Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

dmbk4 end

Chương 31:  Sông đào quanh thành

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Rơi xuống đất được vài phút, tôi chìm vào cơn hôn mê, đầu óc không thể nhận biết đã xảy ra chuyện gì, cũng không rõ mình còn sống hay đã chết. Sau đó một thứ chất lỏng cay nồng từ yết hầu phun ra, chảy ngược vào khí quản khiến tôi ho khù khụ, máu từ lỗ mũi tuôn ra như suối, chảy xuống tận cằm.

Ước chừng phải mất thời gian tàn nửa điếu thuốc, tôi mới dần dần tỉnh lại, tri giác lần lượt quay về với cơ thể. Tôi run rẩy ngồi dậy, xung quanh tối đen như mực, chẳng nhìn thấy gì cả. Sờ lên mặt đất chỉ thấy đá tảng và cát khô, dưới đáy con sông đào này thì ra đã cạn nước, cũng may mấy tảng đá dưới đây khá bằng phẳng, gồ ghề thêm tí nữa thì tôi không ngã chết cũng dập người mà chết.

Mặt nạ phòng độc gần như đã nứt ra, mắt kính vỡ nát. Tôi sờ sờ một chút, phát hiện mặt nạ đã móp méo, lại sờ ra đằng trước, phát hiện trước mặt mình là một tảng đá rất sắc nhọn. May nhờ mặt nạ này bảo vệ, mặt tôi mới không bị cày nát, có điều lần này mặt nạ coi như vứt đi rồi.

Tôi vất vả giật cái móc sau đầu, cẩn thận cởi mặt nạ ra. Mới cầm lên tay mà mặt nạ đã nứt ra làm bốn mảnh, thế là hỏng hoàn toàn rồi.

Không còn mặt nạ, mùi lưu huỳnh trong không khí càng trở nên nồng nặc, nhưng hít vào mấy hơi cũng không quá khó chịu, xem ra Phan Tử nói khí độc nơi này rất ghê gớm cũng không đúng lắm. Hoặc cũng có thể dưới đáy con sông đào này, không khí vẫn chưa nhiễm độc quá nặng. Tôi chửi thầm trong bụng, ném mặt nạ xuống đất, nhổ máu trong miệng ra rồi ngẩng đầu nhìn lên.

Con sông đào này sâu dễ đến mười thước, bên trên là một khoảng mịt mờ, chỉ thấy ánh đèn pin của đám Bàn Tử từ trên cao chiếu xuống, lia khắp xung quanh, hình như đang tìm kiếm tôi. Tôi còn nghe một vài tiếng kêu, nhưng không biết có phải vì ngã xuống đây hay không mà tai vẫn còn ong ong, không nghe ra bọn họ đang nói gì.

Tôi thử ra sức kêu lên vài tiếng, nhưng vừa vận khí, cơn đau đến tê liệt đã lan từ lồng ngực ra xung quanh, âm thanh phát ra lập tức biến thành tiếng rên rỉ. Đến chính tôi cũng không hiểu mình đang nói gì, thậm chí còn không biết mình rốt cuộc có phát ra âm thanh hay không.

Để báo cho đám người Bàn Tử biết mình còn sống, tôi nhặt cái mặt nạ phòng độc vứt lăn lóc dưới đất lên, ra sức đập mạnh xuống mặt đất, phát ra âm thanh ‘ bịch bịch bịch’. Âm thanh không lớn nhưng vang lên dưới lòng sông yên ắng lại dội ngược trở về, nghe cực kì rõ ràng.

Gõ được một lát thì đột nhiên có cây pháo lạnh từ trên ném xuống, rơi ngay sát sườn. Tôi chửi một tiếng, nghiêng người né tránh, sau đó nhìn thấy phía trên có một mặt người ló ra khỏi đoạn cầu gãy thăm dò, xem kích cỡ cái đầu thì có vẻ là Bàn Tử.

Tôi bò đến gần cây pháo lạnh, nhặt nó lên lên khua khua trước mặt hắn. Bàn Tử lập tức trông thấy, bèn hét to một tiếng. Nhưng tôi vẫn chẳng nghe ra hắn nói gì, đành phát ra vài âm thanh vô nghĩa. Bàn Tử rụt đầu trở về, lát sau đã có sợi dây thừng được ném ra, đung đưa buông xuống tận đáy sông, Bàn Tử lưng đeo súng trường bắt đầu leo xuống.

Độ cao hơn mười thước ngang ngang tòa nhà bốn, năm tầng, bảo cao không cao, bảo thấp cũng chẳng phải thấp. Bàn Tử thoáng cái đã trượt xuống tới đáy, vừa buông dây thừng đã nâng súng xoay bốn phía, thấy không có động tĩnh gì mới chạy tới chỗ tôi, ngồi xổm xuống hỏi: “Mẹ kiếp, cậu không sao chứ?”

Tôi dùng giọng khàn khàn, uể oải nói: “Không sao hả? Anh thử ngã một lần xem?”

Bàn Tử thấy tôi vẫn còn sức để nói đùa thì thở phảo nhẹ nhõm, quay mặt lên trên huýt gió một tiếng, tức thì Thuận Tử và Phan Tử lưng đeo trang bị cũng leo xuống.

Bọn họ nâng tôi dậy, đầu tiên dìu tôi đến dựa vào một tảng đá, sau đó Thuận Tử đè chặt tôi, lấy túi thuốc, kiểm tra thân thể tôi một lượt.

Tôi nhìn thấy túi thuốc, trong lòng cũng an tâm đôi chút, thầm nghĩ may mà chuẩn bị đầy đủ. Phan Tử kiểm tra thấy tôi không bị gãy xương, bèn lấy ra một ít băng vài, giúp tôi băng bó miệng vết thương khá lớn, sau đó mắng: “Bảo cậu dừng mà cậu vẫn cố nhảy. May mà mạng cậu lớn, bằng không lỡ cậu chết thì tôi biết ăn nói thế nào với ông Ba đây?”

Tôi nghe vậy thì giận dữ mắng: “Anh còn nói à? Lúc ấy tôi đã lơ lửng giữa không trung anh mới kêu dừng lại. Bà nội nó chứ đây có phải cái băng ghi hình đâu mà đòi tua ngược lại được…….” còn chưa nói xong thì ngực đã nhói một trận, người đau đến vặn vẹo cả lên.

Phan Tử thấy thế lại càng hoảng sợ, luống cuống đè tôi lại, khiến tôi không thể nhúc nhích. Tôi nghiến răng nghiến lợi, còn muốn mắng anh thêm vài câu nhưng thực sự là đau muốn chết, muốn mở miệng cũng không nổi, chỉ đành ngồi yên thở dốc.

Bàn Tử đứng cạnh đưa cho tôi bình nước, nói: “Cậu cũng lớn mạng đấy, rơi từ tít trên kia xuống, bên dưới lại toàn đá tảng, người thường rơi xuống chắc chắn không chết cũng tàn phế.”

Tôi nhận bình nước, thầm nhủ đây gọi là số con rệp mới đúng. Vừa rồi chắc chắn là nhờ đụng vào hai sợi xích kia mới khỏi chết, cũng không biết là may mắn hay xui xẻo nữa. Gần đây tôi luôn gặp chuyện rơi từ trên cao xuống như thế này, nhưng đều không chết, thật đúng là mạng lớn.

Uống vào mấy ngụm nước, máu trong miệng đã trôi xuống, yết hầu cũng dễ chịu hơn một chút, tôi liền hỏi Phan Tử thứ vừa rồi rốt cuộc là cái giống gì. Anh nói lần này bọn họ đã nhìn rõ ràng, đó nhất định là một con quái điểu với cái đầu rất lớn, cao bằng đầu người. Tiếc là bắn không trúng, bằng không có thể xem nó rốt cuộc là cái giống gì rồi.

Bàn Tử nói: “Con mẹ nó, đúng là tà dị. Cái mặt người tôi nhìn thấy ở thần đạo có thể chính là thứ này. Đầu người mình chim, mà cũng có thể là cú mèo.”

Thuận Tử nhìn lên trên, nói: “Quái lạ, đám quái điểu kia hình như không bay xuống đây.”

Tôi cũng nhìn lên đỉnh đầu, quả thật cái áp lực vô hình vừa nãy đã biến mất, cũng không có thứ gì lao xuống đây nữa.

“Hay là dưới này có gì kỳ quặc nên chúng không dám xuống?”

Phan Tử cũng hơi hơi do dự, Bàn Tử nói: “Thế này đi, giờ chúng tôi đi vòng quanh xem xét trước đã, nếu chỗ này có vẻ có vấn đề thì chúng ta sẽ lập tức leo lên. Mọi người cứ đứng ở đây, còn Tiểu Ngô hãy nghỉ ngơi một lát đi.”

Tôi gật đầu. Phan Tử nói với Bàn Tử, tôi với cậu đi, rồi hai người đi về hai hướng.

Chẳng mấy chốc, từ hướng Bàn Tử đang tìm kiếm bỗng có tiếng hô, hình như đã phát hiện ra thứ gì.

Phan Tử giương súng, nhìn theo hướng Bàn Tử, chỉ thấy Bàn Tử đã đi một đoạn rất xa qua chiếc cầu, ánh đèn pin cũng trở nên mơ hồ. Trong quầng sáng đèn pin của hắn, chúng tôi thấy sau lưng hắn có một mảng bóng đen rất lớn, tựa như có vô số người đứng trong bóng tối đằng xa. Những cái bóng kia trộn lẫn vào nhau thành một mảng, không đếm nổi rốt cuộc là có bao nhiêu.

Chúng tôi đều bắt đầu cảnh giác. ‘Rắc” một tiếng, Phan Tử đã mở chốt an toàn khẩu súng, Thuận Tử cũng rút dao săn. Phan Tử  hỏi Bàn Tử: “Có chuyện gì thế? Kia là cái gì?”

Bàn Tử ở bên kia cũng kêu to: “Các người lại đây nhìn thì biết.”

Theo ước tính của chúng tôi khi đứng trên cầu thì con sông đào này phải rộng đến sáu mươi mét, cả chiều rộng lẫn chiều dài đều rất lớn. Nếu xét theo chiều rộng lòng sông, chỗ Bàn Tử đang đứng cũng không xa chúng tôi lắm, nhưng vì bốn phía là một màu đen đặc nên chúng tôi cơ bản không nhìn rõ vật thể mà đèn pin của hắn chiếu đến. Nhưng nghe giọng điệu của Bàn Tử thì có vẻ chỗ đó cũng không nguy hiểm.

Thuận Tử liếc nhìn tôi, hỏi tôi có đi nổi không, có muốn qua đó xem không? Tôi gật đầu, hắn liền dìu tôi đứng lên, đi khập khiễng tới chỗ Bàn Tử.

Dưới đáy con sông đào này toàn là những tảng đá đen gồ ghề, một vài tảng có kích thước khiến người ta phải phát hoảng, nhìn qua đủ biết vào thời điểm xây dựng, đây nhất định là một công trình vĩ đại. Mảng bóng đen to lớn dưới ánh đèn pin của Bàn Tử nằm ngay bên dưới trụ cầu.

Đánh vật một hồi để đến chỗ Bàn Tử, những cái bóng kia cũng rõ ràng hơn. Tôi lại gần, lấy đèn pin trong tay Bàn Tử chiếu tới, mới nhìn rõ thứ đó là gì.

Nơi Bàn Tử đang đứng, giữa lòng sông xuất hiện một vết đứt gãy lớn, bên dưới vết nứt này là một con rạch sâu chừng một mét. Rạch này rộng khoảng hai mươi mét, trong rạch là vô số tượng người, ngựa cổ đại màu đen, xen lẫn với mảnh vỡ xe ngựa thanh đồng sắp xếp ngay ngắn, liên miên không dứt. Nhìn kĩ vài pho tượng sẽ phát hiện bề ngoài đã bị ăn mòn nghiêm trọng, đường nét gương mặt không rõ, ngũ quan đã không thể phân biệt. Rất nhiều tượng còn cầm đồ đồng đã lốm đốm những vết hoen gỉ màu xanh.

Những bức tượng người này đa phần là đứng thẳng, sắp xếp rất dày, nhiều tượng đã vỡ vụn, ngã xiêu ngã vẹo thành một đống. Đứng ở chỗ tôi nhìn xuống, trong phạm vi quầng sáng, nhìn hút mắt cũng chỉ thấy những vật như thế này. Một mảng bóng đen rộng lớn âm trầm nằm bên dưới hoàng lăng, nhìn thoáng qua khiến người ta không khỏi rợn tóc gáy.

“Những thứ này là gì vậy?” Thuận Tử lần đầu tiên nhìn thấy, trợn mắt há mồm vì kinh ngạc.

“Cái này hình như là tượng tuẫn táng, còn kia là tượng xe ngựa, biểu trưng cho đội ngũ đón khách hoặc tống tiễn đế vương xuất hành……..” Tôi lắp bắp nói “Quái, ở đây sao lại có mấy thứ này? Đáng ra phải đặt dưới huyền cung hoặc trong hố bồi táng mới đúng chứ?”

Bàn Tử biết mấy thứ này, cũng nhận ra điểm kì quái. Đây là hoàng lăng, không phải nơi để đùa giỡn. Số lượng vật phẩm đặt trong huyền cung và cách bài trí đồ tuẫn táng trong hố tuẫn táng đều tuân theo quy tắc nhất định, không thể tùy tiện như lăng mộ của quý tộc hoàng gia bình thường. Hoàng lăng coi trọng thứ nhất là khí, thứ hai là thế, đem đồ tuẫn táng chất đống ngoài trời có khác nào trên một khối bạch ngọc thượng đẳng lại lỗ chỗ mấy vết răng chuột, là điều tối kị trong tối kị, vào thời đó nếu để hoàng đế biết được chắc chắn sẽ bị tịch thu gia sản. Tuy lúc ấy Đông Hạ chỉ là một tiểu quốc bí ẩn nằm ven biên giới, nhưng nếu người xây lăng mộ là Uông Tàng Hải danh tiếng lẫy lừng thì chắc chắn không thể phạm phải một sai lầm ngớ ngẩn như vậy được.

Bàn Tử leo xuống con rạch, một tay giương súng đề phòng, một tay cầm đèn pin chiếu vào một bức tượng không đầu, nói với tôi: “Nhìn phục sức thì hình như là thời Nguyên, là trang phục của dân tộc thiểu số.” Nói rồi định với tay chạm vào.

Tôi nhắc nhở hắn: “Đừng có sờ lung tung, thứ này có vẻ thần bí, đặt ở đây không chừng có gì kì quặc.”

Bàn Tử cãi lại: “Sợ quái gì, chẳng lẽ mấy thứ này có thể sống lại?” Nhưng lời tôi nói vẫn có tác dụng, hắn rụt tay về, đeo súng lên vai. Một tay cầm chắc đèn pin, một tay rút con dao săn trên thắt lưng, dùng sức chọc chọc vài cái vào bức tượng. Bức tượng hình người không hề có phản ứng, hắn bèn quay đầu lại nói: “Hàng thật đúng giá, là tượng đá hình người.”

Phan Tử thấy vậy bắt đầu tò mò, cũng leo xuống con lạch, lại gần Bàn Tử. Tôi vẫn cảm thấy lo lắng, nói: “Các anh cẩn thận một chút.”

Bàn Tử khoát tay, tỏ ý biết rồi khổ lắm nói mãi. Hắn nhét dao săn trở vào bao da, thử nâng bức tượng gần nhất, hỏi: “Tiểu Ngô, cậu là dân nhà nghề, thử nói xem thứ này có đáng tiền không?”

Tôi gật đầu, cho hắn biết: “Thứ này trông cũng khá, không cần phải hoàn chỉnh, chỉ có một phần cũng đầy người muốn mua. Tôi biết đầu một tượng binh mã có giá đến 200 vạn, nữa là còn nguyên vẹn. Mà tượng ngựa còn hiếm hơn tượng người nên càng quý, giá cả chắc chắn không tệ.”

Bàn Tử tiếc rẻ nhìn quanh bốn phía, tỏ vẻ vô cùng đau xót, nói: “Đáng tiếc, đáng tiếc, thứ này lại khó mang theo.”

Trong lòng tôi vẫn thấy kì quặc, mấy thứ này thực sự không nên xuất hiện ở đây. Người ta thường nói, đằng sau mỗi món đồ trong cổ mộ đều là cả một câu chuyện. Mấy thứ này đặt ở đây hẳn phải có ý nghĩa gì, hoặc để kể lại một câu chuyện, vậy rốt cuộc người thiết kế lúc ấy có dụng ý gì đây?

Chiếu theo khoảng cách hai bên bờ sông, con rạch chứa những bức tượng này nằm chính giữa và cũng là nơi sâu nhất của con sông đào. Vào thời điểm hoàng lăng mới xây xong, mấy thứ này hẳn là đều chìm dưới mặt nước, mà gương mặt nhạt nhòa của những bức tượng người cũng là bằng chứng cho thấy chúng bị ngâm trong nước một thời gian dài. Nói cách khác, khi hoàng lăng đã xây dựng xong, người đứng bên trên không thể biết đến sự tồn tại của những vật này.

Đặt những bức tượng này ở đây là có ý gì? Chẳng lẽ đây là những phế liệu xây dựng, những bức tượng thứ phẩm, thợ xây lười vác ra nên mới nhấn chìm những thứ rác rưởi này dưới lòng sông đào? Cũng không phải, sắp xếp ngay ngắn như vậy, không giống với cách chất đống phế liệu.

Đúng là không thể phỏng đoán tâm tư của cổ nhân, trong lòng tôi thầm than thở. Nếu tôi không ngã xuống đây thì đứng trên cầu không thể nhìn thấy những vật bên dưới, cũng coi như là có duyên. Phải chăng ông trời muốn chỉ cho tôi thấy điều gì chăng?

Đúng lúc này, Bàn Tử kêu lên một tiếng, nói: “Các người có phát hiện ra không, tất cả những bức tượng ở đây đều hướng mặt về một phía, động tác như đang đi, nhìn rất khác những bức tượng được rao bán trên chợ đồ cổ.”

Tôi vốn không để ý, nhưng nghe Bàn Tử nói, tôi cũng nhìn lại một lần theo hướng hắn nghĩ thì thấy quả đúng là như thế.

Xưa nay tượng bồi táng được xếp quay về một phía vốn là chuyện thường tình, tôi cũng chưa thấy ở đâu sắp đặt mỗi tượng quay một phương loạn xà ngầu lên. Nhưng Bàn Tử nói đến động tác như đang đi lại rất kì, quả thực tôi chưa từng thấy. Tôi cầm đèn pin cẩn thận chiếu xuống chân mấy bức tượng, đột nhiên trào lên cảm giác kì quái.

“Những người này….” Tôi nhíu mày nói: “Hình như đang hành quân.”

“Hành quân?” Phan Tử nhìn tôi hỏi lại.

Tôi gật gật đầu: “Nhìn cách ăn mặc của người ngồi trên xe ngựa kia xem, đây là đội ngũ hộ tống cho đế vương xuất hành. Cậu xem mấy con ngựa này, mấy cỗ xe này, động tác của những người này nữa, bọn họ đều đi về cùng một hướng. Những bức tượng được sắp xếp như vậy, động tác của bọn họ dường như muốn biểu thị một tình huống nào đó.”

Chúng tôi đều nhìn về hướng đội quân tượng tiến đến, chỉ thấy những bức tượng quỷ dị này xếp thành một hàng dài, mất hút vào bóng đêm sâu thẳm trong lòng con sông đào, không thể nhìn thấy đích đến của chúng ở đâu.

Chương 32:  Rạch tuẫn táng

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Nếu không bị thương, có thể tôi đã đề nghị mọi người đi xem thử; nhưng nhìn phía xa chìm trong bóng tối đặc quánh, mấy lời này lập tức nuốt xuống bụng. Bàn Tử không cảm nhận được nỗi sợ của tôi, vẫn hỏi: “Cậu nói có lý, vậy mấy thứ này dẫn tới nơi nào? Hay chúng ta cứ đi xem thử, dù sao con sông này cũng không dài lắm.”

Phan Tử lập tức lắc đầu phản đối: “Chúng ta không thể trì hoãn thêm nữa. Cậu Ba đang bị thương, nếu xảy ra chuyện gì thì chạy cũng không nổi. Chúng ta đừng có tốn thời gian ở đây nữa, ông Ba phái người chuyển lời, chúng ta còn chưa hiểu nó có ý gì kìa. Mua rắc rối vào người, không bằng nhân dịp này suy ngẫm thật kĩ xem ông Ba muốn nói cửa vào địa cung rốt cuộc ở đâu, vừa hay lũ quái điểu kia không bay được xuống dưới này.”

Lời này nói trúng ý tôi, tôi lập tức gật gật đầu, sau đó ho khan vài tiếng, ra vẻ mình bị thương nặng lắm. Thuận Tử không tỏ thái độ gì, còn Bàn Tử thấy chúng tôi như vậy thì không khỏi hậm hực, nhún vai nói “Thôi được rồi.”

Thuận Tử kéo bọn họ lên khỏi con rạch, mọi người cùng quay trở về chỗ tôi vừa ngã xuống. Phan Tử lấy trong ba lô ra một cái đèn bão, châm lên cho chúng tôi sưởi ấm. Tôi nhẩm tính, từ lúc đi đến đây chúng tôi đã một ngày chưa có gì bỏ bụng, dạ dày đã bắt đầu réo lên ùng ục. Vì thế, bốn người chúng tôi ngồi xuống cùng ăn chút lương khô.

Đến khi mở hành lý ra, chúng tôi mới phát hiện phần lớn lương khô của mình đều để lại trong ba lô của đám người Trần Bì A Tứ. Số lương thực chúng tôi mang trên người rõ ràng là không đủ, nhất là Bàn Tử, từ khi xuống đây hắn vẫn chưa có gì bỏ bụng. Nhưng gần như tất cả trang bị đều nằm trong tay chúng tôi: dây thừng, móc câu, ngòi nổ,… và rất nhiều vật dụng thám hiểm khác.

Phan Tử xem xét một hồi rồi nói với chúng tôi: “Xem ra Trần Bì A Tứ lúc phân phối trang bị cho chúng ta đã có ý sắp đặt trước. Toàn bộ trang bị đều nằm trên lưng chúng ta, lương thực thì ở chỗ bọn họ, như thế hai bên phải phụ thuộc lẫn nhau, không ai có thể chạy trốn một mình. Cái chiêu này tôi thực không chú ý tới.”

Bàn Tử cười nhạo: “Anh thì chú ý đến cái qué gì. May là tôi cũng chẳng trông cậy vào anh với ông Ba nhà các anh. Mỗi lần đụng vào mấy người là tôi lại mua đắt bán lỗ, lúc ở trên xe lửa tôi đã đoán trước sẽ có ngày này mà.”

Phan Tử cũng phun ra một tràng: “Mẹ kiếp anh cũng bơn bớt nói móc đi nhá, nhìn lại mình xem có tốt đẹp hơn ai, anh không kéo chúng tôi vào rắc rối tôi đã phải cảm tạ Phật tổ rồi.”

Thuận Tử sợ bọn họ lại gây gổ cãi nhau, bèn vội vàng nói: “Các vị, thừa hơi thừa sức cãi nhau chi bằng mau ngẫm xem lời nhắn của ông Ba là có ý gì?”

Tôi cũng vỗ vỗ Phan Tử một cái để hắn đừng nổi cáu, rồi quay sang hỏi Thuận Tử: “Hoàn cảnh chú Ba tôi tới tìm anh là như thế nào? Nếu anh không kể chi tiết lại cho chúng tôi thì câu nói kia quả là quá mơ hồ. Chúng ta còn chưa đặt chân vào hoàng lăng, thật không biết nên nghĩ theo hướng nào.”

Nghe tôi hỏi thế, Bàn Tử và Phan Tử cũng đã bình tĩnh lại, đồng loạt nhìn về phía Thuận Tử.

Thuận Tử ngồi xuống, khẽ nhíu mày: “Khoảng một tháng trước, tôi cũng dẫn khách lên núi như thường lệ, đương nhiên đoàn khách này không lợi hại như nhóm các vị, chỉ đi lòng vòng ngắm nhìn núi tuyết một chút thôi. Chú Ba các cậu trà trộn vào giữa đoàn khách ấy, lúc qua đêm trên núi, ông ấy bỗng dưng gọi tôi ra ngoài, thần thần bí bí, nói bây giờ ông ấy phải đi lên núi tuyết một mình, bảo tôi đừng nói với bất kì ai. Sau đó ổng cho tôi ít tiền, bảo tôi đại khái là trong thời gian này hãy ở dưới chân núi chờ một người tên Ngô Tà, sau đó lại dẫn các vị lên núi, chỉ cần đưa nhóm các vị đến trước mặt ông thì sẽ cho tôi một số tiền lớn. Sau đó ông ta bảo tôi nhắn lại cho cậu mấy lời vừa rồi, còn nhấn mạnh rằng chỉ cần là ‘cậu’ thì nghe xong lập tức sẽ hiểu.”

“Chú ấy thật sự đã nói như vậy sao?” Tôi hỏi.

Thuận Tử gật gật đầu, vẻ mặt chắc như đinh đóng cột.

Tôi cảm thấy có điều kỳ quái, lời này có vẻ nhấn mạnh vào người nghe mà không phải nội dung câu nói. Chỉ cần là ‘tôi’ nghe xong lập tức sẽ hiểu, chẳng lẽ trên người tôi có phẩm chất đặc biệt nào đó khác hẳn với những người còn lại?

“Vậy làm sao anh biết tách Trần Bì A Tứ ra trước rồi mới nói cho chúng tôi mấy thứ này?” Bàn Tử hỏi.

Thuận Tử cười hì hì, lộ ra nét mặt hoàn toàn khác trước, nói: “Tôi cũng đâu phải thằng ngốc. Chú Ba đã cho tôi biết số người các cậu, còn nói nếu số người không khớp thì chỉ có thể nói lại cho một mình cậu nghe. Tôi vừa thấy nhóm các cậu đã có cảm giác bầu không khí trong nhóm hơi bất thường, cứ như có hai nhóm người đi chung với nhau. Lúc ấy tôi lại không biết các cậu muốn làm gì, đành phải giả ngu mà quan sát. Dù sao tôi cũng đã nhận tiền của người ta rồi, nếu làm không tốt khiến các cậu lỡ việc cũng không hay.”

Tôi nhìn nét mặt của Thuận Tử, cảm thấy có gì đó xảo trá, trong lòng nổi lên cảm giác khó chịu. Thầm nghĩ thì ra từ lúc bắt đầu lên núi, cái vẻ ngoài thật thà phúc hậu của hắn đều là giả bộ? Ai da, đúng là không thể xem mặt mà bắt hình dong. Bảo sao càng đi hắn ta lại càng điềm tĩnh, thì ra đây mới là bộ mặt thật của hắn.

Phan Tử là người từng trải, lúc này mới trầm ngâm nói: “Không thể đơn giản như vậy, tôi thấy hình như anh còn biết chuyện gì khác nữa?”

Thuận Tử cười đầy ẩn ý: “Trước khi xuất ngũ, đơn vị của tôi đã đóng quân ở chính nơi này. Tôi đã leo lên không biết bao nhiêu ngọn núi tuyết, cha mẹ tôi là người Triều Tiên sinh sống lâu đời ở vùng này. Vào năm 718 loạn lạc, tổ tiên tôi từ Bắc Triều Tiên chạy đến đây, trốn sâu trong núi đã nhiều năm. Trong núi này, thời xưa có vô số truyền thuyết, chúng tôi cũng từng gặp nhiều chuyện lạ. Hàng năm có không biết bao nhiêu người mang đủ thứ mục đích lạ lùng lên núi, anh cứ nói tôi chẳng biết gì chứ thực ra tôi vẫn hiểu được lờ mờ, cho nên vừa thấy các người nhắm đến ngọn núi này, tôi đã đoán ngay ra các người muốn làm gì.” Hắn dừng lại một chặp, liếc tôi một cái, ý vị sâu xa: “Nếu không có chú Ba các người dặn dò, lúc ở sườn núi tuyết lở kia, tôi đã cương quyết không cho các người đi tiếp nữa.”

Phan Tử nhìn tôi, lại nhìn Bàn Tử, không biết phải nói gì.

Ngây người một lúc, Phan Tử rút một điếu thuốc, đưa cho Thuận Tử: “Thuận ca, chúng tôi có mắt như mù. Chúng ta bây giờ đã là người một nhà, mời anh một điếu.”

Thuận Tử không nhận điếu thuốc, ngẩng đầu nói: “Tôi là người thực tế, đừng nói mấy lời vô nghĩa. Tôi giúp các người không phải vì yêu quý gì các người, mà chỉ vì tiền thôi. Chú Ba các người đã đồng ý trả cho tôi một số tiền lớn, đủ cho tôi dùng đến hai đời, cho nên tôi nhất định phải đưa được nhóm các người tới trước mặt ông ấy. Các người mau nghĩ ra ẩn ý trong câu nói kia đi.”

Phan Tử bẽ mặt, đành đưa điếu thuốc lên miệng mình, nhìn tôi cười khổ.

Tôi hỏi Thuận Tử: “Vậy anh hãy nhắc lại nguyên văn lời của chú Ba lúc đó cho tôi nghe đi.”

Thuận Tử hồi tưởng, nói: “Lúc ấy hình như ông ta nói thế này: ‘Chờ Ngô Tà tới rồi, anh hãy nói cho nó biết cửa vào của địa cung nằm ở ‘Huyền Vũ cự thi’. Sau đó tôi hỏi ông ta câu này có ý gì, ông ta bảo chỉ cần nhắc lại y như vậy, nếu là cậu thì chắc chắn sẽ hiểu.”

“Vẫn như cũ” Tôi thở dài một tiếng, nghĩ bụng nghe cả câu thì mấu chốt vẫn là ‘tôi’, nhưng mấy lời rõ ràng là tôi cóc hiểu gì cả. Mẹ kiếp, chú Ba sao tự nhiên lại tin tưởng tôi thế này? Đây không phải là hại tôi sao?

Mấy người kia đều nhìn chằm chằm vào tôi, trong mắt lộ ra vẻ tha thiết. Tôi lắc lắc đầu, thở dài một tiếng.

Bàn Tử thấy tôi không nghĩ ra, bèn hỏi: “Hay gợi ý này có liên quan tới chuyện nào đó từng xảy ra trong nhà cậu? Chuyện gì mà chỉ có người Ngô gia các cậu mới biết ấy?”

“Không có chuyện đó đâu.” Tôi nói: “Tôi hiểu tính chú Ba, ổng sẽ không dùng một ám hiệu quá mức phức tạp như thế, rồi để cho chúng ta phải suy đoán. Nếu ổng để cho Thuận Tử truyền lời, thì ý tứ trong những lời đó chắc chắn sẽ cực kì rõ ràng. Nhất định là có lối rẽ trong tư duy, chúng ta đã suy đoán nhầm hướng mất rồi.”

“Nhưng ông Ba chỉ nói ‘cậu’ vừa nghe là hiểu liền, chứ không nói ‘chúng ta’ vừa nghe đã hiểu, vậy đó chắc chắn phải là một ám hiệu liên quan đến những điểm chung giữa hai người.” Phan Tử nói: “Chi bằng thử nghĩ lại xem cậu và ông Ba có những điểm nào giống nhau.”

