ta sẽ bị sốc khi nhìn thấy một thứ như thế. Họ không muốn nhìn quá kỹ càng.”

“Đặc biệt là các Học giả,” Lyra nói.

“Chà, coi bộ cháu còn biết nhiều hơn ta. Nhưng nếu đó đúng là đầu Grumman, ta đoán không phải những người Tartar đã đục lỗ trên đó. Họ không đục lỗ trên đầu kẻ thù, không phải họ, còn ông ấy chỉ là con nuôi của người Tartar.”

Lyra suy nghĩ lại chuyện này khi họ đi tiếp. Những dòng ý nghĩ hỗn độn đang quay cuồng quanh cô: bọn Gà trống tây và sự độc ác của chúng, nỗi e sợ của chúng về Bụi, thành phố hiện lên trong hiện tượng cực quang, cha cô ở Svalbard, mẹ cô… Bà ấy đang ở đâu? Chiếc chân-kế, các phù thủy bay về hướng bắc. Tony Makarios bé nhỏ đáng thương, và thứ sinh vật bay do thám, khả năng tự vệ kỳ lạ của Iorek Byrnison…

Rồi cô chìm vào giấc ngủ. Mỗi giờ qua đi họ càng đến gần Bolvangar hơn.

Chương 14: Ánh sáng Bolvangar

Việc những người Gypsy không nghe thấy bất cứ tin tức gì về bà Coulter khiến Farder Coram và John Faa lo lắng hơn nhiều so với mức họ để lộ ra cho Lyra thấy. Nhưng họ không biết là chính cô cũng rất lo lắng. Lyra sợ bà Coulter và thường xuyên nghĩ đến bà. Trong khi Ngài Asriel giờ đã được coi là “cha” thì bà Coulter chưa bao giờ trở thành “mẹ.” Nguyên nhân cho việc đó là do con nhân tinh của bà, con khỉ vàng, đã khiến Pantalaimon vô cùng ghê sợ vì đã lục lọi những bí mật của cô, đặc biệt là bí mật về chân-kế.

Và họ đang đuổi theo cô; thật ngớ ngẩn nếu nghĩ khác. Sinh vật bay do thám đã minh chứng cho điều này.

Những khi kẻ thù thực sự tấn công, đó lại không phải là bà Coulter. Những người Gypsy đã dự định dừng chân để lũ chó nghỉ ngơi, sửa chữa mấy chiếc xe trượt và chuẩn bị vũ khí sẵn sàng cho một cuộc tiến công vào Bolvangar. John Faa hi vọng Lee Scoresby có thể tìm thấy khí gas trong lòng đất để bơm vào quả khí cầu (vì lúc này ông có hai quả) và bay lên thám thính trước. Nhưng người lái khinh khí cầu quan sát thời tiết tỉ mỉ như một thủy thủ, rồi ông nói trời sắp có sương mù; và quả thật vậy, ngay khi họ vừa dừng lại, sương mù dày đặc đã bao trùm mọi thứ. Lee Scoresby biết ông sẽ chẳng nhìn thấy gì từ trên cao, vì thế ông đành tự hài lòng với việc kiểm tra lại các dụng cụ của mình, dù nó đã được sắp xếp rất cẩn thận.

Thế rồi, không có một dấu hiệu nào báo trước, một loạt tên bay đến từ bóng tối.

Ba người đàn ông Gypsy ngã xuống tức thì, và chết lặng lẽ đến mức không ai nghe thấy. Chỉ đến khi họ ngã vật xuống chiếc xe kéo, những người ở gần nhất mới phát hiện điều đang diễn ra. Nhưng đến lúc đó thì đã quá muộn, vì những mũi tên khác đã bay đến nhằm vào họ. Một số người nga63ngle6n, bối rối trước âm thanh những mũi tên bay vun vút cắm vào gỗ hay vải dầu đông cứng.

Người đầu tiên tỉnh trí lại là John Faa, ông hét to mệnh lệnh từ giữa đoàn người. Những bàn tay lạnh cóng và những đôi chân tê cứng chuyển động làm theo lệnh trong khi loạt tên khác vẫn lao tới như mưa, những hạt mưa mang mầm chết chóc.

Lyra đang ở ngoài, những mũi tên bay vù vù trên đầu cô. Pantalaimon nghe thấy tiếng động trước cô, liền biến thành một con báo và đẩy cô ngã xuống, thu nhỏ mục tiêu nhằm vào cô. Vừa phủi tuyết khỏi mắt, cô vừa lăn qua lăn lại để gắng xem chuyện gì đang xảy ra, vì màn không khí tranh tối tranh sáng dường như bị nhấn chìm trong náo loạn ầm ĩ. Cô nghe thấy một tiếng gầm sấm dội, tiếng lanh canh và loảng xoảng từ bộ áo giáp sắt của Iorek Byrnison khi nó nhảy qua những chiếc xe trượt vào trong màn sương, tiếp theo đó là những tiếng gào thét, gầm gừ, tiếng nhai nuốt và cào xé, những cú đòn ghê gớm, những tiếng thét hoảng hốt và tiếng gầm vang cuồng nộ khi nó đi qua.

Nhưng chúng là ai? Lyra vẫn chưa nhìn thấy bóng một kẻ thù nào. Những người Gypsy đang tụ lại để bảo vệ những chiếc xe, nhưng đến cả Lyra cũng có thể nhận thấy như thế càng khiến họ dễ dàng thành mục tiêu hơn. Những khẩu súng trường quả thật không dễ khai hỏa bằng đôi tay đeo găng hay bao tay. Cô chỉ nghe bốn hay năm phát súng chống chọi lại những cơn mưa tên vẫn đang ào ào trút xuống. Mỗi phút trôi qua lại có thêm người ngã xuống.

Ôi, John Faa! Cô đau đớn nghĩ. Ông đã không lường trước được chuyện này, cháu đã không giúp được ông.

Nhưng cô không có thêm một giây để suy nghĩ, vì Pantalaimon gào lên dữ dội, và cái gì đó, một con nhân tinh khác, lao vào nó, vật nó xuống, làm chính Lyra cũng bị hụt hơi, rồi một bàn tay kéo giật lấy cô, nhấc cô lên, bịt miệng không cho cô hét bằng đôi găng tay hôi hám, lôi cô xềnh xệch vào một cánh tay khác, cánh tay này lại đẩy cô giúi xuống nền tuyết, vì thế cô cảm thấy chóng mặt, nghẹn thở và đau đớn khắp người. Cánh tay cô bị kéo giật về phía sau cho đến khi hai vai kêu răng rắc, ai đó trói hai cổ tay cô lại, rồi một chiếc mũ chụp qua đầu cô để không cho cô gào thét, vì cô đang hét lên, hết sức dữ dội.

“Iorek! Iorek Byrnison! Cứu tôi!”

Nhưng không biết nó có nghe thấy không? Cô không thể biết chắc. Cô bị lôi đi, lê trên bề mặt cứng ngắt và sau đó bắt đầu tròng trành và xóc nảy như một chiếc xe kéo. Những âm thanh vang đến tai cô thật dữ dội và hỗn loạn. Có lẽ cô đã nghe thấy tiếng gầm của Iorek Byrnison, nhưng đã ở rất xa, rồi sau đó cô bị nảy bật lên vì nền đất gồ ghề, hai cánh tay bị trói quặt, miệng bịt kín, khóc nức nở vì giận dữ và sợ hãi. Những giọng nói lạ lùng vang lên xung quanh cô.

“Pan…”

“Mình ở đây, suỵt, mình sẽ giúp cậu thở. Cứ nằm im nhé…”

Những chiếc móng chân chuột của nó kéo mạnh chiếc mũ chụp cho đến khi miệng cô không bị bịt kín nữa. Cô hít lấy hít để không khí giá lạnh.

“Chúng là ai vậy?” Cô thì thầm.

“Trông chúng giống người Tartar. Mình nghĩ chúng đã hạ John Faa.”

“Không—”

“Mình thấy ông ấy ngã xuống. Nhưng ông ấy phải chuẩn bị sẵn sàng cho kiểu tấn công này chứ. Tụi mình biết là vậy mà.”

“Nhưng đáng lý tụi mình phải giúp ông ấy! Tụi mình lẽ ra phải theo dõi chiếc Chân-kế thường xuyên!”

“Im nào. Hãy làm bộ như đang ngất.”

Có tiếng roi vút lên và tiếng hú của lũ chó kéo. Từ mức độ xóc cô đang phải chịu, Lyra có thể biết họ đang đi nhanh đến mức nào, và dù đã căng tai nghe ngóng âm thanh của trận chiến, tất cả những gì cô nghe được là tiếng những loạt đạn bị bóp nghẹt bởi khoảng cách, và rồi tiếng lóc cóc, tiếng giục giã và tiếng bước chân chó chạy trên nền tuyết là toàn bộ những gì có thể nghe được.

“Chúng sẽ giao tụi mình cho bọn Gà trống tây,” cô thều thào.

Cụm từ bị chia cắt hiện lên trong tâm trí cô. Sự hãi hùng ghê gớm xâm chiếm cô, Pantalaimon nép sát vào bên cạnh.

“Mình sẽ chiến đấu,” nó nói.

“Mình cũng thế. Mình sẽ giết chúng.”

“Iorek Byrnison cũng sẽ làm thế khi anh ấy tìm thấy tụi mình. Anh ấy sẽ nghiến nát chúng ra.”

“Mình còn cách Bolvangar bao xa?”

Pan không biết, nhưng họ đoán chắc là còn một ngày đi xe trượt nữa. Sau khi đã đi lâu tới mức cơ thể cô mỏi rã rời, chiếc xe chậm lại một chút, và ai đó kéo giật chiếc mũ trùm đầu của cô ra một cách thô bạo.

Cô nhìn lên khuôn mặt châu Á to bè dưới chiếc mũ trùm bằng lông chồn gu-lô được chiếu sáng bằng một ngọn đèn leo lét. Đôi mắt đen của hắn lóe lên cái nhìn hài lòng, đặc biệt khi Pantalaimon trượt khỏi tấm áo choàng của Lyra và nhe hàm răng chồn ecmin khi rít lên. Con nhân tinh của gã, một con chồn gu-lô to lớn, gầm trở lại, nhưng Pantalaimon chẳng hề lung lay.

Gã ta dựng Lyra lên và cho đứng nghiêng về một bên xe kéo, nhưng cô cứ ngã giúi giụi sang một bên vì hai tay vẫn bị trói quặt phía sau. Vì thế hắn trói chân cô lại và cởi trói tay.

Qua làn tuyết đang rơi và làn sương mù dày đặc, cô nhìn thấy gã, và cả tay đánh xe nữa, khỏe mạnh đến chừng nào. Họ đứng thăng bằng trên xe rất điệu nghệ và quen thuộc với vùng đất này, khác hẳn những người Gypsy.

Gã bắt đầu lên tiếng, nhưng tất nhiên cô chẳng hiểu gì. Hắn thử thứ tiếng khác với kết quả tương tự. Rồi hắn thử sang tiếng Anh.

“Tên mày?”

Pantalaimon xù lông lên cảnh giác, cô lập tức hiểu ngay ý nó. Vậy là những người này không biết cô là ai! Không phải họ bắt cóc cô vì có quan hệ với bà Coulter, vì thế cỏ thể chúng không hề được bọn Gà trống tây trả tiền để làm việc này.

“Lizzie Brooks,” cô trả lời.

“Lizzie Broogs,” hắn nói theo cô nhưng phát âm sai, “chúng tao sẽ đưa mày đến một nơi rất đẹp. Những con người tốt bụng.”

“Các ông là ai?”

“Người Samoyed. Những kẻ đi săn.”

“Một nơi rất đẹp. Những người tốt. Mày có panserbjorne đúng không?”

“Để bảo vệ.”

“Không ăn thua! Ha ha, giấu thì làm được gì! Dù sao chúng tao cũng đã tóm được mày!”

Hắn cười hô hố, Lyra cố ghìm nén, không nói lời nào.

“Những tên đó là ai?” Gã ta hỏi và chỉ về phía họ đã đi qua.

“Lái buôn.”

“Lái buôn… Buôn gì?”

“Lông thú, rượu mạnh,” cô nói. “Lá thuốc.”

“Họ bán lá thuốc, mua lông thú?”

“Phải,”

Hắn nói gì đó với tay đi cùng, tay này trả lời vắn tắt lại. Suốt thời gian chiếc xe lăn bánh, Lyra cố kiễng chân lên cho thoải mái để nhìn xem họ đang đi đâu, nhưng tuyết rơi rất dày, bầu trời tối mịt, còn cô đã quá lạnh để có thể nhìn ra ngoài lâu hơn. Cô ngồi xuống. Cô và Pantalaimon có thể cảm nhận suy nghĩ của nhau và cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng ý nghĩ John Faa đã chết cứ hiện lên trong tâm trí cô… Rồi điều gì đã xảy ra với Farder Coram? Liệu Iorek Byrnison có thể giết được bọn người Samoyed kia? Phải chăng họ đang cố lần theo dấu vết của cô?

Lần đầu tiên, cô bắt đầu cảm thấy lo lắng cho số phận của chính mình.

Sau một khoảng thời gian dài, người đàn ông lay vai cô và đưa cho cô một rẻo thịt tuần lộc khô để nhai. Nó rất khét và dai, nhưng cô đang đói và nó cũng có chất. Nhai xong cô cảm thấy khá hơn một chút. Cô luồn tay vào chiếc áo lông thú để chắc chắn chiếc chân-kế vẫn còn rồi cẩn thận rút chiếc hộp đựng sinh vật bay do thám ra luồn nó vào chiếc ủng lông thú. Pantalaimon biến thành một con chuột và luồn vào ấn chiếc hộp sâu hết mức có thể, giấu nó dưới đôi tất làm bằng da tuần lộc của cô.

Xong xuôi, cô nhắm nghiền mắt lại. Sợ hãi làm cô kiệt sức, và rất mau chóng cô mệt mỏi chìm vào giấc ngủ.

Cô tỉnh dậy khi chuyển động của chiếc xe thay đổi. Nó đột ngột đi rất êm, và khi cô mở mắt, những tia sát làm cô bị chói, đến nỗi cô phải kéo chiếc mũ chụp sâu xuống trước khi lại nhìn ra. Cô lạnh và tê cứng nhưng vẫn cố gắng nghểnh lên nhìn thấy chiếc xe đang chạy băng băng giữa hai hàng cột cao, mỗi cột có một cây đèn anbaric. Họ đi qua một cánh cổng sắt mở phía cuối con đường, vào một chỗ trống giống như một khu chợ không có người hay một đấu trường thể thao hoặc trò gì đó. Nó bằng phẳng, nhẵn nhụi, màu trắng, bề ngang khoảng trăm mét. Viền xung quanh là hàng rào kim loại cao nhồng.

Chạy đến cuối đầu trước chiếc xe dừng lại. Họ đang ở ngoài một tòa nhà thấp, hay một dãy nhà thấp, tuyết phủ dày. Rất khó nói chính xác, nhưng cô có ấn tượng bên dưới là những đường hầm nối các phần của dãy nhà lại với nhau, những đường hầm ẩn trong nền tuyết. Cạnh đó là một cây cột kim loại to trông rất quen, nhưng cô không thể nhớ được nó gợi cho cô về cái gì.

Trước khi cô kịp nhìn thêm, người đàn ông trong xe kéo đã cắt vòng dây cuốn quanh cổ chân và kéo cô thô bạo trong khi tên đánh xe quát đàn chó đứng yên. Một cánh cửa mở ra từ ngôi nhà cách đó mấy mét, và một chiếc đèn anbaric xuất hiện ở trên đầu, đung đưa qua lại để tìm kiếm bọn họ, như một ngọn đèn pha.

Kẻ bắt cóc Lyra đẩy mạnh cô về phía trước như để khoe một chiến tích, nhưng không thả ra, và nói gì đó. Bóng người mặc áo khoác lụa chần bông trả lời cũng bằng cùng thứ ngôn ngữ, và Lyra nhìn thấy người đó. Ông ta không phải người Samoyed hay Tartar. Trông ông ta giống một Học giảJordanvậy. Ông ta nhìn cô, đặc biệt nhìn chăm chú vào Pantalaimon.

Gã Samoyed lại lên tiếng, và người đàn ông Bolvangar nói với Lyra. “Cháu có nói tiếng Anh không?”

“Có,” cô trả lời.

“Con nhân tinh của cháu luôn trong hình dạng đó à?”

Đây quả là một câu hỏi không lường trước được. Lyra chỉ có thể há hốc nhìn. Nhưng Pantalaimon đã trả lời theo phong cách của riêng nó bằng cách biến thành một con chim ưng và lao mình từ vai cô sang con nhân tinh voi ma mút to lớn của ông ta, con voi vung vòi lên đập vào người Pantalaimon khi nó tung cánh bay lên.

“Thấy rồi,” người đàn ông nói với giọng hài lòng khi Pantalaimon bay về đậu trên vai Lyra.

Gã Samoyed đang nhìn với ánh mắt chờ đợi, người đàn ông ở Bolvangar gật đầu và rút bao tay ra để lần vào túi áo. Ông ta lấy ra một chiếc túi có dây rút đếm mười hai đồng tiền lớn đặt vào tay người đi săn.

Hai người đàn ông kiểm tra lại số tiền, xếp chúng lại cẩn thận, mỗi người lấy một nửa. Không thèm nhìn lại, chúng lên xe, tay đánh xe vung roi và hét lên với những con chó qua trường đấu rộng lớn màu trắng và ra đến con đường có những cột đèn, tăng tốc cho đến khi biến mất trong bóng tối.

Người đàn ông mở lại cánh cửa.

“Vào đây nhanh,” ông ta nói. “Trong này ấm áp và thoải mái. Đừng đứng ngoài trời lạnh. Tên cháu là gì?”

Chất giọng cho thấy ông ta là người Anh, ông ta nói mà không nhấn trọng âm. Giọng ông phát ra giống một người nào đó cô đã gặp ở chỗ bà Coulter: lịch sự, học thức và quan trọng.

“Lizzie Brooks,” cô nói.

“Vào đi, Lizzie. Ở đây cháu sẽ được chăm sóc, không cần phải lo.”

Ông ta còn lạnh hơn cả cô, dù cô đã ở ngoài trời lâu hơn khối thời gian. Ông ta sốt ruột muốn được sưởi ấm. Cô quyết định giả bộ chậm chạp, đần độn và khó bảo, kéo lê chân qua ngưỡng cửa cao để bước vào tòa nhà.

Có hai cánh cửa và một không gian rộng rãi giữa chúng nên hơi ấm không bị thoát nhiều ra ngoài. Khi họ đi qua cánh cửa bên trong, Lyra cảm thấy ngột ngạt trong hơi nóng dường như không thể chịu nổi. Cô phải mở khuy chiếc áo khoác lông thú và lật chiếc mũ trùm đầu ra sau.

Họ đang ở một nơi rộng khoảng tám mét vuông, với những hành lang bên trái, bên phải và phía trước có một chiếc bàn theo kiểu tiếp tân trong bệnh viện. Mọi thứ đều được chiếu sáng rực rỡ với những tia sáng ánh lên từ bề mặt trắng bóng và thép không gỉ. Có mùi thức ăn trong không khí, những đồ ăn quen thuộc, thịt nguội và cà phê, ẩn sau đó là mùi thuốc ở bệnh viện khiến người ta cảm thấy chóng mặt. Vang lên từ những bức tường xung quanh là những thanh âm rì rầm, gần như rất nhỏ khó thể nghe thấy, loại âm thanh người ta phải tập cho quen nếu không muốn phát điên.

Pantalaimon đứng sát bên tai cô, nó đã biến thành chim kim tước và thì thầm. “Hãy giả bộ ngớ ngẩn, đần độn. Phải tỏ ra thật chậm chạp, ngây ngô.”

Những người lớn đang nhìn xuống cô: người đàn ông dẫn cô vào, một người khác mặc áo khoác trắng, một người phụ nữ diện đồng phục y sĩ.

“Người Anh,” người đàn ông đầu tiên nói. “Lái buôn, hình như thế.”

“Vẫn bọn đi săn cũ? Vẫn câu chuyện thường lệ?”

“Cùng bộ tộc đó thôi, tôi chỉ có thể nói vậy. Y tá Clara, cô trông nom cô bé được chứ?”

“Tất nhiên, thưa bác sĩ. Đi với ta nào, cô bé.” Người y tá nói, Lyra ngoan ngoãn theo sau.

Họ đi dọc một hành lang ngắn với những cánh cửa bên tay phải và một phòng ăn bên trái, từ đó vọng ra tiếng dao nĩa lanh canh, những giọng nói, và nhiều mùi thức ăn khác nữa. Người y tá cũng tầm tuổi bà Coulter, Lyra phỏng đoán, người bà ta tỏa ra mùi xà phòng, nhanh nhẹn và gọn gàng, bà ta có thể băng bó vết thương hay thay băng nhưng chẳng bao giờ biết kể chuyện cho trẻ con nghe. Nhân tinh của bà ta (trong một lúc thật kỳ lạ Lyra cảm thấy ớn lạnh khi nhìn nó) là một con chó trắng (và một lúc sau cô lại thắc mắc không hiểu sao nó lại lành cô ớn lạnh).

“Tên cháu là gì, cưng?” Người y tá hỏi, mở một cánh cửa nặng nề ra.

“Lizzie.”

“Chỉ mỗi Lizzie thôi?”

“Lizzie Brooks.”

“Cháu bao nhiêu tuổi?”

“Mười một.”

Lyra thường nghe mọi người nói cô trông nhỏ hơn so với tuổi, bất kể điều đó có nghĩa là gì. Nó chẳng bao giờ khiến cô phải chú trọng đến, nhưng giờ cô nhận ra mình có thể tận dụng để biến Lizzie trở thành một cô bé nhút nhát, lo lắng và mờ nhạt.

Cô đã nửa trông chờ câu hỏi cô từ đâu đến, đi bằng gì, và đã chuẩn bị câu trả lời; mà nếu vị y tá có thiếu trí tưởng tượng, vẫn còn có tính tò mò của con người. Bolvangar có lẽ nằm ở những vùng ngoại ôLondon, và bọn trẻ có lẽ vẫn đi lại suốt, đó là tất cả những gì mà y tá Clara tỏ ra bận tâm. Con nhân tinh bé nhỏ của bà chạy tung tăng bên chân, cũng nhanh nhẩu và rỗng tuếch giống chủ.

Căn phòng họ đi vào có một chiếc ghế dài, một chiếc bàn, hai chiếc ghế tựa, một chiếc tủ nhiều ngăn, một tủ búp phê đựng thuốc, bông băng và một chiếc chậu rửa mặt. Ngay khi họ đi vào phòng, người y tá cởi chiếc khoác ngoài của Lyra, vứt nó lên sàn nhà sáng bóng.

“Thay đồ và nghỉ ngơi một chút đi cưng,” bà ta nói. “Chúng ta sẽ săn sóc một chút để cháu tươi tắn và khỏe mạnh, không tê cóng lẫn sổ mũi, rồi sẽ tìm một ít quần áo sạch đẹp. Còn có cả tắm vòi sen.” Bà nói thêm, vì Lyra đã không thay trang phục hay tắm táp trong nhiều ngày liền, và trong hơi ấm đang tràn ngập xung quanh này, điều đó càng lúc càng trở nên hiển nhiên hơn.

Pantalaimon đập cánh lia lịa để phản đối, nhưng Lyra dẹp yên nó bằng một cái quắc mắt. Nó đứng trên chiếc ghế dài trong khi từng chiếc mảnh áo quần của Lyra được cởi ra, trước sự ấm ức và ngượng ngùng của cô. Nhưng cô vẫn ý thức được để che đậy nó lại, thể hiện ra là mình ngờ nghệch và biết nghe lời.

“Cả dải rút đựng tiền này nữa, Lizzie.” Bà y tá nói rồi từ mình cởi nó ra với những ngón tay rất khỏe. Bà ta định thả nó xuống sàn nhà cùng đám quần áo, nhưng dừng lại khi chạm trúng với cạnh gờ của Chân-kế.

“Cái gì thế này?” Bà ta hỏi và cởi tấm bọc ra.

“Chỉ là một loại đồ chơi,” Lyra nói. “Của cháu đấy ạ.”

“Được rồi, chúng ta sẽ không lấy của cháu đi đâu, cưng,” y tá Clair nói, nhìn vào chiếc máy. “Nó thật là đẹp, phải không, trông như một cái la bàn. Giờ ta sẽ vào tắm cho cháu.” Bà tiếp tục, đặt chiếc Chân-kế xuống và gạt qua tấm màn nhung xám đen ở góc phòng.

Lyra ngần ngại ngâm mình xuống làn nước ấm và tự xát xà phòng trong khi Pantalaimon đậu trên chiếc trục màn che. Cả hai đều nhận thức rõ nó không được quá hiếu động, vì nhân tinh của những người ngu ngơ cũng ngu ngơ như thế. Khi cô đã tắm và lau khô người xong, bà y ta một đo nhiệt độ cho cô, khám mắt, tai, cổ họng, và đo chiều cao, rồi đặt cô lên cân trước khi ghi chép vào một chiếc bảng kẹp. Sau đó bà đưa cho Lyra quần áo mặc trong nhà và áo khoác. Chúng rất tươm tất, chất lượng tốt, giống chiếc áo khoác của Tony Makarios, nhưng vẫn là có hơi hướng của quần áo đã dùng qua rồi. Lyra cảm thấy rất khó chịu.

“Đây không phải quần áo của cháu,” cô nói.

“Đúng vậy, cưng à. Quần áo của cháu cần được mang đi giặt thật sạch.”

“Thế cháu sẽ được nhận lại quần áo của mình chứ?”

“Cô cho là thế. Tất nhiên là có rồi.”

“Nơi này là đâu?”

“Nó được được gọi là Trạm thử nghiệm.”

Đó không phải là một câu trả lời. và nếu mà cô là Lyra thì cô sẽ chỉ ra điều đó, và hỏi thêm thông tin, nhưng cô không nghĩ Lizzie sẽ làm thế. Cho nên cô cứ lẳng lặng nghe theo và không hỏi thêm nữa.

“Cháu muốn lấy lại đồ chơi của cháu,” cô nói với vẻ ngang ngạnh trong lúc bà y tá đang thay quần áo cho mình.

“Cầm đi, cưng,” bà nói. “Cháu tốt hơn là nên có một con gấu bông xinh xắn chăng? Hay một con búp bê đẹp đẽ cũng được?”

Bà ta mở một ngăn kéo trong đó những đồ chơi bằng vải nằm im lìm. Lyra cố đứng và giả bộ chọn lựa một lúc trước khi nhặt một con búp bê nhồi vải bị thiếu mất một mắt. Cô chưa từng có con búp bê nào, nhưng cô biết phải làm gì với nó, cô áp chặt nó vào ngực.

“Thế còn cái túi dải rút để tiền của cháu thì sao?” cô hỏi. “Cháu muốn cất đồ chơi vô đó.”

“Vậy cháu lấy lại đi, cưng,” y tá Clara nói, điền thông tin vào một tờ giấy màu hồng.

Lyra kéo bộ quần áo mặc trong nhà lạ lẫm lên và thắt chiếc túi may bằng vải dầu quanh bụng.

“Thế còn áo khoác và ủng của cháu?” cô hỏi, “bao tay và những thứ khác nữa?”

“Chúng ta sẽ giặt sạch nó cho cháu,” bà y tá trả lời như một cái máy.

Có tiếng chuông điện thoại reo lên, và trong khi bà trả lời, Lyra cúi rạp xuống mò tìm chiếc hộp thiếc khác, chiếc hộp chứa sinh vật do thám bay, rồi để nó vào chiếc túi cùng chỗ với Chân-kế.

“Đi thôi, Lizzie,” bà nói, đặt ống nghe xuống. “Chúng ta sẽ đi tìm thứ gì đó cho cháu ăn, ta đoán cháu đã đói rồi.”

Cô đi theo y tá Clara đến phòng ăn, trong đó có mười hai chiếc bàn tròn màu trắng. Đĩa và dao bẩn được xếp vào một chiếc xe đẩy. Không có cửa sổ, vì thế để tạo cảm giác có ánh sáng và không gian, trên tường treo một bức ảnh chụp rất lớn cảnh bãi biển nhiệt đới, với bầu trời xanh rạng rỡ, cát trắng vã những cây cọ dừa.

Người đàn ông dẫn cô vào đang lấy một chiếc khay từ chỗ quầy phục vụ.

“Ăn đi,” ông ta nói.

Không việc gì phải để mình chết đói, vì thế cô ăn món thịt hầm và khoai tây nghiền cùng gia vị. Có một bát đào đóng hộp và kem để ăn sau đó. Trong khi cô ăn, người đàn ông và bà y tá trao đổi nhanh với nhau ở một chiếc bàn khác. Đợi cho cô ăn nhanh xong, bà y tá mang đến cho cô một cốc sữa nóng rồi mang chiếc khay đi.

Người đàn ông đến ngồi đối diện với cô. Con nhân tinh của ông ta, con mác-mốt (marmot). không bắng nhắng và rỗng tuếch như con chó của bà y tá ngồi từ tốn trên vai chủ, quan sát và lắng nghe.

“Sao rồi, Lizzie,” ông nói. “Cháu đã ăn no chưa?”

“Rồi ạ, cảm ơn ông.”

“Ta muốn cháu nói cho ta biết cháu đến từ đâu. Cháu chịu không?”

“London,” cô nói.

“Cháu làm gì ở tít trên phía bắc xa xôi này?”

“Cháu đi với cha cháu,” cô lúng búng. Cô cụp mắt xuống, tránh cái nhìn của con mác-mốt và cố giả vờ là mình sắp khóc đến nơi.

“Với cha cháu à? Ta hiểu rồi. Vậy ông ấy làm gì ở tận đây?”

“Buôn bán ạ. Nhà cháu đi với một lô hàng lá thuốc từ Tân Đan Mạch và sẽ thu mua lại lông thú.”

“Cha cháu đi một mình thôi à?”

“Không. Còn có các chú của cháu và những người khác nữa,” cô nói lơ đãng, không biết rằng người thợ săn Samoyed đã kể cho ông ta nghe.

“Tại sao ông ấy đưa cháu đi cùng trong một chuyến đi như thế này, Lizzie?”

“Vì hai năm trước cha đã cho anh cháu đi cùng và nói lần sau sẽ đến lượt cháu, nhưng cứ lẫn lữa mãi. Tại cháu cứ liên tục nhắc lại cho nên lần này cha đã chịu cho cháu theo.”

“Thế cháu nhiêu tuổi rồi?”

“Mười một.”

“Tốt lắm, tốt lắm, Lyra, cháu là một cô bé may mắn đấy. Những người đi săn tìm được cháu đã đưa cháu đến nơi tốt nhất cháu có thể đến rồi đấy.”

“Không phải họ tìm được cháu. Có một trận đánh nhau. Họ có rất nhiều người và mang cả cung tên…”

“Ồ, ta không nghĩ thế đâu. Ta nghĩ chắc cháu đã đi xa khỏi cả đoàn của cha cháu rồi bị lạc đường. Những người thợ săn đó tìm thấy cháu đang chỉ có một mình và mang cháu thẳng tới đây. Chuyện là thế đấy, Lizzie ạ.”

“Cháu nhìn thấy có một trận chiến,” cô nói. “Họ bắn tên và thế là… Cháu muốn gặp cha cháu,” cô nói to hơn bắt đầu khóc.

“Được rồi, cháu sẽ an toàn ở đây đến khi cha cháu đến,” ông bác sĩ nói.

“Nhưng cháu đã nhìn thấy họ bắn tên!”

“À, cháu nghĩ vậy thôi. Chuyện này thường xảy ra trong thời tiết quá lạnh giá, Lizzie ạ. Cháu ngủ thiếp đi và gặp ác mộng nên không nhớ rõ đâu thật đâu mơ. Cháu đừng lo, đó không phải là một trận chiến,. Cha cháu vẫn an toàn khỏe mạnh và đang tìm cháu. Ông ấy sẽ đến đây sớm thôi, vì đây là tòa nhà duy nhất trong vùng này, cháu thấy đấy, ông ấy sẽ ngạc nhiên đến thế nào khi tìm thấy cháu an toàn và lành lặn tại đây! Giờ y tá Clara sẽ đưa cháu về ký túc xá, ở đó cháu sẽ gặp những cô bé và cậu bé khác bị lạc nơi hoang vắng giống như cháu. Cháu đi đi nhé. Chúng ta sẽ nói chuyện với nhau thêm vào sáng mai.”

Lyra đứng lên, ôm chặt con búp bê, và Pantalaimon đứng trên vai cô khi người y tá mở cửa dẫn họ ra ngoài.

Lại thêm những dãy hành lang khác, giờ thì Lyra đã thấm mệt và muốn ngủ nên cô cứ ngáp dài, khó lòng nhấc nổi chân trên đôi dép đi trong nhà người ta đưa cho cô. Pantalaimon đang gục xuống, nó phải biến thành một con chuột và nằm trong túi áo khoác của cô. Lyra có ấn tượng về những dãy giường, những khuôn mặt trẻ con, một chiếc gối, và sau đó cô chìm vào giấc ngủ.

*

* *

Có ai đó đang lay lay cô. Điều đầu tiên cô làm là lần lên hông. Cả hai thứ vẫn còn nguyên, vẫn an toàn, vì thế cô cố gắng nâng mắt, nhưng thật khó làm sao. Cô chưa bao giờ thấy buồn ngủ đến thế.

“Dậy đi! Dậy đi!”

Đó là một tiếng thì thầm hơn là tiếng gọi. Với một nỗ lực ghê gớm, như thể vác một tảng đá leo lên dốc, Lyra bắt mình phải tỉnh dậy.

Trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn vặn rất nhỏ treo ở cửa sổ nhìn thấy ba cô bé nữa đang vây quanh mình. Vẫn còn đang lờ mờ nhìn chúng vì mắt cô tập trung rất chậm, nhưng có vẻ chúng cùng độ tuổi với cô, và nói tiếng Anh.

“Bạn ấy tỉnh lại rồi.”

“Bọn họ đã cho nó uống thuốc ngủ. Chắc là…”

“Tên cậu là gì?”

“Lizzie,” Lyra ậm ừ.

“Có cả một đoàn trẻ con nữa vừa đến phải không?” một trong số các cô bé hỏi.

“Không biết. Chỉ mỗi mình thôi.”

“Vậy họ đưa cậu đến từ đâu?”

Lyra cố gắng ngồi dậy. Cô không nhớ là mình đã uống thuốc ngủ, nhưng có thể có gì đó trong cốc sữa cô đã uống. Đầu cô quay cuồng và phía dưới mắt đau giần giật.

“Đây là đâu?”

“Chẳng đâu cả. Họ không chịu nói cho tụi mình biết.”

“Thường thì mỗi lần họ không chỉ đưa đến một đứa bé…”

“Họ làm gì ở đây?” Lyra gắng hỏi, gom góp lại suy nghĩ trong khi Pantalaimon cũng đang cố tỉnh tảo lại.

“Chúng mình cũng không biết,” cô bé nãy giờ hỏi nhiều nhất lên tiếng. Cô bé có dáng người cao, tóc đỏ, điệu bộ láu táu và giọngLondonrất nặng. “Họ đo đạc trên người tụi mình và làm các bài kiểm tra và…”

“Họ đo Bụi,” một cô bé khác trông thân thiện, tròn trĩnh và có mái tóc màu tối nói.

“Cậu không biết đâu,” cô bé đầu tiên nói.

“Họ làm chuyện đó đấy,” cô bé thứ ba lên tiếng, một cô bé vẻ mặt nhường nhịn đang vuốt ve con nhân tinh thỏ. “Mình nghe họ nói chuyện với nhau như vậy.”

“Rồi họ đưa chúng mình đi từng người từng người một và đó là tất cả những gì mình biết. Chẳng có ai quay trở lại cả,” cô bé tóc đỏ nói.

“Đúng rồi, có một cậu bé ở đây,” cô bé mũm mĩm tiếp. “Cậu ấy đoán—”

“Khoan hẵng kể cho bạn ấy nghe!” cô bé tóc đỏ ngắt lời. “Chưa tới lúc.”

“Còn có các bạn nam ở đây nữa à?” Lyra hỏi.

“Có. Chúng mình ở đây có rất nhiều người. Khoảng ba mươi, đoán thế.”

“Nhiều hơn đấy,” cô bé mũm mĩm nói, “khoảng bốn mươi.”

“Họ liên tục đưa bọn mình đi,” cô tóc đỏ nói. “Họ thường bắt đầu bằng cách đưa tất cả đến đây, có rất nhiều bạn như bọn mình, và rồi từng người từng người biến mất.”

“Họ là bọn Gà trống tây đấy,” cô bé mũm mĩm nói. “Cậu biết bọn Gà trống tây không? Tất cả bọn mình đều sợ chúng cho đến khi bị chúng bắt…”

Lyra dần minh mẫn lại. Những nhân tinh của các cô bé, ngoại trừ con thỏ đang tụm lại với nhau ở gần cửa nghe ngóng, không ai nói to hơn mức thì thầm. Lyra hỏi tên mọi người. Cô bé tóc đỏ tên là Annie, cô bé mũm mĩm tóc màu tói tên Bella, còn cô bé gầy gò tên Martha. Họ không biết tên các cậu bé, vì hầu hết thời gian các bé trai và bé gái bị tách ra. Bọn trẻ không bị đối xử tệ cho lắm.

“Ở đây cũng tốt,” Bella nói, “không có nhiều chuyện phải làm, ngoại trừ họ đưa cho tụi mình những bài kiểm tra và bắt tụi mình làm bài tập, rồi họ đo đạc trên người tụi mình, đo nhiệt độ cơ thể rồi cho uống thuốc. Thật là nhàm chán.”

“Ngoại trừ khi bà Coulter đến,” Annie nói.

Lyra phải cố ghìm để không kêu to lên, còn Pantalaimon thì đập cánh rối rít đến nỗi các cô bé thấy ngạc nhiên.

“Nó đang lo lắng ấy mà,” Lyra nói và vuốt ve nó. “Chắc họ đã cho bọn mình uống thuốc ngủ, như các bạn đã nói, bởi vậy cả hai bọn mình đều cảm thấy buồn ngủ vô cùng. Mà bà Coulter là ai vậy?”

“Bà ấy là người đã bẫy chúng tớ, gần như là tất cả,” Martha nói. “Những bạn khác đều nói về bà. Khi bà ấy đến, mọi người biết sẽ có vài bạn sắp sửa biến mất.”

“Bà ấy thích quan sát những đứa trẻ, khi người ta đưa tụi mình đi, bà ấy thích nhìn việc người ta làm với tụi mình. Cậu bạn Simon ở đây, cậu ấy đoán họ giết những đứa trẻ, còn bà Coulter thì đứng xem.”

“Họ giết bọn mình á?” Lyra kêu lên, rùng mình.

“Chắc là thế. Vì chẳng có ai quay về cả.”

“Họ còn làm gì đó với những con nhân tinh nữa,” Bella nói. “Cân, đo chúng và mọi việc…”

“Họ chạm vào các con nhân tinh?”

“Không! Lạy Chúa! Họ đặt những chiếc cân ở đó và nhân tinh của cậu phải trèo lên rồi thay đổi hình dạng. Họ ghi chép và chụp ảnh. Họ cho bạn vào một căn phòng và đo Bụi, suốt ngày như vậy, chẳng bao giờ họ thôi không đo đạc Bụi cả.”

“Bụi nào?” Lyra hỏi.

“Tụi mình không biết,” Annie nói. “Chỉ là thứ gì đó trong không gian. Không phải bụi thực. Nếu bạn không có tí Bụi nào, như thế sẽ ổn. Nhưng rốt cuộc thì ai cũng vẫn sẽ có mang Bụi thôi.”

“Cậu có biết mình nghe Simon nói gì không?” Bella hỏi. “Cậu ấy nói người Tartar đục những cái lỗ trên đầu để cho Bụi vào.”

“Ừa, cậu ta có lẽ biết đấy,” Annie nói với giọng khinh bỉ. “Mình nghĩ mình sẽ hỏi bà Coulter khi bà ấy đến đây.”

“Cậu sẽ không dám đâu,” Martha nói, vẻ thán phục.

“Dám chứ.”

“Bao giờ bà ấy đến?” Lyra hỏi.

“Ngày kia,” Annie trả lời.

Một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng Lyra, Pantalaimon nép sát vào người cô. Cô chỉ có một ngày để tìm Roger và khám phá tất cả những gì có thể về nơi này, và tính xem nên trốn thoát hay đợi người đến cứu. Nếu tất cả nhóm người Gypsy đã bị giết, ai sẽ giúp bọn trẻ sống sót được trong vùng hoang dã lạnh lẽo này?

Những cô bé khác tiếp tục nói chuyện, nhưng Lyra và Pantalaimon nằm rúc sâu trong chăn, cố gắng làm cho mình ấm lên, nhận thức được rằng hàng trăm dặm toàn bộ xung quanh chiếc giường bé nhỏ của cô không còn gì ngoài nỗi sợ hãi.

Chương 15: Những chiếc lồng Nhân tinh

Chán chường không phải là phong cách của Lyra. Cô là một đứa bé lạc quan và thực tế, thêm nữa, cô không giàu trí tưởng tượng. Không có người giàu trí tưởng tượng nào lại nghĩ một cách nghiêm túc là có thể làm tất cả những chuyện này để cứu người bạn Roger của mình; hay, nếu có nghĩ thế, một đứa bé có trí tưởng tượng phong phú sẽ ngay lập tức nghĩ ra rất nhiều lý do chứng minh chuyện đó là không thể. Là một kẻ nói dối giàu kinh nghiệm không có nghĩa là sẽ có trí tưởng tượng phong phú. Nhiều người giỏi nói dối không hề có trí tưởng tượng; chính điều đó lại khiến những lời nói dối của họ trở nên thuyết phục đến mức người nghe phải mở to mắt vì ngạc nhiên.

Vậy là giờ cô đang nằm trong tay của Ủy ban Tôn giáo. Lyra không tự giày vò mình trong nỗi sợ hãi điều gì đã xảy đến với những người Gypsy. Họ đều là những chiến binh dũng cảm, và dù Pantalaimon nói nó đã chứng kiến John Faa bị bắn, có thể nó đã nhìn nhầm, mà nếu nó không nhìn nhầm, vẫn có khả năng vết thương của John Faa không đến nỗi nghiêm trọng. Thật không may khi cô lại rơi vào tay bọn người Samoyed, nhưng có thể những người Gypsy sẽ sớm tới giải cứu cho cô, và nếu họ không tìm được cách, chẳng có gì có thể ngăn cản Iorek Byrnison đưa cô ra ngoài, rồi sau đó họ sẽ bay đến Svalbard bằng khinh khí cầu của Lee Scoresby và cứu Ngài Asriel.

Trong tâm trí cô, mọi chuyện chỉ đơn giản như vậy.

Vì thế buổi sáng hôm sau, khi thức giấc trong ký túc xá, cô cảm thấy tò mò và sẵn sàng đương đầu với bất cứ điều gì ngày hôm đó mang lại. Cô nóng lòng muốn gặp Roger—đặc biệt là điều đó, nóng lòng muốn gặp cậu trước khi cậu nhìn thấy cô.

Cô không phải đợi lâu. Bọn trẻ trong ký túc xá khác được người y tá trông nom chúng đánh thức dậy lúc bảy giờ rưỡi. Chúng đánh răng rửa mặt, mặc quần áo và đi đến phòng ăn sáng cùng những đứa ở phòng khác.

Và trong số đó có Roger.

Cậu đang ngồi cùng năm cậu bé khác ở chiếc bàn ngay gần cửa. Cô đứng xếp hàng ngay phía sau cậu, cô có thể giả bộ đánh rơi chiếc khăn tay rồi cúi nhặt, cúi thấp người gần sát ghế cậu, như thế Pantalaimon có thể nói chuyện với Salcilia, nhân tinh của Roger.

Salcilia đang trong hình dáng chim mai hoa, nó vỗ cánh mạnh đến nỗi Pantalaimon phải biến thành một con mèo vồ lấy nó, giữ chặt nó xuống để nói thầm. Những cuộc chiến hay xô đẩy vô hại như vậy giữa các nhân tinh là rất bình thường, có điều mặt Roger ngay lập tức tái đi, may mà không ai chú ý đến. Lyra chưa từng thấy mặt ai trắng bệch đến thế. Cậu nhìn lên ánh mắt dửng dưng như không của cô, rồi màu hồng trở lại hai gò má trong khi cậu tràn ngập hi vọng sung sướng và vui vẻ. Chỉ có Pantalaimon đang ghì chặt Salcilia là có thể ngăn Roger hét to và nhảy lên đề chào đón người bạn nối khố tạiJordan.

Lyra nhìn đi chỗ khác, giả bộ dửng dưng hết mức có thể, và lướt ánh mắt về những người bạn mới, để phần giải thích lại cho Pantalaimon. Bốn cô bé lấy khay thức ăn đựng bánh bột ngô, bánh mì nướng và ngồi cùng nhau thành một nhóm thân thiết, để ngăn chặn bất cứ người nào khác xì xầm về chúng.

Không thể giữ một nhóm nhiều trẻ con ở một chỗ lâu nếu không có nhiều việc cho chúng làm. Theo một cách nào đó, Bolvangar được tổ chức như một trường học, với những hoạt động được lên lịch như thể dục hay “nghệ thuật”. Các cậu bé và cô bé được tách riêng trừ những lúc nghỉ giữa giờ và các bữa ăn. Phải đợi đến giữa buổi sáng, sau một tiếng rưỡi học khâu vá do một trong các y tá dạy, Lyra mới có cơ hội nói chuyện với Roger. Nhưng thật khó để giả như không có chuyện gì xảy ra. Tất cả bọn trẻ ở đó gần như cùng tuổi hay hơn kém không nhiều. đó là độ tuổi con trai chỉ nói chuyện với con trai, con gái chỉ nói chuyện với con gái, bên nào cũng tỏ thái độ không thèm quan tâm đến bên kia.

Cô nhận thấy cơ hội đến khi ở lại trong phòng ăn, khi bọn trẻ vào để uống và ăn nhẹ. Lyra cử Pantalaimon, trong hình dạng một con ruồi để đến nói chuyện với Salcilia ở bức tường bên cạnh bàn của họ trong khi cô và Roger giữ im lặng trong hai nhóm bạn riêng của mình. Rất khó nói chuyện trong khi sự quan tâm của con nhân tinh của bạn đang ở một nơi nào đó, vì thế Lyra làm bộ cau có và khó chịu trong khi uống sữa cùng các cô bạn khác. Một nửa tâm trí cô đang dồn vào cuộc nói chuyện vo ve giữa hai con nhân tinh, cô cũng không thực sự lắng nghe, nhưng một phần cô đang nghe một cô bé khác có mái tóc vàng nói đến cái tên khiến cô đứng bật dậy.

Đó là tên Tony Makarios. Khi sự chú ý của Lyra hướng về phía đó, Pantalaimon buộc phải giảm tốc độ nói chuyện với nhân tinh của Roger, cả hai lắng nghe lời cô bé kia nói.

“Không, mình biết tại sao họ lại chọn cậu ấy.” Cô nói, khi những mái đầu chụm lại gần. “Đó là vì nhân tinh của cậu ấy không thay đổi hình dạng. Họ nghĩ cậu ấy nhiều tuổi hơn vẻ bề ngoài, hay mức tuổi họ dự đoán, và cậu ấy là một đứa trẻ không bình thường. Nhưng đúng là nhân tinh của cậu ấy rất hiếm khi thay đồi hình dạng vì chính Tony rất ít khi suy nghĩ nhiều về bất cứ chuyện gì. Mình đã từng thấy nó thay đổi. Tên nó là Ratter…”

“Tại sao họ lại quan tâm nhiều đến những con nhân tinh như vậy?” Lyra hỏi.

“Không ai biết tại sao cả.” Cô bé tóc vàng nói.

“Mình biết đấy.” Một cậu bé đang nghe chuyện nói. “Việc họ làm là giết nhân tinh của chúng ta rồi xem chúng ta có chết không?”

“Nếu vậy tại sao họ phải thử đi thử lại như vậy với nhiều đứa trẻ?” Ai đó hỏi. “Họ chỉ cần làm một lần thôi, phải vậy không?”

“Mình biết họ làm gì” Cô bé đầu tiên nói.

Giờ thì mọi sự chú ý đều dồn vào cô bé. Nhưng vì chúng không muốn những người phục vụ biết chúng đang nói đến chuyện gì, bọn trẻ phải giả bộ thản nhiên, bình thường trong khi căng tai nghe đầy vẻ tò mò.

“Như thế nào?” Ai đó hỏi.

“Vì lúc đó mình đang đứng gần cậu ấy khi họ đến tìm. Chúng mình đang ở trong phòng để vải.” Cô kể.

Mặt cô bé đỏ bừng. Nhưng nếu sợ mọi người chê nhạo và chòng ghẹo thì cô đã không kể rồi. Tất cả bọn trẻ chú ý cao độ, thậm chí không có đứa nào cười.

Cô bé tiếp tục. “Chúng mình đang im lặng thì bà y tá đi vào, bà có giọng nói nhỏ nhẹ ấy. Bà ấy nói, ‘ra đây nào, Tony, ta biết cháu đang ở đây, ra đây đi, chúng ta không làm cháu đau đâu…’ Và cậu ấy hỏi, ‘Có chuyện gì vậy?’ Bà ấy lại nói, ‘Chúng ta chỉ đưa cháu đi ngủ, và làm một phẫu thuật nhỏ, sau đó cháu sẽ lại tỉnh dậy, an toàn và khỏe mạnh.’ Nhưng Tony không tin lời bà ấy. Cậu ấy nói—”

“Những cái lỗ!” ai đó nói. “Họ đục một cái lỗ trên đầu bọn mình như những người Tartar! Mình cá đấy!”

“Im nào! Thế bà y tá còn nói gì nữa?” Ai đó nói chen vào.

