Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

Chương 10: Trái quân lệnh tiên phong bị giết (1)

Bọn A Truật, Triệt Triệt Đô bị dân binh đuổi, đang chạy không kịp thở lại thấy phía trước có quân xông đến mà trời tối đến nơi. A Truật bảo:

- Ta chết ở đây mất.

Triệt Triệt Đô nói:

- Xin công tử chớ lo, để tôi ra đánh chúng.

Triệt Triệt Đô nói xong múa cây đại phủ xông lên, khi tới gần thấy tướng đi đầu cánh quân kia chính là A Nhĩ Hải. Số là Cốt Đãi Ngột Lang thấy A Truật cùng Triệt Triệt Đô mang quân đi từ sáng chưa về mới bảo A Nhĩ Hải đem một nghìn lính đi tìm, nếu thu được nhiều lương thảo thì cùng nhau chuyên chở, nếu bị đánh phải tiếp ứng ngay. Bọn Triệt Triệt Đô, A Truật gặp được A Nhĩ Hải mừng quá, cùng đưa quân về trại.

Tối hôm ấy có quân do thám về báo thấy quân Nam đóng rất nhiều ở ngã ba Bạch Hạc. A Truật báo cho Cốt Đãi Ngột Lang. Ngột Lang thúc các tướng đem quân đi ngay trong đêm, hai hôm sau đến gần ngã ba Bạch Hạc, chọn cánh đồng bằng phẳng cách bờ sông năm dặm hạ trại. Gần trưa Cốt Đãi Ngột Lang cùng các tướng ra bờ sông xem, bên kia cờ xí rợp trời, thuyền bè san sát. Cốt Đãi Ngột Lang nói:

- Có thể đánh một trận lớn diệt sạch quân Nam được rồi đây.

Ngã ba Bạch Hạc mùa cạn, lòng sông hẹp, ngầu đục phù sa, hai bên bờ ngô non bát ngát như tấm thảm màu lục trải dài đến tận chân trời. Trên mặt sông những chiếc thuyền mông đồng đi đi lại lại thoăn thoắt, tiếng dô dô của binh lính vang xa đến mấy dặm. Lê Tần đứng trên lâu thuyền quan sát quân sĩ dàn trận. Các thuyền cắm cờ chỉ huy đều hướng về phía bên kia sông. Mỗi thuyền chỉ huy có hai thuyền châu kiều đi phía trước. Trên mỗi thuyền châu kiều có hai giàn lệ chi pháo, một trăm cây nỏ mạnh, năm mươi mái chèo, mỗi mái chèo có hai người đẩy. Theo sau mỗi thuyền chỉ huy là tám thuyền mông đồng. Mỗi thuyền mông đồng có ba mươi hai mái chèo, mỗi mái chèo có một người đẩy, hai mươi nhăm chiến binh vai đeo túi tên, tay cầm nỏ cứng sẵn sàng tiến đánh. Lê Tần truyền lệnh:

- Tất cả tướng sĩ trên bộ, dưới thuyền không được làm tổn hại các ruộng ngô non của dân. Ai sơ ý làm gãy hoặc để trâu ngựa ăn một cây nào, phải đánh mười trượng. Ai cố ý trái lệnh phải xử theo quân pháp.

Lệnh ban ra, quân sĩ các đội, các thuyền đều làm đường riêng để đi từ trên bờ xuống sông, không tổn hại một cây ngô nào của dân. Trời gần sáng có thám mã về báo giặc đã đến bên kia sông. Lê Tần lên bờ, vừa gặp lúc Trần Quốc Tuấn đến kiểm tra phòng tuyến. Hai người lên đài cao nhìn sang bên kia sông xem thế giặc, thấy doanh trại Mông Thát đóng liên tiếp nhau mấy chục dặm, toàn một thứ lều hình tròn theo kiểu dân du mục. Trại nào cũng có rào làm bằng tre hoặc gỗ rất chắc chắn. Các cửa tiền hậu, tả hữu thông thoáng, ra vào rất tiện lợi. Đường trên ngõ dưới có phép tắc. Trần Quốc Tuấn nói:

- Ta thường nghe nói Cốt Đãi Ngột Lang là người giỏi cầm quân, nay xem y cắm trại mới thấy quả là danh bất hư truyền.

Lê Tần hỏi:

- Tôi xem thế giặc đang hăng. Tiết chế định phương lược thế nào?