Tôi cảm thấy cách này không có tác dụng là mấy, nhưng giờ đã cùng đường rồi, đành xòe ngón tay ra đếm. Điểm giống nhau giữa tôi và chú Ba sao? Thực ra cũng không nhiều lắm. Nhưng chỉ có tôi và chú Ba nên phải loại trừ đám người Phan Tử ra, ví dụ nếu nói tất cả mọi người đều là đàn ông thì Phan Tử cũng là đàn ông, vậy không tính. Nếu nói chúng tôi đều họ Ngô thì cũng tính là một điểm chung nhưng cái đó và ám hiệu kia chắc không liên quan gì.

Còn một điểm nữa là tôi và ổng thấy gái đều tớn mắt lên

*cái đồ khẩu thị tâm phi =~=*

, tuy nhiên cái này cũng hơi mơ hồ, bởi có đánh chết ổng cũng không chịu thừa nhận. Ngoại trừ mấy điểm này, tính ra chỉ còn một điểm giống nhau là tôi và ổng đều ở Hàng Châu, hiện giờ địa bàn sinh sống chủ yếu cũng là Hàng Châu.

Khoan đã! Tôi vừa nghĩ đến điểm này, tự dưng giật mình, giống như trong đầu vừa nảy sinh thứ gì đó. Một mối dây liên tưởng đột nhiên hiện ra trong đầu tôi –

‘Huyền Vũ cự thi’ – ám hiệu của chú Ba – Hàng Châu – ‘tôi’ nhất định có thể hiểu được –

Tôi đột nhiên bừng tỉnh. Bốn chữ kia, thì ra là có ý này!

Chương 33:  Ám hiệu nhàm chán

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

‘Huyền Vũ cự thi’. ‘Huyền Vũ cự thi’ chó chết!

Nghĩ thông rồi, tôi thấy tất cả mọi thứ đều sáng tỏ, không kìm được mà cười phá lên. Đây hoàn toàn là hiểu lầm, bốn chữ mà chú Ba nói căn bản không phải bốn chữ này, chẳng qua những quan niệm trong Táng kinh đã ăn sâu bám rễ trong đầu chúng tôi nên vừa nghe phát âm bốn chữ gần giống thế đã đinh ninh chính là nó. Hơn nữa đúng như tôi đã đoán từ trước, ám hiệu này thực chất không phải là ám hiệu. Chú Ba đã dùng một cách vô cùng tài tình, khiến cho câu này của ổng gần như nói trắng ra luôn. Có thể nhắc lại ngay trước mặt người khác, nhưng ý tứ thực sự thì chỉ có tôi mới hiểu.

Xem ra chú Ba đã sớm đoán biết, có thể những người đi cùng tôi vào trong hoàng lăng này chưa chắc đã là những người mà ổng an bài từ trước.

Mấy người kia nhìn sắc mặt tôi biến đổi rõ rệt thì biết ngay tôi đã ngộ ra điều gì, vội hỏi tôi đã nghĩ thông chưa.

Tôi bèn giải thích: “Đúng là chúng ta đã nghĩ sai hướng rồi. Chú Ba nói những lời này ‘tôi’ có thể hiểu. nguyên nhân chủ yếu không phải vì tôi với ổng có điểm gì giống nhau, mà do tôi đã lớn lên ở Hàng Châu từ nhỏ.”

Mọi người vẫn chưa hiểu, Bàn Tử hỏi lại: “Vậy có nghĩa là mấy lời này có liên quan đến phong cảnh ở Hàng Châu hả? Không phải chứ, Bàn gia tôi đã đi qua Hàng Châu nhiều lần nhưng chưa từng nghe Hàng Châu có nơi nào tên là ‘Huyền Vũ cự thi’ mà?

Phan Tử lắc đầu: “Anh liên thiên cái gì vậy, tôi dám chắc nó không liên quan gì đến phong cảnh, người lớn lên tử nhỏ ở Hàng Châu cũng chưa dám chắc đã quen thuộc hết những danh thắng di tích ở đó nữa là. Anh xem ông  Ba nhà chúng tôi sống ở Hàng Châu đã hơn mười năm mà chỉ biết mỗi cái Tây Hồ. Lần trước ông ấy dẫn chúng tôi lên núi Bảo Thạch uống trà mà rồi lại lạc đến tận đâu đâu, cuối cùng đi mãi đến tối mới thấy Ngọc Tuyền.”

Tôi gật đầu, quả thực tôi cũng là người như vậy. Ai nói dân buôn đồ cổ phải thích mấy di tích cổ chứ, tôi mới đến thăm có vài nơi thôi.

Bàn Tử nhíu mày, nói với tôi: “Không liên quan gì đến phong cảnh à? Thế con mẹ nó là cái gì? Sao cậu không nói toẹt ra đi, tôi sốt ruột muốn chết rồi đây.” Nói rồi lau lau mồ hôi.

Tôi cũng không úp úp mở mở nữa, nói với hắn: “Cái này rất đơn giản, người lớn lên ở Hàng Châu tuy không nhất thiết phải quen thuộc phong cảnh, nhưng chắc chắn có thể nghe hiểu thổ ngữ Hàng Châu. Đây mới là điểm mấu chốt.”

Tất cả mọi người đều sửng sốt, ngây người ra một lúc, hiển nhiên cũng đã mơ hồ hiểu ra vấn đề, nhưng vẫn chưa rõ ràng lắm. Bàn Tử hỏi: “Là cách phát âm?”

Tôi gật đầu. Trong số những người ở đây, chỉ có tôi là thông thạo thổ ngữ Hàng Châu. Phan Tử quanh năm ở Trường Sa, cũng có thể nghe hiểu tiếng Hàng Châu nhưng hiểu biết sâu sắc về thổ ngữ thì không có. Bàn Tử là người bắc, nghe giọng nói đủ biết cả năm quanh quẩn trong thành Bắc Kinh. Thuận Tử lại càng khỏi phải bàn, đến tiếng phổ thông còn nói chưa lưu loát. Nếu chú Ba dùng tiếng Hàng Châu nói một câu, quả thực chỉ có tôi mới hiểu nổi.

Đáng tiếc là Thuận Tử không giỏi tiếng Hán nên chỉ nhớ được cách phát âm, không nghe ra được ngữ điệu biến hóa ở nửa đầu và nửa sau câu nói, cho nên lời nói từ miệng hắn đi ra chỉ là một câu hoàn toàn không có ngữ điệu.

Phan Tử vỗ vỗ đầu, nói: “Mẹ kiếp, đúng là tôi không nghĩ đến cái này. Vậy ‘Huyền Vũ cự thi’ kia, nếu nói bằng thổ ngữ Hàng Châu thì có ý gì? Cái này cũng có vẻ khó đọc nha.”

Tôi cười nói: “Để yên nghe tôi phân tích hết đã. Thật ra mật ngữ của chú Ba không phải bốn chữ, mà là sáu chữ ‘Huyền Vũ cự thi chi địa’. Chữ ‘Huyền” thứ nhất, tiếng Hàng Châu phát âm là “Viên” lại gần giống với ‘Duyên’. Chữ ‘Vũ’ phát âm cũng na ná chữ ‘hồ’. Nhưng ở Hàng Châu, từ ‘hồ’ này có thể đọc là hồ cũng có thể đọc là hà. “cự” đồng âm với ‘cừ’, ‘thi’ đồng âm với ‘thủy’, ‘địa’ đồng âm với ‘để’ —- Vậy gộp lại chính là ‘duyên hà cừ thủy chi để’

(dưới đáy rạch nước chạy dọc sông)

Tôi vừa giải thích xong, mọi người ‘A” lên một tiếng, đều tỏ vẻ tỉnh ngộ. Bàn Tử gật gù, đương nhiên tôi dịch ra như vậy là hoàn toàn hợp lý, không có sơ hở nào cả.

Phan Tử ‘hừ’ một tiếng, lầm bẩm nói ông  Ba đúng là ông  Ba, nếu Trần Bì A Tứ mà nghe được mấy lời kia thì có đánh chết lão cũng không thể suy ra theo hướng này, chắc chắn sẽ tìm ý nghĩa của ‘Huyền Vũ cự thi’ đến nổ tung đầu luôn.

“Rạch nước dưới lòng sông?” Bàn Tử đã chuẩn bị lên đường “Nhưng nơi này làm gì có sông? Hay sông nằm trong hoàng lăng?”

Tôi nói: “Trong lăng chắc chắn không có sông, cùng lắm chỉ có suối thôi, bởi vì mực nước sông không thể khống chế, nước quá cao sẽ bị ngập, nước quá thấp thì lại phá thế, hơn nữa nước sông sẽ làm bại lộ vị trí của cổ mộ. Sông ở đây chỉ có thể là con sông đào này thôi.”

Cơ mặt của Phan Tử đều co giật cả lên: “Chúng ta đi bậy đi bạ, hóa ra lại đi đúng đường sao?”

“Cũng chưa chắc chắn hoàn toàn.” Tôi lắc đầu, dù sao còn chưa bước vào hoàng lăng, không biết tình hình bên trong thế nào, nhưng dựa theo dấu hiệu hiện tại cùng với những tư liệu đã từng xem qua thì phân tích của tôi vẫn có cơ sở.

“Nếu nói sông chính là con sông đào này, vậy rạch kia… con mẹ nó… không lẽ chính là cái chỗ chúng ta vừa xem qua kia…” Bàn Tử đứng dậy, nhìn về phía con rạch tuẫn táng chứa đầy tượng đá kia, quả thực trùng khớp với ám hiệu chú Ba để lại. Chúng tôi quay đầu lại nhìn, tim đập rộn ràng.

“Nhưng…” Phan Tử vẫn thấy không ổn, “Con ‘rạch’ kia không có ‘nước’.”

Tôi lắc đầu nói: “Lúc ấy chú Ba cũng chưa tiến vào hoàng lăng này. Ổng nói những lời này có lẽ cũng chỉ dựa theo những gợi ý tìm được ở bên ngoài, có thể dựa theo sách cổ hoặc địa đồ. Mà người vẽ ra địa đồ hoặc viết ra sách cổ đương thời cũng không lường trước sẽ có một ngày con sông đào kia bỗng dưng cạn khô.”

Trên những tảng đá kè quanh sông này có dấu vết bị ăn mòn, chắc chắn sông này trước kia từng có nước. Nhưng trải qua hàng ngàn năm, nguồn nước dẫn vào sông, có thể là mạch nước ngầm hoặc là suối nước nóng, đã khô cạn. Nước sông không được bổ sung nên dần dần ngấm vào lòng đất, cuối cùng cũng khô cạn theo.

Bàn Tử đã mất hết kiên nhẫn, “rắc” một tiếng kéo chốt an toàn khẩu súng, nhìn chúng tôi hất đầu ra hiệu: “Các đồng chí, khó khăn lắm lợi ích cá nhân của chúng ta mới thống nhất làm một với lợi ích cách mạng, còn chờ cái gì nữa, con mẹ nó cùng lên đi.”

Chúng tôi không tìm ra lí do gì để phản bác lời đề nghị của Bàn Tử lúc này, nhưng lập tức xuất phát thì đúng là quá nóng vội. Phan Tử kéo hắn xuống, nói: “Đã có manh mối rồi, tình thế trái lại không gấp. Anh xem cậu Ba bị thương nặng như vậy, còn chưa được nghỉ ngơi kia kìa. Anh muốn đi một mình hay muốn bảo chúng tôi vứt cậu ấy lại đây chờ chết?”

Bàn Tử ngẩn người, ngẫm lại thấy cũng có lý, nhưng hắn thực sự bị dục hỏa đốt người, bèn vỗ vai Thuận Tử: “Này, hay tôi với anh đi trước thám thính, tóm mấy con chim làm đồ ăn. Cứ để hai người họ ở đây nghỉ ngơi, đảm bảo thu hoạch không kém số tiền ông Ba kia trả cho anh.”

Không ngờ Thuận Tử cũng lắc đầu, nói: “Nhiệm vụ của tôi là đưa cậu ta” chỉ vào tôi, “đến trước mặt ông Ba kia. Về sau các người sống chết thế nào tôi không quản, nhưng hiện giờ tôi phải trông chừng cậu ta.”

Tôi nghe thế thì cười đắc chí, quay sang Bàn Tử: “Giờ đã rõ ai mới là VIP ở đây chưa?”

*Đù, vậy là lại thêm một mạng gia nhập đoàn kị sĩ hộ giá công trúa =)) Và Tà nó có vẻ rất khoái chí với địa vị này =))*

Bàn Tử xì một tiếng khinh miệt, khó chịu nói: “Được! Các người cứ ở đây nghỉ ngơi đi, Bàn gia ta tự đi một mình. Chờ đến khi ông kiếm được mấy món bảo bối mang về, xem các người có tiếc nhỏ dãi ra không. Ông nói trước cho mà biết, thứ gì ông tìm được là của ông, tuyệt đối không chia cho các người đâu!” Nói rồi vác súng lên hùng dũng bước đi.

Mới đi được vài bước, hắn đột ngột dừng lại rồi quay đầu trở về. Chúng tôi thấy thế thì phá ra cười, hỏi hắn sao thế, sợ rồi hả?

Bàn Tử hừ một tiếng, tung cước đá văng cái ba lô của mình, ngồi đối diện với cái đèn bão, nói: “Sợ cái con khỉ biển, các người đúng là muốn đuổi ông đi, Bàn gia ta đâu có ngu. Chờ lát nữa ông lấy được mấy món béo bở, ba người lại hè nhau xông vào cướp, dù ông có là mãnh hổ cũng khó địch lại bầy lang sói, để các người chiếm lợi, không khéo còn bị các người giết người cướp của nữa, ông không dại mà đâm đầu vào vụ làm ăn mù quáng này.”

Phan Tử thấy Bàn Tử vẫn còn bực bội, mới thừa cơ chế nhạo: “Cái này gọi là lòng dạ tiểu nhân, anh nghĩ rằng tụi này ai cũng giống anh sao.”

Tôi sợ hắn lại nổi điên lên, bèn ngắt lời cả hai: “Được rồi, đừng ai nói gì nữa. Giờ tính ra cũng là nửa đêm rồi, tuy ở dưới này không thấy sắc trời nhưng chúng ta cũng phải nắm bắt được thời gian mà nghỉ ngơi.”

Phan Tử nhìn đồng hồ, cũng gật đầu, vặn đèn bão cho sáng thêm, xung quanh lập tức ấm áp hơn hẳn. Sau đó anh lấy túi ngủ ra bơm căng, mọi người đều chui vào làm một giấc.

Bàn Tử châm một điếu thuốc, nói hắn không buồn ngủ, để hắn gác ca thứ nhất. Tôi liếc hắn một cái, nói đến nửa đêm anh tuyệt đối không được tự ý đi chôm đồ. Vào huyền cung rồi anh muốn lấy gì thì lấy, còn bây giờ thì yên phận chút đi, con mẹ nó anh đừng để tôi coi thường.

Bàn Tử giận dữ nói hắn đâu phải hạng người đó? Hắn gác đêm, đảm bảo chúng tôi đều an toàn.

Đi đường mệt mỏi, lên đến đỉnh núi tuyết đã là chạng vạng tối, từ khi tiến vào cung điện dưới lớp băng cho tới bây giờ đã hơn mười tiếng. Hơn nữa chúng tôi hoạt động với cường độ tương đương với lao động chân tay một ngày một đêm, hết leo núi, chạy như điên lại nhảy xa, cùng với cú ngã lúc nhảy xa thất bại, tôi đã mệt rã rời, vừa chui vào túi ngủ lập tức thiếp đi.

Tôi có cảm giác mình ngủ rất say. Là người bệnh nên tôi không phải gác đêm, khi tỉnh lại thì xung quanh vẫn một màu tối đen, đèn bão đã tối đi rất nhiều, người gác đêm cũng chuyển sang Phan Tử. Anh đang tựa vào một tảng đá hút thuốc, cạnh đó là Bàn Tử ngáy pho pho như sấm.

Tôi nhìn đồng hồ, biết mình mới ngủ có 5 giờ, có điều những lúc bị thương nặng tôi đều ngủ rất ngon. Do cơ thể tái tạo mạnh mẽ nên người gần như rơi vào trạng thái nửa hôn mê, khi tỉnh dậy đầu óc nhẹ nhàng khoan khoái nhưng thân thể lại càng mệt mỏi, xương sống ở thắt lưng bắt đầu đau tệ hại.

Tôi xoa xoa mặt, chui ra khỏi túi ngủ, vặn vẹo mấy khớp tay chân rồi bảo Phan Tử đi ngủ đi, tôi sẽ canh gác một lát. Nhưng Phan Tử nói không cần, hồi ở Việt Nam đã có thói quen ít khi ở trên giường, mỗi ngày đều ngủ không quá ba tiếng.

Tôi cũng đành mặc anh, ngồi vào tảng đá bên cạnh, cũng muốn hút một điếu thuốc cho tỉnh táo đầu óc.

Hai người rơi vào im lặng trong chốc lát, bỗng Phan Tử bảo tôi thử đoán xem chú Ba hiện giờ ra sao? Có gặp chuyện gì bất trắc không?

Tôi thấy nét mặt anh chất chứa sự quan tâm và lo lắng thật lòng, trong lòng cũng cảm thấy xúc động. Theo lý mà nói, Phan Tử từng ra chiến trường, đã quen với mưa bom bão đạn, sinh tử ly biệt, đáng ra sẽ không có loại tình cảm sâu sắc như vậy. Nhưng ngược lại, lòng trung thành và tin tưởng của Phan Tử đối với chú Ba khiến cho cháu trai như tôi cũng thấy hổ thẹn. Không biết trước đây giữa Phan Tử và chú Ba đã xảy ra chuyện gì, nếu có cơ hội tôi thực sự cũng muốn hỏi.

Tôi an ủi anh: “Anh yên tâm đi, lão cáo già kia tuyệt đối sẽ không bạc đãi bản thân đâu. Ổng lớn mạng lắm, nếu có gặp chuyện không hay thì cũng chẳng đợi đến bây giờ mới xảy ra chuyện. Bây giờ chúng ta chỉ cần chiếu cố bản thân mình là được rồi, lúc này người cần phải lo lắng chính là chúng ta, bởi chúng ta chẳng biết gì cả.”

Phan Tử gật đầu, thở dài một tiếng thiểu não nói: “Tiếc là đầu óc tôi không được nhanh nhẹn, những việc ông  Ba làm tôi không tài nào hiểu nổi. Bằng không những chuyện nguy hiểm như thế này ông Ba không cần phải đích thân làm, cứ giao cho tôi là được.”

Tôi cười khổ trong lòng, nghĩ bụng việc chú Ba đang làm cũng không đến nỗi quá mức nguy hiểm, mà ngược lại, tôi có cảm giác người gặp nguy hiểm nhất chính là chúng tôi. Chúng tôi luôn đi sau chú Ba, phán đoán ý tứ của ổng, sau đó bị ổng nắm mũi dắt đi. Cứ tiếp tục như thế, vận khí dù tốt đến đâu thì cũng có ngày gặp họa.

Ví dụ như lúc này đây, chú Ba có thể để lại manh mối về cửa vào huyền cung cho chúng tôi từ rất sớm, chứng tỏ trên người ổng có thứ gì đó giúp ổng biết trước kết cấu của địa cung này. ‘Duyên hà cừ thủy chi để” đây là một câu thể văn ngôn, giọng điệu của chú Ba không giống vậy, câu này chắc chắn lấy từ trong sách cổ. Mà theo lời Thuận Tử thì chú Ba một mình đi vào núi tuyết xem xét, hiển nhiên ổng cũng không rơi vào tay đám người A Ninh. Nếu ổng thuận lợi đi vào miệng núi lửa này, rất có thể bây giờ đã ở trong huyền cung dưới hoàng lăng.

Có thể đoán sơ sơ thế này, vật đã giúp chú Ba biết trước kết cấu địa cung có lẽ chính là mục đích đi Tây Sa mấy tháng trước của ổng, cũng có thể giải thích vì sao công ty của A Ninh lại xuất hiện ở đây. Mục tiêu của bọn họ hẳn cũng không phải ngôi mộ dưới đáy biển lần trước, mà là Vân Đỉnh thiên cung trên này. Bọn họ hợp tác với chú Ba đi Tây Sa, chẳng qua là muốn vào mộ huyệt dưới đáy biển để tìm manh mối về hoàng lăng bí mật trong lòng dãy Trường Bạch mà thôi.

Mà khi ở trong hải mộ kia, A Ninh cũng tách khỏi chúng tôi một lúc rất lâu. Trong khi chúng tôi bị những bẫy rập và cơ quan trong hải mộ chọc cho suýt phát điên, mệt mỏi muốn chết, cô ả này đã làm những gì trong hậu điện? Có phải cũng giống như chú Ba, tìm được điểm mấu chốt để đi xuống hoàng lăng trong lòng đất này? Chúng tôi không thể biết được. Nhưng vừa rồi ở tiền điện nhóm đã gặp mấy thi thể trang bị kĩ càng đến tận chân răng, chứng tỏ đội ngũ của A Ninh đã xuống nơi này trước chúng tôi rồi. Căn cứ theo lời Thuận Tử, đội ngũ bọn họ quá lớn, chắc chắn không thể nào vượt qua được tuyến biên phòng. Thế mà họ lại có thể vào đến tận đây mà không mất một cọng tóc nào, chứng tỏ bọn họ biết một con đường bí mật mà không ai khác biết.

Điều này ít nhất cũng có thể chứng minh đám người A Ninh biết những chuyện mà chúng tôi không biết.

Chúng tôi và bọn họ ở hai thế hoàn toàn khác biệt nhau. Chúng tôi hoàn toàn ‘không biết gì’, không thể đoán trước trong huyền cung có thứ gì đang chờ đợi mình. Tình cảnh này đúng là cực kì gay go, nhưng chúng tôi vẫn phải tiếp tục tiến lên, không thể lùi bước được nữa, lùi lại mới là hỏng bét.

Những lời này tôi không thể nói ra với họ, bởi vì đối với Phan Tử, chú Ba là tất cả. Chú Ba muốn anh làm chuyện gì thì anh nhất định phải làm, không cần biết đến mục đích. Đối với Thuận Tử, hắn hoàn toàn là người ngoài cuộc, đối với hắn đây chỉ là một phi vụ mua bán, hắn chỉ quan tâm đến kết quả cuối cùng. Mà Bàn Tử lại càng đơn giản, hắn do người ‘gắp Lạt Ma’ mời đến, trong lăng mộ có những gì mới là quan trọng, chú Ba của tôi, đối với hắn chỉ là một cái tên đầy phiền phức mà thôi. Những phân tích nảy sinh trong đầu tôi lúc này, xem ra chỉ hữu dụng với một mình tôi, cũng chỉ có mình tôi quanh quẩn giữa những bí ẩn mơ hồ mà thôi.

Đây là lần đầu tiên tôi nảy sinh cảm giác hâm mộ đối với cuộc sống đơn giản của những người kia.

Lại nói lái sang chuyện khác, Phan Tử liền hỏi thân thể tôi thế nào rồi, tôi nói cũng đỡ một chút, được ngủ một giấc, cơ thể tôi đã khá hơn nhiều. Bây giờ không cần người đỡ cũng có thể gắng gượng đi lại, nhưng đương nhiên vẫn chưa thể đánh nhau được. Phan Tử nói hay là cậu nghỉ ngơi thêm một lát đi, khó tìm được nơi nào yên tĩnh như ở đây, mà cũng rất an toàn, chỉ sợ vào địa cung rồi sẽ không có cơ hội nghỉ ngơi nữa.

Tôi thấy cũng đúng, đã định chui vào túi ngủ tiếp, nhưng vẫn không sao ngủ lại được. Bàn Tử bên cạnh đang liên tục nói mớ bằng thứ tiếng mà tôi nghe không hiểu nổi, có vẻ như đang cò kè mặc cả với ai đó. Lúc hắn nói mớ ác liệt nhất, Phan Tử nhặt một viên đá nhỏ ném trúng đầu hắn, ăn đá xong Bàn Tử lập tức yên lặng trở lại. Nhưng chỉ được một lát lại bắt đầu lảm nhảm, càng ngày càng điếc tai. Lúc trước còn mệt mỏi nên tôi không nghe thấy gì, nhưng bây giờ muốn ngủ lại cũng thực khó khăn.

Nhắm mắt lại, cố gắng chịu đựng hai tiếng đồng hồ, Phan Tử lấy một hòn đá lớn hơn chọi cho Bàn Tử tỉnh hẳn. Lần này ai cũng đừng mong ngủ thêm, cả Thuận Tử cũng bị dựng dậy.

Sửa sang lại trang bị thật cẩn thận, ăn thêm một chút lương khô, chúng tôi lại đi về hướng con rạch bồi táng. Những pho tượng đá hình người màu đen đã hư hỏng vẫn đứng sừng sững, im lìm ở đó, đội ngũ kéo dài rồi biến mất trong bóng đêm vô tận hai đầu.

Tôi được đỡ xuống rạch tuẫn táng, thoáng cái đã đi vào giữa đám tượng đá. Đứng trên cao nhìn xuống những bức tượng này cũng không có cảm giác gì mãnh liệt, nhưng xuống rồi mới thấy chúng cao ngang ngửa tôi, nhìn quanh chỉ thấy vô vàn cái bóng xen kẽ nhau, khiến lòng tôi sinh ra một cảm giác vô cùng bất an.

Bàn Tử chiếu đèn pin về hai phía, nhìn tôi hỏi: “Ông Ba nhà các cậu bảo chúng ta đi theo hướng nước chảy, nhưng giờ chỗ này đã cạn nước, chúng ta nên đi thế nào đây?”

Tôi nhìn sang Phan Tử. Trong cuộc chiến tranh

tự vệ phản kích

với Việt Nam, Phan Tử có tham gia giai đoạn chiến tranh đặc biệt, có lẽ đã từng nghiên cứu những vật như thế này.

Phan Tử lại gần một bức tượng đá, sờ sờ vết nứt trên mặt, rồi chỉ về hướng mà các bức tượng quay mặt về, nói: “Xem vết nước chảy trên những tượng đá này, đầu bên kia hẳn là hạ lưu.”

Bàn Tử cũng tiến lại, nhưng không nhìn ra nguyên cớ vì đâu mà Phan Tử khẳng định được như vậy, bán tin bán nghi nói: “Mạng người quan trọng, anh đừng có đoán bừa đó.”

Phan Tử không thèm để ý đến hắn, nói chúng tôi cẩn thận một chút. Mọi người bắt đầu lần theo con lạch, tiến vào bóng đêm sâu thẳm trong lòng con sông đào.

Tôi không có chút ý niệm nào về chiều dài của con sông đào này. Lúc ở trên vách đá đốt pháo sáng quan sát, cả hoàng thành đều ở tít đằng xa, chúng tôi đại khái chỉ nhìn thấy đỉnh của khối kiến trúc, con sông đào này bị khu rừng chết xung quanh che khuất. Lúc đứng trên cây cầu, ánh sáng đèn pin lại không đủ để chiếu sáng toàn bộ bóng đêm, vậy nên chúng tôi cứ đi dọc theo rạch tuẫn táng đến nửa giờ vẫn chưa thấy điểm kết thúc của cái đáy sông vô cùng tĩnh mịch này.

Độ cao của rạch tuẫn táng không đồng đều, có vài đoạn tượng người bị vỡ vụn rất nghiêm trọng, giống như bị thứ gì cực lớn dẫm lên. Loại đá vô danh để tạc tượng này rất cứng, vậy mà cũng vỡ nát. Tôi thậm chí còn phát hiện dưới đáy con rạch thi thoảng lại bắt gặp đầu hoặc tay chân của tượng đá, hình như bên dưới rạch tuẫn táng còn chôn một tầng những bức tượng như thế này nữa.

Hoặc có thể con rạch này ban đầu cũng bị chôn vùi dưới lòng đất, nhưng vì nguyên nhân nào đó mà công trình bị tạm dừng, thành ra có rất nhiều tượng đá không bị vùi lấp.

Càng đi càng thêm tối, ban đầu đèn pin chiếu vào bờ sông còn có một tia phản quang, ít nhất còn có vật tham chiếu. Cứ đi mãi đi mãi, đến cả bờ sông cũng không chiếu tới nữa, tứ phía đều là bóng tối vây hãm, chúng tôi cũng tự động giảm tốc độ. Phan Tử nhắc nhở chúng tôi tỉnh táo một chút, tuyệt đối không được phân tâm.

Lúc này, Bàn Tử đang đi tuốt đằng trước bỗng dừng lại. Chúng tôi định tiến lên xem sao thì thấy hắn giơ tay ra dấu cho mọi người dừng lại.

Tôi lại gần hắn, nhìn theo ánh đèn pin thì hóa ra đã đi tới cuối rạch tuẫn táng rồi. Những hàng tượng đá đã biến mất, trước mặt là một khối đá cực lớn dùng để kè bờ sông, chắc là đã tới đầu kia của sông đào. Trên kè đá bên bờ sông hình như trạm trổ thứ gì đó cực lớn trông giống tượng Phật khổng lồ ở núi Nhạc Sơn (1). Do đèn pin không thể chiếu sáng được toàn cảnh nên không biết là cái gì. Chỉ thấy dưới đáy bờ kè có một cái động vuông vắn bị đá vụn che lấp, hiện giờ phần lớn số đá vụn đó đã bị dịch sang một bên, lộ ra một cái miệng hang tối đen như mực.

Giống như bài đạo lúc trước chúng tôi chui vào, cái động này cũng là một trong những thông đạo do nhóm thợ xây lăng năm đó lén đào ra, đây là lối thoát duy nhất của bọn họ nếu có ngày địa cung bị phong bế.

“Lại có một đường hầm đào ngược ra à?” Phan Tử kinh ngạc nói: “Cửa ra sao lại ở đây? Chuyện này không thể xảy ra được.”

“Sao lại không thể?” Bàn Tử hỏi: “Động đâu phải do anh đào.”

Phan Tử nói: “Nơi này lúc đó còn ngập trong nước, anh cho những công nhân này đều là cá à?”

Tôi khoát tay bảo bọn họ đừng cãi nhau nữa, lúc này Thuận Tử kêu lên một tiếng, gọi chúng tôi lại: “Lại đây xem, có thứ gì lạ lắm.”

Nói đoạn chiếu đèn pin vào, chúng tôi nhìn vào chỉ thấy trên tảng đá cạnh cái động có người khắc lại mấy chữ.

——————————————–

(1) Tượng Phật khổng lồ ở núi Nhạc Sơn:

Chương 34:  Bài đạo dưới nước

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Động vuông cao tầm nửa thân người, đào rất cẩu thả. Cạnh đó đều là đá vụn lổn nhổn to cỡ quả dưa hấu, bên trong cũng rất nhiều, rõ ràng có người từng lấp kín cửa động này. Trong động tối đen như mực, không biết dẫn tới tận đâu, có vẻ giống cửa xả nước của đập thủy điện mà tôi thường thấy ở miền nam.

