Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

Điệu vũ dưới ban mai hồng (2)

Ban đầu Akaso không thể tin. Em run run nói với tôi mẹ đã thực sự ôm lấy em, rỉa lông rỉa cánh cho em. Akaso có thể cảm nhận được hơi ấm khi mẹ chạm vào mình đến giờ cũng vẫn ghi rõ mồn một. Làm sao tất cả những thứ ấy là giả được?

Tôi cay đắng nói với em rằng tất cả những điều ấy máy móc hoàn toàn làm được, cũng như chúng tôi có thể gói hình ảnh các chú chim, những dòng sông, dãy núi đồi, cánh rừng rậm rạp bao la để nhốt vào một màn hình chữ nhật cho Akaso xem vậy. Tôi hỏi em người mẹ sếu ấy có giải thích tại sao bà ấy lại xuất hiện không? Bà ấy từ đâu đến và những con sếu khác đâu? Bà ấy có nói không? Akaso lắc đầu, em lắp bắp:

- Không, không... Mẹ chẳng nói... Em cũng không hỏi... Em vui quá...
Anh ơi, tại sao lại là giả? Những người khác đâu mất rồi?

Tôi quyết định nói cho em biết sự thật:

- Vì em là duy nhất, Akaso ạ. Em là chú chim sếu độc nhất trên thế giới này.

Và tôi đã kể hết mọi sự. Càng kể thêm, đầu em càng cúi thấp. Cho đến khi kết thúc, Akaso ngẩng đầu lên và tôi kinh ngạc thấy trên gương mặt xinh đẹp ấy là những giọt nước lớn.

Cái đau đớn của động vật ấy là chúng không thể nấc, không thể nức nở. Loài chim càng không thể gào khóc, than van như chúng ta. Thế nên Akaso cứ thế sững người như một bức tường cẩm thạch, với từng giọt từng giọt đua nhau chảy dài mà chính em cũng không biết tại sao. Như thể Akaso đã thay việc hít thở bằng những giọt nước cứ lã chã tuôn rơi.

Chúng thậm chí còn tạo thành vũng trên nền cỏ, đúng như tôi vẫn nghĩ: hai hốc mắt của Akaso chẳng khác nào hai mặt hồ trong suốt.

- Akaso...

Vì chưa từng có ai dạy em khóc nên càng chẳng có ai nói cho Akaso biết rằng đáng lẽ nước mắt cần lau đi, cần thấm lại. Akaso lại tưởng lời gọi của tôi có ý như thường lệ, em cứ để mắt ướt không ngừng ấy mà thun thút nhích lại gần tôi, đầu gối lên đùi. Tôi chẳng còn cách nào khác ngoài vuốt ve mái đầu đã tin tưởng dựa dẫm vào mình.

Trầm mặc một lúc mà tôi tưởng Akaso đã ngủ, bỗng dưng em lại thút thít:

- Yamada, anh... có phải là thật không?

- Thật chứ! Đương nhiên là thật rồi. Em xem này, anh đang chạm vào em bằng những ngón tay thật không có lớp da giả đây. Anh cũng không bao giờ nói dối Akaso điều gì cả.

Chẳng biết là những lời quả quyết có phần hăng hái ấy có thuyết phục được em không, chỉ thấy Akaso trở mình thở dài.

Rồi em lại hỏi:

- Sao người ta lại phải nói dối?

- Vì đôi khi họ muốn tốt cho người khác. Họ sợ sẽ khiến người nghe đau lòng.

- Em không thích.

- Ừ, đúng rồi. Nói dối là xấu, là không nên.

- Yamada rất tốt vì Yamada không nói dối em.

- Ừ.

Em cựa mình, quay đầu nhìn thẳng vào tôi.

- Anh Yamada, họ nói nếu em có thể kết thân với cô sếu khác vào lần tới, em sẽ được đi ra ngoài. Điều đó có đúng không?

Tôi nuốt khan. Nhưng việc đó chỉ xảy ra trong vài giây, lời nói tiếp theo thốt ra trơn tru như thể đó là sự thật hiển nhiên:

- Đúng rồi Akaso. Một ngày nào đó em sẽ được ra ngoài kia.

- Lúc ấy Yamada sẽ đưa em ra nhé!

- Ừ. Anh hứa.

Bàn tay vuốt ve của tôi không chậm lấy một nhịp, trong khi cảm giác Akaso dưới tay mình đã thư thái vui vẻ hơn. Trớ trêu thay, bây giờ thì chính lòng tôi lại bất an, bởi dần dần nhận ra Tokata rốt cuộc đã đúng.

*

Lời hứa của tôi ngắn ngủi đến thảm thương. Hai ngày sau, tôi nhận được cuộc gọi của vị giáo sư từ trường Đại học mình đang làm việc, nói muốn tôi về ngay. Trường sắp có cuộc hội thảo lớn cần chuẩn bị rất nhiều viêccj, trong khi trợ lý chính của ông ta lại đang nghỉ ốm. Dĩ nhiên đây chỉ là một lời đề nghị, tôi hoàn toàn có thể từ chối. Nhưng trong cuộc đua chạy vị trí giảng viên chính thức thì mọi lời đề nghị đều là cơ hội rút ngắn cự ly. Tôi đã suy nghĩ cân nhắc thiệt hơn, thấy rằng vai trò của mình ở đây cũng gần xong: Akaso đã sắp hoàn thành điệu múa, chỉ cần tự tập luyện cho nhuận sắc chỗ này chỗ kia, cái đó cậu nhóc có thể tự làm được. Mà những gì tôi cần thu thập tìm hiểu, cũng đã sơ bộ hòm hòm, vậy thì không việc gì phải nấn ná quá lâu, làm lỡ mất cơ hội thể hiện. Thế là tôi đã nghiêng theo phương án rời đi. Đương nhiên không phải là ra đi mãi mãi không bao giờ quay lại. Akaso vẫn là một cậu bé đáng mến mà tôi có tình cảm đặc biệt, nên tôi định bụng bao giờ công việc nguôi nguôi, tầm một hai tuần chẳng hạn, thì sẽ quay trở về thăm. Tôi vẫn chưa muốn từ bỏ Akaso hoàn toàn, ít nhất là chưa cho đến khi thấy cậu ấy được ổn định yên ấm, con đàn cháu đống với một cô sếu nào đó. Có như vậy thì tôi mới an tâm được, và cũng phải như thế mới hết trách nhiệm cho công việc được giao để tôi có thể từ biệt cậu cho đàng hoàng.

Tôi đem tất cả ý nguyện ấy nói với Tokata, gã không có vấn đề gì. Tôi đem chuyện ấy nói với Akaso, em ấy lập tức u sầu buồn bã.

- Anh sẽ không đi hẳn chứ?

- Không, chỉ vắng mặt một thời gian thôi.

- Sẽ trở về chứ?

- Nhất định sẽ trở về mà. - Tôi nói chắc nịch, - Anh phải về chứ! Anh đã được xem điệu múa của Akaso đâu.

Mắt Akaso sáng lên, em nhoẻn cười rạng rỡ:

- Thật nhé! Em sẽ tập luyện thật tốt, em muốn Yamada sẽ là người đầu tiên được xem điệu múa hoàn chỉnh của mình.

- Ồ, không phải điệu múa ấy phải dành cho cô bạn gái sau này của em hay sao?

- Không, phải là anh chứ! Yamada là thầy của em. Còn cô gái kia thì... đằng nào chúng em chẳng nhảy với nhau mãi...