Đến lúc đó, hàng chục đứa trẻ khác đã tụm lại chiếc bàn cô bé ngồi, những con nhân tinh cũng nóng lòng muốn biết chuyện như chủ, tất cả đều căng thẳng.

Cô bé tóc vàng nói tiếp. “Tony muốn biết họ sẽ làm gì với Ratter. Bà y tá nói, ‘À, nó cũng sẽ đi ngủ, giống hệt như cháu.’ Tony vặn lại, ‘Có phải bà sẽ giết nó không? Cháu biết bà sẽ làm như vậy. Tất cả chúng cháu đều biết chuyện sẽ diễn ra như vậy.’ Bà y ta nói, ‘Không, tất nhiên là không rồi. Ta chỉ làm một phẫu thuật nhỏ thôi. Chỉ là một ca mổ đơn giản. Thậm chí nó còn phải đau đớn. Nhưng chúng ta sẽ cho cháu đi ngủ để chắc chắn.’ “

Tất cả các căn phòng đã trở nên yên ắng. Người y tá giám sát đã đi ra ngoài, ô cửa dẫn vào phòng bếp đã đóng lại, nên không ai có thể nghe thấy những tiếng nói trong phòng.

“Mổ như thế nào?” Một cậu bé hỏi, giọng cậu nhỏ và sợ hãi. “Bà ta có nói là mổ như thế nào không?”

“Bà ấy chỉ nói, đó là cách làm cháu trở nên trưởng thành hơn. Bà ta nói tất cả mọi người đều cần phải trải qua việc này, đó là nguyên nhân tại sao nhân tinh của những người trưởng thành không thay đổi như nhân tinh của bọn mình. Vì thế họ phải mổ để khiến các nhân tinh ở vĩnh viễn một hình dạng, đó là cách chúng ta trưởng thành.”

“Nhưng…”

“Có phải thế có nghĩa là…”

“Cái gì? Mọi người lớn đều phải mổ sao?”

“Thế còn về…”

Đột nhiên tất cả những giọng nói im bặt như thể chính chúng bị mổ vậy, những đôi mắt hướng về phía cửa ra vào. Y tá Clara đang đứng đó, dịu dàng, từ tốn và hiện hữu, bên cạnh bà ta là một người đàn ông mặc áo choàng trắng. Lyra chưa gặp bao giờ.

“Bridget McGinn,” ông ta gọi.

Cô bé tóc vàng run rẩy đứng lên. Con nhân tinh sóc của cô bíu chặt vào lòng chủ.

“Vâng, thưa ông.” Cô bé nói, giọng lí nhí gần như không nghe thấy.

“Hãy uống hết thức uống và đi cùng y tá Clara.” Ông ta nói. “Những người còn lại quay trở về lớp học.”

Bọn trẻ ngoan ngoãn xếp cốc tách và chiếc xe đẩy trước khi rời khỏi phòng ăn trong im lặng. Không ai nhìn vào Bridge McGinn trừ Lyra, cô thấy mặt cô bé tóc vàng bừng lên vì sợ hãi.

Phần còn lại của buổi sáng dùng để luyện tập. Có một phòng tập thể dục trong khu Trạm, vì sẽ rất khó tập luyện ngoài trời giữa đêm Bắc cực dài đằng đẵng, từng nhóm bọn trẻ lần lượt vào đó tập luyện, dưới sự giám sát của một y tá. Chúng phải chia thành từng nhóm và ném bóng vòng quanh. Lúc đầu Lyra, người chưa từng chơi trò nào tương tự như thế trong đời, không thể hiểu nổi phải làm thế nào. Nhưng cô rất nhanh nhẹn, khỏe khoắn và là một trưởng nhóm có khả năng, cô nhanh chóng nhận thấy mình thích trò này. Những tiếng trẻ con la hét, tiếng hú và huýt của bọn nhân tinh tràn ngập phòng tập chật hẹp đã nhanh chóng làm tan biến những ý nghĩ lo sợ; và đó cũng chính xác là ý đồ của bài tập.

Vào giờ ăn trưa, khi bọn trẻ lại xếp hàng trong phòng ăn, Lyra thấy tiếng Pantalaimon líu ríu nhắc nhở, cô quay lại và thấy Billy Costa đứng ngay phía dưới.

“Roger nói với mình cậu đang ở đây.” Cậu thì thầm.

“Anh cậu đang đến, cả John Faa và những người Gypsy khác nữa,” cô nói “Họ sẽ đưa cậu về nhà.”

Cậu bé gần như hét lên vì sung sướng, nhưng rồi nén tiếng hét lại thành tiếng ho khan.

“Cậu phải gọi mình là Lizzie,” Lyra nói. “Đừng bao giờ gọi tên Lyra. Cậu cần phải kể cho mình tất cả những gì cậu biết, được chứ?”

Chúng ngồi cùng nhau, Roger ngồi bên cạnh. Việc này rất dễ khi vào giờ ăn trưa, bọn trẻ dành nhiều thời gian hơn để qua lại giữa các bàn và quầy phát thức ăn, hơn nữa phòng ăn rất đông. Trong tiếng khua dao nĩa lanh canh, Billy và Tony kể tất cả những chuyện chúng biết cho cô nghe. Billy nghe được từ một y tá rằng tất cả những đứa trẻ sau khi bị phẫu thuật sẽ bị đưa đến khu nhà xa hơn về phíaNam, điều này giải thích việc Tony Makarios lại thoát ra và đi lang thang như vậy. Nhưng Roger còn có thông tin thú vị hơn cho Lyra.

“Mình tìm thấy một nơi ẩn náu đấy.” Cậu nói.

“Cái gì cơ? Ở đâu?”

“Hãy nhìn vào bức ảnh này xem—” nó chỉ vào bức ảnh bờ biển nhiệt đới treo trên tường. “Nhìn vào góc phải bên trên, có thấy tấm ván trần đó không?”

Trần nhà được làm bằng những tấm ván hình chữ nhật đặt trên khung kim loại, một góc tấm ván phía trên bức tranh hơi vênh lên.

“Mình đã nhật thấy điều đó,” Roger nói, “và mình nghĩ có thể những tấm khác cũng thế, vì thế minh nhấc chúng lên, và tất cả đều có thể tháo rời ra. Chỉ việc nhấc lên thôi. Có một đêm, mình và một cậu nữa thử làm trong phòng ký túc xá của bọn mình, trước khi họ đưa cậu ấy đi. Có một khoảng không gian trong đó và có thể bò vào trong…”

“Cậu có thể bò đi bao xa trong trần nhà?”

“Mình không biết. Chúng mình chỉ bò một đoạn ngắn thôi. Chúng mình định bao giờ đến lúc sẽ trốn trong đó, nhưng có thể họ sẽ tìm thấy. “

Lyra nghĩ đó không phải là chỗ ẩn náu mà là một con đường. Đó là điều tốt đẹp nhất có được nghe từ lúc đến đây. Nhưng trước khi chúng có thể nói chuyện gì thêm, một bác sĩ đập bàn bằng một chiếc thìa và bắt đầu nói.

“Các em, chú ý,” ông ta nói, “hãy nghe này. Chúng ta thường xuyên có những buổi luyện tập phòng cháy chữa cháy. Một điều rất quan trọng là tất cả chúng ta cần mặc đủ quần áo và tìm đường chạy ra ngoài mà không bị hoảng loạn. Vì thế chúng ta sẽ có buổi thực hành phòng cháy vào chiều nay. Khi có tiếng chuông các em phải dừng bất cứ việc gì đang làm và làm theo điều người lớn gần nhất nói. Hãy nhớ kỹ nơi họ đưa các em đến. Đó là nơi các em phải đến nếu bị cháy thật.”

Lyra nghĩ, đây cũng là một ý hay.

Suốt phần thời gian đầu buổi chiều, Lyra và bốn cô bé kia bị kiểm tra với Bụi. Các bác sĩ không nói họ đang làm thế, nhưng điều này rất dễ đoán ra. Từng người một bị đưa đến phòng thí nghiệm, và tất nhiên việc này khiến tất cả chúng rất hoảng sợ. Sẽ thật là bất công, Lyra nghĩ, nếu cô biến mất mà không tống vào mặt họ một quả đấm! Nhưng có vẻ họ chưa dừng lại ở đó.

“Chúng ta muốn đo một số thống số.” Các bác sĩ giải thích. Rất khó nói rõ sự khác nhau giữa họ: tất cả những người đàn ông đều mặc áo khoác trắng và cầm bảng kẹp với bút chì, còn những người phụ nữ cũng giống nhau, bộ đồng phục và thái độ lặng lẽ ôn tồn kỳ lạ của họ khiến họ chẳng khác gì so với các nữ tu.

“Cháu đã được đo ngày hôm qua rồi.” Lyra nói.

“À, hôm nay chúng ta sẽ đo những mục khác. Hãy đứng lên chiếc đĩa kim loại, à, đầu tiên phải cởi giày ra đã. Giữ lấy con nhân tinh của cháu, nếu muốn. Nhìn về phía trước, thế, nhìn vào chiếc đèn nhỏ màu xanh lá cây. Giỏi lắm…”

Có thứ gì đó lóe lên. Người bác sĩ bảo cô quay mặt về phía sau, rồi sang trái, sang phải, cứ mỗi lần như thế lại có tiếng bấm máy và ánh đèn lóe lên.

“Tốt rồi. Giờ hãy đi đến chỗ chiếc máy này và đặt tay cháu vào trong chiếc ống. Không có gì làm cháu đau đâu, ta hứa đấy. Duỗi thẳng các ngón tay ra. Thế được rồi.”

“Ông đang đo gì vậy?” Lyra hỏi. “Có phải là Bụi không?”

“Ai nói với cháu về Bụi vậy?”

“Một bạn gái, cháu không biết tên bạn ấy. Bạn ấy nói tất cả chúng ta đều phủ đầy Bụi. Cháu không có bẩn, ít nhất cháu cũng không nghĩ là cháu bẩn. Hôm qua cháu tắm rồi.”

“Đó lại là một loại thứ Bụi khác. Cháu không thể nhìn thấy nó bằng mắt thường. Nó là một loại Bụi dặc biệt. Giờ thì nắm tay lại, đúng rồi. Tốt lắm. Cháu sẽ thấy xung quanh đấy có một nắm đầm, thấy chưa? Cháu hãy nắm vào đó, ngoan lắm. Giờ cháu có thể để tay kia sang chỗ này, đặt lên trên quả cầu bằng đồng. Được rồi. Tốt lắm. Cháu sẽ cảm thấy hơi râm ran, nhưng không có gì đáng lo đâu, chỉ là một dòng điện rất nhẹ thôi…”

Pantalaimon, trong hình dạng một con mèo hoang đang căng thẳng và lo sợ cứ lảng vảng xung quanh chiếc máy, ánh mắt lóe lên những ánh nghi hoặc, chốc chốc lại quay đầu dụi vào người Lyra.

Giờ thì cô đã chắc chắn họ vẫn chưa làm phẫu thuật trên người cô, và cũng chắc chắn việc giả danh Lizzie Brooks không bị lộ. Cô liều đặt một câu hỏi.

“Tại sao ông lại tách nhân tinh của mọi người ra?”

“Cái gì cơ? Ai nói với cháu như vậy?”

“Bạn gái đó, cháu không biết tên bạn ấy. Bạn ấy nói ông tách nhân tinh của mọi người ra.”

“Thật là ngớ ngẩn…”

Nhưng rõ ràng ông ta đã bị dao động. Cô tiếp tục.

“Bởi vì ông đưa từng bạn đi và họ chẳng bao giờ quay trở về cả. Có mấy bạn đoán ông đã giết họ, mấy bạn nữa lại nói khác, còn bạn gái này nói với cháu là ‘Ông ấy tách…’ “

“Toàn bộ đều không đúng. Khi chúng ta đưa những đứa trẻ đi, đó là vì đã đến lúc chuyển chúng sang một nơi khác. Chúng đang trưởng thành. Ta e là cô bạn của cháu đã quá lo lắng thôi. Không hề có những chuyện như vậy đâu! Đừng bao giờ có suy nghĩ như vậy. Cô bạn cháu tên là gì?”

“Cháu mới đến đây ngày hôm qua, cháu chưa biết tên ai cả.”

“Bạn ấy trông thế nào?”

“Cháu quên mất rồi. Cháu nghĩ bạn ấy tóc nâu… tóc nâu nhạt, có thể là như vậy… cháu không biết.”

Ông bác sĩ nói khẽ gì đó với người y tá. Trong khi hai người trao đổi, Lyra quan sát nhân tinh của họ. Nhân tinh của người y tá là một con chim duyên dáng, gọn gàng và nhí nhảnh giống con chó của y tá Clara, còn nhân tinh của ông bác sĩ là một con bướm đem rất to. Cả hai đều không động đậy. Chúng đang cảnh giác, vì đôi mắt con chim sáng lên và những chiếc tuy của con bướm đêm chỉ rung lên nhè nhẹ, nhưng chúng không có sinh khí như cô đã tưởng. Có thể chúng không thực sự lo lắng hay tò mò chuyện gì.

Giờ thì ông bác sĩ đã quay trở lại và họ tiếp tục cuộc kiểm tra. Ông ta cân Pantalaimon và Lyra riêng rẽ, nhìn Lyra qua một màn hình đặc biệt, đo nhịp tim, đặt cô dưới một chiếc vòi kêu rin rít và phì ra thứ mùi giống như không khí sạch.

Khi đến giữa một trong số các bài kiểm tra, một tiếng chuông lớn vang lên và cứ rung lên liên tục.

“Chuông báo cháy”, ông bác sĩ nói, thở dài. “Rất tốt, Lizzie, hãy đi theo y tá Belly.”

“Nhưng tất cả quần áo mặc ngoài trời của bọn trẻ lại để ở ký túc xá, thưa bác sĩ. Nó không thể ra ngoài trong tình trạng này được. Chúng ta có nên đến đó trước hay không?”

Ông bác sĩ đang bực bội vì cuộc thí nghiệm bị gián đoạn, bóp ngón tay một cách tức tối.

“Tôi nghĩ thứ này chỉ là một loại tập dợt cho có vậy thôi, “ông nói. “Đúng là ngớ ngẩn.”

“Hôm qua khi cháu đến đây,” Lyra lên tiếng, “y tá Clara để các thứ quần áo khác của cháu trong chiếc tủ ở căn phòng đầu tiên nơi bà ấy gặp cháu. Đó là căn phòng bên cạnh. Cháu mặc quần áo đó cũng được.”

“Ý tưởng hay đấy!” Bà y tá nói. “Vậy thì nhanh nhanh lên.”

Với một niềm sung sướng che dấu, Lyra hối hả theo sau người y tá và lấy lại áo khoác lông thú, tất quần và giày ống , nhanh chóng khoác chúng lên người trong khi người y ta cũng mặc một loại quần áo cho mình.

Rồi họ vội vã đi ra. Trong đấu trường rộng lớn phía trước tòa nhà đầu tiên, khoảng một trăm người, người lớn và trẻ con đang đi loanh quanh: người thì thích thú, người thì sợ hãi, rất nhiều người chỉ biết hoang mang bối rối.

“Thấy chưa?” Một người lớn nói. “Thật đáng phải làm điều này để xem chúng ta náo loạn đến mức nào khi ở trong một đám cháy thật sự.”

Có ai đó huýt sáo và vẫy tay, nhưng không ai để ý. Lyra nhìn thấy Roger và vẫy tay. Roger kéo tay Billy Costa, rất nhanh chóng cả ba đứa đã ở bên nhau trong đám trẻ con đang hỗn loạn.

“Sẽ chẳng có ai để ý việc bọn mình đi xung quanh xem xét đâu,” Lyra nói, “Họ sẽ mất hàng tiếng đồng hồ để đếm tất cả mọi người, và bọn mình có thể nói là chỉ đi theo ai đó rồi bị lạc.”

Chúng đợi cho đến khi mọi người lớn đều nhìn đi chỗ khác, rồi Lyra bốc một nắm tuyết, nặn thành một quả bóng tuyết nhỏ, ném hú họa vào đám đông. Ngay lập tức, tất cả bọn trẻ hòa vào trò chơi đó, và khắp nơi là những quả bóng tuyết đang bay. Những tiếng cười thét lên hoàn toàn át hẳn tiếng hét của những người lớn đang cố gắng dẹp trật tự, rồi ba đứa trẻ lẩn đi và thoát khỏi tầm nhìn của mọi người.

Lớp tuyết dưới chân dày đến nỗi chúng không thể đi nhanh nhưng có vẻ đó không phải là vấn đề, chẳng có ai đuổi theo phía sau cả. Lyra và các bạn bò qua chiếc mái uốn cong của một trong những đường hào và thấy mình đang ở giữa một cung trăng kỳ lạ được tạo nên bởi đầy những đống tuyết, tất cả đều như được phủ trắng dưới bầu trời tối đen và được chiếu sáng bằng ánh sáng hắt đến từ khoảng đất trống.

“Chúng mình đang tìm gì đây?” Billy hỏi.

“Không biết nữa. Chỉ xem xét thôi.” Lyra nói, cô dẫn đầu đi đến một khu đất, một tòa nhà hình vuông cách biệt một chút với phần còn lại, trong góc có một ngọn đèn vặn nhỏ.

Tiếng ồn ào hò hét sau lưng vẫn rất to, nhưng càng lúc càng xa. Rõ ràng bọn trẻ đang được hưởng tự do hết mức có thể. Cô đi xung quanh ngôi nhà vuông để tìm một ô cửa sổ. Mái nhà cách mặt đất khoảng hai mét, nhưng không giống những tòa nhà khác, nó không có đường hào lợp mái để nối liền với nơi khác của Trạm.

Không có cửa sổ, nhưng có một cửa ra vào. Một tấm biển trên có ghi: NGHIÊM CẤM VÀO bằng chữ màu đỏ.

Lyra đặt tay lên cánh cửa thử đẩy, nhưng trước khi cô kịp xoay nắm đấm, Roger nói, “Nhìn kìa! Một con chim! Hay là…”

Từ “Hay là…” của cậu là một sự nghi ngờ, vì sinh vật từ bầu trời lượn xuống không phải là một con chim, trước đây Lyra đã nhìn thấy nó.

“Con nhân tinh của bà phù thủy!”

Con ngỗng đập đôi cánh vĩ đại của mình, làm tung lên một lớp tuyết khi hạ cánh.

“Xin chào, Lyra,” nó nói. “Tôi đã theo cô bay đến đây, dù cô không nhìn thấy tôi. Tôi đã phải chờ cho đến khi cô đi ra ngoài. Chuyện gì đang xảy ra vậy?”

Cô nhanh chóng kể cho nó nghe.

“Những người Gypsy hiện đang ở đâu?” cô nói. “John Faa vẫn an toàn chứ? Họ có đánh thắng những người Samoyed không?”

“Hầu hết họ đều an toàn. John Faa bị thương, nhưng không nặng lắm. Những kẻ đưa cô đến đây là thợ săn và bọn thảo tặc thường rình cướp những đoàn người đi qua, vì họ có ít người nên có thể đi nhanh hơn cả một đoàn lớn. Những người Gypsy còn cách đây một ngày đường nữa.”

Hai cậu bé đang sợ hãi nhìn con nhân tinh ngỗng và thái độ thân thiết của Lyra với nó, vì tất nhiên hai cậu chưa từng thấy một con nhân tinh mà không có người chủ bên cạnh. Các cậu cũng không biết nhiều về các thủy thủ.

Lyra nói với chúng. “Nghe này, tốt hơn là các cậu hãy đi và trông chừng, được chứ. Billy, cậu đi ra đằng kia, còn Roger ra phía vừa nãy bọn mình đi qua. Chúng mình không có nhiều thời gian đâu.”

Hai cậu bé làm theo lời Lyra, rồi Lyra quay lại cái cửa.

“Tại sao cô lại định vào trong đó?” Con nhân tinh ngỗng hỏi.

“Vì những việc người ta làm ở trong này. Họ tách…” Cô hạ thấp giọng xuống. “Họ tách nhân tinh của con người ra. Của những đứa bé ấy. Và tôi nghĩ có thể họ làm việc đó ở trong này. Ít nhất, cũng có gì đó ở đây, tôi sẽ vào xem. Nhưng nó bị khóa rồi…”

“Tôi có thể mở được.” Con ngỗng nói, đập cánh một hay hai lần, ném tuyết vào cửa, khi nó làm thế, Lyra nghe thấy có tiếng quay ổ khóa.

“Đi vào cẩn thận nhé.” Con nhân tinh nói.

Lyra đẩy cửa và lẻn vào trong. Con nhân tinh ngỗng đi vào cùng cô. Pantalaimon đang bị kích động và hoảng sợ, nhưng nó không muốn con nhân tinh của bà phù thủy nhìn thấy sự sợ hãi của mình, vì thế nó bấu chặt lấy Lyra, trốn trong tấm áo lông thú của cô.

Ngay khi mắt Lyra đã quen với ánh đèn, cô hiểu ra mọi chuyện.

Bên trong một loạt các lọ thủy tinh để trên những chiếc giá, xung quanh tường là nhân tinh của những đứa trẻ bị chia tách: những con mèo, chim, chuột, hay những loài vật khác với vẻ khủng khiếp, con nào cũng hoảng hốt, sợ hãi và tái xám.

Con nhân tinh của bà phù thủy kêu lên một tiếng sợ hãi, Lyra ôm chặt Pantalaimon vào lòng và nói: “Đừng nhìn! Đừng nhìn!”

“Những đứa trẻ chủ của những con nhân tinh này ở đâu?” Con nhân tinh ngỗng run rẩy hỏi.

Lyra sợ hãi thuật lại cuộc gặp gỡ giữa cô và Tony Makarios bé nhỏ và nhìn lên những con nhân tinh đáng thương bị giam cầm đang gí sát khuôn mặt tái xám của chúng vào mặt thủy tinh. Lyra có thể nghe thấy những tiếng khóc nho nhỏ vì đau đớn và sợ hãi. Trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn thiếu dầu cô nhìn thấy một tấm biển ghi tên đặt trước mỗi lồng thủy tinh, và tất nhiên, có một lồng trống có tên Tony Makarios. Còn có bốn hay năm lồng trống vẫn còn đề tên như vậy.

“Tôi muốn thả những con vật đáng thương này ra!.” Cô nói với giọng phẫn nộ. “Tôi sẽ đập tan những cái lồng và thả chúng ra…”

Cô nhìn xung quanh để tìm thứ gì đó, nhưng nơi này trống trơn. Con nhân tinh ngỗng lên tiếng: “Đợi một chút.”

Nó là nhân tinh của một phù thủy, lớn tuổi hơn Lyra rất nhiều, cũng khỏe hơn cô nữa. Cô cần nghe theo lời nó.

“Chúng ta cần phải để những người đó nghĩ rằng ai đó quên khóa cửa và đóng lồng,” nó giải thích. “Nếu họ nhìn thấy những chiếc lồng bị đập vỡ và những dấu chân trên tuyết, cô nghĩ mình còn giả danh người khác được thêm bao lâu? Và việc này cần phải chờ cho đến khi đoàn người Gypsy đến. Giờ thì hãy làm chính xác theo những điều tôi bào: hãy lấy một nắm tuyết đầy, khi tôi bảo, hãy lần lượt ném vào mỗi lồng một ít.”

Cô chạy ra ngoài. Billy, và Roger vẫn đang canh chừng, vẫn có tiếng cười và tiếng hò hét vọng lại từ đấu trường, vì mới chỉ có khoảng một phút trôi qua.

Cô xúc lấy một ôm cả hai bàn tay thứ tuyết xốp và quay vào làm theo lời con ngỗng nói. Khi cô ném tuyết vào mỗi lồng, con nhân tinh ngỗng lại làm một tiếng kêu trong cổ họng, chiếc khóa trên mỗi lồng bật mở.

Khi cô đã mở được hết, cô nhấc chiếc lồng đầu tiên lên, bóng con vẹt nhợt nhạt rối rít bay ra, những ngã xuống sàn trước khi kịp cất cánh. Con ngỗng nhẹ nhàng cúi xuống xốc nó lên bằng đầu cánh, con vẹt biến thành chuột, lảo đảo và luống cuống. Pantalaimon trườn xuống để đỡ nó.

Lyra làm việc thật nhanh, chỉ trong vòng mấy phút, tất cả đám nhân tinh đã được thả ra. Mấy con cố gắng nói, chúng tụm lại quanh chân cô, thậm chí còn giật cả tất của cô, dù sự cấm kỵ không cho phép chúng làm thế. Cô có thể hiểu tại sao: chúng nhớ hơi ấm từ cơ thể con người. Giống như Pantalaimon, chúng cũng mong được áp sát vào trái tim con người.

“Nào, nhanh lên.” Con ngỗng nói, “Lyra, cô phải quay lại và hòa vào với những người Gypsy đang đến đây nhanh hết mức có thể. Tôi phải giúp những con nhân tinh tội nghiệp này tìm thấy chủ của chúng…” Nó đến gần hơn và khẽ nói. “nhưng họ sẽ chẳng bao giờ trở lại với nhau được đâu. Họ đã bị chia tách vĩnh viễn. Đây là việc độc ác nhất tôi từng thấy… Hãy xóa những dấu chân cô tạo ra. Tôi sẽ che chở cho chúng. Nhanh lên nào…”

“Ôi, làm ơn! Trước khi đi hãy cho tôi hỏi đã! Các phù thủy… Họ bay được, phải không? Tôi đã không mơ khi nhìn thấy họ bay đêm hôm nọ?”

“Đúng vậy, cô bé, thế thì sao?”

“Họ có kéo được một chiếc khinh khí cầu không?”

“Hoàn toàn được, nhưng…”

“Serafina Pekkala cũng sẽ đến chứ?”

“Đây không phải là lúc để giải thích những quy định trong cộng đồng phù thủy. Có rất nhiều những thế lực ghê gớm tham dự vào chuyện này và Serafina Pekkala phải bảo vệ lợi ích của bộ tộc mình. Nhưng có thể điều đang xảy ra ở nơi khác. Lyra, cô cần phải vào trong thôi. Chạy đi, chạy đi!”

Cô chạy ra, Roger đang nhìn những con nhân tinh tái xanh chạy khỏi ngôi nhà qua đám tuyết về phía cô.

“Chúng… chúng giống như trong hầm mộ ở Jordan… chúng là các nhân tinh!”

“Đúng vậy, khẽ thôi. Nhưng đừng có kể cho Billy. Đừng kể cho ai vội. Quay lại đi.”

Phía sau lưng họ, con ngỗng đang đập cánh rất mạnh, hất tuyết vào những vết chân chúng tạo ra. Gần bên nó, những con nhân tinh đang hối hả chờ. Khi những vết chân đã được xóa hết, con ngỗng quay lại dồn lũ nhân tinh lại. Nó nói gì đó, và từng con nhân tinh lần lượt thay đổi, dù việc này khiến chúng phải rất cố gắng, cho đến khi tất cả đều biến thành chim, chúng theo sau con nhân tinh của bà phù thủy như những con chim non mới ra ràng bay theo mẹ, vỗ cánh, rơi xuống, chạy trên tuyết phía sau con ngỗng, cuối cùng, sau bao khó khăn, chúng vỗ cánh bay lên. Chúng bay lên tạo thành một đường vạch nhấp nhô, nhạt màu và huyền bí như những bóng mà trên nền trời tối đen. Chúng dần lấy được độ cao, dù một số vẫn còn rất yếu và loạng choạng, một số khác mất ý trí và lượn xuống dưới, nhưng con ngỗng xám to lớn bay vòng quanh và giục chúng quay trở lại, nhẹ nhàng dồn chúng cho đến khi tất cả đều biến mất trên nền trời tối sâu thăm thẳm.

Roger kéo tay Lyra.

“Nhanh lên.” Cậu nói. “Họ sắp xong rồi đấy.”

Chúng hối hả đến chỗ Billy đang vẫy tay ở phía góc tòa nhà chính. Bọn trẻ đã mệt, hoặc những người lớn đã lập lại được trật tự, vì mọi người đang xếp thành hàng nhấp nhô phía trước cánh cửa chính, chen lấn và xô đẩy nhau. Lyra và hai bạn chạy khỏi góc nấp hòa vào với lũ trẻ, nhưng trước khi làm vậy, Lyra nói:

“Hãy thông báo cho tất cả các bạn ấy… mọi người phải chuẩn bị sẵn sàng để chạy trốn. Mọi người phải biết quần áo mặc ngoài trời của mình ở đâu, sẵn sàng mặc vào và chạy ra ngoài ngay khi chúng ta ra tín hiệu. Mọi người phải giữ bí mật tuyệt đối chuyện này, các cậu hiểu không?”

Billy gật đầu, Roger nói: “Thế tín hiệu là gì?”

“Chuông báo cháy.” Lyra nói. “Khi nào đến lúc mình sẽ bật chuông báo cháy.”

Chúng đợi cho đến khi được điểm danh. Nếu có ai đó trong Ủy ban Tôn giáo coi đây là một trường học, họ sẽ phải tổ chức chặt chẽ hơn, bởi chẳng có một nhóm quản lý thường xuyên nào, bọn trẻ được xếp vào một danh sách lớn và tất nhiên không theo thứ tự các chữ cái, không có người lớn nào được phân công giữ trật tự. Vì thế có rất nhiều rối loạn, ngoại trừ việc không còn ai chạy loanh quanh.

Lyra quan sát và để ý. Họ không giỏi về việc quản lý trẻ con chút nào. Những người này rất chậm chạp; họ càu nhàu về bài tập phòng cháy chữa cháy, họ không biết quần áo mặc ngoài trời của bọn trẻ ở đâu, và không thể giữ cho bọn trẻ xếp thành hàng lối. Sự uể oải của họ có thể sẽ giúp ích cho cô rất nhiều.

Khi họ sắp kết thúc thì một sự kiện mới lại xảy đến, dù rằng, đối với Lyra mà nói, chính là khả năng tồi tệ nhất đã biến thành hiện thực.

Cô và mọi người nghe thấy một âm thanh, những mái đầu quay lại và nhìn chăm chú vào bóng tối để chờ đợi khí cầu zeppelin, động cơ khí gas của nó đang khuấy động trong không gian yên tĩnh.

Điều may mắn là nó đến từ hướng ngược với hướng con ngỗng xám bay đi. Nhưng đó là điều may mắn duy nhất. Rất nhanh chóng chiếc khí cầu hiện ra, những lời thì thầm kích động lan truyền trong đám người. Hình dáng béo tròn của nó đang trôi trên đại lộ đèn, ánh sáng của chính nó rọi xuống từ mũi và cabin phía dưới thân.

Người phi công giảm tốc độ và bắt đầu công việc giảm độ cao rất phức tạp. Lyra hiểu ra chiếc cột to dùng để làm gì: tất nhiên, đó là cây trụ để cột khí cầu. Trong khi những người lớn đưa bọn trẻ vào bên trong, chúng đều quay lại nhìn và chỉ trỏ, một đội ở dưới đất trèo lên thang của cột trụ và chuẩn bị chụp lấy dây buộc của khí cầu. Động cơ máy gầm rú, tuyết trên mặt đất cuốn bụi mù, khuôn mặt của những hành khách hiện ra trên khung cửa sổ cabin.

Lyra nhìn lên, và không nghi ngờ gì nữa, Pantalaimon nép sát vào người cô, biến thành một chú mèo hoang, khịt mũi căm ghét, vì vừa ló ra là mái đầu xinh đẹp với mái tóc sẫm màu của bà Coulter, với con nhân tinh khỉ vàng trong lòng.

Chương 16: Lưỡi dao bạc

Ngay lập tức, Lyra cúi đầu xuống dưới chiếc mũ chùm đầu bằng da móc của mình và bước qua hai ngưỡng cửa cùng với những đứa trẻ khác. Cũng không còn nhiều thời gian để lo lắng về những điều cô bé sẽ nói khi họ đối mặt nhau: cô có một vấn đề khác cần giải quyết trước - đó là việc làm thế nào để giấu quần áo vào nơi có thể lấy ra mà không cần xin phép.

Nhưng thật may mắn, ở phía trong đang rất lộn xộn, người lớn đang cố gắng dồn bọn trẻ con lại để lấy chỗ cho những người trên khí cầu zeppelin, vì thế không có ai còn để tâm đến cô. Lyra cởi áo choàng, quần tất, giày ống và cuộn chúng lại nhỏ hết mức có thể trước khi len qua hành lang đông đúc đế đến ký túc xá của mình.

Cô hối hả kéo một chiếc tủ két vào góc nhà, đứng lên đó và đẩy tấm ván trần. Tấm ván được nâng lên, đúng như lời Roger đã nói, Lyra ném chiếc quần tất và giày ống vào đó. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu, Lyra lấy Chân-kế ra khỏi túi và giấu vào sâu bên trong bọc áo choàng trước khi ném vào.

Cô nhảy xuống, đẩy chiếc tủ két lại vị trí cũ và thì thầm với Pantalaimon: “Chúng mình phải giả vờ đần độn cho đến khi bà ấy nhìn thấy, mình sẽ nói là bị bắt cóc. Đừng nói gì về những người Gypsy và đặc biệt là Iorek Byrnison.”

Giờ đây, Lyra đã nhận ra, nếu trước đây cô không làm được điều đó, là vì toàn bộ hãi sợ trong tâm trí cô đều hướng về bà Coulter như một chiếc kim la bàn chỉ về cực Bắc. Tất cả những điều cô từng nhìn thấy, và thậm chí là sự chia tách nhân tinh dã man độc ác, cô có thể chịu đựng được. Cô có đủ sự mạnh mẽ. Nhưng chỉ ý nghĩ về khuôn mặt xinh đẹp và giọng nói ngọt ngào, hình ảnh con khỉ vàng nghịch ngợm thôi cũng đủ làm cho cô thấy bủn rủn, choáng váng và buồn nôn.

Nhưng, những người Gypsy đang trên đường đến đây. Hãy nghĩ đến điều đó. Nghĩ đến Iorek Byrnison. Và đừng đề mình bị lộ, cô tự nói với mình, rồi quay trở lại phòng ăn lúc này đang rất ồn ào. Bọn trẻ đang xếp hàng lấy đồ uống nóng, một vài đứa vẫn đang mặc áo choàng có mũ. Tất những câu chuyện chúng đang nói đều hướng về khí cầu zeppelin và những hành khách trên đó.

“Chính bà ấy đấy… và con nhân tinh khỉ nữa…”

“Bà ấy cũng bắt cậu phải không?”

“Bà ta nói sẽ viết thư cho cha mẹ mình và mình cá là bà ta chẳng đời nào…”

“Bà ta chẳng bao giờ nói với chúng ta về chuyện những đứa trẻ sẽ bị giết . Bà ta không bao giờ nói về chuyện này cả.”

“Con khỉ đó, nó là đồ tồi tệ nhất – nó bắt Karossa của mình và gần như đã giết chết nó—mình có thể cảm thấy tất cả những đau đớn…”

Tất cả bọn trẻ đều sợ hãi giống Lyra. Cô tìm thấy Annie cùng mấy bạn khác nữa và ngồi xuống.

“Nghe này,” cô nói, “các cậu có giữ bí mật được không?”

“Có!”

Ba mái đầu quay lại chỗ cô, chờ đợi.

“Có một kế hoạch tẩu thoát,” Lyra nói khẽ, “Sắp có những người đến đây và đưa chúng ta đi, đúng thế đấy, họ sẽ đến đây trong vòng khoảng một ngày nữa. Có thể sớm hơn. Tất cả những gì chúng ta cần làm là sẵn sàng ngay khi có tín hiệu và mặc quần áo ấm ngay lập tức và chạy ra ngoài. Không chờ đợi gì cả. Chúng ta chỉ việc chạy thôi. Chỉ có điều nếu không mặc áo choàng, đeo giầy ống, các cậu sẽ chết cóng.”

“Tín hiệu như thế nào vậy?” Annie hỏi.

“Chuông báo cháy, như buổi chiều nay. Tất cả đã được sắp đặt. Mọi đứa trẻ đều sẽ được cho biết, còn người lớn thì không. Đặc biệt là bà ta.”

Mắt chúng ánh lên niềm hi vọng và sự hào hứng. Thông điệp được truyền đi khắp cả phòng ăn. Lyra có thể thấy không khí trong phòng đã thay đổi. Khi ở bên ngoài, bọn trẻ nhanh nhẹn, hào hứng muốn chơi. Rồi chúng nhìn thấy bà Coulter, chúng như bị mắc chứng sợ hãi đến cuồng loạn, nhưng giờ chúng đã lấy lại được bình tĩnh và bắt đầu nói chuyện. Lyra ngạc nhiên trước tác động của niềm hi vọng có thể đem lại.

Cô nhìn xuyên qua cánh cửa ra vào đang mở, thật cẩn thận, lúc nào cũng sẵn sàng để cúi đầu xuống, vì có những giọng người lớn đang đến gần, rồi chính bà Coulter xuất hiện, nhìn vào và mỉm cười với những đứa trẻ đang hân hoan vui sướng bên đồ uống nóng và bánh ngọt, rất ấm áp và no đủ. Một cái rùng mình tức thì lan truyền khắp phòng ăn, tất cả bọn chúng đều cứng đờ người ra, nhìn chằm chằm vào bà.

Bà Coulter mỉm cười, đi qua không nói một lời nào. Các cuộc nói chuyện dần dần lại tiếp tục.

Lyra hỏi, “Họ nói chuyện ở đâu vậy?”

“Có lẽ là trong phòng họp.” Annie trả lời. “Có một lần họ đã đưa bọn mình đến đó.” Cô nói thêm, ý chỉ cô và con nhân tinh của mình. “Có khoảng hai mươi người lớn ở đó và một trong số họ đang giảng bài, mình phải đứng đó để làm theo điều ông ta bảo, như xem Kyrillion có thể đi xa khỏi mình bao xa, rồi ông ta thôi miên mình và làm những điều khác nữa … Đó là một căn phòng lớn, rất nhiều ghế, bàn và một bục giảng nhỏ. Này, mình cá họ sẽ nói dối là cuộc tập dượt phòng chữa cháy đã kết thúc thành công. Mình cá họ cũng sợ bà ta, giống bọn mình vậy…”

Thời gian còn lại trong ngày, Lyra ở cạnh các bạn gái khác, quan sát. Nói chuyện một chút và giữ cho mọi chuyện diễn ra kín đáo. Có những bài tập, có bài học khâu vá, có bữa ăn giữa giờ, có giờ chơi trong phòng khách: một căn phòng tồi tàn với những hình thù bằng bìa cứng, mấy cuốn sách rách bươm và một chiếc bàn đánh bóng bàn. Lyra và những đứa trẻ khác nhận thấy có một sự khẩn cấp kín đáo nào đó đang diễn ra, vì những người lớn đang hối hả qua lại ngồi thành từng nhóm lo lắng và trao đổi gấp gáp. Lyra đoán họ đã phát hiện việc các con nhân tinh trốn thoát và đang không hiểu làm thế nào chuyện này có thể xảy ra được.

Nhưng Lyra không nhìn thấy bà Coulter, việc này quả là một sự nhẹ nhõm. Khi đã đến giờ đi ngủ, cô biết mình đã tạo được sự tin tưởng trong lòng những bạn gái khác.

“Nghe này,” cô nói, “có bao giờ họ đến xem chúng ta ngủ hay chưa không?”

“Họ chỉ nhìn vào một lần,” Bella nói. “Họ chỉ chiếu đèn một lượt chứ không thực sự nhìn vào.”

“Tốt lắm. Vì mình đang định đi và xem xét xung quanh. Có một đường đi trên trần nhà mà một cậu bạn đã chỉ cho mình biết…”

Cô giải thích, và trước khi kịp nói xong, Annie nói: “Mình sẽ đi với cậu!”

“Không, tốt hơn là cậu đừng đi, vì sẽ dễ dàng hơn nếu chỉ có một người vắng mặt. Tất cả các cậu chỉ việc nói là đã đi ngủ và không biết mình đi đâu.”

“Nhưng nếu mình đi với cậu…”

“Thì sẽ dễ bị bắt hơn.” Lyra nói.

Hai con nhân tinh của họ nhìn nhau, Pantalaimon là một con mèo hoang, Kyrillion của Annie là một con cáo. Pantalaimon khẽ rít lên với âm điệu thấp nhất, êm nhất và nhe răng, còn Kyrillion thì khoác lên mình vẻ lãnh đạm thờ ơ.

“Vậy thì được rồi.” Annie nói, từ bỏ ý định của mình.

Việc tranh cãi của bọn trẻ được giải quyết thông qua nhân tinh của mình như thế này khá thường xuyên, một trong hai chấp nhận sự chiến thắng của bên kia. Chủ nhân của chúng chấp nhận kết quả mà không hề bực bội, thực tế là, Lyra biết Annie sẽ làm theo lời cô.

Chúng gom các thứ đồ lại đặt lên giường Lyra để trông như thể cô vẫn đang nằm đó, rồi thế là sẽ nói chúng không biết chút gì về việc này. Sau đó Lyra nghe ngóng ở cửa để chắc chắn không có ai đang đến, nhảy lên chiếc tủ két, đẩy tấm ván trần lên và chui vào.

“Chỉ cần không nói gì là được,” cô thì thầm với ba khuôn mặt đang nhìn lên.

Rồi cô nhẹ nhàng thả tấm ván trần vào chỗ cũ và nhìn xung quanh.

Cô đang ở trong một đường hầm kim loại hẹp được chống bằng khung giầm và thanh chống. Những tấm ván trần hơi trong, vì thế chút ánh sáng ở bên dưới hắt lên. Dựa vào thứ ánh sáng lờ mờ đó mà Lyra có thể nhìn thấy khoảng không gian chật hẹp này (chỉ cao khoảng một mét) dẫn ra tất cả các hướng xung quanh cô. Nó chằng chịt những ống kim loại và đường ống dẫn nước, và rất dễ bị lạc trong đó. Nhưng nếu cô nương theo đường ống kim loại, tránh đè nặng lên tấm ván trần và không gây ra tiếng động, cô có thể đi từ đầu này đến đầu kia của Trạm.

“Thật giống như trở lại Jordan, Pan ạ,” cô thì thầm, “nhìn trộm vào Phòng nghỉ.”

“Nếu cậu không làm thế, sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra cả.”

“Vậy thì mình phải làm thế mới đúng, phải không?”

Cô xác định phương hướng, tính toán xem phòng hội thảo ở hướng nào và bắt đầu khởi hành. Đó hoàn toàn không phải là một chuyến đi dễ dàng. Cô phải di chuyển bằng tay và đầu gối, vì nơi này quá thấp để bò, chốc chốc cô lại phải nép mình dưới những ống dẫn nước hình vuông hay uốn mình qua những đường ống dẫn nhiệt. Đường kênh kim loại cô đang bò trong đó dẫn theo đỉnh của những bức tường phía trong. Cô cảm thấy một sự yên ổn dễ chịu phía dưới mình; nhưng chúng rất hẹp, và có cạnh sắc đến nỗi làm xước các đốt ngón tay và đầu gối cô. Không bao lâu sau Lyra đã xây xát khắp người, mỏi nhừ và đầy bụi.

Nhưng cô biết chính xác mình đang ở đâu, và có thể nhìn thấy đống quần áo khoác màu đen của mình nằm phía trên ký túc xá. Cô có thể biết phòng nào đang trống vì các tấm ván trần có màu tối, có lúc cô lại nghe thấy tiếng người vọng lên từ phía dưới, dừng lại để lắng nghe, nhưng đó chỉ là những người nấu ăn trong bếp, hay các y tá, mà theo cách suy luận thông thường của cô ở Jordan, đang trong phòng riêng của mình. Họ chẳng nói điều gì thú vị, cô lại tiếp tục.

Cuối cùng cô đến nơi có lẽ là phòng hội thảo, theo cách tính toán của cô. Không nghi ngờ gì nữa, có một khoảng không gian không có đường ống nào, nơi những chiếc máy điều hoà và đường ống dẫn nhiệt được thiết kế dạt về một bên, cùng những tấm ván trần có hình chữ nhật kích thước lớn và được chiếu sáng đều nhau. Lyra áp tai vào tấm ván và nghe thấy tiếng những người lớn đang thì thầm, cô biết mình đã đến đúng nơi cần tìm.

Cô nghe thật chăm chú, rồi nhích lại gần phía người nói. Rồi cô nằm duỗi thẳng người trong đường hầm, nghiên đầu để nghe được rõ nhất.

Có tiếng lách cách của dao nĩa, tiếng cốc tách chạm vào nhau khi rót đồ uống, chắc họ vừa ăn tối vừa nói chuyện. Có bốn giọng nói tất cả, cô nghĩ, trong đó có bà Coulter. Ba người còn lại là nam giới. Có vẻ họ đang nói chuyện về đám nhân tinh bỏ trốn.

“Nhưng ai là người có trách nhiệm trông coi bộ phận đó?” Giọng bà Coulter nhẹ nhàng và ngân nga như tiếng nhạc.

“Một sinh viên nghiên cứu tên là McKay,” một trong những người đàn ông trả lời. “Nhưng ở đó có những thiết bị tự động để tránh cho những chuyện như thế này xảy ra…”

“Chúng đã không làm việc.” Bà ta nói.

“Chúng có làm việc, thưa bà Coulter. McKay cam đoan với chúng tôi rằng anh ta đã khoá tất cả các lồng khi rời toà nhà lúc mười một giờ hôm nay. Cửa phía ngoài tất nhiên không được mở trong bất kì trường hợp nào, vì anh ta vào và ra bằng cửa trong, như vẫn làm. Có một mật mã cần nhập vào chiếc máy điều khiển cửa, và có một bản ghi chép lại việc anh ta có làm như vậy. Nếu không làm như thế, chuông báo động sẽ reo.”

“Nhưng chuông báo động đã không reo.” Bà ta nói.

“Nó đã reo, nhưng không may là nó reo khi tất cả mọi người ở ngoài trời, tham gia vào buổi tập phòng cháy chữa cháy.”

“Nhưng khi anh quay trở lại bên trong—”

“Không may là cả hai chuông báo đều nằm chung một mạch, đây là lỗi thiết kế cần sửa lại. Có nghĩa là khi chuông báo cháy tắt sau khi thực hành, chuông báo động của phòng thí nghiệm cũng bị tắt theo. Thậm chí có như vậy nó cũng có thể được đặt lại vì công việc kiểm tra thông thường được thực hiện rất thường xuyên; nhưng lúc đó, thưa bà Coulter, bà đến rất bất ngờ không báo trước, nếu bà còn nhớ, bà đã yêu cầu được gặp nhóm thí nghiệm ngay lập tức, trong phòng của bà. Kết quả là, không ai đến phòng thí nghiệm ngay sau đó.”

“Tôi hiểu,” Bà Coulter lạnh lùng nói. “Trong trường hợp này, chắc hẳn các con nhân tinh đã tự giải thoát suốt trong buổi thực hành phòng cháy chữa cháy. Điều này làm rộng thêm danh sách những người lớn khả nghi trong Trạm. Ông đã cân nhắc đến điều đó chưa?”

“Bà có nghĩ đến chuyện vụ này là do một đứa trẻ làm không?” Ai đó hỏi.

Bà ta im lặng, rồi người đàn ông thứ hai lên tiếng.

“Mỗi người lớn đều có một nhiệm vụ riêng, và nhiệm vụ nào cũng cần họ tập trung hoàn toàn, nhiệm vụ nào cũng cần được thực hiện. Không có khả năng nào để bất cứ nhân viên nào tại đây có thể mở cửa. Không ai cả. Vì thế hoặc là những người bên ngoài đột nhập vào với mục đích làm chuyện đó, hay một trong số những đứa trẻ cố gắng tìm đường đến đó, mở cửa rồi mở cửa chiếc lồng rồi quay trở lại phía trước của toà nhà chính.”

“Ông đang làm gì để điều tra vụ này?” Bà nói. “Mà thôi; tôi nghĩ lại rồi, không cần nói với tôi. Xin hãy hiểu, thưa tiến sĩ Cooper, không phải tôi ác mồm đi chất vấn. Chúng ta phải vô cùng cẩn thận. Thật là một sai sót trầm trọng khi đặt hai chiếc chuông báo động chung một mạch. Chúng phải được sửa lại ngay lập tức. Có thể nhân viên Tartar phụ trách việc canh gác có thể giúp ích cho cuộc điều tra của ông? Tôi chỉ nhắc đến điều này như một khả năng thôi. Nhân thể, tôi muốn hỏi, những người Tartar đã ở đâu trong suốt thời gian thực hành phòng chữa cháy? Tôi cho rằng ông đã cân nhắc chuyện đó?”

“Vâng, chúng tôi có xét đến.” Một người đàn ông nói với giọng mệt mỏi. “Những người bảo vệ đều đứng ở vị trí tuần tra, tất cả mọi người. Họ có ghi chép rất tỉ mỉ.”

“Tôi chắc rằng ông đã làm hết sức mình.” Bà ta nói. “Thôi được rồi, giờ thì chúng ta đang ở đây. Thật là vô cùng đáng tiếc. Nhưng việc này đến đây là đủ rồi. Hãy nói cho tôi biết về chiếc máy tách mới.”

Lyra rùng mình trước điểu bà ta đề cập tới.

“À,” ông tiến sĩ nói, thở phào vì câu chuyện đã chuyển sang hướng khác, “đã có những tiến bộ thực sự. Với mẫu máy đầu tiên chúng tôi chẳng bao giờ vượt qua được rủi ro bệnh nhân tử vong do sốc, nhưng giờ thì khắc phục được rồi.”

“Người Skraeling đã làm điều này tốt hơn bằng tay không.” Một người đàn ông từ đầu đến giờ chưa lên tiếng nói.

“Sau hàng thế kỷ tập luyện.” Người còn lại phản bác.