Trong đống đá vụn bên cạnh miệng động, có một khối đá tương đối bằng phẳng, bên trên nguệch ngoạc khắc mấy chữ, rõ ràng được khắc hết sức vội vàng, hơn nữa còn rất nông. Nếu đó không phải là chữ cái tiếng Anh, đặt vào khung cảnh hoàng lăng trông cực kì chướng mắt thì Thuận Tử chưa chắc đã phát hiện ra. Đáng tiếc không thể ghép nối mấy chữ kia lại để biết ý nghĩa của nó là gì.

Đây là chữ do chú Ba khắc lên để đánh dấu đường cho chúng tôi sao? Lúc ấy tôi đã nghĩ ngay theo hướng này, nhưng chú Ba tôi không thạo chữ Tây, đầu óc ổng làm sao mà nghĩ ra cách khắc chữ Tây làm ám hiệu được? Đây không phải tác phong của ổng.

Bàn Tử tò mò đến gần ngó một cái, bỗng ‘ồ’ lên một tiếng, ngoắc tay với tôi: “Tiểu Ngô à, mấy chữ nước ngoài vặn vẹo này hình như chúng ta đã gặp ở nơi nào đó rồi.”

Tôi cũng lại gần, mới liếc qua một cái, bỗng dưng giật nảy mình.

Không phải hình như, mà mấy kí hiệu này chúng tôi đích xác đã từng gặp. Khi tôi và Bàn Tử ở trong huyệt mộ dưới đáy biển, leo xuống đáy cái ao đặt tấm bia đá, Bàn Tử đã trông thấy những kí hiệu như thế này được khắc trên thành ao. Vừa thấy mấy kí hiệu này, Muộn Du Bình đột ngột lao xuống ao, sau đó hắn bắt đầu nhớ lại những chuyện đã xảy ra dưới ngôi mộ đó. Tại sao chúng lại bất ngờ xuất hiện ở đây?

Lúc ấy, tôi vẫn nghĩ kí hiệu này là do năm đó khi chú Ba đưa đám người Văn Cẩm xuống hải mộ, một trong số họ đã khắc nó lên. Nhưng mấy chữ cái này lại đột ngột xuất hiện ở đây, chắc chắn có gì đó không ổn.

Xem vết khắc thì có vẻ là dùng cuốc chim bổ lung tung lên, hơn nữa dấu vết còn khá mới, nếu không phải do chú Ba để lại thì cũng là của Muộn Du Bình hoặc A Ninh, bởi vì ở đây cũng chỉ có mấy người này là mang cuốc chim thôi. Kẻ để lại kí hiệu này, chắc chắn đã đi vào trong động kia.

Bỗng một ý niệm lóe lên trong đầu tôi, thầm nghĩ có khi nào mấy chữ cái tiếng Anh trong mộ huyệt dưới đáy biển kia cũng do Muộn Du Bình khắc xuống, cho nên khi hắn nhìn thấy mấy kí hiệu đó mới nói: “Tôi đã từng đến đây.”

Khả năng này cũng khá lớn, khi nào hắn lại thò mặt ra, tôi phải hỏi lại mới được.

Phan Tử thấy tôi ngẩn người, bèn hỏi tôi có chuyện gì. Tôi kể cho bọn họ nghe chuyện tôi và Bàn Tử đã từng gặp mấy kí hiệu này dưới đáy biển, Phan Tử cũng cảm thấy ngạc nhiên. Nhưng rồi anh nói: “Tôi đi theo ông Ba đã mười năm, nói khiêm tốn cũng đổ không dưới năm mươi cái đấu, trong đó đấu lớn cũng có vài cái nhưng chưa thấy ông Ba để lại kí hiệu bao giờ. Hơn nữa ông Ba đến mấy chữ cái ABCD còn không nhớ được, mấy kí hiệu này chắc chắn không phải do ông ấy để lại.”

Tôi thầm nghĩ vậy thì chỉ còn A Ninh hoặc Muộn Du Bình, đoạn quay sang nói với bọn họ: “Nói gì thì nói, xem ra chúng ta đã đi đúng đường. Động này đã có người đi vào, cửa vào địa cung hẳn là ngay bên dưới cái động này, chúng ta có nên tiến vào ngay bây giờ không?”

“Đi luôn!” Bàn Tử lập tức tán thành: “Còn chờ cái gì nữa? Cả đội quân đã đi trước chúng ta rồi kìa. Bàn gia ta xưa nay vẫn đi tiên phong, lần này đi chung với mấy đứa xui xẻo các người nên mới chậm chân hơi người ta một bước. Chúng ta đừng lề mề nữa, đợi lát nữa người ta xong việc đi ra, chúng ta chỉ có nước muối mặt đi cướp đồ của họ.”

Phan Tử nhìn tôi nói: “Cậu đừng hỏi bọn tôi, thân thể cậu thế nào rồi?”

Tôi gật đầu, ý nói không thành vấn đề: “Bàn Tử nói rất đúng, chúng ta không thể dây dưa thêm nữa. Dù sao nếu đụng phải bánh tông thì tôi không bị thương cũng đi đời, giờ bị thương thế này cùng lắm là chết mau hơn một chút thôi, không sợ.”

Bàn Tử bên cạnh đã tháo ba lô của mình xuống, nghe tôi nói vậy thì ‘xì’ một tiếng: “Hừ, sao cậu không nói chuyện gì may mắn một tí? Cũng không chịu nhìn xem chúng ta sắp đến chỗ nào?”

Tôi trừng mắt liếc hắn một cái, đốp lại: “Đi với anh có dán hai môn thần sau ót cũng vô dụng, anh hãy quản hai cái tay anh cho tốt đi đã.”

Chúng tôi đều tự sắp xếp trang bị cho mình. Vừa rồi đóng gói trang bị theo kiểu hành quân, bây giờ chúng tôi nhét hết đèn bão và toàn bộ nhiên liệu vào trong bao, sau đó lấy hết pháo lạnh, gậy huỳnh quang và thuốc nổ ra, buộc ở thắt lưng. Bàn Tử và Phan Tử đều tháo chốt an toàn của súng, rút hộp đạn, gỡ hết đạn trong băng ra nạp đầy vào súng; dao săn, chủy thủ cũng đã sẵn sàng.

Súng trường K56 quá dài, đeo vào động không thể xoay người được. Vì thế Bàn Tử đưa súng cho Thuận Tử giữ, còn mình thì cầm cái cuốc chim. Mọi người kiểm tra lại độ sáng của đèn pin, Bàn Tử rút bùa Mô Kim, cầm trên tay ngẩng mặt lên trời bái lạy.

Thuận Tử cũng là người dùng súng thành thạo, vừa nâng súng lên ‘răng rắc’ vài cái đã quen tay, đầy cảm giác hoài niệm, sau đó quay sang nói với chúng tôi: “Các vị, tôi không hiểu lắm về nghề của các vị, nhưng vẫn phải nhắc nhở một câu. Trong những cái động được đào trên núi Trường Bạch này, phải coi chừng bọn tuyết mao tử. Nếu thấy có gì không ổn thì trước hết phải lấy bông bịt lỗ tai lại. Mùa này đầu chúng còn mềm nên chỉ chui được vào lỗ tai, đợi đến mùa hè, lớp vỏ ngoài đã cứng cáp rồi thì còn có thể xuyên qua da người, chỉ thò ra hai sợi râu. Các người có kéo thì cũng chỉ có sợi râu đứt ra, còn con trùng vẫn ở bên trong, phải khoét sâu vào miệng vết thương mới lấy ra được. Còn nữa, thứ này cũng hay chui vào hậu môn, lúc ngồi phải cực kì cẩn thận.”

Bàn Tử chán nản liếc nhìn Thuận Tử, vô thức giữ chặt dây lưng, nói: “Bây giờ côn trùng cũng có sở thích này sao?”

*Phụt, lão béo liên tưởng sâu xa quá =))*

Thuận Tử nói: “Tôi không đùa với các người đâu, lỡ dính trấu thì tự nghĩ cách mà lôi ra, đừng có hỏi tôi.”

Chúng tôi cảm thấy nửa người dưới phát rét, ai nấy đều gật gật đầu. Bàn Tử lại tiếp tục làm đầu tàu gương mẫu, chui người vào động, chúng tôi cũng nối đuôi nhau chui vào, bắt đầu tiến vào thế giới mới mẻ chưa ai khám phá trong lòng đất sâu.

Cái động vuông vắn này phải uốn người mới vào được, động được đào song song, chúng tôi vừa đi vừa nhìn xung quanh xem xét, do trần động thấp lè tè nên đi rất chậm. Đá ở nơi này cực kì rắn chắc, nhìn những dấu vết đục đẽo thì đường hầm này rõ ràng được đào bằng phương pháp nguyên thủy nhất. Tôi nghĩ, để xây được một hoàng lăng quy mô lớn thế này phải mất bao nhiêu thời gian? Kiểu gì cũng phải trên hai mươi năm, rất nhiều hoàng đế vừa đăng cơ đã bắt tay vào xây lăng mộ rồi. Hơn hai mươi năm, đào đường hầm này cũng là hết sức miễn cưỡng, xem ra năm đó nhóm người bỏ trốn phải có số lượng rất lớn.

Càng đi vào sâu, càng phát hiện nhiều dấu vết của những người đã từng đi qua đây. Dấu giày leo núi vẫn nối tiếp không dừng, cũng không thấy tuyết mao tử đâu cả, nhưng tôi lại phát hiện trên nóc đường hầm có những ngã rẽ kì quái.

Những cái động này cũng không lớn lắm, chỉ đủ chứa một người, hơn nữa còn ngoằn ngoèo uốn khúc 180 độ, sau một đoạn hướng thẳng lên trên sẽ đổi hướng chúc ngược xuống dưới, giống như một đường ống uốn lượn hình số 9. Những cái động như thế, đại khái cứ cách mười mét lại có một cái.

Từ khi bước chân vào nghề này, tôi đã bò qua không biết bao nhiêu cái động nhưng chưa từng thấy cái nào kết cấu như vậy. Nhìn dưới góc độ kiến trúc, khối lượng công việc khi đào những chuỗi động này tương đương với đào một đường hầm hoàn chỉnh. Những cái động này tất nhiên phải có lí do tồn tại tất yếu, bằng không thì quá lãng phí sức lực, nhưng hiện giờ quả thực tôi không tài nào nhìn ra công dụng của chúng là gì.

Phan Tử ở đằng sau tôi hỏi: “Cậu Ba, cậu có thấy đường hầm này trông quen quen không?”

“Quen sao?” Tôi dừng lại một lát, quay đầu hỏi anh sao lại hỏi vậy.

Phan Tử nói: “Hồi chúng ta đến miếu Hạt Dưa ở Sơn Đông có đi qua động xác, đường hầm dẫn vào động chẳng phải cũng giống thế này sao? Lão già dẫn đường chẳng phải đã nấp vào một cái động trên trần để hại chúng ta sao?”

Nghe anh nói vậy, tôi cũng nhìn kĩ lại những cái động con trên đỉnh đầu. Hồi ở Sơn Đông tôi sợ chết khiếp đi được, làm gì còn tâm trí mà để ý nhìn lên trần cái động xác ngập nước kia, nên bây giờ cũng chịu không so sánh được. Nhưng Phan Tử đã nói thế thì chắc không sai nên tôi cũng sinh lòng nghi hoặc, bèn hỏi anh: “Anh chắc chắn chứ?”

Phan Tử cũng không dám chắc chắn, đáp: “Chúng ta nghe lão già kia nói mới biết trên trần động còn có động nữa, chứ lúc mình đi vào trong động tối đen như mực, nào có phát hiện ra.”

Tôi dừng lại, nhìn kĩ những cái động rẽ nhánh trên đầu, lập tức hiểu ra tác dụng của nó, bèn nói: “Lúc ấy, cái động xác kia cũng ngập nước nhỉ?”

Phan Tử gật đầu, nói đúng rồi. Tôi lại tiếp tục: “Những động rẽ nhánh phía trên này thật ra chỉ để hít thở. Anh xem, khi nước tràn vào bài đạo này, do kết cấu gấp khúc nên động nhánh sẽ chứa đầy không khí. Vậy cứ bơi một đoạn lại ngoi lên chui đầu vào động nhánh hớp một ngụm dưỡng khí là có thể bơi tiếp.”

Phan Tử tỏ vẻ kinh ngạc, nói: “Đúng là một biện pháp tài tình. Nói vậy năm đó cái bài đạo này quả thực chìm trong nước sao?”

Tôi nói: “Gần như thế. Xem ra, cái đạo động ngập nước ở miếu Hạt Dưa kia, không chừng cũng do người của Uông Tàng Hải đào ra.” Ngẫm lại thì thấy không đúng lắm, cái đạo động kia đã có từ lâu lắm rồi, chú Ba tôi đoán là từ thời Chiến quốc, có thể Lỗ thương vương đã đào nó lúc vào núi xây lăng. Không lẽ sau khi nhìn thấy động xác kia, Uông Tàng Hải đã học hỏi kĩ thuật của cổ nhân? Khả năng này cũng khá lớn.

Đi một lúc khá lâu, cũng không biết đã được bao xa, bài đạo dần dần rộng mở, rốt cuộc cũng thấy được lối ra. Chúng tôi bò ra ngoài, trước mặt tất nhiên là một con sông, sâu chừng mười mét, rộng năm, sáu mét, lòng sông đã cạn khô.

Tôi xem xét tình hình con sông này một chút, nói: “Đây là kênh dẫn nước, nước trong sông đào kia chắc chắn được dẫn từ đây ra. Giữ cho nước lưu thông sẽ không bốc mùi hôi thối, hơn nữa cũng có thể đề phòng nước chảy ngược lại.”

Hai bên sông đều có bờ đất rộng đủ cho một người đi, đoạn trên còn dựng một cây cầu đá. Chúng tôi cẩn thận nhích lại gần, đi sang bờ bên kia, Bàn Tử lại hỏi phải đi tiếp thế nào?

Tôi nói: “Sông này thông với sông ngoài kia, có lẽ chỉ tính là một con sông, chúng ta cứ đi theo hướng nước chảy thôi.”

Phan Tử ngồi thụp xuống, nhìn vết nước chảy, chỉ về một hướng, nói: “Chỗ đó.”

Chúng tôi tiếp tục hướng về phía trước, không bao lâu sau, trên vách đá cạnh bờ sông xuất hiện một cái động vuông vắn.

Bàn Tử châm một cây pháo lạnh ném ra, chiếu sáng nền đá màu đen phía ngoài cửa động, hiển nhiên đây là tường đá phong cửa địa cung. Bàn Tử chui vào, liên tục châm những cây lạnh ném ra xung quanh, sau đó gọi chúng tôi, chúng tôi mới chui ra khỏi đường hầm.

Bên ngoài cửa động là một gian mộ thất xây bằng nham thạch đen, không cao lắm, người có thể miễn cưỡng đứng thẳng nhưng rất rộng. Bốn phía mộ thất đều bày vô số vại sành sắp xếp cực kì ngay ngắn, có thể đây là những bình rượu bồi táng. Mỗi vại cao cỡ nửa người, ước tính số lượng lên đến hàng ngàn, xem ra Vạn Nô hoàng đế đúng là một con sâu rượu.

Trên vách tường màu đen bốn phía có khắc mấy phù điêu đơn giản tả cảnh hoàng đế đang thiết yến. Phù điêu này bảo quản cũng không được tốt, có thể là vì nó thông ra bên ngoài. Khí núi lửa ở nơi này tuy không đến nỗi chết người như Phan Tử nói, nhưng khả năng ăn mòn chắc chắn mạnh hơn không khí bình thường, bích họa ở đây có thể bảo tồn đến thế này đã là cả một kỳ tích. Đáng tiếc là những hình ảnh hiếm hoi sót lại giờ chỉ còn nhìn được mang máng.

Trên hai bức tường nằm ở hai phía trái, phải của mộ thất có một tảng đá chẹn cửa, đằng sau là hành lang tối om om. Một cơn gió lạnh buốt từ trong đó thổi ra, Bàn Tử bèn nhặt hai cây pháo lạnh, ném một cây vào trong đó nhưng vẫn không nhìn thấy điểm tận cùng.

Chương 35: Hầu đầu thiêu

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Phan Tử thấy sắc mặt tôi không ổn, bèn bảo tôi nghỉ ngơi một lát. Tôi quả cũng hơi quá sức, liền ngồi lên một vò rượu lớn mà thở dốc, còn những người khác sắp xếp lại trang bị. Thuận Tử chưa từng đến những nơi như thế này, bèn nhặt lên một cây pháo lạnh, tò mò ngắm nghía xung quanh, nói: “Đúng là trăm nghe không bằng một thấy, không ngờ trong lòng núi Trường Bạch lại chôn vùi một nơi như thế này. Lần này xem như tôi được mở rộng tầm mắt.”

“Xuống sâu thêm, sẽ còn gặp nhiều thứ anh chưa từng thấy.” Phan Tử nói: “Tôi đoán những vật phẩm năm đó Đại Kim cướp đoạt từ Nam Bắc Tống, cộng thêm những bảo bối Nam Tống tiến cống hàng năm, nếu không rơi vào tay Thành Cát Tư Hãn thì chắc chắn phải ở chỗ này.”

“Đừng có tưởng bở.” Bàn Tử nói: “Năm đó phần lớn đồ tiến cống của Nam Tống là vải vóc lụa là, những thứ này không dễ bán, mà cũng khó ra tay, tôi thấy dù có lấy ra được thì cũng mục nát cả rồi. Chúng ta đừng một mực tơ tưởng ngọc ngà châu báu trong địa cung, nên cân nhắc lợi ích trước mắt vẫn hơn.” Nói rồi đi săm soi mấy bình rượu, định di chuyển thử một bình xem dưới đáy có khắc chữ gì không.

Tôi nói với hắn: “Anh đừng táy máy, loại bình này rất thô ráp, có đem cho người bán lòng dê để chẹn dưa người ta cũng không thèm.”

Bàn Tử cãi: “Ai bảo tôi nghĩ đến mấy cái bình này? Đừng tưởng Bàn gia đây chỉ khoái minh khí nhé.” Hắn lấy dao găm rạch lớp giấy dán kín miệng bình, tức thì một mùi hương kì lạ nhẹ nhàng bay ra, nói thơm không thơm, nói hôi cũng không hôi, ngửi nhiều còn thấy nghiền, không biết là thứ rượu gì.

Trong cổ mộ cất giấu rượu, tôi xem sách cổ đã thấy nhắc đến rất nhiều, nhưng đây mới là lần đầu được thấy tận mắt. Cho nên tôi cũng nổi tính hiếu kì, lại gần xem thử.

Rượu màu đen, vô cùng tinh khiết, phần nước bên trong gần như không đã bay hơi hết nên chỉ còn lại có nửa bình. Người sành rượu đều biết đây là đặc trưng của rượu ủ lâu năm, nửa bình này chính là phần rượu tinh túy nhất, thực là mê người. Nhưng nói thế nào thì rượu này cũng để quá lâu rồi, không biết đã quá đát chưa.

Tôi nhớ rõ thứ rượu cổ nhất ở Trung Quốc là rượu khai quật được ở Hà Nam năm 1980 trong một ngôi mộ cổ cuối thời nhà Thương (từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XI TCN). Hiện tại đã được đưa vào viện bảo tàng cố cung, sơ sơ cũng được hơn 3000 năm tuổi. Nghe nói khi bật nắp vò rượu ra mùi hương đã quật ngã vài người, cũng không rõ mấy người này có uống thử hay không nữa, nếu không thì đã có cái mà tham khảo.

Bàn Tử dùng dao chấm một cái, định thử một ngụm thì bị tôi giữ chặt lại: “Anh chán sống rồi hả? Đồ quá đát cẩn thận ăn vào đau bụng đó.”

Bàn Tử nói: “Cậu chả hiểu cái khỉ biển gì cả, rượu ủ trong hầm có để mấy ngàn năm cũng không lo hỏng. Nghe nói ăn bã rượu nghìn năm dưới đáy bình còn có thể trường sinh bất lão, nghe đâu tổ tông chúng ta có người còn đi đổ đấu chỉ vì mấy bình rượu này. Mình chỉ nếm thử một tí chắc không sao đâu, cùng lắm thì đau bụng một trận.”

Còn chưa nói hết câu, Phan Tử đã bước tới tung một cước đá cho vò rượu kia ngã chổng kềnh, chất rượu màu đen cùng với bã rượu dưới đáy chảy tràn ra đất. Một mùi hương nồng đậm lập tức xông thẳng vào mũi, bàn Tử vừa định nổi giận thì Phan Tử đã nói: “Đừng nóng, anh xem trong đống bã rượu kia có cái gì?

Tôi và Bàn Tử ngoảnh lại thì thấy giữa đống bã rượu màu đen trông như bùn lầy có rất nhiều sợi màu đỏ sậm, giống như sợi bông xổ ra từ những cái chăn cũ, thứ này chúng tôi rất hay gặp trong những quan tài bị ngâm nước.

Bàn Tử lấy dao găm gảy gảy mấy cái, sắc mặt biến đổi. Tôi qua ngó một cái thôi cũng thấy da đầu tê rần, cảm giác cực kì ghê tởm, chỉ muốn nôn ra một trận.

Những sợi màu đỏ này là một khối thi thể trẻ con còn chưa rữa nát, thịt gần như đã tan vào với rượu nhưng da và xương vẫn ở dưới đáy nên mới hình thành một mớ trông như sợi bông rách nát.

Phan Tử thấy chúng tôi trợn mắt há mồm, bèn ngồi xuống, nói: “Đây là một loại rượu ở Quảng Tây có tên ‘Hầu đầu thiêu’, thứ này không phải người mà là khỉ con chưa đầy tháng. Có thể là rượu do triều đình Nam Tống tiến cống khi nước Đại Kim của người Nữ Chân còn cường thịnh, ủ trong hầm đến giờ.” Nói rồi vỗ vai Bàn Tử, dùng dao găm khêu một ít ‘sợi bông’, làm một động tác cung kính mời: “Có trường sinh bất lão hay không thì tôi chịu, nhưng nghe nói công hiệu tráng dương cũng không tồi. Anh thử xem, đừng khách khí.”

Bàn Tử ghê tởm hất con dao ra, mắng vốn mấy câu, rồi hỏi Phan Tử: “Thằng oắt này sao mà hiểu rõ thế? Con mẹ nó, hay anh đã từng uống cái thứ rượu này rồi hả?”

“Lúc vào núi Nam Cung ở Thiểm Tây tôi đã gặp những hũ rượu như thế này, khi đó Đại Khuê cùng với một người khác lấy thử một hũ đem ra. Từ đầu tôi đã thấy có gì đó không ổn nên không dám chạm vào, nhưng hai người kia không nghe. Kết quả uống đến cạn bình mới phát hiện thứ ở dưới đáy, sau đó vì chuyện này mà Đại Khuê phải nằm viện hai tháng.”

Nói đến Đại Khuê, Phan Tử lại có vẻ bồi hồi: “Tôi cũng chẳng ghét bỏ gì anh, nếu có ý hại anh tôi đã chờ anh uống một ngụm rồi mới đá ngã cái bình cho anh mất mặt chơi.”

Bàn Tử mặt mày nhăn nhó, muốn nổi cáu cũng không tìm ra cớ gì, trông rõ buồn cười.

Lúc này pháo lạnh đã lần lượt tắt, bóng tối lại bao phủ. Chúng tôi bật đèn pin, không khí xung quanh thoáng cái như nén chặt lại.

Nghỉ ngơi một lát, lại một lần nữa xung phong mở đường, Bàn Tử đòi lại cây súng trường bảo bối của hắn, lại kéo chốt an toàn ra, đây thực chất là một động tác quen tay của mấy người mang súng nhằm lấy thêm cho mình ít can đảm. Hắn nhìn hai mộ đạo hai bên, khẽ hỏi: “Đi hướng nào?”

Chúng tôi đều định thần lại, đúng lúc này Thuận Tử chỉ sang bên trái, nói: “Bên này có vẻ ổn hơn.”

Bình thường, khi gặp những tình huống thế này thì đều là Phan Tử hoặc tôi trả lời. Bây giờ Thuận Tử vốn nhu thuận lại liều lĩnh nêu ý kiến, khiến Bàn Tử không hiểu ra sao, bèn hỏi lại: “Vì sao?”

Thuận Tử chiếu đèn pin xuống mặt đất trước con đường bên trái, chúng tôi nhìn lên thì thấy ở một chỗ khuất tầm mắt cạnh hành lang có khắc vài kí tự tiếng Anh.

“Vừa rồi tôi tình cờ trông thấy, tôi nghĩ có người muốn chỉ đường cho các vị.” Hắn nói với chúng tôi.

Chương 36: Kí hiệu

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi ngồi thụp xuống, cố gắng đọc mấy kí tự tiếng Anh này thêm lần nữa, nhưng vẫn không có kết quả. Những đường nét này quá mức lộn xộn, tuy có thể nhận ra nó chính là từ chúng tôi đã thấy ở cửa động vuông ban nãy, nhưng rốt cuộc hợp thành chữ gì thì không thể dịch ra nổi, khiến tôi thậm chí bắt đầu hoài nghi đây không phải chữ cái tiếng Anh.

Bàn Tử cũng tỏ ra hiếu kì, hỏi: “Anh chắc chắn cái này không phải do ông Ba nhà anh lưu lại chứ?”

Phan Tử gật đầu, tỏ ý khẳng định tuyệt đối: “Ông Ba không màu mè như thế, nếu phải lưu lại kí hiệu, bình thường chỉ cần nhìn một cái là đoán ra. Đây chắc chắn không phải ký hiệu do ông Ba để lại, tôi thấy nên cẩn thận một chút. Kí hiệu chưa chắc đã dùng để chỉ đường đâu.”

Tôi hiểu ý của Phan Tử, nếu kí hiệu này không dùng để chỉ đường thì có thể là một loại cảnh báo nguy hiểm. Nhưng lúc ở ngôi mộ dưới đáy biển kia, sau khi trông thấy mấy kí hiệu này cũng không xảy ra chuyện gì nguy hiểm. Hơn nữa hành lang có hai nhánh, không rẽ vào nhánh này thì cũng vào nhánh kia, cả hai đều không chắc chắn, chọn nhánh nào cũng như nhau cả, lúc này do dự cũng vô ích.

Vậy là Bàn Tử vẫn xung phong đi đầu, tôi bám theo sau, tiến vào hành lang. Bên trong rất rộng, đủ cho hai con xe cam nhông sánh vai tiến vào. Bàn Tử chui vào, nói đây là la đạo, chính là đường dành cho xe la kéo lúc xây dựng công trình. Khả năng này rất lớn, bởi vì tôi chưa bao giờ thấy mộ đạo nào rộng đến thế. Trên mặt đất còn có thể nhìn thấy lờ mờ những vết bánh xe từ thời đó, nhưng lạ thay bên trong hành lang này rất lạnh, nhiệt độ không biết đã giảm bao nhiêu nhưng lại có gió lạnh từ bên trong thổi ra, hình như nó thông ra ngoài trời. Chúng tôi đều biết cổ mộ nào cũng chú trọng sự kín đáo, vậy gió này từ đâu thổi tới?

“Đây là tự lai phong” Phan Tử cũng bị bầu không khí ở đây ảnh hưởng, hạ giọng nói với tôi: “Các cụ chúng ta ngày xưa gọi cái này là quỷ thở, trong những ngôi mộ lớn thường xuyên gặp chuyện này, không có gì nguy hiểm đâu.”

“Có căn nguyên gì không? Nó sinh ra như thế nào?” Tôi hỏi.

Phan Tử lắc đầu: “Từ xưa truyền lại chỉ có thuyết pháp, cũng chẳng ai nghiên cứu làm gì, hơn nữa mấy cái chuyện thế này tốt nhất đừng có nghiên cứu.”

Tôi thầm nghĩ cũng phải thôi, vào thời đó dân trộm mộ đều là vì miếng cơm manh áo, chỉ cần biết có nguy hiểm hay không, chứ còn các hiện tượng kì quái sinh ra như thế nào thì cũng không hơi đâu mà bận tâm.

Hành lang đoạn đầu còn bằng phẳng, một lúc sau đã bắt đầu phát hiện tình trạng sụt lún, mặt đá vỡ vụn. Vô số phiến đá đen lộ ra trên mặt đất, khiến con đường trở nên cao thấp nhấp nhô, đây là thiệt hại tự nhiên gây ra do sự vận động của vỏ trái đất. Hai bên hành lang cách một đoạn lại có một cái xà hình vòm gia cố, bên trên đều khắc hình rồng uốn quanh, rất nhiều cây xà đã bị rạn nứt. Tôi nghĩ nếu không có mấy cái trụ này gia cố thì hành lang đã sụp từ đời tám hoánh nào rồi.

Dọc đường không ai mở miệng, mọi người đều lặng lẽ đi hết bảy, tám mươi mét. Bỗng Bàn Tử đột ngột dừng lại, nói: “Cửa à?”

Chúng tôi dừng lại, chiếu đèn pin về phía trước, chỉ thấy cuối hành lang xuất hiện một cánh cửa mộ bằng đá đen. Mái cong và ngói úp bên trên cánh cửa đều trạm trổ hoa văn vân long, thảo long và song sư hí cầu. Bản lề cửa hình như làm từ kim loại, trên cánh cửa bên trái khắc hình một con dê, bên phải khắc hình một thứ gì đó không rõ tên. Đến gần ngắm nghía mới biết cửa đá đóng rất chặt, khe cửa lẫn chốt cửa đều dùng đồng lỏng bịt kín, nhưng trên bụng con dê ở cánh cửa bên trái đã bị người ta nổ ra một cái lỗ to bằng miệng chậu, gió lạnh chính là từ đây thổi ra.

“Đây không phải cửa.” Tôi đẩy thử: “Không mở ra được thì không phải cửa. Đây là phong thạch, chỉ là một khối đá lớn chồng lên chỗ này, sau đó dùng đồng nóng chảy bịt kín lại thành một khối hoàn chỉnh, tạo hình cánh cửa. Bàn Tử nói đúng, hành lang này là la đạo, xây rộng như thế để la dễ dàng vận chuyển những khối đá này.”

Bàn Tử ngồi thụp xuống, ngắm nghĩa cái lỗ bị phá ra trên cánh cửa. “Trong mộ đạo có phong thạch, xem ra mộ đạo này rất quan trọng, có thể thông đến trung tâm địa cung. Coi như chúng ta đã đi đúng đường, dấu hiệu kia có lẽ thật sự muốn chỉ đường cho chúng ta. Hơn nữa nổ ra một cái lỗ to tổ chảng thế này chứng tỏ bọn họ đã vào rồi.” Nói rồi thò nửa cái đầu vào, cầm đèn pin chiếu khắp xung quanh.

Chúng tôi hỏi hắn thế nào, bên trong có gì không?

Hắn nói: “Vẫn là đường đi thôi, bên trong còn một tảng phong thạch nữa, xem ra Vạn Nô hoàng đế từ nhỏ đã có cảm giác thiếu an toàn.”