Những lời sau Akaso càng nói nhỏ dần, hai tai đỏ lựng. Cậu bé của chúng tôi hẳn đã lớn. Kể từ lúc được cho xem về điệu múa đôi hiếm hoi của loài sếu đỏ thì trong tâm Akaso đã có sự chuyển biến. Khi nghe tôi giảng giải về tập tính kết đôi, về sự chung thủy của giống loài mình, cậu ấy có vẻ trầm tư suy nghĩ. Akaso đã dần hiểu những điệu múa đang học không chỉ đơn giản là kết bạn để hết cô đơn, mà đằng sau đó là một khế ước lớn lao hơn, mang tính bền vững cả đời. Ý thức trách nhiệm ấy gần như khiến cậu phát sốt vì lo lắng, phản ánh cả trong những động tác múa bỗng dưng chuệch choạng khác thường. Tôi phát hiện ra ngay, vội vẽ ra đủ viễn cảnh tươi sáng: vợ đẹp con ngoan, gia đình hạnh phúc... Ấy thế mà cũng không làm cậu ấy bớt lo. Phải mãi đến khi tôi động viên rằng việc này sẽ giúp Akaso ra ngoài nhanh hơn thì cậu nhóc mới nhẹ nhõm đi chút chút.

Nay lại tới cú sốc này, Akaso đương nhiên bất an. Em rất quý tôi, em không ngại nói ra điều đó. Em sợ tôi sẽ biến mất không bao giờ xuất hiện nữa giống như người phụ nữ ở phòng thí nghiệm cũ. Người mà Akaso coi như mẹ và đã chăm sóc cậu từ lúc biết mở mắt ra khỏi vỏ trứng. Ngày chuyển đi, cô ấy cũng hứa hai người bọn họ nhất định sẽ gặp lại nhau. Vậy mà... Akaso vẫn ngóng trông mãi, cậu đã quên gương mặt cô, nhưng loài vật thì đâu chỉ lưu giữ bằng mắt, Akaso vẫn có thể nhận ra bằng mùi, bằng giọng nói. Nếu cô ấy không thể đến, Akaso sẽ đi tìm, miễn là cậu ấy có thể bay. Chỉ cần được ra khỏi nơi này, Akaso tin tưởng mình sẽ làm được. Cậu ấy có cả một cuộc đời dài...

- Rồi em cũng sẽ đến chỗ của Yamada. Anh nhớ đợi em nhé! Chúng ta sẽ cùng ngắm bình minh, rồi cả hoàng hôn, nhìn hàng đàn chim khác bay về phương Nam...

Em đã nói thật sôi nổi như vậy. Đôi mắt ánh lên những tia long lanh tựa như cảnh vật ấy đang rất gần tầm với, mà chỉ cần vươn cánh ra là em có thể chạm vào được.

Khi tôi hỏi Akaso không muốn ở lại khu bảo tồn Hiyama à, nơi đây cũng có những vùng đầm lầy rộng lớn tuyệt đẹp, thì em lắc đầu. Akaso bảo em chẳng quen thân ai ở đây cả.

- Còn Tokata thì sao?

- Ông đó đáng sợ lắm. Cứ nhìn em chòng chọc.

Tôi bật cười nghĩ tới việc Tokata hẳn phải đau lòng vô cùng khi biết cậu chim mà gã đặt bao tâm huyết lại coi mình như một lão già biến thái. Mà cũng xứng với hắn ta lắm! Cho đáng đời tội tọc mạch.

- Thế còn anh? Em không thấy anh đáng sợ ư?

- Không, Yamada đẹp trai mà. Giống con cú mèo.

Thật suýt sặc. Nhưng xét theo gương mặt nghiêm túc của em, tôi đành cắn răng coi đấy là một lời khen ngợi. Trùng hợp là hồi còn đi học tôi cũng hay bị lũ bạn học trêu nghẹo là mặt diều hâu. Thực ra nói cho công tâm, tôi thấy vẻ ngoài của bản thân cũng không quá tệ, nhưng hồi đó tôi khá gầy, cộng với mũi cao và nhọn, hốc mắt trũng sâu, tới mức bị gọi như vậy cũng không sai. Nó thậm chí còn trở thành một biệt danh đáng tự hào nữa, bởi câu đùa ấy còn dựa trên một sự thật rằng tôi mê mẩn các loài chim.

Nhờ những mẩu chuyện trò vô thưởng vô phạt như vậy mà ngày cuối ở bên cạnh Akaso đã trải qua thật nhẹ nhàng. Chúng tôi lại còn học tập thêm được chút nữa, với việc tôi cùng Akaso nhảy đôi một đoạn nho nhỏ bông đùa. Khi rời đi, Akaso đã có thể tươi tắn vẫy tay chào tôi. Hình ảnh ấy đã đọng lại mãi trong tâm trí tôi, nào tôi có ngờ đấy sẽ là lần cuối cùng mình còn nhìn thấy nụ cười của em.

Công việc mà tôi dự định chỉ kéo dài đôi ba tuần, cuối cùng đã cuốn bản thân tới tận một tháng. Trở về với trường Đại học giống như khoảng thời gian qua tôi đã bay lượn bao lâu bây giờ mới tiếp đất. Và khi đã mất đi đôi cánh rồi, muốn cất cánh trở lại mới thật là khó nhọc. Guồng quay việc này nối tiếp việc kia ghì ta sát đất, khiến cho cái ý tưởng có thể gỡ ra được một chút để đi đâu đó trở nên quá xa vời.

Nhưng cũng không phải là tôi không nhớ Akaso. Tôi không lãng quên cậu ấy. Nỗi nhớ không day dứt miên man, mà nhẹ nhàng, thoang thoảng. Hệt như cảnh những mẩu lông tơ của Akaso bay lãng đãng trong không gian mỗi khi cậu vũ cánh, lòng nhớ nhung của tôi đối với cậu sếu nhỏ cũng lẳng lặng len lỏi vào lòng như vậy. Trong lúc bộn bề công việc thì không, nhưng rểnh rang ra chút thì nhớ. Có vài khi chỉ những điều linh tinh cũng gợi nhắc tới cậu. Như một chiếc lá đỏ lẻ loi rơi giữa nền trời trắng lạnh, một ánh mắt trẻ con thơ ngây... Hay ngớ ngẩn hơn, thậm chí một mảnh khăn lụa vô tình phơ phất cũng khiến tôi chợt nghĩ, giá mà được đeo trên người cậu ấy thì thật đẹp biết bao...

Và đương nhiên tôi không việc gì phải dừng lại ở mỗi chuyện hồi tưởng. Chúng ta đang sống ở thời đại tân tiến mà! Thời gian đầu, tôi rất chăm gọi video cho Tokata để được nói chuyện với Akaso. Tuy nhiên bộ máy của Tokata chưa hiện đại tới mức có thể xử lý hình ảnh ngay cả qua đường truyền điện thoại, nên tôi chỉ có thể đối thoại với hình dáng thực của Akaso. Cũng không phải chuyện đó gây thất vọng gì cho cam, tuy nhiên nhìn gương mặt loài chim thì thật khó đoán định thái độ, nữa là em ấy còn không thể hồi đáp tôi cho đàng hoàng. Mà thông qua cách phiên dịch của Tokata tôi lại không tin tưởng lắm, gã ấy đâu có hiểu về chim chóc bằng tôi. Tuy Tokata cứ luôn miệng bảo "khoẻ lắm, tốt lắm, yên tâm đi", nhưng theo trong mắt tôi thấy, thì hình như không phải thế. Thời gian đầu thì đúng là Akaso rất hân hoan khi gặp mặt tôi. Cậu nhóc lon ton chạy lại, vỗ cánh rối rít, cái mỏ cứ dí sát vào màn hình, đầu nghiêng nghiêng, mắt chăm chú. Có lần còn suýt hẩy chiếc điện thoại khỏi tay Tokata. Nhưng thái độ ấy không kéo dài được lâu. Về sau, Tokata gọi Akaso lại lảng đi, phải kêu rất nhiều lần cậu ấy mới xuất hiện trước màn hình. Khi nói chuyện cũng lơ đễnh, đầu cứ quay đi chỗ khác. Tokata lúc thì bảo cậu mệt, lúc thì chưa ăn nên cáu bẳn, khi thì lại bào chữa bằng việc sắp được gặp gỡ cô bạn gái mới nên Akaso có phần bồn chồn. Tất cả để tôi an tâm, không lo nghĩ gì nhiều.