“Nhưng đôi khi chia cắt đơn giản lại là lựa chọn duy nhất,” người trình bày chính nói. “Tuy nhiên, những ca mổ đau đớn thế này là dành cho người lớn. Nếu bà còn nhớ, chúng ta đã phải bỏ đi một lượng kha khá vì nguyên nhân lo âu liên quan đến căng thẳng. Nhưng thành tựu lớn đầu tiên là sử dụng thuốc mê kết hợp với dao mổ Maystadt bằng điện anbaric. Chúng ta đã có thể giảm tỉ lệ tử vong vì sốc gây ra sau phẫu thuật xuống dưới năm phần trăm.”

“Còn về thiết bị mới thì sao?” Bà Coulter hỏi.

Lyra run lên. Máu đang dồn hết đến tai cô, Pantalaimon đang nép sát thân hình chồn ecmin vào người cô, thì thầm: “Suỵt, Lyra, họ sẽ không làm thế đâu—chúng mình sẽ không để họ làm thế—”

“Vâng, chính khám phá kì quặc của Ngài Asriel đã cho chúng ta chìa khoá đến với một phương pháp mới. Ông ấy phát hiện ra một hỗn hợp mangan và titanium có khả năng cách ly cơ thể con người khỏi nhân tinh. Nhân tiện tôi muốn hỏi, chuyện gì đã xảy ra với Ngài Asriel?”

“Có lẽ ông chưa nghe nói,” bà Coulter trả lời. “Ngài Asriel đang lơ lửng dưới án tử hình. Một trong những điều kiện để ông ấy được đày đến Svalbard là chấm dứt hoàn toàn công việc nghiên cứu khoa học của mình. Không may là, ông ấy đã xoay xở có được sách và các tư liệu, và ông đã đẩy những điều tra dị giáo của mình đến mức sẽ là nguy hiểm nếu để ông ta sống sót. Bằng mọi giá, có vẻ như Toà án Tôn Giáo đã cân nhắc mức án tử hình và có khả năng bản án sẽ được thực hiện. Mà cái thiết bị mới của ông, Tiến sĩ, nó hoạt động như thế nào?”

“À—vâng—án tử hình, bà vừa nói thế đúng không? Chúa nhân từ… Tôi xin lỗi. Thiết bị mới. Chúng tôi đang tìm hiểu điều gì sẽ xảy ra khi việc chia cắt được thực hiện với bệnh nhân trong tình trạng tỉnh táo, tất nhiên điều này không thể thực hiện được theo phương pháo Maystadt. Vì thế chúng tôi đã chế tạo ra một loại dao mổ. Lưỡi dao được chế tạo bằng hợp kim mangan và titanium, đứa trẻ được đặt trong một ngăn kín, giống một cabin, con nhân tinh đặt trong một ngăn kín tương tự thông sang đó. Khi thông như thế, tất nhiên, sự liên kết vẫn còn. Sau đó lưỡi dao bập xuống giữa chúng, cắt mối liên hệ ngay tức khắc và chúng trở thành những thực thể bị chia tách.”

“Tôi muốn được nhìn tận mắt.” Bà ta nói. “Nhanh thôi, tôi hi vọng như vậy. Nhưng giờ thì tôi mệt rồi. Tôi nghĩ tôi nên đi nghỉ. Ngày mai tôi muốn được gặp tất cả bọn trẻ. Chúng ta sẽ ra tìm kẻ nào đã mở cánh cửa đó.”

Có tiếng kéo ghế, những lời nói khách sáo, tiếng đóng cửa. Rồi Lyra nghe thấy những người còn lại tiếp tục thảo luận, nhưng khẽ hơn.

“Ngài Asriel sẽ thế nào đây?”

“Tôi nghĩ ông ấy có một ý tưởng hoàn toàn khác về tính chất của Bụi. Đó mới là mấu chốt của vấn đề. Điều này là vô cùng dị giáo. Ông biết đấy, kỉ luật của Toà án Tôn Giáo không thể cho phép bất cứ một cách hiểu nào ngoài cách đã được công bố. Hơn nữa, ông ấy muốn thử nghiệm—”

“Thử nghiệm? Với Bụi à?”

“Suỵt! Đừng nói to quá…”

“Ông có nghĩ bà ta sẽ làm một bản báo cáo không có lợi cho chúng ta không?”

“Không, không. Tôi nghĩ ông đối phó rất giỏi với bà ta.”

“Thái độ của bà ấy làm tôi lo lắng.”

“Chính xác là như vậy. Một sự thích thú mang tính cá nhân. Tôi không muốn dùng từ này, nó gần như đến mức ghê tởm.”

“Nó hơi mạnh bạo quá.”

“Nhưng ông có nhớ lần thí nghiệm đầu tiên không khi bà ta rất thích thú xem người ta kéo rời—”

Lyra không thể chịu đựng thêm được nữa: một tiếng kêu bật khỏi miệng cô, và cũng đúng lúc người cô run lẩy bẩy, chân cô đạp phải cột chống.

“Cái gì vậy?”

“Trên trần nhà…”

“Nhanh lên!”

Có tiếng xô ghế, tiếng chân người chạy, tiếng một chiếc bàn được kéo ra giữa phòng. Lyra cố bò đi, nhưng chỗ này chật chội quá, trước khi cô kịp bò đi vài mét, tấm ván trần bên cạnh cô bất ngờ bị kéo giật xuống, và cô nhìn thấy khuôn mặt một người đàn ông đang hoảng hốt. Cô ở gần tới mức có thể nhìn thấy từng sợi râu quai nón của ông ta. Ông ta cũng hoảng hốt giống cô, nhưng do có thể di chuyển thoải mái hơn, ông ta có thể giơ tay qua khoảng hờ và kéo tay cô.

“Một đứa bé!”

“Đừng để nó chạy thoát…”

Lyra cắn bập tay vào bàn tay cháy nắng to bè của ông ta. Người đàn ông hét lên nhưng không buông tay, ngay cả khi tay bị cô cắn đến chảy máu. Pantalaimon gào thét và phun phì phì, nhưng chẳng giúp được gì, người đàn ông khoẻ hơn cô rất nhiều, ông ta kéo cho đến khi cánh tay kia của cô, đang bám chặt vào cây cột chống lỏng ra. Và nửa người cô tụt xuống.

Đến lúc này, cô vẫn không kêu một tiếng. Cô ngoắc chân vào gờ sắc của tấm kim loại bên trên, giãy giũa trong tư thế lộn ngược, cào cấu, cắn xé và phun phì phì trong cơn tức giận điên cuồng. Những người đàn ông thở hổn hển, càu nhàu vì đau đớn và phải gắng sức, nhưng họ vẫn tiếp tục kéo.

Đột nhiên tất cả mọi sức lực thoát hết khỏi cơ thể Lyra.

Nó như thể có một bàn tay ngoại lai đã thò vào được nơi không cánh tay nào được quyền chạm vào. Tim cô như bị bóp nghẹt.

Cô cảm thấy choáng váng, chóng mặt và mệt mỏi, lả đi vì sốc.

Một trong số họ đang giữ Pantalaimon.

Ông ta đã chộp lấy con nhân tinh của Lyra bằng bàn tay của con người, Pantalaimon đáng thương đang run rẩy, gần như mất trí vì hoảng sợ và ghê tởm. Trong thân hình mèo hoang, bộ lông của nó lúc thì nhợt nhạt đi vì yếu sức, lúc lại phản chiếu ánh sáng lấp lánh… Nó lao người về phía Lyra khi cô vươn cánh tay về phía nó…

Họ không cầm cự được nữa. Họ đã bị bắt.

Cô cảm thấy những bàn tay… Điều này là không được phép... không được chạm vào… sai trái…

“Nó chỉ có một mình phải không?”

Một người đang ngó vào lỗ hổng trên trần nhà.

“Có vẻ nó chỉ đi một mình…”

“Nó là ai vậy?”

“Đứa trẻ mới đến.”

“Đứa trẻ… những thợ săn Samoyed…”

“Đúng thế.”

“Ông có cho rằng… những con nhân tinh…”

“Có thể lắm. Nhưng không thể một mình nó được, chắc chắn như thế đúng không?”

“Chúng ta có nên nói…”

“Tôi nghĩ như thế sẽ làm mọi chuyện tồi tệ hơn, ông có nghĩ vậy không?”

“Tôi đồng ý. Sẽ tốt hơn nếu bà ta không nghe gì về chuyện này cả.”

“Nhưng chúng ta làm gì bây giờ?”

“Nó không thể quay lại chỗ những đứa trẻ khác được.”

“Không thể được!”

“Có một cách chúng ta có thể làm, tôi cho là như vậy.”

“Ngay bây giờ sao?”

“Phải như vậy thôi. Không thể để đến sáng mai được. Bà ta muốn xem.”

“Chúng ta có thể làm một mình. Không cần nhờ đến ai khác nữa.”

Người đàn ông có vẻ là người chịu trách nhiệm, người đang nắm giữ cả Lyra hay Pantalaimon, lấy móng ngón tay cái cậy răng. Đôi mắt ông ta không lúc nào nhìn thẳng; chúng ánh lên và liếc hết bên nọ sang bên kia. Cuối cùng ông ta gật đầu.

“Được rồi, làm luôn đi.” Ông ta nói, “nếu không nó sẽ kêu lên đấy. Cơn sốc sẽ ngăn cản nó làm chuyện đó, ít nhất là như vậy. Nó sẽ không nhớ mình là ai, nhìn thấy gì, nghe thấy gì… nhanh lên.”

Lyra không thể mở miệng. Cô đang thở rất khó nhọc. Cô đành để mình bị mang đi dọc Trạm, dọc những hành lang màu trắng trống không, qua những căn phòng kêu o o chạy bằng năng lượng anbaric, đi qua những ký túc xá bọn trẻ con đang ngủ, những con nhân tinh trên gối bên cạnh chúng, chia sẻ những giấc mơ cùng chủ nhân. Chốc chốc Lyra lại theo dõi Pantalaimon, nó nhướn người sang cô, mắt chúng không bao giờ rời nhau.

Rồi một cánh cửa mở ra thông qua một bánh xe lớn. Không khí rít lên, một căn phòng sáng rực với đá lát sàn nhà sáng lóa và thép không gỉ. Sự sợ hãi mà bản thân cô đang cảm thấy gần như là nỗi đau thể xác—đó là cơn đau khi họ kéo cô và Pantalaimon về phía một cái lồng rất lớn đan theo kiểu lưới bằng bạc xanh xám, phía trên đó treo một lưỡi dao lớn bằng bạc xám. Để chia cắt họ vĩnh viễn.

Cô lấy lại được giọng và hét lên. Âm thanh rất to đập vào các bức tường, nhưng cánh cửa nặng nề đã ngăn nó lại, dù cô có hét to đến mấy, không có âm thanh nào lọt được ra ngoài.

Như để trả lời, Pantalaimon đã vùng vẫy thoát ra khỏi những bàn tay đáng ghê tởm kia… nó biến thành một con sư tử, một con đại bàng. Nó lao vào họ bằng những móng vuốt dữ dội, đôi cánh điên cuồng, rồi nó biến thành con chó sói, con gấu, con chồn pu-toa… lao vào, gầm gừ, gào thét, biến hình nhanh đến mức không thể đoán bắt được. Pan liên tục nhảy, bay, chạy từ chỗ này sang chỗ khác trong khi những bàn tay lóng ngóng vụng về vồ trượt trong không khí.

Tất nhiên họ cũng có nhân tinh của mình. Đó không phải là hai chống ba, mà là hai chống lại sáu. Một con lửng, một con cú và một con khỉ đầu chó chỉ rình để nghiến Pantalaimon xuống. Lyra đang hét lên với chúng: “Tại sao? Tại sao chúng mày lại làm như vậy? Hãy cứu chúng tôi đi! Bọn mày không nên giúp đỡ họ.”

Cô đá và cắn dữ dội hơn bao giờ hết, cho đến khi người đàn ông giữ cô thở hổn hển rồi thả cô ra trong một tích tắc—và cô được tự do. Pantalaimon lao đến với cô như một tia chớp, cô áp chặt nó vào bộ ngực đang thở dữ dội của mình, nó cắm những cái móng vuốt của loài mèo hoang dã vào da thịt cô, mỗi vết xước đối với cô đều vô cùng thân thương.

“Không bao giờ! Không bao giờ! Không bao giờ!” Cô hét lên và lùi sát vào tường để bảo vệ nó.

Nhưng họ lại lao vào cô, ba người đàn ông hung dữ, còn cô chỉ là một đứa trẻ choáng váng và đầy hãi sợ. Họ giằng Pantalaimon ra rồi ném nó vào một bên chiếc lồng đan lưới rồi đưa Lyra vẫn đang giãy giụa sang phía bên kia. Có một tấm chắn đan mắc lưới đặt giữa họ, nhưng Pan vẫn là một phần của cô, họ vẫn hoà vào nhau. Trong một giây hoặc hơn thế, nó vẫn là linh hồn thân thương của chính cô.

Nổi bật lên trong mớ hỗn độn âm thanh của những người đàn ông, của tiếng khóc của chính mình và tiếng gào thét hoang dại của Pan, Lyra nghe được một âm thanh o o, Lyra nhìn về hướng đó và thấy một người đàn ông (máu rỉ ra từ mũi ông ta) đang vận hành một bàn phím các công tắc. Hai người kia nhìn lên, cô dõi mắt theo hướng đó. Lưỡi dao bạc màu xám to bè đang từ từ được nâng lên, phản chiếu ánh đèn sáng rực. Khoảnh khắc cuối cùng trong cuộc đời trọn vẹn của cô sắp trở thành điều tồi tệ nhất từ trước đến nay!

“Chuyện gì đang xảy ra vậy?”

Một giọng nói nhẹ nhàng ngân nga: giọng bà ấy. Tất cả mọi thứ dừng lại.

“Các ông đang làm gì ở đây vậy? Và đứa trẻ này là—”

Không cần phải nói hết chữ ai, bà ta đã lập tức nhận ra Lyra. Qua đôi mắt giàn giụa nước nhòe nhoẹt, cô nhìn thấy bà ta lảo đảo bám vào thành chiếc ghế dài. Khuôn mặt xinh đẹp luôn điềm tĩnh kia, trong nháy mắt trở nên phờ phạc và kinh hãi.

“Lyra—” Bà ta thì thầm.

Con khỉ vàng bên cạnh bà lao xẹt tới, lôi Pantalaimon ra khỏi lồng trong khi Lyra tự nhào mình ra. Pantalaimon bứt mình khỏi những móng vuốt đầy lo lắng của con khỉ, lao vào vòng tay của Lyra.

“Không bao giờ! Không bao giờ!” Cô bé vùi mặt vào bộ lông của Pan trong khi nó áp tim mình vào tim cô.

Chúng ôm chặt lấy nhau như những người sống sót sau một trận đắm tàu, run rẩy trên đảo hoang. Cô loáng thoáng nghe tiếng bà Coulter nói chuyện với những người đàn ông, nhưng thậm chí bà ta còn không diễn đạt nên lời. Rồi họ ra khỏi căn phòng đáng sợ đó, bà Coulter nửa bế nửa dìu cô đi dọc một hành lang. Sau đó tới một cánh cửa, một chiếc giường ngủ, mùi không khí, ánh sáng nhẹ nhàng.

Bà Coulter nhẹ nhàng đặt cô xuống giường. Vòng tay Lyra ghì chặt Pantalaimon đến nỗi cô run rẫy trước tác động của nó. Một bàn tay nhẹ nhàng đặt lên trán cô.

“Cháu yêu, cháu yêu quý của ta,” giọng nói ngọt ngào cất lên. “Làm thế nào mà cháu đến đây được?”

Chương 17: Những phù thuỷ

Lyra rên rỉ và run lên một cách vô thức, như thể cô vừa được vớt lên từ mặt nước lạnh giá đến nỗi trái tim cô gần như đóng băng. Pantalaimon nằm áp vào da thịt cô, phía trong lớp áo, nhưng vẫn để ý bà Coulter đang pha thứ nước gì đó, và theo sát con khỉ vàng với những móng vuốt cứng nhọn hối hả vuốt khắp người Lyra, lần xung quanh bụng cô chỗ đeo chiếc túi với các thứ bên trong.

“Ngồi lên nào, cưng, và uống thứ này đi.” Bà Coulter nói, cánh tay dịu dàng của bà luồn quanh lưng Lyra đỡ cô ngồi dậy.

Lyra nghiến răng lại nhưng lập tức thư giãn khi Pantalaimon dùng ý nghĩ nói với cô: chúng ta sẽ chỉ an toàn cho đến khi vẫn còn giả vờ. Cô mở mắt và nhận thấy nó vẫn còn ngấn nước, cô khóc thổn thức trước sự ngạc nhiên và xấu hổ của mình.

Bà Coulter xuýt xoa an ủi và đặt cốc nước vào tay con khỉ trong khi lau mắt cho Lyra bằng chiếc khăn tay sức nước hoa.

“Hãy khóc thoả thích, bé yêu,” giọng nói êm dịu cất lên, Lyra quyết tâm dừng lại ngay khi cô có thể. Cô cố cầm nước mắt và cắn chặt hai môi lại, cô ghìm nén tiếng thổn thức vẫn đang làm ngực cô phập phồng lên xuống.

Pantalaimon lại tiếp tục: hãy đánh lừa họ, hãy đánh lừa họ. Nó biến thành con chuột, bò khỏi tay Lyra để khẽ đánh hơi vào cốc đồ uống con khỉ đang bê. Nó không có độc: một cốc nước hãm hoa cúc La Mã, ngoài ra không có gì khác. Nó bò trở lại vai Lyra, thì thầm: “Uống đi.”

Cô ngồi dậy và cầm cốc đồ uống nóng bằng cả hai tay, vừa nhấp từng ngụm nhỏ vừa thổi cho nguội. Cô nhìn xuống. Cô cần phải giả bộ cứng rắn hơn bất cứ lúc nào trong đời mình.

“Lyra, cưng,” bà Coulter thì thầm, vuốt tóc cô, “ta nghĩ chúng ta đã mất cháu mãi mãi! Chuyện gì đã xảy ra vậy? Cháu bị lạc phải không? Có phải người nào đó đã đưa cháu ra khỏi căn phòng phải không?”

“Vâng,” Lyra thì thầm.

“Ai thế, cháu yêu?”

“Một người đàn ông và một người đàn bà.”

“Những vị khách trong bữa tiệc phải không?”

“Cháu nghĩ thế, họ nói bà cần thứ gì đó ở dưới nhà và cháu đi xuống dưới rồi họ chộp lấy cháu và đưa cháu vào một chiếc xe đỗ đâu đó. Nhưng khi họ dừng lại, cháu chạy nhanh ra ngoài và lẩn đi khiến họ không bắt được cháu. Nhưng cháu không biết mình đang ở đâu…”

Một cơn thổn thức nữa làm cô khẽ rùng mình, nhưng cơn thổn thức giờ đã nhẹ nhàng hơn, và cô có thể giả vờ, lần này cô khóc vì câu chuyện của mình.

“Rồi cháu chỉ lang thang cố tìm đường về, rồi những tên Gà trống tây đã bắt cháu… Rồi họ cho cháu vào một chiếc xe tải với những đứa trẻ khác và đưa đi đâu đó, một toà nhà lớn, cháu không biết nó ở đâu.”

Mỗi giây qua đi, với mỗi câu cô nói, cô cảm thấy chút sức mạnh đang trở lại. Giờ đây cô đang làm vài thứ khó khăn nhưng quen thuộc và không bao giờ có thể dự đoán trước, gọi là nói dối, cô lại cảm thấy tự chủ, cảm giác pha trộn giữa phức tạp và chế ngự mà Chân-kế mang lại cho cô. Cô phải thật thận trọng và không nói điều gì quá vô lý; cô phải mập mờ ở chỗ này và tạo ra những chi tiết có vẻ đáng tin cậy ở chỗ kia; trong chừng mực nào đó, cô phải là một nghệ sĩ.

“Họ giữ cháu trong toà nhà đó bao lâu?” Bà Coulter hỏi.

Chuyến đi của Lyra dọc những kênh đào và thời gian ở cùng những người Gypsy đã mất hàng tuần: cô phải tính toán thời gian đó. Cô bịa ra một chuyến đi biển đến Trollesund cùng bọn Gà trống tây, rồi một cuộc đào tẩu, thêm những chi tiết quan sát thấy trong thành phố, một khoảng thời gian hầu bàn chạy việc lặt vặt ở Quán rượu Einarsson, tiếp đến là khoảng thời gian ngắn làm việc cho một gia đình nông dân, rồi bị người Samoyed bắt và đưa đến Bolvangar.

“Và họ đã định… đã định cắt…”

“Suỵt, cưng, suỵt. Ta sẽ tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra”

“Nhưng tại sao họ lại định làm như vậy? Cháu chẳng bao giờ làm việc gì xấu cả! Tất cả bọn trẻ con đều sợ hãi trước những gì đang xảy ra ở đây, và không ai biết đó là chuyện gì… tại sao họ lại làm như vậy, bà Coulter? Tại sao họ lại độc ác như vậy?”

“Phải. Phải… Cháu sẽ được an toàn, cưng của ta. Họ sẽ không bao giờ làm như vậy với cháu. Giờ thì ta đã biết cháu đang ở đây, và cháu được an toàn, cháu sẽ không bao giờ còn gặp nguy hiểm nữa. Sẽ không có ai làm hại cháu được đâu, Lyra thân yêu của ta, sẽ không ai làm cháu đau được đâu.”

“Nhưng họ làm như thế với những đứa trẻ khác! Tại sao vậy?”

“À, cháu yêu…”

“Đó là Bụi, phải không?”

“Họ nói với cháu như vậy phải không? Có phải các bác sĩ nói thế không?”

“Bọn trẻ biết điều đó. Tất cả các đứa trẻ đều bàn tán về nó, nhưng không người lớn nào biết cả! Họ gần như đã làm thế với cháu—bà phải nói cho cháu biết! Bà không có quyền giữ bí mật về chuyện này nữa, không một phút nào nữa!”

“Lyra… Lyra, Lyra. Cháu yêu, có rất nhiều khái niệm khó hiểu, Bụi và các thứ khác nữa. Đó không phải là điều bọn trẻ cần lo lắng. Nhưng những bác sĩ làm điều này vì lợi ích của chính những đứa trẻ, cháu yêu của ta ạ. Bụi là thứ gì đó xấu xa, sai lầm, tội lỗi và nguy hại. Những người trưởng thành và nhân tính của họ bị nhiễm phải Bụi sâu đến mức đã là quá muộn đối với họ. Họ không thể được cứu giúp nữa… Nhưng chỉ cần một phẫu thuật nhanh chóng là chúng đã được an toàn khỏi nó. Bụi sẽ không bao giờ còn bám lên người chúng nữa. Chúng sẽ an toàn, hạnh phúc và…”

Lyra nghĩ đến Tony Makarios bé bỏng. Cô đột ngột nhoài người về phía trước và nôn oẹ. Bà Coulter lùi lại phía sau.

“Cháu ổn chứ, cưng? Hãy vào phòng tắm…”

Lyra cố nuốt vào và dụi mắt.

“Bà không cần thiết phải làm thế với chúng cháu,” cô nói. “Bà có thể thả chúng cháu ra. Cháu cá là Ngài Asriel sẽ không để cho bất cứ ai làm việc đó nếu biết chuyện gì đang xảy ra. Nếu ông ấy có Bụi, bà có Bụi và ông Hiệu trưởng Jordan cùng tất cả những người trưởng thành khác đều có Bụi, chắc chắn nó phải tốt. Khi ra khỏi đây cháu sẽ nói cho toàn bộ những đứa trẻ trên thế giới biết về nó. Hơn nữa, nếu việc làm này thực sự tốt đến thế, bà nên để họ thực hiện với cháu. Đáng lẽ bà phải vui mới phải.”

Bà Coulter lắc đầu và mỉm cười một nụ cười buồn bã và hiểu biết.

“Cưng ơi,” bà nói, “một số điều tốt vẫn làm chúng ta đau đớn, và nó đương nhiên sẽ làm những người khác lo ngại nếu cháu lo ngại… Nhưng điều này không có nghĩa con nhân tinh của cháu bị mang đi khỏi cháu. Nó vẫn ở đó. Tin ta đi, nhiều người trưởng thành ở đây đã làm phẫu thuật. Các y tá có vẻ vẫn khá là hạnh phúc, đúng vậy không?”

Lyra chớp mắt. Đột nhiên cô hiểu ra sự thờ ơ trống rỗng thường trực của chúng, cái cách những con nhân tinh bé nhỏ của họ đi thong dong như bị mộng du.

Cô không nói gì cả, suy nghĩ, và ngậm chặt miệng lại.

“Cưng ơi, chưa có ai từng mơ đến việc thực hiện một phẫu thuật trên người đứa trẻ mà không thử nghiệm trước. Hàng nghìn năm nay, chưa ai có thể mang nhân tinh của một đứa trẻ đi! Tất cả những điều xảy ra chỉ là một vết cắt nhỏ, và rồi tất cả mọi chuyện sẽ yên ổn. Vĩnh viễn! Cháu thấy đấy, con nhân tinh của cháu là một người bạn, một người bạn trung thành tuyệt vời khi cháu còn nhỏ, nhưng ở độ tuổi dậy thì, độ tuổi cháu sắp trải qua, cưng ạ, những con nhân tinh mang lại mọi ý nghĩ và cảm giác rắc rối, đó chính là cái giúp Bụi chen vào. Một phẫu thuật nhỏ nhanh chóng trước lúc đó, cháu sẽ không còn gặp rắc rối kiểu đó nữa. Con nhân tinh vẫn ở lại với cháu, chỉ… chỉ có điều là không có liên hệ. Giống như một… như một con vật yêu tuyệt vời, nếu cháu thích thế. Con vật yêu ngoan ngoãn nhất trên đời! Cháu không thích như vậy sao?”

Ôi, một kẻ nói dối độc ác nhất, ôi, điều dối trá đáng xấu hổ nhất mà bà ta từng nói! Và thậm chí dù Lyra không biết đó là những lời dối trá (về Tony Makarios, những con nhân tinh bị giam trong lồng) cô cũng vô cùng căm ghét những lời nói đó. Tâm hồn yêu thương của cô, người bạn trung thành thân thiết trong trái tim cô, bị tách ra và chỉ còn là một con vật đáng yêu quanh quẩn quanh chân? Lyra gần như muốn nổ tung vì căm ghét, Pantalaimon đang nằm trong tay cố biến thành con chồn pu-toa, con vật xấu xí và độc ác nhất trong các hình thù nó từng biến ra rồi gầm gừ.

Nhưng họ không nói gì cả, Lyra ôm chặt Pantalaimon và để bà Coulter vuốt tóc cô.

“Hãy uống nước hoa cúc La Mã của cháu đi.” Bà Coulter nhẹ nhàng nói, “Chúng ta sẽ bảo họ chuẩn bị giường ngủ cho cháu tại đây. Không cần thiết phải quay về ngủ chung với các bạn gái khác, khi mà giờ đây ta đã tìm lại được người trợ lý của mình. Cô bé yêu quý của ta! Người trợ lý tốt nhất trên đời. Cháu biết không cưng, chúng ta đã tìm cháu khắp cả London? Chúng ta yêu cầu cảnh sát tìm kiếm tất cả các thị trấn trong vùng. Ôi, ta đã nhớ cháu rất nhiều và ta không thể nói cho cháu hiểu ta hạnh phúc đến thế nào khi tìm lại được cháu đâu…”

Suốt quãng thời gian đó, con khỉ vàng cứ bồn chồn không yên. Lúc thì nó nằm trên bàn ve vẩy đuôi, lúc lại bám dính lấy bà Coulter và kêu khe khẽ vào tai bà, lúc lại chạy vòng quanh phòng với chiếc đuôi dựng ngược. Tất nhiên nó đã làm bại lộ sự sốt ruột của bà Coulter. Cuối cùng bà ta không thể giữ nó được trong lòng nữa.

“Lyra, cưng,” bà ta nói, “Ta nghĩ ông Hiệu trưởng Jordan đã đưa cháu thứ gì đó trước khi cháu đi, phải vậy không? Ông ấy đã đưa cháu chiếc Chân-kế. Rắc rối là ở chỗ, ông ta không có quyền đưa nó cho ai cả. Nó được giao lại cho ông ấy cất giữ. Nó thực sự quá quý giá để mang ra ngoài—cháu biết đấy, nó là một trong hai hay ba cái duy nhất trên thế giới! Ta nghĩ ông Hiệu trưởng đưa nó cho cháu với hi vọng nó sẽ rơi vào tay ngài Asriel. Ông ấy bảo cháu không được để ta biết, đúng không?”

Lyra mím chặt môi.

“Được, ta hiểu mà. Thôi, đừng lo, cưng, về chuyện cháu đã không nói với ta. Như thế là cháu đã không nuốt lời hứa với bất cứ người nào. Nhưng nghe này, cưng, nó thực sự cần được trông non cẩn thận, ta lo là nó quá quý hiếm và dễ vỡ tới mức chúng ta không thể để nó chịu rủi ro lâu hơn nữa.”

“Tại sao lại không nên để ngài Asriel có được nó?” Lyra nói, không động đậy.

“Vì điều ông ấy đang làm. Cháu biết ông ấy đã bị đưa đi đày, vì trong đầu óc ông ta có những tư tưởng nguy hiểm và tội lỗi. Ông ấy cần Chân-kế để hoàn thành kế hoạch của mình, nhưng tin ta đi, cưng, điều cuối cùng bất cứ ai có thể làm là để ông ấy có được nó. Ông Hiệu trưởng Jordan đã sai lầm một cách đáng buồn. Nhưng giờ thì cháu biết rồi đấy, sẽ tốt hơn nếu để ta giữ nó, phải không nào? Nó sẽ giúp cháu thoát khỏi những rắc rối khi mang nó đi khắp mọi nơi, và lúc nào cũng canh cánh lo cách trông giữ nó. Chắc nó phải là một gánh nặng lớn, không hiểu một thứ cổ lỗ ngớ ngẩn như thế lại có tác dụng với…”

Lyra tự hỏi không hiểu sao cô từng có lúc thấy người phụ nữ này là thú vị và thông minh.

“Vì thế nếu bây giờ cháu đang giữ nó, cháu yêu ạ, sẽ thực sự tốt hơn nếu cho cháu nếu để ta giữ nó. Nó ở trong chiếc túi quanh bụng cháu, phải không? Ừ, làm thế là thông minh đấy, khi giấu nó đi như thế…”

Bà ta luồn tay quanh váy Lyra và tháo chiếc túi vải dầu cứng đơ ra. Lyra vô cùng căng thẳng. Con khỉ vàng đang nằm ở cuối giường, run lên vì hồi hộp, hai bàn tay màu đen cho lên mồm. Bà Coulter rút chiếc bao lưng ra khỏi người Lyra và mở ra. Bà ta đang thở gấp. Bà ta mang cái gối bọc vải nhung và tháo ra, thấy chiếc hộp thiếc nhỏ Iorek Byrnison đã làm.

Pantalaimon biến lại thành con mèo, nó căng thẳng đến mức không thể nhảy lên được. Lyra đưa chân ra xa khỏi bà Coulter đặt chân xuống sàn nhà để có thể chạy đi khi có cơ hội.

“Cái gì thế này?” Bà Coulter hỏi, có vẻ rất thích thú. “Một chiếc hộp cũ trông buồn cười quá! Cháu cho nó vào trong này để giữ cho nó an toàn phải không, cưng? Cả những thứ rong rêu này nữa… cháu đã rất cẩn thận, đúng không? Một chiếc hộp nữa, bên trong cái hộp kia! Hàn kín lại nữa! Ai làm vậy, cưng?”

Bà ta quá sốt ruột muốn mở ra nên không đợi câu trả lời. Bà ta có một con dao trong túi xách tay có kèm theo rất nhiều công dụng khác, bà ta kéo ra một lưỡi dao và cắm nó vào nắp hộp.

Ngay lập tức tiếng vù vù tràn ngập căn phòng.

Lyra và Pantalaimon ôm nhau đứng yên. Bà Coulter, luống cuống, tò mò, kéo mạnh nắp hộp, con khỉ vàng cúi người gần hơn để nhìn.

Rồi trong khoảnh khắc bóng đen của sinh vật do thám lao ra khỏi chiếc hộp, đâm mạnh vào mặt con khỉ.

Họ hét lên, giật người về phía sau, và tất nhiên việc này cũng làm bà Coulter bị đau. Bà ta hét lên đau đớn, hoảng sợ cùng con khỉ, rồi con quỷ nhỏ lao vào bà ta, leo lên ngực, cổ họng rồi lên mặt.

Lyra không chần chừ một giây. Pantalaimon nhảy ra cửa chính, Lyra theo phía sau, cô mở tung cửa và chạy nhanh hơn bất cứ lúc nào trong đời trước đây.

“Chuông báo cháy!” Pantalaimon kêu rít lên và bay lượn trên đầu cô.

Cô nhìn thấy một cái nút ở góc đường tiếp theo, đập vỡ lớp kính bảo vệ bên ngoài bằng một nắm đấm. Cô tiếp tục chạy, hướng về phía các ký túc xá, phá tung một chuông báo khác và mọi người bắt đầu chạy ra các hành lang, nhìn trước nhìn sau tìm chỗ cháy.

Lúc này cô đã ở gần nhà bếp. Pantalaimon truyền vào đầu cô một ý nghĩ, và cô lao đi. Một lúc sau cô đã bật tất cả vòi gas và bật một que diêm ném vào chiếc đèn gần nhất. Rồi cô giật một túi bột mì trên giá và ném mạnh nó vào cạnh bàn làm chiếc túi vỡ toạc ra, lấp đầy không khí thứ bột trắng, vì cô nghe nói bột mì sẽ gây nổ khi để cạnh lửa.

Cô chạy ra ngoài thật nhanh về ký túc xá của mình. Các hành lang đã chật ních người: những đứa trẻ chạy ngược chạy xuôi, đầy phấn khích, vì từ “trốn thoát” đã được truyền đi. Đứa trẻ lớn tuổi nhất đang đến nhà kho nơi quần áo được cất giữ và đưa những đứa nhỏ hơn đi cùng. Người lớn đang cố gắng mọi cách điều khiển, không ai trong số họ hiểu chuyện gì đang xảy ra. Người ta la hét, xô đẩy, kêu gào, chen lấn khắp mọi nơi.

Lyra và Pantalaimon luồn qua đám người như những con cá, hướng về phía ký túc xá, và vừa lúc họ đến được đó, một tiếng nổ vang lên ở phía sau làm rung chuyển cả toà nhà.

Những cô gái khác đã chạy ra ngoài, căn phòng trống trơn. Lyra đẩy chiếc tủ két vào góc phòng, nhảy lên, lôi đống quần áo ra khỏi trần nhà, kiểm tra chiếc Chân-kế. Nó vẫn còn ở đó. Cô nhanh chóng khoác áo ấm lên người, đội mũ chùm lên đầu, rồi Pantalaimon, biến thành một con vẹt đậu trước cửa, gọi:

“Được rồi đấy!”

Cô chạy ra ngoài. Thật nhanh chóng có một đám trẻ đã tìm thấy áo ấm đang chạy qua hành lang ra cửa chính, cô hoà vào đó, mồ hôi túa ra, trái tim cô đập thình thịch, cô hiểu rằng mình phải trốn thoát hoặc là chết.

Đường đi đã tắc nghẽn. Ngọn lửa trong gian bếp lan ra nhanh chóng, khí gas hay bột mì, hay một thứ gì đó đã làm một mảng trần sụp xuống. Người ta đang trèo lên những thanh chống cong queo và xà nhà để ra được không gian lạnh cắt da cắt thịt. Mùi gas rất nặng. Có một tiếng nổ khác vang lên, to hơn và gần hơn tiếng nổ trước. Luồng hơi toả ra từ vụ nổ làm nhiều người ngã ra, tiếng kêu hãi hùng và đau đớn vang lên khắp mọi nơi.

Lyra cố gắng lao lên, Pantalaimon kêu: “Lối này! Lối này!” giữa những tiếng kêu gào và run rẩy của đám nhân tinh. Cô lao mình qua đám lộn xộn. Không khí cô đang hít thở như đông cứng lại, cô hi vọng những đứa trẻ khác có thể xoay sở để tìm được áo mặc ngoài trời của mình. Sẽ là đáng tiếc nếu chạy trốn khỏi trạm chỉ để chết vì lạnh giá.

Giờ thì lửa đã cháy rất to. Khi chạy ra ngoài dưới bầu trời đêm cô có thể nhìn thấy ngọn lửa đang liếm thành một lỗ lớn bên cạnh toà nhà. Một đám trẻ con và người lớn đang đứng ở lối vào chính, nhưng lúc này cả trẻ con và người lớn đều sợ hãi hơn rất nhiều.

“Roger! Roger!” Lyra gọi, Pantalaimon, với đôi mắt tinh tường như một con cú, hét lên báo nó đã tìm thấy cậu.

Một thoáng sau chúng đã tìm thấy nhau.

“Hãy nói tất cả các bạn ấy đi theo mình!” Lyra hét vào tai cậu.

“Các bạn ấy sẽ không nghe đâu, tất cả đều đang rất hốt hoảng…”

“Hãy nói với các bạn ấy họ đã làm gì với những đứa trẻ đã biến mất! Họ tách nhân tinh ra bằng một lưỡi dao lớn! Hãy nói điều cậu nhìn thấy chiều nay… tất cả các con nhân tinh đã được thả ra! Hãy nói cho họ biết điều gì sẽ xảy ra nếu không chạy ra khỏi đây!”

Roger há hốc mồm, hoảng sợ, nhưng rồi cậu thu hết can đảm và chạy đến nhóm những đứa trẻ đang bối rối gần nhất. Lyra cũng làm thế. Khi thông tin được truyền đi, một số đứa trẻ hét lên và ôm chặt lấy nhân tinh đầy sợ hãi.

“Đi cùng mình!” Lyra kêu to. “Có một đội giải cứu đang đến! Chúng ta cần phải ra khỏi khu nhà này! Nào, chạy đi!”

Bọn trẻ nghe lời cô, chạy theo sau, luồn qua hàng rào đại lộ có nhiều cột đèn, giầy ống của chúng kêu lộp cộp và rin rít trên nền đất tuyết lèn chặt.

Phía sau họ, người lớn đang la hét, có một tiếng nổ ầm ầm, tiếng đổ sụp và một phần toà nhà đổ xuống. Những tia lửa vụt lên trong không khí, những ngọn lửa bùng lên với những âm thanh như tiếng xé vải; nhưng từ trong đó vang lên một âm thanh khác, khủng khiếp đến chết người. Lyra chưa từng nghe thấy âm thanh đó bao giờ, nhưng cô lập tức hiểu ra: đó là tiếng hú của những con nhân tinh chó sói của đội bảo vệ người Tartar. Cô cảm thấy bủn rủn chân tay, nhiều đứa trẻ hoảng hốt vấp ngã rồi dừng lại, vì người Tartar bảo vệ đầu tiên với những bước chân sải dài thoăn thoắt đã xuất hiện, khẩu súng trường đã sẵn sàng, với cái bóng màu xám của con nhân tinh khoẻ mạnh chạy bên cạnh.

Rồi một người nữa, một người nữa. Họ đều mặc áo giáp có đệm bên trong, họ không có mắt, hay ít nhất người ta không thể thấy con mắt nào phía sao những chiếc mũ sắt của họ. Những con mắt duy nhất có thể nhìn thấy là những đầu nòng súng trường tròn đen ngòm và những đôi mắt màu vàng rực sáng trên những cái mõm đang chảy nước ròng ròng của bọn sói.

Lyra luống cuống. Cô chưa từng lường trước những con chó sói này đáng sợ đến mức nào, giờ thì cô đã biết được việc những người Bolvangar dễ dàng vi phạm điều cấm kỵ không chạm vào nhân tinh của người khác đến mức nào, người cô run lên khi nghĩ đến những chiếc răng nanh kia cắm vào da thịt cô…

Đội quân Tartar chạy đến tạo thành một hàng ngang chắn giữa lối ra chính và đại lộ nhiều cột đèn, những con nhân tinh ở bên cạnh trật tự và có kỷ luật như vốn có. Một phút sau có thêm hàng thứ hai, có thêm những người khác đang đến, và nhiều người khác phía sau họ. Lyra nghĩ với nỗi thất vọng tràn trề: bọn trẻ con không thể đánh lại những chiến binh. Đây không giống như trận chiến tại mấy Mỏ Đất sét ở Oxford, ném những cục bùn vào những lò đốt gạch của đám trẻ con.

Hay có lẽ là giống! Cô nhớ đến cảnh mình ném những nắm đất sét vào khuôn mặt to bè đang hướng về mình của cậu bé con nhà đốt lò gạch. Cậu ta phải dừng lại để dụi mắt, rồi những đứa trẻ thành phố nhào vào cậu ta.

Lúc đó cô đang đứng trên một đống bùn. Giờ đây cô đang đứng trên tuyết.

Giống như cô đã làm chiều hôm đó, nhưng giờ thì dứt khoác và mạnh mẽ hơn, cô chụm hai tay lại vốc một vốc tuyết to và ném vào mặt người chiến binh ở gần mình nhất.

“Ném vào mắt họ đi!” Cô gào lên, bốc một nắm tuyết nữa.

Những đứa trẻ khác làm theo, nhân tinh của ai đó có sáng kiến bay thật nhanh bên cạnh những quả cầu tuyết và thúc thẳng vào khe hở của đôi mắt—rồi tất cả các con nhân tinh cũng hùa vào, một lúc sau những người Tartar đã bắt đầu nhảy như choi choi bực tức chửi rủa và cố gạt mấy nắm tuyết bị nén lại khỏi khoảng trống hẹp phía trước mắt mình.

“Nhanh lên!” Lyra hét và lao mình vào cánh cổng dẫn ra đại lộ nhiều cột đèn.

Bọn trẻ nối thành dòng phía sau cô, tất cả mọi người, lẩn tránh những cái mõm đang đớp của lũ chó sói và chạy nhanh hết mức có thể xuống đại lộ dẫn ra vùng không gian tối đen mênh mang đang mời gọi phía trước.

Một tiếng hét chói tai phía sau vang lên khi một sĩ quan hô to ra lệnh, rồi sau đó một vệt sáng từ khẩu súng trường vang lên ngay lập tức, rồi một tiếng hét khác, rồi tất cả chìm vào im lặng nặng nề, chỉ có tiếng bước chân và hơi thở hổn hển của bọn trẻ chạy trốn.

Họ đang ngắm bắn. Họ sẽ không bắn trượt.

Nhưng trước khi họ kịp nồ súng. một tiếng nấc nghẹn ngào vang lên từ một trong những người Tartar, rồi một tiếng hét ngạc nhiên vang lên từ những người khác.

Lyra ngừng chân và quay lại nhìn người đàn ông nằm trên nền tuyết, một mũi tên có chùm lông màu xám cắm trên lưng. Anh ta đang quằn quại, co giật và ho ra máu, những người còn lại đang nhìn ngó xung quanh xem ai là người bắn tên, nhưng chẳng ai nhìn thấy xạ thủ cả.

Tiếp đến một mũi tên khác bắn xuống từ trên bầu trời, cắm vào đầu một người đàn ông. Anh ta ngã xuống ngay lập tức. Với một tiếng hét của người sĩ quan, tất cả đồng loạt nhìn lên trời.

“Các phủ thuỷ!” Pantalaimon nói.

Họ đây rồi: những bóng hình màu đen thanh nhã bay lượn trên cao, với những tiếng vun vút và tiếng rít của không khí khi lọt qua những cành thông mây họ cưỡi. Khi Lyra quan sát, một người lượn thấp xuống và bắn một mũi tên: lại một người đàn ông nữa ngã xuống.

Rồi tất cả đám người Tartar hướng súng trường lên và nổ súng vào bóng tối, không nhắm vào gì cả, vào những bóng người, vào những đám mây, và ngày càng nhiều những mũi tên đổ xuống đầu họ.

Nhưng người sĩ quan phụ trách nhận thấy hầu hết bọn trẻ đã thoát ra ngoài, lệnh cho một nhóm người đuổi theo. Vài đứa trẻ hét lên, và thêm nhiều tiếng thét nữa, chúng không tiến lên phía trước nữa và quay lại hoảng loạn và sợ hãi trước một bóng hình khổng lồ đang lao về phía chúng trong bóng tối của đại lộ nhiều cột đèn.

“Iorek Byrnison!” Lyra hét lên, ngực cô như nổ tung vì mừng rỡ.

Con gấu mặc áo giáp sắt đang làm nhiệm vụ dường như chẳng để ý đến gì khác ngoài việc giữ cho mình thăng bằng. Nó lướt qua Lyra nhanh như một chiếc bóng và lao vào những người Tartar, những chiến binh đang chạy tán loạn, những con nhân tinh, súng trường và tất cả bọn họ. Rồi nó dừng lại, lắc lắc với sức mạnh dẻo dai và vung ra hai nắm đấm vào người lính canh gần nhất.

Một con nhân tinh chó sói lao vào nó: nó quật con chó sói vào không trung, con sói rít và hú lên trước khi biến mất. Chủ của nó chết ngay lập tức.

Người sĩ quan Tartar, đối mặt với hai sự tấn công, không hề nao núng. Một tiếng hét dài ra lệnh, toán người chia ra làm đôi. một chống chọi với các phù thuỷ, phần lớn hơn tấn công con gấu. Toán quân của ông ta dũng cảm đến kỳ lạ. Họ quỳ xuống theo từng nhóm bốn người và nổ súng như thể đang trong sân tập bắn, không lùi lấy một phân khi những nắm đấm mạnh mẽ của Iorek lao đến phía họ. Chỉ một khoảnh khắc sau họ đã chết.

Iorek tiếp tục tấn công, nó quay sang một phía, đập, gào thét, giẫm đạp trong khi những viên đạn vẫn lao vào nó như mộ đàn ruồi, không có một chút tác dụng nào. Lyra thúc bọn trẻ tiếp tục chạy vào vùng tối phía dưới những cột đèn, chúng cần phải chạy thoát, vì sự nguy hiểm đến từ những người Tartar, nhưng ghê gớm hơn nữa là sự nguy hiểm đến từ những người lớn ở Bolvangar.

Vì thế cô gọi, vẫy và đẩy bọn trẻ chạy tiếp. Khi những ngọn đèn phía sau họ đổ những bóng dài trên tuyết, Lyra thấy trái tim mình lao trong đêm tối thăm thẳm của Bắc cực và cái lạnh cắt da cắt thịt, lao vào nó để học cách yêu nó như Pantalaimon đang làm, một con thỏ rừng đang sung sướng vì tự do sải bước.

“Chúng mình đi đâu đây?” Ai đó hỏi.

“Ở ngoài này chẳng có gì ngoài tuyết!”

“Có một đội giải cứu đang đến đây,” Lyra nói với chúng. “Có khoảng năm mươi người Gypsy có con em bị mất tích, họ đều cử đại diện đến.”

“Mình không phải người Gypsy.” Một cậu bé nói.

“Không sao đâu. Họ cũng sẽ đưa cậu đi.”

“Đi đâu?” Ai đó nói với giọng cáu kỉnh.

“Về nhà.” Lyra trả lời. “Đó là lý do mình đến đây, để giải cứu các bạn, mình đưa những người Gypsy tới đây để đưa các bạn trở về nhà. Chúng mình chỉ việc đi thêm chút nữa rồi sẽ tìm thấy họ. Con gấu đi cùng với họ, vì thế họ không thể ở xa đây được.”

“Cậu có nhìn thấy con gấu đó không!” Một cậu bé lên tiếng. “Khi nó quật con nhân tinh xuống, người đàn ông chết ngay như thể có người moi trái tim của anh ta ra, đúng là như thế đấy!”

“Mình chưa hề biết là nhân tinh có thể bị giết,” đứa nào đó nói.

Tất cả bọn trẻ giờ đều nói chuyện, sự hào hứng và nhẹ nhõm khiến mọi người đều muốn nói chuyện. Nếu chúng vẫn tiếp tục đi, việc nói chuyện sẽ không gây trở ngại gì.

“Có đúng không?” Một cô bé nói, “Chuyện người ta làm ở đó ấy?”

“Ừ,” Lyra nói. “Mình không bao giờ nghĩ sẽ nhìn thấy người nào không có nhân tinh. Nhưng trên đường đến đây, mình đã tìm thấy một cậu bạn chỉ có một mình mà không có con nhân tinh nào bên cạnh. Cậu ấy cứ luôn miệng hỏi về nó, nó đang ở đâu, nó có tìm thấy cậu ấy không. Cậu ấy tên là Tony Makarios.”

“Mình biết cậu ấy!” Một đứa trẻ nói, những đứa khác hùa theo: “Đúng rồi, họ đưa cậu ấy đi khoảng một tuần…”

“Ừ, họ đã tách con nhân tinh của cậu ấy ra,” Lyra nói, cô hiểu nói như thế sẽ tác động đến bọn trẻ như thế nào. “Một khoảng thời gian ngắn sau khi chúng mình tìm được cậu ấy, cậu ấy đã chết. Còn tất cả những con nhân tinh họ tách ra khỏi chủ, họ giam trong những chiếc lồng trong một toà nhà hình vuông ở đó.”

“Đúng đấy,” Roger lên tiếng. “Lyra đã thả chúng ra trong buổi lập phòng chữa cháy.”

“Đúng rồi,” Billy Costa nói, “Lúc đầu mình không nhìn ra chúng là cái gì, nhưng mình đã thấy chúng bay đi cùng một con ngỗng.”

“Nhưng tai sao họ lại làm vậy?” một cậu bé thắc mắc. “Tai sao họ lại tách nhân tinh của con người ra? Như thế thật là đau đớn! Sao họ lại làm vậy?”

“Bụi,” ai đó nói với giọng ngờ vực.

Nhưng cậu bé cười một cách khinh thường. “Bụi!” Cậu nói. “Chẳng có thứ đó đâu! Họ chỉ bịa ra thôi! Mình không tin là có nó.”

“Đây này,” ai đó nói, “Hãy nhìn điều đang xảy ra với khí cầu zeppelin!”