Quốc Tuấn nói:

- Nên tránh khí hăng buổi sáng, dồn sức đè bẹp cái khí nản ban chiều thì chắc thắng. Ông cứ thế này... thế này... mà làm.

Lê Tần mỉm cười có vẻ tâm đắc lắm, nói:

- Xin tuân lệnh.

Quốc Tuấn xuống đài trở về đại bản doanh ở Bình Lệ.

Bên kia sông Hoài Đô nói với Cốt Đãi Ngột Lang:

- Quân ta đã hội đủ, sĩ khí đang hăng. Xin thống tướng cho quân tiến đánh ngay ắt quân Nam không kịp trở tay.

- Ta đâu phải không biết điều ấy nhưng các bè tre nứa còn thiếu nhiều. Chỉ cần ta bắc được cầu phao sang bên kia coi như quân Nam đã nằm trong rọ cả rồi. Ngươi hãy cùng bọn A Nhĩ Hải, Tín Thư Phúc cho quân làm suốt đêm nay, đầu giờ Mão ngày mai phải có cho ta hai nghìn bè tre để bắc cầu phao, năm trăm mảng nứa có thể chở được quân sang sông và đuổi đánh thuyền quân Nam.

Hoài Đô nhận lệnh đi ra. Đoàn Hưng Trí đến nói:

- Trên bãi sông có rất nhiều cây ngô non, xin thống tướng điều quân cắt về cho ngựa ăn, giữ lại lương cỏ khô để đến những ngày sau cũng tốt.

Ngột Lang cười ha hả, nói:

- Thế là người Nam bắt đầu cấp quân lương cho ta rồi đấy.

Nói xong sai Bố Nhĩ Hải đem mấy nghìn quân đi cắt sạch cánh đồng ngô đem về cho ngựa ăn. Những con ngựa chiến to khoẻ lâu nay trên đường hành quân phải ăn toàn cỏ khô thóc cũ kham khổ, nay được cây ngô non ngốn lấy ngốn để. Con nào cũng bạnh cổ ra nuốt cái thứ cây phương Nam ngon ngọt.

Đầu giờ Mão hôm sau, Cốt Đãi Ngột Lang họp các tướng, truyền lệnh:

- A Truật, A Nhĩ Hải đem một vạn quân lên năm trăm chiếc bè, đánh nhau với binh thuyền quân Nam bảo vệ cho đội quân bắc cầu phao. Đoàn Hưng Trí, Tín Thư Phúc đem một vạn quân Bắc Thoán đưa hai nghìn bè tre xuống sông bắc ba hàng cầu phao. Triệt Triệt Đô cùng ta khi nào xong cầu phao, cho kị binh sang sông đánh vào trại quân Nam. Hoài Đô, Bố Nhĩ Hải trông coi hậu quân, lương thảo cho sang sông, khi sang đến bên kia điều lính cắt hết cây ngô ở bờ bên ấy mang đi làm thức ăn dự trữ vài ngày cho ngựa.

Các tướng nhận lệnh ra quân. Cứ mười người một bè tre hoặc bè nứa khiêng ra sông, quân nào theo tướng ấy ào ào kéo đi như thác đổ, chỉ trong chốc lát đã kín đặc mặt nước.

Bên kia Lê Tần trên đài cao đã nhìn thấy mới cầm cây cờ lệnh phất một cái, mười bốn chiếc thuyền châu kiều tiến về phía quân Thát đang xúm xít bắc cầu phao; gần đến nơi hai mươi tám giàn lệ chi pháo cùng phóng đạn. Đạn đá rơi như mưa xuống đám quân Bắc Thoán nhiều đứa vỡ đầu chết trôi ngay trên sông, máu loang đỏ cả nước, tiếng kêu gào váng cả trời đất. A Truật, A Nhĩ Hải đem năm trăm chiếc mảng nứa xông ra, cho cung thủ nhất tề bắn trả, tên bay như mưa rào, tiếng reo hò sôi cả mặt sông. Lúc ấy một nghìn bốn trăm cây nỏ mạnh trên các thuyền châu kiều mới theo hiệu lệnh bắn ra. Quân A Truật, A Nhĩ Hải không sao chống đỡ nổi, lăn xuống nước chết vô số. Vả lại quân Thát không thạo nghề chèo chống trên mặt nước, làm bè mảng nhiều cái xoay tít va vào nhau mà vỡ. Quân sĩ rơi xuống sông chết đuối không có người vớt, kêu la inh ỏi. Lê Tần cho nổ một tiếng pháo, năm mươi sáu chiếc thuyền mông đồng cùng tiến sang. Quân Thát liệu thế không địch nổi dạt cả lên bờ, bỏ lại cơ man bè mảng trôi phập phều trên sông. Bên kia Lê Tần cho nổi chiêng thu quân về hữu ngạn. Cốt Đãi Ngột Lang kiểm điểm quân mã, thiệt mất một nghìn rưởi quân Bắc Thoán và gần một nghìn quân Mông Cổ, ngồi buồn rầu chưa biết nên tìm cách gì để sang sông thì Hoài Đô đến, nói:

- Quân ta không có thuỷ binh mà người Nam lại rất giỏi thuỷ chiến, nếu không dùng kì binh ắt không thắng được chúng.

Cốt Đãi ngột Lang bảo:

- Nay ta mới biết thế nào là Miền Bắc cưỡi ngựa, phương Nam chèo thuyền. Ngươi có mẹo gì không?

(Tục ngữ Trung Quốc)

- Trình nguyên soái! Muốn sang được sông nhất định phải làm thế này... mong nguyên soái minh xét.

Cốt Đãi Ngột Lang cười ha hả, nói:

- Phải lắm! Phải lắm! Quả là trời đã cử ngươi giúp ta.

Nói xong liền cho gọi bọn A Truật, Triệt Triệt Đô, A Nhĩ Hải, Đoàn Hưng Trí vào nhận mật lệnh. Đến đêm, trời trở rét mưa bay mù mịt trên sông, tối như bưng, giáp mặt không nhìn thấy nhau. Canh ba, A Truật, A Nhĩ Hải cho quân khiêng bè nứa ra sông reo hò thách đánh làm nghi binh thu hút sự chú ý của quân Đại Việt nhưng không dám tiến sang mà cũng chỉ thấy quân Đại Việt reo hò chứ không có thuyền tiếp chiến. Trong khi đó bọn Đoàn Hưng Trí, Tín Thư Phúc đem số quân Bắc Thoán lên phía thượng nguồn bắc cầu phao, đến gần sáng thì xong. Tín Thư Phúc cho đốt hàng trăm hoả bè thả xuôi cho trôi vào thuỷ trại quân Đại Việt. Lửa bốc lên soi sáng cả một dải sông nhưng chẳng thấy thuyền bè của quân Việt đâu. Mờ sáng, Cốt Đãi Ngột Lang cùng Triệt Triệt Đô mang kị binh sang sông đánh thẳng vào trại quân Việt cũng không có ai chống đỡ, dưới sông không thấy thuyền bè nào cả. Bọn A Truật, A Nhĩ Hải cho quân đẩy bè sang sông. Cốt Đãi ngột Lang đang bối rối không biết Lê Tần đem quân biến đi đằng nào thì thấy một đám lính khinh kị của Đại Việt thấp thoáng phía cánh rừng xa, liền bảo Triệt Triệt Đô:

- Ngươi đem một nghìn quân kị đuổi bọn kia, bắt cho được vài tên. Ta sẽ đem quân tiếp ứng cho.

Triệt Triệt Đô đem bọn dũng sĩ Cổ Hà Cáp Hoa, Ngạc Cáp Đan cùng một nghìn kị binh đuổi miết suốt hai ngày nhưng quân Việt toàn kị binh nhẹ chạy nhanh, không sao đuổi kịp được. Chiều ngày thứ ba tới một cánh đồng rộng, phía trước có sông chắn ngang, mà đám kị binh Đại Việt lên thuyền sang bên kia sông mất rồi, Triệt Triệt Đô bảo các tướng:

- Ở đây trống trải, không biết là nơi nào?

Có tên lính trinh thám người Bạch Man nói:

- Trình tướng quân! Cánh đồng này gọi là Bình Lệ nguyên, dòng sông kia là Bình Lệ.

Triệt Triệt Đô nói:

- Ta nên đóng trại lại đợi nguyên soái đến rồi sẽ liệu.

Nói xong lệnh cho quân sĩ xuống ngựa cắm trại giữa đồng nghỉ. Cuối canh một, bọn A Truật, A Nhĩ Hải, Đoàn Hưng Trí, Tín Thư Phúc cũng lần lượt lục tục kéo đến, lúc ấy là đêm mười một tháng chạp năm Nguyên Phong thứ bảy (Đinh Tỵ-1257). Cốt Đãi Ngột Lang dẫn các tướng ra sông ngắm sang bên kia, chỉ thấy trời tối đen như mực, không biết quân tình Đại Việt thế nào, dưới sông cũng không có ánh đèn lửa thuyền bè gì cả mới bảo Tín Thư Phúc:

- Ngươi cử ngay mấy đội do thám sang sông xem quân Nam ở bên ấy nhiều hay ít.