Đúng là tôi cũng không nghĩ gì thật, chỉ có hơi chạnh lòng. Akaso chắc đang dỗi vì tôi thất hứa, tuy nhiên cậu ấy cũng thừa hiểu tôi chẳng thể ở đấy mãi mãi. Sự giận dỗi này chỉ là khởi điểm cho việc cách xa, rồi cậu nhóc cũng sẽ sớm quen và sớm quên. Sắp tới lại còn mối quan hệ mới mẻ hơn, thú vị hơn tôi gấp ngàn lần, chẳng mấy chốc mà Akaso sẽ quên đi ông thầy dạy thời vụ ngớ ngẩn này. Đó đương nhiên là một chuyện tốt, nhưng không khỏi khiến người ta hụt hẫng. Tôi như một kẻ bị bỏ rơi trong một mối quan hệ khi mình đã hết giá trị sử dụng. Cảm giác thật nực cười dù chính tôi mới là người nói lời từ biệt đầu tiên.

Nhưng tôi vẫn thành tâm chúc phúc cho Akaso - cậu sếu bé nhỏ đáng yêu của mình. Vai trò của bản thân đã hết, tôi lặng lẽ rút về hậu trường. Những cuộc gọi quấy rầy Tokata cũng thưa dần rồi dừng hẳn.

Bởi vậy, tôi đã không tài nào tưởng tượng nổi cái ngày mình nhận được tin nhắn từ Tokata:

"Akaso mất rồi. Mất tối hôm qua".

* *

Việc đặt vé máy bay thật không dễ dàng, nhất là khi đầu óc ta đang quay cuồng và hai bàn tay thì không ngừng lẩy bẩy. Tôi phải đi chuyến đêm mà từ đầu tới cuối hai mắt thao láo như cả người được ngâm trong một bể cafein. Suốt cả chặng đường, tôi chỉ đổ lỗi cho Tokata.

Tôi tới khu bảo tồn lúc sáu giờ sáng, vậy mà Tokata vẫn sẵn sàng để đón. Nhìn bộ quần áo không vết nhàu nhĩ, tôi đoán gã cũng không ngủ. Nhìn vào mắt nhau, chúng tôi đã hiểu mỗi bên đang nghĩ gì. Bỗng dưng cơn mệt mỏi bây giờ mới ập tới, nó khiến hai đầu gối tôi như muốn khuỵu xuống. Tôi đã hiểu, chúng tôi - chẳng ai xứng đáng đổ tội cho ai cả - chúng tôi chỉ xứng đổ tội cho chính mình.

Tokata dẫn tôi về phòng làm việc của mình, nơi gã ghi lại mọi động tĩnh từ lồng của Akaso.

- Chẳng có một dấu hiệu gì cả, mọi thứ vẫn bình thường. Máy móc không hỏng hóc, thông số thì ổn định. Việc kiểm tra định kỳ diễn ra đều đặn và không có gì đáng ngại, đột nhiên lại...

Tokata cắn môi, gã cố kìm cơn tức tối.

- Thời gian đầu ông đi, Akaso thực có sinh hoạt kém đi một chút nhưng nhìn chung cũng không ảnh hưởng nặng nề. Đợt đấy khu bảo tồn có đoàn kiểm tra nên tôi có hơi bận rộn, có điều vẫn theo dõi thường xuyên. Tôi có giao cho Hideo trông nom lồng của Akaso. Đấy là thằng cha yêu khỉ hơn yêu người mà hồi trước tôi có kể, nếu ông còn nhớ. Tên đó vừa chậm chạp vừa ù lì, hướng dẫn mấy cái nút đơn giản cũng mãi không nhớ, nhưng vì hết người nên không còn cách nào khác. Với lại hắn cũng đang bị kỷ luật dó dung túng cho lũ khỉ vượt quá ranh giới cho phép. Thế nên Hideo là đủ thời gian rảnh rỗi để làm. Với lại công việc cũng chỉ dọn dẹp lồng, cho ăn, theo dõi vận hành của máy, có thế thôi. Nói chung Hideo làm khá ổn, mỗi tội hồi đầu do chưa quen nên có làm loạn máy lên một chút.

Tokata cho tôi xem cảnh camera giám sát ghi lại: Hideo lóng ngóng bên bảng điều khiển. Sau đó hình như đã bấm nhầm nút gì, gã giật nảy người lùi ra sau, rồi lại cuống quýt đánh đánh bấm bấm trên màn hình máy.

- Lần đó, gã ta đã làm loạn thời gian mặc định của máy, ngày thành đêm, đêm thành ngày, độ ẩm, mật độ không khí sai lệch hết cả. Đã thế còn khiến chế độ chuyển ngữ bị tắt, mà ba ngày sau chúng tôi mới phát hiện ra. - Tokata thở dài, - Nhưng ngoại trừ chuyện đó ra, việc chăm sóc đều ổn thoả cả.

- Thế còn việc kết đôi? - Tôi chợt nhớ ra, - Ông bảo chuyện đó sẽ được tiến hành sớm mà.

- Thì có làm. Nhưng chẳng đi đến đâu cả.

Gã lại nặng nhọc gò mình trên màn hình, đưa tôi về thời điểm diễn ra việc ghép đôi. Toàn bộ video quay lại đều dưới hình dạng thực chưa được chuyển hoá. Akaso đang đứng trơ trọi bên bờ con lạch giả, cứ đăm đắm ngắm mình dưới dòng nước lặng tờ không cá không tôm. Thế rồi dường như có âm thanh gì đó thôi thúc cậu quay lại, nhìn về một hướng. Thoáng sau, hình ảnh một cô sếu màu ngà xuất hiện trên màn hình. Cô nàng hơi ngúc ngoắc chiếc đầu nhỏ, có vẻ rụt rè. Ngược lại Akaso rất bình tĩnh nhìn lại không cử động gì. Một lúc sau, cậu nhảy khỏi tảng đá mình đang đứng, chậm rãi làm một vòng quanh cô sếu. Rồi đột ngột vung cánh lên ...

Tôi hồi hộp, Akaso sắp bắt đầu điệu múa của mình.

Nhưng không, cậu rũ cánh xuống, chiếc cổ dài thanh mảnh bỗng rủ xuống mệt nhọc như mang gánh nặng chất chứa khiến cậu không thể cất đầu lên nổi. Akaso quay lưng lầm lũi về chốn cũ. Kể từ đó, cậu giữ nguyên tư thế, coi như chẳng còn có ai bên cạnh nữa.

Cô sếu dường như quá sốc. Mãi về sau cô mới nhận ra người ta đã bỏ rơi mình. Cô lập cập đi qua đi lại, có lúc cũng vẩy cánh há mỏ kêu lên để đánh động sự chú ý nhưng vô hiệu. Akaso hình như đã ngủ, hoặc giả cậu như giả câm giả điếc, chẳng còn nghe chẳng còn thấy bất cứ thứ gì nữa.