Tất cả chúng đều quay lại. Dưới ánh sáng chói loà, nơi cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn, thân hình rất dài của chiếc khí cầu không còn trôi nổi tự do tại chiếc cột trụ khí cầu nữa. Đầu nó đang chúi xuống phía dưới, và phía dưới nổi lên một khối cầu…

“Khinh khí cầu của Lee Scoresby!” Lyra reo lên, thích thú vỗ hai bàn tay đeo bao tay vào nhau.

Những đứa trẻ khác bắt đầu phân tâm. Lyra đẩy chúng đi tiếp, thắc mắc không hiểu làm thế nào ông ấy có thể lái chiếc khinh khí cầu của mình đi xa đến thế. Rõ ràng là ông ấy đã làm được, và đó là một ý kiến hay, khi bơm đầy khinh khí cầu bằng khí gas lấy từ trong lòng đất để trốn thoát.

“Nhanh lên nào, tiếp tục đi đi, nếu không các bạn sẽ bị chết cóng đấy.” Cô nói, vì vài đứa trẻ đang run lập cập và rên rỉ vì lạnh, những con nhân tinh của chúng cũng đang kêu lên khe khẽ.

Pantalaimon nhận thấy như thế không ổn, trong hình dạng con chồn gu-lô nó vỗ vào con nhân tinh sóc của cô bé đang nắm ngang qua vai chủ và khẽ rên rỉ.

“Chui vào áo khoác của cô ấy đi! Hãy làm cho cậu to lên và sưởi ấm cho cô ấy!” Pantalaimon gầm gừ, con nhân tinh của cô bé hoảng hốt bò vào chiếc áo choàng của cô chủ ngay lập tức.

Rắc rối là ở chỗ chiếc áo chần bông không thể ấm bằng chiếc áo lông thú, dù nó có được chần bông dày đến đâu. Một số đứa trẻ trông như những cây nấm di động, quần áo của chúng rất cồng kềnh, nhưng được may trong các nhà máy và phòng thí nghiệm, không phù hợp để mặc ở ngoài này. Quần áo lông thú của Lyra trông tơi tả và bốc mùi hôi, nhưng nó giữ ấm rất tốt.

“Nếu không nhanh chóng tìm thấy những người Gypsy thì các bạn ấy sẽ không cầm cự được đến cùng đâu.” Lyra thì thầm với Pantalaimon.

“Vậy cứ thúc họ đi tiếp đã,” nó thì thầm lại, “Nếu họ mà nằm xuống thì kết thúc luôn đấy. Cậu có biết Farder Coram nói…”

Farder Coram đã kể rất nhiều chuyện ly kỳ về các chuyền đi của ông ở phương Bắc, và cả bà Coulter nữa—cứ giả định rằng bà ấy nói đúng đi. Nhưng cả hai đều rất chắc chắn ở một điểm, đó là phải cố gắng tiếp tục đi.

“Chúng mình phải đi bao xa?” một cậu bé hỏi.

“Cậu ấy bắt bọn mình ra đây để giết bọn mình đấy.” Một cô bé nói.

“Thà ở ngoài này còn hơn ở trong đó,” ai đó nói.

“Mình thì không thích thế! Trong trạm sẽ ấm hơn. Có thức ăn, đồ uống nóng và tất cả các thứ khác.”

“Nhưng nó đang bị cháy!”

“Nhưng bọn mình sẽ làm gì ở ngoài này? Mình cá tất cả sẽ chết vì đói cho mà xem.”

Tâm trí Lyra đầy ắp những câu hỏi u ám bay vòng vòng như những phù thuỷ, nhanh chóng mặt và không thể chạm vào được, ở đâu đó, một nơi cô không thể đến được, có một chiến thắng và cô không hiểu nổi tại sao.

Nhưng nó mang đến cho cô một luồng sức mạnh, cô lôi một cô bạn khỏi đám tuyết, thúc vào lưng cậu bé đang uể oải và gọi to cho tất cả mọi người cùng nghe: “Đi tiếp đi nào! Hãy theo dấu chân của con gấu! Nó đến cùng những người Gypsy, vì thế các dấu chân sẽ dẫn chúng ta đến chỗ họ! Cứ tiếp tục bước đi!”

Những bông tuyết lớn bắt đầu rơi. Chúng sẽ rất nhanh chóng lấp đầy những dấu chân của Iorek Byrnison. Giờ bọn trẻ đã đi khuất khỏi ánh đèn Bolvangar, những ánh lửa chỉ còn là tia sáng lấp lánh lờ mờ, ánh sáng duy nhất đến từ mặt đất phản chiếu màu tuyết trắng mờ. Những đám mây nặng nề che phủ cả bầu trời, vì thế không có cả trăng lẫn Ánh Sáng Phương Bắc, nhưng nếu nhìn thật chăm chú, bọn trẻ vẫn tìm ra vết chân rất sâu Iorek Byrnison để lại trên nền tuyết. Lyra khuyến khích, hoan hô, đá đít, dìu, mắng mỏ, kéo, đẩy, nhấc lên nhẹ nhàng bất cứ lúc nào cần, và Pantalaimon (bằng cách luôn ở gần những con nhân tinh) nói cho cô biết cần làm gì trong từng trường hợp.

Mình sẽ đưa mọi người đến đó, cô liên tục tự nhủ. Mình đến đây để giúp họ và mình giúp họ bằng mọi giá.

Roger bám theo cô, Billy Costa đang dẫn đường, vì là người tinh mắt hơn cả. Tuyết nhanh chóng rơi rất dày, chúng bíu vào nhau để không bị lạc; Lyra nghĩ, có lẽ tất cả chúng ta nằm gần nhau và giữ ấm như thế… đào những cái lỗ trong tuyết…

Cô nghe thấy tiếng gì đó như tiếng gầm của động cơ, không phải tiếng bình bịch nặng nề của khí cầu zeppelin mà thanh hơn, giống tiếng vo ve của ong bắp cày. Nó chập chờn lúc có lúc không.

Rồi có tiếng hú… Những con chó? Những con chó kéo xe? Khoảng cách xa quá nên rất khó đoán chắc, bị bao phủ bởi hàng triệu bông tuyết, bay tứ tán bởi những cơn gió nhẹ. Đó có thể là những con chó kéo xe của những người Gypsy, cũng có thể là những linh hồn lang thang trên lãnh nguyên, hay thậm chí là những con nhân tinh đã được thả tự do khóc cho những đứa trẻ mất tích, chủ của chúng.

Cô đang nhìn thấy gì đó… Không có ánh sáng nào trong tuyết, phải vậy không nhỉ? Chắc chắn đó phải là những hồn ma… Trừ khi bọn trẻ đang đi vòng lại và quay về Bolvangar.

Nhưng đó là những tia sáng của đèn lồng vàng, không phải thứ ánh sáng trắng của đèn điện anbaric, chúng đang chuyển động, những tiếng hú gần hơn, trước khi cô chắc chắn có phải mình đang mơ hay không, Lyra đã lọt vào giữa những bóng dáng thân quen. Những người đàn ông mặc áo lông thú đang bế cô lên: vòng tay mạnh mẽ của John Faa nhấc bổng cô lên khỏi mặt đất, Farder Coram đang cười sung sướng. Xa hơn cô có thể nhìn xuyên qua cơn bão tuyết, những người Gypsy đang nhấc bọn trẻ vào xe kéo, quấn quanh chúng áo choàng lông thú, cho chúng nhai thịt hải cẩu. Tony Costa cũng đang ở đó, ôm Billy, thụi nhẹ nó một cái rồi lại ôm chặt và lắc nó trong mừng rỡ. Và Roger…

“Roger sẽ đi cùng với chúng cháu,” cô nói với Farder Coram. “Lúc đầu chính cậu ấy là người cháu muốn cứu. Sau này bọn cháu sẽ cùng về Jordan. Âm thanh gì thế—”

Tiếng gầm đó lại vang lên, tiếng động cơ ấy, như sinh vật bay do thám liên loạn đó nhưng lớn gấp hàng nghìn lần.

Đột nhiên có một cú đấm làm cô ngã vật ra, Pantalaimon không thể bảo vệ cô, vì con khỉ vàng…

Bà Coulter…

Con khỉ vàng đang vật lộn, cắn xé và cào cấu Pantalaimon, còn Pantalaimon đang biến đổi thành rất nhiều hình dạng đến mức khó mà nhìn thấy nó và đánh trả: chích, đốt, quật, cào xé. Bà Coulter, khuôn mặt ẩn trong lớp lông thú, ánh mắt băng giá đầy vẻ căng thẳng, dang kéo Lyra ra phía sau một chiếc trượt tuyết gắn động cơ, Lyra vùng vẫy dữ dội không kém con nhân tinh của mình. Tuyết dày đến mức họ gần như bị cô lập một mình giữa trận bão tuyết, ánh đèn của chiếc xe trượt khi hiện ra cách vài phân giữa những bông tuyết quay cuồng dày đặc.

“Cứu với!” Lyra kêu lên, với những người Gypsy đứng ngay ở đó trong màn tuyết dày đặc và chẳng nhìn thấy gì hết. “Cứu với! Farder Coram! Ngài Faa! Ôi chúa ơi, cứu cháu!”

Bà Coulter hét lên và ra lệnh bằng ngôn ngữ của dân Tartar miền bắc. Màn lốc tuyết mở ra, họ ở đó, một nhóm, trang bị súng trường, những con nhân tinh chó sói gầm gừ. Người trưởng nhóm thấy bà Coulter đang vật lộn, nhấc Lyra lên bằng một tay như thể cô là một con búp bê và đẩy cô vào trong xe kéo, trong tình trạng choáng váng mụ mẫm.

Một tiếng súng vang lên, rồi một tiếng khác, khi những người Gypsy nhận thấy điều gì đang xảy ra. Nhưng nổ súng vào những mục tiêu không nhìn thấy rất nguy hiểm khi chính bạn cũng không biết những người phe mình đang đứng ở đâu. Những người Tartar, giờ thành một nhóm đứng sát nhau quanh chiếc xe kéo đã dễ nhìn thấy hơn, nhưng những người Gypsy không dám nổ súng vì sợ làm bị thương Lyra.

Ôi, cô cảm thấy thật đau đớn! Thật mệt mỏi!

Vẫn trong tình trạng mụ mẫm, trong đầu ong ong, cô gượng dậy tìm kiếm Pantalaimon đang chiến đấu một mình với con khỉ, hai hàm răng chồn gu-lô đang nghiến chặt vào cánh tay màu vàng. Và ai nữa kia?

Không phải Roger đấy chứ?

Đúng là Roger, cậu đang lao vào bà Coulter đấm đá, thụi đầu vào đầu bà ta, và bị ngã dụi bởi một người Tartar đánh vào người cậu như người ta xua một con ruồi. Giờ thì tất cả trở thành ảo ảnh: trắng, đen, một vệt màu xanh bay vụt qua mắt, những cái bóng tả tơi, ánh đèn đang di chuyển…

Một ngọn lốc lớn gạt màn tuyết sang một bên, Iorek Byrnison đang bước tới, tiếng kim loại chạm vào kim loại leng keng. Một lát sau, hai bên hàm táp sang phải, sang trái, và một cú táp xé tung lồng ngực mặc áo giáp, những chiếc răng trắng, tấm kim loại đen, lớp lông ướt màu đỏ…

Rồi có gì đó đang kéo cô thật mạnh, lên trên, chộp lấy cả Roger, giật cậu khỏi bà Coulter và nắm thật chặt, nhân tinh của hai đứa trẻ biến thành một con chim kêu chiêm chiếp thích thú trong khi một con lớn hơn lượn xung quanh chúng, rồi Lyra thấy trong khoảng không bên cạnh mình là một phù thuỷ, một trong những bóng trang nhã màu đen tơi tả trên bầu trời cao, nhưng đủ gần để chạm tới. Có một cánh cung trên đôi tay trần của bà phù thuỷ, bà tung cánh tay trần xanh xao (trong không khí lạnh giá như thế này!) để giương cung và bắn một mũi tên vào chiếc áo giáp đan mắt lưới làm người Tartar bắn tung ra xa mấy mét…

Những mũi tên tiếp tục lao đi và đổi lại, con nhân tinh hình chó sói của người đàn ông biến mất trong khi đang nhảy lên thậm chí trước khi kịp chạm đất.

Bay lên! Giữa không gian, Lyra và Roger được giữ và bay lượn, rồi nhận thấy mình đang bám vào một cành thông mây bằng những ngón tay yếu ớt, trên đó một phù thuỷ trẻ đang ngồi nghiêm, duyên dáng và cân bằng, bà nghiêng về bên trái, có gì đó khổng lồ hiện ra lờ mờ rồi mặt đất hiện ra.

Chúng lộn nhào xuống nền tuyết bên cạnh chiếc giỏ trên khinh khí cầu của Lee Scoresby.

“Nhảy vào trong đi,” người đàn ông Texas gọi, “và giữ lấy bạn của cháu bằng mọi cách. Cháu có thấy con gấu đó không?”

Lyra nhìn thấy ba phù thuỷ đang giữ một sợi dây thừng cuốn quanh một mỏm đá, găm chặt chiếc túi đựng khí xuống đất.

“Vào đây!” Cô hét lên với Roger, và trèo qua bờ mép viền da cảu chiếc giỏ rồi lăn xuống một đống gì đó xốp như tuyết. Một lát sau Roger ngã lên trên cô, rồi một âm thanh nửa như tiếng gầm, nửa như tiếng tống vang lên làm cả mặt đất rung chuyển.

“Nhanh lên, Iorek! Lên trên này đi, anh bạn cũ!” Lee Scoresby gào lên, và ở một bên vang lên tiếng cây mây kêu cọt kẹt là tiếng gỗ uốn cong.

Rồi một luồng khí nhẹ hơn gạt làn sương và tuyết sang một bên trong khoảnh khắc, đột nhiên Lyra nhìn thấy tất cả mọi thứ đang xảy ra xung quanh cô. Cô nhìn thấy một nhóm người Gypsy đang chiến đấu với đạo quân tập hậu người Tartar và dồn chúng chạy về Bolvangar đang cháy rụi. Cô thấy những người Gypsy khác đang giúp từng đứa trẻ lên xe kéo an toàn, ủ chúng vào lớp chăn lông thú ấm áp; cô nhìn thấy Farder Coram đang lo lắng đốc thúc mọi việc, dựa người vào vây gậy chống, con nhân tinh màu mùa thu nằm trên tuyết, nhìn ngược nhìn xuôi.

“Farder Coram!” Lyra gọi to. “Cháu ở đây!” Ông già nghe tiếng và quay sang thích thú nhìn chiếc khinh khí cầu nối với sợi dây thừng và mấy phù thuỷ đang kéo xuống, Lyra đang vẫy rối rít trong chiếc giỏ.

“Lyra!” Ông gọi to. “Cháu an toàn chứ, cô bé? Cháu có an toàn không?”

“Cháu vẫn an toàn!” Cô hét lên trả lời. “Chào ông, Farder Coram! Chào ông! Ông đưa tất cả các bạn ấy về nhà nhé!”

“Chúng ta sẽ làm thế, chắc chắn như chuyện đang sống vậy! Cháu đi thuận buồm xuôi gió nhé, cô bé của ta—đi thuận buồm xuôi gió—đi thuận buồm xuôi gió, cháu cưng—”

Cùng lúc đó người lái khinh khí cầu hạ tay xuống ra hiệu những phù thuỷ thả sợi dây ra.

Chiếc khinh khí cầu nâng lên ngay lập tức và bay lên vùng không gian dày đặc tuyết vối tốc độ Lyra không thể tin nổi. Một lát sau, lặt đất đã biến mất trong sương mù, họ lên cao, ngày càng nhanh hơn, đến mức cô nghĩ không có tên lửa nào có thể rời khỏi mặt đất nhanh đến thế. Cô nằm xuống bên Roger trên sàn chiếc giỏ, bị éo chặt bởi tốc độ ngày càng tăng cao.

Lee Scoresby đang vui, đứng cười nói và ngân nga những tiếng kêu thích thú của người Texas; Iorek Byrnison đang lặng lẽ cởi bộ áo giáp sắt, khéo léo lồng móng vuốt vào tất cả các mối nối và tháo chúng ra chỉ bằng một lần rút trước khi gói các tấm kim loại lại thành một gói. Đâu đó bên ngoài, tiếng không khí phần phật, vun vút qua những cành thông mây và những tấm thảm bay cho biết các phù thuỷ vẫn bay theo họ lên cao.

Lyra dần lấy lại được hơi thở, cân bằng và nhịp tim. Cô đứng lên nhìn xung quanh.

Chiếc giỏ rộng hơn cô tưởng tượng rất nhiều. Xếp viền xung quanh là các thiết bị khoa học, có những đống đồ lông thú, không khí đóng chai và rất nhiều những thứ khác quá nhỏ bé và rối rắm để nhận ra trong làn sương mù dày đặc họ đang đi qua.

“Đây có phải là một đám mây không?” Cô hỏi.

“Chắc rồi. Hãy cuộn bạn của cháu lại trong những tấm lông thú trước khi cậu ấy đóng băng. Ở đây rất lạnh, nhưng sẽ còn lạnh hơn nữa đấy.”

“Làm thế nào bác tìm được chúng cháu?”

“Các phù thuỷ. Có một bà phù thuỷ muốn nói chuyện với cháu đấy. Khi chúng ta ra khỏi các đám mây, chúng ta sẽ lấy lại trang thái cân bằng, lúc đó có thể ngồi xuống và hàn huyên một chút.”

“Iorek,” Lyra nói, “Cảm ơn vì anh đã đến.”

Con gấu kêu khụt khịt, ngồi xuống và liếm những vết máu trên lông. Sức nặng của nó khiến chiếc giỏ nghiêng sang một bên, nhưng như thế cũng không sao. Roger trông rất cảnh giác, nhưng Iorek Byrnison chẳng quan tâm đến nó nhiều hơn một bông tuyết. Lyra tự hài lòng với việc bám vào thành giỏ ngay phía dưới mà mình khi đứng, và mở to mắt nhìn ra những đám mây bên ngoài đang bay cuồn cuộn.

Chỉ mấy giây sau, chiếc khinh khí cầu bay qua đám mây, nó vẫn bay lên cao với tốc độ chóng mặt, vút lên bầu trời.

Cảnh tượng mới tuyệt làm sao!

Ngay phía trên đầu họ là chiếc khinh khí cầu phình to thành một đường cong vĩ đại. Phía trên và trước mặt họ là hiện tượng cực quang đang chiếu sáng, rực rỡ và hùng vĩ hơn tất cả những lần cô được chiêm ngưỡng trước đó. Ánh sáng ở khắp mọi nơi, hay gần như, họ là một phần của nó. Những dải ánh sáng lớn rung rinh, đung đưa như những đôi cánh thiên thần đang vẫy, những vầng hào quang của tầng phát quang nhào xuống những vách đá vô hình rồi nằm trên những chiếc bể xoáy lốc hay treo lên như những thác nước khổng lồ.

Lyra nhìn mê mài, rồi cô trông xuống phía dưới, và thấy một cảnh tượng thậm chí còn tuyệt diệu hơn.

Ở phía xa, đến tận đường chân trời theo các hướng khác nhau, một đại dương cuồn cuộn những ngọn sóng không màu mở rộng không có điểm dừng. Những đỉnh nhọn mềm mại hay những khe nứt nhô lên hay nở ra khắp mọi nơi, nhưng trông nó hầu như giống một khối băng khổng lồ.

Bay qua đó đơn lẻ hay theo từng nhóm là những bóng đen nhỏ, những chiếc bóng tả tơi duyên dáng, những phù thuỷ đang cưỡi trên những cành thông mây của mình.

Họ bay rất nhanh, rất nhẹ nhàng không cần cố sức, lên cao và về phía chiếc khinh khí cầu, bay dọc hai bên dẫn đường. Một trong số đó, người đã bắn cung cứu Lyra khỏi tay bà Coulter, bay thẳng đến bên chiếc giỏ, và lần đầu tiên Lyra được nhìn bà ta được rõ.

Bà ấy còn trẻ, trẻ hơn bà Coulter, và rất đẹp, với đôi mắt màu xanh lá cây lấp lánh, áo choàng lạu đen như tất cả các phù thuỷ khác, nhưng không có thứ đồ lông thú, mũ trùm hay bao tay nào cả. Dường như bà ấy không hề cảm thấy chút lạnh. Quanh trán bà là một vành hoa nhỏ màu đỏ giản dị. Bà ngồi trên cành thông mây của mình như thể nó là một con ngựa, và đang ghìm cương ngựa trong khi Lyra ngây người nhìn.

“Lyra phải không?”

“Vâng! Còn bà là Serafina Pekkala?”

“Chính là tôi đây.”

Lyra có thể hiểu vì sao Farder Coram yêu bà, và tại sao điều đó lại làm trái tim ông ta tan nát, dù chỉ một lúc trước đây thôi cô không hề biết cả hai điều này. Ông đang già đi, ông chỉ lả một người đàn ông già yếu, còn bà sẽ trẻ mãi không già.

“Cháu có giữ chiếc máy đọc biểu tượng đúng không?” Bà phù thuỷ nói bằng chất giọng giống như tiếng hát thánh thót của hiện tượng cực quang khiến Lyra khó lòng nhận ra cảm giác về âm thanh ngọt ngào của nó.

“Vâng. Cháu để nó trong túi áo, nó vẫn an toàn.”

Tiếng đập cánh rất lớn cho thấy có ai đó đang bay tới, rồi nó lướt đến bên bà: con nhân tinh ngỗng xám. Nó nói nhanh rồi quay đi lượn vòng quanh chiếc khinh khí cầu vẫn tiếp tục lên cao.

“Những người Gypsy đã phá tan Bolvangar.” Serafina Pekkala nói. “Họ đã hạ được hai mươi hai lính canh và chín nhân viên, họ châm lửa đốt tất cả những phần còn chưa sụp đổ của toà nhà. Họ sẽ phá huỷ nó hoàn toàn.”

“Thế còn bà Coulter?”

“Không thấy tin tức gì của bà ta cả.”

Bà kêu to một tiếng, những phù thuỷ khác lượn vòng rồi bay đến chiếc khinh khí cầu.

“Ông Scoresby.” Serafina nói, “quăng dây thừng cho chúng tôi nếu ông muốn.”

“Thưa bà, tôi rất hân hạnh. Chúng tôi vẫn đang lên cao, tôi đoán chúng tôi sẽ lên cao thêm một chút nữa. Sẽ cần bao nhiêu người phía bà để kéo chúng tôi về phía bắc?”

“Chúng tôi rất khoẻ,” bà chỉ nói có vậy.

Lee Scoresby đang buộc một đoạn dây thừng to vào một chiếc vòng kim loại đang tập hợp tất cả những dây thừng bao quanh chiếc túi đựng khí, nhờ đó chiếc giỏ được treo lơ lửng. Khi nó đã được cố định lại an toàn, ông ném đầu dây còn lại ra, ngay lập tức sáu phù thuỷ bay đến, bắt lấy, và bắt đầu kéo, thúc những cành thông mây bay về phía Sao Bắc cực.

Khi chiếc khinh khí cầu bắt đầu bay theo hướng đó, Pantalaimon đến đậu trên thành giỏ trong hình dạng một con nhạn biển. Nhân tinh của Lyra ra ngoài nhìn ngó xung quanh, nhưng bò vào ngay, vì Roger đang nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, giống Iorek Byrnison. Chỉ có Lee Scoresby là còn thức, lặng lẽ nhai một điếu xì gà dài và nhìn ngắm các thiết bị đo đặc của mình.

“Vậy là, Lyra,” Serafina Pekkala nói, “cháu có biết tại sao cháu phải đến chỗ ngài Asriel không?”

Lyra ngạc nhiên: “Để đưa ông ấy Chân-kế, tất nhiên là vậy rồi!” cô nói.

Cô chưa bao giờ nghĩ đến câu trả lời, nó đã quá hiển nhiên. Bà đã gợi cho cô động lực đầu tiên, điều cô gần như đã quên bẵng từ lâu.

“Hoặc là... để giúp ông ấy trốn thoát. Thế đấy ạ. Chúng cháu sẽ giúp ông ấy thoát ra.”

Nhưng nói xong, cô thấy nghe có vẻ buồn cười. Trốn thoát khỏi Svalbard? Điều đó là không thể!

“Dù sao, cũng phải thử chứ.” Cô nói thêm với vẻ cứng cỏi. “Tại sao bà hỏi vậy?”

“Ta nghĩ có những điều ta cần nói với cháu.” Serafina Pekkala nói.

“Về Bụi phải không ạ?”

Đó là điều đầu tiên Lyra muốn biết.

“Đúng vậy, cùng với những điều khác nữa. Nhưng giờ cháu mệt rồi, và đó sẽ là một cuộc chiến đấu lâu dài. Chúng ta sẽ nói chuyện khi nào cháu ngủ dậy.”

Lyra ngáp dài một cái khiến xương quai hàm kêu răng rắc và phổi bị ép lại kéo dài đến một phút hoặc cảm tưởng là lâu đến thế, cô không thể cưỡng lại cơn buồn ngủ. Serafina Pekkala đưa một tay qua gờ chiếc giỏ và chạm vào mắt cô. Khi Lyra nằm xuống sàn, Pantalaimon bay xuống, biến thành chồn ecmin, bò vào chỗ ngủ quen thuộc bên cổ cô.

Bà phù thuỷ cho cành thông mây bay nhanh bên chiếc giỏ trong khi nó bay về phía bắc đến Svalbard.

PHẦN BA

TRƯỜNG ĐẠI HỌC OXFORD

Chương 18: Sương mù và băng giá

Lee Scoresby đắp mấy tấm lông thú lên người Lyra. Cô cuộn tròn người lại gần Roger và chúng nằm ngủ bên nhau khi chiếc khinh khí cầu tiếp tục bay lên Bắc cực. Người lái khinh khí cầu kiểm tra các thiết bị hết lần này đến lần khác, nhai điếu xì gà chẳng bao giờ châm lửa, và nằm rúc sâu hơn vào những thứ đồ lông thú choàng quanh người.

“Cô bé này vô cùng quan trọng, phải vậy không?” Ông nói sau một lúc rất lâu.

“Hơn mức nó có thể biết.” Serafina Pekkala trả lời.

“Có phải thế có nghĩa là sẽ có thêm nhiều chuyện xảy trên con đường tìm kiếm? Bà có hiểu không, tôi đang nói đến tính mạng của một người đàn ông có đầu óc thực tế cần được cứu. Tôi không thể chấp nhận được việc bị nổ tung hay bắn tan thảnh vụn mà không có một sự thỏa thuận trước về bồi thường. Tôi không phải cố làm giảm tinh thần hăng hái của chuyến thám hiểm này, hãy tin tôi, thưa bà. Nhưng John Fan và những người Gypsy chỉ trả cho tôi một khoản phí đủ để chi tiêu cho bản thân và những vật dụng trên khinh khí cầu, tất cả chỉ có thế. Khoản đó không bao gồm phí bảo hiểm rủi ro chiến tranh. Để tôi nói cho bà biết, thưa bà, khi chúng ta thả Iorek Byrnison xuống Svalbard, đó sẽ được tính là một hành động chiến tranh.”

Ông búng một mẩu thuốc là ra ngoài một cách điệu nghệ.

“Vì thế tôi muốn biết chúng ta có thể chờ đợi gì trong cuộc hành trình đầy hỗn loạn và bất trắc này.” Ông kết thúc.

“Có thể sẽ phải chiến đấu,” Serafina Pekkala nói. “Nhưng trước đây ông đã từng chiến đấu rồi.”

“Đúng thế, khi đó tôi được trả tiền để làm vậy. Nhưng thực tế là, tôi đã nghĩ đay là một hợp đồng vận chuyển thuần túy, tôi được thanh toán tiền dựa trên hợp đồng đó. Giờ thì tôi đang thắc mắc không biết hành trình vận chuyển của tôi có trách nhiệm xa đến đâu. Liệu tôi có phải liều mạng các thiết bị của mình trong một cuộc chiến giữa các con gấu không, ví dụ là như vậy, hay liệu cô bé này có những kẻ thù tại Svalbard nóng tính như đám ở Bolvangar không. Tôi chỉ đề cập đến toàn bộ chuyện này qua hình thức đối thoại.”

“Ông Scoresby,” bà phù thủy nói, “tôi mong là mình có thể trả lời được câu hỏi của ông. Tất cả những gì tôi có thể nói là tất cả chúng ta, con người, các phù thủy, những con gấu đều đã nằm trong cuộc chiến, dù không phải ai trong chúng ta cũng nhận ra điều đó. Bất kể ông có gặp nguy hiểm ở Svalbard hay quay về với tình trạng không hề hấn gì, ông đã được chiêu mộ, được vũ trang, một chiến binh.”

“À, dường như đó là một kiểu bị dồn vào bước đường cùng. Dường như với tôi một người nên có quyền lựa chọn giữa cầm vũ khí hay không.”

“Chúng ta không có thêm chọn lựa nào trong việc đó hơn việc chọn giữa được sinh ra hay là không.”

“Ồ, dù sao, tôi cũng thích các chọn lựa.” ông ta nói. “Tôi muốn chọn công việc mình làm, nơi mình đến và thức ăn tôi ăn, những người bạn tôi giao du và truyện phiếm cùng. Thỉnh thoảng bà không mơ ước có được lựa chọn sao?”

Serafina Pekkala cân nhắc, rồi trả lời, “Có lẽ sự chọn lựa chúng ta nói đến không có ý nghĩa như vậy, ông Scoresby. Các phù thủy không sở hữu bất cứ thứ gì, vì thế chúng tôi không quan tâm đến việc giữ gìn của cải hay tạo ra lợi nhuận, còn về chọn lựa giữa cái này và cái khác, khi ông sống hàng trăm năm, ông sẽ biết rằng mọi cơ hội còn trở lại. Chúng tôi có những nhu cầu khác. Ông phải sửa chữa chiếc khinh khí cầu của mình và giữ nó trong điều kiện tốt, điều này tốn thời gian cũng như công sức, tôi biết thế; nhưng để chúng tôi có thể bay được, tất cả những gì cần làm là bẻ một cành thông mây, thứ đó có nhiều lắm. Chúng tôi không cảm thấy lạnh, vì thế chẳng cần gì đến quần áo ấm. Chúng tôi không có hình thức trao đổi nào khác ngoài sự giúp đỡ lẫn nhau. Nếu một phù thủy cần thứ gì đó, một phù thủy khác sẽ mang thứ đó đến. Nếu có một cuộc chiến, chúng tôi sẽ không suy xét cái giá của quyết định có nên chiến đấu hay không. Chúng tôi cũng không có ý tức gì về danh dự, không như những con gấu. Với con gấu, sự xúc phạm là điều cấm kỵ. Với chúng tôi... đó là điều không thể hình dung ra. Làm thế nào ông có thể xúc phạm được một phù thủy? Và nếu có làm thế thì có gì là ghê gớm?”

“Vâng, tôi đồng ý với bà về vấn đề đó. Khó khăn gian khổ, tôi cũng có thể vượt qua, tiếng tăm chẳng có gì đáng kể. Nhưng thưa bà, bà hiểu cho thế tiến thoái lưỡng nan của tôi, tôi hi vọng là thế. Tôi chỉ là một người lái khinh khí cầu bình thường, và tôi muốn sống phần cuối đời một cách thư thái. Mua một nông trại nhỏ, mấy đầu gia súc, vài con ngựa... Chẳng có gì ghê gớm, bà thấy không. Không có cung điện hay nô lệ hay những đống vàng. Chỉ là làn gió đêm trong vườn, một điếu xì gà và một cốc rượu uýt-ky ngô. Giờ thì rắc rối là ở chỗ, những thứ đó tốn tiền. Tôi thực hiện chuyến bay để đổi lấy tiền, sau mỗi hợp đồng tôi gửi lại một ít vàng về Ngân hàng Fargo Wells, khi đã gom đủ tiền, thưa bà, tôi sẽ bán chiếc khinh khí cầu này rồi đặt cho mình một chỗ trên con tàu hơi nước đến Cảng Galveston, và tôi sẽ chẳng bao giờ rời mặt đất lần nữa.”

“Còn có một khác biệt nữa giữa chúng ta, ông Scoresby. Một phù thủy sẽ ngừng thở ngay khi ngừng bay. Khi bay chúng tôi trở lên hoàn hảo nhất.”

“Tôi có nhận thấy, thưa bà, và tôi thấy ghen tỵ với bà. Nhưng tôi không có sự thỏa mãn như của bà. Với tôi bay chỉ là một công việc, tôi chỉ là một kỹ sư. Tôi cũng có thể chữa van cho một động cơ hơi gas hay nối các mạch điện. Nhưng tôi đã chọn công việc này, bà cũng biết đấy. Đó là sự lựa chọn tình nguyện của chính tôi. Tôi thấy nguy cơ chiến tranh mà tôi không được báo trước cũng là một loại vấn đề đấy.”

“Mâu thuẫn giữa Iorek Byrnison và vua của anh ta cũng là một phần trong đó.” Bà phù thủy nói. “Và định mệnh của đứa bé này là đóng một vai trò trong đó.”

“Bà nói đến định mệnh,” Lee Scoresby nói, “như thế nó đã được an bài. Tôi không chắc tôi thích nó hơn một cuộc chiến tranh tôi bị lôi kéo vào mà không hề biết trước. Sự tự lựa chọn của tôi đâu rồi, thưa bà? Và dường như với tôi, đứa trẻ này có nhiều sự tự do hơn bất cứ ai tôi từng gặp. Có phải bà muốn nói với tôi rằng đứa trẻ này là một loại đồ chơi lên dây cót đã được lên dây và xếp đặt một lịch trình nó không thể thay đổi?”

“Tất cả chúng ta đều có định mệnh. Nhưng tất cả chúng ta đều hành động như thể không phải thế,” bà phù thủy nói, “hoặc sẽ chết trong thất vọng. Có lột lời tiên tri kì lạ về đưa bé này: định mệnh của nó là mang lại kết thúc cho định mệnh. Nhưng nó phải làm thế mà không biết rằng mình đang làm, như thể đó là nó muốn làm thế chứ không phải là số phận. nếu người khác nói cho nó phải làm gì, mọi chuyện sẽ thất bại; cái chết sẽ bao chùm cả thế giới; đó sẽ là chiến thắng của nỗi tuyệt vọng, vĩnh viễn là như thế. Vũ trụ sẽ không còn gì ngoài một cỗ máy bên trong, câm lặng và trống rỗng không có sự sống, ý thức, cảm giác...”

Họ nhìn xuống Lyra, khôn mặt cô khi đang ngủ (trong chiếc mũ trùm đầu trông nó thật bé nhỏ) vẫn vương những nét bướng bỉnh nghiêm nghị.

“Tôi đoán phần nào trong nó cũng biết thế,” người lại khinh khí cầu nói. “Nó cũng suy tính trước, theo một cách nào đó. Thế còn cậu bé? Bà có biết cô bé đi cả quãng đường dài này để cứu nó khỏi tay bọn người độc ác đo không? Chúng là bạn với nhau hồi trước ở Oxford hay đâu đó. Bà có biết điều này không?”

“Có, tôi có biết. Lyra đang mang theo một vật vô cùng quan trọng, và dường như định mệnh đã dùng vật đó như một sứ giả để đưa nó đến gặp cha mình. Vì thế nó lặn lội đến đây để tìm bạn, không biết rằng bạn nó được đưa lên phương Bắc do định mệnh, nhằm khiến nó đi theo và đưa thứ gì đó cho cha mình.”

“Đó là điều bà đọc ra được, phải không?”

Lần đầu tiên bà phù thủy có vẻ không chắc chắn.

“Dường như mọi chuyện là như vậy... Nhưng chúng tôi không thể đọc được bóng tối, ông Scoresby ạ. Cũng rất có thể tôi nhầm.”

“Điều gì đã lôi kéo bà vào tất cả những chuyện này, nếu tôi được phép hỏi như vậy?”

“Tất cả những gì bọn người kia làm ở Bolvangar, chúng tôi đều cảm thấy xấu xa đến tận xương tủy. Lyra là kẻ thù của chúng, vì thế chúng tôi là bạn của cô bé. Chúng tôi chỉ biết có vậy. Nhưng còn có tình bạn giữa bộ tộc của tôi với người Gypsy, chuyện này liên quan đến việc Farder Coram cứu tôi thoát chết. Chúng tôi làm điều này vì họ yêu cầu. Và còn những mối ràng buộc với ngài Asriel.”

“Tôi hiểu. Vậy là bà đang kéo chiếc khinh khí cầu đến Svalbard vì lợi ích của những người Gypsy. Liệu tình bạn đó có đủ để kéo chúng tôi trở về hay không? Hay tôi sẽ phải chờ đợi một luồng gió tốt bụng, hay trông đời đặc ân của những con gấu? Một lần nữa, thưa bà, tôi đang chỉ dám yêu cầu một tinh thần bằng hữu.”

“Nếu chúng tôi có thể giúp ông quay trở về Trollesund, ông Lee Scoresby, chúng tôi sẽ giúp. Nhưng chúng tôi không biết chúng tôi sẽ gặp những chuyện gì ở Svalbard. Vị vua mới của những con gấu đã có rất nhiều cải cách; những cách thức cũ rất có lợi cho chúng tôi, cải cách mới có thể gây trở ngại cho việc hạ cánh. Tôi không biết Lyra sẽ tìm cách nào để đến được với cha mình. Tôi cũng không biết Iorek Byrnison có suy tính làm gì trong đầu, ngoại trừ việc số phận của anh ta gắn liền với cô bé.”

“Tôi cũng không biết, thưa bà. Tôi nghĩ nó gắn liền với cô bé này như một người bảo vệ. Cô bé giúp nó tìm lại bộ áo giáp sắt, bà biết đấy. Ai mà biết được những con gấu có cảm giác thế nào? Nhưng nếu quả thực có chuyện một con gấu yêu thương con người, thì tôi có thể nói nó yêu thương cô bé. Còn về chuyện hạ cánh xuống Svalbard, việc đó không bao giờ là dễ dàng cả. Tuy nhiên, nếu tôi vẫn có thể dựa vào bà để được kéo đi theo đúng hướng, tôi sẽ cảm thấy yên lòng hơn. Nếu có điều gì tôi có thể làm để đến đáp lại, xin bà cứ nói ra. Nhưng bà có thể nói cho tôi biết tôi ở phía bên nào trong cuộc chiến vô hình này không?”

“Cả hại chúng ta đều ở phía Lyra.”

“Ồ, việc đó thì không nghi ngờ gì rồi.”

Họ tiếp tục bay đi. Do phía dưới họ là màn mây dày đặc, không có cách nào đoán được tốc độ họ đang bay. Tất nhiên, thông thường, một chiếc khinh khí cầu đứng im tùy thuộc vào gió, di chuyển với tốc đọ mà bản thân không khí đang chuyển động; nhưng hiện tại, khi được kéo bởi phù thủy, chiếc khinh khí cầu lướt qua không khí, và duy trì chuyển động này, bởi chiếc túi khí gas khó điều khiển và không được phẳng phiu hay thuôn thuôn. Kết quả là, chiếc giỏ đu từ bên này sang bên kia, đung đưa và xóc nảy hơn nhiều so với một chuyến bay thông thường.

Lee Scoresby không quan tâm đến sự dễ chịu của mình bằng các thiết bị trên khinh khí cầu, ông dành thời gian kiểm tra lại chắc chắn chúng đã được cột chặt vào các thanh chống hay chưa. Căn cứ vào đồng hồ đo độ cao gần ba nghìn mét. Máy đo nhiệt độ chỉ vào hai mươi độ âm. Ông cảm thấy mình đang lạnh hơn thế, và không muốn bị tê cóng, vì thế ông trải một tấm vải buồm dùng như một chiếc trại dã ngoại lúc khẩn cấp, trải nó ra phía trước hai đứa trẻ đang ngủ để chắn gió, rồi nằm xuống quay lưng lại người chiến hữu của mình, Iorek Byrnison, và chìm vào giấc ngủ.

*

* *

Khi Lyra tỉnh giấc, mặt trăng đã lên cao trên bầu trời, tất cả những tứ trong tầm mắt đều như được dát bạc, từ bề mặt cuồn cuộn của những đám mây phía dưới cho đến những vệt sương giá và nhũ băng bên gờ chiếc khinh khí cầu.

Roger vẫn đang ngủ, cả Lee Scoresby và con gấu cũng thế. Nhưng bên cạnh chiếc giỏ bà phù tủy vẫn đang bay nhanh.

“Chúng ta còn cách Svalbard bao xa?” Lyra hỏi.

“Nếu không gặp gió, chúng ta sẽ bay đến Svalbard trong khoảng mười hai tiếng đồng hồ hoặc khoảng đó.”

“Chúng ta sẽ đến đâu để hạ cánh được?”

“Còn phụ thuộc vào thời tiết. Tuy nhiên, chúng ta sẽ phải cố gắng tránh các mỏm đá. Tại đó có những sinh vật rình rập bất cứ thứ gì chuyển động. Nếu có thể, chúng ta có thể hạ cánh trong đất liền, cách xa cung điện của Iofur Raknison.”

“Điều gì sẽ xảy ra khi cháu tìm thấy ngài Asriel? Liệu ông ấy có muốn quay trở lại Oxford không, hay muốn thế nào? Cháu không biết có nên nói cho ông ấy rằng cháu biết ông ấy là cha cháu hay không. Có thể ông ấy vẫn muốn giả làm chú của cháu. Cháu không thực sự hiểu ông ấy lắm.”

“Ông ấy sẽ không muốn trở về Oxford đâu, Lyra. Dường như có điều gì đó cần làm ở một thế giới khác, Ngài Asriel là người duy nhất có thể bắc cây cầu nối liền giữa thế giới này và thế giới đó. Nhưng ông ấy cần thứ gì đó để giúp mình.”

“Chân-kế!” Lyra nói. “Ông Hiệu trưởng Jordan đã đưa nó cho cháu và nghĩ ông ấy muốn nói điều gì đó về Ngài Asriel, nhưng không bao giờ có cơ hội cả. Cháu biết ông ấy không thực sự muốn đầu độc Ngài Asriel. Có phải ông ấy sẽ đọc chiếc máy và biết cách làm thế nào để chế tạo được cây cầu không? Cháu cá là cháu có thể giúp ông ấy. Giờ thì cháu có thể đọc được nó giỏi như bất cứ ai.”

“Ta không biết,” Serafina Pekkala nói, “ông ấy sẽ làm như thế nào, nhiệm vụ của ông ấy là gì, chúng ta không thể biết được, Có những thế lực nói chuyện với chúng ta, thì cũng có những thế lực ở phía sau chúng, và thậm chí có những bí mật ở tầng cao nhất.”

“Chân-kế có thể nói cho cháu biết! Cháu có thể đọc nó bây giờ—”

Nhưng trời quá lạnh, cô khó lòng có thể cầm được nó trên tay. Cô cuộn mình lại thật chặt và kéo chiếc mũ chùm đầu kín mít lại để tránh những cơn gió lạnh buốt, chỉ để lại một khe nhỏ để nhìn ra ngoài. Xa phía trên đầu, ở dưới một chút, sợi dây thừng dài căng ra từ chiếc vòng treo khinh khí cầu, được kéo bởi sáu hay bảy phù thủy đang ngồi trên cành thông mây của mình. Những ngôi sao sáng rực rỡ và lạnh lẽo như kim cương.

“Tại sao bà không cảm thấy lạnh, Serafina Pekkala?”

“Chúng tôi có cảm thấy lạnh, nhưng không quan tâm đến điều đó, vì chúng tôi sẽ không bị ảnh hưởng gì từ nó. Nếu chúng tôi quấn đồ quanh mình để tránh rét, chúng tôi sẽ không thể cảm thấy được những thứ khác, như sự rộn ràng của những vì sao, âm nhạc của Hiện tượng cực quang, hay tuyệt vời hơn cả, là cảm giác mượt mà như lụa của ánh trăng để trên da thịt mình. Nó đáng để chịu lạnh hơn cả thế này.”

“Cháu có thể cảm nhận được những điều đó không?”

“Không. Cháu sẽ chết nếu cởi những thứ đồ lông thú đó ra khỏi người. Hãy cứ cuộn mình thật chặt vào.”

“Những phù thủy sống được bao nhiêu năm, Serafina Pekkala? Farder Coram nói là hàng trăm năm. Nhưng trông bà chẳng già chút nào.”

“Ta đã ba trăm tuổi hoặc hơn thế nữa. Phù thủy cao tuổi nhất của chúng ta đã sống một nghìn năm. Một ngày nào đó, Yambe-Akka sẽ đến với bà ấy. Một ngày nào đó bà ấy cũng sẽ đến với ta. Bà ấy là nữ thần của cái chết. Bà ấy đến mỉm cười dịu dàng với ta, và ta biết đã đến lúc phải chết.”

“Có những phù thủy nam không? Hay chỉ có phù thủy nữ thôi?”

“Có những phù thủy nam phục vụ chúng ta, như ông lãnh sự tại Trollesund. Và có những người đàn ông chúng ta coi như người yêu hay chồng. Cháu còn nhỏ quá, Lyra, quá nhỏ để hiểu được chuyện này, nhưng dù sao ta cũng sẽ nói và cháu sẽ hiểu: những người đàn ông đi qua mắt chúng ra như những con bướm, những sinh linh theo mùa ngắn ngủi. Chúng ta yêu họ; họ dũng cảm, rạng rỡ, đẹp đẽ và thông minh; và họ gần như chết ngay lập tức. Họ chết nhanh chóng đến mức trái tim chúng ta liên tục tan nát trong đau đớn. Chúng ta mang thai những đứa con của họ, những đứa trẻ sẽ trở thành phù thủy nếu là nữ, là con người nếu ngược lại; rồi trong nháy mắt họ ra đi, biến mất. Những đứa con trai của chúng ta cũng vậy. Khi một cậu bé lớn lên, nó nghĩ nó bất tử. Nhưng mẹ của đứa bé biết là không phải. Những lần như thế lại càng thêm đau đớn, cho đến khi cuối cùng trái tim chúng ta tan nát. Có lẽ đó là khi Yambe-Akka đến với chúng ta. Bà ấy còn già hơn cả lãnh nguyên. Có lẽ, với bà ấy, cuộc đời của phù thủy cũng ngắn ngủi như cuộc đời của người đàn ông đối với chúng ta.”

“Bà có yêu Farder Coram không?”

“Có. Ông ấy có biết điều đó không?”

“Cháu không biết, nhưng cháu biết ông ấy yêu bà.”

“Khi cứu ta, ông ấy trẻ trung, cường tráng, tràn đầy sức sống và đẹp đẽ. Ta phải lòng ông ấy ngay từ phút đầu tiên. Ta có thể thay đổi tính cách của mình, ta có thể bỏ qua sự rộn ràng của những vì sao và giai điệu của Hiện tượng cực quang, ta có thể không bao giờ bay nữa—ta có thể từ bỏ tất cả những điều đó trong khoảnh khắc, không suy nghĩ, để trở thành bà chủ thuyền với một người Gypsy, nấu ăn cho ông ấy, ngủ chung gương với ông ấy và sinh con cho ông ấy. Nhưng cháu không thể thay đổi được việc cháu là ai, mà chỉ là việc cháu làm thôi. Ta là phù thủy, ông ấy là con người. Ta ở bên ông ấy đủ lâu để mang thai một đứa con của ông ấy—”

“Ông ấy không bao giờ kể về chuyện này cả. Đứa bé là con gái phải không? Một phù thủy?”

“Không. Một bé trai, nó chết trong một đại dịch bốn mươi năm về trước, thứ bệnh đến từ miền Đông. Đứa bé khốn khổ; nó lướt qua cuộc sống và ra khỏi đó như một con phù du. Việc này xé trái tim ta ra hàng trăm mảnh, như vẫn vậy. Việc này cũng đánh quỵ Coram. Rồi sau đó ta được gọi trở lại với những người của mình, vì Yambe-Akka đã đưa mẹ ta đi, và ta trở thành nữ hoàng của bộ tộc. Vì thế ta ra đi, như ta phải làm.”

“Bà không bao giờ gặp lại Farder Coram nữa sao?”

“Không bao giờ. Ta có nghe những chiến công lẫy lừng của ông ấy, nghe về chuyện ông ấy đã bị thương như thế nào trong tay bọn người Skraeling, với một mũi tên có thuốc độc, ta đã gửi thảo dược cùng những câu thần chú để giúp ông ấy hồi phục, nhưng ta không đủ mạnh mẽ để gặp ông ấy. Ta cũng nghe nói ông ấy đã đau khổ thế nào sau đó, sự khôn ngoan của ông ấy được bồi đắp như thế nào, ông ấy đã học tập và đọc nhiều sách như thế nào, ta tự hào về ông ấy, cùng những đức tính tốt của ông ấy. Nhưng ta luôn tránh xa, vì đó là những khoảng thời gian nguy hiểm với bộ tộc của ta, những cuộc chiến giữa các phù thủy rất đáng sợ, bên cạnh đó, ta nghĩ ông ấy đã quên ta. Đã tìm được một người vợ là con người...”

“Ông ấy chẳng bao giờ làm thế cả.” Lyra nói một cách chắc nịch. “Bà nên đến gặp ông ấy. Ông ấy vẫn còn yêu bà, cháu biết là như vậy.”

“Nhưng có thể ông ấy sẽ xấu hổ về tuổi tác của chính mình, ta không muốn làm ông ấy cảm thấy điều đó.”

“Có lẽ ông ấy sẽ cảm thấy như vậy. Nhưng bà nên gửi một thông điệp đến cho ông ấy, ít nhất là như vậy. Cháu nghĩ thế đấy.”

Serafina Pekkala không nói gì một lúc lâu. Pantalaimon biến thành một con nhạn biển và bay đến đậu bên chủ.

Rồi Lyra lại hỏi: “Tại sao con người lại có nhân tính, Serafina Pekkala?”

“Ai cũng hỏi như vậy, và không có ai biết câu trả lời. Cho đến khi còn tồn tại con người thì vẫn còn những con nhân tinh. Đó là điều làm cho chúng ta khác biệt với động vật.”