Tôi nói: “Nhảm ruồi. Đến cửa nhà anh còn có ba lần khóa, phong thạch ít nhất cũng có ba khối, đó là ba nghìn thế giới, anh hiểu không?”

Bàn Tử không nghe thấy tôi nói gì, hắn ném cái đèn pin vào bên trong, co người chui qua cái lỗ, bước về phía tảng phong thạch trước mặt. Tôi nghe tiếng hắn lắp bắp một mình: “Đệch, lạnh sun người.”

Phan Tử đưa khẩu súng cho hắn cầm rồi cũng chui sang theo hắn. Tôi bám ngay sau Phan Tử, còn Thuận Tử đi sau cùng, cả đám chui hết vào động. Quả nhiên đằng sau vẫn là mộ đạo, nhiệt độ hạ thấp, người tức khắc có cảm giác run rẩy. Phía trước vẫn còn một khối phong thạch, nhưng khối đá này có vẻ đơn giản, không thấy mái cong trang trí bên ngoài. Trên mặt tảng phong thạch này cũng bị nổ ra một cái lỗ còn to hơn cái lỗ đầu tiên.

Chúng tôi không dừng lại, tiếp tục tiến tới, phía sau vẫn như thế, mộ đạo cứ thế kéo dài, trước mặt lại là một tảng phong thạch, bên trên có một cái lỗ lớn.

“Khốn kiếp. Con mẹ nó, vẫn chưa hết à.” Bàn Tử rủa xả.

Tôi đáp: “Chuyện thường thôi, phong thạch thông thường đều nặng bảy tám tấn, mộ đạo hơi dài một chút sẽ có sáu, bảy tầng phong thạch. Tình hình xem ra khá thuận lợi, độ dày phong thạch cũng chỉ có một nửa. Tổ tiên chúng ta ngày xưa không có thuốc nổ, gặp những cổ mộ có phong thạch chắn đường thế này thì chỉ có nước bó tay.”

Trong khi chuyện phiến, chúng tôi đã chui qua khối phong thạch cuối cùng. Trước mắt chúng tôi xuất hiện một ngã tư đường. Một mộ đạo khác cắt qua trước mặt,  giao vuông góc với hành lang chúng tôi đang đứng, mà cái mộ đạo này rộng gấp rưỡi hành lang, chiều cao còn lớn hơn rất nhiều.

Chúng tôi lục tục đi đến giữa ngã tư đường, phát hiện mộ đạo này có màu đỏ hồng chứ không đen thui như vừa nãy, phía trên vẽ những bức bích họa rất đẹp, dường như nối liền với nhau, kéo dài đến những nơi mà ánh sáng đèn pin không chiếu tới được. Thậm chí trên đỉnh mộ đạo cũng là những bích họa màu sắc rực rỡ.

Tôi xuýt xoa tán thưởng: “Đây nhất định là mộ đạo chính thông thẳng đến quách điện rồi, cũng chính là trục đối xứng của cả tòa huyền cung dưới lòng đất, nếu không sẽ không trang trí hoa lệ cỡ này.”

“Đừng có vỗ tay tán thưởng. Chúng ta là trộm, vấn đề muôn thuở vẫn là đi hướng nào?” Bàn Tử hỏi: “Mau tìm xem quanh đây có dấu hiệu chỉ đường nào không?”

Sau mấy lần đi xuyên qua những đường hầm chật chội, chúng tôi đã sớm mất đi cảm giác về phương hướng. Muốn phân biệt mộ đạo chính này đầu nào thông đến trung tâm địa cung, đầu nào thông đến cửa mộ thì buộc phải dựa vào dấu hiệu của người đi trước, bằng không chỉ có nước tung tiền xu mà đoán hướng.

Chúng tôi chiếu đèn pin xẹt qua xẹt lại tìm kiếm kí hiệu, những bức bích họa màu đỏ phản chiếu lại một thứ ánh sáng khiến người ta có cảm giác hết sức bất an. Bích họa nơi này cùng một kiểu với tấm bích họa chúng tôi thấy trong khe suối nước nóng khi mới lên núi, tất cả đều là mỹ nữ cùng với xe tiên cưỡi trên mây, hình như không có ý nghĩa gì đặc biệt. Đương nhiên nếu mời nhà khảo cổ đến đây chắc chắn sẽ nói ra vài điều hay ho, nhưng dưới con mắt của chúng tôi, bích họa không có tính chất tự thuật thì đơn thuần chỉ để trang trí, cái ý nghĩa tượng trưng gì gì đó chúng tôi không nhìn ra nổi.

Mới tìm được một lúc, Phan Tử bên cạnh đột nhiên “ồ” lên một tiếng, gọi chúng tôi lại.

Chúng tôi vây quanh xem xét, quả nhiên phát hiện một kí hiệu khắc ở một góc tường mộ đạo.

“Con mẹ nó, chúng ta gặp đồng chí Lôi Phong sống (*) của giới đổ đấu rồi, thế là đỡ rách việc.” Bàn Tử nói: “Chúng ta cứ lần theo đường này là đến nơi.”

Tôi lắc đầu, bởi vì kí hiệu này trông không giống mấy kí hiệu chúng tôi đã tìm được trước đó.

(*) Nguyên văn: Hoạt Lôi Phong (

活雷

)Lôi Phong nổi tiếng vì bản tính tốt bụng, thích giúp đỡ người khác, ‘Lôi Phong sống’ ý muốn ca ngợi người tốt làm việc tốt thôi.

Chương 37: Kí hiệu mới

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi đã không còn nhớ rõ hình dạng kí hiệu trong mộ huyệt dưới đáy biển, nhưng hai kí hiệu khắc trên thành con sông đào và trên cửa vào hành lang thì vẫn còn nhớ như in, chắc chắn kí hiệu mới này hoàn toàn khác với hai cái đó. 

*nghi vấn hack – phải chăng cả 3 cái kí hiệu mới gặp này đều là chữ Nữ Chân và không phải của anh Bình để lại :v*

Bàn Tử và Phan Tử nhắc đến chữ cái tiếng Anh đều ù ù cạc cạc, chỉ cần là tiếng Anh thì bọn họ coi chữ nào cũng như chữ nào, cho nên vừa rồi mới không để ý. Nhưng tôi đã học xong đại học, từng thi bằng CET (*), thành tích có cùi mía đến đâu thì ít ra cũng biết đây là hai từ khác nhau.

(*) Nguyên văn là “tứ lục cấp” (

四六

), tức cuộc thi tiếng Anh cấp quốc gia lớn nhất của Trung Quốc, tên tiếng Anh là Colledge English Test, viết tắt là CET. Kết quả thi chia làm 2 mức chuẩn là 4 và 6, 4 là mức cơ sở, 6 là mức nâng cao, do đó nó còn có tên gọi là tứ lục cấp.

Tôi vẫn nghĩ đây chỉ đơn thuần là một kí hiệu chỉ đường, cùng loại với những hình vẽ đơn giản, chỉ có ý nghĩa ‘đi theo hướng này’ mà thôi. Nhưng nếu chỉ đơn thuần dùng để chỉ đường thì kí hiệu không nên thay đổi mới phải. Dựa vào tâm lý thông thường của con người thì sau khi tiến vào mộ đạo, sự chú ý sẽ hoàn toàn đặt vào cảnh vật xung quanh, lúc khắc kí hiệu không thể có chuyện cố ý thay đổi cho đa dạng. Hơn nữa kí hiệu được khắc rất vội vàng chứng tỏ người để lại kí hiệu cũng không nhàn nhã thong thả gì, khả năng hắn có hứng muốn thay đổi kí hiệu lại càng nhỏ.

Vậy chỉ còn một lí do nữa, đó là những kí hiệu này không mang cùng ý nghĩa. Người này vừa dẫn đường, mà hình như cũng vừa muốn báo cho chúng tôi tin tức gì đó.

Vấn đề ở chỗ tin tức kia rốt cuộc là gì? Những chữ này không phải tiếng Tây, nhưng lại là từ đơn do chữ cái tiếng Anh ghép thành, thực sự không nhìn ra là thứ tiếng gì, chỉ biết chắc chắn không phải những thứ tiếng thường gặp như Pháp hay Đức, bởi vì thứ tự sắp xếp chữ cái rất vô tổ chức.

Vả lại khi chúng tôi nhìn thấy kí hiệu dưới đáy sông và trước cửa vào hành lang, lúc tiến vào cũng không gặp nguy hiểm gì, vậy nếu đặt giả thiết kí hiệu đó mang ý nghĩa: có thể an toàn đi vào, thì cái kí hiệu lạ lùng khắc ở đây chắc chắn sẽ mang ý nghĩa khác hẳn. Chắc gì đây không phải một loại cảnh báo, ý nói hướng mộ đạo này có nguy hiểm đáng sợ gì đó?

Đám Bàn Tử nghe tôi thao thao một tràng cũng hiểu kí hiệu này có vấn đề. Chúng tôi đứng yên tại chỗ, tạm thời không dám manh động.

Nhưng đến được nơi này cũng coi như một bước đột phá không tồi, có thể nói đã thành công một nửa. Bây giờ đi về hướng nào của mộ đạo cũng không còn quan trọng, cho dù không có kí hiệu chỉ đường, chúng tôi vẫn không hề lo lắng.

Chẳng qua sau khi tiến vào địa cung, đặc biệt là mộ đạo chính thì mọi việc nhất định phải cẩn thận hết sức thôi. Bởi lẽ nếu trong cổ mộ có cơ quan bẫy rập thì chắc chắn sẽ đặt ngay khúc này, tốn chút thời gian ở đây cũng là phải đạo.

Phan Tử nói với tôi: “Cậu Ba, trong số chúng ta chỉ có cậu là biết tiếng Tây, nếu đến cả cậu cũng không đọc được thì cả lũ bó tay rồi. Hay là cậu phiên dịch mấy chữ tiếng Anh này ra tiếng Trung cho chúng tôi nghe, dù không hiểu ý cả câu nhưng chúng ta cũng có thể đoán mò mà?”

Phan Tử đến một chữ tiếng Anh bẻ đôi cũng không biết, có lẽ anh ấy tưởng tiếng Anh thực ra cũng giống tiếng Trung, mỗi chữ cái mang một ý nghĩa 

*=))))*

 Tôi cũng lười xóa mù chữ cho anh, bèn nói: “Muốn đoán chi bằng đoán xem kí hiệu này do ai để lại, mục đích để lại là gì, như thế xác suất đoán trúng ý nghĩa còn lớn hơn.”

Bàn Tử nghi hoặc nói: “Ai để lại thì chịu chết rồi, nhưng mục đích còn phải đoán nữa sao? Cái này không phải để dẫn đường cho chúng ta à?”

Tôi lắc đầu: “Ban đầu tôi cũng nghĩ vậy, nhưng giờ xem ra không phải. Nếu thực sự viết cho chúng ta thì ít nhất cũng nên dùng kí hiệu mà chúng ta đọc được chứ. Người khắc mấy kí hiệu này dùng hình thức cực kì tối nghĩa, xem ra mục đích không phải là giúp chúng ta. Chúng ta có thể đã ăn may, kí hiệu này rõ ràng là để lại cho người khác.”

Phan Tử ngẫm nghĩ một lúc, cảm thấy có vẻ hợp lý, lại hỏi: “Vậy người khác là ai?”

“Đám người của A Ninh đông như kiến, có thể họ chia ra vài nhóm để hành động. Kí hiệu này có thể là ám hiệu giữa mấy tiểu đội của bọn họ.” Bàn Tử đáp.

Tôi gật đầu, tỏ ý khả năng này có thể xảy ra, nhưng không có căn cứ, tình huống thực tế không thể phán đoán. Tôi nói: “Cũng có thể còn nguyên nhân khác nữa, bây giờ có đoán cũng vô ích.”

Điều tôi quan tâm nhất chính là tin tức ẩn chứa trong kí hiệu, kí hiệu này hẳn là cùng loại với kí hiệu trong bản đồ thám hiểm quốc tế. Có những con đường mòn xuyên qua rừng rậm nguyên sinh, trên bản đồ luôn phân chia thành nhiều cấp bậc nguy hiểm. Một kí hiệu ngoài việc cho anh biết chỗ này có thể đi được thì còn nói rõ trên con đường này có thể gặp phải thứ gì, ví dụ như trên đoạn sông có hà mã sẽ có ám hiệu mang ý nghĩa ‘hà mã’ chẳng hạn.

Đi đến đây kí hiệu đột ngột thay đổi, khiến người ta không thể không thắc mắc ý nghĩa đặc biệt của kí hiệu kia. Phải chăng đây là cảnh báo trong mộ đạo này có bánh tông? Cái này thực sự làm cho người ta buồn bực.

Tôi chợt nghĩ tới dòng chữ cảnh báo trên xe Jeep ‘Có gấu xuất hiện, chú ý!’ Có lẽ người lưu lại kí hiệu cũng có cách thức làm việc giống khi thám hiểm. Kí hiệu này có lẽ muốn nói ‘Có bánh tông xuất hiện, chú ý!’. Tôi lập tức tưởng tượng nếu như có thể sống sót trở ra, mình có nên dán cái kí hiệu này lên con xe Jinbei ở nhà (1) cho nó cá tính không.

Phan Tử không biết tôi đang nghĩ nhăng nghĩ cuội, đột ngột mở lời: “Cũng không đúng, tôi cảm thấy ý nghĩa của kí hiệu này không phải là nhắc nhở có gì đó nguy hiểm. Cậu nghĩ mà xem, trong mộ đạo có nguy hiểm hay không thì phải vào mới biết chứ, không lý gì bọn họ đi vào rồi lại quay trở về mà khắc mấy kí hiệu này. Nói cách khác, kí hiệu này khắc vào thời điểm người đó chuẩn bị tiến vào mộ đạo, ý nói mình đã đi về hướng này, cho người đến sau biết hành trình của mình, còn bên trong có thứ gì thì lúc khắc người đó chắc chắn không biết. Cái này kể cũng đáng chú ý, gọi là ‘truy tung ngôn ngữ’.

Tôi chưa từng nghe qua thứ này. Bàn Tử hỏi lại: “Truy tung ngôn ngữ là cái gì?”

Phan Tử nói: “Hồi tôi tham chiến ở Việt Nam, khi còn trong quân ngũ có học một khóa văn hóa. Do hoạt động trong rừng nên phải học rất nhiều về cứu hiểm, ‘truy tung’ ngôn ngữ chính là một khi lạc giữa rừng rậm, trong lúc tìm đường anh đồng thời phải đánh dấu lại lộ trình của mình. Phương pháp đánh dấu này cũng có những quy luật đặc biệt, sau này đội cứu viện nhìn thấy dấu hiệu của anh có thể biết anh đã gặp phải chuyện gì ở đây. Ví dụ như đồ ăn đầy đủ đánh dấu một kiểu, đồ ăn hết trơn đánh dấu một kiểu, trong đội có người gặp nạn lại đánh dấu một kiểu khác. Đội cứu viện đi theo những dấu hiệu này, dọc đường có thể biết được tình hình gần đây của anh. Nếu sự tình chuyển biến cực xấu, họ có thể dùng kí hiệu này làm căn cứ nghĩ sách lược cứu viện. Nghe nói thứ ngôn ngữ này là do người Mỹ phát minh ra khi đánh Việt Nam.”

Bàn Tử hỏi hắn: “Anh đã được học rồi, vậy có hiểu gì không?”

Phan Tử lắc đầu nói: “Tôi nói là có lẽ thôi. Những ám hiệu này hoàn toàn không giống những cái tôi được học lúc ấy, tôi chịu không nhận ra nổi, nhưng dám cá đây là một loại truy tung ngôn ngữ. Chúng ta không cần phải cố gắng giải mã nó, kí hiệu thay đổi có lẽ chỉ cho thấy hắn bị mắc kẹt trong này.”

Bàn Tử thở dài, nói: “Tình hình không ổn nha. Nếu thực sự là ‘truy tung ngôn ngữ’, chứng tỏ kẻ để lại kí hiệu này, con mẹ nó, cũng không chắc chắn vào lựa chọn của mình. Hắn chỉ chuẩn bị cho đội thứ hai thôi, nói cách khác, hắn không dám tin mình đi vào đây còn có thể sống sót trở ra.”

Phan Tử nói: “Phải! Cho nên có nói nữa cũng chẳng để làm gì. Tôi thấy nếu kí hiệu này đã không dành cho chúng ta thì chúng ta cứ coi như không thấy nó là xong. Nhiệm vụ chính của chúng ta bây giờ là tìm được ông Ba, kí hiệu không phải do ông Ba khắc, nói cách khác ông Ba không nhất thiết đi hướng này, chúng ta đi theo cho dù thuận lợi đến mấy cũng không gặp được ông Ba. Chúng ta cứ đi con đường của riêng mình, trước kia tôi đã từng đổ không ít đấu, nào phải chưa từng gặp tình huống như thế này, tôi không tin chúng ta không thể tự mình dò được mộ đạo.”

Luận điệu này đúng là hợp ý Bàn Tử, hắn gật đầu lia lịa, nói với chúng tôi: “Lão Phan, câu này bắt đầu giống tiếng người rồi. Chi bằng chúng ta chia làm hai ngả, anh với Tiểu Ngô đi bên kia, tôi với Thuận Tử đi bên này, chúng ta xem xem ai may mắn hơn. Dù sao cũng là đường thẳng, nếu đi đến cùng mới phát hiện sai hướng thì cứ lộn ngược lại là xong, nhóm còn lại đi đúng hướng sẽ chờ bên ngoài quách điện. Chứ cứ đứng chôn chân ở chỗ này mà do dự cũng không phải cách hay.”

Tôi cảm thấy làm thế không ổn, bèn nói: “Nói vậy không sai, chỉ e mộ đạo chính này không dễ đi thôi. Anh nhìn mấy phiến đá bốn thước dưới chân mà xem, loại mộ đạo này rất dễ chứa tên lạc hoặc cơ quan dạng bản xoay. Lỡ đâu hai nhóm đi đến tận cùng đều chết trong mộ đạo thì chúng ta vừa chia tay coi như vĩnh biệt luôn.”

Bàn Tử cười nhạo tôi: “Nói vậy thì cậu không nên đến đây mới phải, cậu ăn no rửng mỡ còn xuống đây làm gì. Một khi đã xuống địa cung thì không nên sợ mấy chuyện này.”

Tôi tự nhủ đó là ông phòng xa thôi, chứ nguyện vọng đời ông vẫn là làm một thị dân quèn hầu bao bạc triệu. Không biết năm nay gặp phải cái vận chó má gì mà toàn đụng bánh tông, đến nỗi bây giờ trơ ra cóc sợ nữa, nhưng muốn cẩn thận một tí cũng không được, đây là chuyện gì chứ.

Phan Tử cũng nghĩ giống tôi, bèn nói với Bàn Tử: “Không, cậu Ba nói rất đúng. Còn một lý do nữa là đoàn của A Ninh chắc chắn ở quanh đây thôi, chúng ta không phòng bánh tông thì cũng phải phòng người chứ. Hai đánh một không chột cũng què, hơn nữa chẳng may một nhóm biến mất không trở về, nhóm còn lại biết phải làm sao? Chúng ta đi cùng nhau vẫn tốt hơn, còn có đèn chiếu sáng.”

Thuận Tử từ đầu vẫn ngậm hột thị giờ cũng tỏ thái độ: “Dù thế nào tôi cũng phải đưa cậu chủ Ngô tới nơi, tôi chắc chắn sẽ đi theo cậu ta.”

Bàn Tử giơ tay đầu hàng ba người chúng tôi: “Hai người theo chủ nghĩa sùng bái cá nhân đấy à. Con mẹ nó, tôi bị cô lập à. Thôi coi như tôi xui xẻo, các người nói gì thì tôi nghe đó, cùng lắm là chết chung chứ gì.”

Phan Tử nói: “Trước hết chúng ta cứ đi theo kí hiệu này, sai đường thì quay lại, hành sự cẩn thận là được.”

Chúng tôi gật đầu ưng thuận. Lòng tôi cũng hiểu rõ, dù sao chuyện đã đến nước này, chúng tôi cứ chôn chân ở đây tranh cãi đến mùa quýt cũng không xong, bây giờ đi hướng nào, đi như thế nào hoàn toàn dựa vào vậnmay.

Mọi người đứng dậy, Phan Tử liền lôi ra một cây gậy gấp dò đường giống như gậy của người mù, dò dò trên mặt đất, chúng tôi liền đi theo hướng có khắc kí hiệu kia.

Mỗi bước đi đều vô cùng cẩn trọng, trong lòng tôi thực ra đã ngán đến tận cổ cái nơi vừa đi vừa nớp nớp lo sợ thế này, nhưng đâu còn cách nào khác. Đã vào đến đây thì không thể tránh khỏi bước này, bằng không bao nhiêu khổ cực phía trước chẳng phải là phí hoài sao.

Cứ ngỡ sẽ phải mất ít nhất nửa giờ dò dẫm trong mộ đạo, ai ngờ đoạn mộ đạo này ngắn ngủn, đi chưa nổi hai trăm mét đã đột ngột mở rộng, cuối mộ đạo xuất hiện một ngọc môn cực lớn.

Tôi liếc mắt một cái đã nhận ra đây chính là đại môn của minh điện, bởi vì cửa mộ sẽ không dùng loại đá đẹp cỡ này. Phần dưới cánh cửa đã bị nổ bay, lộ ra một cái động trống không. Rõ ràng đã có người vào đây, không biết đó là đám người A Ninh hay là ai khác.

Tôi mừng thầm trong bụng, nói vậy chúng tôi đã đi đúng đường rồi, phía sau cánh cửa này chính là phần trung tâm của địa cung. Trong đầu tôi lập tức hiện ra rất nhiều kết cấu lăng mộ kinh điển. Tuy đây là hoàng lăng Đông Hạ nhưng lại do người Hán làm chủ thầu xây dựng, hẳn là cũng không khác nhiều so với mộ táng ở Trung Nguyên, khi tiến vào sẽ trông thấy những gì? Tôi bất giác hồi hộp, không biết quan tài của Vạn Nô vương trông như thế nào nhỉ? Xung quanh có quan tài bồi táng hay không?

Ngọc môn của mộ thất tám chín phần sẽ có cơ quan, tường đá hai bên rất có thể rỗng ruột, bên trong chứa bột đá độc. Hơn nữa loại cơ quan này thường là không thể phá giải, bởi vì mộ thất một khi đóng lại sẽ không tính đến chuyện mở ra, cho dù có là công nhân xây dựng cánh cửa cửa này thì sau khi cửa đóng cũng không thể vào được.

Nhưng cửa này đã bị nổ tung, nếu có cơ quan thì cũng bị phá hủy tan tành rồi, cái này chắc khỏi cần lo lắng. Mấy người chúng tôi khom lưng, nối đuôi nhau chui vào, tiến nhập mộ thất đằng sau cánh cửa. Bàn Tử cẩn thận châm một cây pháo lạnh để chiếu cho sáng hơn, ngay lập tức chúng tôi có thể nhìn rõ bố trí bên trong mộ thất.

Trong khoảnh khắc pháo lạnh bùng lên, chúng tôi chứng kiến một cảnh tượng khiến ai nấy đều nín thở. Mọi người không ai ngờ mình sẽ chứng kiến cảnh tượng như thế, gần như đều đông cứng tại chỗ không thể nhúc nhích.

———————————————-

(1) Đầy đủ: Kim Bôi Tiểu Diện Bao (

金杯小面包

) Tên nhãn xe của Ngô Tà, trông như thế này này:

About these ads

Chương 38: Người chết trên đống vàng

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Mộ thất này so với hầm rượu ban nãy, cả về chiều cao lẫn chiều rộng đều gấp mười lần. Bốn cây cột trụ khổng lồ đặt ở bốn góc mộ thất điêu khắc đầy phù điêu, trên nền mộ thất ngồn ngộn của cải, khi pháo lạnh bùng cháy, chúng tôi mới phát hiện ra đó là những núi dụng cụ bằng vàng bạc, đá quý, lưu ly, trân châu mỹ ngọc. Đèn pin của chúng tôi chiếu lên khiến chúng tỏa sáng lấp lánh, quả thực khiến người ta lóa mắt.

“Ôi má ơi………” Mắt Bàn Tử trợn trừng, lớn hơn mắt bò, gương mặt vặn vẹo.

Tôi cũng quá đỗi kinh ngạc, gần như không thể đứng vững. Phan Tử lẩm bẩm: “Tôi bảo rồi mà, quốc khố của người Nữ Chân lẫn vật phẩm tiến cống hàng năm của Nam Tống đều ở đây. Con mẹ nó, đây đã nói là chỉ có chuẩn.”

Bước chân vào cái nghề này bao lâu, những thứ tôi nhìn thấy trước đây so với nơi này đúng là đồng nát sắt vụn. Tôi nghĩ bây giờ mình cũng không trốn được số mệnh, không ngờ trong hoàng lăng của một quốc gia nhỏ bé nơi biên giới hoang vu lại có chừng này bảo bối. Chẳng lẽ đúng như lời Phan Tử nói, sau khi Đại Kim diệt vong, toàn bộ bảo bối của nó đều được cất giấu ở nơi này. Vấn đề bây giờ không phải là phát tài nữa, mà chỉ cần nhặt bừa vài món trong đống kia mang ra cũng đủ sống sung sướng cả đời.

Bàn Tử  chỉ muốn lăn xả vào đống vàng bạc kia. Lòng tôi cũng đang gào thét muốn xông lên nhưng vẫn còn một tia lí trí, bèn giữ chặt Bàn Tử, không để hắn vì mờ mắt mà làm liều. Rất nhiều kim khí trong các mộ táng trên bề mặt đều phủ một lớp kịch độc, lăn vào giữa đống vàng rồi trúng độc mà chết thì cũng quá nhảm, mấy thứ này tốt nhất là không nên đụng vào.

Nhưng tôi mải giữ Bàn Tử mà quên béng mất Phan Tử, chưa gì ảnh đã lao vào đống vàng, vốc lên một nắm to kim khí, ngây ra mà nhìn. Ánh sáng phản xạ từ đống vàng chiếu lên khiến mặt anh vàng chóe, cả người phát run. Sau đó anh buông tay, mấy món đồ kia theo kẽ tay anh rơi xuống đất, kim loại va chạm phát ra tiếng leng keng.

Tôi thấy Phan Tử động vào kim khí mà không việc gì, biết kim khí kia không có độc, tảng đá đè nặng trong lòng bỗng chốc biến mất. Tôi không nhịn được nữa, cũng nhảy vào sờ loạn một phen, cái cảm giác nặng trịch này khiến tôi không tự chủ được mà cười lên ha hả. Tôi không nhớ có ai đó đã nói: Sự ham mê vàng của con người đã ăn sâu vào gen, biến thành bản năng bẩm sinh không thể kháng cự. Con mẹ nó, hắn nói không sai tí nào.

Cho dù là người như tôi, tuy bề ngoài vẫn ra vẻ đạo mạo nhưng mỗi khi nhìn thấy vàng bạc châu báu thì sâu trong tâm khảm vẫn rung động mãnh liệt, tôi nghĩ dù có tự lừa dối mình cũng chẳng được. Tôi thích đống của cải này.

Mấy người chúng tôi lập tức quên sạch sẽ mọi chuyện, vội vàng chạy ào đến đống của cải này vơ vét một mớ, lại chạy đến đống kia nhặt lên một cái phát quan khảm đầy đá quý ngắm nghía thật lâu. Mấy thứ này thực sự đều là cực phẩm, chỉ cần lấy được một cái cho vào viện bảo tàng cũng thành bảo vật trấn viện. Giờ ở trong đây lại có cả một đống, cứ mặc sức sờ mó, mặc sức dẫm lên cũng không cảm thấy đáng tiếc.

Bàn Tử bên cạnh đã bắt đầu vơ vét của cải. Hắn đổ hết trang bị trong túi ra ngoài, không để lại thứ gì, rồi ra sức nhồi nhét vàng bạc vào. Nhét đầy rồi lại cảm thấy không ổn, liền dốc ra bằng sạch rồi nhặt mấy món khác nhét vào, nhồi nhồi nhét nhét lại còn hú lên mấy tiếng vô nghĩa.

Chúng tôi nhanh chóng phát hiện ra, bất kể có nhồi nhét kĩ đến đâu cũng không thể mang đi một phần vạn của đống bảo vật này. Vừa nhét thứ này vào túi xong lại phát hiện có thứ khác quý giá hơn ở bên dưới, nhét thứ quý giá hơn ấy vào rồi lại phát hiện ra thứ khác nữa mới là cực phẩm chưa thấy bao giờ, vì thế cứ phân vân, không biết chọn thứ nào.

Điên cuồng một lúc lâu, cho đến khi cả đám đều kiệt sức, sự hưng phấn cực độ đã nhường chỗ cho óc tỉnh táo, tôi mới cảm thấy có gì đó không ổn. Tại sao sau khi vào đây tôi không nghe thấy tiếng của Thuận Tử nữa chứ?

Tôi lau mồ hôi trên đầu, đứng lên khỏi đống châu báu, chiếu đèn pin khắp bốn vùng quanh thì thấy Thuận Tử đứng lặng đi trên một đống kim khí, không biết đang nhìn cái gì.

Tôi lại gần hắn, hỏi hắn làm sao vậy, thấy nhiều vàng bạc thế này mà không vui à?

Hắn lặng lẽ chỉ xuống bên dưới, tôi chiếu đèn pin theo hướng hắn chỉ, phát hiện giữa những đống kim khí, vây quanh là vô vàn châu báu có mấy người nằm co quắp, không hề nhúc nhích, hình như đã chết cả.

Tôi giật mình hoảng sợ, bao nhiêu hưng phấn hồi nãy phút chốc tan biến, da gà nổi đầy người.

Bàn Tử và Phan Tử thấy tôi và Thuận Tử đứng ngây ra tại chỗ, lại tưởng chúng tôi phát hiện ra bảo bối gì bèn vội vã chạy lại, thấy mấy cái bánh tông cũng không khỏi giật mình.

Chúng tôi leo xuống khoảng trũng giữa những đống kim khí, cầm chặt đèn pin chiếu thật cản thận, phát hiện kia quả thực là người chết, hơn nữa chết cũng đã lâu. Da thi thể mất nước, quắt queo đông cứng lại như vỏ quất. Lạ một nỗi, mấy người này đều mặc áo khoác nỉ đã mục nát, rõ ràng là trang phục của người hiện đại, bên cạnh còn có mấy ba lô hành quân kiểu cũ cũng đã mục nát đến độ không nhìn rõ hình dạng.

Bàn Tử nghi hoặc hỏi: “Chuyện quái quỷ gì đây? Mấy người này là ai? Đồng nghiệp với chúng ta chăng?”

Tôi lắc đầu, đeo găng tay vào rồi lục lọi quần áo và ba lô của mấy thi thể kia. Những bộ đồ này hẳn là kiểu y phục thịnh hành vào những năm 80, 90, đến bây giờ những người già tầm bốn mươi năm mươi tuổi ở vùng nông thôn Đông Bắc vẫn còn mặc. Lúc ở thôn Doanh Sơn chúng tôi cũng gặp khá nhiều người trung niên mặc thứ này, nhưng xem độ phân hủy thì những người này phải chết từ năm đến hai mươi năm rồi.