Video kết thúc bằng cảnh cô sếu lủi thủi biến mất khỏi màn hình, chỉ còn Akaso trầm mặc là bóng trắng duy nhất tồn tại.

Tôi câm nín quay sang Tokata. Gã đối lại tôi bằng cặp mắt mệt mỏi.

- Chẳng thể hiểu nổi. - Tokata nhún vai.

- Cậu ấy đã thực sự định mời cô ấy điệu nhảy mà.

- Tôi biết, tôi biết. Chúng tôi đều biết ông đã dạy dỗ Akaso rất tốt, và trong suốt thời gian ấy cậu nhóc không ngừng cần mẫn tập múa. Nhưng... không biết tại sao, mọi việc lại ra như thế. Cô sếu chúng tôi lựa chọn rất khoẻ mạnh, trẻ trung, đẹp đẽ. Lông lá mượt mà, cẳng chân thẳng tắp. Akaso cũng không bị kích động như lần đầu, ấy vậy mà không hiểu sao vẫn hỏng. Chúng tôi đã kiểm tra sức khoẻ. Không vấn đề. Tôi đã dành cả ngày nói chuyện với Akaso, nhưng cậu ấy cứ lặng thinh. Gặng mãi thì chỉ lẩm bẩm "Em xin lỗi", thật quá bất lực.

- Tokata, ông đã cố gắng hết sức rồi.

Lời tôi nói chẳng biết cho ai nghe, nó khô khan vô nghĩa quá đỗi. Tới mức chúng tôi chẳng biết tiếp tục câu chuyện như thế nào nữa.

- Vậy... tại sao cậu ấy chết?

Tôi phải hỏi, sau biết bao nhiêu lượt nuốt nước bọt. Bởi Tokata nhất quyết không chịu nói qua điện thoại và bởi tôi cũng không dám đòi. Để đến bây giờ thì tôi thấy hối hận. Cái âm thanh "chết" gắn với hình ảnh đã từng tươi đẹp đến vậy sao mà nhức nhối thế? Chúng đáng lẽ không bao giờ nên đi cùng nhau.

- Tôi không biết. Tự ông hãy xem đi.

Tokata mở tiếp video cuối cùng, cái được cho là ghi lại những hành động của Akaso trước khi chết. Buổi sáng cậu ấy vẫn bình thường. Buổi trưa ăn kém, nhưng không có gì khác biệt. Akaso lại đứng nghỉ hàng giờ cạnh tảng đá bên con lạch. Tôi bỗng dưng loé lên suy nghĩ, ấy là chỗ quen thuộc mình vẫn thường ngồi. Phát hiện đó chạy một đường lạnh gáy sống lưng, khiến tôi rùng mình.

Trên màn hình, Akaso bắt đầu di chuyển, cậu đi vòng quanh tạo thành một vòng tròn nhỏ, chân dậm dậm như thực hiện một nghi lễ. Kết thúc, cậu đứng ở ngay trung tâm vòng tròn, lại xoay một vòng tại chỗ thêm một lượt nữa, trước khi yên tâm đứng rỉa lông rỉa cánh thật cẩn thận.

Tôi biết Akaso định làm gì.

- Tokata, video ghi lại này có thể chuyển đổi hình ảnh được không?

- Được. Nhưng để làm gì?

- Ông hãy chuyển đổi giúp tôi đi.

- Nhưng mà có thật sự cần thiết không? Vì nó sẽ mất thời gia...

- Xin ông đấy, cứ làm đi! - Tôi nói gần như quát. 

Có lẽ trông tôi cùng quẫn quá, Tokata đành chép miệng chiều theo. Thực ra nó cũng chỉ mất hơn một phút. Khi mở lại, trước mắt là Akaso quen thuộc, mắt tôi suýt nữa đã nổ tung bởi hơi nóng bốc lên.

Em đây rồi, Akaso, mãi rồi anh mới thấy được em...

Khi đã chuẩn bị xong sân khấu cho mình, em đứng yên, nhắm mắt định thần. Chúng tôi dán mắt vào màn hình, tưởng như cảm nhận được hơi thở hồi hộp từ em.

Đột nhiên, một cách bất ngờ, Akaso ngẩng đầu mắt nhìn thẳng vào camera. Em ấy biết máy ở đâu, em ấy biết chúng tôi nhất định sẽ nhìn và sẽ xem. Em ấy cần gửi một điều gì đó.

Ôi, cặp mắt như chứa đựng cả một biển trời bi ai!

Và rồi Akaso bắt đầu điệu vũ của mình, giữa một làn điệu câm lặng chỉ mình em nghe thấy. Tay phải giơ lên, chân trái lùi lại, xoay một vòng với mái đầu quay đi một cách duyên dáng... Thánh thần ơi, em ấy đẹp quá! Akaso đã không quên, em ấy đã thực sự luyện tập bằng cả tâm hồn và cơ thể. Tất cả những gì tôi yêu cầu, tất cả những gì tôi mong muốn, Akaso đều làm được và còn làm hơn thế.

Akaso, em đã thành công rồi. Em đã tạo ra một điệu múa của riêng mình. Điệu múa ca ngợi cuộc sống, ca ngợi vẻ đẹp của giống loài em và kêu gọi tình cảm của người em yêu thương nhất...

Tôi không thể tiếp tục nhìn thêm nữa. Gục đầu xuống giữa hai cánh tay chống trên mặt bàn, tôi hỏi:

- Việc ấy kéo dài trong bao lâu?

- Hơn năm tiếng.

Tôi rít lên đau đớn.

- Mà không ai biết ư?

- Không ai cả... Chúng tôi không thể xem thường xuyên 24/24 giờ được. Các đoạn băng thường sẽ được xem qua vào sáng hôm sau, còn buổi chiều chủ yếu là thời gian nghỉ ngơi của loài chim, vì thế không có ca nào trực ở lồng cả. Đến khi chúng tôi phát hiện ra thì đã quá muộn...

- Nguyên nhân tử vong?

- Chết vì lao lực. Chỉ vậy thôi, không còn dấu hiệu nào nữa. Không nguồn bệnh, không nhiễm độc, chỉ đơn giản là tim không còn đập nữa.

Giọng Tokata méo mó đi vì sự trớ trêu của số phận. Tôi nhìn gã và thấy hình ảnh của một kẻ già đi đến chục tuổi. Gã vẫn không chấp nhận tự nhiên đã lấy lại thứ mà chúng ta đã cố giành giật từ nó. Gã không cam tâm.

- Tokata...

Tôi đặt tay lên vai gã an ủi. Tokata quay lại và trong mắt lộ vẻ ngạc nhiên như thể đã nhìn thấy điều gì đáng lẽ không bảo giờ nên có trên mặt tôi. Hắn rút mấy tờ giấy mỏng đưa cho tôi, lặng lẽ nói:

- Để tôi dẫn ông đi gặp cậu ấy.

Tôi nhận mấy tờ giấy lau mà chẳng hiểu gì, cho tới khi đưa nó lên thấm mặt. À, nó ướt...

Phòng xác ở tận cuối khu nhà, vắng vẻ chẳng có ai. Giữa căn phòng lớn trắng toát chỉ trơ trọi một chiếc bàn lớn, trên đặt chiếc khay dài. Tôi biết khay ấy để làm gì, biết nó sẽ ra sao. Nó thuộc về vô số chiếc ngăn được xếp của chiếc tủ lớn đằng kia, chờ đợi được đánh số. Và lúc ấy Akaso sẽ chẳng còn là Akaso nữa, em chỉ còn là một con sếu đỏ vô hồn, sinh vật cuối cùng còn lại của giống loài em và sớm thôi, trở thành con số 0 tròn trĩnh.