Mấy đội do thám về đều báo bờ bên kia không có quân Nam. Cốt Đãi Ngột Lang chắc mẩm quân Đại Việt sợ hãi đã bỏ đi hết. Số là hôm trước ở ngã ba Bạch Hạc, Quốc Tuấn đã dặn Lê Tần chỉ cần đánh một trận cho chúng nhụt nhuệ khí đi rồi rút quân về Bình Lệ hợp với quân của nhà vua, phục sẵn chờ quân giặc tới, để một đội khinh kị nhử cho quân Thát đi đúng vào nơi đã mai phục.

Tại Bình Lệ, Trần Khuê Kình nói:

- Quân Thát đến nhất định không dám sang sông ngay. Ta nên nhân lúc giặc chưa lập xong trại, tung quân vào đánh chắc thắng to.

Trần Quốc Tuấn nói:

- Quân giặc mới đến, nếu ta đánh ngay chắc chỉ có số quân đi trước không đáng kể, có thắng thì thắng nhỏ mà lại phô mất lực lượng của mình, phí công mai phục, đợi chúng đến đông mới đánh, khó cho ta vì bên kia toàn đồng trống rất thuận tiện cho kị binh của chúng. Chi bằng ta đem quân phục sẵn trong các cánh rừng bên này, các thuyền chiến tạm lánh vào khe lạch và bãi lau, lập thành Điểu Vân trận. Giặc không thấy quân ta, ắt khinh suất mà tiến. Khi chúng sang sông, quân thuỷ bộ của ta đổ ra đánh mới có thể toàn thắng được. Trong thiên Thiểu chúng, Thái công có nói: Đánh vào lúc địch chưa kịp vượt sông. Hậu quân địch còn chưa xuất quân nhưng Tôn tử, Ngô tử cũng có nói địch đến giữa sông thì đánh. Ý của ta là như vậy.

(Thiểu chúng: Lấy ít đánh nhiều - Thiên Thiểu chúng trong sách Lục Thao của Hoàng Thạch công)

Các tướng nghe theo, ai mang quân ấy đi mai phục. Lê Tần cũng mang thuỷ quân lánh vào các bờ lau sậy.

Sáng sớm hôm sau mười hai tháng chạp, Cốt Đãi Ngột Lang đổ quân ra sông, bắc cầu phao vượt sang. Khi quân sĩ đã xuống sông quá nửa, nghe thấy bên hữu ngạn nổ một tiếng pháo, cơ man là thuyền chiến trong các ngách sông, bãi lau kéo ra. Tiếng binh lính hô: Giết! Giết! vang ầm trời đất. Quân Thát hốt hoảng định thoát lên bờ nhưng không kịp, bị tên đạn bắn chết rất nhiều, xác nổi trên sông như cá ruộng cạn nắng tháng sáu. A Nhĩ Hải bị một viên đá lệ chi đập vào mặt, máu chảy ướt đẫm ngực. Hoài Đô nói với Cốt Đãi Ngột Lang:

- Nguyên soái tạm cho lui binh. Tôi xin hiến kế khác có thể sang sông được.

Cốt Đãi Ngột Lang vội vã cho khua chiêng thu quân. Quân Thát nghe tiếng chiêng, chen nhau lên bờ chạy như vịt, bị tên đạn của quân Việt bắn đuổi theo, chết đầy bãi sông. Hoài Đô nói với Cốt Đãi Ngột Lang:

- Tôi nghe nói vua Nam mới dùng một viên tướng trẻ làm nguyên soái, tên là Trần Quốc Tuấn. Người này trí dũng song toàn, tinh thông thao lược. Cứ xem cách phục binh thì rõ ràng y đã dùng thế trận Điểu Vân để đánh ta. Ta phải tương kế tựu kế mà đánh lại mới có cơ thắng được.

Cốt Đãi Ngột Lang hỏi:

- Vậy bây giờ ta phải làm thế nào?

Hoài Đô ghé vào tai Ngột Lang nói thầm mấy câu. Ngột Lang gật gật lia lịa, nói:

- Ừ! Được! Được!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top