Phan Tử hỏi: “Hay họ là người hái thuốc hoặc thợ săn trên núi Trường Bạch đi lạc vào chỗ này, không ra được nên chết ở đây?”

“Không phải đâu.” Tôi kéo quần áo của một khối nữ thi, nhìn vào lỗ tai thì thấy nữ thi này đeo một cái khuyên kiểu cũ, trên tay còn đeo đồng hồ đã rỉ sét từ lâu. “Anh xem, đây là đồng hồ Titoni kiểu cổ (1) của Thụy Sĩ, lúc đó dù là thị trưởng cũng chưa chắc đã mua được. Lai lịch của cô gái này không tầm thường đâu, trông chẳng giống người nông thôn tí nào.”

“Hay đây là mấy du khách lạc đường trước năm 80?” Phan Tử lại hỏi: “Những kí hiệu chúng ta đi theo lẽ nào là do họ khắc lên?”

Tôi lắc đầu, không thể có chuyện họ khắc mấy kí hiệu này, bởi vì kí hiệu kia tôi đã từng trông thấy trong huyệt mộ dưới đáy biển, nhất định là do một người có liên quan khắc, không phải đám người A Ninh thì chỉ còn có Muộn Du Bình. Nói là du khách lạc đường thì cũng có thể, nhưng ai lại lạc đường đến tận đây cơ chứ? Mộ đạo địa cung, nếu gan không đủ lớn thì người thường chẳng ai dám xuống.

Nhưng nếu cô gái này có chút địa vị, ví dụ như là con gái của một vị lãnh đạo, hoặc là có quen biết giới quan chức địa phương thì một khi mất tích hẳn sẽ rất ồn ào, Thuận Tử tuổi cũng không còn trẻ, có thể sẽ biết. Nghĩ thế tôi bèn quay sang, tính hỏi hắn xem trong khoảng thời gian từ năm đến hai mươi năm trở về trước, vùng này có xảy ra vụ mất tích ầm ĩ nào không. Nhưng quay sang lại thấy Thuận Tử không chạy xuống theo chúng tôi mà vẫn đứng chôn chân trên đống vàng, nét mặt đã cứng đờ.

Tôi nghĩ bụng, quái, chẳng lẽ Thuận Tử cũng bị lưỡi thi thai quấn lấy giống Bàn Tử rồi hả? Nhìn kĩ thì cổ hắn trống không, nhưng người hắn lại run lên từng chặp, cũng cảm thấy có gì đó không ổn.

Bàn Tử hỏi hắn: “Làm sao vậy? Sợ người chết à? Vừa nãy có thấy anh sợ sệt gì đâu?”

Thuận Tử phớt lờ Bàn Tử, lê từng bước chân nặng nề tới bên một khối thi thể rồi ngồi thụp xuống, trông hắn căng thẳng như muốn ngã sấp.

Trong khoảnh khắc ấy, tôi chợt hiểu ra mọi chuyện.

Bàn Tử định chạy đi đập hắn mấy cái nhưng bị tôi khoát tay cản lại. Hắn thì thầm hỏi: “Hắn làm sao vậy? Trúng tà à?”

Tôi lắc đầu. Mấy khối thi thể này, nếu tôi đoán không nhầm thì có thể là nhóm người được cha Thuận Tử dẫn vào núi Trường Bạch mười năm về trước mà hắn đã từng kể cho tôi nghe. Mà khối thi thể Thuận Tử đang nhìn chăm chăm kia có lẽ chính là cha hắn, cho nên hành động của hắn mới căng thẳng đến thế.

Không ngờ hắn đã đoán đúng, đi theo chúng tôi thật sự có thể tìm thấy di thể của cha…

Nhưng đây chỉ là trùng hợp thôi sao? Nhóm người mười năm trước có thật là đi lạc vào chỗ này? Hay là còn có ẩn tình gì khác mà chúng tôi chưa biết?

————————————–

(1) Nguyên văn: Mai hoa biểu (

梅花表

), do hãng Titoni của Thụy Sĩ lấy biểu tượng là một bông hoa mai nên có tên này. Đồng hồ Titoni kiểu cổ có nhiều dạng, đại khái trông như thế này:

Ngoài lề tí, mình ngày càng thích Thuận Tử ~~~

About these ads

Chương 39: Đội thám hiểm mười năm trước

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Thuận Tử rốt cuộc cũng không khóc. Hắn chỉ bị kích động trong chốc lát, sau đó cũng bình tĩnh trở lại, cung kính sửa sang lại tóc tai cho cha. Thi thể đã mất nước nghiêm trọng, tóc vừa chạm vào đã rụng xuống lả tả. Chật vật sửa sang mất một lúc, cha hắn trông đã gần giống Cát Ưu (*). Tôi biết trong lòng hắn chắc chắn rất khổ sở, mười năm qua có lẽ hắn vẫn nuôi một tia hi vọng cha mình còn sống, nhưng bây giờ hi vọng đã tan biến, có thể nói hắn vừa nhẹ nhõm lại vừa tuyệt vọng.

(*) Cát Ưu: Diễn viên của Trung Quốc, có quả đầu trọc nổi tiếng. Ý Tà là cha Thuận Tử tuy rụng hết tóc nhưng cũng đẹp trai gần bằng diễn viên rồi.

Bàn Tử và Phan Tử không hiểu chuyện gì xảy ra, ngớ ra mà nhìn, mồ hôi lạnh tuôn trào. Tôi kể lại sơ sơ chuyện mình phỏng đoán với hai người bọn họ, hẳn là cũng không đoán sai.

Bàn Tử nghe vậy cũng rớt nước mắt, nói: “Ông già nhà tôi cũng đi sớm, cả đời làm cách mạng vì quốc gia, cuối cùng lại bị chụp cho cái mũ phần tử phản động. Tâm tình của Thuận Tử tôi có thể hiểu được, nhưng thôi cứ nghĩ theo hướng tích cực đi. Sau mười năm cha con còn có thể gặp lại nhau, vậy là ông trời coi như cũng chiếu cố anh rồi, hãy nghĩ thoáng ra một chút.”

Bàn Tử vừa khóc, Phan Tử khóe mắt cũng rưng rưng, nói vậy là tốt lắm rồi. Các người đều có cha, chứ tôi đây còn chưa được nhìn mặt ổng lần nào. Tôi luôn coi ông Ba như cha mình, vậy mà giờ có biết ông ấy sống hay chết ra sao đâu.

Tôi thấy thế vội hỏi: “Hai người mắc chứng gì thế? Thuận Tử còn chưa khóc mà hai người đã bù lu bù loa lên rồi, mau nhìn xem tại sao bọn họ lại chết ở chỗ này đi.”

Đã vào được đến đây thì không lý nào không ra được, bọn họ chết ở chỗ này chắc chắn là vì đã xảy ra chuyện ngoài ý muốn. Giờ chúng tôi cũng đang đứng trong mộ thất, tôi không muốn cả đám nối gót bọn họ chút nào. Đồng thời tôi cũng cảm thấy mấy khối thi thể xuất hiện trong này có hơi kì quặc: không tính cha của Thuận Tử vì ông ấy chỉ là người dẫn đường, thì những người khác, theo như lời Thuận Tử, đều khăng khăng lên núi vào cái mùa không thích hợp để lên núi, chắc chắn không phải du khách bình thường. Phải chăng họ cũng có mục đích không thể cho ai biết? Vào đến đây không lẽ chỉ là trùng hợp? Tôi nhất định phải tìm hiểu rõ.

Chúng tôi lục lọi ba lô của những người này, trong đó vẫn còn đầy đủ vật phẩm. Từ cuốn tiểu thuyết đã mục nát đến long cả gáy, bút ký, bút chì, dây thừng gân bò, lều vải hành quân, đèn pin kiểu cũ, dao đa năng cũng cũ nốt (cái này vẫn còn dùng được), từ điển Hàn-Trung năm 1986, kẹo cao su, bật lửa kiểu cũ, bầu rượu, son môi, băng vệ sinh. Hòm thuốc vẫn còn băng gạc, cồn, bông và vài loại rượu thuốc, la bàn quân dụng, vân vân.

Tên cuốn tiểu thuyết là “Thép đã tôi thế đấy”, sách đã cũ nên tôi cũng không dám lật bừa, lật một tờ đảm bảo long ra cả quyển. Bút ký cũng là những bản bút ký công tác cũ kĩ, hồi tiểu học tôi từng thấy cha dùng. Tổng cộng có ba quyển, mở ra thì thấy chúng đều ghi số điện thoại và vài khoản thu chi, thì ra thời đó người ta dùng bút ký vào những việc này. Ngoài ra không còn thứ gì cho biết thân phận của họ, và nhất là không ai mang theo chứng minh thư.

Chúng tôi bày la liệt mấy thứ này thành hàng, gần như các thiết bị đều đủ hết, tuy không tiên tiến được như chúng tôi nhưng để thoát ra ngoài thì không thành vấn đề, dù gặp phải hoàn cảnh hiểm ác hơn nữa thì những trang bị này cũng thừa sức ứng phó.

Vậy thì quái thật. Lòng tôi âm thầm suy xét, bất kể thế nào, dựa vào điều kiện tiên quyết là họ có đủ khả năng rời đi, những người này nếu chết cũng nên chết trên đường ra mới đúng, chứ không phải ngồi chết ở đây, trông như chủ động chờ chết vậy. Chẳng lẽ họ không nỡ xa rời những bảo bối ở đây? Cái này càng vô lý.

Nếu vậy, chẳng lẽ họ chết ở đây là do nguyên nhân kì quặc nào khác? Trong lòng tôi đột nhiên trào dâng cảm giác hoang mang, cứ như trong mộ thất này có thứ gì đó đang theo dõi chúng tôi, không khỏi rùng mình một cái.

Bàn Tử xem xét những thứ đồ đạc chúng tôi bày ra, đột nhiên ‘A!” lên một tiếng, nói: “Này các đồng chí, có phát hiện trong đống vật phẩm này thiếu đi thứ gì không?”

Chúng tôi đang đuổi theo những suy nghĩ riêng, nghe Bàn Tử hỏi vậy cũng cẩn thận nhìn lại mấy thứ kia một lượt, nhưng tôi cảm thấy mọi đồ vật quan trọng đều đủ cả, thực sự không nghĩ ra là thiếu thứ gì, đành phải hỏi hắn: “Thiếu cái gì?”

Bàn Tử đáp: “Lương thực! Không có lương thực! Trong túi tất cả mọi người đều không có!”

Hắn vừa nói ra, chúng tôi đều giật mình, lại liếc qua đống đồ đạc một lượt. Quả nhiên tất cả đều là trang bị, không một vật gì có thể bỏ bụng.

Tôi nghi hoặc nói: “Đúng là không có lương thực, chứng tỏ cái chết của những người này không phải là điều ngoài ý muốn, bởi vì nếu gặp chuyện bất trắc thì không thể trùng hợp đến nỗi tất cả mọi người đều cạn lương thực được. Không đúng, vậy chẳng lẽ bọn họ đã…. ăn hết lương thực, sau đó chết đói trong đây?”

Nói thế cũng không đúng, từ khi hết lương cho đến lúc chết đói, chỉ cần uống đủ nước, một người bình thường cũng có thể cầm cự được một tháng (không nói những người cao hơn hai mét mà nặng có 45kg đâu nhá). Chỉ cần bọn họ có ý muốn thoát ra ngoài thì cũng không đến nỗi chết chùm. Những người này chết đói ở đây thì chỉ còn một cách giải thích, đó là họ không thể thoát ra được.

Nghĩ đến đây tôi chợt nhớ đến cánh cửa mộ đạo biến mất trong mộ huyệt dưới đáy biển, vội nhảy dựng lên, chạy qua đống châu báu rồi chiếu đèn pin về phía cửa mộ. Thấy cửa mộ kia vẫn còn nguyên đấy, không hề biến mất, tôi mới thờ phào nhẹ nhõm, nhưng vẫn sợ nó đột ngột biến mất nên không biết tiếp theo phải làm gì.

Bàn Tử cũng biết rõ điều tôi lo lắng, bèn an ủi tôi nếu thực sự gặp phải chuyện đó thì trên người chúng ta vẫn còn thuốc nổ, đừng lo. Tôi nghe hắn nói vậy mới cảm thấy an tâm ít nhiều.

“Hay là thế này nhỉ,” Nghĩ tới nghĩ lui vẫn không hiểu thì Phan Tử đột nhiên hỏi Thuận Tử: “Anh có biết đội thám hiểm mà cha anh dẫn đường gồm bao nhiêu người không?”

“Theo lời mẹ tôi thì hình như chỉ có bảy người. Nhưng đây chỉ là con số bà ấy thấy tận mắt, còn thực tế có bao nhiêu người thì chịu. Dù sao lúc xuất phát cha tôi cũng đi với bảy người.”

“Ở đây có ……….. 1 2 3 4 5 6, sáu khối thi thể, vậy có ít nhất hai người đã biến mất.” Phan Tử nói: “Những người này chết ở đây, phải chăng là do hai người kia bị lòng tham che mờ mắt, giết sạch đồng đội còn mình thì chạy thoát.”

Tôi lắc đầu tỏ ý phủ định, những người này không hề có dấu vết đánh nhau, xem tư thế lúc chết là cuộn mình nằm cùng một chỗ thì cũng không giống bị trúng độc, càng không giống chết do ngoại lực tác động. Điều khiến tôi có cảm giác bất thường và quyết tâm tìm hiểu nguyên nhân chết của bọn họ nhất chính là nét mặt của các thi thể như đúc từ một khuôn, đó là một vẻ tuyệt vọng sâu sắc, tựa như lâm vào hoàn cảnh không còn lấy một tia hi vọng.

Đây là lần đầu tôi trông thấy những thi thể như thế, trong lòng cứ vướng bận mãi không tan. Tôi có một dự cảm rằng chuyện xảy ra ở đây vào năm đó nhất định không đơn giản, mà càng đi sâu vào phỏng đoán, tôi càng cảm thấy xung quanh bắt đầu bao phủ một màn sương lạnh buốt và bất an không sao diễn tả bằng lời. Cứ như trong đống châu báu này có thứ gì đó đang nhìn chằm chằm vào chúng tôi vậy, cái cảm giác sởn tóc gáy này càng ngày càng rõ rệt.

Ngẫm nghĩ nửa ngày cũng không thông, Bàn Tử và Phan Tử bắt đầu mất kiểm soát, muốn đi mó máy đống châu báu kia. Lúc này tôi bỗng dưng trở nên tỉnh táo lạ lùng, ngăn bọn họ lại, nói tôi thực sự không thể lờ đi mấy người chết giữa đống châu báu kia. Chúng ta trước hết đừng manh động, chớ quên mục đích mình vào đây là gì.

Nghe tôi nói thế bọn họ mới tỉnh ngộ, thoáng cái Bàn Tử đã nghĩ ra điều gì, bèn nói: “Tôi đúng là mê muội, đã quên mục đích mình xuống đây làm gì. Kí hiệu kia dẫn chúng ta tới đây, cửa cũng đã bị nổ tung, nhưng bên trong chỉ là một kho báu? Quan quách thì chẳng thấy đâu. Tôi nghĩ mình hiểu ý nghĩa của kí hiệu kia, chính là ở đây có minh khí, nó chắc chắn do đám người A Ninh lưu lại để nhóm thứ hai của họ tiến vào vận chuyển bảo bối.”

Tôi nói: “Cửa rất có thể do mấy thi thể này phá, nhưng đây chỉ là một mộ thất chứa đồ bồi táng, quan tài chắc chắn không ở chỗ này, chúng ta phải đi về hướng ngược lại.”

Tuy không hợp lí cho lắm nhưng tôi vẫn nghĩ đây là mộ đạo chính, một hướng dẫn ra cửa mộ, hướng còn lại tất nhiên dẫn vào trung tâm địa cung, nhưng giờ xem ra không đúng. Chẳng lẽ mộ đạo kia không phải là mộ đạo chính? Địa cung này rốt cuộc còn rộng đến chừng nào? Hay là giống như một mê cung? Nhớ lại mấy kí hiệu kia, chẳng lẽ đúng là do địa cung quá phức tạp nên bọn họ mới phải lưu kí hiệu?

“Mấy thứ kia xử lý sao đây?” Bàn Tử vẫn còn luyến tiếc.

Tôi nói: “Anh cứ nhặt bừa vài món đem về cũng đủ sống sung túc hết nửa phần đời còn lại. Đừng tham quá làm gì, đằng nào sau này vẫn có thể quay lại đây mà.”

Bàn Tử nhìn mấy khối thi thể kia, hiển nhiên trong lòng cũng thầm nói ‘đã mạo phạm’, nhưng không thể tay trắng trở ra, vì thế hắn chọn mấy món kim khí nho nhỏ nhét vào túi. Thuận Tử khăng khăng muốn đưa thi thể cha ra ngoài, dùng ba lô gói thi thể lại rồi đeo lên lưng. Thi thể đã khô nên không còn nặng lắm, vác theo không quá khó khăn.

Cuối cùng, chúng tôi nhìn lướt qua từng đống từng đống kim khí mã não lóng lánh ánh vàng một lượt, hạ quyết tâm dứt khoát quay đầu, nối đuôi nhau chui qua cái lỗ dưới cửa mộ.

Vừa mới ra khỏi cửa, tôi đã nghe Bàn Tử “Hả?” một tiếng. Trong lòng sớm có dự cảm, tôi vội vàng bật đèn pin chiếu khắp xung quanh, toàn thân không ngừng toát mồ hôi lạnh.

Bích họa trên tường mộ đạo lúc này trông khác hẳn lúc mới đi vào. Không biết từ bao giờ, bích họa đỏ rực đã biến thành vô số bóng người màu đen có cái đầu bự chảng.

Chương 40: Con đường ngợp bóng

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Thuận Tử và Phan Tử  thấy thế đều trố mắt ra nhìn, lẩm bẩm: “Mẹ kiếp! Chuyện quái quỷ gì thế này? Đi nhầm cửa à?”

“Không phải!” Tôi và Bàn Tử đều có kinh nghiệm, lập tức hiểu ra bản chất vấn đề: “Mộ đạo này đã di chuyển. Lúc chúng ta ở trong mộ thất kia, mộ đạo cũ đã dịch chuyển sang vị trí khác, một mộ đạo mới lại dịch chuyển đến chỗ này.”

“Vậy cũng làm được hả?” Phan Tử há hốc miệng.

“Được chứ!” Tôi và Bàn Tử lại ra sức gật đầu, thầm nghĩ đâu chỉ có nơi này, trong mộ huyệt do Uông Tàng Hải thiết kế có phát sinh bất cứ chuyện gì cũng không lạ.

Trong lòng tôi mơ hồ sợ hãi, nhưng cũng có phần an tâm, bởi vì khi mộ đạo thay đổi, tôi đột nhiên hiểu ra vì sao cha của Thuận Tử và mấy cái thây khô kia lại bị vây khốn mà chết giữa đống vàng bạc như thế. Nếu không thông hiểu mưu kế của Uông Tàng Hải, chỉ cần cái mộ đạo mộ thất quỷ dị nơi này biến đổi một chút cũng đủ bức người ta phát điên. Chúng tôi lúc ở dưới hải mộ cũng bị lừa cho suýt mất đi lý trí, nhưng một khi đã biết nguyên nhân mộ đạo nơi này đột ngột biến hóa thì cũng không còn gì đáng sợ nữa.

Mộ đạo biến hóa thế này, ngã tư đường lúc trước chúng tôi đã từng đặt chân tới tất nhiên sẽ biến mất, muốn quay lại cũng không thể. Tuy không biết cuối mộ đạo mới này là gì nhưng nếu chúng tôi cứ đứng chôn chân ở chỗ này không đi thì kết cục tất nhiên cũng giống mấy thi thể kia thôi.

Tôi lúc ấy tôi đã nghĩ cuối mộ đạo không có gì cả, là đường cùng, vậy thì không đáng lo. Mấy thi thể kia bị vây hãm ở đây cùng lắm là vì nguyên nhân này, không có thuốc nổ mà con đường dẫn đến đây lại đột ngột biến mất, không biết phải làm sao nên mới lộ ra nét mặt tuyệt vọng cùng cực thế này.

Sau này nghĩ lại mới thấy tôi rốt cuộc vẫn còn quá non nớt, nét mặt tuyệt vọng sâu sắc đến độ này cho thấy bọn họ đã gặp phải chuyện khó bề tưởng tượng hơn suy nghĩ của tôi rất nhiều lần. Tôi lúc ấy đúng là suy nghĩ quá đơn giản.

Tôi nói ra suy nghĩ này với những người khác, lại giải thích cho Phan Tử và Thuận Tử nguyên tắc biến đổi của mộ đạo một lần, bọn họ mới ồ lên, lộ ra vẻ mặt ‘thì ra là thế’. Nhưng Phan Tử lại nghĩ xa hơn một chút: “Nếu là như thế thì theo lý thuyết cái huyền cung này phải có kết cấu vô cùng phức tạp, phải chăng chúng ta giống như lạc trong một khối rubik, đã vào là không thể thoát ra?”

Tôi an ủi anh: “Chắc không phải đâu. Mánh khóe của Uông Tàng Hải thật ra cũng chỉ là gây áp lực tâm lý cho kẻ trộm mộ, chứ muốn vây khốn người ta đến chết cũng không dễ đâu. Tôi đoán rất nhiều người bị tra tấn tinh thần cho đến khi hoàn toàn suy sụp nên mới chết.”

Tóm lại cái mộ đạo mới xuất hiện này chúng tôi nhất định phải tiến vào, sau đó vừa đi vừa nghĩ cách. Nếu quả thực không ra được thì cứ theo lời Bàn Tử nói, có thể đầu tiên sẽ xác định một hướng, sau đó dùng thuốc nổ kiên trì phá tường thoát ra. Chúng tôi đã có thuốc nổ trong tay, sống lưng cũng cứng cáp hơn nhiều.

Nói rồi tôi lập tức dẫn đầu đi vào mộ đạo, Bàn Tử và hai người kia theo sát phía sau. Trong một thoáng tôi cảm thấy có gì đó không ổn, bích họa xung quanh đều rất ghê người, vô số cái bóng đầu to quả thực giống như bốn phía đứng đầy những vật như thế, khiến người ta khó chịu cực kì. Bất chợt tôi nghĩ lẽ nào cuối bí đạo này có thứ gì đó, cái bóng của nó chiếu lên tường lẫn vào bích họa khiến chúng tôi không thể phát hiện ra.

Dù sao cũng đã đi vào rồi, bây giờ mà rút lui thì thật mất mặt. Tôi chỉ còn cách kiên trì dẫn đầu, cố gắng không nghĩ đến mấy thứ này nữa. Chẳng mấy chốc cửa mộ đã mất hút sau lưng, chúng tôi đã đi tới vị trí không thể nhìn rõ cả hai đầu.

Sau lưng tôi, Phan Tử vừa đi vừa hỏi chuyện về cha Thuận Tử và đội thám hiểm nọ, Thuận Tử kể sơ sơ cho anh nghe, Phan Tử bèn nói với chúng tôi: “Trên đường chúng ta tới đây, tất cả phong thạch đều dùng phương pháp nổ định hướng để phá ra một cái lỗ. Đây là kỹ thuật tối tân, chứng tỏ bọn họ vào đây bằng đường khác, không phải con đường chúng ta tiến vào. Xem ra nơi này chắc chắn có hơn một đường thoát ra ngoài.”

Tôi nói: “Chắc chắn là vậy rồi. Anh xem đám người A Ninh đi rõ nhanh, bọn họ lần theo đường chính mà lại đến trước, chứng tỏ chúng ta vẫn thua vì thiếu thông tin.”

Chẳng qua không biết nhóm A Ninh hiện đang ở nơi nào, có lẽ bọn họ đã đi qua kho báu ban nãy, chẳng biết lúc ra có gặp mộ đạo di chuyển hay không, có đi vào mộ đạo này như chúng tôi hay không, thêm nữa, chú Ba có phải cũng gặp những chuyện như thế?

Lòng tôi bắt đầu hoang mang, chúng tôi dựa theo ám hiệu của chú Ba mà đi vào địa cung, ông ấy nhưng vào rồi thì ổng không để lại ám hiệu nào khác nữa, xem ra sau khi đi vào địa cung ổng cũng đi lung tung rồi.

Vừa đi vừa nói đại khái hơn hai mươi phút, ánh đèn pin chiếu về phía trước đã xuất hiện phản quang, chứng tỏ đã đến cuối mộ đạo. Chúng tôi bất giác trở nên căng thẳng nhưng rồi nhanh chóng trấn tĩnh, giảm tốc độ, nhích dần từng bước. Rất nhanh, phía cuối mộ đạo lại xuất hiện một ngọc môn.

Lúc ngọc môn mới hiện ra, tôi đã giật nảy mình, bởi vì ngọc môn này giống cái ngọc môn kia như đúc. Nhưng nghĩ lại thì những cánh cửa trong cổ mộ phần lớn đều là do một người thợ phụ trách, đương nhiên sẽ rất giống nhau. Vật liệu làm cánh cửa vẫn còn rất tốt, bên dưới cũng có một lỗ hổng lớn do người ta phá bằng thuốc nổ.

Xem ra quả thực đã có người đi trước, vậy cũng tốt, dẫu là ai thì đối với chúng tôi đều là chuyện may mắn, ít nhất cũng chứng tỏ bên trong không có cơ quan hố bẫy.

Chúng tôi lại một lần nữa nối đuôi nhau chui vào. Do không còn nhiều pháo lạnh nên lần này Bàn Tử không đốt pháo mà chỉ châm mấy cái hỏa chiết tử. Chúng tôi nhìn ra xung quanh, không khỏi sửng sốt.

Phía sau cửa mộ là một gian phòng giống cái kho báu vừa rồi như đúc. Bên trong mộ thất cũng ngồn ngộn đống lớn đống nhỏ vàng bạc châu báu, bốn góc mộ thất cũng chống bằng bốn cây cột trụ cực lớn, kết cấu cơ bản giống hệt nhau.

Tôi thầm nghĩ thì ra trong địa cung này không chỉ có một kho báu, rốt cuộc cái đống của cải kia đến chừng nào mới hết? Hèn chi vương triều Đông Hạ yếu nhược lại có thể xây dựng một lăng mộ địa cung hùng vĩ đến thế, thì ra tích trữ ngút ngàn bảo bối là lề thói chung của những chính quyền độc tài. Thành Cát Tư Hãn chôn dưới thảo nguyên Mông Cổ, vàng bạc của đảng Đức Quốc xã do Hitler cầm đầu nghe đồn chôn ở Tây Tạng, còn của cải của anh em Gia Luật tộc Nữ Chân nước Đại Kim thì ở ngay chỗ này rồi.

Đang mải miết suy nghĩ, đột nhiên Bàn Tử bên cạnh hét lên một tiếng chói lói khiến tôi giật nảy mình.

Tôi cứ tưởng xảy ra chuyện gì bất ngờ, vội nhìn về phía hắn, chỉ thấy hắn há hốc miệng, đứng trên một đống châu ngọc không ngừng lắp bắp, nhưng mãi không thốt nên lời. Tôi vội vàng chạy đến nhìn thử, không khỏi giật mình kinh hãi, chỉ thấy giữa đống châu báu cũng có mấy khối thi thể nằm cuộn mình.

Tôi nghi hoặc hỏi: “Thuận Tử, anh có mấy người cha

*=))))))*

…… à không, nhóm người cha anh dẫn đi rốt cuộc có bao nhiêu người?” Còn chưa hỏi xong, tôi lại nhìn thấy một cảnh tượng khiến tóc tai dựng ngược cả lên. Chỉ thấy giữa đống kim khí, cạnh mấy thi thể có một dãy đồ đạc được người ta bày biện rất chỉnh tề. Tôi chiếu đèn pin vào thì thấy đây chính là những thứ chúng tôi vừa sắp xếp trong kho báu ban nãy, từ trình tự cho đến chủng loại đều giống y đúc.

Bàn Tử cũng chịu không thấu, châm lên một cây pháo lạnh, mộ thất thoáng chốc sáng bừng lên. Chúng tôi tản ra xung quanh nhìn kĩ, mấy thứ này rõ ràng chính là những món đồ chúng tôi vừa lấy ra ban nãy.

Bàn Tử hoảng sợ nói: “Chuyện quái quỷ gì vậy? Đây là… có người bắt chước hành động của chúng ta…?”

Tôi nhíu mày, đứng lên, nhìn một vòng xung quanh, cảm giác quen thuộc ùn ùn kéo tới. Tôi cảm thấy tức cười: “Không phải đâu….. mà là chúng ta đã quay trở về chỗ cũ. Đây chính là nơi chúng ta vừa mới rời đi!”

Chương 41: Vòng tử vong lặp vô hạn

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Ai nấy đều tái xanh mặt mày, chúng tôi nhìn xung quanh, càng nhìn lại càng chắc chắn. Trên mặt đất chỗ nào cũng có dấu chân của chúng tôi, đây chính xác là gian mộ thất chúng tôi đã phát hiện ra thi thể cha Thuận Tử vừa rồi. Quái lại, sao chúng  tôi lại quay về chỗ cũ cơ chứ?

Mộ đạo là một đường thẳng tắp, khi đi chúng tôi đi cũng không gặp ngã rẽ nào, có bốn người với một cái xác làm chứng. Theo lý mà nói, tuyệt đối không thể đi mất hai mươi phút lại quay về nơi xuất phát được. Chuyện này đúng là ngoài sức tưởng tượng, cứ như có quỷ dựng tường vậy.

Bàn Tử chột dạ ngó nghiêng cửa mộ đạo dẫn vào đây, nói: “Chẳng lẽ trong khi đi, chúng ta đã vô thức quay về đường cũ? Con mẹ nó, chỗ này rõ tà môn.”

Phan Tử nói: “Vớ vẩn. Nếu quay về đường cũ thì không thể không nhận ra, chúng ta có bốn người cơ mà. Tôi dám chắc chúng ta chỉ đi một đường thẳng tắp, mộ đạo này không dài cũng không có lối rẽ, chẳng lý gì lại nhầm.”

Bàn Tử tiếp: “Mẹ kiếp, vậy đúng là quỷ dựng tường rồi. Thuận Tử, có phải cha anh đang đùa giỡn chúng tôi không? Anh nên dạy bảo lại ổng, chúng ta đang làm ăn nghiêm túc, hổng đùa đâu.”

Thuận Tử giận giữ mắng lại: “Tôi cảnh cáo anh, đừng có nói bậy.”

Tôi can bọn họ, lúc này thật sự không hợp để gây gổ. Toàn thân tôi vã mồ hôi như tắm, bởi tôi cảm thấy chuyện không nên xảy ra nhất có thể đã xảy ra, nhưng lòng tôi vẫn không dám hoàn toàn khẳng định, bèn nói: “Các anh đừng ầm ĩ. Muốn xem có phải chúng ta quay về đường cũ hay không chỉ còn một cách, chúng ta đi lại một lần nữa xem sao.”

Mấy người bọn họ đưa mắt nhìn nhau, thấy nét mặt của tôi, bọn họ đại để cũng nhận ra có gì không ổn.