Nhìn em nắm trong chiếc khay lạnh lẽo, tôi ngạc nhiên sao em lại to lớn thế. Vậy mà trong hình dung của mình, tôi luôn mường tượng Akaso rất nhỏ bé, rất xinh xắn, dẫu cho ngay cả với hình chiếu, em đã cao gần bằng tôi rồi. Tôi cố tìm hơi ấm của em khi vuốt ve lớp lông cánh như mình vẫn từng làm, chúng mượt mà quá, nhưng dòng nhiệt ấm áp đã chẳng còn. Từng chiếc lông vũ xếp ngay ngắn sẽ chẳng bao giờ được xoè ra nữa. Nhẹ nâng đầu em giữa hai lòng bàn tay, tại sao tôi đã vuốt lâu đến vậy rồi, mà Akaso vẫn không mở mắt? Sao em không mỉm cười và cạ vào lòng bàn tay tôi như em vẫn thường thế? Tại sao vậy, hở Akaso?

- Họ định sẽ làm gì với em ấy?

Tôi thừa hiểu chứ, nhưng tôi vẫn phải hỏi.

- Ông biết rồi còn gì. Sếu đầu đỏ Nhật Bản là loài hiếm, người ta sẽ xử lý để trở thành tiêu bản trưng bày. Các mô còn lại sẽ dùng để lưu trữ ADN...

- Tokata... Đừng... Đừng nhồi bông em ấy... Đừng... biến em ấy thành vật trang trí...

- Điều ấy là không thể, Yamada. Tôi hiểu là ông đang rất đau buồn. Những thứ gì đã ra đi cũng không thể níu kéo được. Akaso của ông không còn nữa rồi, trước mặt ông chỉ còn là thể xác vô tri. Nhưng nó có thể dùng để phục vụ khoa học, để lưu giữ cho các thế hệ sau. Đấy cũng là một cách để cậu ấy sẽ sống mãi, ông không thấy như vậy sao?

Tôi biết, tôi biết, tôi biết...

Tôi biết hết...

Nhưng tôi không muốn!

- Tokata, coi như tôi van xin ông... Đừng biến em ấy thành tiêu bản... Tokata, tôi chỉ xin ông duy nhất điều này trên đời thôi...

- Yamada, ông làm cái gì vậy? Đừng quỳ nữa! Đứng lên ngay, ông quỳ thế có ích gì? Yamada, nếu việc ấy có thể nằm trong quyền hạn của tôi thì tôi có ngại gì cho ông? Nhưng Akaso không phải của riêng tôi, cậu ấy là tài sản của khu bảo tồn này, là bảo vật của quốc gia. Tôi có được giữ rịt cho riêng tôi đâu. Trời ơi, giá mà được như thế? Giá như vậy, thì tôi đã sẵn sàng thả tung cậu ấy ra để bay đi tìm ông rồi, sao phải để tới mức... Chết tiệt, giờ tôi ra nói mấy lời này để làm gì cơ chứ?

Tokata giộng nắm tay xuống bàn, cắn chặt môi để ngăn sự uất ức. Hắn không muốn dìm người bạn tội nghiệp trong thứ tội lỗi cả đời nữa. Nhưng không kịp nữa rồi.

Tôi lẩy bẩy đứng lên, tay phải nắm chặt vào mép bàn để đứng vững.

Tokata vẫn tránh nhìn tôi, gã tự lẩm bẩm gần như đang nói một mình:

- Yamada, tôi đã cảnh báo ông rồi. Tâm hồn yếu ớt ấy không đủ tỉnh táo như chúng ta. Nhưng lỗi cũng do tôi, tôi đã quá chủ quan, dung túng...

- Tokata, tôi...

- Ông đi đi, hãy đi đi. Việc của ông đến đây là xong rồi. Tôi không thể giúp ông được hơn nữa đâu... Hãy về đi, quên đi, mọi chuyện kết thúc rồi.

Tokata phẩy tay, quay tấm lưng mệt nhọc vào tôi. Trong khi chính tôi, chính kẻ hèn nhát và vô tâm là tôi, bẽ bàng chạy trốn khỏi căn phòng ấy.

* * *

Nhưng tôi không thể bỏ rơi em. Tôi chưa bao giờ có ý định quên đi Akaso, chưa bao giờ muốn để em nằm lạnh lẽo giữa căn phòng ấy.

Hình như tôi không cần nghĩ, tôi còn chẳng cần đắn đo, băn khoăn. Gần buổi chiều tôi quay lại nhà điều hành của khu bảo tồn. Tokata đã quên mất không thu hồi lại thẻ ra vào hắn cấp cho tôi. Tính hắn vốn lơ đễnh và lần này nó đã giúp ích. Tôi lẻn vào, dựa vào hiểu biết của mình trong suốt hơn một tháng ở đây để lựa một chỗ ẩn nấp chẳng ai để ý, chẳng ai kiểm tra. Tôi kiên nhẫn đợi ở đó cho tới nửa đêm, rồi lại lách ra ngoài, thẳng bước tới nơi cần đến. Điều tôi muốn làm, tôi sẽ không từ bỏ. Và vì thế, tôi cần phải làm thật nhanh.

Trong áo khoác tôi đã sẵn những thứ cần thiết để thực hiện kế hoạch. Một trong số ấy là chiếc đèn pin. Tôi không dám bật đèn vì sợ sẽ đánh động bảo vệ, bởi vậy định bụng sẽ dùng nó để lần tìm đúng con số mà mình cần. Có thể mất thời gian một chút nhưng tôi còn có cả đêm mà, miễn là kịp cho tới khi bình minh lên...

Có điều ông trời đã an bài cho tôi không phải vất vả như thế. Vừa mở khẽ cánh cửa, đèn đã bật sáng bừng. Tôi quên mất phòng sử dụng đèn cảm ứng chuyển động. Đấy là sơ suất ngớ ngẩn. Nhưng đó vẫn không ngớ ngẩn bằng việc thấy ngay giữa căn phòng đã có người đợi mình rồi.

Hoá ra tôi cũng chẳng kín đáo lắm như vẫn nghĩ.

- Anh là ai? - Tôi bình tĩnh hỏi, như thể bản thân chẳng phải là kẻ đang định đánh cắp bảo vật quốc gia.

Người đàn ông ngồi bên cạnh chiếc bàn inox gầy gò, đem đến cảm giác cao lêu nghêu dù không cần phải đứng. Mái tóc cắt tỉa cụt lủn càng làm khuôn mặt trở nên dài hơn, ở trên đó chỉ là cặp mắt nhỏ tí và có vẻ lờ đờ. Nghe lời chất vấn của tôi, anh ta bối rối cụp mắt đầy sợ hãi, những ngón tay thừa thãi cứ vặn xoắn vào nhau.

- Tôi... tôi là Hideo Kudasagi.

Cái tên chẳng gợi cho tôi chút ý niệm gì. Tôi lạnh lùng hỏi tiếp:

- Anh ở đây làm gì?

- Tôi... Anh... có phải là người... rất thân thiết với chú chim sếu này không? Có phải anh là Yamada Yuki không?

Việc anh ta dám chỉ tay vào Akaso và việc anh ta đang đứng chắn giữa tôi và em thổi bùng lên cơn giận dữ mà tôi vẫn kìm nén, khiến tôi phải cố lắm để không hét lên thật to:

- Phải, nếu đúng như vậy thì sao?

Trái ngược với mọi dự đoán, người đàn ông càng sợ hãi hơn. Anh ta gục xuống, co rúm người ôm lấy mặt mà rền rĩ: "Tôi... tôi muốn thú tội! Tôi xin thú tội! Xin anh tha thứ cho tôi! Chính tôi đã khiến cậu ấy chết... Chính tôi đã làm cậu ấy chết... Tôi xin lỗi..."