“Vâng! Đúng là chúng ta khác biệt với chúng... Như những con gấu ấy. Người ta nghĩ nó giống con người, rồi đột nhiên nó làm điều gì đó rất kì lạ hay độc ác mà con người không thể hiểu nổi... Nhưng bà có biết Iorek nói gì với cháu không, rằng anh ấy bộ áo giáp sắt cũng giống như con nhân tinh với loài người vậy. Đó là linh hồn của anh ấy, anh ấy nói thế. Nhưng điều này cũng lại khác so với con người, vì chính anh ấy đã tạo ra bộ áo giáp sắt cho chính mình. Họ cướp bộ áo giáp sắt đầu tiên của anh ấy khi bắt anh ấy đi đày, rồi anh ấy tìm được những mảnh kim loại của bầu trời và làm một bộ áo giáp sắt mới, như tạo ra một linh hồn mới. Chúng ta không thể tạo ra con nhân tinh. Rồi những người ở Trollesund chuốc cho anh ấy say rượu và ăn cắp nó mang đi, rồi cháu tìm được chỗ người ta giấu nó và anh ấy mang nó về... Nhưng điều cháu thắc mắc là, tại sao anh ấy lại đến Svalbard? Họ sẽ đánh anh ấy. Có thể họ sẽ giết anh ấy... Cháu yêu quý Iorek. Cháu yêu anh ấy rất nhiều và ước gì anh ấy đừng đến đây.”

“Anh ta đã nói với cháu anh ta là ai chưa?”

“Chỉ nói mỗi tên thôi. Tên anh ấy là do ông Lãnh sự ở Trollesund nói cho chúng cháu biết.”

“Anh ta thuộc dong dõi hoàng gia đấy. Anh ta là một hoàng tử. Thực ra, nếu không phạm tội. giờ đây anh ta đã là vua rồi.”

“Anh ấy nói với cháu vua của những con gấu là Iofur Raknison.”

“Iofur Raknison trở thành vua sau khi Iorek Byrnison bị đi đày. Iofur là một hoàng tử, tất nhiên. Ông ta không có được vương quyền nhưng ông ta thông minh như con người. Ông ta lôi kéo đồng minh và có những thỏa thuận. Ông ta không sống theo cách của những con gấu, trong một pháo đài tuyết, mà trong một cung điện xây dựng theo kiểu mới. Ông ta đàm phán để trao đổi đại sứ với các quốc gia của con người và phát triển các mỏ than với sự trợ giúp từ máy móc của loài người... Ông ta rất khôn ngoan và xảo quyệt. Có người nói ông ta đã kích động khiến Iorek phạm vào tội đi đày này, còn những người khác nói, thậm chí nếu ông ta không làm thế, ông ta cũng khiên họ nghĩ là ông ta đã làm. Vì chuyện này làm tăn thêm danh tiếng về mánh khóe và sự quỷ quyệt của ông ta.”

“Iorek đã làm gì? Bà biết không, một lí do để cháu yêu Iorek, đó là cha cháu cũng làm những điều anh ấy làm và bị trừng phạt. Dương như với cháu, họ rất giống nhau. Iorek nói anh ấy đã giết một con gấu khác, nhưng không bao giờ kể mọi chuyện xảy ra như thế nào.”

“Chuyện xảy ra là vì một con gấu cái. Con gấu đực mà Iorek Byrnison giết đã không thể hiện những tín hiệu run sợ thông thường khi rõ ràng là Iorek Byrnison mạnh hơn. Những con gấu bao giờ cũng nhận thấy một sức mạnh lấn át từ con gấu khác và run sợ trước sức mạnh đó, nhưng vì một lí do nào đó con gấu này lại không làm như vậy. Có người nói Iofur Raknison đã xúi giục, hay đưa cho anh ta một loại thảo dược gây nhầm lẫn nào đó. Dù thế nào, con gấu kia cũng khăng khăng cố chấp, và Iorek Byrnison dã cho phép cơn thịnh nộ chế ngự mình. Vụ án không có gì là phức tạp, đáng ra con gấu kia chỉ nên bị thương, không nên bị giết.”

“Nếu không anh ấy đã là vua,” Lyra nói. “Và cháu đã nghe được điều gì đó về Iofur Raknison từ Giáo sư Palmerian ở Jordan, vì ông ấy đã lên phương Bắc và gặp ông ta. Ông ấy nói... giá mà cháu nhớ được ông ấy nói gì... Cháu nghĩ là giáo sư nói ông ta đã lừa đảo để có được ngai vang hay sao đó... nhưng bà biết không, Iorek Byrnison từng một lần nói với cháu rằng một con gấu không thể bị lừa, anh ấy đã cho cháu thấy rằng cháu không thể lừa nổi anh ấy. Nghe có vẻ như cả hai bọn họ đã bị lừa, anh ấy và con gấu kia. Có thể chỉ có gấu mới lừa được gấu, có thể loài người không thể lừa được chúng. Ngoại trừ... những người ở Trollesund, họ đã lừa anh ấy phải không? Khi họ chuốc cho anh ấy say và ăn cắp bộ áo giáp sắt của anh ấy?”

“Khi những con gấu xử sự như con người, có thể chúng cũng bị lừa,” Serafina Pekkala nói. “Khi những con gấu xử sự như những con gấu, có thể chúng không bị lừa. Thường thì không có con gấu nào có thể uống rượu. Iorek Byrnison uống để quên đi nỗi hổ thẹn bị đi đày, chính vì thế người ở Trollesund mới lừa được anh ta.”

“À, đúng rồi.” Lyra nói, gật gật đầu. Cô hài lòng với ý kiến này. Sự ngưỡng mộ của cô đối với Iorek Byrnison dường như là không có giới hạn, cô rất sung sướng khi có thể khẳng định được về sự cao quý của nó. “Bà thật là thông minh,” cô nói. “Nếu bà không nói có lẽ cháu chẳng bao giờ biết cả. Cháu nghĩ có lẽ bà còn thông minh hơn cả bà Coulter.”

Họ tiếp tục bay, Lyra nhai một mẩu thịt hải cẩu cô tìm thấy trong túi áo.

“Serafina Pekkala,” một lúc sau cô nói, “Bụi là gì vậy? Vì dường như với cháu, tất cả những rắc rối này đều do Bụi gây ra, mà chẳng có ai nói với cháu nó là gì cả.”

“Ta không biết,” Serafina Pekkala nói với cô. “Các phù thủy không có gì phải lo lắng về Bụi. Tất cả những gì ta có thể nói là nơi nào còn có các thầy tu thì ở đó còn có sự sợ hãi về Bụi. Bà Coulter không phải là một thầy tu, tất nhiên là thế, nhưng bà ta là một mắt xích quan trọng của Tổng giáo giám mục, chính bà ấy là người lập nên Ủy ban Tôn giáo và thuyết phục Giáo hội chi tiền cho những hoạt động diễn ra tại Bolvangar, vì bà ta quan tâm đến Bụi. Chúng tôi không thể hiểu được những cảm nhận của bà ta về nó. Nhưng có rất nhiều chuyện chúng ta chẳng bao giờ hiểu được. Chúng ta nhìn thấy người Tartar đục những cái lỗ trên xương sọ, chúng ta chỉ có thể thắc mắc về sự kỳ quặc của việc đó. Vì thế có thể Bụi là kì lạ, và chúng ta thắc mắc về nó, nhưng chúng ta không bực dọc xé cái gì đó ra để nghiên cứu nó. Hãy để việc đó cho Giáo hội.”

“Giáo hội?” Lyra hỏi. Có điều gì đó gợi lại trong cô: cô nhớ lại cuộc nói chuyện với Pantalaimon, trong Vùng đầm lầy, về cái gì đó có thể đang khiến những chiếc kim của Chân-kế chuyển dịch và họ nghĩ đến chiếc máy đo ánh sáng để trên mái trần cao tại Học viện Thánh Gabriel, làm thế nào các hạt cơ bản có thể làm xoay chiếc chong chóng gió. Người Trợ lễ biết rõ về mối liên hệ giữa các hạt cơ bản và tôn giáo. “Có thể là như vậy.” Cô nói và gật đầu. “Rốt cuộc thì người ta đều giữ bí mật tất cả những thứ thuộc về Giáo hội. Nhưng hầu hết những thứ thộc về Giáo hội đều cũ kỹ. Bụi thì không cũ, theo những gì cháu được biết. Cháu tự hỏi không biết ngài Asriel có nói với cháu—”

Cô lại ngáp dài.

“Tốt hơn là cháu nằm xuống,” cô nói với Serafina Pekkala, “nếu không có lẽ cháu bị tê cóng mất.”

“Lúc ở dưới đất cháu đã bị lạnh. Nhưng cháu chưa bao giờ ở một nơi lạnh như thế này. Cháu nghĩ cháu sẽ chết mất nếu không khí còn lạnh thêm.”

“Vậy hãy nằm xuống và cuộn mình trong lớp lông thú.”

“Vâng, cháu sẽ làm thế. Nếu cháu phải chết, thà chết ở trên này còn hơn ở dưới đấy, nếu có ngày đó. Cháu nghĩ khi người ta đặt chúng cháu dưới lưỡi dao đó, cháu tưởng đã... Cả hai bọn cháu đều nghĩ thế. Ôi, thật là khủng khiếp. Nhưng giờ bọn cháu sẽ nằm xuống. Hãy đánh thức chúng cháu khi đến đó nhé,” cô nói và ngả người xuống đống lông thú, khắp người mỏi nhừ, đau nhức bởi không khí lạnh ghê gớm. Cô nằm thật sát cạnh Roger đang ngủ.

Và rồi bốn nhà du hành tiếp tục đi. Họ thiếp đi trong chiếc khinh khí cầu phủ đầy băng tuyết, bay về phía những mỏm đá và sông băng, những mỏ than và những pháo đài tuyết ở Svalbard.

*

* *

Serafina Pekkala gọi người lại khinh khí cầu, ông thức dậy ngay lập tức người lảo đảo vì lạnh, nhưng qua chuyển động của chiếc giỏ, ông nhận thấy có gì không ổn. Nó đang lắc lư dữ dội khi những cơn gió mạnh thổi qua chiếc túi đựng khí, những phù thủy đang kéo những sợi dây thừng khó lòng giữ được nó. Nếu họ thả tay ra, chiếc khinh khí cầu có thể văng đi ngay lập tức, liếc mắt vào la bàn, ông tính toán nó có thể văng về phía Nova Zembla với tốc độ gần một trăm dặm một giờ.

“Chúng ta đang ở đâu?” Lyra nghe thấy ông gọi. Cô cũng đang lơ mơ, cảm thấy khó chiu bởi chuyển động của khinh khí cầu, và lạnh đến nỗi khắp người tê cóng.

Cô không nghe được tiếng bà phù thủy trả lời, nhưng qua chiếc mũ chùm mở ra một nửa, cô nhìn thấy, trong ánh sáng cảu một ngọn đèn cồn, Lê Scoresby đang giữ thanh chống và kéo sợi dây thừng ròng trên chiếc túi khí. Ông ghì chặt và nhìn lên đêm tối đang lồng lộn trước khi vòng sợi dây vào chiếc vòng treo.

“Tôi sẽ xả một ít khí ra.” Ông hét lên với Serafina Pekkala. “Chúng ta sẽ xuống thấp. Chúng ta đang ở trên cao quá.”

Bà phù thủy hét to đáp lại, nhưng Lyra vẫn không nghe được. Roger cũng đã tỉnh dậy. Tiếng kẽo kẹt của chiếc giỏ to đến nỗi đủ để đánh thức người ngủ say nhất, chưa nói đến sự rung và xóc nảy người. Nhân tinh của Roger và Pantalaimon bám chặt vào nhau như những con khỉ đuôi sóc, Lyra cố tập trung vào việc nằm im để không nhảy lên vì hoảng sợ.

“Không sao đâu,” Roger nói, nghe giọng có vẻ vui vẻ hơn cô rất nhiều. “Chúng ta sẽ hạ cánh sớm thôi rồi dốt lửa và sưởi ấm. Mình có mấy que diêm trong túi. Mình thó được trong nhà bếp ở Bolvangar đấy.”

Chiếc khinh khí cầu đã hại xuống chút ít. Những mảnh vụn và đám bùi nhùi bay đầy vào trong giỏ, rồi tất cả mọi thứ đều tói mịt. Nó như một màn sương dày đặc nhất. Lyra từng nhìn thấy. Sau một lúc có tiếng hét của Serafina Pekkala, người lái khinh khí cầu tháo sợi dây thừng cuộn quanh chiếc cọc và thả ra. Nó rút lên trên qua tay ông, tiếng kẽo kẹt và tiếng gió rít, Lyra cảm nhận thấy một cú đập mạnh ở cao phía trên đầu.

Lee Scoresby nhìn thấy đôi mắt đang mở to của cô.

“Đó là chiếc van khí,” ông hét to, “nó giữ khí gas bên trong. Khi chúng ta kéo nó xuống, khí sẽ thoát ra từ phía trên, chúng ta mất độ cao và đi xuống.”

“Thế chúng ta đã gần—”

Cô chưa kịp nói hết câu, vì một điều khủng khiếp đã xảy ra. Một sinh vật to bằng nửa người thường, có đôi cánh bằng da thịt và chân có móng vuốt đang bò lên thành giỏ về phía Lee Scoresby. Nó có đầu dẹt, hai mắt lồi và cái miệng nhái rộng ngoác, từ mình nó bốc lên một thứ mùi hôi thối thật tởm lợm. Lyra không có thời gian để hét lên, trước khi Iorek Byrnison lao tới và quật nó văng đi. Nó rơi khỏi giỏ và biến mất sau một tiếng rít.

“Kền kền núi.” Iorek nói ngắn gọn.

Tiếp theo đó, Serafina Pekkala xuất hiện và bám vào một bên thành giỏ, nói gấp gáp.

“Những con kền núi đang tấn công. Chúng tôi sẽ đưa chiếc khinh khí cầu xuống dưới đất, và sau đó chúng ta sẽ phải tự bảo vệ mình. Chúng...”

Nhưng Lyra không nghe thấy tiếng bà nói gì tiếp theo, vì có tiếng giăng xé, và tất cả nghiêng sang một bên. Rồi một luồng gió đẩy mạnh cả ba người vào một bên khinh khí cầu nơi treo bộ áo giáp sắt của Iorek Byrnison. Iorek đặt một bàn tay to lớn lên giữ nó vì chiếc giỏ đang lắc lư dữ dội. Serafina Pekkala đã biến mất. Những âm thanh thật ghê rợn; vượt lên trên tất cả những âm thanh khác là tiếng rít của những con ma núi. Lyra nhìn thấy chúng lao qua, và ngửi thấy mùi hôi hám bốc lên từ chúng.

Tiếp theo là một cú chao đảo nữa, rồi nó đột ngột ném mọi người xuống sàn, rồi chiếc giỏ lao xuống với một tốc độ đáng sợ, xoay vòng liên tục. Có cảm giác như nó bị giằng khỏi khinh khí cầu và đang rơi xuống không gì ngăn lại nổi; tiếp đến là những cú lắp lư và va chạm khác, chiếc giỏ đang tròng trành dữ dội từ bên này sang bên kia như thể họ đang nảy lên trên những bức tường đá.

Cảnh tượng cuối cùng có thể nhìn thấy là Lee Scoresby đang bắn khẩu súng lục vào mặt một con kền núi; rồi cô nhắm chặt mắt lại, bíu chặt lấy bộ lông Iorek Byrnison trong cơn hoảng hốt tột cùng. Những tiếng gầm, tiếng rít, tiếng gió gào thét, tiếng kẽo kẹt của chiếc giỏ như một con vật đang bị thương, khắp nới tràn ngập những âm thanh khủng khiếp và hoang dại.

Tiếp đến là một cú lắc mạnh chưa từng thấy, cô thấy mình văng ra ngoài. Bàn tay đang bám của cô rời ra, tim cô như thể bật ra ngoài khi cô hạ cánh trong tình trạng không biết đâu là trên đâu là dưới, khuôn mặt ẩn sau chiếc mũ chùm đầu buộc chặt của cô bám đầy bụi, những thứ khô, lạnh, trong suốt.

Đó là tuyết, cô đã rơi xuống một đống tuyết. Cô ê ẩm đến nỗi gần như không suy nghĩ được nữa. Cô nằm thẳng đờ nhiều giây rồi mệt mỏi nhổ tuyết ra khỏi miệng, cô vũng vẫy yếu ớt cho đến khi có chút không gian để thở.

Dường như không có chỗ nào bị đau nghiêm trọng, cô chỉ cảm thấy rất khó thở. Cô thận trọng thử di chuyển, nhúc nhích chân, bàn tay, cánh tay, cẳng chân và ngẩng đầu lên. Cô nhìn được rất ít vì chiếc mũ chùm đầu vẫn dính đầy tuyết. Cô cố gắng hết sức, hai bàn tay nặng như chì, gạt tuyết ra và nhìn quanh. Cô nhìn thấy một thế giới màu xám, xám nhạt, xám đen, những mảng tuyết bay qua, bay lại như những hồn ma.

Những âm thanh duy nhất cô nghe thấy được là những tiếng rít xa xa của bọn kền núi, tiếng gió đập váo vách núi gần đó.

“Iorek!” cô kêu lên. Giọng cô yếu ớt và run rẩy. Cô thử lại nhưng không có tiếng đáp. “Roger!” cô gọi, cũng không có lời đáp.

Có lẽ cô chỉ còn một mình trong thế giới này, nhưng tất nhiên là không bao giờ như thế. Pantalaimon bò ra khỏi áo choàng của cô trong hình dạng một con chuột để làm bạn với cô.

“Mình đã kiểm tra Chân-kế,” nó nói. “Ổn cả. Không có chỗ nào bị vỡ.”

“Chúng mình bị lạc rồi, Pan!” Cô nói. “Cậu có trông thấy những con kền núi đó không? Lee Scoresby đã bắn chúng à? Chúa cứu rỗi nếu chúng mò xuống tận đây...”

“Tốt hơn là chúng mình phải tìm chiếc giỏ,” nó nói, “có lẽ là vậy.”

“Chúng mình tốt hơn chớ nên gọi to,” cô nói. “Mình vừa làm thế, nhưng có lẽ tốt hơn đừng, phòng trường hợp chúng nghe được. Uớc gì biết được bọn mình đang ở đâu.”

“Có thể bọn mình sẽ không thích nếu biết nơi này là đâu,” nó giảng giải. “Có thể chúng ta đang ở dưới chân một vách núi không có đường ra, và có những con kền núi đứng trên đỉnh sẽ nhìn thấy chúng ta một khi sương tan.”

Cô nhìn ra xung quanh sau khi đã nghỉ ngơi thêm mấy phút nữa và nhận thấy mình đã rơi vào một khoảng trống giữa hai ngọn núi phủ đầy tuyết. Băng giá bao trùm mọi nơi; một bên là tiếng gió đập vào vách đá cách vài chục mét, dù có vẻ đã giảm đi chút ít. Cô chỉ nhìn được hai đến ba mét trong bóng tối, ngay cả đôi mắt tinh như cú vọ của Pantalaimon cũng chẳng giúp ích được gì.

Cô chật vật tìm đường, bò và trườn trên những mỏm đá sắc thô ráp và nhận thấy chẳng có gì khác ngoài núi đá và băng tuyết, không thấy dấu hiệu nào của chiếc khinh khí cầu hay của những người ngồi trên đó.

“Họ không thể đều biến mất được.” Cô thì thầm.

Pantalaimon mò mẫm thêm một chút trong hình dạng mèo hoang và đụng vào bốn túi cát đã vỡ ra, cát bên trong đã đông cứng lại.

“Những bao cát.” Lyra nói. “Chắc ông ấy đã ném nó xuống để lại bay lên.”

Cô nuốt mạnh cục nước bọt trong cổ họng, hoặc nỗi sợ hãi trong ngực, hoặc cả hai.

“Ôi Chúa ơi, mình sợ quá,” cô nói. “Mình hi vọng họ an toàn.”

Pantalaimon quay trở lại vòng tay cô và biến thành một con chuột, bò vào mũ chùm của chủ nơi không ai nhìn thấy, cô nghe thấy một âm thanh, có gì đó đang đạp vào vách đá và quay lại nhìn.

“Iorek!”

Nhưng cô ghìm lại không nói hết, vì đó hoàn toàn không phải Iorek Byrnison. Đó là một con gấu lạ mặc một bộ áo giáp sắt đánh bóng, những hạt sương đọng trên đó đã đóng băng, và một chiếc lông vũ cắm trên chiếc mũ sắt đội đầu.

Họ vẫn đứng, cách nhau khoảng chục mét, cô nghĩ số phận mình thực sự đã kết thúc.

Con gấu mở miệng và rống lên. Một tiếng dội lại từ những vách đá và còn rung động từ rất xa phía trên. Từ trong màn sương mù hiện lên một con gấu, rồi một con nữa. Lyra vẫn đứng im, nắm chặt bàn tay lại.

Chương 19: Giam cầm

Những con gấu vác Lyra qua một cái rãnh giữa những vách núi, nơi sương mù thậm chí còn dày đặc hơn trên bờ bãi biển. Tiếng kêu rít của những con kền kền trên vách núi và tiếng sóng vỗ xa dần khi họ leo lên cao, giờ chỉ còn là tiếng kêu không dứt của những con chim biển. Họ trèo trong im lặng qua những vách núi đá và những mảng tuyết bị gió cuốn đi, Lyra đã phải căng mắt để nhìn vào màn không khí màu xám cuồn cuộn và căng tai nghe âm thanh của những người bạn, có lẽ cô là con người duy nhất ở Svalbard, và có lẽ Iorek đã chết.

Con gấu trung sĩ không nói gì cho đến khi họ đã ở trên đất bằng. Họ dừng lại. Dựa vào tiếng vọng âm thanh sóng biển, Lyra đoán họ đã ở trên đỉnh núi, cô không dám chạy trốn, đề phòng trường hợp bị rớt khỏi bờ rìa.

“Ngẩng lên,” con gấu nói, như một làn hơi lùa màn sương dày đặc sang một bên.

Có rất ít ánh sáng ban ngày, nhưng Lyra vẫn cố nhìn, và thấy cô đang đứng trước một tòa nhà hùng vĩ xây bằng đá. Ít nhất tòa nhà cũng cao bằng phần cao nhất của Học viên Jordan, nhưng rộng lớn hơn rất nhiều, khắp mọi nơi được tạc cảnh chiến tranh, những con gấu thắng trận và người Skraeling đầu hàng, những người Tartar đang bị trói và lao động như nô lệ trong các hầm mỏ, cảnh những chiếc khí cầu zeppelin bay lên trên ngập bầu trời mang các món quà đến cho vua của loài gấu, Iofur Raknison.

Ít nhất, đó là điều con gấu trung sĩ nói cho cô biết ý nghĩa của những hình tạc. Cô đành nghe theo lời nó nói, vì tất cả hình dáng trên bề mặt được tạc rất sâu đậu đầy những con chim ó biển và mòng biển, chúng kêu quàng quạc, rít lên và bay vòng vòng trên đầu, phân chúng bao phủ lấy không sót một phần nào của tòa nhà với những đốm trắng bẩn thỉu.

Tuy vậy, những con gấu dường như không trông thấy đống bừa bãi đó. Chúng đi qua những khung cửa tò vò khổng lồ, khắp nơi trên mặt đất phủ tuyết là những vết bẩn do lũ chim gây ra. Có một khoảnh sân, những bậc thang cao, những cánh cổng và chỗ nào cũng có những con gấu mặc áo giáp sắt canh gác và đòi mật khẩu. Bộ áo giáp sắt của chúng bóng bẩy, sáng loáng, và tất cả đều đeo những chiếc lông vũ trên mũ sắt. Lyra không thể không so sánh từng con gấu cô thấy được với Iorek Byrnison, và lần nào Iorek cũng thắng; nó hùng dũng hơn, uyển chuyển hơn, bộ giáp sắt của nó là giáp sắt thực sự, màu sắt gỉ, nhuốm máu, ghi dấu bởi những trận chiến chứ không sạch sẽ, trắng men và trang trí cầu kỳ như những con cô nhìn thấy vào lúc này.

Khi họ đi sâu thêm vào bên trong, nhiệt độ cao thêm, và cũng có thêm nhiều thứ hơn. Thứ mùi trong cung điện của Iofur Raknison thật ghê tởm: mỡ hải câu ôi, phân, máu, các thứ mùi trộn lẫn với nhau, Lyra đẩy chiếc mũ trùm đầu lật ra sau cho thoáng, nhưng cô không thể không nhăn mũi. Cô hi vọng những con gấu không thể đọc được những thái độ của con người. Cứ mấy mét lại có một giá đỡ bằng sắt đặt ngọn đèn đốt bằng mỡ cá voi, dưới bóng sáng của ngọn đèn đang cháy đó, thường không phải lúc nào cũng nhìn rõ nơi cô đang đứng.

Cuối cùng họ dừng lại trước một cánh cửa sắt nặng nề. Một con gấu cạnh cửa kéo chiếc chốt cửa khổng lồ ra, con gấu trung sĩ đột ngột quay đầu sang Lyra, nó lấy chân đẩy Lyra qua ngưỡng cửa. Trước khi kịp né người, cô nghe tiếng cửa chốt lại phía sau lưng.

Trời tối đen như mực, nhưng Pantalaimon biến thành con đom đóm và tạo thành một vùng sáng lấp lánh xung quanh họ. Họ đang ở trong một xà lim chật hẹp nơi những bức tường ẩm thấp nước chảy nhỏ giọt với một chiếc ghế dài bằng đá dùng để đồ. Trong góc xa nhất có một đống giẻ cô cho là để làm giường nằm. Đó là tất cả những gì Lyra có thể nhìn thấy được.

Lyra ngồi xuống, Pantalaimon đậu trên vai. Cô luồn tay vào áo tìm chiếc Chân-kế.

“Chắc là bị va đập nhiều lắm, Pan.” Cô thì thầm. “Mình hi vọng nó vẫn còn hoạt động.”

Pantalaimon bay xuống cổ tay cô và ngồi đó để chiếu sáng, trong khi Lyra sắp xếp lại các suy nghĩ trong đầu mình. Một phần trong con người mình, cô nhận thấy rõ ràng mình có thể ngồi đây trong sự nguy hiểm khủng khiếp và rồi chìm vào sự tĩnh tâm cần thiết để đọc Chân-kế; nhưng phần lớn trong cô giờ đây là những câu hỏi phức tập cứ liên tục tự nảy ra tự nhiên như những bắp thịt bao quanh khung xương vậy; cô khó mà không nghĩ đến chúng.

Cô quay những chiếc kim và nghĩ câu hỏi: “Iorek Byrnison đang ở đâu?”

Câu trả lời đến ngay lập tức: “Cách đây một ngày đường, được đưa đến trên chiếc khinh khí cầu sau vụ đắm.”

“Thế còn Roger?”

“Đi cùng với Iorek.”

“Iorek Byrnison định sẽ làm gì?”

“Anh ta định đột nhập vào cung điện này và giải thoát cho cô, bất chấp mọi trở ngại.”

Cô cất Chân-kế đi, trong lòng còn thấy lo lắng hơn lúc trước.

“Họ sẽ không để anh ấy làm như vậy đâu, phải không? Ở đây họ rất đông. Mình ước mình là một phù thủy, Pan â, như thế cậu có thể đi xa khỏi minh, tìm anh ấy và báo các tin tức, rồi chúng ta có thể lập nên một kế hoạch hoàn hảo.”

Cô sợ hết hồn vì một giọng đàn ông vang lên trong bóng tối cách đó mấy mét : “Mi là ai?”

Cô đứng phắt dậy và thét lên vì hoảng hốt. Pantalaimon biến thành một con dơi, rít lên và bay quanh đầu cô trong khi cô đứng tựa lưng vào tường.

“Này? Này?” Người đàn ông lại nói. “Ai đấy? Nói đi chứ? Nói to lên!”

“Biến lại thành đom đóm đi, Pan,” cô run rẩy nói. “Nhưng đừng đến gần quá.”

Vệt sáng mỏng manh nhảy nhót trong không khí bay vòng quanh đầu người vừa lên tiếng. Đó hoàn toàn không phải một đống giẻ rách: đó là một người đàn ông râu quai nón màu xám đang bị xích vào tường, mắt ông sáng long lanh bởi ánh sáng của Pantalaimon, mái tóc rối tung xòa xuống qua vai. Nhân tinh của ông, một con rắn với bộ dạng lừ đừ nằm trong lòng ông, thè lưỡi ra mỗi làn Pantalaimon bay đến gần.

“Ông là ai?” cô hỏi.

“Jotham Santelia,” ông ta trả lời. “Ta là giáo sư Hoàng gia nghiên cứu ngành Vũ trụ học tại Đại học Gloucester. Cháu là ai vậy?”

“Lyra Belacqua. Tại sao người ta lại bắt giam ông vậy?”

“Bởi sự hiểm độc và tính đố kỵ . Cháu đến từ đâu thế? Hả?”

“Từ Học viện Jordan,” cô nói.

“Cái gì? Oxford hả?”

“Vâng.”

“Tên vô lại Trelawney vẫn còn ở đó chứ? Hả?”

“Giáo sư Palmerian phải không ạ? Vẫn còn ạ,” cô nói.

“Thế hả, Chúa ơi! Hả? Đáng lẽ người ta phải cho hắn nghỉ hưu từ lâu rồi. Đồ chỉ biết ăn cắp ý tưởng của người khác! Thằng cha hợm hĩnh!”

Lyra khịt mũi.

“Hắn đã công bố nghiên cứu về hạt photon trong tia gamma chưa?” Ông giáo sư hỏi, dí sát mặt vào Lyra.

Cô lùi lại.

“Cháu không biết,” cô nói, và sau đó, thói quen trẻ con lại trở lại với cô, “à mà khoan,” cô tiếp tục, “cháu nhớ ra rồi. Ông ấy nói ông ấy vẫn cần kiểm tra lại một vài số liệu và … ông ấy nói đang chuẩn bị viết về Bụi nữa. Thế đấy ạ.”

“Thằng vô lại! Đồ kẻ cắp! Tên đê tiện! Đồ ba que xỏ lá!” Ông già hét lên, người ông rung khủng khiếp đến mức Lyra lo ông sắp ngất đến nơi. Con nhân tinh của ông bò ra khỏi lòng chủ một cách thờ ơ khi Giáo sư giương nắm đắm về phía cẳng chân mình. Những giọt nước bọt bắn tung tóe từ khóe miệng ông.

“Vâng,” Lyra nói, “cháu luôn nghĩ ông ta là đồ kẻ cắp. Một tên ba que xỏ lá, đại loại thế.”

Vị Giáo sư Hoàng gia không để ý đến việc liệu Lyra có thực sự biết chính xác người đàn ông là nhân vật chính trong nỗi ám ảnh của mình hay không. Ông bị điên, không nghi ngờ gì nữa, ông già tội nghiệp, nhưng có thể ông có chút ít thông tin có ích với Lyra.

Cô cẩn thận ngồi bên cạnh ông, không đủ gần để ông có thể chạm vào người, nhưng đủ gần để ánh sáng yếu ớt của Pantalaimon có thể chiếu sáng rõ khuôn mặt ông.

“Một điều mà giáo sư Trelawney thường hay khoác lác,” cô nói, “là ông ta biết rõ vua của những con gấu đến mức nào…”

“Láo! Hả? Hả? Ta có thể nói là hắn nói khoác! Hắn ta chẳng là gì khác ngoài một con vẹt! Một tên cướp biển! Không có một đoạn nào trong bản nghiên cứu ban đầu là của hắn cả. Tất cả đều là đi xoáy của những người giỏi giang hơn!”

“Vâng, đúng như thế ạ.” Lyra nói với vẻ rất nghiêm chỉnh. “Và khi ông ta thật sự tự mình làm gì đó, ông ta sẽ làm hỏng.”

“Đúng! Đúng! Chính xác là như vậy đấy! Không có chút tài năng, không có óc tưởng tượng, một tên ăn cắp từ đầu đến chân!”

“Ý cháu là, ví dụ như,” Lyra nói, “cháu cá là ông biết nhiều về những con gấu hơn ông ta.”

“Những con gấu,” ông già nói, “Ha! Ta có thể viết cả một luận án về chúng! Đó là nguyên nhân chúng giam ta lại, cháu thấy đấy.”

“Tại sao lại thế?”

“Ta biết quá nhiều về chúng, và chúng không dám giết ta. Chúng không dám làm thế, dù vô cùng muốn như vậy. Ta biết là như vậy, cháu biết đấy. Ta có những người bạn. Đúng thế! Những người bạn đầy quyền lực.”

“Vâng” Lyra nói. “Và cháu cá ông là một thầy giáo tuyệt vời.” Cô tiếp tục. “Vì ông có rất nhiều kiến thức và kinh nghiệm.”

Thậm chí ngay cả trong đáy sâu nhất của cơn điên, vẫn còn một chút ý thức lóe lên, ông nhìn cô chăm chú, gần như thể cô đang chế nhạo mình. Nhưng từ khi sinh ra đến giờ cô đã đối phó với tính đa nghi và gàn dở của các Học giả, cô nhìn lại với sự ngưỡng mộ dịu dàng đến nỗi ông cảm thấy được xoa dịu.

“Thầy giáo,” ông nói, “thầy giáo… Đúng, ta có thể dạy học. Hãy cho ta những học sinh phù hợp, ta sẽ thắp sáng ngọn lửa trí tuệ của người đó.”

“Bởi vì kiến thức của ông không được phép biến mất.” Lyra liều lĩnh nói. “Nó cần được truyền lại để người đời còn nhớ đến ông.”

“Đúng!,” ông nói, gật đầu lia lịa. “Cháu thật là nhạy cảm, cô bé ạ. Tên cháu là gì?”

“Lyra,” cô nói lại cho ông. “Ông dạy cho cháu về các con gấu được không?”

“Các con gấu?” ông nói với vẻ nghi ngờ.

“Cháu thực sự muốn biết về Vũ trụ học, về Bụi và tất cả những thứ khác, nhưng cháu không đủ thông minh để hiểu về những chuyện đó. Với lĩnh vực đó thì ông phải cần những sinh viên thông minh thực sự. Nhưng cháu có thể học về những con gấu. Ông có thể dạy cháu về chúng được. Chúng ta có thể phần nào rèn luyện qua đó rồi tiến dần đến Bụi, có thể như vậy lắm.”

Ông già lại gật đầu.

“Đúng.” Ông nói, “đúng, ta tin là cháu nói đúng. Có một sự tương xứng giữa thế giới vi mô và thế giới vĩ mô! Những ngôi sao đang sống, cô bé à! Cháu có biết điều đó không? Tất cả những thứ ngoài kia đang sống, có những mục tiêu lớn lao ngoài kia! Vũ trụ đầy ắp những khái niệm, cháu biết đấy. Tất cả mọi thứ xảy ra nhằm một mục đích nhất định. Mục đích của cháu là nhắc ta về chuyện này. Tốt, tốt—trong cơn tuyệt vọng ta đã quên mất điều đó. Tốt! Xuất sắc đấy cô bé của ta!”

“Vậy ông đã nhìn thấy đức vua chưa? Iofur Raknison ấy?”

“Rồi, ồ, rồi. Ta đến đây theo lời mời của ông ta, cháu biết đấy. Ông ta định mở một trường đại học. Ông ta định để ta làm Hiệu phó. Đây sẽ là cái gai trong mắt Hội Bắc cực Hoàng gia, hả! Hả? Và cả tên vô lại Trelawney nữa! Ha!”

“Chuyện gì đã xảy ra ạ?”

“Ta đã bị bọn cấp dưới phản bội. Trelawney là một trong số đó, tất nhiên. Hắn ta từng ở đây, cháu hiểu không? Ở Svalbard, hắn đồn thổi những lời dối trá và vu khống về bằng cấp của ta. Đồ vu khống! Đồ nói láo! Ai là người đã tìm ra bằng chứng cuối cùng về giả thuyết Barnard-Stokes, hả? Hả? Phải, Santelia, chính là người đó. Trelawney không thể làm thế được. Nói láo không biết ngượng mồm. Iofur Raknison đã ném ta vào đây. Một ngày nào đó ta sẽ thoát khỏi đây, rồi cháu sẽ thấy. Ta sẽ là Phó Hiệu trưởng, ồ, đúng thế. Rồi tên Trelawney sẽ phải đến gặp ta xin tha thứ! Để xem lúc đó Ủy ban công bố của Hội Bắc cực Hoàng Gia có dám bác bỏ những cống hiến của ta hay không? Hà! Ta sẽ vạch mặt tất cả bọn chúng!”

“Cháu mong là Iorek Byrnison sẽ tin ông, khi anh ấy trở lại.” Lyra nói.

“Iorek Byrnison hả? Sẽ chẳng có tác dụng gì khi trông chờ vào điều đó đâu. Anh ta sẽ chẳng bao giờ trở lại.”

“Anh ấy đang trên đường đến đây.”

“Vậy thì họ sẽ giết anh ta. Anh ta không phải một con gấu, cháu hiểu không. Anh ta là một kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Giống như ta. Đã bị mất thanh thế. Đừng kỳ vọng vào bất cứ lòng nhân từ nào của một con gấu.”

“Tuy nhiên cứ giả định rằng Iorek Byrnison sẽ trở lại thật,” Lyra nói, “Giả định rằng anh ấy thách đấu vơi Iofur Raknison?”

“Ồ, họ sẽ không cho phép đâu.” Giáo sư nói chắc như đinh đóng cột. “Iofur Raknison sẽ không bao giờ hạ mình chấp nhận cho Iorek Byrnison quyền chiến đấu với ông ta đâu. Không có một quyền nào. Iorek Byrnison giờ có lẽ chỉ là một con hải cẩu, con moóc, không phải một con gấu. Hay tệ hơn: là người Tartar hay người Skraeling. Họ sẽ không tôn trọng và thi đấu với nó như với một con gấu, họ sẽ giết anh ta bằng máy ném lửa trước khi anh ta đến được gần. Không có một tia hi vọng. Không có một chút thương xót. “

“Ôi,” Lyra thốt lên, với một nỗi thất vọng sâu sắc tràn ngập trong lòng. “Thế còn những tù nhân khác của những con gấu thì sao? Ông có biết họ bị giam ở đâu không?”

“Những tù nhân khác?”

“Như … ngài Asriel.”

Ngay lập tức thái độ của ông Giáo sư thay đổi hoàn toàn. Ông ta co rúm lại và dựa lưng vào tường, lắc đầu sợ hãi.

“Suỵt! Im nào! Họ sẽ nghe thấy cháu đấy!” Ông thì thầm.

“Tại sao chúng ta không được nhắc đến Ngài Asriel?”

“Bị cấm! Nguy hiểm lắm đấy! Iofur Raknison không cho phép được nhắc đến tên ông ta!”

“Tại sao vậy?” Lyra hỏi, đến gần hơn và hạ giọng xuống thì thầm để không làm ông ta giật mình.

“Bắt giam Ngài Asriel là một nhiệm vụ đặc biệt, Iofur Raknison được giao bởi Ủy ban Tôn giáo.” Ông già thì thầm trả lời. “Đích thân bà Coulter đã đến đây gặp Iofur Raknison và đề nghị rất nhiều phần thưởng để giam Ngài Asriel lại. Ta biết chuyện này, cháu hiểu không, bởi vì vào thời điểm đó ta đang được Iofur Raknison sủng ái. Ta đã gặp bà Coulter! Đúng vậy. Ta đã có một cuộc nói chuyện dài với bà ta. Iofur Raknison đã mê mụ cả người vì bà ta. Ông ta không ngớt nói về bà ấy. Nếu bà ấy muốn Ngày Asriel bị giam cách biệt hàng trăm dặm, điều đó cũng sẽ được thực hiện. Bất cứ điều gì vì bà Coulter, bất cứ điều gì. Ông ta còn định đặt tên thủ đô của thành phố theo tên bà ấy, cháu có biết không?”

“Vì thế ông ta không cho ai đến và gặp Ngày Asriel!?”

“Không! Không bao giờ! Nhưng chính bản thân ông ta cũng sợ Ngài, cháu biết không. Iofur Raknison đang chơi một trò chơi khó khăn. Nhưng ông ta thông minh. Ông ta đã làm những gì cả hai bên muốn. Ông ta giam giữ Asriel ở một nơi biệt lập, để làm hài lòng bà Coulter, và để Ngài Asriel có tất cả những thiết bị ông ấy yêu cầu, nhằm làm đẹp lòng Ngài Asriel. Sự bắt cá hai tay này không thể duy trì được lâu đâu. Không ổn đinh. Thỏa mãn cả hai phía, hở? Tình trạng này sẽ sụp đổ nhanh chóng thôi. Ta biết được điều này theo một nguồn tin đáng tin cậy.”

“Thật sao?” Lyra nói, tâm trí cô đang ở chỗ khác, suy nghĩ rất lung tung về điều ông ta vừa nói.

“Đúng, lưỡi con nhân tinh của ta có thể nếm các mùi vị rất chuẩn, cháu biết không?”

“Vâng, nhân tinh của cháu cũng vậy. Khi nào thì họ cho chúng ta ăn, Giáo sư?”

“Cho chúng ta ăn?”

“Họ phải để thức ăn ở đâu đó, nếu không chúng ta sẽ chết đói. Và trên sàn nhà có xương. Cháu mong đó là xương hải cẩu, phải vậy không ạ?”

“Hải cẩu… ta không biết. Cũng có thể.”

Lyra đứng lên và tìm đường đi ra cửa. Không có nắm đấm cửa, tất nhiên là vậy, không có lỗ khóa, phần trên và dưới cửa khít hoàn toàn đến mức không có tia sáng nào lọt được vào trong. Cô áp sát tai vào, nhưng chẳng nghe thấy tiếng gì. Phía sau cô, người đàn ông đang lẩm bẩm gì đó với chính mình. Cô nghe thấy tiếng dây xích vang lên khi ông mệt mỏi xoay người, rồi rất nhanh chóng có tiếng ngáy vang lên.

Cô lò dò tìm đường trở về chiếc ghế dài, Pantalaimon, đã mệt mỏi khi phải chiếu sáng, biến thành một con dơi, điều này rất tốt cho nó, nó bay quanh kêu chin chít khe khẽ trong khi Lyra ngồi gặm móng tay.

Rồi rất bất ngờ, không có báo trước, cô nhớ lại điều đã nghe Giáo sư Palmerian nói trong Phòng nghỉ lúc trước. Có gì đó cứ ám ảnh cô từ khi Iorek Byrnison lần đầu tiên nói đến cái tên của Iofur Raknison, và giờ thì đã rõ ràng: điều Iofur Raknison mong muốn trên tất thảy, Giáo sư Trelawney đã nói, là một con nhân tinh.

Tất nhiên, lúc đó cô đã không hiểu ý ông ta muốn nói gì; ông ta đã nói từ panserborne thay vì dùng một từ tiếng Anh, vì thế cô không hiểu ông ta đang nói về những con gấu; cô không nghĩ Iofur Raknison không phải con người. Đằng nào con người cũng phải có nhân tinh, vì thế cô thấy thật ngớ ngẩn.

Nhưng giờ thì mọi chuyện đã rõ ràng. Tất cả những gì cô nghe được về vua của những con gấu càng làm sáng tỏ thêm: Iofur Raknison dũng mãnh không muốn gì hơn là được trở thành người, với một con nhân tinh của chính mình.

Khi nghĩ đến đó, một kế hoạch nảy ra trong đầu cô, một cách để khiến Iofur Raknison làm điều bình thường không bao giờ hắn ta làm; một cách phục hồi vương quyền mà Iorek Byrnison đáng ra phải được hưởng; một cách cuối cùng, để đến được nơi người ta đang giam cầm Ngài Asriel, và đưa cho ông Chân-kế.

Ý tưởng đó lung linh và lơ lửng trong đầu cô, như bong bóng xà phòng, cô không dám nhìn thẳng vào nó vì sợ nó vỡ tan thành từng mảnh nhỏ. Nhưng cô đã quen với các ý tưởng, nên cô cứ để nó lung linh, cô nhìn đi chỗ khác, nghĩ về điều gì đó khác.

Cô đã gần chìm vào giấc ngủ thì tiếng chốt cửa lạch cạch và cánh cửa mở ra. Ánh sáng lùa vào, cô bật dậy ngay lập tức, Pantalaimon trốn ngay vào túi áo.

Ngay khi con gấu canh cửa cúi đầu nhấc chiếc đùi hải cẩu và ném vào trong, cô chạy đến bên cạnh nó nói:

“Hãy đưa tôi đến chỗ Iofur Raknison. Anh sẽ gặp rắc rối nếu không làm thế. Việc này rất khẩn cấp.”

Nó nhả miếng thịt khỏi hàm và nhìn lên. Thật không dễ để đọc được cảm xúc của những con gấu, nhưng trông nó có vẻ bực tức.

“Đó là về chuyện Iorek Byrnison” cô nói nhanh. “Tôi biết vài điều về Iorek Byrnison, đức vua cần phải biết những điều đó.”

“Nói cho ta biết, ta sẽ chuyển lời.” Con gấu nói.

“Như thế không được, vì không có ai được biết trước đức vua.” Cô nói. “Tôi rất tiếc, tôi không cố ý thô lỗ, nhưng anh biết đấy, quy định đặt ra là đức vua phải biết mọi việc trước tiên.”

Có lẽ nó hơi chậm hiểu. Nó dừng lại, ném miếng thịt vào xà lim rồi nói, “Tốt lắm, ngươi đi với ta.”

Nó dẫn cô ra ngoài, điều này khiến cô vô cùng sung sướng. Màn sương đã lên cao hơn và có những ngôi sao đang lấp lánh bên trên khoảng sân có bờ tường bao rất cao. Con gấu trao đổi với một con gấu khác, rồi nó đến nói với cô.

“Ngươi không thể gặp Iofur Raknison bất cứ lúc nào ngươi muốn.” Nó nói. “Ngươi phải đợi cho đến khi Ngài muốn gặp ngươi.”

“Nhưng việc này rất gấp, điều tôi cần nói với ông ấy ấy,” cô nói. “Đó là về Iorek Byrnison. Tôi chắc chắn rằng Đức vua của anh muốn biết, nhưng tôi lại không thể kể với bất cứ ai khác, anh hiểu không? Như thế là không lịch sự. Ông ấy sẽ nổi giận ghê gớm lắm nếu biết chúng ta đã không lịch sự.”

Điều này có vẻ gây ảnh hưởng, hay làm nó đủ bối rối để ngừng lại. Lyra chắc chắn cách suy diễn của mình rất đúng; Iofur Raknison đã đưa ra nhiều cách làm mới đến nỗi chẳng con gấu nào biết phải làm thế nào, và cô có thể khai thác sự mơ hồ này để đến được chỗ Iofur Raknison.

Thế là con gấu rút về hỏi ý kiến con gấu cấp cao hơn, không lâu sau Lyra bị lôi trở lại Cung điện, nhưng lần này là vào những chỗ quan trọng. Chỗ này cũng không sạch sẽ gì hơn, hay đúng ra không khí còn khó thở hơn trong xà lim, bởi tất cả những thứ mùi tanh tưởi đó lại được bao phủ bởi mùi nước hoa thơm đến lộng óc. Cô bị bắt phải đợi ở ngoài hành lang, sau đó là ở phòng chờ, tiếp đến là bên ngoài một căn phòng lớn, trong khi những con gấu trao đổi, tranh cãi và chạy đi chạy lại, và cô có thời gian nhìn ngắm cách bài trí chướng mắt xung quanh: các bức tường treo đầy các tác phẩm thạch cao mạ vàng, một số thứ đã bị tróc hết lớp mạ hay mủn ra vì không khí ẩm ướt, những tấm thảm sặc sỡ bê bết đầy bùn bẩn.

Cuối cùng cánh cửa lớn cũng được mở từ bên trong. Ánh sáng rực rỡ phát ra nửa tá đèn chùm, một tấm thảm đỏ thắm, mùi nước hoa nồng nặc đầy trong không khí; khuôn mặt của một tá con gấu hoặc là hơn, tất cả đều nhìn cô chằm chằm, không con nào mặc áo giáp sắt nhưng đều phục sức theo một cách nào đó: một vòng cổ bằng vàng, một chiếc mũ trùm đầu có gắn lông vũ màu tía, một chiếc khăn quàng sặc sỡ. Thật đáng ngạc nhiên, trong căn phòng còn có rất nhiều chim, những con chim nhạn biển và chim cướp biển đậu trên các mái dua trát vữa, lượn xuống để cướp những miếng cá rơi xuống từ những chiếc lưới treo trên đèn chùm.

Trên chiếc bệ ở đầu phía bên kia của căn phòng, một ngai vàng uy nghi được dựng ở trên cao. Nó được làm bằng đá hoa cương rất vững chãi và vĩ đại, nhưng giống như rất nhiều thứ khác trong cung điện của Iofur Raknison, nó được trang hoàng bằng những chi tiết học đòi quá tỉ mỉ và những đường trạm chỗ nạm vàng.

Ngồi trên ngai là con gấu to lớn nhất cô từng thấy. Iofur Raknison thậm chí còn to lớn và cao lớn hơn Iorek Byrnison, nét mặt nó linh động và biểu cảm hơn, có một vẻ gì đó rất người mà cô chưa bao giờ nhìn thấy trên mặt Iorek Byrnison. Khi Iofur nhìn xuống cô, dường như cô nhìn thấy một người đàn ông, kiểu người cô đã gặp ở nhà bà Coulter, một chính khách khôn ngoan đã quen với quyền lực. Nó đeo quanh cổ một sợi dây chuyền vàng nặng nề, trên đó có trang trí đá quý lòe loẹt, những móng vuốt của nó, mỗi móng dài đến cả chục phân đều được bọc những lá vàng. Gây tác động đối với người khác cũng là một cách tạo thế mạnh và một mưu mẹo hay. Nó cũng đủ to lớn để khiến việc trang điểm quá mức cần thiết trở nên lố bịch.