Lúc ấy tôi chợt nghĩ tới vẻ tuyệt vọng đến cùng cực của mấy cái thây khô kia, lẽ nào bọn họ cũng bị vây hãm ở trong này bằng cùng một kiểu mà chết? Đã không còn lương thực mà đi mãi đi mãi vẫn quay về chỗ cũ, chuyện này quả thực vượt quá sức tưởng tượng. Trực giác của tôi mách bảo rằng tôi đã đoán đúng, hơn nữa chuyện bọn họ bị vây hãm đến chết giờ lại xảy ra với chính chúng tôi.

Điều tôi nhất định phải làm lúc này là kiểm chứng dự cảm của mình, nói cho đúng là tôi muốn phủ định cái dự cảm khủng khiếp này, vậy nên tôi hấp tấp quay trở ra mộ đạo, những người khác phải vội vã đuổi theo cho kịp.

Vì đã đi qua một lần, biết chắc không có cơ quan bẫy rập gì cả nên lần này chúng tôi đi rất nhanh. Tôi bước như bay về phía trước, mắt săm soi thật kĩ hai bên mộ đạo. Cho đến khi chắc chắn không có lối rẽ nào, tôi mới bất giác quay đầu nhìn lại.

Lần này chỉ cần chưa đến mười phút, chúng tôi đã đi hết đoạn đường. Khi đi gần tới cuối mộ đạo, tôi đã không ngừng cầu nguyện, hi vọng dự cảm của mình đừng biến thành sự thực. Nhưng cuối cùng tôi vẫn cứ nhìn thấy cánh cửa ngọc thạch giống y xì lúc nãy, lòng chợt tê tái, mồ hôi cứ thế túa ra.

Đi qua cánh cửa, Bàn Tử xông ngay vào giữa đống châu báu, rồi quỳ xuống ôm mặt. Tôi lao vào xem xét cũng thấy sáu khối thi thể, những món đồ mình bày la liệt ra đất vẫn còn nguyên đó ……….. Chúng tôi đã quay về chỗ cũ.

Dự cảm của tôi đã ứng nghiệm. Tôi đã hết sức chú tâm để chắc chắn 100% rằng không có lối rẽ nào cả, chúng tôi chỉ đi trên một đường thẳng, nhưng vẫn trở về điểm xuất phát.

Bàn Tử chạy một lúc cũng mệt, thở phì phò nói: “Đây là quỷ dựng tường, chắc chắn là quỷ dựng tường rồi, chúng ta có đi thế nào vẫn kẹt trong một vòng luẩn quẩn. Hai đầu mộ đạo này đều là mộ thất, giờ chúng ta cũng sắp đi gặp ông già của Thuận Tử rồi. Thuận Tử, anh trò chuyện với ông già nhà anh chút đi, bảo ổng đừng đùa với chúng ta nữa, bằng không chúng ta quẳng ổng lại đây mà đi một mình.”

Thuận Tử đã quá mức kinh ngạc, không rảnh mà cãi nhau với hắn. Lòng tôi cũng đang hoảng loạn, không ngừng xoay người nhìn vách tường bốn xung quanh nhưng không biết mình đang nhìn cái gì nữa.

“Bình tĩnh! Bình tĩnh nào!” Phan Tử vừa hét lớn, vừa thở phì phò. “Tuyệt đối không được hoảng loạn, cậu Ba, chẳng phải cậu đã nói chiêu trò của Uông Tàng Hải cùng lắm chỉ gây ra áp lực tâm lí sao? Chúng ta không cần biết có bị trúng kế hay không, giờ nhất định phải bình tĩnh, chắc chắn có chỗ nào đó không ổn.”

Phan Tử vừa nói, tôi đột nhiên như được xối một ca nước lạnh vào cái đầu đang bốc lửa, người lập tức tỉnh táo. Cảm giác tuyệt vọng kia cũng nhạt dần, tôi vội gật lấy gật để: “Anh nói đúng, đây chắc chắn là cơ quan, hồi chúng tôi ở dưới hải mộ đã xác nhận không có chuyện quỷ dựng tường gì hết. Uông Tàng Hải là bậc thầy về chế tạo cơ quan xảo diệu, tạo ra không khí quỷ dị. Nếu không hiểu rõ, rất dễ bị hắn xỏ mũi dắt đi.” Nói rồi ra sức véo mặt mình để xua đi cái cảm giác nghẹt thở này.

Những lời này thực ra là tôi tự nói cho bản thân mình nghe, nói xong cũng chẳng còn nhớ mình đã nói gì.

Sau này nghĩ lại chuyện cũ, tôi có cảm giác lúc ấy mình đã thấm thía thế nào là mọi việc vượt quá tầm kiểm soát của mình, nên mới muốn dùng những lời này để ám thị mình không được bỏ cuộc.

Bởi vì lúc đi vào mộ đạo kia, cảm giác của tôi hết sức rõ ràng, căn bản không thể tưởng tượng nổi Uông Tàng Hải đã dùng cơ quan như thế nào để tạo nên hiện tượng này. Đầu tiên tôi đã nghĩ ngay đến chuyện mộ thất hoặc mộ đạo đã dịch chuyển, nhưng điều đó là không thể, tôi lập tức phủ định. Chúng tôi đi đã nhanh, lắm rồi, nếu mộ thất có di động thì nó còn phải nhanh đến chừng nào? Mộ đạo lại càng không thể, chúng tôi đứng trong đó, chỉ cần nó hơi hơi chấn động là chúng tôi chắc chắn sẽ nhận ra. Nhưng nếu không phải mộ đạo hay mộ thất dịch chuyển thì chuyện này không sao giải thích cho nổi.

Tuy tôi không ngừng tự nhủ chắc chắn có cơ quan, nhưng thật ra trong lòng đã biết không phải như thế, nếu nó là cơ quan thì không thể giải thích nổi. Nhưng nói vậy vẫn có ích cho những người khác, ít ra cũng có thể đẩy lùi cơn hoang mang.

Nhưng tôi đã quá coi thường khả năng chấp nhận của đám Bàn Tử, Phan Tử xem ra còn trấn định hơn tôi nhiều. Anh lau mồ hôi, nhìn tôi hỏi: “Mặc kệ là quỷ dựng tường hay là cơ quan, đều phải giải quyết. Bây giờ phải làm gì? Có muốn đi thêm lần nữa không?”

Tôi cắn răng nói: “Đi! Con mẹ nó, lần này chúng ta đi chậm thôi, cảm nhận cho kĩ  động tĩnh phía dưới chân hoặc bốn phía xung quanh, tôi không tin không có sơ hở.”

Vậy là chúng tôi lại đi vào mộ đạo, lần này đi bốn mươi phút. Còn chưa đến đích chúng tôi đã biết mình sẽ thất bại, bởi vì cửa mộ giống nhau như đúc, dọc đường đi chẳng cảm nhận được gì.

Sau đó chúng tôi không biết đã đi thêm bao nhiêu lần, kết quả đều thất bại. Tôi đã dần dần cảm nhận được nỗi tuyệt vọng của mấy thi thể này, sắc mặt ai nấy cũng ngày càng xấu.

Tôi cảm thấy tự giày vò bản thân thế này cũng không phải cách hay. Khi quay trở lại mộ thất, tôi bảo mọi người dừng lại. Đã thử đi biết bao nhiêu lần rồi, cơ bản chúng tôi đã loại trừ mọi khả năng. Cơ quan này chắc chắn đã dùng một phương pháp bố trí mà chúng tôi không tài nào tưởng tượng nổi.

Bàn Tử mệt đến độ muốn hạ đường huyết, nhưng vẫn kiên trì muốn đi tiếp. Hắn cứ nghĩ rồi sẽ có một khắc nào đó, cái mộ đạo ban đầu lại quay trở về, lúc đó chúng tôi có thể thoát ra.

Phan Tử nghe hắn nói vậy, chỉ nói một câu: “Anh đừng mơ hão nữa, cái mộ đạo kia tuyệt đối không thể quay về.” Nói rồi nhìn sang mấy cái thây khô bên cạnh, ý tứ hết sức rõ ràng. Số lần mấy cái thây khô kia đi vào mộ đạo chắc chắn nhiều hơn chúng tôi gấp mấy, nhưng bọn họ vẫn bị vây khốn ở đây đến chết, cho nên cứ đi đi lại lại trong mộ đạo cũng vô ích, có đi đến hàng vạn lần cũng như nhau cả, chúng ta không cần xét đến chuyện may mắn hi hữu như thế.

Bàn Tử liền phát tiết, ngồi xuống nói: “Nhà anh nói thế chẳng hóa chúng ta chết chắc rồi? Mấy người này chắc chắn đã thử hết cách, chúng ta làm lại một lần cũng vô ích thôi.”

Phan Tử nói: “Anh đừng có nghĩ quẩn, giờ cứ nghĩ vậy thì thà đập đầu vào tường mà chết cho khỏe. Đợi đến lúc chúng ta đã thử hết mọi cách rồi hẵng tuyệt vọng, bây giờ vẫn còn hơi sức thì ngồi nghĩ cách đi.”

Tôi nghĩ đến số lương thực của mấy thi thể, bèn hỏi: “Có nên định lượng khẩu phần ăn từ bây giờ không? Chúng ta phải chuẩn bị một cuộc trường kì tác chiến, cầm cự được càng lâu thì cơ hội thoát ra cũng lớn hơn.”

Phan Tử thở dài, lắc đầu nói: “Cậu Ba, tôi cũng không giấu cậu. Hoàn cảnh của chúng ta thực ra còn không bằng bọn họ, lương thực không có nhiều, tôi xem giỏi lắm cũng chỉ đủ ăn hai bữa, đó là chưa kể còn không được no. Tôi thấy không cần chia khẩu phần làm gì, có thế nào thì ăn thế nấy, cố giữ tinh lực dồi dào, quá hai ngày mà còn không ra được thì sẽ dùng thuốc nổ. Nếu thuốc nổ cũng vô dụng thì đành chờ người ta đến nhặt xác thôi.”

Hai ngày. Lòng tôi run rẩy, mấy cái thây khô đã ở đây được bao lâu rồi, liệu chúng tôi có thể thoát ra trong vòng hai ngày không? Thật không dám chắc chút nào.

Bàn Tử đã sôi bụng, liền hỏi Phan Tử: “Đồng chí anh nuôi, chúng ta có thể ăn cơm trước kẻng không? Tôi trước hết phải phân tán sự chú ý sang chuyện khác rồi mới có sức mà nghĩ tiếp được.”

*à vâng mình cố ý đó =))*

Nghi Bàn Tử nói vậy, chúng tôi cũng bắt đầu cảm thấy đói bụng. Phan Tử không còn cách nào đành phải châm lò nấu cơm. Lương thực của chúng tôi thực ra chỉ còn mì sợi, mới ăn xong còn tạm no nhưng không kéo dài được bao lâu. Bàn Tử cứ hậm hực vì cơm không có thịt, tôi nói có món hài cốt đông lạnh kia, anh cứ dùng tự nhiên. Thuận Tử không ngại đâu, chúng tôi cũng không thèm để ý.

Ăn xong rồi người ấm hẳn ra, tinh thần cũng trở nên tỉnh táo, mọi người lại bắt đầu cân nhắc. Tôi nhớ lại cả quá trình xuống địa cung, mạo hiểm vạn phần, có ai mà ngờ vào được địa cung rồi vẫn không được yên thân. Cái địa cung này chắc chắn Uông Tàng Hải phải thiết kế với dụng ý nào đấy, nhưng rốt cuộc nó là cái con khỉ gì mới được chớ?

Địa cung xưa nay đều có hình chữ ‘hồi’

(

)

. Linh điện ở chính giữa, là nơi phải tuân theo những quy tắc nghiêm ngặt nhất, Uông Tàng Hải tất nhiên không dám động chân động tay vào. Còn đâu thì bốn bề địa cung hình chữ ‘hồi’ vây quanh bởi hố tuẫn táng, hệ thống thoát nước cộng thêm những hành lang, mộ đạo rắc rối phức tạp. Vậy hẳn là giờ này chúng tôi vẫn còn ở ngoài rìa trung tâm của địa cung

Tôi thử phán đoán vị trí của mình theo chiều thẳng đứng lẫn chiều ngang, dựa vào suy đoán của tôi về kích thước địa cung mà tính xem mình đang ở đâu. Nhưng chuyện này hết sức khó khăn, khi chui vào bài đạo chúng tôi đã loạn đầu, giờ thì chịu chết không xác định nổi phương hướng, có quỷ mới biết cái cửa hang cuối cùng chúng tôi đi ra nó ở hướng nào.

Đúng lúc đầu óc đang xoay mòng mòng, Bàn Tử đang làm bộ suy nghĩ đột nhiên tỏ ra bừng tỉnh, nói với chúng tôi: “Tôi nghĩ ra rồi!”

Chương

42: Càng thêm khốn cùng

Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Bàn Tử đột ngột kêu đã nghĩ ra làm chúng tôi sợ hết cả hồn, nhưng rồi cũng nhanh chóng chuẩn bị tinh thần để nghe Bàn Tử lảm nhảm. Chúng tôi đã quen thói ba hoa khoác lác của gã Bàn Tử này rồi, thay vì mỗi lần đều gạt đi, chi bằng cứ mặc kệ hắn lảm nhảm cho rồi! Hơn nữa nhiều khi cách nghĩ của hắn không giống với chúng tôi, nghe mấy câu cũng không hại gì.

Thật ra lúc ấy tôi cũng chẳng sợ lắm, vì còn chưa đến lúc hết đạn cạn lương, mỗi tội nhìn mấy khối thi thể ở đây, trong lòng khó tránh khỏi nghĩ đến những chuyện chẳng hay ho gì. Kể ra hạng người như tôi gặp hình thức khiêu chiến trí tuệ thế này còn mừng thầm trong bụng ấy chứ, so với gặp phải một đống bánh tông thì chuyện này còn thoải mái hơn nhiều.

Phan Tử cũng nghĩ như tôi, không coi đây là chuyện lớn, thuận miệng hỏi Bàn Tử: “Cái gì thế? Anh đừng có lảm nhảm nữa, giờ tụi này không còn hơi sức mà nghe đâu.”

Bàn Tử lại gần chúng tôi, nói với Phan Tử: “Mẹ kiếp, anh kỳ thị tôi quá đấy! Ông chỉ trót nói bậy một lần thôi, lần này chuyện tôi nghĩ ra nhất định là mấu chốt!”

Phan Tử bật cười ha hả, nói: “Bộ óc quả nho của anh thì nghĩ ra cái khỉ gì chứ.”

Bàn Tử lần này lại cực kỳ chăm chú, nghiêm mặt nói: “Thực ra cũng không phải mấu chốt gì, vừa rồi tôi thông minh đột xuất, chợt nhớ đến cơ quan trong ngôi mộ dưới đáy biển. Nghĩ mà xem, lúc ấy chúng ta cũng phức tạp hóa vấn đề, nhưng thực chất sự tình đơn giản biết bao nhiêu? Tôi nghĩ lúc này đây có phải chúng ta đã suy nghĩ quá nhiều, hơn nữa lại thêm ấn tượng sâu sắc với cơ quan trong huyệt mộ dưới đáy biển, vừa gặp những chuyện kiểu này đã nghĩ ngay theo hướng gian phòng dịch chuyển. Có lẽ vấn đề ở đây căn bản không liên quan tới mộ thất, chỗ này chỉ là một mộ thất bình thường thôi.”

Phan Tử cười khẩy: “Nhảm nhí. Nếu là mộ thất bình thường, sao bố lại éo thoát ra được …”

Tôi thấy Bàn Tử chưa nói hết, biết còn vế sau, liền khoát tay ngăn Phan Tử lại, ra hiệu hãy để Bàn Tử nói tiếp.

Bàn Tử trình bày: “Thật ra chuyện hết sức đơn giản, thử nghĩ mà xem, nếu hành lang và mộ thất đều không có vấn đề mà chúng ta đi hoài vẫn không ra được, vậy vấn đề ở đâu? Nhất định là nằm ở chính chúng ta rồi.”

Lần này tôi và Phan Tử đều sửng sốt. Tôi bảo: “Anh nói cái vòng tử vong này xuất hiện là do chính chúng ta?”

Bàn Tử gật đầu: “Tuy còn chưa rõ vấn đề cụ thể nằm ở đâu, nhưng cũng không sai lệch lắm. Tôi nghĩ liệu có phải chúng ta đã bị những tấm bích họa kia thôi miên ám thị rồi không? Hay đơn giản là chỗ này có cái gì sinh ra khí gây ảo giác, chúng ta đã trúng độc cả rồi. Tôi biết có một loài nấm lỡ ăn phải sẽ bị rối loạn khả năng định vị, cứ tự quay vòng một chỗ mà không biết.”

Trước kia Bàn Tử đã kể với tôi, hồi nhỏ hắn từng gặp thứ bẫy bắt gấu dùng loại nấm độc này trong rừng, trúng độc rồi con gấu cứ xoay vòng vòng tại chỗ cho đến chết.

Tôi thoáng trầm tư, Phan Tử cũng không nói năng gì, nhíu mày bắt đầu cân nhắc lời của Bàn Tử.

Vấn đề nằm ở bản thân chúng tôi sao? Nếu là vậy thì chuyện này càng khó giải quyết hơn. Có điều tôi cân nhắc một lúc thì có cảm giác không đúng lắm.

Thực ra cách giải thích của Bàn Tử rất gợi mở, có lẽ sự thật rất gần với những gì hắn nói, nhưng lại có một điểm mâu thuẫn trí mạng, chính là cảm giác của chúng tôi. Chúng tôi trông đâu có giống người trúng độc? Tôi nào phải chưa từng trúng độc, người trúng độc nhất định phải có phản ứng khó chịu mãnh liệt cơ.

Mà thôi miên thì tôi vẫn không tin tưởng cho lắm. Vì tính định hướng đối tượng của nó quá mạnh, nếu nói Bàn Tử dễ bị thôi miên thì có khi tôi còn tin đấy, nhưng tôi với Phan Tử thì không bao giờ.

Nhưng nếu quay về với phạm trù cơ quan xảo thuật thì thực khó mà nghĩ ra cái gì. Thật ra vừa nãy tôi đã nghĩ ra khoảng mười phương pháp, trong đó có hai ba loại kết cấu kiến trúc hoàn toàn có thể tạo ra bố cục như vậy, song mấy phương pháp này yêu cầu quá cao, nói cách khác là nhất định phải có tiền đề tuyệt đối, ví dụ như ba người phải tụm lại một chỗ, tốc độ phải cố định, vân vân… Uông Tàng Hải tuyệt đối sẽ không sắp xếp những cái bẫy mang tính ăn may như thế.

Tôi bỗng dưng chột dạ, phải chăng mình đã bị át vía quá mức rồi? Cứ nghĩ Uông Tàng Hải đã là người từ thời nảo thời nao rồi, thế quái nào mà đến tận bây giờ chúng tôi vẫn không chiếm nổi một chút lợi thế cơ chứ?

Chúng tôi nhanh chóng bắt đầu suy xét vấn đề, ai nấy đều yên lặng tập trung. Bàn Tử thấy chúng tôi nghe mình trình bày xong xuôi vẫn chẳng ừ hữ gì, nhất thời không biết phải làm sao, đành tiếp tục ra vẻ trầm tư suy nghĩ như mọi người. Tính nát óc mà không ra, tôi càng nghĩ càng quẫn, càng ngày càng mệt mỏi, sau đó không hiểu sao lại ngủ mất tiêu.

Có điều đại khái cũng chỉ chợp mắt ba bốn phát gì đấy, đầu óc mơ mơ màng màng thôi chứ không thiếp hẳn đi. Chợt nghe tiếng Phan Tử và Bàn Tử nói chuyện, vừa tỉnh giấc tôi liền phát hiện bọn họ lại đang đi vào mộ đạo kia. Thuận Tử rõ ràng là vừa chạy về đến nơi, phì phò thở dốc, mà nhìn sắc mặt Bàn Tử thì rõ ràng kết quả vẫn vậy, chẳng có tiến triển gì.

Tôi dụi dụi mắt, hỏi bọn họ đang làm gì vậy, Bàn Tử nói có nghĩ cả buổi cũng chẳng ra manh mối, chi bằng cứ thử nghiệm còn hơn. Vừa rồi bọn họ cho một người nhắm mắt lại đi đằng trước, một người khác theo dõi từ phía sau, hai người buộc lại với nhau bằng dây thừng, để xem có chuyện đi được nửa đường thì người mở mắt bỗng dưng ngoặt lại không.

Tôi nghe xong cũng phải run rẩy, đây đúng là phương pháp thí nghiệm khiến người ta suy sụp. Cũng may mà mấy người này thần kinh tưng tửng, chứ nếu là tôi thì có quỷ mới biết đi được nửa đường rồi cái kẻ buộc vào đầu dây bên kia có còn là người ban đầu hay không.

Nhưng rốt cuộc kết quả vẫn vậy, dù là che mắt hay nhắm tịt mắt đều có cảm giác mình vẫn đi thẳng một đường, nhưng cả hai rốt cuộc vẫn quay trở lại mộ thất này. Vì người phải nhắm mắt là Thuận Tử nên hắn ta đi lại đặc biệt vất vả, sắc mặt trắng bệch ra.

Mấy người lại ngồi vào chỗ cũ, cùng thở ngắn than dài. Tôi khuyên họ nên tiết kiệm sức lực, thực ra kiểu thử nghiệm mù quáng như vậy chỉ tổ khiến cho tư duy đứt quãng mà thôi. Chuyện kế tiếp lại giồng như trước khi tôi ngủ, chúng tôi bắt đầu bàn luận mấy vấn đề không đâu vào đâu.

Trong lúc bàn bạc luôn có người ngủ gật, nhưng cũng may là một người ngủ thì vài người khác vẫn có thể nghĩ tiếp. Cứ thế, chúng tôi mỗi người góp một ý, lần lượt nói ra rồi lại bác bỏ. Lúc đầu lý luận còn nhiều, về sau những người lên tiếng càng ngày càng ít. Thời gian đã trôi qua sáu bảy tiếng đồng hồ từ lúc nào chẳng hay, dạ dày chúng tôi lại bắt đầu kêu réo.

Sau cùng Bàn Tử đốt một điếu thuốc, ngẫm nghĩ rồi nói với chúng tôi: “Không được, bọn mình mạnh ai nấy nghĩ thế này thật lãng phí thời gian. Chi bằng chúng ta viết hết mọi khả năng có thể ra, sau đó tổng hợp thành vài giả thiết rồi trực tiếp kiểm chứng, được không?”

Tôi bèn gật gù. Nói cho cùng thì rất nhiều vấn đề chúng tôi bàn bạc là trùng lặp, mọi người đều rơi vào trạng thái hỗn loạn rồi.

Bàn Tử dọn dẹp bề mặt một tảng đá trên mặt đất phủ kín kim khí, rồi viết xuống một dãy số: 1-2-3-4, nói: “Hãy thử nhớ lại xem chúng ta đã có mấy giả thiết rồi? Mọi người đều nghĩ, không cần phải cụ thể, chỉ cần khái quát là được rồi.”

Phan Tử nói trước: “Khả năng cao nhất là có cơ quan.”

Bàn Tử viết vào chỗ số 1 chữ “cơ quan”. Sau đó Thuận Tử lại lên tiếng: “Theo tôi thì có thứ gì đó ảnh hưởng đến cảm giác của chúng ta, ví dụ như ám thị tâm lý hoặc thôi miên, khiến chúng ta tự quay về chỗ cũ mà không biết.”

Bàn Tử bảo hắn ta: “Không cần phải nói chi tiết như thế.” rồi viết chữ “ảo giác” đằng sau số 2, sau đó nhìn về phía tôi.

Tôi góp ý: “Trên lý thuyết thì cũng có thể là nếp gấp không gian.” (*)

(*) Nguyên văn:

间折叠

. Là một lý thuyết trong thiên văn học dựa trên thuyết tương đối rộng của Einstein, nói đơn giản là lực hút quá mạnh sẽ làm không gian trở nên méo mó, hai điểm vốn cách xa nhau được kéo lại trùng khít lên nhau. Lý thuyết này cho rằng những lỗ đen rải rác trong vũ trụ, nơi lực hút lớn đến nỗi ánh sáng cũng không thể thoát ra được chính là những cánh cửa không gian như thế.

“Không có chuyện đó đâu, giả thiết này quá siêu thực rồi.” Phan Tử kêu lên.

Bàn Tử lại nói: “Kệ đi, xác suất có là một phần vạn thì chúng ta cũng thừa nhận. Giờ ta mới chỉ liệt kê ra thôi mà.” Nói đoạn cũng viết lên đằng sau số 3 chữ “nếp gấp không gian”. Sau đó hắn tiếp: “Còn một khả năng nữa là có quỷ.” rồi viết ra khả năng thứ tư: có quỷ.

“Anh viết ra như thế để làm gì cơ chứ?” Phan Tử mù mờ hỏi.

Bàn Tử đáp: “Các anh học nhiều, không hiểu được đâu. Bố đây ít học, mẹ kiếp mọi thứ cứ phải giấy trắng mực đen viết ra mới được. Nhưng làm thế cũng có cái tốt, ví như có những chuyện có thể làm cùng một lúc, nếu anh biết trước thì có thể tiết kiệm được ối thời gian rồi, chẳng phải chúng ta chỉ còn hai ngày thôi sao? Tốt nhất vẫn nên giản lược đi. Phải rồi, còn giả thiết thứ năm nữa không? Ai có giả thiết thứ năm?”

Tôi nhìn bốn luận điểm kia, trong đó quả thật đã bao quát từ cơ học lượng tử đến lý thuyết siêu hình, từ tâm lý học đến kiến trúc học, bốn ngành học lớn đều góp mặt hết, luận điểm thứ năm thực sự không thể nghĩ ra trong một chốc một lát được. Cuộc thảo luận ban nãy của chúng tôi thực chất cũng chỉ quanh đi quẩn lại điểm một và hai, chứ còn điểm ba và bốn coi như không thể xảy ra.

Bàn Tử thấy chúng tôi đều không có phản ứng gì, bèn nói: “Được, giờ chúng ta kiểm chứng điểm một và điểm hai trước. Hai điểm này vừa hay có thể giải quyết cùng một lúc.”

“Anh định kiểm chứng bằng cách nào?” Tôi vẫn còn nghi hoặc.

Trên thực tế thí nghiệm gì có thể tiến hành chúng tôi đều đã thử cả rồi, nhưng vì mộ đạo quá dài, rất nhiều thí nghiệm thật ra đều vô dụng.

Bàn Tử bất chợt cười cười: “Thật ra ban nãy tôi đã nghĩ được một cách hay, muốn chứng minh rốt cuộc chúng ta bị ảnh hưởng bởi điểm 1 hay điểm 2 có lẽ là không thể, nhưng muốn chứng minh bằng phản biện thì hoàn toàn khả thi, cậu xem có được không này.”

Tôi nhìn Bàn Tử dương dương đắc ý cứ như mọi chuyện đã nằm trong lòng bàn tay, lập tức cảm thấy không ổn, hay là cha nội này đã có tính toán gì rồi? Chỉ thấy hắn nhặt khẩu súng trường trên mặt đất lên rồi bảo chúng tôi: “Cái mộ đạo này dài khoảng 1000m đến 2000m, tầm sát thương của khẩu K56 này là 400m nhưng viên đạn có thể bay hơn 3000m lận. Tôi sẽ đứng đây bắn một phát, để xem kết quả thế nào.”

Tôi nghe xong như mặt trời chân lý chói qua tim, thâm tâm kêu trời một tiếng: Đúng là thiên tài!

Nếu cảm giác của chúng tôi có vấn đề, thì viên đạn kia là thứ vô tri vô giác. Mộ đạo có thể gây ảnh hưởng lên chúng tôi, nhưng không thể ảnh hưởng đến một viên đạn được. Nếu như tình hình ở đây còn có thể dùng lý lẽ thông thường để giải thích thì viên đạn kia chắc chắn sẽ biến mất nơi cuối mộ đạo, không thể quay về.

Chỗ hoàn hảo của thí nghiệm này nằm ở tốc độ của viên đạn: Với mộ đạo dài chừng này, viên đạn chỉ mất 2 đến 3 giây là có thể hoàn toàn đi hết, bất kì cơ quan cạm bẫy nào cũng không thể phát huy tác dụng trong thời gian ngắn ngủi này được.

Nhưng nếu tình hình ở đây thật sự vượt ra ngoài phạm vi giải thích của lý lẽ thông thường, tiến vào phạm vi siêu hình, thì viên đạn sẽ giống hệt chúng tôi, chuyển hướng 180 độ ngay trong không gian siêu việt của mộ đạo thẳng tắp.

Đơn giản mà hoàn mỹ, cực kỳ phù hợp với tinh thần khoa học, tôi thật sự hổ thẹn vì mình là sinh viên mà không nghĩ ra nổi biện pháp nào như vậy.

Có điều nghĩ kĩ thì một chiêu thế này cũng chỉ có người như hắn là nghĩ ra nổi, đây là tư duy logic đơn giản nhất.

Muốn phán đoán xem có bị ảnh hưởng của ảo giác hay không, thì phải tìm một vật không bị ảo giác ảnh hưởng, muốn tìm vật như thế phải nhìn đến những thứ ngay bên cạnh mình, theo phương pháp bắc cầu sẽ nghĩ ra cách này ngay, không hề phức tạp. Tôi đột nhiên cảm thấy Uông Tàng Hải đã gặp phải đối thủ rồi. Loại người tính toán kĩ lưỡng như ông ta có lẽ chỉ sợ gặp phải lối tư duy đơn giản như của Bàn Tử, cho dù là quỷ kế gì cũng bị đưa về mức đơn giản nhất.

Bàn Tử nói làm liền làm ngay, chúng tôi chỉ còn biết theo sau. Hắn bước vào mộ đạo, kéo chốt an toàn, muốn nổ súng bắn vào mộ đạo.

Tôi vội vàng kêu to: “Đợi đã!”

“Sao vậy?” Hắn hỏi.

“Đừng làm thế.” Tôi kêu lên, “Nếu mà, tôi nói nếu thôi nhé, chỗ này thật sự tà đạo đến mức đó, thì sau khi nổ súng có thể chính bản thân anh sẽ trúng đạn trong tích tắc.”

Bàn Tử biến sắc, hiển nhiên vừa rồi hắn vẫn đinh ninh điểm thứ nhất và thứ hai mới có khả năng lớn, căn bản không hề cân nhắc xem điểm thứ ba thứ tư có thể xảy ra không. Có điều nghe tôi nói xong hắn cũng gật đầu, dịch súng sang bên cạnh một chút. Đạn luôn bay theo đường parabol, nếu viên đạn bị bắn ngược trở về thì có lẽ sẽ găm vào vị trí hơi chênh chếch phía dưới họng súng.

Cả đám chúng tôi đều nấp ở lối vào, còn chưa kịp chuẩn bị tâm lý kỹ càng thì Bàn Tử đã đột ngột nổ súng. Một tiếng nổ ‘đoàng’ dữ dội vang lên trong mộ đạo, tiếp đó tiếng vọng liên tiếp dội lại, nhưng gần như cùng lúc, chúng tôi thấy cửa mộ chấn động mạnh, tro bụi bay mù mịt.