Hideo Kudasagi, người cả đời ù lì và chậm chạp, chỉ tìm được lẽ sống của mình khi nghiên cứu về loài linh trưởng. Gã không ngốc, nếu không muốn nói khá thông minh là đằng khác, nhưng sự yếu kém về giao tiếp xã hội đã khiến Hideo không thể làm gì hơn ngoài chức vụ trông nom vườn thú. Ấy vậy mà Hideo cũng thường làm việc không nên thân. Hắn đã từng ở sở thú, rồi suýt bị đuổi do sơ suất trong công việc, chỉ vì thương tình mà được giới thiệu về khu bảo tồn này. Trở về đây, Hideo cảm thấy như cá về nước, cáo về rừng, tưởng chừng như nhất định sẽ yên ổn. Vậy mà rồi cũng thành chuyện, chung quy lại xuất phát từ chính lũ khỉ mà Hideo yêu quý. Hideo biết một số con trong lũ chúng có những hành vi đi quá giới hạn với vài giống loài khác nhưng lại không báo cáo. Kết quả khi chuyện vỡ lở, Hideo bị quở mắng một trận và tạm thời di dời sang nhiệm vụ khác, chủ yếu là lao công dọn phân dọn rác. Tokata thấy hắn như thế cũng tội, bèn nhân đó chuyển Hideo về bộ phận làm cùng với mình, để phụ giúp trông nom lồng kính của chú chim sếu đỏ. Khổ nỗi, Hideo lại chậm chạp quá, dù được hướng dẫn chán chê vẫn mù mờ về cách vận hành của máy. Tới ngày đầu tiên hắn phải làm một mình mà không có ai bên cạnh, Hideo cứ luống cuống, lập cập xoay sở với bảng điều khiển mãi không xong. Đáng lẽ cần tìm chỗ mở lại các video giám sát ngày hôm trước để xem qua (vì đấy là quy trình bắt buộc của ca sớm), chẳng biết Hideo đã ấn nhầm điều lệnh nào, khiến cho chiều nhìn của lồng kính bị thay đổi. Đáng lẽ trước đây nó là kính một chiều, chỉ người ngoài nhìn được còn bên trong không thể thấy gì, thì nay hai bên có thể nhìn thấu suốt được nhau. Vậy là Akaso đã nhìn thấy Hideo. Còn Hideo thì không hề biết rằng loa đang bật và chiếc máy này có khả năng chuyển dịch ngôn ngữ.

Bởi thế nên hắn đã suýt rụng tim khi nghe giọng nói thanh thanh vang bên cạnh: "Anh ơi, ngài Tokata đâu rồi?"

- Ôi cha mạ ơi, cái gì vậy? - Hideo giãy nảy lên và nhìn bên trong chỉ thấy con chim sếu to đang chòng chọc nhìn mình.

- Anh ơi... - Con chim há mỏ, vỗ cánh.

- Mày... là mày nói đó hả?

- Vâng, là em mà. Anh ơi, ngài Tokata đâu rồi? Bao giờ thì anh Yamada quay trở lại, anh ấy đi lâu quá...

- Yamada nào? Yamada chi? Tao chẳng nghe thấy Tokata nhắc đến bao giờ.

- Ngài Tokata không nói anh Yamada bao giờ quay lại ư?

- Không, không, có mình tao được phân trông chỗ này thôi.

Mất một lúc lâu con chim không nói gì, nhưng nó vẫn cứ đăm đăm về phía Hideo. Mồ hôi lạnh rỉ khắp người, Hideo cảm giác như con chim ấy đang chiếu tướng mình. Chứ còn sao nữa? Chẳng trách Tokata lại bắt gã trông nom lồng này kỹ đến thế, chẳng trách nó lại bị nhốt trong đây, chim mà biết nói thì còn kỳ lạ tới bực nào? Nghĩ vậy nên bao sự tỉnh táo trong trí óc Hideo đều bay đi hết, gã chỉ tìm cách để chuồn.

Nhưng con chim vẫn không buông tha cho gã. Đang lặng thinh như thế, bỗng dưng nó đập cánh tuôn một tràng:

- Ngài Tokata có nói bao giờ em được ra khỏi đây không? Em có được ra ngoài không? Ngài ấy có nói không? Có nói không?

Hideo tội nghiệp bị dọa tới thót tim. Tự nhiên có con chim hùng hùng hổ hổ hỏi tới tấp những điều Hideo chẳng hiểu. Nó lại trông có vẻ lồng lộn giận dữ, vỗ cánh liên tục như thể sắp lao ra thịt gã, ai trong trường hợp ấy mà chẳng hoảng?

Mà khi hoảng sợ quá thì người ta sẽ nói dối. Hideo lắp bắp, chân bước lùi để tính đường chuồn:

- Ờ... Hình như có... Ờ, chắc... chắc vậy rồi... Hình như là Tokata có nói... Khoảng hai ba hôm gì đó... (Con chim lại trừng mắt tiến sát lồng kính hơn)...Không, không, chắc là mai đấy! Là mai đấy! Ngày mai... chắc chắn ngày mai là mày sẽ được thả ra! Thật đấy!... Tao không biết đâu! Đừng hỏi tao! Tao đi đây!

Và hắn chạy biến.

Về sau, Hideo chỉ thông báo với Tokata về việc máy móc trục trặc, còn toàn bộ cuộc đối thoại ấy, gã ngậm tăm. Hideo linh cảm rằng mình lại làm điều gì đó không phải, và việc nói ra sẽ chỉ thúc đẩy khả năng bị đuổi việc của gã tăng lên. Nhưng, như những tên tội phạm vẫn thường quay trở lại hiện trường gây án, Hideo luôn chú ý dỏng tai lên nghe các mẩu đối thoại bâng quơ của Tokata với đồng nghiệp. Gã biết cậu sếu đỏ trở nên trầm lặng hơn, ủ rũ hơn, ăn kém đi, không buồn giao tiếp với con cái... Cảm giác tội lỗi của Hideo ngày càng tăng lên, về sau hắn tìm cách xin chuyển hẳn sang bộ phận lao công lau dọn nhà vệ sinh, chỉ để né tránh trách nhiệm. Cho đến một ngày Hideo nghe tin chú chim sếu đầu đỏ ấy đã không còn nữa...

- Tôi xin lỗi... Tôi xin lỗi... Xin hãy trừng phạt tôi, mắng chửi tôi... Là tôi đã làm cậu ấy chết... Tôi hối hận lắm...

Cả cơ thể tôi rệu rã sau câu chuyện ấy. Chẳng hiểu sao mà bản thân mình vẫn đứng được.

Tôi không giận Hideo. Không một chút nào. Thật sự.

Nói làm sao để anh ta hiểu rằng lỗi không nằm ở những câu nói ấy? Nói làm sao để anh ta biết, kẻ độc ác nhất thực chất đang đứng trước anh ta đây, người mà anh ta đang gục xuống thốt ra ngàn vạn lần lời xin lỗi?

Không, Hideo ơi, sai lầm duy nhất của anh là đã nói dối quá tệ trước một sự thật đã quá hiển nhiên. Tôi đã dạy Akaso rằng con người có thể dối trá khi cần, và anh, tình cờ thay, lại chứng minh cho điều đó. Biết nói thế nào đây, chỉ trách rằng em ấy là một chú chim quá thông minh.

- Anh còn nói chuyện này với ai nữa không? - Tôi lạnh nhạt hỏi.