Cô thấy người mình run bắn lên. Đột nhiên cô không biết phải làm thế nào để diễn đạt những ý tưởng của mình bằng lời.

Nhưng cô tiến lại gần thêm một chút, vì cô cần phải làm như vậy, cô thấy Iofur Raknison đang đặt một thứ gì đó trên đầu gối, như một con người thường cho con mèo, hay một con nhân tinh ngồi ở đó.

Đó là một con búp bê lớn bằng len, một hình nhân với khuôn mặt người ngây dại vô hồn. Nó ăn mặc theo kiểu cách của bà Coulter và giống bà ta đến kì lạ. Ông ta đang giả như mình đang có một con nhân tinh. Cô biết mình đã được an toàn.

Cô đến gần ngai vàng và cúi mình thật thấp, Pantalaimon vẫn im lặng nép trong túi áo.

“Xin gửi đến Ngài lời chào của chúng tôi, thưa Đức vua vĩ đại.” Cô nói khẽ. “Hay ý tôi là lời chào của tôi, không phải của anh ta.”

“Của ai cơ?” Hắn nói, giọng nói nhẹ hơn cô nghĩ, nhưng đầy âm điệu. Khi nói, nó vung tay trước miệng để xua đám ruồi nhặng đang ve vẩy xung quanh.

“Của Iorek Byrnison, thưa Đức ngài.” Cô nói. “Tôi có vài điều rất quan trọng và bí mật muốn nói với ngài, và tôi nghĩ tôi chỉ nên nói riêng với ngài thôi, thật đấy ạ.”

“Về Iorek Byrnison?”

Cô đến gần nó, bước cẩn thận trên nền nhà phủ đầy phân chim và xua lũ ruồi đang bay vo ve xung quanh.

“Về những con nhân tinh.” Cô nói để chỉ có nó nghe được.

Thái độ của nó thay đổi hẳn. Cô không biết thái độ đó nói lên điều gì, nhưng không nghi ngờ gì về việc nó đang vô cùng thích thú. Đột nhiên nó nhoài người khỏi ngai vàng khiến cô phải nhảy sang một bên. Rồi nó rống lên ra lệnh cho những con gấu khác. Tất cả chúng đều cuối đầu và quay lưng đi ra cửa. Những con chim vừa bay tán loạn sau tiếng rống kêu quàng quạc và bay vòng vòng trên đầu trước khi lại đậu xuống.

Khi căn phòng đã không còn ai ngoài Iofur Raknison và Lyra, nó hào hứng quay sang cô.

“Sao nào?” Hắn nói. “Hãy nói cho ta biết ngươi là ai. Và có chuyện gì về những con nhân tinh?”

“Tôi là một con nhân tinh, thưa Đức ngài.” Cô nói.

“Của ai?” Hắn hỏi.

“Của Iorek Byrnison” cô trả lời.

Đây là điều nguy hiểm nhất cô từng nói. Cô có thể thấy rất rõ rằng chỉ vì ngạc nhiên nên nó mới không giết cô ngay lập tức. Cô vội vàng tiếp lời:

“Xin ngài, thưa Đức ngài, xin hãy để tôi kể cho ngài nghe trước khi ngài giết tôi. Tôi đến đây với rất nhiều nguy cơ rủi ro, như ngài thấy đấy, và tôi chẳng làm gì có thể có hại đến ngài. Thực ra tôi muốn được giúp ngài, vì thế tôi đến đây, Iorek Byrnison là con gấu đầu tiên có nhân tinh, nhưng đáng ra đó phải là ngài. Tôi nên là nhân tinh của ngài hơn là của anh ta, vì thế tôi đến đây.”

“Làm thế nào?” hắn nói, giọng gần như nghẹn thở, “làm thế nào mà một con gấu lại có nhân tinh được? Tại sao lại là anh ta? Và làm thế nào ngươi đi xa anh ta thế được?”

Những con ruồi bay khỏi mồm nó.

“Điều này rất dễ. Tôi có thể đi khỏi anh ta vì tôi cũng giống nhân tinh của các phù thủy. Ngài có biết chúng có thể bay xa khỏi chủ hàng trăm dặm không? Tôi cũng giống như vậy. Còn về chuyện làm thế nào anh ta có được tôi, thì đó là ở Bolvangar. Ngài đã nghe nói về Bolvangar, vì chắc bà Coulter đã kể cho ngài nghe, nhưng có lẽ bà ấy chưa kể cho ông tất cả mọi việc họ đang làm ở đó.”

“Cắt rời… “Hắn nói.

“Đúng vậy, cắt rời, chính là phần đó, sự chia tách. Nhưng họ còn đang làm rất nhiều những việc khác nữa. Cả những thử nghiệm trên loài vật nữa. Khi Iorek Byrnison nghe nói có chuyện này, anh ta đề nghị lấy mình ra thử nghiệm xem có thể tạo ra một con nhân tinh cho mình hay không và họ đã làm. Chính là tôi đây. Tên tôi là Lyra. Cũng như khi con người có nhân tinh, chúng sẽ có hình dạng của loài vật, vì thế khí một con gấu có nhân tinh, nó sẽ là con người. Và tôi là nhân tinh của anh ta. Tôi có thể nhìn thấu suy nghĩ của anh ta và biết chính xác anh ta đang làm gì, ở đâu và…”

“Hiện giờ hắn đang ở đâu?”

“Ở Svalbard. Anh ta đang đến đây nhanh nhất có thể.”

“Tại sao chứ? Hắn muốn gì? Hắn điên rồi! Chúng ta sẽ xé xác hắn thành từng mảnh!”

“Anh ta muốn có tôi. Anh ta đến đây để lấy lại tôi. Nhưng tôi không muốn làm nhân tinh của anh ta, tôi muốn làm nhân tinh của ngài. Vì khi thấy một con gấu có nhân tinh hùng mạnh như thế nào, những người ở Bolvangar quyết định sẽ không làm lại thí nghiệm đó một lần nữa. Iorek Byrnison trở thành con gấu duy nhất có nhân tinh. Có tôi giúp đỡ, anh ta có thể lãnh đạo tất cả những con gấu khác chống lại ngài. Đó là mục đích anh ta đến Svalbard.”

Con vua gấu lại rống lên. Tiếng rống của hắn to đến nỗi pha lê trên chiếc đèn chùm rung lên, những con chim trong phòng rùng mình và tai Lyra ù đi.

Nhưng cô nhanh chóng lấy lại được cân bằng.

“Đó là lý do tôi thích ngài nhất,” cô nói với Iofur Raknison, “vì ngài tràn đầy nhiệt tình, dũng mãnh và thông minh. Còn tôi thì vừa mới rời bỏ anh ta để đến với ngài, vì tôi không muốn anh ta thống trị loài gấu. Đó phải là ngài. Có một cách bứt tôi khỏi anh ta và khiến tôi trở thành nhân tinh của ngài, nhưng ngài sẽ không biết trừ khi tôi nói ra đây, bằng không ngài sẽ tiến hành xử lý với một con gấu chiến binh tầm thường bị đi đày như anh ta; ý tôi muốn nói là, không chiến đấu với anh ta một cách bình thường, mà giết anh ta bằng máy ném lửa hay gì đó khác. Nếu ngài làm thế, tôi sẽ biến mất như một tia sáng và chết theo anh ta.”

“Nhưng ngươi—làm thế nào có thể—”

“Tôi có thể trở thành nhân tinh của ngài,” cô nói, “nhưng chỉ khi ngài chiến đấu với Iorek Byrnison trong một trận chiến tay đôi. Khi đó sức mạnh của anh ta sẽ chảy vào người ngài, tinh thần của tôi cũng chảy vào tinh thần của ngài, và chúng ta sẽ giống như một, suy nghĩ của ngài cũng là suy nghĩ của tôi. Ngài có thể bảo tôi đi xa hàng trăm dặm để do thám cho ngài, hãy giữ tôi ở bên cạnh ngài, tùy ý ngài muốn thế nào cũng được . Tôi sẽ giúp ngài lãnh đạo những con gấu đánh chiếm Bolvangar, nếu ngài muốn, hay bắt họ làm thêm nhiều con nhân tinh cho những con gấu ngài sủng ái, hoặc nếu ngài thích là con gấu duy nhất có nhân tinh hơn, thì chúng ta sẽ phá hủy Bolvangar vĩnh viễn. Chúng ta có thể làm bất cứ chuyện gì, Iofur Raknison, cùng nhau, ngài và tôi!”

Từ đầu đến giờ cô giữ Pantalaimon trong túi với bàn tay run rẩy, nó nằm im hết mức có thể, trong hình dạng con chuột bé nhất từng biến thành.

Iofur Raknison đi lên đi xuống với thái độ hứng khởi chỉ chực bùng nổ.

“Một trận chiến đấu tay đôi à?” Hắn nói. “Ta sao? Ta phải đánh nhau với Iorek Byrnison? Không thể được! Hắn ta là một kẻ bị đi đày! Làm sao mà thế được? Làm sao ta đánh nhau với hắn được? Chỉ có duy nhất cách đó thôi sao?”

“Đó là cách duy nhất,” Lyra nói, trong lòng thầm ước không phải như vậy, vì Iofur Raknison cứ mỗi phút lại to lớn hơn và hung dữ hơn. Cô yêu thương Iorek, và niềm tin của cô đối với nó cũng mạnh mẽ như vậy. Cô không thể thực sự tin rằng nó có thể đánh bại con gấu thực sự khổng lồ nhất trong các con gấu khổng lồ này. Nhưng đây là hi vọng duy nhất mà họ có. Bị tấn công từ khoảng cách xa bởi máy ném lửa thì chẳng còn một chút hi vọng nào.

Iofur Raknison đột nhiên quay phắt lại.

“Chứng minh!” Hắn nói. “Hãy chứng minh ngươi là nhân tinh đi!”

“Được thôi,” cô nói. “Tôi có thể làm thế, rất dễ dàng. Tôi có thể tìm ra tất cả những gì ngài biết mà những người khác không biết, những điều chỉ có nhân tinh mới tìm hiểu được.”

“Vậy hãy nói sinh vật đầu tiên ta giết là gì?”

“Tôi phải vào căn phòng và làm điều này một mình.” Cô nói. “Khi tôi là nhân tinh của ngài, ngài có thể xem tôi làm như thế nào, nhưng cho đến lúc đó, điều này vẫn là riêng tư. “

“Có một phòng khách phía sau căn phòng này. Hãy vào đó, và đi ra khi nào ngươi biết được câu trả lời.”

Lyra mở cánh cửa và thấy mình ở trong một căn phòng thắp sáng bằng một cây đuốc, căn phòng trống lát gỗ gụ dùng để chứa những đồ bạc đã xỉn hết cả. Cô mang Chân-kế ra và hỏi :”Iorek hiện đang ở đâu?”

“Cách đây bốn giờ đồng hồ, và đang cố đi nhanh nhất có thể.”

“Làm thế nào tôi có thể nói cho anh ấy biết điều tôi đang làm.”

“Cô phải tin tưởng vào anh ấy.”

Cô lo lắng nghĩ không biết giờ anh ấy đã mệt mỏi đến mức nào. Nhưng cô nhớ ra là mình đang không làm theo điều Chân-kế vừa mới nói với cô: cô đang không tin vào anh ấy.

Cô đặt lo lắng đó sang một bên và hỏi câu hỏi Iofur Raknison yêu cầu. Sinh vật đầu tiên nó giết là ai?

Câu trả lời đã có : chính cha đẻ của Iofur.

Cô hỏi kỹ thêm, và biết được rằng khi là một con gấu trẻ tuổi, Iofur đang lúc một mình trong băng giá, ngay trong chuyến đi săn đầu tiên của mình, đã đụng độ với một con gấu đơn độc. Hai bố con chúng tranh cãi và đánh nhau, Iofur đã giết chết cha mình. Bản thân việc này đã là một tội ác, nhưng nó còn tệ hơn tội ác thông thường, vì sau này Iofur biết được đó chính là cha đẻ của nó. Những con gấu được nuôi lớn bởi gấu mẹ, rất hiếm khi nhìn thấy cha. Nó che giấu sự thực mình đã gây ra; không ai biết được chân tướng điều này trừ chính bản thân Iofur, và giờ Lyra cũng đã nắm rõ toàn bộ.

Cô cất Chân-kế đi, và không biết nên nói với nó về chuyện này như thế nào.

“Hãy tâng bốc nó!” Pantalaimon thì thầm. “Đó là tất cả những gì nó muốn.”

Thế là Lyra mở cửa và thấy Iofur Raknison đang đợi mình, với một dáng vẻ hớn hở, ma mãnh, lo lắng và tham lam.

“Thế nào?”

Cô quỳ xuống trước mặt hắn, cuối đầu chạm vào chân trái trước của nó, cái chân khỏe hơn, vì những con gấu thuận tay trái.

“Xin ngài thứ lỗi cho, Iofur Raknison!” cô nói. “Tôi đã không biết là ngài lại mạnh mẽ và vĩ đại đến thế!”

“Chuyện gì thế? Hãy trả lời câu hỏi của ta!”

“Sinh vật đầu tiên ngài giết chết chính là cha ruột của ngài. Tôi nghĩ ngài là một vị thánh mới, thưa Iofur Raknison. Chắc chắn là ngài phải như vậy. Chỉ có một vị thánh mới có đủ sức mạnh để làm như vậy.”

“Nhà ngươi biết thật! Ngươi đúng là có thể nhìn thấy!”

“Vâng, vì tôi là một con nhân tinh, như tôi đã nói.”

“Hãy nói cho ta thêm một điều nữa. Quý bà Coulter đã hứa với ta điều gì trong lần bà ấy đến đây?”

Lyra lại vào căn phòng trống và hỏi Chân-kế trước khi quay lại với câu trả lời.

“Bà ta hứa với ngài rằng sẽ thuyết phục Tổng giáo giám mục tại Geneva đồng ý để ngài rửa tội và trở thành một người theo đạo Cơ đốc, dù lúc đó ngài chưa có nhân tinh. Tôi e rằng bà ta vẫn chưa làm điều này đâu, thưa Iofur Raknison, tôi thực sự không nghĩ rằng họ đồng ý nếu ngài không có một con nhân tinh. Tôi nghĩ bà ta biết như vậy, nhưng đã không nói với ngài sự thực. Còn trong bất cứ trường hợp nào nếu ngài có tôi như một nhân tinh ngài có thể rửa tội nếu muốn, vì khi đó chẳng ai có thể tranh cãi được nữa. Ngài có thể yêu cầu và họ không thể từ chối được.”

“Ừ… Đúng vậy. Bà ấy đã nói thế. Đúng vậy, đúng từng từ một. Bà ấy đã lừa dối ta? Ta đã tin bà ấy, và bà ấy đã lừa dối ta?”

“Vâng, bà ấy đã làm thế đấy. Nhưng giờ thì bà ấy chẳng là gì nữa rồi. Xin tha lỗi cho tôi, thưa Iofur Raknison. Tôi hi vọng ngài sẽ không phiền lòng khi tôi nói thế này, nhưng Iorek Byrnison chỉ còn cách đây bốn giờ đồng hồ nữa thôi, có lẽ tốt hơn là ngài nên bảo những con gấu của ngài không tấn công anh ta theo cách thông thường. Nếu ngài định chiến đấu với anh ta để giành được tôi thì anh ta phải được phép vào Cung điện.”

“Được…”

“Và có thể khi anh ta đến, tốt hơn tôi nên giả bộ vẫn thuộc về anh ta, tôi nói là bị lạc đường hoặc sao đó. Anh ta sẽ không biết được đâu. Tôi sẽ giả vờ. Ngài có định nói với những con gấu khác về chuyện tôi là nhân tinh của Iorek Byrnison và sẽ thuộc về ngài khi ngài đánh bại anh ta không?”

“Ta không biết… Ta nên làm thế nào?”

“Tôi không nghĩ là ngài nên nói đến chuyện đó lúc này. Khi nào chúng ta ở bên nhau, ngài và tôi, chúng ta có thể nghĩ đến những chuyện tốt đẹp nhất để làm và quyết định. Điều ngài cần làm bây giờ là giải thích với tất cả những con gấu khác tại sao ngài sắp để Iorek chiến đấu với ngài như một con gấu bình thường, ngay cả khi anh ta là một kẻ bị đi đày. Vì họ sẽ không thể hiểu nổi, nên chúng ta cần tìm một lý do cho chuyện này. Ý tôi là, dù gì thì họ cũng phải làm theo lệnh của ngài, nhưng nếu họ thấy có một lý do cho chuyện đó, họ sẽ còn ngưỡng mộ ngài hơn nữa.”

“Được. Vậy chúng ta nên nói với họ thế nào?”

“Hãy nói với họ… Hãy nói với họ rằng để làm cho vương quốc của ngài an toàn hơn, chính ngài đã gọi Iorek Byrnison trở về để chiến đấu với anh ta, và người chiến thắng sẽ thống trị những con gấu vĩnh viễn. Ngài thấy không, nếu chúng ta làm cho việc anh ta trở về là theo ý tưởng của ngài, chứ không phải của anh ta, họ sẽ thực sự bị ấn tượng. Họ sẽ nghĩ ngài có thể gọi anh ta về đây trong khi anh ta ở xa xôi đến thế. Họ sẽ nghĩ ngài có thể làm được bất cứ chuyện gì.”

“Đúng…”

Con gấu to lớn không còn lựa chọn nào khác. Lyra gần như say sưa trước quyền lực cô đang áp đặt lên nó, và nếu Pantalaimon không véo tay cô nhắc nhở về sự nguy hiểm họ đang rơi vào, có lẽ cô đã mất hết cả ý thức cảnh giác.

Cô trở lại là mình, khiêm tốn bước lùi lại phía sau để quan sát và chờ đợi trong khi những con gấu, dưới sự chỉ đạo phấn khích của Iofur, chuẩn bị trường đấu cho Iorek Byrnison. Trong khi đó Iorek, chẳng biết chút gì về chuyện này, đang hối hả tiến về nơi mà cô đang ước gì có thể nói cho nó biết nó sẽ phải chiến đấu một mất một còn.

Chương 20: Lối thoát

Những cuộc chiến giữa các con gấu là rất bình thường, và thường được coi như một nghi lễ. Tuy nhiên, trường hợp một con gấu giết con gấu khác là rất hiếm, nếu có thì cũng do tai nạn, hay do một con gấu hiểu nhầm tín hiệu từ con kia, như trong trường hợp của Iorek Byrnison. Những trường hợp giết chết tươi, như Iofur giết chết cha ruột của mình thì càng hiếm thấy hơn.

Nhưng thỉnh thoảng cũng có trường hợp cách giải quyết tranh chấp duy nhất là chiến đấu một mất một còn. Để chuẩn bị điều đó, một nghi thức sẽ được chuẩn bị.

Ngay khi Iofur Raknison tuyên bố Iorek Byrnison đang trên đường trở về, thì một cuộc chiến sắp diễn ra, trường đấu đã được quét dọn và mài nhẵn, những thợ làm áo giáp ra khỏi hầm mỏ để đến xem xét bộ áo giáp sắt của Iofur. Tất cả những đầu đinh tán được kiểm tra, mỗi đường nối đều được buộc lại, những phiến kim loại được đánh bóng bằng loại cát tốt nhất. Những móng vuốt của nó cũng được chăm sóc kỹ lưỡng y như thế. Những lá vàng đã được đánh bóng, những móng vuốt dài cả chục phân đã được mài nhọn đến mức đáng sợ. Lyra nhìn mà cảm thấy ruột gan mình đau quặn, vì Iorek Byrnison không thể được chăm sóc như thế này. Nó đã đi trên tuyết lạnh hai mươi tư tiếng đồng hồ mà không hề nghỉ ngơi hay ăn uống. Có thể nó đã bị thương trong vụ đâm khinh khí cầu. Cô đã lôi kéo nó vào cuộc chiến này mà nó không hề được biết trước. Đến một lúc, trong khi Iofur Raknison đã thử nghiệm mức độ sắc nhọn của móng vuốt trên một con moóc vừa bị giết chết, xé toạc bộ da của nó ra như với một tờ giấy, và sức mạnh của cú đấm trên chiếc xương sọ của con moóc … Hai cú đấm, nó vỡ tan ra như một quả trứng, Lyra đành cáo lỗi với Iofur, lủi ra một chỗ kín khóc nức lên vì sợ hãi.

Thậm chí cả Pantalaimon, bình thường nó có thể pha trò làm cho cô vui lên cũng khó mà nói rằng có một chút hi vọng. Tất cả những gì cô có thể làm là hỏi Chân-kế: nó còn cách đây một giờ đồng hồ, chiếc máy nói cho cô biết, và một lần nữa, cô phải tin vào con gấu; và (điều này thì khó đọc ra hơn) thậm chí cô còn nghĩ nó đang trách cứ cô vì đã hỏi lại cùng câu hỏi đến hai lần.

Đến lúc đó, các con gấu đã truyền lời nhau, và tất cả các góc của trường đấu chật ních. Những con gấu đẳng cấp cao được ngồi ở chỗ tốt nhất, và có một chỗ khoanh hàng rào đặc biệt dành riêng cho những con gấu cái. Lyra rất tò mò về những con gấu cái, vì cô biết rất ít về chúng, nhưng không còn thời gian để vẩn vơ với những câu hỏi nữa. Thay vào đó cô ở bên cạnh Iofur Raknison và quan sát những cận thần xung quanh nó thể hiện đẳng cấp của mình trước những con gấu bình thường ở bên ngoài, cố gắng đoán được ý nghĩa của những thứ lông vũ và phù hiệu, huy chương hầu như con nào cũng đeo. Cô nhìn thấy, một vài con ở đẳng cấp cao nhất, mang theo những hình nộm giống con nhân tinh búp bê len của Iofur, có thể là chúng cố gắng lấy lòng bằng bắt chước cách làm của nó. Cô cảm thấy hài lòng với thái độ nhạo báng khi nhận thấy chúng không biết làm gì với con hình nộm của mình khi mà Iofur đã vứt hình nộm của mình đi. Có lẽ chúng đang nghĩ có nên vứt đi hay không? Có phải giờ chúng không còn được sủng ái nữa? Chúng phải cư xử thế nào đây?

Bởi vì đó đang là mốt thịnh hành trong hội đồng của nó, cô bắt đầu phải quan sát. Chúng không chắc chắn chúng là gì. Chúng không giống Iorek Byrnison, thuần khiết, chắc chắn và tuyệt đối; luôn có một tấm màn đen mông lung che phủ trên đầu chúng khi chúng nhìn nhau và nhìn Iofur.

Rồi chúng nhìn cô, với sự tò mò không giấu giếm. Cô vẫn nhún nhường ở bên cạnh Iofur, không nói gì cả, cụp mắt xuống mỗi khi có một con gấu nhìn cô.

Sương đã tan dần, không khí rất sáng sủa. Lúc này đã gần trưa, Lyra nghĩ Iorek sắp đến. Cô đứng run rẩy trên một đám tuyết bên lề trường đấu, cô nhìn lên bầu trời u ám và trông chờ tất cả bằng con tim mình rằng sẽ nhìn thấy những bóng đen duyên dáng tả tơi đang bay trên bầu trời lượn xuống mang cô đi; hay nhìn thấy thành phố giấu mình trong Hiện tượng cực quang, nơi cô có thể đi bộ an toàn dọc theo đại lộ rộng lớn tràn ngập ánh mặt trời; hay nhìn thấy vòng tay rộng mở của Mẹ Costa, để được ngửi thấy mùi hương thân thiện và mùi thức ăn cuốn quanh cô.

Cô thấy mình đang khóc, những giọt nước mắt gần như đông cứng lại ngay khi chúng thành giọt, cô thấy rất đau khi gạt đi. Cô cảm thấy rất sợ. Những con gấu, chúng không biết khóc, không thể hiểu nổi điều đang xảy đến với cô; đó là một đặc trưng của loài người, và những con gấu thấy việc này thật vô nghĩa. Tất nhiên, Pantalaimon không thể an ủi cô như vẫn thường làm, dù cô để tay trong túi và nắm chặt thân hình ấp áp của nó, nó sục mũi vào tay cô.

Bên cạnh cô, những con gấu thợ rèn đang thực hiện nốt những điều chỉnh cuối cùng cho bộ áo giáp sắt của Iofur Raknison. Trông hắn như một tháp kim loại vĩ đại, sáng rực trong lớp kim loại đánh bóng, những phiến kim loại được giát những sợi dây vàng; chiếc mũ sắt che phủ phần trên của đầu làm bằng mai giáp màu xám bạc sáng lấp lánh, khe mắt sâu; phía bên trong thân người hắn được bảo vệ bởi một lớp áo giáp đan mắt lưới. Chính lúc đó cô nhận ra mình đã phản bội Iorek Byrnison, vì Iorek chẳng có thứ nào giống như vậy cả. Bộ áo giáp sắt chỉ bảo vệ lưng và hai bên sườn nó. Cô nhìn Iofur Raknison, thật béo tốt và khỏe mạnh, và cảm thấy đau đớn trong lòng, một cảm giác sợ hãi pha lẫn tội lỗi.

Cô nói, “Xin ngài thứ lỗi, thưa Đức ngài, nếu ngài còn nhớ điều tôi đã nói lúc trước…”

Giọng nói run rẩy của cô nghe thấy nhỏ bé và yếu ớt. Iofur Raknison quay cái đầu mạnh mẽ lại từ chiếc bia đang được ba con gấu bê trước mặt hắn thử những chiếc móng nhọn hoắt của mình.

“Sao? Sao?”

“Xin Đức ngài nhớ cho, tôi đã nói tốt hơn là tôi nên đến nói chuyện với Iorek Byrnison trước, và giả vờ … “

Nhưng trước khi cô kịp nói hết câu, có một tiếng gầm gừ từ phía những con gấu trên tháp canh. Những con khác biết điều đó có nghĩa là gì và hân hoan sung sướng. Chúng đã nhìn thấy Iorek.

“Có được không ạ?” Lyra nói gấp gáp “Tôi sẽ đánh lừa anh ta, rồi ngài sẽ thấy.”

“Được! Được! Đi đi . Đi và động viên hắn ta!”

Iofur Raknison đang quá mê cuồng và kích động đến mức khó nói được nên lời.

Lyra rời khỏi vị trí bên cạnh nó, đi qua trường đấu sạch sẽ và trống trơn, để lại những dấu chân trên tuyết, những con gấu ở phía xa lùi ra nhường đường cho cô đi qua. Khi thân hình to lớn của chúng ì ạch nhích sang bên, chân trời mở rộng, lờ mờ trong ánh sáng nhợt nhạt. Iorek Byrnison đâu rồi? Cô chẳng nhìn thấy gì cả, nhưng khi đó, tháp canh rất cao, những con gấu trên đó có thể nhìn thấy những thứ cô chưa nhìn thấy được. Tất cả những gì cô có thể làm là đi tiếp về phía trước trên nền tuyết.

Nó nhìn thấy cô trước khi cô nhìn thấy nó. Một cú nhảy, rồi có tiếng kim loại lanh canh, và chỉ với một luồng tuyết cuốn lên, Iorek Byrnison đã đứng bên cạnh cô.

“Ôi, Iorek, tôi đã gây ra một chuyện khủng khiếp! Bạn thân yêu, anh sắp phải chiến đấu với Iofur Raknison, anh chưa sẵn sàng… anh đã mệt và đói rồi, và bộ giáp sắt của anh…”

“Điều khủng khiếp là gì vậy?”

“Tôi nói với hắn ta là anh đang đến, vì tôi đọc được điều này trên chiếc máy đọc biểu tượng, và hắn ta đang cạn hi vọng được giống như một con người và có nhân tinh, thực sự đã tuyệt vọng. Vì thế tôi lừa để hắn ta nghĩ rằng tôi là nhân tinh của anh, và tôi đang phản bội anh để trở thành nhân tinh của hắn ta, nhưng hắn phải chiến đấu để biến điều đó thành hiện thực, vì nếu không, Iorek, bạn thân yêu của tôi, họ sẽ chẳng bao giờ để anh chiến đấu, họ sẽ thiêu cháy anh trước khi anh kịp đến gần…”

“Cô đã lừa Iofur Raknison sao?”

“Vâng. Tôi đã khiến hắn đồng ý đánh nhau với anh thay vì thẳng tay giết anh như với những kẻ bị đi đày khác, và người thắng cuộc sẽ là vua của những con gấu. Tôi buộc phải làm như vậy, bởi vì …”

“Cô mang họ Belacqua phải không? Không, cô phải là Lyra Lưỡi Bạc mới đúng,” nó nói. “Được chiến đấu với hắn là tất cả những gì tôi mong muốn. Đi nào, con nhân tinh bé nhỏ của ta.”

Họ đi bên nhau về phía Cung điện to sừng sững của Iofur, nơi trường đấu chiếm một khoảng rộng dưới chân tường. Những con gấu đứng tụm lại với nhau trên bờ tường có lỗ châu mai, những khuôn mặt màu trắng đứng đầy kín khung cửa sổ, và thân hình to lớn nặng nề của chúng đứng như một bức tường dày đặc sương trắng, tô điểm bằng những đốm mắt và mũi màu đen. Những con đứng gần nhất lùi sang một bên, tạo thành hai đường đi cho Iorek Byrnison và nhân tinh của anh ta đi ở giữa. Những con gấu dán mắt nhìn họ.

Iorek dừng lại ở phía bên kia trường đấu, cách xa Iofur Raknison. Vua của những con gấu bước xuống, và hai con gấu đối mặt với nhau ở khoảng cách xa.

Lyra đứng gần Iorek đến nỗi cảm thấy người nó run rẩy như một chiếc máy phát điện lớn, phát ra những luồn điện mạnh mẽ. Cô chạm nhẹ vào cổ nó bên gờ chiếc mũ sắt và nói : “Hãy chiến đấu kiên cường nhé, Iorek, bạn thân yêu. Anh là đức vua thực sự, chứ không phải hắn. Hắn chẳng là gì cả.”

Rồi cô đứng lùi lại phía sau.

“Hỡi những con gấu!” Iorek Byrnison gầm lên. Một tiếng vọng dội trở lại từ những bức tường cung điện và khiến những con chim hốt hoảng bay vụt ra khỏi tổ. Nó tiếp tục nói. “Điều kiện của cuộc chiến là thế này. Nếu Iofur Raknison giết được ta, hắn sẽ là vua vĩnh viễn, không còn bị đe dọa hay tranh chấp gì nữa. Còn nếu ta giết được Iofur Raknison, ta sẽ là vua của các ngươi. Mệnh lệnh đầu tiên của ta cho các ngươi sẽ là phá tan cung điện kia, căn nhà nồng nặc mùi hôi hám và tanh tưởi, ném những thứ vàng bạc và hoa cương kia xuống biển. Sắt là kim loại của gấu. Không phải là vàng. Iofur Raknison đã làm ô uế Svalbard. Ta đến đây để gột rửa lại nó. Iofur Raknison, ta thách thức ngươi.”

Iofur lao về phía trước một hay hai bước, như thể hắn không thể tự kiềm mình lại nổi.

“Hỡi những con gấu!” Đến lượt hắn gầm lên. “Iorek Byrnison đã quay lại theo lời mời của ta. Ta đã gọi hắn về đây. Chính ta mới là người có quyền ra điều kiện cho trận chiến này, và điều kiện sẽ là thế này: nếu ta giết chết Iorek Byrnison, da thịt hắn sẽ bị xé nát và ném cho những con kền núi. Đầu hắn sẽ bị treo trước cung điện của ta, đài tưởng niệm hắn sẽ bị phá bỏ. Người nào nhắc đến tên hắn sẽ bị khép vào tội chết…”

Hắn tiếp tục nói, và từng con gấu nhắc lại. Đây là một nguyên tắc, một nghi thức tế lễ được tuân theo. Lyra nhìn vào hai con gấu, chúng khác nhau vô cùng: Iofur thật hào nhoáng và mạnh mẽ, tràn đầy sức lực và khỏe mạnh, khoác trên mình bộ áo giáp sắt bóng loáng, kiêu hãnh giống một vị vua. Còn Iorek nhỏ bé hơn, và được trang bị sơ xài, bộ áo giáp sắt của nó rỉ sét và méo mó. Nhưng bộ áo giáp sắt là linh hồn nó. Nó đã làm ra bộ áo và bộ áo vừa vặn với nó. Chúng là một, Iofur không thỏa mãn với bộ áo giáp sắt của mình, hắn còn muốn một linh hồn khác nữa. Hắn chuyển động liên tục trong khi Iorek vẫn đứng yên.

Cô nhận thấy tất cả những con gấu khác cũng đang so sánh. Nhưng Iorek và Iofur không đơn thuần chỉ là hai con gấu. Chúng là hai dạng thống trị áp đặt tại nơi đây, hai tương lai, hai số phận. Iofur đã bắt đầu dẫn họ đi theo một phương hướng, và có thể Iorek sẽ đưa họ đi theo một hướng khác. Trong khoảnh khắc này, một tương lai có thể sẽ mãi mãi đóng lại trong khi một tương lai khác lại bắt đầu mở ra.

Khi những nghi lễ cho trận đấu đã chuyển sang màn hai, hai con gấu không ngừng đi loanh quanh trên tuyết, dịch dần lên phía trước, lắc lư cái đầu. Những khán giả ngồi yên không động đậy, nhưng mọi con mắt đều dõi theo chúng.

Rồi với một tiếng gầm, một vệt tuyết vung lên, cả hai con gấu đều lao vào nhau như hai tảng đá trên hai đỉnh núi cạnh nhau bị tung ra bởi một trận động đất, lăn xuống dưới sườn núi với vận tốc ngày càng tăng, băng qua những kẽ nứt làm những cái cây trên đường đi gãy gục thành từng mảnh nhỏ, cho đến khi chúng đâm vào nhau mạnh đến nỗi chúng tan ra thành bụi và làm những mảng đá nhỏ văng ra. Hai con gấu cũng lao vào nhau mạnh mẽ như thế. Cú va chạm của chúng vang vọng trong không khí và dội lại từ những bức tường trong cung điện. Nhưng chúng không bị tan ra thành bụi giống như hai tảng đá. Cả hai đều ngã lăn ra, nhưng Iorek đứng lên trước. Nó uốn người mềm mại và vật lộn với Iofur. Bộ áo giáp sắt của Iofur bị hư hại bởi cú va chạm và nó không dễ để ngẩng đầu lên. Iorek tiến ngay đến điểm dễ tấn công trên cổ con gấu. Nó cào vào lớp lông trắng rồi móc những móng vuốt xuống dưới mép chiếc mũ sắt của Iofur rồi giật mạnh nó về phía trước.

Cảm thấy nguy hiểm, Iofur gầm lên và rùng mình như Lyra đã nhìn thấy Iorek rùng mình bên bờ nước khiến những vảy nước bắn tung tóe trong không khí. Iorek loạng choạng và bị đánh bật ra, tiếng kim loại kêu lanh canh. Iofur đứng vươn người lên, duỗi thẳng những phiến kim loại che lưng bởi một sức mạnh khủng khiếp. Rồi như một dòng thác, nó lao vào Iorek lúc vẫn đang cố gắng đứng lên.

Lyra cảm thấy như tim mình nảy ra ngoài trước sức mạnh của cú va chạm. Mặt đất dưới chân cô cũng rung lên. Làm sao Iorek có thể sống sót trước một chấn động như thế? Nó đang cố gắng uốn mình và lấy lại cân bằng trên mặt đất, nhưng chân trước nó đang ở trên cao, Iofur đã cắm răng vào đâu đó gần cổ họng Iorek. Những giọt máu nóng hổi vọt lên; một giọt đậu trên chiếc áo lông của Lyra, cô áp chặt tay mình lên đó như một biểu hiện của tình yêu thương.

Nhưng những móng vuốt chân sau của Iorek cắm vào những đường nối trên chiếc áo giáp đan lưới lót mình của Iofur và kéo giật xuống. Toàn bộ phần trước bung ra, Iofur lảo đảo nhận thấy nguy hiểm, hắn thả cho Iorek đứng thẳng người lại.

Hai con gấu đứng xa nhau một lúc, lấy lại nhịp thở. Giờ thì Iofur cảm thấy vướng víu với chiếc áo giáp lót mình, vì từ tác dụng bảo vệ nó đã thay đổi hoàn toàn và trở nên vướng víu: nó vẫn bó chặt lại ở phần dưới, và lòng thòng kéo lê giữa hai chân sau. Tuy nhiên, Iorek cũng thảm hại không kém. Máu đang chảy ròng ròng từ vết thương trên cổ khiến nó đau đớn vô cùng.

Nhưng nó lao đến Iofur trước khi vua của những con gấu kịp cản trở nó trong bộ áo giáp và đấm nó ngã lộn nhào, tiếp theo là một cú thọc mạnh vào phần hở ở cổ Iofur, nơi gờ của chiếc mũ sắt đã bị bẻ cong. Iofur vật nó xuống, rồi hai con gấu lại nằm đè lên nhau, làm những đụn tuyết bay lên tung tóe, thỉnh thoảng khiến mọi người khó nhận ra ai đang thắng thế.

Lyra đứng nhìn, gần như không dám thở và vặn xoắn hai tay chặt vào nhau đến nỗi cô cảm thấy đau. Cô nghĩ đã nhìn thấy Iofur xé toạc vết thương trên bụng Iorek, nhưng điều đó là không thể, vì sau một trận tuyết bay mù mịt, cả hai con gấu đang đứng thẳng người như những võ sĩ Quyền Anh, Iorek đang cào những móng vuốt mạnh mẽ vào mặt Iofur, còn Iofur nện trả cũng dữ dội không kém.

Lyra run rẩy trước sức nặng của những cú đấm. Như thể một người khổng lồ đang quải một cây búa tạ, và trên cây búa tạ có cắm thêm năm đầu nhọn …

Tiếng sắt chạm vào sắt, tiếng răng chạm va vào răng, tiếng hơi thở gấp gáp, những bước chân bước thình thình như sấm trên nền đất nện chặt. Vùng tuyết xung quanh đã chuyển sang màu đỏ và bị giẫm nát thành một thứ bùn đỏ thắm.

Bộ áo giáp sắt của Iofur lúc này đã thật thảm hại, những tấm kim loại rách và méo mó, những hoa van dát vàng bị tung ra hay lốm đốm đầy máu, và chiếc mũ sắt của nó đã bay đi đâu mất. Bộ áo giáp sắt của Iorek vẫn còn tốt hơn rất nhiều, dù trông cũng rất thảm hại: méo mó nhưng không sứt mẻ, vẫn trụ vững cho đến tận bây giờ trước những cú đấm nặng như quai búa tạ của vua gấu, và chống chọi với những móng vuốt hung ác dài cả chục phân.

Nhưng Iofur to lớn vẻ khỏe hơn Iorek, còn Iorek thì đang mệt và đói, nó đã mất rất nhiều máu. Nó bị thương ở bụng, ở hai cánh tay, ở cổ, trong khi Iofur chỉ bị chảy máu ở hàm dưới. Lyra mong mỏi được giúp đỡ người bạn thân yêu, nhưng cô có thể làm gì được?

Tình hình đang trở nên xấu đi cho Iorek. Nó đang lả người đi; cứ mỗi lần nó đặt chân trái phía trước trên nền đất, có thể thấy rõ là nó khó mà chống đỡ nổi sức nặng của toàn bộ cơ thể. Nó cũng không bao giờ dùng chân trái này để chiến đấu, và những cứ đấm bằng tay phải lại yếu hơn, gần như chỉ là một cái vỗ nhẹ so với những cú đấm mạnh mẽ ghê gớm mấy phút trước.

Iofur đã nhận thấy điều này. Nó bắt đầu chế nhạo Iorek, gọi nó là đồ bỏ đi, đồ trẻ con khóc thút thít, đồ hết hơi, đồ ngoắc ngoải và những cái tên khác, trong khi nó đấm Iorek từ phía bên trái và phía bên phải. Iorek không còn chống đỡ nổi được nữa. Iorek buộc phải lùi lại phía sau, mỗi lần một bước, và rồi phải bò xuống trước con mưa đòn từ con vua gấu đang luôn mồm nhạo báng.

Lyra khóc nức nở. Người bạn thân yêu, người bạn dũng cảm của cô, người bảo vệ không biết sợ hãi của cô đang sắp chết, cô không muốn phụ bạc quay mặt đi, và nếu nó nhìn cô, chắc chắn nó sẽ nhìn thấy đôi mắt đang sáng rực của cô cùng tình yêu thương và sự tin tưởng tràn ngập trong đó, không phải là một khuôn mặt náu trong sự hèn nhát hay một bờ vai run rẩy sợ hãi.

Vì thế cô nhìn lên, nhưng nước mắt khiến cô không nhìn thấy điều đang thực sự xảy ra; và có thể nó không phải là dễ nhìn thấy đối với cô. Và điều này rõ ràng cũng không bị Iofur phát hiện.

Iorek đang lùi lại phía sau chỉ để tìm một chỗ sạch sẽ, một hòn đá chắc chắn để đứng lên, cánh tay trái vô dụng thực ra vẫn lành lạnh và khỏe mạnh. Không thể lừa một con gấu, nhưng Lyra đã nói cho Iorek Byrnison biết trước, Iofur Raknison không muốn làm một con gấu, hắn muốn trở thành người và Iorek đã lừa nó.

Cuối cùng nó đã tìm được cái nó muốn: một hòn đá chắc chắn và găm sâu vào đất. Nó dựa lưng vào đó, duỗi thẳng chân và chờ thời cơ.

Thời cơ đến khi Iofur vươn người lên cao, rống lên thể hiện sức mạnh, và quay đầu nhìn một cách giễu cợt vào bên tay trái lúc đó đang yếu của Iorek.

Đã đến lúc Iorek hành động. Như một cơn sóng đã tích tụ độ cao từ hàng nghìn dặm trên đại dương và chỉ hơi gợn nhỏ trên làn nước sâu, nhưng khi đến vùng nước cạn, nó nhô lên cao đến tận trời xanh, đe dọa những cư dân trước khi tràn lên bờ với một sức mạnh không thể tưởng tượng nổi… Iorek Byrnison vùng lên trước Iofur, vươn người lên từ chỗ đặt chân chắc chắn trên hòn đá và cào xé dữ dội vào cái hàm đang há hốc của Iofur.

Một cú đấm đáng sợ. Nó đánh bay phần hàm dưới của Iofur lên không trung và rải đầy những giọt máu trên tuyết mấy mét xung quanh.

Cái lưỡi đỏ ngòm của Iofur thè xuống cổ họng trống hoắc của hắn. Con vua gấu đột ngột mất tiếng, mất răng và không gì có thể giúp đỡ nổi. Iorek chỉ cần có thế. Nó lao đến và răng nó cắm phập cổ họng Iofur, giằng sang bên này, bên kia, nhấc thân hình to lớn khỏi mặt đất rồi dằn xuống như thể Iofur chỉ là con hải cẩu bên bờ nước.

Rồi nó xé toang con gấu ra, và mạng sống của Iorek Raknison kết thúc dưới hàm răng của Iorek Byrnison.

Vẫn còn một nghi lễ cuối cùng cần hoàn thành. Iorek xé bộ ngực không che chắn của con vua gấu đã chết, gạt lớp lông để thấy những chiếc xương sườn màu đỏ và trắng. Iorek thò tay vào trong lồng ngực, nó giật trái tim của Iofur ra, đỏ thắm và bốc hơi, ăn sống trước mặt thuộc hạ của Iofur.

Sau đó là tiếng hoan hô, sự hỗn loạn và những con gấu tranh nhau chạy đến thể hiện sự tôn kính trước đối thủ đã chiến thắng Iofur.

Tiếng Iorek Byrnison vang lên át cả tiếng la hét.

“Hỡi những con gấu! Ai là vua của các người?”

Và những tiếng hét đám lại, trong một tiếng gầm như thể tất cả những mái nhà trên thế giới đang bật tung ra trong một cơn bão biển:

“Iorek Byrnison!”

Những con gấu biết chúng cần phải làm gì. Tất cả những huy chương, khăn choàng và vòng hoa bị ném xuống ngay lập tức và giày xéo xuống chân, rồi bị bỏ quên trong tích tắc. Giờ thì chúng đã là những con gấu của Iorek, những con gấu thực thụ, không phải thứ gấu nửa người mơ hồ vẫn ý thức được nỗi đau vì vị trí hèn kém của minh. Chúng tràn vào cung điện và bắt đầu kéo những cột đá hoa cương to lớn từ ngọn tháp ở đỉnh trên cùng, lung lay những bức tường có lỗ châu mai bằng những nấm đấm mạnh mẽ cho đến khi những viên đá long ra đẩy chúng xuống những mõm núi khiến chúng đập mạnh vào đê chắn sóng phía dưới hàng chục mét.

Iorek không để tâm đến và tháo bộ áo giáp sắt của mình ra để chăm sóc vết thương, nhưng trước khi nó bắt đầu, Lyra đã ở bên cạnh, giẫm chân trên nền tuyết đỏ thẵm và hét bảo những con gấu ngừng phá hủy Cung điện, vì có những tù nhân bị giam giữ bên trong đó. Chúng không nghe thấy, nhưng Iorek thì có, và khi nó gầm lên, những con gấu dừng lại ngay lập tức.

“Những tù nhân là con người sao?” Iorek hỏi.

“Đúng vậy—Iofur Raknison tống họ vào ngục tối, họ phải được ra và ở đâu đó, nếu không họ sẽ chết vì đá rơi.”

Iorek ra những lệnh ngắn gọn, mấy con gấu hối hả chạy vào cung điện giải thoát cho các tù nhân. Lyra quay lại với Iorek.

“Để tôi giúp anh nào, tôi muốn biết chắc anh không bị thương quá nặng, Iorek thân yêu—ôi, tôi ước gì có bông băng hay thứ gì đó! Có một vết rạch khủng khiếp trên bụng anh—”

Một con gấu ngậm đầy mồm một thứ gì đó rất cứng màu xanh lá cây bám đầy băng trên mặt đất và thả dưới chân Iorek.

“Rêu cầm máu đó,” Iorek nói. “Hãy rịt vào vết thương hộ tôi, Lyra. Hãy gập phần thịt đè lên trên và bịt một ít tuyết lên cho đến khi nó đóng băng lại.

Nó không để cho con gấu nào chăm sóc mình dù chúng tỏ ra rất sốt sắng. Hơn nữa, đôi tay Lyra rất khéo léo, và cô nóng lòng được giúp đỡ bạn mình. Thế là đứa bé cúi xuống bên vua gấu to lớn, cuốn thứ rêu cầm máu và đắp tuyết vào vết thương cho đến khi nó không chảy máu nữa. Khi đã làm xong, bao tay của cô thấm đẫm máu của Iorek, nhưng vết thương của nó đã lành miệng.

Lúc đó, những tù nhân, khoảng mười mấy người đàn ông, run rẩy, ngơ ngác và long ngóng đã đi ra. Không có gì cần phải nói với ông Giáo sư, Lyra quyết định, vì ông già khốn khổ đã bị điên. Cô muốn biết những người kia là ai, nhưng còn đó nhiều việc gấp hơn cần làm. Cô không muốn làm Iorek rối trí, nó đang nhanh chóng ra lệnh và sai những con gấu chạy gấp ra chỗ nọ chỗ kia, nhưng cô lo lắng cho Roger, Lee, Scoresby, các phù thủy, cô đang đói và mệt… Cô nghĩ điều tốt nhất có thể làm là tránh sang một bên.

Vì thế cô rút vào một góc trong trường đấu cùng Pantalaimon trong hình dạng chồn gu-lô để giữ ấm cho cô, và tự chất một đống tuyết lên người như những con gấu vẫn làm, rồi chìm vào giấc ngủ.

Có thứ gì đó dụi vào chân Lyra, giọng một con gấu lạ nói, “Lyra Lưỡi bạc, đức vua muốn gặp cô.”

Cô đứng dậy và gần như tắt thở vì lạnh, không thể mở mắt nổi vì chúng đã bị phủ một lớp băng, nhưng Pantalaimon đã liếm cho băng tan ra, và cô nhìn thấy ngay một con gấu trẻ tuổi đang nói chuyện với cô dưới ánh trăng.

Cô cố gắng đứng lên nhưng ngã xuống hai lần.

Con gấu nói, “Hãy cưỡi lên lưng tôi,” và nó quỳ xuống chìa ra tấm lưng rộng lớn của minh, nửa ngã nửa bám vào, cô cố gắng ngồi lên trong khi nó đưa cô đến một khoảng đất trống, nơi nhiều con gấu đang đứng tụm lại với nhau.

Giữa chúng là một bong dáng nhỏ bé đang chạy về phía cô, nhân tinh của người đó nhảy lên chào đón Pantalaimon.

“Roger!” cô reo lên.

“Iorek Byrnison để mình lại ở đây trong khi anh ấy đến cứu cậu, chúng mình đã rời khỏi khinh khí cầu. Lyra ạ! Sau khi cậu rơi ra, chúng mình đi thêm nhiều dặm, rồi ông Lee Scoresby thả thêm khí gas ra ngoài và chúng mình đâm vào một ngọn núi, rồi chúng mình rơi xuống một sườn dốc chắc cậu chẳng bao giờ nhìn thấy! Mình không biết bây giờ ông Lee Scoresby ở đâu, cả các phù thủy cũng vậy. Chỉ có mỗi mình và Iorek Byrnison thôi. Anh ấy đi thẳng đến đó tìm cậu. Họ đã kể cho mình nghe về cuộc chiến của anh ấy…”

Lyra nhìn quanh, dưới sự hướng dẫn của những con gấu già, các tù nhân đang xây một căn lều bằng cành củi và vải dầu. Trông họ có vẻ sung sướng vì có việc gì đó để làm. Một trong số những người đàn ông đang đánh diêm để đốt lửa

“Có thức ăn đấy” con gấu trẻ đã đánh thức Lyra dậy nói.

Một con hải cẩu còn tươi nằm trên tuyết. Những con gấu xé nó ra bằng móng vuốt và chỉ cho Lyra chỗ tìm quả cật. Cô ăn một miếng cật sống: nó ấm, mềm và ngon hơn tưởng tượng.