Đầu tôi nổ đánh đùng một cái, thầm nhủ không xong rồi. Vội vàng thò đầu ra ngó, tôi thấy Bàn Tử đứng im như tượng, vẫn giữ tư thế nổ súng, nhưng trên cánh cửa, cách khoảng 5, 6cm về phía dưới họng súng của hắn xuất hiện một vết đạn, vệt khói khi đạn găm vào còn chưa tan hết.

Chương 43: Đổ đấu và vật lý lượng tử

Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Một lần nữa chúng tôi lại trở về mộ thất chứa báu vật, không khí đã khác hẳn so với hồi nãy. Mọi người đều không nói năng gì, sắc mặt cũng không rõ là tái trắng hay tái xanh nữa. Chiếc lò không khói chiếu lên đống kim khí, ánh sáng vàng rực rỡ hắt ra giờ đây lại khiến người ta cảm thấy cực kỳ đáng ghét.

Không ai đưa ra ý kiến nữa. Mọi người đều tỏ vẻ trầm tư, nhưng tôi biết bọn họ cũng giống tôi thôi, đầu óc chỉ còn một khoảng trống rỗng.

Mọi chuyện đã vượt quá tầm kiểm soát của chúng tôi, thậm chí tôi còn cho rằng giả thuyết có cơ quan hiện giờ cũng chẳng đứng vững nổi. Chúng tôi đã rơi vào một trạng thái không thể diễn tả bằng lời, bất kì lý lẽ khoa học nào trải qua thực nghiệm đơn giản này đều đổ vỡ hoàn toàn.

Bởi vì không một ai đủ sức khiến cho một viên đạn, chỉ trong vài giây ngắn ngủi, ngoặt được một vòng lớn khủng khiếp như thế.

Muốn dùng khoa học để giải thích hiện tượng này, e rằng có vét cả lý thuyết vật lý lượng tử ra cũng chưa chắc đã cắt nghĩa nổi.

“Đây đúng là quỷ dựng tường thật rồi!” Sắc mặt Thuận Tử khó coi hết biết. Hắn nhìn sang dòng chữ người cha để lại phía bên kia, lộ ra vẻ mặt bi thương đan xen với sợ hãi.

Tôi biết giờ này hắn đang nghĩ tới điều gì. Hắn đã hiểu vì sao đám thây khô nằm giữa đống châu báu kia lại mang vẻ mặt tuyệt vọng đến thế. Lâm vào hoàn cảnh này, đã thử đi thử lại vô số lần nhưng cuối cùng vẫn quay về khởi điểm cho đến khi hết đạn cạn lương, hỏi sao không tuyệt vọng cho được. E rằng đến tận lúc chết, tâm tư đã hóa tro tàn, bọn họ vẫn chẳng tìm ra lấy một manh mối.

Mà chúng tôi rất có thể sẽ trở thành lớp tiếp theo. Chẳng bao lâu nữa nơi đây sẽ mọc thêm ra bốn cái thây khô quắt, gương mặt cũng khắc sâu nỗi tuyệt vọng tột cùng, để những kẻ hi sinh đến sau tha hồ suy đoán tâm tư trước khi chết của chúng tôi.

Sở dĩ trước đây tôi không tuyệt vọng, cũng chẳng thể ngờ mình sẽ đi đến bước đường này, là vì tôi cứ đinh ninh chỉ cần gặp phải mấy thứ xoắn não như cơ quan cạm bẫy, thì bằng vào trí tuệ của tôi, nhất định sẽ không thể bị vây khốn. Nhưng bây giờ mọi chuyện đã khác rồi. Rõ ràng tình huống chúng tôi gặp phải quỷ dị hơn nhiều lắm.

“Có muốn tiếp tục không?” Yên tĩnh được khoảng 10 phút thì Phan Tử hỏi bằng giọng khô khốc.

Không ai đáp lại, nhưng ánh mắt của mọi người đều đổ dồn về phía Bàn Tử.

Trên mặt đất phía trước Bàn Tử còn sót lại hai giả thiết. Giả thiết thứ ba là ý kiến do tôi thuận miệng bịa ra: nếp gấp không gian.

Sở dĩ vừa rồi tôi đột ngột đưa ra luận điểm này là vì bỗng dưng nhớ lại lúc bò trong khe núi lửa kia, Muộn Du Bình đã biến mất ngay trước mắt tôi trong vòng vài giây đồng hồ. Lúc ấy tôi nghĩ nát óc không ra, giờ ngẫm lại thì hẳn phải liên quan đến nếp gấp không gian thật. Do cái thí nghiệm ban nãy quá mức đáng sợ, quả thực là một thí nghiệm phản khoa học, bỗng dưng giả thiết nếp gấp không gian huyền diệu của tôi lại trở thành cách giải thích hợp lý nhất.

Nếu không nhờ Bàn Tử liệt kê ra những giả thiết đó, thì chỉ e sau khi chứng kiến cái thực nghiệm kia, tôi nhất định sẽ khiếp hãi đến quên sạch mọi thứ.

Im lặng hồi lâu, Bàn Tử mới nói: “Được rồi, ai cũng đã được thấy tận mắt, đừng nhiều lời thêm nữa. Chúng ta phải làm gì để chứng minh điểm thứ ba đây.”

“Không! Không cần chứng minh đâu.” Phan Tử ở đằng kia đột nhiên lên tiếng.

Phan Tử thường nhìn nhận vấn đề cực kỳ thấu đáo, luôn luôn xoáy thẳng vào bản chất sự việc, ví dụ như vừa rồi khi Bàn Tử vẫn còn vọng tưởng mộ đạo sẽ xuất hiện thì Phan Tử đã lập tức phủ nhận hoàn toàn. Điều này liên quan tới việc Phan Tử là người trở về từ chiến trường, khi cân nhắc một vấn đề anh sẽ không mang chút tâm lý trông chờ vận may nào hết. Vậy nên khi nghe anh nói tôi cũng hết sức sợ hãi, chỉ e nhiều sự thật anh nói ra lại không nên được nhắc đến vào lúc này.

Nhưng anh lại bảo: “Ở đây có sáu khối thi thể. Chúng ta đặt giả thiết có cả thảy tám người đi vào, vậy hai người còn lại đương nhiên đã thoát ra. Tuy vẫn chưa biết họ ra bằng cách nào, nhưng nếu giả thiết thứ ba của cậu Ba là đúng thì không ai có thể thoát ra nổi, cho nên chúng ta không cần cân nhắc làm gì nữa. Cân nhắc giả thiết thứ ba có khác nào thừa nhận mình đã chết chắc rồi.”

Lời vừa nói ra, ai nấy đều lạnh toát cả người. Bàn Tử lên tiếng phản đối: “Sao anh dám chắc có tám người đi vào? Mẹ kiếp, nói không chừng lúc vào cũng chỉ có sáu người thôi.”

Phan Tử thở dài một hơi: “Bàn Tử chết toi, anh còn chưa hiểu à? Thật ra họ vào mấy người không quan trọng.”

Chuyện này không cách nào chứng minh được, làm ầm lên cũng vô ích, tôi thầm nhủ: “Bọn họ rốt cuộc đi vào mấy người cũng chẳng ảnh hưởng gì tới tình cảnh của chúng tôi, nhưng đối với ý chí chiến đấu của mọi người lại đặc biệt quan trọng. Nếu đã có hai người đào thoát thành công thì tinh thần của chúng tôi sẽ hoàn toàn đổi khác. Chúng tôi còn có thể nghĩ xem họ đã thoát thân thế nào, ít ra vẫn còn một tia hy vọng.”

Nghĩ đoạn, tôi chẳng thèm quan tâm bọn họ làm cái trò khỉ biển gì nữa, chạy đến bên mấy thi thể lục sổ sách của bọn họ xem có manh mối gì không, may ra thì có người viết nhật ký. Nếu có người ghi lại những ý kiến của họ vào lúc ấy, hoặc viết về chuyện có người thoát ra thì chí ít chúng tôi vẫn còn một tia hy vọng.

Có điều ban nãy xem bút ký tôi chỉ lật qua loa chứ không đọc hết những đoạn văn dài, còn mấy đoạn ngăn ngắn lại chỉ ghi số liệu hoặc những mẩu thông tin vụn vặt chứ không có nội dung gì cả.

Tôi nghĩ vào thời điểm cận kề cái chết, có lẽ những người này cũng chẳng ghi chép gì đâu. Khi đứng trước ngưỡng cửa tử vong, chỉ e đến cả đèn chiếu sáng họ cũng chẳng còn nữa. Pin thì đã cạn từ lâu, cũng không có gì để sưởi ấm, cho nên họ mới phải cuộn chặt lấy nhau, rúc vào một xó trong bóng tối mịt mùng. Vậy nếu có tám người tiến vào thì hai người kia rốt cuộc đã thoát ra lúc nào? Chắc chắn không phải khi bọn họ còn tỉnh táo, vì nếu thế những người khác cũng phải thoát được rồi mới đúng. Vậy không lẽ là lúc bọn họ đã đói đến hoa mắt, lại không có đèn, bốn bề chìm vào tối tăm? Cho nên những người khác mới không biết đã có hai người rời đi sao?

Vậy điểm mấu chốt để chạy thoát, lẽ nào lại là mò mẫm trong bóng tối không một ánh đèn?

Vừa nghĩ đến đây tôi đã ớn lạnh sống lưng. Nơi đây dầu sao cũng là cổ mộ, nếu phải lần mò trong bóng đêm giữa mộ đạo dài hun hút này thì đúng là muốn lấy mạng người ta rồi còn gì.

Những người khác thấy tôi lục lọi tài liệu thì cùng quây lại giúp tôi tìm kiếm. Cứ đứng chôn chân ở đó mà nghĩ vớ nghĩ vẩn cũng chẳng giải quyết được gì, có đôi khi phải xem cái này cái kia để lấy lại tinh thần một chút.

Nghĩ đến chuyện cuối cùng ánh sáng sẽ lụi tàn, tôi bèn bảo bọn họ đừng lãng phí điện nữa. Đèn pin đều phải tắt, chỉ mở lò sưởi thôi cũng đủ sáng rồi. Chúng tôi quây lại trước bếp lò, ba quyển bút ký và một cuốn tiểu thuyết phân cho bốn người giở ra xem, cố lần tìm manh mối trong từng câu từng chữ.

Tôi lật một cuốn bút ký với những hàng chữ thanh thoát, người viết hẳn phải là phụ nữ. Giở thử vài trang thì thấy ghi toàn tên người và số điện thoại, phía sau còn có danh sách khách mời ăn cơm, có số điện thoại của khách sạn ở núi Trường Bạch, đôi chỗ vẽ mấy cái bản đồ đơn giản kèm thêm vài địa chỉ và ghi chú nữa. Tôi đọc thấy hồi năm 1994 hình như người phụ nữ này còn bị bệnh phải nằm viện, trong này có ghi là cần tái khám.

(có phải sổ của dì Hoắc Linh không á >A< )

Giở thêm vài tờ thì chỉ thấy giấy trắng, nhưng tôi vẫn kiên nhẫn lật từng trang, hi vọng cô ấy có thể viết lại thêm chút gì, đang lật thì Bàn Tử mở miệng: “Có manh mối chỗ này này.” Nói rồi hắn đọc lầm rầm: “Hôm nay bán món đồ cuối cùng mang từ biển về, được 3000 đồng, 1500 trả lão Lý, dứt hết nợ nần, đi với cha này có ngày bể mánh.”

Tôi lắc đầu cười khổ, lại nhìn sang Phan Tử ngồi bên kia. Quyển bút ký của anh mỏng nhất, gần như chẳng có gì nên đã kiểm tra xong rồi. Nhìn đến Thuận Tử thì thấy hắn đang say sưa đọc tiểu thuyết, rõ ràng là đã nhảy cóc đến đoạn tình cảm mùi mẫn nhất của vai chính trước lúc đi xa.

Bàn Tử nhìn chướng mắt, bèn giật phắt lấy quyển sách, lên giọng chửi bới: “Bảo cậu tìm manh mối cậu lại đi xem văn hóa phẩm đổi trụy, lương tâm của cậu mục ruỗng quá rồi! Tịch thu!”

Vừa giật một cái, quyển truyện đã rã rời ra từng mành, giấy bay lả tả trên mặt đất.

Tôi rủa một tiếng, vừa sạc cho Bàn Tử một trận vừa bật đèn pin đi nhặt. Bất thình lình Phan Tử kêu lên: “A, có tấm ảnh kìa.” Nói đoạn anh bới từ mớ giấy lộn ra một bức ảnh đen trắng đã ố vàng.

Tôi cầm lấy ngắm nghía, đột nhiên cảm thấy nó trông rất quen, nhìn kĩ hơn một chút, đầu óc liền kêu lên ong óc, suýt chút nữa phát sặc — Thì ra nó chẳng xa lạ gì, mà chính là tấm ảnh nhóm chú Ba đã chụp chung ở bến tàu trước chuyến đi Tây Sa.

Chương

44: Những người đến từ đáy biển

Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Trên người tôi vẫn còn nội thương, nhìn thấy tấm ảnh xém chút nữa đã hộc máu, làm mấy người khác sợ hãi la hét ầm ĩ. Đám Phan Tử chưa từng thấy tấm ảnh này, tuy có nghe tôi kể lại nhưng nhìn lướt vẫn không nhận ra, nên đều cảm thấy khó hiểu. Bàn Tử vội vàng giúp tôi thuận huyết, hỏi tôi có sao không.

Tôi run lẩy bẩy cầm lấy tấm ảnh, chỉ hình Muộn Du Bình và chú Ba trên ảnh cho bọn họ xem. Xem xong nét mặt mấy người kia lập tức biến đổi, trông còn khó coi hơn cả tôi, chẳng ai thốt nên lời.

Tôi không thể nào tin đó là sự thật, ngoảnh đầu lại nhìn mấy cái thây khô phía bên kia mà lòng dạ rối như tơ vò.

Tấm ảnh này không thể nằm trên người kẻ vô can, lẽ nào nhóm người thần bí mười năm trước leo lên Trường Bạch Sơn rồi bị vây khốn đến chến ở trong này lại chính là đám người dưới đáy biển kia? Mấy cái thây khô này, không lẽ lại là đám người Văn Cẩm, Lý Tứ?

Tôi run rẩy lật tấm ảnh lại, thấy mặt sau còn có một dòng chữ nhạt nhòa: Đội khảo cổ Tây Sa, kỷ niệm của Lý Tứ.

(đuýt tờ ôm mặt khóc rưng rức (/□

*)

・゜

)

Xem ra đúng là vậy rồi, nếu nói tấm ảnh này do những người khác mang vào đây thì quả thực hết sức vô lý. Mang theo ảnh lưu niệm tùy thân, chắc chắn phải là người trong cuộc… Hèn chi chú Ba làm đủ mọi cách vẫn không tìm nổi bọn họ, hóa ra đã chết rũ ở đây từ lâu rồi.

Nhìn trang phục thì thấy hoàn toàn trùng khớp, lại thêm tấm ảnh này… Nhưng vì sao những người này lại muốn đến đây cơ chứ? Lẽ nào trong huyệt mộ dưới đáy biển họ đã phát hiện ra thứ gì đó nên mới tìm đến núi Trường Bạch?

Đợi đã, không phải chứ. Tôi đột nhiên nghĩ đến chú Ba, nghĩ đến Muộn Du Bình. Trời ạ, gần như tất cả những người từng vào ngôi mộ dưới đáy biển giờ đều có mặt tại Vân Đỉnh thiên cung. Đám người này đã tới từ mười năm trước, gần đây lại đến lượt chú Ba và Muộn Du Bình. Rốt cuộc vì sao bọn họ cứ phải khăng khăng đâm đầu vào chỗ này cơ chứ?

Những bí ẩn đã vùi vào quên lãng phút chốc sống dậy trong lòng, hằng hà sa số vấn đề cũng ào ào xộc thẳng vào đầu tôi.

Nhóm người Phan Tử không biết chuyện cũ của chú Ba nên lúc nhìn thấy tấm ảnh còn khiếp sợ hơn tôi nhiều, tôi đành phải kiên nhẫn giải thích một lần, mấy người kia nghe đến đâu là trợn mắt há mồm đến đấy. Bàn Tử nói: “Vô lý, mà khoan, để tôi nghĩ thêm đã… Hầu như tất cả những người đã từng đến ngôi mộ dưới đáy biển, kể cả A Ninh và chúng ta, đều đã tới nơi này rồi. Không lẽ huyệt mộ kia có một lời nguyền, chỉ cần đặt chân vào đó thì nhất định phải leo lên núi Trường Bạch … Không đúng, nói thế hình như không chuẩn?”

Bàn Tử đương nhiên chỉ nói nhảm nhưng cũng đủ làm tôi ớn lạnh, có điều gì đó trong lòng bắt đầu sáng tỏ. Xem ra ngôi mộ dưới đáy biển cũng không phải là mấu chốt, mà mấu chốt là ở đây cơ. Huyệt mộ dưới đáy biển chẳng qua chỉ là tấm ván bắc cầu mà thôi…

Tôi lục lọi bằng sạch tất cả những gì có thể lấy từ thi thể, nhưng vẫn chẳng kiếm ra thêm bất kì manh mối nào. Thậm chí những người này là ai, tôi cũng không hoàn toàn nắm rõ. Lòng tôi rối như canh hẹ, mụ mị xoay người chuyển hướng bước vào mộ đạo, đến đèn pin cũng chẳng buồn đem theo.

Bàn Tử vội vàng níu lại nên tôi mới tỉnh ra, hắn bảo cậu có cuống lên cũng chả ích gì, những người này chẳng phải đã bị giam đến chết ở đây sao. Cậu chết đi có thể hỏi oan hồn bọn họ xem đã xảy ra chuyện gì thật, nhưng có biết thì cũng quá muộn rồi.

Tôi thuận đà ngồi xuống thở hổn hển, dần dần bình tĩnh lại, trong đầu chỉ còn một ý niệm: “Mình nhất định phải thoát ra, nhất định phải tìm chú Ba để hỏi rõ ngọn ngành, bằng không có chết cũng không nhắm nổi mắt.”

Bàn Tử nói: “Nhưng đến giờ đã tìm được manh mối nào chứng minh trong số họ đã có người thành công thoát ra đâu. Không chừng chỗ này là một không gian khép kín, căn bản không thể thoát ra, cậu có nhắm tịt hai mắt cũng vô ích.”

Bàn Tử vừa thốt ra lời này, những người khác đồng loạt câm nín. Chúng tôi đang định tìm kiếm chút manh mối trên mấy khối thi thể này, thoáng cái lại phát hiện ra một bí mật lớn kinh người, thật sự là sóng trước còn chưa yên, sóng sau đã xô tới.

Mọi người đều theo đuổi những ý nghĩ riêng, bầu không khí trầm xuống đến cực điểm. Đầu óc tôi hỗn loạn, căn bản không dám nhìn lại bức ảnh, chỉ sợ trong đó sẽ xuất hiện quái vật hút tôi vào. Cổ họng cũng bắt đầu ngứa ngáy, hình như bị cảm lạnh rồi, tôi bắt đầu ho khan ra máu.

Phan Tử thấy vậy bèn bảo với cả bọn: “Hôm nay cứ nghỉ ngơi đi đã, dù sao một chốc một lát cũng không ra được, chi bằng cứ đánh một giấc thật đẫy cho đầu óc tỉnh táo đã. Cậu Ba đừng nghĩ ngợi nhiều quá, tôi biết cậu ôm rất nhiều khúc mắc trong lòng, nhưng muốn làm rõ cũng không phải chuyện một sớm một chiều đâu.”

Tôi khoát tay. Làm sao mà ngủ được chứ, chẳng thà ngồi đây nghĩ tiếp cho rồi. Nghĩ đến khi chịu hết nổi mới thiếp đi được, bằng không càng ngủ càng mệt thêm thôi.

Bàn Tử chẳng biết đã rít đến điếu thuốc thứ mấy rồi, vừa rít vừa làu bàu: “Giờ tôi lại nghĩ, nếu sớm biết thế này hồi nãy đã không đi theo cái ký hiệu kia. Giá nghe lời tôi có phải tốt hơn không, một nhóm bị nhốt rồi nhóm kia còn có đường nghĩ cách…

(Bàn Tử từng đề nghị chia làm 2 nhóm)

Cái ký hiệu đó, giờ ngẫm lại có khi là do mấy cỗ thi thể kia để lại cũng nên. Cậu xem, mọi chuyện đều trùng khớp. Có lẽ bọn họ cũng nghĩ như chúng ta, chia ra thành hai nhóm, hai người kia đi vào mộ đạo đối diện.”

Tôi lắc đầu bảo không đâu, một nhóm bị nhốt rồi, nhóm kia quay lại tìm chẳng phải cũng dính trấu như nhau sao, đến lúc đó mới gọi là thảm. Hơn nữa không chừng đi bên không có ký hiệu kia còn nguy hiểm hơn, vì đâu ai biết chờ chúng ta là cái quái gì.

Có điều đào sâu suy nghĩ lại thấy vô lý, vì nếu một nhóm bị nhốt thì khi nhóm kia quay lại mộ đạo đã biến đổi, bọn họ sẽ không tài nào tìm ra cái mộ thất này. Ký hiệu kia liệu có phải do người may mắn sống sót ghi lại, là ký hiệu “đội này đã mất tích”?

Nghĩ đi nghĩ lại, tôi đột nhiên run bắn toàn thân… Một tia điện xẹt qua óc tôi… Ký hiệu…

Tôi dồn sức ngồi bật dậy, nói với bọn họ: “Tôi bỗng nhớ ra một sơ hở rất quái dị. Về cái mộ đạo này, có một

lập luận bác bỏ

.”

“Cái gì cơ?”

Tôi nhíu mày nghĩ xem mình phải diễn đạt thế nào, “Tôi sợ các anh nghe không hiểu. Thí dụ nhé, nếu chúng ta đi ra ngoài trong bóng tối, bất kể là vì nguyên nhân gì, chúng ta đều phải qua một quá trình thay đổi phương hướng, cho dù quá trình này bản thân chúng ta không hề hay biết, có đúng không?”

Mấy người kia khẽ gật đầu, tôi nói tiếp: “Ví dụ như, tôi cầm một cây bút vừa đi vừa vẽ lên tường thì nhất định sẽ để lại một vạch thật dài trên tường lối ra. Vậy trong tích tắc tôi bị đổi hướng mà không biết, các anh đoán xem tôi sẽ phát hiện điều gì?”

Bàn Tử gần như nhảy dựng lên: “Cậu sẽ thấy trên vách tường mộ đạo phía trước đã có dấu vết cậu vạch ra từ trước rồi!”

“Không chỉ có vậy!” Tôi nói: “Điểm mấu chốt nhất là gì? Chính là sau khi tôi quay người, trái phải sẽ đổi chỗ cho nhau, tay cầm bút của tôi sẽ bắt đầu vạch lên vách tường bên kia.”

“Cái này!” Phan Tử cũng nhíu mày nói.

“Đây là suy luận logic.” Tôi giải thích: “Nói cách khác, nếu như dùng logic học để giải thích, đặt giả thiết ở chính giữa mộ đạo có một điểm ngoặt! Ở điểm ngoặt này chúng ta sẽ giống như bước vào một tấm gương, sau đó đi thẳng về hướng ngược lại với mình, các anh có công nhận không nào?”

Ai nấy đều gật đầu, theo logic thì nhất định phải như tôi nói.

Tôi nói: “Tốt, vậy các anh nghĩ thử coi, nếu trong lúc đi chúng ta thực sự đụng phải một ‘mặt phản xạ’ như lời tôi nói, vậy cái mặt phản xạ này phải dày cỡ nào?”

“Dày cỡ nào á?” Mấy người này còn chưa tiêu hóa xong những lời tôi vừa nói, ù ù cạc cạc.

“Đúng, nhất định phải có độ dày. Nếu không có độ dày thì lúc cơ thể anh xuyên qua một nửa trước, nửa người phía sau sẽ…”

Phan Tử lập tức hiểu ý của tôi, thoáng cái đã đầm đìa mồ hôi lạnh, vô thức tiếp lời: “Chồng lẫn lên nhau!”

“Chính xác! Bởi vì ở vị trí đó, nửa người trước của anh đã bị phản xạ trở về, nhưng nửa phía sau lại chưa đi qua ‘mặt gương’, cho nên nếu lập luận của tôi là chính xác, thì đúng vào lúc xuyên qua ‘gương’ phản xạ,  chúng ta ắt hẳn phải chết! Sẽ biến thành một nùi quái thai! Mặt anh sẽ đâm ra đằng gáy!”

“Nhưng chúng ta đã đi qua đi lại bao nhiêu bận mà có chết đâu?” Bàn Tử nghi hoặc hỏi.

“Đó chính là điều tôi muốn nói. Mặt gương này đảm bảo phải có độ dày lớn hơn cơ thể người. Quá trình phản xạ sẽ thế này, sau khi tiến vào vùng phản xạ, trước tiên chúng ta vào từ đầu bên này, đi một đoạn bên trong xong lại đi ra ở đầu kia, hoàn thành nếp gấp không gian.”

Mọi người lại gật đầu tỏ vẻ đồng tình, lối suy luận này quả là không một kẽ hở.

“Vấn đề là chúng ta không biết cái đoạn đó dài bao nhiêu. Giả như nó chỉ dài hai ba bước, tôi lấy một ví dụ thế này, nếu chúng ta đi vào một đoạn ‘gương không gian’, nhưng Bàn Tử lại không vào, mà đứng ở  chỗ bắt đầu có tấm gương không gian. Tấm gương không gian chỉ dài có vài ba bước, anh lại có thể quan sát cả hai phía trước sau, anh đoán xem sẽ có chuyện gì xảy ra nào?”

Phan Tử hiểu nhanh nhất, cổ họng gần như đông cứng: “Sẽ… thấy trước sau xuất hiện hai Bàn Tử giống hệt nhau.”

“Đúng, ở đây xuất hiện một lập luận bác bỏ: Bàn Tử đứng phía sau anh, khi nhìn vào khoảng không trước mặt anh, có thể thấy Bàn Tử  phía trước anh không? Hoặc là anh nắm lấy tay của một trong hai Bàn Tử đó, thì sẽ có chuyện gì xảy ra?”

Phan Tử vội vàng ra hiệu cho tôi ngừng lại: “Đừng… đừng nói nữa!”

“Làm vậy để chứng minh cái gì mới được chứ?” Bàn Tử bên cạnh cũng đã tái mặt.

“Chúng ta không cần tiếp tục thí nghiệm cũng có thể xác định, thứ gọi là ‘gương không gian’ này không thể tồn tại được! Hơn nữa cái mộ đạo phản xạ này đi thế nào cũng không thoát ra nổi, cơ sở logic của nó cũng không tồn tại, nói cách khác sự tồn tại của mộ đạo này là không hợp logic.” Tôi hạ giọng: “Uông Tàng Hải không phải thánh thần, ông ta không thể tự mình tạo ra định luật vật lý. Cơ quan ở chỗ này không liên quan gì đến Uông Tàng Hải hết, những người này cũng không phải vì vậy mà bị vây khốn đến chết. Tình huống chúng ta hiện đang gặp phải là một trường hợp đặc biệt, là một tình huống mới! Chúng ta đã bị những cái xác này đánh lạc hướng rồi, giờ đây khả năng lớn nhất tạo ra tình huống này, chỉ có một mà thôi…”

Tôi cẩn thận chỉ ngón tay vào giả thiết thứ tư mà Bàn Tử đã viết xuống, cử động môi, dùng khẩu hình nói: “Bên người chúng ta có quỷ!”

Chương

45: Tê chiếu

Editor: Yoo Chan + Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Hiện giờ ngẫm lại, lúc ấy một mực nghiêm túc thở ra mấy chữ này như vậy, lại còn dùng khẩu hình để nói, chỉ sợ con quỷ kia nghe thấy, chứng tỏ thần kinh của tôi đã bị đày đọa thành cái dạng gì không biết nữa rồi. Nếu là ngày thường hoặc nếu áp lực nhỏ hơn một chút, tôi căn bản sẽ không nảy ra cái suy nghĩ này.

Chuyện này kỳ thật cũng là lẽ đương nhiên. Mấy người chúng tôi bỏ ra ngần ấy thời gian, nếm trải biết bao nhiêu chuyện mới đến được bước này, thì lại rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng không thể tìm rõ nguyên nhân như thế. Chưa nói đến con đường phía trước dài dằng dặc, khoan bàn xem làm sao mới có thể trở về, riêng chuyện trước mắt cũng đủ khiến đầu óc chúng tôi bế tắc rồi, có vô số vấn đề nghĩ không nổi mà nhìn cũng không thấu.

Sau chuyện này tôi ngồi suy xét lại, kỳ thật còn có thể nghĩ ra vô vàn cách thoát thân, ví như cầm la bàn lên ngắm kĩ cây kim rồi đi vào mộ đạo, trong tích tắc chúng tôi đổi chiều, kim chỉ nam trên la bàn nhất định sẽ chuyển động, vân vân.. Khổ nỗi lúc ấy trong đầu tôi chỉ có mấy hướng suy nghĩ cứng nhắc, còn đâu hoàn toàn trống rỗng, đến nỗi còn đi tin vào giả thiết có quỷ dựng tường, hơn nữa lúc ấy hoàn toàn chẳng thấy nó hoang đường hay nực cười chút xíu nào, thậm chí còn cảm thấy hơi khiếp hãi.

Mấy tay Bàn Tử, Thuận Tử trông thế mà còn nhát hơn tôi, giờ đây đã hoàn toàn bị nét mặt của tôi ảnh hưởng, sắc đần dần trắng bợt ra. Nuốt một ngụm nước miếng, Bàn Tử cũng dùng khẩu hình nói: “Cậu có dám chắc không? Tôi đã nói từ lâu mà… Giờ biết phải làm sao?”

Trong lòng tôi lúc đó nghĩ thế này: cơ sở logic của cái mộ đạo này không đứng vững thật, như vậy nguyên nhân hình thành hiện tượng này tất nhiên không liên quan gì đến logic. Nhưng nếu không phải mình đang nằm mơ, thì mọi thứ đều không thể thoát khỏi sự trói buộc của logic; nói cách khác những gì chúng tôi đang nhìn đang nghe lúc này đây rất có thể đều là giả tạo. Nếu vậy cảnh tượng xung quanh chúng tôi trông như thế nào, thật khó mà nói được. Mà có thể làm cho bốn người sinh ra ảo giác cùng một lúc, tôi cho rằng chỉ có sức mạnh của “ác quỷ” mới làm được thôi. Chỉ “ác quỷ” mới có thể bất chấp logic, mới có thể vây khốn người ta đến mức này mà không hề để lộ sơ hở.

“Ác quỷ” ở đây thật ra chỉ là một kiểu ví von cho người ta dễ hình dung ra vấn đề, ám chi tất cả những năng lực chúng tôi không lý giải nổi. Loại năng lực này rõ ràng tồn tại như một lẽ đương nhiên.