- Có... - Anh chàng vẫn sụt sịt, - Với anh, và... với cả anh Tokata nữa. Mãi hôm nay tôi mới đủ can đảm để thú tội với anh ấy. Khi mất đi chú chim này, Tokata đã suy sụp rất nhiều. Vậy mà anh ấy vẫn tha thứ cho tôi... Tokata thật sự rất tốt...

- Thế ra... anh đợi ở đây chỉ để nói với tôi những điều này à?

Thật mệt mỏi biết bao. Tất cả mớ hỗn độn này.

Anh chàng kia lắc đầu.

- Không, không chỉ có vậy. Tokata nhờ tôi gửi cho anh thứ này...

Tới lúc đó anh chàng Hideo mới lùi lại để tôi nhìn rõ vật trên bàn hơn, tới lúc ấy tôi mới nhận ra nó không phải chiếc khay sắt vô hồn lạnh lẽo như buổi sáng nữa. Thay vào đó là một hộp gỗ dài, rất xinh đẹp, nơi đó Akaso tiếp tục nằm nghỉ trong chiếc nệm nhung êm ái.

- Anh ấy nói anh sẽ nhất định sẽ đến và bảo tôi gửi gắm cho anh, cũng như trợ giúp bất kỳ việc gì anh cần. Anh Tokata còn nhờ tôi chuyển một bức thư...

Chỉ là một mẩu giấy nhỏ gấp làm tư, được viết vội vàng chẳng đẹp đẽ gì, trong đó ghi: "Biết ngay là ông sẽ không chịu nghe lời tôi đâu, nhưng lần cuối cùng, tôi giao Akaso cho ông đấy. Hãy thả em ấy đi đi. Good luck!", kèm theo đó là tận mấy hình trái tim méo xẹo.

- Cái thằng... - Tôi bật cười, dù nụ cười cũng méo xệch.

Tôi đã bỏ chiếc đệm nhung mà Tokata đóng cùng, màu xanh rêu cậu ta chọn thật chẳng đẹp chút nào, đúng là trước giờ gu thẩm mỹ của gã vẫn tệ lậu như vậy. Tôi quyết định thay thế nó bằng chiếc khăn xoan màu be mà bản thân đã mua trong một phút bồng bột, chỉ vì cho rằng Akaso quàng sẽ rất hợp. Và nó hợp thật, nhất là khi được quấn xung quanh thân thể trắng toát màu tinh khiết của em. Vuốt ve lần chót đốm lông màu đỏ rực vẫn tràn đầy sức sống, tôi mới yên tâm đóng nắp hòm lại. Lúc đó tôi mới cho phép mình được khóc. Đáng lẽ nên gào thét cho thoả, nhưng tôi không thể phá hỏng giấc ngơi nghỉ của Akaso. Nước mắt không nên rơi trên chuyến đi đầu tiên của em ra thế giới bên ngoài. Nó phải tràn ngập nụ cười, niềm vui và ánh sáng, giống như cái cách em đã đem lại hy vọng cho thế giới này.

Khi tôi chuẩn bị đi, Hideo có đề nghị được trợ giúp cho đỡ nhọc nhằn. Tôi nói bằng này chẳng là gì, tự tôi làm được. Đây là lời hứa của mình tôi với Akaso, tôi sẽ thực hiện cho em ấy.

Đỡ em thật vững chãi trên vai, tôi thì thầm: "Chúng ta đi thôi, Akaso. Rồi anh sẽ đưa em đi ngắm bình minh."

Và chúng tôi nắm tay nhau dấn thân vào cánh rừng đêm thâm trầm, để chờ đợi những tia sáng đầu tiên của ngày mai.

* * * *

VĨ THANH

Cá thể cuối cùng của loài sếu đầu đỏ Nhật Bản ra đi dù đã được đặt bao hy vọng sẽ vực dậy được giống loài quý hiếm này, đó thật sự là một nỗi mất mát lớn. Nhưng họ còn chưa kịp nuối tiếc thì nỗi đau buồn đã bị che khuất bằng cái tin kinh ngạc: Thi thể của chú chim quý giá đã bị đánh cắp, ngay khi người ta còn chưa kịp làm gì. Đa số đoán rằng đây là hành động của những tay buôn lậu, với mục đích bán cho những nhà sưu tập giàu có. Có điều để mất ngay lập tức như thế, trách nhiệm rất lớn thuộc về ban quản lý của Khu bảo tồn Hiyama, nơi tiếp quản chú sếu đầu đỏ. Đồng thời, sự việc này cũng là hồi chuông cảnh tỉnh cho sự canh phòng lỏng lẻo, có cũng như không của các khu bảo tồn thiên nhiên, nơi họ chỉ quan tâm đến nghiên cứu, chăm sóc và phục hồi cho những con thú quý hiếm, chứ hoàn toàn không có kiến thức về bảo mật thông tin.

Nhưng sự việc lại còn kỳ lạ hơn nữa. Chỉ một tuần sau đó, thủ phạm đã ra đầu thú. Và đó lại còn chẳng phải tên buôn lậu sừng sỏ gì cho cam, mà chỉ đơn thuần là một thanh niên tri thức bình thường, nếu không muốn nói là có học vị cao, được học hành tử tế. Anh ta hiện là trợ giảng cho một trường Đại học danh tiếng, đang chuẩn bị để lên học hàm Thạc sĩ. Một người như thế tại sao lại tự hủy đi tương lai của mình để đi ăn cắp thi thể một con chim? Huống chi anh ta lại chẳng để bán cho ai, cũng không lưu trữ, mà đơn giản là đem thiêu sạch! Người ta phát hiện anh chàng từng có một khoảng thời gian ngắn làm việc cho khu bảo tồn Hiyama, lại còn chính là việc liên quan đến chú sếu đầu đỏ quý hiếm, nên đã đặt câu hỏi phải chăng đây là tư thù cá nhân? Liệu có phải vì xung đột bất hoà với ai đó thuộc ban quản lý mà đã gây ra sự vụ này?

Nhưng không, qua lời khai sơ bộ của nhân viên khu bảo tồn, ấn tượng của hầu hết mọi người đều nói rằng anh ta là một thanh niên điềm đạm, tốt tính và hoà nhã. Mà ngay cả bản thân kẻ phạm tội cũng không đưa ra lý do cụ thể, chỉ giải thích đơn giản rằng "mình muốn thế" và không có ai đứng đằng sau giật dây hay xúi giục gì cả. Anh ta hoàn toàn ý thức được việc mình làm, cũng như sẵn sàng chịu mọi trách nhiệm.