“Hãy ăn cả mỡ nữa,” con gấu nói và xé một miếng đưa cho cô, nó có vị kem hạt dẻ. Roger chần chừ rồi làm theo Lyra. Chúng ăn ngấu nghiến, chỉ sau vài phút, Lyra đã hoàn toàn tỉnh táo và bắt đầu ấm lên.

Vừa lau miệng, Lyra vừa nhìn ra xung quanh, nhưng không thấy Iorek đâu cả.

“Ngài Iorek Byrnison đang nói chuyện với các cố vấn.” Con gấu trẻ tuổi nói. “Ngài muốn gặp cô khi cô đã ăn xong. Hãy đi theo tôi.”

Nó dẫn họ qua một gò tuyết đến một nơi những con gấu đang bắt đầu xây bức tường bằng những khối băng. Iorek ngồi giữa những con gấu già, nó đứng lên chào đón cô.

“Lyra Lưỡi Bạc,” nó nói, “hãy đến đây nghe những gì tôi đang nghe.”

Nó không giới thiệu sự có mặt của cô với những con gấu khác, có lẽ chúng đã biết về cô từ trước. Nhưng chúng nhường chỗ cho cô và đối xử với cô rất trân trọng, như thể cô là một nữ hoàng. Cô cảm thấy tự hào vô cùng khi được ngồi bên cạnh người bạn thân Iorek Byrnison của mình dưới Hiện tượng cực quang khi nó lung linh huy hoàng trên bầu trời bắc cực và tham gia vào cuộc nói chuyện với những con gấu.

Hoá ra sự thống trị của Iofur Raknison là do một âm mưu. Một số cho rằng do ảnh hưởng của bà Coulter, người đã đến gặp Iofur Raknison khi Iorek bị đi đày, dù Iorek không hề biết về điều đó, và còn tặng Iofur rất nhiều quà.

“Bà ta đưa cho hắn một viên thuốc,” một con gấu nói, “hắn đã bí mật cho Hjalmur Hjalmurson uống, làm cho nó quên mất mình là ai.”

Hjalmur Hjalmurson, theo Lyra đoán, là con gấu đã bị Iorek giết và cái chết của nó khiến Iorek phải bị đầy. Vậy là bà Coulter đứng sau chuyện này! Và còn hơn thế nữa.

“Có những điều luật của con người ngăn cản một số chuyện bà ta đang dự định, nhưng luật của con người không được áp dụng ở Svalbard. Bà ta muốn thiết lập một trụ sở ở đây như ở Bolvangar, có điều là tệ hại hơn, và Iofur cho phép bà ta làm điều đó, chống lại tất cả những truyền thống của loài gấu. Con người đã đến đây, hay bị cầm tù, nhưng không bao giờ sống và làm việc ở đây. Dần dần bà ta đã làm tăng thêm mức độ ảnh hưởng của mình lên Iofur Raknison, và của ông ta lên chúng tôi, cho đến khi chúng tôi trở thành những sinh vật chạy đi chạy lại dưới sự sai bảo của bà ta, và nhiệm vụ duy nhất của chúng tôi là bảo vệ cái thứ ghê tởm bà ta sắp tạo…”

Đó là lời của một con gấu già hơn. Tên nó là Soren Eisarson, nó là một cố vấn, một con gấu đã phải chịu đựng những điều không hay dưới thời Iofur Raknison.

“Giờ thì bà ta đang làm gì, Lyra?” Iorek Byrnison hỏi. “Khi bà ta nghe tin về cái chết của Iofur, bà ta sẽ làm gì?”

Lyra lấy Chân-kế ra. Không đủ ánh sáng để nhìn, Iorek ra lệnh mang đến một cây đuốc.

“Chuyện gì đã xảy ra ông Lee Scoresby vậy?” Lyra hỏi trong khi chờ đợi. “Cả các phù thủy nữa?”

“Các phù thủy đã bị một bộ tộc phù thủy khác tấn công. Tôi không biết những phù thủy ở bộ tộc đó có phải là đồng minh của những kẻ chia tách con người hay không, nhưng họ lượn trên bầu trời với số lượng nhiều khủng khiếp, họ tấn công trong cơn bão. Tôi không biết điều gì đã xảy ra cho Serafina Pekkala, còn về Lee Scoresby, chiếc khinh khí cầu lại bay lên sau khi tôi rơi ra ngoài với cậu bé, đưa anh ta lên cùng. Nhưng chiếc máy đọc biểu tượng của cô sẽ cho chúng ta biết số phận của họ giờ ra sao.”

Một con gấu kéo đến chiếc xe kéo đựng chiếc vạc chứa đầy than củi đang cháy âm ỉ và ném một miếng nhựa gì đó vào giữa. Miếng nhựa bắt lửa ngay lập tức, soi sáng cho Lyra quay những chiếc kim của Chân-kế và hỏi về Lee Scoresby.

Hóa ra ông ấy vẫn đang lơ lửng trên cao, bị gió thổi về hướng Nova Zembla, và ông ấy không hề hấn gì sau khi bị những con kền núi tấn công. Bộ tộc phù thủy lạ đã bị đánh lui.

Lyra nói lại với Iorek, nó gật đầu hài lòng.

“Nếu ông ta vẫn còn ở trên không, ông ta sẽ an toàn.”

“Thế còn về bà Coulter?”

Câu trả lời rất phức tạp, chiếc kim quay từ biểu tượng này sang biểu tượng kia theo một trật tự khiến Lyra rối trí một lúc lâu. Những con gấu rất tò mò, nhưng kìm lại được vì sự tôn kính của chúng dành cho Iorek Byrnison, và của Iorek Byrnison dành cho Lyra. Cô bỏ chúng ra ngoài tâm trí để chìm đắm trong Chân-kế.

Trò chơi của những biểu tượng, khi cô đã tìm hiểu được mối quan hệ của chúng, thì không còn bí ẩn nữa.

“Nó nói rằng bà ta… bà ta đã nghe về việc chúng ta bay theo hướng này, bà ta có một khí cầu zeppelin vận tải được trang bị sung máy. Tôi nghĩ là vậy—vì họ đang bay đến Svalbard ngay lúc này. Bà ta vẫn chưa biết chuyện Iofur bị giết, tất nhiên là như vậy, nhưng sẽ nhanh chóng biết, bởi vì… Đúng rồi, vì một số phù thủy sẽ nói cho bà ta biết, các phù thủy biết tin nhờ những con kền núi. Vì thế tôi đoán rằng có rất nhiều do thám trong không khí xung quanh đây, Iorek. Bà ta đang đến để … để định giúp Iofur Raknison, nhưng thực ra là tiếp quản quyền lực của hắn, với một đội quân Tartar đến bằng đường biển, họ sẽ đến đây trong vòng hai ngày tới.

“Ngay khi có thể bà ta sẽ đến nơi Ngài Asriel đang bị giam giữ, và sẽ sai người giết ông ấy. Vì… giờ mọi thứ đã trở nên rõ ràng: một điều trước đây tôi không thể hiểu nổi, Iorek ạ! Đó là tại sao bà ấy lại muốn giết Ngài Asriel: đó là vì bà ta biết ông ấy sẽ làm gì, bà ta sợ điều đó, bà ta muốn chính minh làm điều đó và có quyền kiểm soát trước ông ấy… Chắc chắn đó là thành phố trên mây! Chắc chắn là như vậy! Bà ta đang cố gắng giành được nó trước! Và giờ nó còn nói thêm với tôi về điều gì khác nữa…”

Cô vùi người xuống chiếc máy, tập trung cao độ, trong khi chiếc kim xoay lung tung. Nó chuyển động hầu như quá nhanh để dõi theo, Roger đang nhìn qua vai cô, thậm chí Roger không nhìn thấy nó dừng lại lúc nào, cậu nhìn chằm chằm vào những ngón tay Lyra quay những chiếc kim, những chiếc kim trả lời hỗn loạn chứ không đơn giản như thứ ngôn ngữ của Hiện tượng cực quang.

“Đúng rồi,” cuối cùng cô lên tiếng, đặt chiếc máy vào lòng, chớp mắt và thở dài như thể vừa ra khỏi sự tập trung cao độ của minh. “Đúng, tôi đã hiểu điều nó nói. Bà ta lại đang đuổi theo tôi, bà ta muốn thứ gì đó tôi đang có, vì Ngài Asriel cũng muốn điều đó. Họ cần nó cho việc này… cho thí nghiệm nà … dù nó là gì…”

Đến đó cô ngừng lại hít một hơi thật sâu rồi thở ra từ từ. Có điều gì đó đang làm cô phiền não, dù cô không biết đó là chuyện gì. Cô chắc chắn thứ quá đỗi quan trọng đến thế chính là bản thân chiếc Chân-kế, bởi sau rốt, bà Coulter đã từng muốn nó, và còn có thể là gì khác nữa? Nhưng vẩn chưa đúng, ví Chân-kế có một cách khác để nói đến chính minh, và không phải là cách này.

“Tôi cho rằng đó là Chân-kế.” Cô nói với vẻ không vui. “Đó là điều tôi luôn nghĩ từ đầu đến giờ. Tôi phải mang đến cho Ngài Asriel trước khi bà ta có được nó. Nếu bà ta có được nó, tất cả chúng ta phải chết.”’

Khi nói thế, cô cảm thấy rất mệt mỏi, sự mệt mỏi và buồn phiền đến trong từng khớp xương đến mức chết đi có lẽ là một sự giải thoát. Nhưng tấm gương của Iorek đã ngăn cô không nghĩ đến điều đó. Cô cất Chân-kế đi và đứng thẳng lên.

“Bà ta còn cách đây bao xa?” Iorek hỏi.

“Chỉ vài giờ đồng hồ thôi. Tôi nghĩ tôi phải mang Chân-kế đến cho Ngài Asriel nhanh hết mức có thể.”

“Tôi sẽ đi với cô.” Iorek nói.

Cô không phản đối. Trong khi Iorek ra lệnh và tổ chức một nhóm có vũ trang để đi theo họ trên chặng đường cuối cùng của họ lên phía bắc, Lyra ngồi im, lấy lại sức lực. Cô cảm thấy có điều gì đó đã thoát khỏi cô trong suốt quãng thời gian lần đọc biểu tượng vừa rồi. Cô nhắm mắt lại và ngủ. Sau đó họ đánh thức cô dậy ngay để lên đường.

Chương 21: Sự chào đón của ngài Asriel

Lyra cưỡi trên lưng một con gấu trẻ tuổi, còn Roger cưỡi trên lưng một con khác, trong khi Iorek bước không mệt mỏi phía trước và đội quân đi theo mang một chiếc máy ném lửa để bảo vệ phía sau.

Quãng đường rất dài và khó khăn. Vùng lãnh thổ của Svalbard là núi đá, với những mỏm núi và vách đá sắc nhọn bị cắt ngang bởi những hẻm núi và thung lũng sườn dốc đứng, với cái lạnh cắt da cắt thịt. Lyra nhớ lại những chiếc xe kéo êm ái của người Gypsy trên đường đến Bolvangar. So với bây giờ, cuộc hành trình đó sao nhanh chóng và thoải mái đến thế! Không khí ở đây lạnh khủng khiếp hơn bất cứ đâu cô từng đến trước đây, hay có thể con gấu cô đang cưỡi không bước nhẹ nhàng như Iorek; hay có lẽ là vì cô đã mệt đến tận từng thớ thịt. Dù thế nào, đây cũng là một quãng đường vô cùng khó đi.

Cô biết rất ít về nơi cả đoàn đang hướng tới, hay nó cách xa bao nhiêu. Tất cả những gì cô biết la con gấu già Soren Eisarson đã nói với cô trong lúc chúng chuẩn bị chiếc máy ném lửa. Nó đã tham dự cuộc thương lượng với ngài Asriel về các điều kiện của việc bị giam giữ của ông, và nó vẫn còn nhớ rất rõ.

Đầu tiên, nó nói, những con gấu Svalbard coi Ngài Asriel không khác những chính khách, những vị vua hay những kẻ vướng vào rắc rối bị đày ra hòn đảo hoang vu này của chúng. Những tù nhân này rất quan trọng. Hoặc là họ bị giết bởi chính các đồng loại của mình, họ có thể trở nên quý giá với những con gấu một ngày nào đó, nếu sự nghiệp chính trị của họ thay đổi và họ quay trở về thống trị đất nước của chính mình. Hoặc là họ sẽ trả tiền cho những con gấu để không bị đối xử quá tàn nhẫn hay vô lễ.

Vì thế ngài Asriel đã đưa ra các điều kiện tại Svalbard không tốt hơn mà cũng không tệ hơn hàng trăm tù nhân bị đày khác từng làm. Nhưng có một số điều đã khiến những người bạn tù của ông đề phòng ông hơn với những người khác. Có một bầu không khí bí ẩn và nguy hiểm về mặt tâm linh xung quanh bất cứ thứ gì liên quan đến Bụi; những người đưa Ngài Asriel đến đây rõ ràng rất hoảng sợ, và đã có những cuộc nói chuyện riêng giữa bà Coulter với Iofur Raknison.

Bên cạnh đó, những con gấu cũng chưa bao giờ gặp phải thứ gì giống như tính cách hung hãn và độc đoán của Ngài Asriel, thậm chí ông ta lấn át cả Iofur Raknison, ông tranh cãi dữ dội và rất nhiều lý lẽ, để thuyết phục vua gấu cho phép ông tự chọn chỗ ở cho mình.

Chỗ đầu tiên nơi ông bị đưa vào quá thấp kém, ông nói thế. Ông cần một nơi cao ráo, phía trên những khói và bụi của mỏ than và lò rèn. Ông đưa cho những con gấu bản thiết kế về nơi ở ông mong muốn, và nói cho chúng nên xây ở chỗ nào. Ông hối lộ cho chúng vàng, ông tâng bốc và ép buộc Iofur Raknison. Những con gấu bắt tay vào việc với một sự hăng hái đáng ngạc nhiên. Không lâu sau, một căn nhà đã được dựng ở vùng đất mũi hướng về phía bắc, một nơi rộng lớn và vắng lặng có những lò sưởi đốt bằng những khúc củi than to do những con gấu kéo đến, với một khung cửa sổ rộng lắp kính thật. Ông ta trú ngụ ở đó, một tù nhân có phong cách như một ông vua.

Rồi ông bắt đầu lắp ráp những thiết bị cho một phòng thí nghiệm.

Ông tập trung ghê gớm vào việc yêu cầu những cuốn sách, thiết bị, chất hóa học, tất cả những vật dụng và công cụ khác. Bằng cách này hay cách khác, chúng đã được đưa đến, một số là công khai, một số là do lén lút mang đến bởi những vị khách ông đặc biệt yêu cầu. Bằng đường bộ, đường biển và đường không. Ngài Asriel đã gom góp đủ các thiết bị của mình. Chỉ sau sáu tháng kể từ khi bị tống giam, ông đã có được tất cả những thứ mình muốn.

Và thế là ông bắt tay vào việc, suy nghĩ, lập kế hoạch và đo đạc, chờ đợi một thứ ông cần để hoàn tất công việc khiến Ủy ban Tôn giáo rất hoảng sợ. Cứ mỗi phút nó càng đến gần hơn.

*

* *

Hình ảnh đầu tiên về nhà tù nơi giam giữ cha mình của Lyra là khi Iorek Byrnison dừng lại ở chân một con dốc cho bọn trẻ tự nhúc nhích chân tay, vì chúng đã bị lạnh và cóng đến mức nguy hiểm.

“Nhìn lên phía trên kia kìa.” Nó nói.

Một sườn đồi lởm chởm đầy đá và băng, có một con đường rất dễ thấy dẫn đến một vách đá nổi rõ trên cổng trời. Không có Hiện tượng cực quang, nhưng những ngôi sao rất sáng. Vách đá đứng sừng sững đen thẫm và trông có vẻ đáng sợ, nhưng ở trên đỉnh là một ngôi nhà rộng rãi. Ánh đèn trong nhà hắt ra ngoài từ khắp các hướng; không phải là thứ ánh sáng leo lét mang theo đầy khói của đèn mỡ cá voi, củng không phải là những ngọn đèn anbaric hắt ra thứ ánh sáng trắng, mà là ánh đèn dầu ấm áp lấp lánh màu kem.

Những ô cửa sổ từ đó hắt ra còn cho thấy sức mạnh ghê gớm của Ngài Asriel. Thủy tinh rất đắt đỏ, và một tấm lớn như thế là vô cùng xa xỉ giữa một nơi rộng lớn và khắc nghiệt như thế này; vì thế chúng là bằng chứng về sự giàu có và ảnh hưởng lớn hơn rất nhiều so với cung điện thô thiển của Iofur Raknison.

Chúng lại cưỡi trên lưng những con gấu lần cuối cùng, và Iorek dẫn đầu quãng đường đi xuống sườn đồi về phía ngôi nhà. Có một khoảng sân nằm sâu dưới tuyết, xung quanh có tường thấp bao quanh, khi Iorek đẩy cánh cổng mở rộng họ nghe thấy tiếng chuông reo đâu đó trong nhà.

Lyra tụt xuống. Cô khó mà đứng vững nổi. Cô giúp Roger tụt xuống, và xốc vai nhau, chúng nhảy qua những đụn tuyết cao bằng cả cẳng chân về phía những bậc cửa dẫn vào ngôi nhà.

Ôi, hơi ấm có thể có trong ngôi nhà đó! Ôi, một sự nghỉ ngơi thư thái!

Cô với tay đến tay cầm của chiếc chuông, nhưng trước khi cô nắm được nó, cánh cửa bật mở. Có một hành lang được chiếu sáng lờ mờ để giữ không khí ấm áp bên trong, và đứng dưới ánh đèn là một người mà cô nhận ra ngay: Thorold, người hầu nam của ngài Asriel, với con nhân tinh có tên Anfang.

Lyra mệt mỏi kéo chiếc mũ trùm đầu ra sau.

“Ai…” Thorold lên tiếng, rồi nhận ra, ông tiếp tục, “không phải Lyra sao? Lyra bé bỏng phải không? Tôi có đang mơ không vậy?”

Ông lùi về phía sau để mở chiếc cửa tiếp theo.

Một đại sảnh, với lửa than đang cháy trong lò sưởi xây bằng đá , ánh đèn dầu ấm áp lung linh trên tấm thảm trải sàn, những chiếc ghế bọc da, những thứ đồ gỗ bóng loáng… Không có gì giống với những thứ Lyra đã nhìn thấy kể từ khi rời khỏi học viên Jordan, điền này khiến cổ họng Lyra nghẹn lại.

Con nhân tinh báo tuyết của Ngài Asriel gầm gừ.

Cha của Lyra đang đứng đó, khuôn mặt với đôi mắt đen mạnh mẽ lúc đầu hung dữ, đắc thắng và hào hứng; rồi tái đi, đôi mắt ông mở to, trông sợ hãi khi nhận ra con gái của mình.

“Không! Không!”

Ông lảo đảo lùi lại, bám chặt vào bệ lò sưởi. Lyra không thể đông đậy nổi.

“Đi ra!” Ngài Asriel hét lên. “Quay lại, đi ra, đi! Ta không cho gọi cháu!”

Cô không thể lên tiếng nổi. Cô thử mở miệng lần thứ nhất, lần thứ hai, lần thứ ba, và cuối cùng cố gắng nói :

“Không, không, cháu đến đây vì—”

Dường như ông rất kinh hoàng, ông liên tục lắc đầu, giơ tay lên như thể để đẩy cô đi. Cô không tin ông lại chịu áp lực đến vậy.

Cô bước một bước lại gần hơn và Roger đến đứng bên cô, lo lắng. Hai con nhân tinh của họ bay trong không khí ấm áp, một lúc sau Ngài Asriel quệt tay qua trán và hơi bình tĩnh lại. Sắc hồng trở lại trên mặt ông khi ông nhìn xuống hai đứa trẻ.

“Lyra,” ông nói. “Lyra phải không?”

“Vâng, thưa chú Asriel.” Cô nói, trong thâm tâm nghĩ chưa đến lúc cư xử theo đúng mối quan hệ giữa họ. “Cháu đến đây để mang cho chú Chân-kế ông Hiệu trưởng Jordan gửi.”

“Đúng, tất nhiên, cháu đã làm thế.” Ông nói, “Ai đây?”

“Cậu ấy là Roger Parslow.” Cô nói, “Cậu ấy làm việc trong nhà bếp của Học viện Jordan. Nhưng—”

“Làm thế nào cháu đến được đây?”

“Cháu vừa định nói, còn có Iorek Byrnison đang ở ngoài. Anh ấy mang chúng cháu đến đây. Anh ấy đã đi cùng cháu suốt cả chặng đường từ Trollesund và chúng cháu đã lừa Iofur—”

“Iorek Byrnison là ai?”

“Một con gấu mặc áo giáp sắt. Anh ấy đưa chúng cháu đến đây.”

“Thorold,” ông gọi, “đặt nước nóng cho những đứa trẻ này, chuẩn bị chút đồ ăn cho chúng. Rồi sau đó chúng cần ngủ. Quần áo của chúng bẩn hết rồi, tìm cho hai đứa đồ gì để mặc. Làm ngay đi, trong khi ta nói chuyện với con gấu này.”

Lyra thấy đầu óc mình choáng váng. Có lẽ vì hơi nóng, hay có lẽ là vì cô cảm thấy nhẹ nhõm. Cô nhìn người hầu cúi mình và rời khỏi đại sảnh, Ngài Asriel ra phòng ngoài và đóng cửa lại, rồi cô gieo mình xuống chiếc ghế gần nhất.

Chỉ một thoáng sau, dường như vậy, Thorold vào nói với cô. “Hãy đi theo tôi, thưa cô,” ông ta nói, cô đứng dậy cùng Roger vào một phòng tắm ấm áp, nơi những chiếc khăn tắm mềm mại treo trên mắc và một chậu nước bốc hơi dưới ánh đèn dầu.

“Cậu tắm trước đi.” Lyra nói. “Mình sẽ ngồi bên ngoài, bọn mình sẽ nói chuyện.”

Roger, co rúm và thở gấp vì hơi nóng, đi vào và bắt đầu cọ rửa. Chúng hay rất tắm truồng cùng nhau, vui đùa trên sông Isis hay Cherwell cùng những đứa trẻ khác, nhưng lần này thì không.

“Mình sợ chú cậu,” Roger nói qua cánh cửa mở, “Ý mình là cha cậu đấy.”

“Tốt hơn cứ gọi ông ấy là chú mình. Mình cũng sợ ông ấy, thỉnh thoảng.”

“Khi chúng ta mới bước vào, ông ấy chẳng nhìn gì đến mình, chỉ nhìn cậu. Ông ấy sợ hãi, cho đến khi nhìn thấy mình. Rồi ông ấy trấn tĩnh lại ngay lập tức.”

“Ông ấy bị sốc.” Lyra nói. “Bất cứ ai cũng có thể như vậy, khi nhìn thấy một người họ không mong đợi. Lần cuối cùng ông ấy gặp mình là trong Phòng nghỉ. Bị sốc là phải rồi.”

“Không.” Roger nói. “Còn hơn thế ấy. Ông ấy nhìn mình như một con chó sói, hay gần như vậy.”

“Cậu chỉ tưởng tượng thế thôi.”

“Không phải. Mình sợ ông ấy hơn bà Coulter, đó là sự thật.”

Cậu vẩy nước lên người mình. Lyra lôi Chân-kế ra.

“Cậu có muốn mình hỏi chiếc máy đọc biểu tượng truyện đó không?” Lyra hỏi.

“Ừ, mình không biết. Có những điều mình không biết thì hơn. Dường như với mình, tất cả những gì mình nghe được từ khi bọn Gà trống tây đến Oxford, điều gì cũng tệ hại cả. Chưa có gì tốt đẹp bằng năm phút sắp tới. Như mình có thể thấy bây giờ, được tắm như thế này thật tuyệt, ở đây có những chiếc khăn tắm ấm áp mềm mại. Và khi mình đã lau khô người, mình sẽ nghĩ đến thứ gì ngon lành để ăn, nhưng không có gì tiếp theo hơn nữa. Khi mình đã ăn xong, có thể mình sẽ ước một chiếc giường êm để ngủ. Nhưng sau đó, mình không biết, Lyra ạ. Chúng mình đã chứng kiến rất nhiều chuyện khủng khiếp, phải vậy không? Và sẽ còn nhiều chuyện nữa ở phía trước, việc này còn chắc chắn hơn. Vì thế mình nghĩ không nên biết những điều xảy ra trong tương lai thì hơn. Mình chỉ cần biết hiện tại được rồi.”

“Ừ,” Lyra mệt mỏi nói. “Có lúc mình cũng cảm thấy thế.”

Vì thế dù cô cầm Chân-kế trên tay thêm một lúc nữa, đó chỉ là để cảm thấy thoải mái, cô không quay những bánh xe. Pantalaimon nhìn Chân-kế trong im lặng.

Sau khi cả hai đứa đều đã tắm, ăn chút bánh mì với pho mát và uống ít rượu cùng nước nóng, ông người hầu Thorold nói. “Cậu bé phải đi ngủ. Tôi sẽ chỉ chỗ cho cậu ấy. Ông chủ hỏi liệu cô có muốn đến ngồi với ông trong Thư viện không, thưa cô Lyra.”

Lyra tìm thấy Ngài Asriel ngồi trong một căn phòng có cửa sổ nhìn ra đại dương đóng băng xa xa. Có một lò sưởi đốt than dưới một bệ lò sưởi lớn, và một ngọn đèn dầu vặn rất nhỏ, nó phản chiếu được rất ít bóng người ngồi trong phòng, bên ngoài là toàn cảnh bầu trời đầy sao. Ngài Asriel, dựa đầu vào chiếc ghế bành lớn đặt cạnh lò sưởi, vẫy cô lại gần và bảo cô ngồi vào chiếc ghế đối diện. “Bạn của cháu, Iorek Byrnison đang nghỉ ngơi bên ngoài.” Ông nói, “Anh ta thích không khí lạnh hơn.”

“Anh ấy đã kể cho chú nghe về trận chiến với Iofur Raknison chưa?”

“Không kĩ lắm. Nhưng ta hiểu giờ đây anh ta là vua của Svalbard. Đúng thế không?”

“Tất nhiên là đúng rồi, Iorek chẳng bao giờ nói dối.”

“Có vẻ như anh ta tự chỉ định mình là người bảo vệ cháu.”

“Không, John Faa lệnh cho anh ấy trông nom cháu, và anh ấy làm điều này vì thế. Anh ấy đang làm theo lệnh của John Faa.”

“Làm thế nào John Faa lại dính dáng đến chuyện này?”

“Cháu sẽ kể cho chú nếu chú nói cho cháu biết một điều.” Cô nói, “Chú là cha cháu, đúng không?”

“Đúng. Sao nào?”

“Vậy thì cha nên kể cho con nghe trước, thế đấy ạ. Cha không nên giấu giếm mấy chuyện như vậy với những người ta, vì họ sẽ cảm thấy mình ngu ngốc khi họ tìm ra nó, và điều đó thật tàn nhẫn. Có gì là khác biệt nếu con biết con là con gái của cha? Cha đã có thể nói ra chuyện này nhiều năm trước. Cha đã có thể nói với con và yên cầu con giữ bí mật, con sẽ làm theo, dù lúc đó con còn nhỏ đến đâu, con sẽ làm như thế nếu cha yên cầu. Con đã có thể tự hào rằng chẳng có gì khiến con hé môi nếu cha đã yêu cầu con phải giữ bí mật. Nhưng cha chẳng bao giờ nói cả. Cha để những người khác biết, nhưng lại không bao giờ cho con biết.”

“Ai đã kể cho con biết chuyện này?”

“John Faa.”

“Ông ta đã kể cho con về mẹ con chưa?”

“Rồi.”

“Vậy là chẳng còn lại gì nhiều để ta kể. Ta không nghĩ ta muốn bị chất vấn và kết tội bởi một đứa trẻ không ngoan. Ta muốn nghe những điều con đã chứng kiến và đã làm trên đường đến đây.”

“Con đã mang cho cha Chân-kế quý hóa này, đúng không?” Lyra òa lên. Cô gần khóa đến nơi. “Con giữ gìn nó suốt từ khi rời khỏi Jordan, con bảo vệ nâng niu nó, và dù đã xảy ra điều gì với chúng con, con đã học được cách sử dụng nó. Con đã mang nó suốt cả quãng đường gian khổ khi mà con có thể từ bỏ nó để được an toàn. Cha thậm chí chẳng nói cảm ơn, hay một thể hiện một thái độ là cha vui mừng khi gặp lại con. Con không hiểu tại sao là con có thể làm được điều này. Nhưng con đã làm, con đã tiếp tục đi, ngay cả trong cung điện hôi hám của Iofur Raknison có tất cả những con gấu đó vây quanh và con lừa ông ta chiến đấu với Iorek để có thể đến được đây vì cha… Vậy mà khi cha nhìn thấy con, cha tái mặt đi, như thể con là thứ gì đó khủng khiếp cha không bao giờ muốn gặp lại. Cha không phải là con người, thưa Ngài Asriel. Cha không phải cha của con. Cha của con sẽ không đối xử với con như vậy. Những người cha sẽ yêu thương con gái mình, đúng vậy không? Cha không yêu con và con không yêu cha, đó là sự thực. Con yêu Farder Coram, và con yêu Iorek Byrnison; con yêu một con gấu mặc áo giáp sắt hơn cả yêu cha mình. Con cá là Iorek Byrnison cũng yêu con hơn cha.”

“Chính con nói với ta anh ta chỉ làm theo lệnh của John Faa. Nếu con trở nên ủy mị như vậy thì ta sẽ không phí thời gian nói chuyện với con đâu.”

“Hãy cầm lấy Chân-kế quý hóa của cha, còn con sẽ quay về với Iorek.”

“Về đâu?”

“Trở về cung điện. Anh ấy có thể chiến đấu với bà Coulter và Ủy ban Tôn giáo , khi họ xuất hiện. Nếu anh ấy thất bại thì con cũng sẽ chết, con không cần biết. Nếu anh ấy chiến thắng, chúng con sẽ gọi Lee Scoresby đến và con sẽ đi trên chiếc khinh khí cầu của anh ấy và—”

“Lee Scoresby là ai vậy?”

“Một người lái khinh khí cầu. Ông ấy đưa chúng con đến đây, rồi chúng con bị rơi xuống đất. Của cha đây, Chân-kế. Nó vẫn còn nguyên vẹn.”

Ông không có dấu hiệu gì để lấy nó, và cô để nó trên chiếc khay đồng chắn than quanh lò sưởi.

“Con nghĩ là con nên nói cho cha biết bà Coulter đang trên đường đến Svalbard. Ngay khi nghe tin điều đã xảy đến với Iofur Raknison, bà ấy sẽ lên đường đến đây. Trong một chiếc khí cầu, với rất nhiều quân lính, họ sẽ giết tất cả chúng ta, theo lệnh của Tổng giáo giám mục.”

“Họ sẽ không bao giờ đến được chỗ chúng ta.” Ông bình thản nói.

Ông lặng lẽ và thư thái đến nỗi cơn giận dữ của cô nguội đi phần nào.

“Cha không biết đâu,” cô nói với vẻ không chắc chắn.

“Ta biết chứ.”

“Vậy là cha có một Chân-kế khác phải không?”

“Ta không cần đến một Chân-kế để biết được điều này. Giờ thì ta muốn nghe về chuyến đi của con tại đây, Lyra. Hãy kể từ đầu. Ta muốn nghe tất cả.”

Vậy là cô kể. Cô bắt đầu từ việc trốn trong Phòng nghỉ, tiếp tục với việc bọn gà trống tây bắt mất Roger, thời gian ở cùng bà Coulter, và tất cả việc xảy ra khác.

Đó là một câu chuyện dài, khi kể xong cô nói, “Vậy còn một điều con muốn biết, và con đoán mình có quyền được biết, như con có quyền biết mình thực sự là ai. Và nếu cha đã không cho con biết chuyện đó, hãy nói con biết điều này, để bù lại. Đó là: Bụi là gì? Và tại sao tất cả mọi người đều sợ nó?”

Ông nhìn cô chằm chằm như thể đang đoán xem cô có hiểu được điều ông sắp nói hay không. Trước đây, ông chua bao giờ nhìn cô chắm chú, cô nghĩ; cho đến bây giờ ông vẫn luôn giống một người lớn làm thỏa mãn đứa trẻ bằng trò lường gạt tài tình. Nhưng có lẽ ông nghĩ cô đã đủ lớn để biết.

“Bụi là thứ làm Chân-kế hoạt động.”

“À… Con đã nghĩ như thế! Nhưng còn gì nữa? Làm sao họ tìm thấy nó?”

“Ở một khía cạnh nào đó. Giáo hội luôn quan tâm đến nó. Họ đã thuyết giáo về nó nhiều thế kỉ nay, có điều không gọi nó bằng tên này.

“Nhưng vài năm trước, một người Moscow tên là Boris Mikhailovich Rusakov khám phá ra một loại hạt cơ bản mới. Con đã nghe về electron, photon, neutron và những loại hạt cơ bản khác rồi chứ? Chúng được gọi là các hạt cơ bản vì con không thể phá vỡ chúng nhỏ thêm được nữa: không có gì ở bên trong chúng ngoài chính chúng. Đó, loại hạt mới này đúng là hạt cơ bản, nhưng rất khó đo đếm vì nó không phản ứng theo bất cứ những cách thông thường nào. Điều khó hiểu nhất đối với Rusakov là tại sao loại hạt mới này lại tụm lại ở những nơi có người, như thể chúng bị hút vào chúng ta. Mà đặc biệt là với người lớn. Trẻ con cũng có nhưng không nhiều lắm cho đến khi nhân tinh của chúng cố định lại hình dáng. Trong suốt những năm ở tuổi dậy thì, chúng trở nên hút Bụi rất mạnh, và nó phủ lên người chúng nhiều như người lớn.

“Giờ đây, tất cả những khám phá về thể loại này, vì chúng có liên quan đến học thuyết của giáo hội, phải được thông báo lên Tổng giáo giám mục tại Geneva. Khám phá này của Rusakov kỳ lạ và phi lý đến nỗi thanh tra viên của Tòa án kỷ luật Tôn giáo nghi ngờ Rusakov thuộc thế giới ma quỷ. Ông ta niệm thần chú trong phòng thí nghiệm, ông ta chất vấn Rusakov theo những quy tắc của Tòa án dị giáo, nhưng cuối cùng người ta phải công nhận thực tế rằng Rusakov đã không nói dối hay lừa gạt: Bụi thực sự tồn tại.

“Việc này đặt họ trước một vấn đề là quyết định nó là cái gì. Và với bản chất của giáo hội, chỉ có một điều duy nhất để chọn lựa. Tổng giáo giám mục quyết định rằng Bụi là bằng chứng hiển nhiên của tội lỗi căn nguyên. Con có biết tội lỗi căn nguyên là gì không?”

Cô mím môi, thật giống như quay trở lại Jordan, bị đố những điều cô chỉ học rất lơ mơ. “Một thứ gì đó,” cô nói.

“Không, con không biết rồi. Hãy đến chiếc giá sách bên cạnh bàn và mang cho ta cuốn Kinh thánh.”

Lyra làm theo và đưa cho cha mình cuốn sách lớn màu đen.

“Con có nhớ câu chuyện Adam với Eve không?”

“Có chứ.” Cô nói. “Bà ấy không được phép ăn loại trái đó và con rắn đã xúi giục bà, rồi bà đã ăn.”

“Rồi điều gì đã xảy ra?”

“Ừm,…Họ đã bị ném xuống trần gian. Chúa đã ném họ khỏi khu vườn.”

“Chúa đã nói họ không được ăn trái cấm, vì nếu thế họ có thể chết, hãy nhớ là, họ khỏa thân trong khu vườn, họ giống như những đứa trẻ, nhân tinh của họ biến thành bất cứ con vật nào chúng muốn. Nhưng đây là điều đã xảy ra.”

Ông lật sang Chương ba trong cuốn “Sáng thế” và đọc:

“Và người phụ nữ nói với con rắn, chúng tôi được phép ăn các loại quả có trong vườn:

“Nhưng là quả của loại cây mọc giữa vườn, Chúa đã nói, ngươi không được ăn nó, cũng không được chạm vào nó, nếu không ngươi sẽ chết.

“Và con rắn nói với người phụ nữ, cô không chắc là sẽ chết:

“Vì Chúa không biết rằng trong ngày cô ăn nó vào, mắt của cô sẽ được khai mở, con nhân tinh của cô có được hình hài đúng của mình, và cô sẽ giống như những vị thánh, biết được việc thiện việc ác.

“Rồi người phụ nữ thấy cái cây đó ngon lành, rất vui mắt, cái cây sẽ hé lộ hình dáng thật của con nhân tinh, cô nhón lấy thứ quả đó, và ăn, và còn đưa nó cho người chồng của mình, anh ta đã ăn.

“Và mắt của hai người được khai mở, họ nhìn thấy hình dạng thật của con nhân tinh của mình, và nói chuyện với chúng.

“Nhưng khi người đàn ông và người phụ nữ biết về con nhân tinh của chính mình, họ biết có một thay đổi lớn đã đến, vì cho đến thời khắc đó dường như họ giống hệt mọi sinh vật dưới mặt đất lẫn trên bầu trời, và không có gì khác biệt giữa họ:

“Rồi họ đã nhìn thấy sự khác biệt, và giờ họ đã biết cái tốt và cái xấu; họ thấy xấu hổ, và họ khâu những chiếc lá với nhau để che đậy sự trần truồng của mình…”

Ông gập cuốn sách lại.

“Đó chính là cách tội lỗi đến với thế giới,” ông nói. “Tội lỗi, sự hổ thẹn và cái chết. Nó đến khi con nhân tinh của họ cố định lại hình dáng.”

“Nhưng…” Lyra cố gắng tìm từ mình muốn nói. “Nhưng như thế không đúng, phải không? Nó không giống như ngành hóa học hay cơ khí học. Không thực sự có Adam và Eve? Học giả Cassington nói với con rằng đó chỉ là một loại truyện cổ tích.”

“Học giả Cassington được coi là một nhà tư tưởng tự do. Công việc của ông ta là thách thức niềm tin của các Học giả. Tất nhiên ông ta sẽ nói như vậy. Nhưng hãy nghĩ về Adam và Eve như một số ảo, như căn bậc hai của âm một ( –1). Con có thể không bao giờ thấy một bằng chứng chắc chắn chứng minh nó tồn tại, nhưng nếu con bảo gồm chúng vào các phép tính của mình, con có thể tính toán tất cả những thứ mà thiếu nó sẽ không tưởng tượng ra được.

“Dù sao, đó là điều Giáo hội rao giảng hàng nghìn năm nay. Khi Rusakov phát hiện ra Bụi, cuối cùng cũng có một bằng chứng hiển nhiên rằng có điều gì đó xảy ra khi thời kỳ ngây thơ chuyển sang thời kỳ trưởng thành.

“Thật trùng hợp, cuốn Kinh thánh cũng cho chúng ta tên Bụi. Lúc đầu chúng được gọi là hạt Rusakov, nhưng sau đó có người chỉ ra ở phần cuối Chương ba cuốn Sáng thế, lúc Chúa đuổi Adam ra khỏi thiên đường vì ăn trái cấm.”

Ông lại mở cuốn Kinh thánh ra và chỉ cho Lyra xem. Cô đọc:

“Với khuôn mặt đẫm mồ hôi, ngươi sẽ phải ăn bánh mì, cho đến khi ngươi trở về với lòng đất; vì từ đó là thứ ngươi đã lấy đi: thứ bụi mà ngươi sở hữu, và ngươi sẽ trở về với bụi…”

Ngài Asriel nói: “Các học giả của Giáo hội thường bối rối trước bản dịch này. Có người nói không nên dịch là ‘ngươi sẽ trở về với bụi’ mà phải là ‘người sẽ biến thành bụi,’ những người khác lại nói cả bản dịch này là một trò chơi chữ với chữ ‘mặt đất’ và ‘bụi,’ và nó thực ra có nghĩa rằng Chúa đang ca ngợi bản chất phần nào tội lỗi của chính mình. Không ai đồng ý cả. Không ai có thể, bởi vì văn bản đã bị mục nát. Nhưng đó là một từ quá đắt giá, thật phí phạm nếu không sử dụng, và đó là lý do loại hạt này được gọi là Bụi.”

“Thế còn bọn Gà trống tây thì sao?” Lyra hỏi.

“Tổng Ủy ban Tôn giáo…băng đảng của mẹ con. Bà ấy đã rất khôn khéo khi giành lấy cơ hội thiết lập nền tảng quyền lực cho mình, nhưng bà ấy là một phụ nữ thông minh, ta dám chắc con cũng nhận thấy như vậy. Tổng giáo giám mục rất thích thú với việc để cho mọi loại tổ chức khác nhau mọc lên như nấm sau mưa. Họ có thể kích cho tổ chức này chống lại tổ chức kia, nếu một trong hai thắng, họ sẽ giả như ủng hộ tổ chúc đó ngay từ đầu, và nếu nó thất bại, họ lại làm như nó là một tổ chức phản bội bị loại bỏ chưa bao giờ được chính thức thừa nhận.

“Con thấy đấy, mẹ của con luôn đam mê quyền lực. Đầu tiên bà ấy thử giành lấy nó bằng cách thông thường, qua hôn nhân, nhưng không có tác dụng, ta nghĩ chắc con đã được nghe kể. Vì thế bàn ấy phải quay sang Giáo hội. Tất nhiên bà ấy không thể đi theo con đường của một người đàn ông—làm thầy tu hay tương tự như vậy—bà ấy sẽ pha3i đi theo con đường không chính thức. Bà ấy phải tự thiết lập cho mình một con dường riêng, con đường dẫn đến quyền lực, và đi theo chúng. Sẽ thuận lợi hơn nếu tập trung vào Bụi. Tất cả mọi người đều e sợ nó; không ai biết phải làm gì; và khi bà ấy đề nghị tổ chức một cuộc điều tra nghiên cứu, Tổng giáo giám mục đã thở phào nhẹ nhõm và ủng hộ bà ấy tài lực cũng như mọi loại phương tiện cần thiết.”

“Nhưng bọn họ đang cắt rời—” Lyra không thể ngăn mình nói ra điều đó; từ đó tắc nghẹn trên môi cô. “Cha biết họ đang làm gì rồi đấy! Tại sao Giáo hội lại để họ làm một việc như thế?”

“Có một tiền lệ từ trước. Điều tương tự đã xảy ra trước đây. Con có biết từ ‘thiến’ có nghĩa là gì không? Đó là cắt bỏ bộ phận sinh dục của một cậu bé để nó không thể phát triển những đặc tính của người đàn ông. Một người con trai bị thiến có giọng cao gấp ba mức bình thường trong suốt cuộc đời, diều này được Giáo hội cho phép: nó rất có tác dụng đối với dàn nhạc trong nhà thờ. Một vài người con trai bị thiến trở thành những ca sĩ nổi tiếng thế giới, những nghệ sĩ tài năng. Rất nhiều người chỉ trở thành một người nửa đàn ông nửa đàn bà béo ú và mục rửa. Một số người chết do tác động của cuộc phẫu thuật. Nhưng Giáo hội sẽ không nao núng trước một ca mổ nhỏ, như con thấy đấy. Đã có tiền lệ như vậy rồi. Và như thế còn vệ sinh hơn rất nhiều so với phương pháp cũ, khi chưa có thuốc gây mê và băng vô trùng hay những sự chăm sóc thích đáng. Nếu so sánh như thế thì vẫn còn nhẹ nhàng.”

“Không hề!” Lyra nói với giọng dữ dội. “Không hề!”

“Không. Tất nhiên là không. Chính vì vậy họ mới phải trốn lên tận phương Bắc, trong bóng tối và không ai biết tới. Giáo hội rất vui mừng khi có một người phụ trách công việc như mẹ con. Ai có thể nghi ngờ một người duyên dáng đến thế, giỏ giao thiệp đến thế, ngọt ngào và nhiều lý lẽ đến thế? Nhưng vì đó là một loại phẫu thuật mờ ám và không chính thức, bà ấy cũng là người mà Tổng hội giám mục có thể phải đề phòng.”

“Nhưng ý tưởng chia tách đó đầu tiên là của ai?”

“Là của bà ấy. Bà ấy nhận định rằng hai thứ xảy ra trong thời kỳ dậy thì có thể quan hệ với nhau: sự thay đổi ở con nhân tinh và thực tế là Bụi bắt đầu phản ứng. Có thể nếu nhân tinh bị tách khỏi con người, có thể chúng ta sẽ không bao giờ bị phụ thuộc vào Bụi—tức tội lỗi căn nguyên nữa. Vấn đề là có thể thách nhân tinh khỏi con người mà không giết chết người đó được không? Nhưng bà ấy đã đi rất nhiều nơi, và biết tất cả mọi thứ. Ví dụ như bà ấy từng đến Châu Phi. Người Châu Phi có một cách chế tạo nô lệ là thây ma. Nó không có trí khôn khôn gì cả. Nó sẽ lao đông suốt ngày suốt đêm mà không kêu ca hay bỏ trốn. Trông nó giống một xác chết…”

“Đó là một người không có nhân tinh!”

“Chính xác. Vì thế bà ấy nhận ra là có thể chia tách người với nhân tinh.”

“Và…Tony Costa kể với con về những bóng ma rùng rợn trong những khu rừng trên phương Bắc. Con nghĩ chúng cũng là một dạng kiểu này.”

“Đúng thế đấy. Dù sao, Ủy ban Tôn giáo chung cũng ra đời từ ý tưởng này, và từ ám ảnh về tội lỗi căn nguyên của giáo hội.”

Nhân tinh của Ngài Asriel giật giật hai tai, ông đặt tay lên cái đầu xinh đẹp của nó.

“Còn có điều gì đó khác nữa xảy ra khi họ thực hiện chia cắt,” ông tiếp tục. “Và họ đã không nhận thấy điều đó. Năng lượng liên kết con người với nhân tinh vô cùng mãnh liệt. Khi sự chia tách diễn ra, tất cả năng lượng tan biến chỉ khoảng thời gian một giây đồng hồ. Họ không để ý vì họ tưởng lầm đó là một cơn sốc, hay sự giận dữ, hay tổn thương tinh thần, và họ tự rèn luyện mình để thờ ơ với nó. Vì thế họ đã bỏ lỡ mất những điều nó có thể làm, và họ không bao giờ nghĩ đến việc khai thác nó…”

Lyra không thể ngồi yên được. Cô đứng lên và đi đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài màn đêm rộng lớn bên ngoài với đôi mắt vô hồn. Họ quá độc ác. Dù việc tìm hiểu tội lỗi căn nguyên có quan trọng đến mức nào, việc họ làm với Tony Makarios và tất cả những đứa trẻ khác thật là độc ác. Không gì có thể biện hộ được cho hành động đó.

“Vậy cha đang làm những gì?” cô nói. “Cha từng thực hiện một cuộc chia cắt nào không?”

“Ta quan tâm đến những thứ hoàn toàn khác. Ta không nghĩ Ủy ban Tôn giáo đi đủ xa. Ta muốn tìm hiểu đến nguồn gốc của chính bản thân Bụi.”

“Nguồn gốc? Vậy nó đến từ đâu?”

“Từ thế giới khác mà chúng ta có thể nhìn thấy qua hiện tượng cực quang.”

Lyra quay đầu lại. Cha cô đang ngả lưng trên ghế, thư thái và mạnh mẽ, con mắt ông dữ dội như mắt con nhân tinh của mình. Cô không yêu ông, cô không thể tin ông, nhưng cô không khỏi ngưỡng mộ ông, ngưỡng mộ sự xa hoa ông bài trí trong nơi ở cách biệt của ông, ngưỡng mộ sức mạnh tỏa ra từ tham vọng của ông.

“Thế giới khác đó là gì?” cô nói.

“Một trong số hàng tỉ nhưng thế giới tồn tại đồng thời với nhau. Các phù thủy đã biết về những thế giới này hàng thế kỉ trước, nhưng nhà thần học đầu tiên chứng minh sự tồn tại của chúng theo phương thức toán học đã bị rút phép thông công năm mươi năm trước hoặc hơn. Tuy nhiên, sự thật là thế; không có cách nào để có thể chối bỏ nó được.

“Nhưng không có ai nghĩ rằng có thể đi từ thế giới này sang thế giới khác. Điều này có thể vi phạm các điều luật cơ bản, chúng ta nghĩ thế. Thế đấy, chúng ta đã sai lầm; cho đến nay, chúng ta đã học cách nhìn nhận thế giới này. Nếu ánh sáng đi qua thì chúng ta cũng có thể. Và chúng ta cần phải học được cách để hiểu nó, Lyra ạ, cũng giống như việc con học cách đọc Chân-kế.

“Giờ thì thế giới đó, và các thế giới khác, đã trở thành kết quả của một khả năng. Lấy ví dụ việc tung đồng xu”nó có thể rơi xuống mặt trái hay mặt phải, chúng ta không biết sẽ là mặt nào trước khi nó rơi xuống. Nếu là mặt phải, điều đó có nghĩa là khả năng lật lên mặt trái đã tiêu tan. Cho đến thời điểm đó hai khả năng vẫn cân bằng.

“Nhưng trong một thế giới khác, nó là mặt trái. Và khi điều này xảy ra, hai thế giới tách ra làm đôi. Ta dùng ví dụ tung đồng xu chỉ để diễn đạt rõ ràng hơn. Trên thực tế, những khả năng bị tiêu biến này xảy ra ở mức độ các hạt cơ bản., nhưng chúng cũng diễn ra y theo cùng cách: một khoảnh khắc rất nhiều thứ có khả năng xảy ra, khoảnh khắc tiếp theo chỉ có một thứ xảy ra, và phần còn lại không tồn tại. Trừ khi có những thế giới khác nảy sinh, để cho các khả năng đó xảy ra thực sự.