Tội lỗi đã quá rõ ràng, tuy nhiên người ta vẫn phải đưa anh ta ra xét xử. Đáng lẽ phiên xử sẽ chỉ lặng lẽ tiến hành cho đủ thủ tục, nhưng không biết từ đâu tuồn tin, cánh nhà báo đã bắt được thông tin về chiếc lồng kính có khả năng chuyển đổi hình ảnh, về khoảng thời gian anh ta coi sóc, dạy dỗ chú sếu đỏ. Họ còn biết được mối quan hệ giữa hai bên cực kỳ thân thiết, gắn bó. Vốn dĩ đang đói khát tin nóng, truyền thông lập tức thêu dệt lên câu chuyện mùi mẫn về "tình người và vật", phỏng đoán lý do cho hành động của anh chàng kia chẳng qua là quá phẫn uất do bị ban quản lý ngăn cản, chia cách hai bên. Họ còn gợi ý phải chăng chú sếu đỏ kia chết là do tuyệt thực vì bị chia cách với người thương... Vậy là, từ một vụ án nhỏ nhặt, cùng lắm chỉ đáng chú ý với người trong ngành, nó bỗng trở thành tâm điểm của cả nước, thậm chí còn thu hút dư luận quốc tế, đặc biệt là từ những người yêu động vật. Diễn biến của phiên xử án chính là tin tức sốt dẻo khiến mọi người bàn tán sôi nổi mà xoay quanh nó là đủ các vấn đề phát sinh: nào là cách đối xử với động vật, nào là thái độ thiếu quan tâm tới sức khoẻ tinh thần của chúng, hay những ý kiến trái chiều về tình cảm giữa người và vật... Cứ thế, vụ án không đơn thuần chỉ là xét xử việc tài sản quốc gia bị đánh cắp nữa mà đã trở thành cuộc chiến phe phái giữa bao nhiêu quan điểm khác nhau: phe ủng hộ, phe phản đối; phe bênh nhà nước, phe bênh cá nhân; phe thuần tự nhiên, phe theo nhân tạo... Rốt cuộc, ban quản lý khu bảo tồn Hiyama phải vất vả giải trình giữa những luồng công kích, chê nhiều hơn khen. Còn anh chàng táo bạo kia, ngược lại được dân tình ủng hộ nhiệt liệt. Người ta viết tâm thư, xin chữ ký đề nghị được giảm án cho anh ta. Thậm chí có người còn cho rằng anh nên được xử trắng án. Và lạ thay, ngay cả những người liên quan thuộc khu bảo tồn, nơi đang chịu búa rìu dư luận vì anh ta, cũng không một lời trách móc, vẫn nói tốt cho kẻ phạm tội. Họ cho rằng anh ta đương nhiên phải chịu trách nhiệm, nhưng vẫn xin quan toà xem xét tình tiết giảm nhẹ. Giữa lúc lưng chừng như thế, phiên xử lại có thêm thông tin mới. Vấn đề là bị cáo nói mình đã thiêu hết toàn bộ nhưng không thể khai ra chỗ đã thiêu. Hơn nữa khi tra hỏi và điều tra sâu hơn về quá trình hành động, câu chuyện tồn tại rất nhiều lỗ hổng. Để phá hủy một con chim lớn mà không để lại chút gì như thế không hề dễ dàng, tuy nhiên cảnh sát không tìm thấy thông tin báo cáo về những đống lửa bất thường trong khoảng thời gian bị cáo phạm tội. Không những thế, một trong những camera giám sát ẩn được gắn rải rác ở khu rừng bảo tồn đã ghi lại hình ảnh một người đàn ông vác trên vai chiếc hộp khá lớn. Cảnh sát nghi ngờ ấy chính là bị cáo, cũng tức là anh ta chưa hề hủy đi thi thể chú chim.

Phát hiện này đã làm thay đổi cục diện vụ án. Bởi khi chưa hủy cũng tức là khu bảo tồn có thể lấy lại tài sản đã mất. Chú sếu đầu đỏ tuy đã chết, nhưng cơ thể ấy còn có thể phục vụ cho khoa học. Vậy nên người ta đã đưa ra một đề nghị, miễn là bị cáo khai ra nơi cất giấu thi thể con chim thì quan toà sẽ xem xét đến việc khoan hồng giảm án.

Họ đã thuyết phục anh ta về khả năng làm lại cuộc đời, về sự ủng hộ và nổi tiếng, về tương lai học hàm học vị đang ở phía trước. Tất cả chỉ cần một câu nói.

Người ta chờ đợi.

Và người ta đã thất vọng.

Bị cáo không hé lấy nửa lời, chấp nhận bản án cao nhất.

Cuối cùng, trước tính nghiêm trọng của vụ việc, liên quan đến tài sản quốc gia cùng sự không hợp tác của bị cáo, toà tuyên án năm năm tù.

Rồi cũng như bao câu chuyện khác, sóng sau xô sóng trước, vụ án từng sôi nổi đến thế cũng nhanh chóng bị chìm đi trước bao nhiêu tin tức nóng hổi hơn. Nó chỉ thỉnh thoảng được nhắc lại bâng quơ qua vài mẩu đối thoại vặt vãnh trong giới khoa học, mỗi khi có điều gì gợi nhắc đến. Họ gọi nó là "trường hợp của Yamada", trở thành bài học cấm kỵ khi tiếp xúc với động vật. Còn dự án chuyển đổi hình ảnh động vật thành dạng người kia cũng đã bị gác lại, không còn ai đề cập đến nữa, do những hệ lụy và thiếu tính khả thi.

Mọi thứ lại quay về vận hành bình thường. Tương lai của một chàng trai trẻ triển vọng đã bị lãng quên theo trí nhớ của người đời...

Ngày nay, nếu có dịp được đến thăm khu bảo tồn tự nhiên Hiyama ở Hokkaido, người ta sẽ thường ấn tượng với một anh nhân viên hướng dẫn rất đẹp trai, hoạt ngôn và vui vẻ, với gương mặt khiến người ta hình dung đến một loài chim lớn. Và anh ta cũng có vốn kiến thức rất uyên bác về các loài chim, có thể kể vanh vách tên con chim thuộc loài gì, giống nào dù chỉ kịp nhìn lướt qua. Sự cuồng nhiệt của anh ta với chim chóc còn thể hiện ở ngực áo luôn luôn cài chặt một chiếc lông vũ màu trắng ngà, mà mỗi khi được hỏi đấy là của loài chim gì, anh đều nháy mắt cười: "Bí mật!"

Dường như tất cả nhân viên đều quý mến và hiểu rõ anh ta. Người đàn ông ấy chẳng ngại ngần một công việc gì, kể cả tăng ca đến tận tối muộn, mà cũng chẳng bao giờ đòi hỏi việc thăng chức, tăng lương. Anh ta chỉ xin ban quản lý một ngoại lệ duy nhất. Đó là hãy cho anh hai thời điểm trong ngày được dành riêng cho mình, đừng tìm cũng đừng giao việc. Nếu được thì anh ta sẵn sàng làm việc cả giờ nghỉ trưa để bù lại.

Nhưng không ai nỡ hành hạ người đàn ông tốt tính ấy. Huống chi thời điểm mà anh xin phép, vốn cũng chẳng ảnh hưởng gì đến hoạt động của khu bảo tồn. Đó là lúc bình minh và khi hoàng hôn.

Khi được hỏi suy nghĩ về đề nghị kỳ lạ này, phó giám đốc khu bảo tồn - anh Tokata chỉ bình luận: "Chúng tôi không can thiệp vào việc riêng của nhân viên, miễn người ta vẫn làm việc tốt là được."

Vậy trong hai thời điểm ấy, anh chàng yêu chim chóc kia đi đâu?

Chẳng có gì bí mật cả, anh ta chỉ đơn giản ra khu đầm nước lớn nhất của khu bảo tồn, ngồi đấy lặng lẽ hút thuốc ngắm Mặt trời lên rồi xuống. Đó thực là một cảnh đẹp, nhưng thật khó hiểu điều gì đã khiến anh cần mẫn thực hiện thói quen ấy, cả khi mưa lẫn khi nắng, cả khi đông lẫn khi hè, không một ngày nghỉ.

Chỉ bởi một lời hứa.

Sẽ không ai trên thế giới này hiểu điều anh đã hiểu, thấy điều anh đã thấy.

Họ làm sao mường tượng nổi cảnh huy hoàng rực rỡ mà anh vẫn thường ngắm, với điệu vũ tuyệt đẹp của cánh chim trắng ngần, nơi nó được tung bay giữa ban mai màu đỏ hồng.

Nơi ấy em đã được tự do.

- Hết -

(Truyện chỉ đăng trên wattpad và trang Archiveofourown.org, mọi nơi khác đều ngoài ý muốn của tác giả)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top