“Và ta sắp đến thế giới đó nhờ Hiện tượng cực quang,” ông nói, “bởi vì ta nghĩ rằng tất cả Bụi trên thế giới này đều đến từ đó. Con đã nhìn thấy những bản kính dương đèn chiếu ta chỉ cho các Học giả trong Phòng nghỉ. Con đã thấy Bụi tràn xuống thế giới này từ Hiện tượng cực quang. Chính mắt con đã nhìn thấy thành phố đó. Nếu ánh sáng có thể đi qua ranh giới giữa các thế giới, nếu Bụi có thể, nếu chúng ta có thể nhìn thấy thành phố đó, vậy chúng ta có thể xây một cây cầu và đi qua. Việc này cần một vụ bùng nổ năng lượng phi thường. Nhưng ta có thể làm được. Ở đâu đó ngoài kia là cội nguồn của tất cả Bụi, tội lỗi, đau đớn, hủy diệt trong thế giới. Loài người không thể nhìn thấy thứ gì mà không muốn phá hủy nó, Lyra ạ. Đó chính là tội lỗi căn nguyên. Ta sẽ phá hủy nó. Cái chết sẽ bị diệt vong.”

“Có phải vì thế mà người ta giữ cha ở đây không?”

“Đúng. Họ sợ. Và điều này có lý do của nó.”

Ông đứng lên, con nhân tinh cũng vậy, kiêu hãnh, đẹp đẽ và đáng sợ. Lyra vẫn đứng tại chỗ. Cô sợ cha mình, nhưng cô ngưỡng mộ ông một cách tự hào, và cô nghĩ ông đã hoàn toàn điên rồ; nhưng cô là ai mà có thể phán xét đây?

“Đi ngủ đi,” ông nói. “Thorold sẽ chỉ phòng ngủ cho con.”

Ông quay người đi.

“Cha quên cái Chân-kế này,” Lyra nói.

“À, đúng. Hiện giờ ta chưa thực sự cần nó.” Ông nói. “Dù sao nó chẳng giúp gì được cho ta nếu không có cuốn sách. Con biết không, ta nghĩ ông hiệu trưởng Jordan có ý đưa nó cho con. Ông ấy có thực sự bảo con mang nó đến cho ta không?”

“Ừm, vâng!” Cô nói. Nhưng sau đó cô nghĩ lại, và nhận thấy thực ra ông hiệu trưởng không bảo cô làm việc đó, ngay từ đầu đến giờ cô vẫn đoán là thế, vì nếu không ông ta đưa cho cô làm gì? “Không,” cô nói, “con không biết. Con đã nghĩ—”

“Được rồi, ta không cần nó. nó là của con, Lyra ạ.”

“Nhưng—”

“Chúc ngủ ngon, con gái.”

Nín lặng, quá hoang mang vì việc này đến mức không thể lên tiếng hỏi bất cứ câu hỏi đang hiện lên cả tá trong tâm trí mình, cô ngồi cạnh lò sưởi và dõi theo ông rời khỏi phòng.

Chương 22 Sự phản bội

Cô tỉnh dậy và thấy một người đang lay tay mình, Pantalaimon choàng tỉnh và gầm gừ, cô nhận ra người đó là Thorold. Ông ta đang cầm một cây đèn dầu, tay ông run lẩy bẩy.

“Thưa cô, thưa cô, hãy dậy nhanh lên. Tôi không biết phải làm gì nữa. Ông ấy đã đi rồi. Tôi nghĩ ông ấy đã điên rồi, thưa cô.”

“Cái gì? Chuyện gì xảy ra vậy?”

“Ngài Asriel, thưa cô. Ông ấy gần như trong tình trạng mê sảng kể từ khi cô về phòng ngủ. Tôi chưa bao giờ thấy ông ấy điên cuồng đến thế. Ông ấy gói ghém rất nhiều thiết bị, chất lên một chiếc xe kéo rồi ông ấy cho buộc vào và rời đi, nhưng ông ấy đã đưa cậu bé theo, thưa cô!”

“Roger? Ông ấy mang Roger đi rồi sao?”

“Ông ấy bảo tôi đánh thức và mặc quần áo cho cậu ấy, tôi không dám cãi lại—tôi chưa bao giờ làm thế cả—cậu bé cứ luôn miệng hỏi về cô, thưa cô—nhưng ngài Asriel chỉ muốn một mình cậu ấy thôi—Cô còn nhớ lúc đầu tiên khi cô vào đến cửa không, thưa cô? Ông ấy nhìn vào cô và không tin vào mắt mình, và muốn cô đi ấy?”

Tâm trí Lyra quay cuồng vì mệt mỏi và sợ hãi đến nỗi không nghĩ được gì. “Vâng? Sao ạ?” cô nói.

“Đó là vì ông ấy cần một đứa trẻ để hoàn tất thí nghiệm của mình, thưa cô! Và Ngài Asriel có một cách đặc biệt của riêng mình để có được cái mình muốn, ông ấy chỉ cần gọi ra gì đó và—”

Giờ thì đầu óc Lyra quay cuồng, như thể cô đang cố gắng nặn ra chút hiểu biết trong chính nhận thức của mình.

Cô ra khỏi giường và tìm quần áo, rồi cô đột nhiên sụp xuống, một tiếng khóc bật lên vì thất vọng. Cô cố nén tiếng khóc lại, nhưng nó mạnh hơn cô, như thể chính sự thất vọng đang dồn nén cô. Vì cô nhớ lại điều ông nói: năng lượng liên kết con người và nhân tinh vô cùng mãnh liệt; và để xây dựng một cây cầu giữa hai thế giới cần một vụ bùng nổ phi thường…

Cô chợt nhận ra điều mình đã làm.

Cô đã vật lộn qua bao nhiêu khó khăn suốt cả chặng đường đến đây để mang thứ gì đó cho Ngài Asriel, tưởng rằng cô biết ông cần gì; và đó hoàn toàn không phải là Chân-kế. Điều ông ta cần là một đứa trẻ.

Cô đã mang Roger đến cho ông ấy.

Chính vì thế mà ông đã hét lên, “Ta không cho gọi cháu!” khi nhìn thấy cô. Ông ta đã cho gọi một đứa trẻ, định mệnh đã mang cho ông ấy chính con gái mình. Hay ít ra ông cũng nghĩ thế, cho đến khi cô bước sang bên để ông nhìn thấy Roger.

Ôi, một nỗi đau đớn cay đắng! Cô đã nghĩ cô cứu sống Roger, và cô đã làm việc không mệt mỏi suốt cả quãng thời gian qua để phản bội cậu..

Lyra lắc đầu, khóc nấc lên trong một cảm xúc điên cuồng. Điều này không thể là thật được.

Thorold cố gắng an ủi cô, nhưng ông không biết nguyên nhân nỗi đau đớn tuyệt vọng của cô, và chỉ có thể lo lắng vỗ vỗ vào vai cô.

“Iorek—” Cô thổn thức, đẩy ông người hầu sang bên. “Iorek Byrnison đâu? Con gấu ấy? Anh ấy vẫn ở ngoài chứ?”

Ông già nhún vai bất lực.

“Giúp tôi!” cô nói, toàn thân run rẩy vì kiệt sức và sợ hãi. “Giúp tôi mặc quần áo vào. Tôi phải đi. Ngay bây giờ! Làm ơn nhanh lên!”

Ông đặt cây đèn cầy xuống và làm theo lời cô bảo. Khi cô ra lệnh độc đoán như vậy, cô rất giống cha mình. Khuôn mặt cô đầm đìa nước mắt, đôi môi rung bần bật. Trong khi Pantalaimon chạy trên sàn nhà quật quật chiếc đuôi mình, lông nó gần như dựng ngược. Thorold hối hả mang đến cho cô quần áo lông thú cứng đơ bốc mùi khó ngửi và giúp cô mặc lên người. Ngay khi tất cà chiếc cúc được cài vào, cô lao về phía cửa, cảm thấy cái lạnh đập vào cổ họng mình như một lưỡi gươm, nó nhanh chóng làm đóng băng những giọt nước mắt trên má cô.

“Iorek!” cô gọi. “Iorek Byrnison! Hãy đến đây! Tôi cần anh!”

Có tiếng tuyết rung chuyển, tiếng kim loại lanh canh, và con gấu xuất hiện. Nó đã ngủ im lặng suốt từ đầu dưới màn tuyết đang rơi. Trong ánh sáng hắt ra từ ngọn đèn Thorold đang cầm bên cửa sổ, Lyra nhìn thấy một cái đầu dài, hai hốc mắt tối sẫm, ánh trắng của bộ lông dưới lớp kim loại đen đỏ, cô muốn ôm nó và tìm kiếm sự an ủi từ chiếc mũ sắt của nó, bộ lông bám đầy tuyết của nó.

“Có chuyện gì thế?” nó nói.

“Chúng ta phải đuổi theo Ngài Asriel. Ông ấy đã bắt mất Roger và đi đến—tôi không dám nghĩ đến chuyện đó nữa—ôi, Iorek, tôi van anh, hãy đi nhanh lên, bạn yêu của tôi!”

“Vậy thì lên đi,” nó nói. Và cô leo lên lưng gấu.

Không, phải hỏi xem cần đi đường nào: những vết xe kéo thẳng từ sân về phía cổng. Iorek chỉ cần bước về phía trước lần theo chúng. Nó chạy qua những đống tuyết che phủ trên mặt đất đầy đá nhanh hơn bình thường, những mảnh kim loại trong bộ áo giáp sắt rung rinh dưới chỗ cô ngồi theo một nhịp điệu quen thuộc.

Phía sau họ, những con gấu khác bước đi nhẹ nhàng, kéo theo những chiếc máy bắn lửa. Đường đi rất khó, vì mặt trăng đã lên cao và ánh sáng nó trải trên cả thế gian bao phủ tuyết trắng rực rỡ như lúc nó chiếu vào khinh khí cầu: một thế giới ngời sáng bạc nhưng đen thăm thẳm. Những vệt bánh xe của Ngài Asriel chạy thẳng về những dãy núi lởm chởm. Chúng tạo thành những hình dáng kỳ lạ trên nền trời tối đen như tấm vải nhung bọc Chân-kế. Không thấy bóng dáng chiếc xe kéo đâu cả. Liệu có lấy một rung động dù nhẹ tựa lông hồng trên sườn núi cao nhất? Lyra nhìn về phía trước, căng mắt ra, Pantalaimon bay cao hết sức có thể và quan sát bằng đôi mắt tinh như cú của mình.

“Có rồi,” nó nói, và một lát sau đậu xuống cổ tay cô. “Chính là Ngài Asriel, ông ấy đang điên cuồng quật vào lũ chó, có một cậu bé phía sau…”

Lyra cảm thấy Iorek Byrnison đang thay đổi tốc độ. Có gì đó đang khiến nó phải chú ý. Nó đi chậm lại và nghểnh cổ quay sang phải rồi sang trái.

“Chuyện gì vậy?” cô nói.

Nó không nói gì. Nó đang lắng nghe chăm chú, nhưng cô chẳng nghe thấy gì cả. Rồi cô bắt đầu nghe thấy gì đó: tiếng xào xạc và gãy vụn huyền ảo từ một khoảng cách rất xa. Đó là âm thanh trước đây cô từng nghe thấy: âm thanh của Hiện tượng cực quang. Ở một nơi nào đó, một vầng hào quang đã lung linh trên vùng trời phía bắc. Hàng triệu hàng tỉ những hạt tích điện không nhìn thấy được, và có thể, cô nghĩ, là Bụi phát sáng lung linh trên tầng khí quyển phía trên. Nó sẽ rực rỡ và hoành tráng hơn bất cứ lần Lyra được chứng kiến, như thể Hiện tượng cực quang biết được màn kịch đang diễn ra bên dưới và muốn chiếu sáng để cổ vũ theo.

Nhưng chẳng có con gấu nào nhìn lên, tất cả sự chú ý của chúng là ở trên mặt đất. Rốt cuộc, không phải Hiện tượng cực quang đã thu hút sự chú ý của Iorek Byrnison. Nó vẫn đang đứng yên, Lyra tụt khỏi lưng nó. Cô hiểu rằng các giác quan của nó cần được thả lỏng. Có điều gì đó đang làm nó lo lắng.

Lyra nhìn xung quanh, ngược qua vùng đất rộng lớn dẫn trở lại căn nhà của Ngài Asriel, những dãy núi nhấp nhô họ vừa đi qua, và không thấy chút gì. Hiện tượng cực quang càng rực rỡ hơn. Những vầng sáng đầu tiên run rẩy, những tấm màu có răng cửa gập bào rồi lại mở ra phía trên đầu, cứ mỗi phút lại to hơn và rực rỡ hơn, những quầng sáng cuộn xoáy lại từ chân trời này sang chân trời kia, chạm vào thiên đỉnh với những vầng hào quang chói lọi. Cô có thể nghe rõ hơn bao giờ hết những tiếng rì rầm xào xạc những nguồn năng lượng vô hình khổng lồ.

“Các phù thủy!” Tiếng một con gấu vang lên, Lyra chợt thấy vui vẻ và nhẹ nhõm.

Nhưng một cái mõm to lớn giúi cô về phía trước, không còn hơi sức để mở miệng, cô chỉ có thể thở hổn hển và run lẩy bẩy. Cắm phập vào khoảng trống cô vừa đứng là chiếc lông chim với một mũi tên màu xanh. Đầu và thân mũi tên cằm sâu vào trong tuyết.

Không thể thế được! Cô yếu ớt nghĩ, nhưng đó là sự thật, vì một mũi tên khác bắn xuống bộ áo giáp sắt của Iorek đang đứng trước cô. Đó không phải là những phù thủy của Serafina Pekkala. Họ đến từ một bộ tộc khác. Họ bay vòng trên cao, khoảng một tá hoặc hơn, lươn xuống đất để bắn rồi lại vụt lên, Lyra cầu nguyện bằng tất cả những từ ngữ cô có thể nghĩ ra.

Iorek Byrnison ra lệnh ngắn gọn. Rõ ràng những con gấu đã quen với việc chiến đấu với các phù thủy. Chúng lập tức chuyển sang tư thế phòng thủ, các phù thủy dần bắt đầu bị tấn công. Họ chỉ có thể bắn trúng từ khoảng cách gần, và để không tốn tên họ phải lượn xuống thấp, bắn ra khi ở vị trí thấp, rồi quay ngược lên ngay lập tức. Nhưng khi họ xuống đến vị trí thấp nhất, tay họ vướng víu bởi cung tên, họ rất dễ bị tấn công, và những con gấu có thể phản công bằng cách vươn những cái tay có móng vuốt ra kéo giật họ xuống. Hơn một phù thủy đã bị lôi xuống và nhanh chóng bị đánh chết tươi.

Lyra bò lốm cồm bên một tảng đá, chờ phù thủy lượn xuống. Mấy phù thủy bắn vào cô nhưng những mũi tên bay chệch hướng khá xa, và sau đó Lyra, nhìn lẹn trên bấu trời, thấy một phấn lớn đám phù thủy bay đi rồi quay trở lại.

Nếu cô cảm thấy mừng rỡ về chuyện này thì sự mừng rỡ đó không kéo dài được bao lâu. Bởi từ hướng họ bay đi, cọ nhìn thấy thêm nhiều phù thủy nữa bay đến hòa vào, giữa họ có một vùng sáng lấp lánh, và giữa vùng đất mênh mông của Svalbard, dưới hào quang của Hiện tượng cục quang, cọ nghe thấy một âm thanh đáng sợ. Đó là tiếng đập gấp gáp của động cơ khí gas. Khí cầu zeppelin, cùng với bà Coulter và đội quân của bà ta, đang đuổi theo sau.

Iorek Byrnison gầm lên ra lệnh, những con gấu lập tức giàn lại quân theo cách khác. Trong ánh sáng trắng bệch trên bầu trời, Lyra quan sát thấy những con gấu đang thả chiếc máy ném lửa xuống. Đội quân tiên phong của đám phù thủy cũng đã nhìn thấy họ và bắt đầu lượn xuống bắn tên như mưa xuống họ, nhưng hầu như các con gấu đều phó mặc cho bộ áo giáp sắt của mình và nhanh chóng lắp ráp một dụng cụ gì đó. Một cánh tay dài hướng lên trên, một cái chén hay bát đường kính khoảng một mét, một thùng kim loại bẹn trong bốc khói cùng hơi nước cuồn cuộn.

Trong khi cô đang quan sát, một ngọn lửa sáng bừng phụt ra một nhóm con gấu bắt đầu hành động. Hai con kéo chiếc cần dài của chiếc máy ném lửa xuống, một con khác xúc một xẻng đầy lửa vào trong cái bát, và với một vài động tác, chúng bắn lưu huỳnh đang cháy lên bầu trời tối đen.

Phía trên đầu họ, các phù thủy đang lượn dày đặc đến nỗi ba người bị bắt lửa ngay trong phát bắn đầu tiên. Nhưng mọi chuyện nhanh chóng rõ ràng rằng mục tiêu chính là chiếc khí cầu zeppelin. Người lái khí cầu hoặc là từ trước đến nay chưa từng nhìn thấy một chiếc máy ném lửa, hoặc là không lường hết được sức mạnh của nó, vì anh ta bay thẳng đến những con gấu mà không lượn hay tránh sang hai bên một chút nào cả.

Rồi rõ ràng là họ cũng có một thứ vũ khí ghê gớm trong khí cầu: một khẩu súng máy trên mũi giỏ khí cầu. Lyra nhìn thấy những tia lửa bay lên từ bộ áo giáp sắt của vài con gấu, nhìn thấy chúng co người lại dưới sự bảo vệ của chiếc áo giáp, trước khi cô nghe thấy tiếng đạn rít lên. Cô hét lên sợ hãi.

“Họ sẽ an toàn thôi,” Iorek Byrnison trấn an. “Không thể phá hỏng bộ áo giáp sắt chỉ bằng mấy viên đạn bé xíu.”

Chiếc máy ném lửa lại tiếp tục làm việc: lần này một khối lưu huỳnh cháy bừng bừng tấn công vào chiếc giỏ khí cầu tạo nên một vầng lửa cháy bùng lên. Chiếc khí cầu bay sang bên trái, rồ máy phóng đi tạo thành một đường lượn cong trước khi quay lại nhóm những con gấu đang hối hả làm việc bên chiếc máy ném lửa. Khi khí cầu bay đến gần, cánh tay của máy ném lửa cọt kẹt hạ xuống; khẩu súng máy bật lên và khạc đạn, hai con gấu ngã xuống. Iorek Byrnison khẽ gầm lên khi chiếc khí cầu gần như bay trên đầu. Một con gấu hét lên ra lệnh, cánh tay đã chứa đầy lửa vung lên một lần nữa.

Lần này lưu huỳnh cháy ném thẳng vào lớp vỏ chứa túi đựng khí trên khí cầu. Ngọn lửa ghê gớm liếm vào lớp vỏ vải dầu nơi chứa khí hydrogen, mặc dầu nó đủ dai để chống chọi với những va đập nhỏ, một viên đá cháy hừng hực nặng cả tạ là quá sức chịu đựng của nó. Lớp vải bị xé toạc ra, lưu huỳnh và hydrogen thoát ra gặp nhau tạo thành một thảm họa lửa.

Ngay lập tức lớp vải bọc ngoài biến sạch; toàn bộ khung xương của khí cầu lộ ra, màu tối nổi bật giữa địa ngục màu cam, đỏ và vàng, treo lơ lửng trên bầu trời trong một khoảng thời gian lâu đến khó tưởng tượng trước khi lao xuống đất. Những mảnh vụn màu đen nằm rải rác trên tuyết, khẩu súng lung lay. Các phù thủy bay xuống giúp kéo họ ra khỏi đám lửa. Trong vòng một phút sau khi đâm xuống, chiếc khí cầu chỉ còn là những mảnh kim loại bắn tung tóe, một cột khói và vài mảnh lửa bay trong không khí.

Nhưng những chiến binh trên đó, và cả những người khác nữa (dù Lyra lúc này ở quá xa để nhận ra bà Coulter, cô biết bà ta ở đó) không lãng phí một giây. Với sực trợ giúp của các phù thủy, họ kéo khẩu súng máy ra, dựng nó lên và bắt đầu bắt quyết liệt trên mặt đất.

“Tiếp tục rồi đấy.” Iorek nói. “Họ sẽ tiếp tục chống chọi lâu đấy.”

Họ gầm lên, một nhóm con gấu tách khỏi nhóm chính tấn công bên sườn những người Tartar. Lyra có thể cảm thấy nỗi khao khát được hòa mình vào đó của Iorek, nhưng lúc nào sự căng thẳng của cô cũng gào thét: Đi! Đi! Tâm trí cô chứa đầy hình ảnh của Roger và Ngài Asriel. Iorek biết điều đó, nó quay về phía các ngọn núi và rời khỏi trận chiến, để những con gấu của mình giữ chân những người Tartar.

Trong khi họ đi tiếp, Lyra cố căng mắt nhìn về phía trước, nhưng thậm chí đôi mắt tinh như cú của Pantalaimon cũng không nhìn thấy bất cứ một chuyển động nào trên dãy núi họ đang leo qua. Tuy nhiên, vết xe kéo của Ngài Asriel rất rõ, Iorek Byrnison hối hả lần theo, đi qua những đống tuyết và đá. Bất cứ điều gì xảy ra ở phía sau giờ đây chẳng còn giá trị nữa. Lyra đã để lại mọi thứ, cô cảm thấy cô đang rời bỏ cả thế giới, cô thấy mình đang hối hả và miệt mài. Họ đang leo lên rất cao, ánh sáng bao trùm lấy họ thật kỳ lạ và huyền bí.

“Iorek,” cô nói, “anh sẽ tìm Lee Scoresby chứ?”

“Dù còn sống hay đã chết, tôi cũng sẽ tìm ông ấy.”

“Và nếu anh gặp được Serafina Pekkala…”

“Tôi sẽ nói cho bà ấy biết cô đã làm gì.”

“Cám ơn, Iorek,” cô nói.

Họ không nói gì thêm trong một lúc. Lyra cảm thấy mình đang rơi vào một trạng thái vừa đi vừa ngủ: một trạng thái gần như mơ ngủ nhưng vẫn tỉnh, trong đó cô mơ thấy mình đang được những con gấu đưa đến thành phố của những vì sao.

Cô đang định kể điều đó với Iorek Byrnison thì nó đi chậm dần và dừng lại.

“Vết bánh xe thì tiếp tục,” Iorek Byrnison nói. “Nhưng tôi thì không thể.”

Lyra nhảy xuống đứng bên cạnh nó. Nó đang đứng bên bờ một kẻ nứt sâu. Rất khó xác định nói là một kẽ nứt sâu trên sông băng hay một kẽ nứt trên đá, vì hầu như không có sự khác biệt gì cả. Vấn đề nằm ở chỗ nó dẫn xuống một chỗ tối om khó mà dò được.

Vết bánh xe kéo của Ngài Asriel chạy đến bờ miệng…và tiếp tục, qua một cây cầu tạo nên do tuyết đông cứng.

Cây cầu in rất rõ dấu vết bánh xe, vì vết rạn chạy gần đến bờ bên kia của bờ miệng, bề mặt gần với vết rạn đã lún xuống khoảng nửa mét. Nó có thể chịu đựng được sức nặng của một đứa trẻ: tất nhiên nó không chống chọi nổi sức nặng của một con gấu mặc giáp sắt.

Vết bánh xe của Ngài Asriel chạy qua cây cầu và tiếp tục về phía ngọn núi. Nếu tiếp tục đi, cô sẽ chỉ có thể đi một mình.

Lyra quay lại Iorek Byrnison.

“Tôi phải đi qua.” Cô nói. “Cảm ơn vì tất cả những gì anh đã làm. Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra khi tôi gặp được ông ấy. Có thể tất cả chúng tôi sẽ chết, dù tôi có đến được chỗ ông hay không. Nhưng nếu tôi trở về tôi sẽ đến tìm anh và cảm ơn anh cẩn thận, thưa Đức vua Iorek Byrnison.”

Cô đặt một tay lên đầu nó. Nó để như thế và gật nhẹ đầu.

Trái tim cô thổn thức đau đớn vì thương yêu, cô quay đi đặt chân lên cầy cầu. Tuyết vỡ rạn dưới chân cô, Pantalaimon bay phía trên chiếc cầu để xem xét vùng tuyết phía trước và khuyến khích cô tiếp tục. Cô bước từng bước một, cứ mỏi bước lại phân vân không biết chạy thật nhanh sang phía bên kia thì tốt hơn hay cứ đi chậm như bây giờ và bước nhẹ nhàng hết sức có thể thì tốt hơn. Khi băng qua được nửa đường, có một tiếng tuyết vỡ nứt nữa, một miếng rơi khỏi nơi gần chân cô đứng và rơi xuống vực thẳm, cây cầu lại trĩu xuống vài phân khi gãy nứt.

Cô đứng thật im. Pantalaimon đang bò trong hình dạng con báo và sẵn sàng nhảy xuống với cô.

Cây cầu vẫn đứng nguyên. Cô bước thêm bước nữa rồi bước nữa. Cảm thấy có gì đó đang lún xuống phía dưới chân mình, cô nhảy sang phía bên kia bằng tất cả sức lực của mình. Cô nằm thẳng đơ trên tuyết trong khi toàn bộ cây cầu rơi xuống vực với tiếng “rầm” nhỏ phía sau.

Móng vuốt của Pantalaimon đang bấu chặt lấy lớp áo lông thú của cô.

Một phút sau cô mở mắt và bò xa khỏi bờ miệng vực. Không còn đường để trở về nữa. Cô đứng lên, giơ tay vẫy con gấu đang nhìn cô từ phía bên kia. Iorek Byrnison chào cô, rồi quay đi và len xuống núi để giúp đội quân của mình chiến đấu với bà Coulter cùng những chiến binh từ chiếc khí cầu.

Lyra chỉ còn lại một mình.

Chương 23: Cây cầu dẫn đến những vì sao

Khi Iorek Byrnison đã ra khỏi tầm mắt, Lyra cảm thấy toàn thân mình bủn rủn, cô quay lại tìm Pantalaimon.

“Ôi, Pan, Pan thân yêu, mình không thể đi tiếp nổi nữa! Mình rất sợ—và rất mệt mỏi—suốt cả chặng đường, và mình sợ phải chết! Mình ước có một ai đó thế vào chỗ của mình, thật lòng đấy!”

Con nhân tinh của cô rúc vào cổ cô trong hình dạng một chú mèo, ấm áp và đầy an ủi.

“Mình thực sự không biết chúng mình phải làm gì.” Lyra thổn thức. “Điều này là quá nhiều đối với chúng ta, Pan ạ, chúng ta không thể…”

Cô dò dẫm ôm chặt nó, lắc nó qua lại và bật khóc nức nở giữa một không gian toàn tuyết trắng.

“Và ngay cả nếu, nếu bà Coulter đến được chỗ Roger trước, thì cũng chẳng cứu được cậu ấy, vì bà ấy sẽ đưa cậu ấy về Bolvangar, hay tệ hại hơn, họ sẽ giết mình để trả thù…Tại sao họ lại làm những chuyện đó với trẻ con, Pan? Có phải tất cả bọn họ đều căm ghét trẻ cib đến mức họ muốn cắt xé chúng ta như thế? Tại sao họ lại làm như vậy?”

Nhưng Pantalaimon không có câu trả lời, tất cả những gì nó có thể làm là ôm cô thật chặt. Dần dần, cơn bão hoảng sợ lắng xuống, cô bắt đầu lấy lại được lý trí. Cô là Lyra, dù có lạnh và sợ hãi, cô vẫn là chính cô.

“Mình ước gì…”cô nói, và dừng lại. Không thể có được gì nếu chỉ ước có được nó. Một hơi thở sâu run rẩy cuối cùng, và cô đã sẵn sàng bước tiếp.

Giờ thì mặt trăng đã lên, bầu trời phía nam tối thăm thẳm, dù hàng tỉ ngôi sao đang nằm trên đó như những viên kim cương trên tấm vải nhung. Tuy nhiên, chúng chiếu sáng rực rỡ hơn hàng trăm lần nhờ Hiện tượng cực quang. Lyra chưa bao giờ thấy chúng rực rỡ và ấn tượng đến thế, với từng nhịp uốn lượn và run rẩy, những điều kỳ diệu của ánh sáng nhảy múa trên bầu trời. Bên dưới bức màn ánh sáng thay đổi liên tục của thế giới khác đó, thành phố chan hòa ánh nắng kia rất chắc chắn và rõ ràng.

Càng leo lên cao, vùng đất trống trải càng mở rộng ra dưới chân họ. Phía bắc là đại dương đóng băng, kết lại thành đống nơi hai tảng băng bám vào nhau, nhưng mặt khác lại bằng phẳng, trắng xóa và trải dài đến tận Bắc cực và xa hơn nữa, hoang vu, không màu, vắng lặng hơn mức Lyra có thể tưởng tượng được. Phía đông và tây là những ngọn núi, nhưng đỉnh núi sừng sững nhọn hoắt chọc thẳng lên trời, sườn núi đắp đầy tuyết và được gió mài thành những gờ cạnh sắc như dao. Phía nam là con đường họ vừa đi qua, Lyra nhìn lại đầy hi vọng có thể tìm thấy hơi hướng người bạn Iorek Byrnison thân yêu cùng đội quân của nó, nhưng chẳng có gì xuất hiện trên không gian rộng lớn đó cả. Thậm chí cô còn không chắc có thể nhìn thấy những vệt khói của chiếc khí cầu zeppelin đang cháy, hay vùng tuyết đẫm máu đỏ của những chiến binh đã ngã xuống kia.

Pantalaimon bay lên cao và lượn xuống đậu trên cổ tay cô trong hình dạng con cú.

“Họ ở ngay phía bên kia đỉnh núi!” nó nói. “Ngài Asriel đã bày tất cả các thiết bị ra, còn Roger không thể cựa quậy được—”

Nó đang nói giữa chừng, thì Hiện tượng cực quang sáng lóe lên rồi mờ đi, như một bóng đèn điện anbaric sắp kết thúc tuổi đời của nó, rồi sau đó vụt tắt hoàn toàn. Trong ánh sáng lờ mờ, Lyra cảm nhận sự tồn tại của Bụi, vì nó dường như tràn ngập trong bóng tối, như những trạng thái của ý nghĩ chưa được hình thành.

Trong bóng tối tầng tầng lớp lớp, cô nghe thấy tiếng hết của một đứa trẻ”

“Lyra! Lyra!”

“Mình đến đây!” cô hét lên trả lời và lao về phía trước, trèo, bò, vùng vẫy với chút sức lực cuối cùng, nhưng cô vẫn cố kéo mình về phía trước vượt qua màn tuyết phát ra chút ánh sáng mờ ảo ma quái.

“Lyra! Lyra!”

“Mình sắp đến rồi.” cô thở hổn hển. “Sắp đến rồi, Roger!”

Pantalaimon thay đổi liên tục trong cơn kích động: sư tử, chồn ecmin, đại bàng, mèo hoang, thỏ rừng, kỳ nhông, cú, báo, tất cả những hình dạng nó từng biến thành, một chiếc kính vạn hoa hình thù giữa Bụi!

“Lyra!”

Rồi cô đến được đỉnh núi và nhìn thấy điều đang xảy ra.

Cách xa khoảng năm mươi mét, Ngài Asriel đang xoắn hai sợi dây cáp dẫn đến chiếc xe kéo đang lộn ngược lại với nhau, trên xe đặt một hàng pin và chai, những thiết bị đã phủ một lớp băng như pha lê. Ông mặc những lớp lông thú dày, khuôn mặt ông được chiếu sáng bởi ngọn đèn dầu. Nằm bên cạnh ông với tư thế nhân sư là nhân tinh của ông, tấm thân lốm đốm duyên dáng của nó tràn đầy sức mạnh, đuôi nó ve vẩy lười biếng trên nền tuyết.

Nó đang ngậm trong mồm nhân tinh của Roger.

Con vật bé nhỏ đang vùng vẫy, quẫy đạp, chiến đấu, lúc la một con chim rồi con chó, rồi biến thành mèo, thành chuột, lại thành một con chim và luôn miệng gọi Roger. Cậu ở cách đó mấy mét, cố gắng thoát khỏi cơn co giật trong sâu thẳm trái tim, kêu thét lên trong đau đớn và lạnh giá. Cậu đang gọi tên con nhân tinh của mình, và gọi Lyra. Cậu chạy đến chỗ Ngài Asriel, kéo giật tay ông. Ngài Asriel gạt cậu sang bên. Cậu cố gắng thêm lần nữa, gào khóc, nài xin, cầu khẩn, khóc nức nở, nhưng Ngài Asriel không để ý chút gì ngoài việc hất cậu ngã xuống đất.

Họ đang ở bên gờ một mõm núi. Phía dưới họ chẳng có gì khác ngoài một màn đêm khổng lồ không giới hạn. Họ đang ở phía trên mặt biển đóng băng khoảng ba nghìn mét.

Lyra nhìn thấy tất cả những điều này chỉ bằng ánh sáng phát ra từ những ngôi sao, nhưng sau đó Ngài Asriel nối các sợi dây lại, và Hiện tượng cực quang vụt sáng bừng lên. Giống như một ngón tay dài mang sức mạnh vô hình giữa hai giới hạn, ngoại trừ nó cao một trăm nghìn và dài mười nghìn dặm: nhún xuống, vút lên, nhấp nhô, lấp lánh, một thác nước cuồn cuộn hào quang.

Ông ta đang điều khiển nó…

Hoặc là ông dẫn sức mạnh xuống từ nó, vì ở đó có một sợi dây chạy xuống chiếc guồng lớn ở chiếc xe kéo, một sợi dây chạy thẳng lên trời. Từ trên bầu trời có một con quạ đen lượn xuống, và Lyra biết đó là nhân tinh của một phù thủy. Một phù thủy đang giúp Ngài Asriel, nó mang sợi dây lên trên cao.

Hiện tượng cực quang lại chiếu sáng.

Ông đã gần sẵn sàng.

Ông quay lại Roger và vẫy tay. Roger không có cách nào khác là đến gần, lắc đầu, cầu xin, kêu khóc, nhưng không có cách nào khác là tiến lên phía trước.

“Không! Chạy đi!” Lyra hét lên và ném mình về phía cậu qua sườn núi.

Pantalaimon nhảy vào con báo tuyết, chộp lấy con nhân tinh của Roger từ miệng nó. Trong một khoảnh khắc con báo tuyết nhảy theo nó, Pantalaimon để con nhân tinh chạy đi. Hai con nhân tinh nhỏ tuổi, thay đổi hình dáng liên tục, quay lại chiến đấu với con dã thú hình đốm.

Con báo quật trái quật phải với những bàn chân đầy móng nhọn, tiếng gầm vang dội của nó át mất cả tiếng gào thét của Lyra. Hai đứa trẻ cũng chiến đấu với nó; chiến đấu với những cái bóng trong không khí dày đặc và chen chúc trong những dòng Bụi..

Hiện tượng cực quang đang thống trị trên đầu, ánh sáng lung linh liên tục dội lên làm hiện ra một tòa nhà, rồi một cái hồ, rồi đến những hàng cây cọ, gần đến mức khiến người ta nghĩ có thể bước từ thế giới này vào đó.

Lyra lao lên và chộp lấy tay Roger.

Cô kéo mạnh, rồi chúng bứt được khỏi tay Ngài Asriel và chạy đi, nắm tay nhau, nhưng Roger hét lên và quằn quại, vì con báo lại bắt được nhân tinh của cậu, Lyra biết nỗi đau làm chấn động con tim này và cố gắng giúp Roger thoát khỏi nó…

Nhưng chúng không còn cách nào khác thoát ra được.

Mỏm núi đang tách ra phía dưới chúng.

Cả một bãi tuyết khổng lồ trượt thẳng xuống dưới.

Đại dương đóng băng, hàng nghìn mét bên dưới.

“LYRA!”

Nhịp tim đập của cô, nhấp nhô trong nỗi thống khổ với bàn tay nắm chặt của Roger. Cơ thể cậu, thình lình lả hẳn vào người cô; và phía trên cao kia, điều kỳ diệu vĩ đại nhất. Ngay khoảnh khắc cậu rơi vào bất tỉnh, vòm trời, những ngôi sao lấp lánh, sâu thăm thẳm đột ngột rời ra thành từng mảnh như thể bị đâm nát bởi một ngọn giáo.

Một tia sáng, một tia năng lượng thuần khiết thoát ra như một mũi tên thoát khỏi cung tên và bằn vọt lên trên. Những vệt sáng và màu sắc do Hiện tượng cực quang tách ra; một âm thanh xét toạt, rin rít, răng rắc, xoèn xoẹt vang lên từ đầu này đến đầu kia của thế giới; có một vùng đất liền trên bầu trời…

Ánh nắng!

Ánh nắng mặt trời đang chiếu rọi trên bộ lông của con khỉ vàng…

Bãi tuyết đã ngừng sụt xuống, có lẽ một gờ đá ngầm không thấy được đã ngăn nó rơi. Lyra có thể nhìn thấy qua bãi tuyết bị giày xéo trên đỉnh núi, con khỉ vàng lao đến bên con báo. Cô thấy hai con nhân tinh xù lông, cảnh giác và hùng dũng. Đuôi con khỉ dựng đứng, đuôi con báo quật qua quật lại rất mạnh. Rồi con khỉ ngấp ngừng vươn móng vuốt ra, con báo hạ thấp đầu với một sự chấp nhận duyên dáng, chúng chạm vào nhau….

Khi Lyra rời mắt khỏi chúng, cô nhìn thấy bà Coulter đang đứng đó, siết chặt tay Ngài Asriel. Ánh nắng nhảy nhót xung quanh họ như vầng hào quang của một chiếc đèn cồn cháy sáng. Lyra, bơ vơ một mình, chỉ còn biết mường tượng lại điều đã xảy ra: bằng cách nào đó bà Coulter chắc đã băng qua vực thẳm đó và theo cô đến đây…

Cha mẹ ruột của cô, bên nhau!

Một cái ôm thật nồng nàn: một điều không tài nào mơ nổi.

Hai mắt cô mở to. Cơ thể của Roger nằm trong tay cô, cứng đờ, im lặng, yên nghỉ. Cô nghe thấy cha mẹ mình nói chuyện:

Mẹ cô nói: “Họ sẽ không bao giờ cho phép điều đó—”

Cha cô nói: “Cho phép điều đó? Chúng ta đã đi vượt quá mức cho phép, như thể chúng ta là những đứa trẻ. Anh đã làm cho điều này có thể cho bất cứ ai đi qua, nếu họ muốn.”

“Họ sẽ cấm điều đó! Họ sẽ xét xử và rút phép thông công của bất cứ ai muốn thử.”

“Sẽ có quá nhiều người muốn thử. Họ sẽ không có khả năng ngăn cản. Việc này sẽ trở thành kết thúc của Nhà thờ, Marisa, ngày tàn của Tổng giáo giám mục, cáo chung cho tất cả những thế kỷ đen tối này! Hãy nhìn vào ánh sáng ở trên kia: đó là mặt trời của một thế giới khác! Hãy cảm nhận hơi ấm của nó trên da thịt em, ngay lúc này!”

“Họ mạnh hơn bất cứ ai, Asriel! Anh không biết—”

“Anh không biết ư? Không ai trên đời này biết rõ hơn anh trong việc Giáo hội mạnh đến thế nào! Nhưng nó không đủ mạnh để ngăn cản chuyện này. Dù thế nào đi nữa, Bụi sẽ thay đổi tất cả mọi thứ. Giờ thì không còn gì có thể ngăn cản nó lại được.”

“Đó có phải là điều anh muốn không? Làm chúng ta ngạt thở và giết chết chúng ta với tất cả những tội lỗi và bóng tối này?”

“Anh muốn giải thoát, Marisa ạ! Và anh đã làm được điều đó. Hãy nhìn đi, hãy nhìn những cây cọ đang rung rinh bên bờ hồ đó! Em có cảm nhận được làn gió đó không? Làn gió ở một thế giới khác! Hãy cảm nhận nó trên tóc em, trên má em…”

Ngài Asriel lật chiếc mũ chùm đầu của bà Coulter ra sau và quay đầu và nhìn lên trời, luồn tay mình vào tóc bà. Lyra nín thở nhìn, không dám cử động dù chỉ là một thớ thịt.

“Không—không—họ đang đến đấy, Asriel—họ biết em đến đây—”

“Vậy hãy đi với anh, đi khỏi đây, ra khỏi thế giới này!”

“Em không dám—”

“Em? Không dám? Con gái của em sẽ dám đấy. Con gái của em dám làm mọi thứ, và thật đáng xấu hổ cho mẹ của nó.”

“Vậy hãy nhận lấy và yêu thương nó. Nó là của anh hơn là của em, Asriel.”

“Không phải thế. Em đã nhận nó, em đã cố uốn nắn nó. Nghĩa là em đã muốn có nó.”

“Nó quá thô lỗ, quá bướng bỉnh. Em đã quá muộn… Nhưng giờ nó ở đâu? Em đã thao dấu chân nó đến đây…”

“Em vẫn muốn có được nó, đúng không? Đã hai lần em muốn giữ nó, và hai lần nó vùng thoát ra. Nếu là nó anh cũng chạy trốn, và tiếp tục chạy trốn, trước khi cho em có cơ hội thứ ba.”

Hai bàn tay ông, vẫn đang giữ hai bên đầu bà, đột nhiên giật lại và kéo bà vào một cái hôn nồng nàn. Lyra nghĩ dường như nó tàn bạo hơn yêu thương. Cô nhìn lại hai con nhân tinh của họ và thấy một cảnh tượng kì lạ: con báo tuyết căng thẳng, hai bàn tay to của nó lười trên da thịt con khỉ vàng, con khỉ thả lỏng người sung sướng, lả người đi trên tuyết.

Bà Coulter vùng mạnh khỏi nụ hôn và nói: “Không, Asriel, chỗ của em là ở thế giới này, không phải đó—”

“Hãy đi với anh!” ông nói, gấp gáp và mạnh mẽ. “Hãy đi và làm việc cùng anh!”

“Chúng ta không thể làm việc cùng nhau, anh và em.”

“Không ư? Anh và em có thể phá tan cả một thế giới và ghép nó lại, Marisa! Chúng ta có thể tìm nguồn gốc của Bụi và dập tắt nó vĩnh viễn! Và em đã muốn tham gia vào công việc vĩ đại đó. Đừng nói dối anh về chuyện này. Em có thể nói dối anh về Ủy ban Tôn giáo, nói dối về người tình của em, phải, anh biết về Boreal, và anh không quan tâm. Em có thể nói về Giáo hội, về đứa trẻ, thậm chí là như vậy, nhưng đừng nói dối anh về điều em thực sự muốn…”

Đôi môi họ lại gắn chặt vào nhau đầy thèm muốn. Nhân tinh của họ đang chơi đùa với nhau, con báo tuyết nằm ngửa, con khỉ cào những móng vuốt của mình vào cổ nó, nó gầm gừ thích thú.

“Nếu em không đi, anh sẽ vẫn cố làm thế và hủy hoại em.” Bà Coulter nói, vùng ra.

“Tại sao anh lại muốn hủy hoại em?” Ông nói, bật cười, ánh sáng từ thế giới khác chiếu rọi trên đầu ông. “Hãy đi cùng anh, làm việc cùng anh, anh sẽ chăm lo cho em. Nếu ở lại đây, em sẽ mất đi sự quan tâm của anh ngay lập tức. Đừng tự dối lòng mình với ý nghĩ với anh em chỉ là thứ hai. Giờ thì em hãy chọn hoặc là ở lại đây và sống cùng với sự đau khổ của em tại thế giới này, hoặc là đi cùng anh.”

Bà Coulter lưỡng lự, đôi mắt bà nhắm lại, dường như người bà lả đi, nhưng bà cố giữ cân bằng và lại mở mắt, đôi mắt đẹp ánh lên nỗi buồn vô hạn.

“Không,” bà nói. “Không.”

Nhân tinh của họ lại rời nhau ra. Ngài Asriel cúi xuống và luồn những ngón tay mạnh mẽ của mình vào bộ lông của con báo tuyết. Rồi ông quay lưng và đi lên mà không nói thêm một lời. Con khỉ vàng nhảy lên tay bà Coulter, kêu lên những tiếng khe khẽ buồn bã, vươn người theo con báo tuyết khi nó đi khỏi. Khuôn mặt bà Coulter đầm đìa nước mắt. Lyra có thể nhìn thấy chúng lấp lánh. Những giọt nước mắt đó là có thật.

Rồi mẹ của cô quay lưng đi, người rung lên trong những tiếng nức nở cố nén, rồi đi xuống núi ra khỏi tầm mắt của Lyra.

Lyra hờ hững nhìn theo bà rồi nhìn lên bầu trời.

Chưa bao giờ cô được thấy một vòm trời tuyệt đẹp đến thế.

Thành phố treo trên đó thật vắng vẻ và yên tĩnh trông như vừa mới được xây, chờ có người đến ở, hoặc là đang ngủ, chờ được đánh thức dậy. Mặt trời của thế giới đó đang chiếu xuống thành phố, khiến bàn tay Lyra được nhuộm vàng, làm tan băng giá trên chiếc mũ trùm đầu may bằng da chó sói của Roger, khiến gò má xanh xao của cậu sáng bừng lên, lấp lánh trong đôi mắt đang mở nhưng không còn nhìn thấy gì nữa của cậu.

Cô cảm thấy người mình như tan ra bởi nỗi buồn vô hạn. Và cùng với sự giận dữ, cô có thể giết chết cha mình. Nếu cô có thể xé tan trái tim ông, cô sẽ làm chuyện đó ngay ở đây, ngay bây giờ, vì những gì ông đã làm với Roger. Và cả với cô nữa: lừa gạt cô—làm sao ông lại dám làm như vậy?

Cô vẫn đang ôm cơ thể của Roger trên tay. Pantalaimon đang nói gì đó, nhưng tâm trí cô đang bừng bừng lửa cháy, và cô chẳng nghe thấy gì cho đến khi nó cắm những chiếc vuốt mào hoang vào tay cô để nhắc nhở. Cô chớp mắt.

“Cái gì? Cái gì cơ?”

“Bụi!” nó nói.

“Cậu đang nói về chuyện gì vậy?”

“Bụi. Ông ấy sẽ tìm hiểu nguồn gốc của Bụi và phá hủy nó, phải thế không?”

“Đó là điều ông ấy nói.”

“Ủy ban Tôn giáo, Giáo hội, Bolvangar, bà Coulter và tất cả bọn họ đều muốn phá hủy nó, đúng không?”

“Đúng…hoặc là không để nó tiếp tục ảnh hưởng đến con người nữa…Thế thì sao?”

“Vì nếu tất cả bọn họ đều nghĩ Bụi là xấu, nó phải là tốt.”

Cô không nói gì. Một cái nấc khẽ dâng lên trong ngực cô.

Pantalaimon tiếp tục:

“Chúng ta đã nghe tất cả mọi người nói về Bụi, và họ đều rất sợ nó, cậu biết điều gì không? Chúng ta tin họ, thậm chí dù chúng ta đã chứng kiến họ làm những việc tồi tệ, độc ác và sai trái…Chúng ta cũng nghĩ Bụi phải là xấu xa, bởi vì họ là người lớn và họ nói thế. Nhưng nếu không phải thế thì sao? Nếu nó—”

Cô nói gần như hụt hơi:”Đúng! Nếu nó thực sự là tốt thì sao…”

Cô nhìn nó và thấy đôi mắt mèo hoang màu xanh lá cây của nó ánh lên cùng sự thích thú của chính cô. Cô cảm thấy choáng váng, như thể cả thế giới đang quay cuồng dưới chân cô.

Nếu Bụi là một điều tốt… Nếu nó được tìm thấy, được chào đón và chấp nhận…

“Bọn mình cũng có thể tìm kiếm nó, Pan!” cô nói.

Đó là điều nó muốn được nghe.

“Chúng ta có thể tìm được nó trước ông ấy,” nó tiếp tục, “và…”

Nhiệm vụ to lớn quá khiến chúng rơi vào im lặng. Lyra nhìn lên bầu trời đang tỏa sáng. Cô nhận thức được mình bé nhỏ đến mức nào, cô và nhân tinh của mình, khi so sánh sự huy hoàng và vĩ đại của vũ trụ; hiểu biết của chúng ít đến mức nào so với sự huyền bí thăm thẳm phía trên đầu mình.

“Chúng mình có thể,” Pantalaimon khăng khăng. “Chúng ta đã đi qua tất cả chặng đường này, đúng không nào? Chúng mình có thể làm được…”

“Chúng mình chỉ có một mình thôi. Iorek Byrnison không thể đi theo và giúp đỡ. Farder Coram hay Serafina Pekkala, hay Lee Scoresby cũng không thể, không ai có thể cả.”

“Vậy thì chỉ cần tụi mình thôi. Không quan trọng. Dù sao, tụi mình cũng không chỉ có một mình, không giống…”

Cô hiểu ý nó là không giống Tony Makarios, không giống những con nhân tinh bị mất tích ở Bolvangar. Chúng ta vẫn là một, cả hai chúng ta đều là một.

“Và tụi mình có Chân-kế,” cô nói. “Đúng. Mình cho rằng cần làm việc đó, Pan ạ. Tụi mình sẽ lên đó và tìm kiếm Bụi, khi đã tìm được tụi mình sẽ biết tất cả những việc cần làm.”

Cơ thể Roger vẫn nằm trên tay cô. Cô nhẹ nhàng đặt cậu xuống.

“Tụi mình sẽ làm thế,” cô nói.

Cô quay đi. Phía sau họ là đau đớn, cái chết và sự sợ hãi, phía trước họ là nghi ngờ, nguy hiểm và những bí ẩn khó mà dò được. Nhưng họ không đơn độc.

Thế là Lyra và nhân tinh của mình quay lưng khỏi thế giới họ đã sinh ra, nhìn về phía vầng thái dương, và tiến bước vào bầu trời.

HẾT PHẦN 1

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top