Nhưng nếu thực sự có “quỷ”, chúng tôi lại thành ra bó tay chịu trói, vì chúng tôi căn bản không nhìn thấy nó, đương nhiên cũng vô phương đối phó. Cho dù chúng tôi có chửi rủa hay chọn bừa một phương pháp bất kì thì cũng chẳng có tác dụng gì với nó. Đây chính là tình huống mà tôi căm ghét thứ hai: biết rõ vấn đề phát sinh ở xung quanh mình mà lại không đối phó nổi, có cố gắng cũng vô ích.

Lúc đó suy nghĩ của tôi còn hết sức ngây thơ, hơn nữa cũng không biết thứ sức mạnh này thuộc loại gì. Nếu nó không có ý thức thì phiền to rồi, vì bản thân nó đã không có tư duy, chúng tôi có giở chiêu trò gì cũng vô dụng, chỉ còn cách lấy cứng đối cứng, bắt được nó mới xong. Còn nếu là oán quỷ thì lại dễ xử lý, nó biết suy nghĩ, chúng tôi có thể ép nó lộ mặt, ép nó phạm phải sai lầm.

Tôi và bọn họ liên tục suy tính. Bàn Tử nói chắc như đinh đóng cột rằng mình có cảm giác rất có thể con quỷ này chinhs là một trong mấy cái thây khô trước mặt chúng tôi. Nhiều khả năng trong số đó có linh hồn người nào còn lưu luyến chuyện phàm trần nên cứ mãi luẩn quẩn ở đây, thấy có người đến chơi thì tự nhiên muốn chòng ghẹo một phen, nhưng chẳng rõ là cái nào.

Bàn Tử trước hết loại trừ ông bố Thuận Tử ra. Cha già mười năm chưa thấy mặt con, tất nhiên không nỡ mang tính mạng thằng con ra làm trò mua vui đâu, chắc là năm cái xác còn lại thôi.

Lúc này tôi bắt đầu cảm thấy mình suy nghĩ hoang đường, nhưng chúng tôi đã đi đến bước đường cùng, giả thiết gì cũng phải thử nghiệm. Bèn đến trước mấy thi thể đó, bảo bọn họ quỳ cả xuống, rồi tôi dùng giấy vụn gấp thành mấy thỏi vàng, đưa cho từng người bọn họ bào đốt. Vừa đốt tôi vừa dập đầu khấn: “Con là cháu trai của chú Ngô Tam Tỉnh, đi tìm chú con có việc gấp. Các ngài có vị nào làm phép thì xin vui lòng nhận lấy chút lòng thành này rồi tha cho chúng con đi. Chúng  con đã gấp lắm rồi, nếu các ngài không chịu thì xin để gã béo này lại đây chơi với các ngài, còn mấy người khác xin hãy tha ra làm phước.”

Bàn Tử nghe xong cáu ầm lên, Phan Tử và Thuận Tử mỗi người phải giữ chặt một tay hắn không cho cục cựa. Bàn Tử chửi oang oang: “Ngô Tà, mày là đồ tiểu nhân đê tiện. Bố phải cắn chết mày!”

Tôi lầm rầm khấn vái xong thì nhìn quanh một lượt, bốn bề chẳng hề thay đổi, mấy cái xác vẫn trơ ra như cũ. Biết mình phí công vô ích, tôi bèn phất tay bảo bọn họ buông Bàn Tử ra. Bàn Tử căng thẳng đảo mắt nhìn bốn phía, cũng thấy chẳng có gì thay đổi, không khỏi cười mát mẻ: “Thấy chưa, quỷ đại thúc vẫn công bằng nhất, người ta gai mắt mấy đồng tiền bẩn thỉu của cậu rồi.”

Tôi nói: “Có khi người ta gai mắt anh ấy chứ, thiệt tình.”

Thuận Tử lúc này cũng lên tiếng: “Không đúng, chúng ta không nên nghĩ như vậy. Anh xem có cha tôi ở đây, cho dù có người muốn hại chúng ta, cha tôi cũng sẽ ngăn cản chứ. Chúng ta cầu mà không linh, lẽ nào kẻ tác quái không phải mấy người này?”

Nếu là ngày thường, những lời ngây thơ như thế hẳn đã khiến tôi bật cười. Nhưng giờ đây tôi lại nghiêm túc lắng nghe, còn cân nhắc xem lời hắn ta nói có lý hay không. Cân nhắc xong, tôi bảo: “Không chừng cha anh đã siêu thoát rồi, hoặc kẻ tác quái không chỉ có một, ông ấy đấu không lại. Có điều tôi cũng cảm thấy không phải mấy người ở đây, họ đều là người lớn cả rồi, hơn nữa còn là chỗ thân thiết với chú Ba, tôi không nghĩ họ sẽ tác oai tác quái. Bày ra trò bịp này có thể là tiểu quỷ, thi thể cũng không ở đây.”

Nói thì nói vậy, chứ nếu sự thật mà đúng lời tôi nói thì lại khó nhằn rồi, vì chúng tôi có thấy được con quỷ này ở đâu đâu. Không chừng nó có bò lên lưng, chúng tôi cũng không biết ấy chứ, mà nhìn không thấy thì cũng hết cách ra tay. Nghĩ vậy tôi thở dài, hỏi: “Các anh có ai biết cách nào, bí kíp dân gian cũng được, để nhìn thấy quỷ không?”

Phan Tử đáp: “Tôi nghe nói chỉ cần nhỏ nước mắt trâu vào tròng mắt thì sẽ thấy được quỷ.”

Bàn Tử bật cười hô hố: “Thế thì nhiệm vụ kiếm trâu phải giao phó cho anh rồi.”

“Không, có lẽ không cần nước mắt trâu vẫn nhìn được.” Tôi đột nhiên nhớ ra một cách, “Nhưng Bàn Tử nhà anh phải chịu hi sinh một chút.”

Bàn Tử bỗng chốc trở nên căng thẳng, “Cậu muốn giết chết tôi, để hồn tôi đi thương lượng với quỷ hả? Còn khướt nhé, nếu các người dám giết tôi, tôi nhất định sẽ về phe với con quỷ kia, hại cho các người càng thảm hơn đấy.”

Tên khỉ gió này lại nghĩ lung tung đi đâu thế? Tôi phát cáu: “Anh hoang tưởng nó vừa vừa thôi, tôi chỉ cần mượn anh cái bùa Mô Kim dùng một lát.”

“Cậu định làm gì?” Bàn Tử che ngực lại: “Cái này là hàng xịn đó, làm hư cậu có đền nổi không?”

“Bùa Mô Kim là vật trừ tà đệ nhất thiên hạ, nếu là hàng thật, chúng ta làm sao lại ra nông nỗi này. Vừa nãy tôi đã xem rồi, cái đó là hàng rởm.” Tôi nói: “Mau đưa đây cho tôi.”

“Rởm á?” Bàn Tử tháo xuống săm soi một lát: “Cậu chắc chứ?”

“Dĩ nhiên rồi, cái này làm bằng sừng tê giác. Ông là chuyên gia trong nghề này, nhầm thế quái nào được? Bùa Mô Kim bằng xuyên sơn giáp

(vuốt tê tê)càng đeo càng đen bóng, anh xem cái sừng tê giác của anh đi, đã bắt đầu xám ngoét ra rồi kìa. Tôi chả thèm lừa anh làm gì.”

“Má ơi! Bảo sao tôi xui dữ vậy!” Bàn Tử cáu điên lên: “Mẹ kiếp cái quân đốn mạt kia lại qua mặt tôi lần nữa, chẳng trách lần nào cũng không linh. Bàn gia đây lần này nếu còn mạng mà thoát ra ngoài, không phá tanh banh cái cửa hàng kia thì tôi không mang họ Vương nữa.”

Tôi đón lấy lá bùa Mô Kim từ tay Bàn Tử, an ủi hắn vài câu. Hắn lại hỏi tôi định dùng thế nào, có phải đem nó đặt vào gáy thi thể không?

Tôi đáp: “Từ xưa có một truyền thuyết là ‘Tê chiếu thông linh’, anh đã từng nghe chưa?”

Bàn Tử thắc mắc: “Chắc là cái phim Hồng Kông chiếu hồi mấy năm trước phỏng?”

“Gần đúng rồi, chính là ý đó.” Tôi gật gù: “Chỉ cần đốt vật này lên, nương theo ánh sáng nó tỏa ra anh sẽ nhìn thấy quỷ. Đương nhiên tôi cũng chưa làm thử bao giờ, không rõ là thật hay chém.”

Lúc ấy chính tôi cũng thấy mình hoang đường muốn chết, có điều đến nước mắt trâu còn lôi ra được thì đốt sừng tê cũng thường thôi, cái này gọi là có bệnh thì vái tứ phương ấy mà. Trước khi Bàn Tử nghĩ ra giả thiết thứ năm thì chỉ có ý tưởng của tôi là khả thi, không thử cũng không xong.

Trong Tấn thư đã ghi lại một chuyện thế này: Kiệu Toàn đi về Võ Xương, đến mỏm đá Ngưu Chử, nước sâu khó dò, thế gian nói dưới đó nhiều quái vật, Kiệu liền đốt sừng tê mà chiếu xuống, lát sau thấy thủy tộc ào ra với đủ hình thù quái đản. Đêm đó y nằm mơ thấy có người tới nói rằng: “Ta và ngài âm dương chia đôi ngả, đồng ý thấy nhau sao!” Đại ý nói rằng: người Trung Quốc xưa nhờ việc đốt sừng tê, nương theo ánh sáng rọi ra từ sừng tê, có thể chiếu ra thần tiên ma quỷ. Lời người xưa chung quy vẫn có chỗ dùng được.

Nói đoạn tôi lấy lò không khói, đặt lá bùa Mô Kim lên trên rồi đốt cháy. Lúc đầu nó còn chưa bắt lửa, về sau có một thứ mùi kỳ quái tỏa ra, ngọn lửa màu xanh lục lóe lên ánh sáng kì dị.

Tôi đưa tay nhấc chiếc lò không khói, giơ lên cao lên để nó chiếu được đến nơi xa nhất. Chúng tôi quay đầu nhìn bốn phía, tìm xem xung quanh có xuất hiện thứ gì mới rồi còn chưa thấy hay không. Đi một vòng quanh mộ thất, tôi vẫn chẳng thấy gì, những người khác cũng không khá hơn.

“Biết đâu con quỷ kia núp ở xa.” Thuận Tử lên tiếng.

“Không đâu, truyền thuyết nói nếu là quỷ dựng tường, thì quỷ phải bò trên lưng ấy.”

Chúng tôi lại soi lên lưng từng người, kết quả vẫn như trước. Bàn Tử làu bàu: “Mẹ kiếp tôi đã bảo rồi mà, truyền thuyết chỉ rặt nói điêu thôi. Phí mất cái bùa Mô Kim của tôi mà có chiếu ra cái mẹ gì đâu.”

Phan Tử trút ra một hơi: “Xem ra chiêu này cũng vô dụng rồi. Chỉ e vốn không có quỷ, chúng ta đã rơi vào tình huống thứ năm, là tình huống không có lý lẽ nào mà tìm, không có đầu mối nào mà đuổi theo, không có tiền lệ nào mà tham khảo. Chúng ta biết phải làm sao? Giờ đã sắp hết lương rồi.”

Tôi âm thầm thở dài, vừa định lên tiếng thì đột nhiên Bàn Tử ra hiệu cho tôi im lặng, Phan Tử cũng làm dấu bảo đừng nói. Mí mắt tôi giật giật, ngẩng đầu nhìn theo ánh mắt Bàn Tử, chỉ thấy nơi trần mộ thất phía trên đầu chúng tôi mơ hồ xuất hiện một “đứa trẻ” đen thui

Chương

46: Lối ra

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Máu tôi phút chốc đông cứng lại. Phan Tử giương súng, Bàn Tử cầm lấy bếp lò ‘Tê chiếu’ từ từ đưa lên cao. Sừng tê càng cháy càng sáng tỏ, bóng dáng ‘đứa trẻ’ màu đen kia cũng ngày càng rõ hơn. Tôi nhìn kĩ, nó … nó chẳng phải là con thi thai đầu to chúng tôi gặp ở Tàng thi các hay sao? Sao đã theo đến tận đây rồi? Chẳng lẽ nó vẫn luôn bám sát gót chúng tôi?

“Tổ sư! Hóa ra là thứ này phá rối!” Bàn Tử gào rống. “Rắc” một tiếng, liền giương súng lên, bao nhiêu nộ khí tích tụ trong người lập tức bạo phát, xả đạn liên hồi, bắn cho cái thứ của nợ kia văng nước đen tung tóe khắp nơi, thoáng cái đã té bịch xuống đất.

Chúng tôi lập tức lui lại vài bước. Thi thai phát ra một tiếng hét chói lói giống như trẻ con, ra sức lật đổ cái lò rồi nhanh như chớp lẩn vào bóng đêm.

“Không cho nó chạy, bằng không chúng ta còn có thể trúng chiêu.” Phan Tử hô lớn: “Đuổi theo!”

Bồn người lập tức đứng lên, điên cuồng đuổi theo. Cơ hồ trong nháy mắt, chúng tôi thấy bích họa trên tường mộ đạo đã trở lại những hoa văn như lúc ban đầu. Quỷ dựng tường đã mất tác dụng!

“Ra rồi!” Bàn Tử mừng rỡ, “Thoát chết rồi!”

Thi thai chạy trốn như bay, lao vào bóng tối trong mộ đạo bằng tốc độ kinh người, hướng về đầu phía bên kia. Chúng tôi biết mình tuyệt đối không thể dừng chân, bởi một khi dừng chân chắc chắn sẽ lại rơi vào hoàn cảnh vừa rồi. Tôi thà chết cũng không muốn trải qua cảnh đó thêm một lần nữa, vả lại cũng không có cái sừng tê thứ hai cho tôi đốt, vậy nên bốn người chúng tôi cứ liều mạng đuổi sát sườn nó, ai ngờ lại theo nó rơi xuống luôn.

Nói thì chậm mà sự việc xảy ra lại rất nhanh. Chạy được khoảng bảy tám phút, chúng tôi đã vượt qua xấp xỉ 1000m mộ đạo, cuối cùng trước mặt chúng tôi xuất hiện một cái cầu thang nối thẳng xuống phía dưới, thi thai nhảy vọt xuống đó nhanh như tia chớp.

Chúng tôi nối đuôi nhau lao vào, bất chấp các thể loại cơ quan bẫy rập, cùng lắm là chết chứ gì. Dù bốn mươi người chỉ còn lại một người cũng phải tiêu diệt cái con quái này cho hả giận.

Cứ mười bậc một bước, chúng tôi điên cuồng nhảy xuống như đàn Kangaroo. Có điều chúng tôi chạy xuống cầu thang vẫn chậm hơn nửa nhịp so với chạy trên mặt phẳng, mà con thi thai kia lại không hề giảm tốc độ, nháy mắt đã biến mất trong bóng tối dưới những bậc thang. Tôi biết đã không thể đuổi kịp nhưng không hãm phanh nổi, vừa định dừng lại thì chân trái vấp vào chân phải, lăn mấy vòng liên tiếp xuống đến bậc thang cuối cùng, vỡ đầu chảy máu, đèn pin không biết đã lăn đi đằng nào.

Tôi chửi thầm trong bụng, vừa định đứng lên, chợt nghe tiếng súng từ một phía truyền đến. Tiếng súng dồn dập, không giống như âm thanh phát ra từ hai khẩu súng của Phan Tử và Bàn Tử.

Tôi đứng lên, chợt nhìn thấy có luồng ánh sáng mỏng manh truyền đến từ một hướng, đang định chạy về hướng ấy thì Phan Tử và Bàn Tử phía sau đã đuổi tới. Tôi thắc mắc vì sao bọn họ lại chạy chậm như rùa thế, Bàn Tử mới nói tới ngã tư ban nãy, Thuận Tử đã theo đường cũ trở về. Hắn đã tìm được cha, lại lấy được cơ man là vàng, căn bản không muốn mạo hiểm đi theo chúng tôi nữa. Hắn nói sẽ đợi chúng tôi bên ngoài núi tuyết đúng một tuần, nếu quá chừng ấy thời gian mà chúng tôi còn chưa ra, hắn sẽ quay về một mình.

Tôi rủa thầm hắn là đồ vô lương tâm, nhưng nghĩ lại thì hắn cũng chịu đựng quá đủ rồi, từ ngày đi theo chúng tôi đã phải chịu biết bao khổ cực. Lúc này Bàn Tử cũng nghe thấy tiếng súng, lập tức cảnh giác.

Chúng tôi lấy đèn pin chiếu xung quanh, phát hiện cuối cầu thang của mộ đạo phía bên này là một cái ban công, bên ngoài là mấy đường hành lang. Nói cách khác đây là cửa vào một cái mộ thất hai tầng cực lớn, nhưng giữa hai tầng mộ thất lại không có trần mà chỉ có mấy hành lang vắt qua không trung, đứng trên hành lang có thể trực tiếp quan sát cảnh tượng ở tầng dưới.

Đây gọi là liên thiên lang, bên trên được chạm rồng khắc phượng, thật ra công dụng chính của nó là nâng quan quách trong những mộ thất lớn, xem ra bên dưới liên thiên lang có thể là một cái quan thất. Hiện giờ bên dưới đang truyền lên tiếng súng dồn dập, hơn nữa chỗ nào cũng lấp loáng ánh đèn pin.

Chúng tôi còn chưa hiểu rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, chẳng lẽ con thi thai kia vừa nhảy xuống dưới đó? Nhưng dưới kia bao nhiêu khẩu súng đồng loạt nhả đạn, có là voi cũng bị đốn ngã, chẳng lẽ nó còn chưa nát bét ra hay sao?

Ba người chúng tôi nối đuôi nhay đi ra ban công, liên thiên lang bên ngoài hết sức chật chội, chúng tôi bảo nhau cẩn thận từng bước mà leo lên, nhìn xuống thì phát hiện bên dưới hóa ra là một mộ thất hình tròn rất lớn, rộng khoảng năm, sáu trăm mét vuông. Bất ngờ là đội ngũ của A Ninh ở ngay bên dưới hành lang chúng tôi đang đứng, bảy cây pháo lạnh ném ra bốn phía, chiếu cả mộ thất sáng rực lên. Tôi thấy bọn họ quây thành một vòng tròn, không ngừng dùng súng bắn lia lịa xung quanh, không rõ đang bắn thứ gì. Nhìn kỹ tôi mới nhận ra đó là những con du diên to bằng cánh tay đang bò lổm ngổm khắp mộ thất, lúc nhúc như biển, vây đám người A Ninh vào giữa.

Mà chính giữa mộ thất có một giếng mộ hình kim tự tháp lộn ngược, đáy giếng đặt tám cỗ quan tài đen cỡ lớn vây quanh một quan quách khổng lồ bằng ngọc thạch nửa trong suốt. Quan quách ngọc thạch đã bị mở ra, dưới ánh sáng của pháo lạnh, phản chiếu lại hào quang bảy màu lấp lánh quỷ dị. Tôi thấy hình như du diên đang ùn ùn chui ra từ chính cái quan quách này.

Lòng tôi rớt độp xuống, thầm nghĩ đây chẳng lẽ lại là Cửu Long đài thi quan ghi trên Xà mi đồng ngư? Là bảo hạp khâm liệm Vạn Nô vương? Xem ra mấy kẻ nghiệp dư này đã động phải cơ quan gì rồi, hoặc là thẳng tay dẫm chết một con du diên nào đó.

Lúc này tôi cũng không thể để tâm nhiều đến vậy. Mười mấy người bên dưới ứng phó một hồi đã đuối sức, nhưng du diên vẫn ào ạt tràn ra như thủy triều, căn bản có bắn cũng vô ích, bắn chết một con thì những con khác lại càng thêm điên cuồng.

“Chúng ta có nên giúp họ không?” Bàn Tử hỏi tôi.

Phan Tử lắc đầu: “Để bọn họ chết vợi đi.”

Bàn Tử cười nói: “Không bằng bây giờ anh lấy súng bắn xuống vài phát, đảm bảo còn chết nhanh hơn.”

Trong lòng tôi cũng mâu thuẫn cùng cực, vấn đề không nằm ở chỗ cứu hay không cứu, mà là sau khi cứu bọn họ sẽ đối xử với chúng tôi thế nào. A Ninh khi ở dưới hải mộ đã cố ý đẩy chúng tôi vào chỗ chết, nhờ mạng lớn mới may mắn thoát được, dù trước đó tôi đã từng cứu cô ta thì cũng chưa chắc cô ta đã chịu nể mặt tôi. Nhưng nếu như không cứu, trơ mắt mà nhìn bao nhiêu con người chết sạch trước mặt mình, chỉ e tôi sẽ phải áy náy cả đời.

Mà có cứu được hay không lại là chuyện khác nữa. Chúng tôi đứng trên này bắn xuống thì cũng chả ích gì, muốn cứu bọn họ chỉ có cách thả dây thừng kéo từng người lên. Nhưng giờ bọn họ phải bắn hết tốc lực mới miễn cưỡng cầm cự nổi, dây thừng một khi thả xuống họ lại phải ngừng tay, bên dưới chắc chắn sẽ có người thương vong.

Đang lúc do dự thì tôi bất ngờ nhìn thấy trong đội ngũ của A Ninh có một người nước ngoài đang cõng trên lưng ai đó, nhìn thoáng qua trông rất quen. Tôi lập tức vỗ vỗ Phan Tử, chỉ cho anh thấy. Vừa chỉ xuống, anh đã kêu lên một tiếng sợ hãi: “Ông Ba kìa!”

“Anh chắc không?” Tôi cũng thấy người đó hao hao, nhưng còn chưa dám chắc chắn. Nghe Phan Tử nói thế tôi càng vững tâm, vội đi thêm vài bước đến phía trên người này một chút, muốn nhìn cho rõ ràng.

Ai ngờ mới đi được vài bước, dưới chân tôi đã có cảm giác bất thường. Cúi đầu nhìn xuống thì thấy con thi thai vừa trốn chui chốn nhủi ban nãy giờ đang treo lơ lửng bên dưới hành lang đá, vừa hay lúc này tôi lại bước đến ngay phía trên chỗ nó trốn, nó bèn thò cánh tay héo ngắt ra túm lấy chân tôi, ra sức kéo tôi xuống.

Tôi nổi điên lên, thầm nghĩ thứ này nhớ lâu thù dai, cứ bám theo chúng tôi gây phiền toái. Khả năng giữ thăng bằng của tôi vốn kém, giờ lại đang đứng trên hành lang, thế nên bị nó kéo một phát tôi đã lảo đảo, phải nằm bò ra hành lang.

Phan Tử và Bàn Tử đồng thời giương súng. Con quái này đúng là đầu to mà óc bằng quả nho, bị bắn ở khoảng cách gần đầu nó tức thì nát bét, chỉ còn có một nửa. Sau đó bộ móng vuốt đang bám chặt bên dưới hành lang cũng tuột ra, thi thai rớt xuống trong khi tay còn lại vẫn túm chặt lấy chân tôi.

Tôi bị cái thứ nặng chết khiếp này kéo chân, chỉ đành kêu lên một tiếng thảm thiết rồi cũng rớt xuống theo. Thi thai rơi xuống giữa đám người A Ninh, những người này đang hết sức tập trung vào đám du diên xung quanh, còn tâm trí đâu mà để ý phía trên đầu, bị nó dọa cho tè ra quần, ngã sấp ngã ngửa dạt ra một đoạn, tiếp đó tôi cũng rơi xuống từ không trung.

Sau này tôi nghe Bàn Tử kể lại, động tác tiếp đất của tôi cứ như tôi chủ động nhảy xuống vậy, nhưng sự thực là tôi bất đắc dĩ ngã xuống.

(câu này có làm mọi người liên tưởng đến ai không ~)

Tiếp theo, tôi hung hăng dẫm đạp con thi thai đã dập nát nửa đầu làm máu đen văng tung tóe. May thay hành lang đá phía trên cũng không quá cao, bằng không ngã xuống từ trên đó tôi chắc chắn phải trẹo chân. Nhưng sau khi ngã xuống, tôi chỉ hơi lảo đảo rồi lập tức đứng vững, đưa mắt nhìn bốn phía mới phát hiện du diên xung quanh đang chạy trối chết cứ như gặp quỷ. Trong nháy mắt, đám du diên đến ùn ùn như thủy triều rồi cũng đi ào ào như thủy triều, chẳng mấy chốc trên mặt đất chỉ còn lại vài cái xác du diên.

Tôi sợ đến ngây người, mất một lúc lâu tinh thần mới hồi phục, cũng không hiểu đã xảy ra chuyện gì. Ngẩng đầu lên chỉ thấy mọi người xung quanh đều đang nhìn mình, nét mặt đầy vẻ kinh hãi giống như nhìn thấy quái vật.

Chương

47: Muộn Du Bình thứ hai

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi ngồi trên ba lô của mình, để bác sĩ trong đoàn của A Ninh giúp mình băng bó vết thương. Vết thương trên tay tôi đặc biệt nghiêm trọng, phải khâu mất ba mũi mới tạm gọi là ổn, bị rách ra lúc con thi thai rớt xuống từ trên hành lang. Tôi chẳng phải con nuôi trong lồng kính, nhưng cũng chưa từng làm những việc quá nặng nề, cho nên đụng phải những va chạm thế này tôi rất dễ bị thương, nếu đổi lại là Phan Tử có lẽ đã bình yên vô sự. Bác sĩ khử trùng cho tôi, căn dặn tôi không nên chạm vào nước cũng không được dùng cánh tay này làm bất cứ việc gì. Tôi gật đầu cảm tạ ông ta, thế rồi ông ta lại đi xem bệnh cho mấy người khác.

Sau khi rơi xuống từ hành lang, đám người A Ninh đã cực kì hoảng hốt trước màn ‘chào sân’ hoành tráng của tôi. Mới đầu A Ninh còn không nhận ra tôi (thực ra lúc ấy trông tôi nhếch nhác không thể tả, cô ta cuối cùng cũng nhận ra là đã giỏi lắm rồi). Đến khi Bàn Tử từ trên hành lang gọi với xuống, cô ta mới phản ứng lại, kinh ngạc không thốt nên lời, còn nhìn tôi bằng ánh mắt không-thể-tin-nổi.

Hai nhóm người đứng đơ ra một lúc lâu lâu mới dần dần có phản ứng. Tôi sốt ruột dợm bước, muốn nhìn thử xem được cõng trên lưng người kia có phải chú Ba của tôi không. Nhưng tôi mới khẽ động, những người vây quanh tôi bỗng tự động lùi về phía sau vài bước giống như gặp quỷ, có mấy người còn quen tay giương súng lên.

Bàn Tử và Phan Tử đứng trên hành lang vừa mới thở phào nhẹ nhõm, thấy thế lại vội vã nâng súng. Tôi hấp tấp giơ hai tay lên, bày tỏ mình không có địch ý. A Ninh cũng vội phất tay, nói với cấp dưới của mình: “Là người một nhà cả, tôi đã từng hợp tác, bỏ súng xuống đi.” Nói đến vài lần, người của cô ả mới nửa tin nửa ngờ mà hạ súng xuống. Nhưng mấy người nước ngoài kia vẫn cực kì căng thẳng, ánh mắt gắt gao theo dõi nhất cử nhất động của tôi.

Tôi thấy gân xanh trên mặt bọn họ nổi lên ầm ầm, hiển nhiên đã bị kích động mạnh, chỉ e một kích thích nhỏ cũng đủ khiến mấy người này bạo phát, cho nên cũng không dám cựa quậy, đành đứng ngây một chỗ không biết làm gì cho phải.

A Ninh cau mày, nhìn nét mặt là rõ cô ta không biết chúng tôi cũng ở nơi này. Cô ta ngẩng đầu hỏi tôi: “Các người …. Sao lại ở đây…”

Bàn Tử đứng trên cười ha hả: “Cái này gọi là Bạch nương tử tìm tình lang. Hữu duyên cách xa ngàn dặm vẫn có ngày gặp gỡ, vô duyên cởi sạch nằm ôm nhau còn lo đối phương làm ẩu. Tôi nói chúng tôi chỉ tình cờ đi ngang qua đây, cô có tin nổi không?”

Nói đoạn Bàn Tử và Phan Tử cùng nhau nhảy từ hành lang xuống. Lúc này trong đoàn của A Ninh đã có mấy người nhận ra Bàn Tử, đều ồ lên kinh ngạc. Rõ ràng Bàn Tử xuất hiện ở đây đã gợi lại phần kí ức ‘khó quên’ nào đó trong lòng bọn họ.

Bàn Tử đi đến trước mặt chúng tôi, hẳn là hắn đã từng hợp tác với mấy người này  nên bầu không khí mới dịu đi chút ít. Mấy người đang căng thẳng thần kinh lúc này mới thở phải nhẹ nhõm, buông súng xuống mắng vài câu, có người còn lầm bầm: “Hay lắm, nơi gay go lại đụng kẻ phiền phức.”

Tôi nhớ lại lần đầu mình gặp Bàn Tử trong tình cảnh nào, cảm thấy câu nói kia chuẩn không cần chỉnh, không khỏi cười thầm.

Bàn Tử trừng mắt liếc qua người nọ rồi lại quay sang chào hỏi mấy người trông có vẻ quen biết. A Ninh còn có chuyện muốn hỏi hắn, tôi và Phan Tử thì nhịn không nổi nữa, vội vã chạy về phía người nước ngoài kia, lật cái người hắn đang cõng trên lưng ra xem có phải chú Ba hay không.

Gã nước ngoài có vẻ rất chú ý đến tôi, khi tôi chạy tới bọn họ đều tránh ra xa, riêng gã vẫn không sợ. Thấy mục tiêu của tôi là người trên lưng mình, gã bèn thả người đó xuống đất. Tôi vội vàng đi tới, bỏ cái mũ leo núi trên đầu người kia xuống. Dưới cái mũ là một gương mặt vô cùng tiều tụy, râu ria nhếch nhác, tôi gần như không nhận ra, chỉ cảm thấy có phần giống chú Ba. Nhìn kỹ một lúc, tôi mới “Ôi trời!” một tiếng, gần như là thét lên.

Quả nhiên là chú Ba mất tích bấy lâu của tôi, cái lão giặc già này! Mới mấy tháng không gặp mà lão khốn trông như già đi mười tuổi, tóc đã lấm tấm ngả bạc, thoáng nhìn căn bản không tài nào nhận ra.

Gặp gỡ trong hoàn cảnh này, nói thật là tôi chưa kịp chuẩn bị tinh thần cho tốt. Tôi cứ đinh ninh cuối cùng tôi sẽ gặp chú Ba trong một gian mộ thất, sau đó chú Ba sẽ cho tôi biết tất cả. Hoặc là đúng lúc tôi gặp nguy hiểm, ổng sẽ thò mặt ra cứu tôi….. Ai mà ngờ ổng lại xuất hiện chìm lỉm giữa đoàn của A Ninh thế này, tôi đã nhìn tận mắt nhưng không hiểu sao lại cảm thấy khó tin.

Tôi thực sự đã gặp được chú Ba rồi sao? Tôi tìm được ổng rồi hả? Tôi cứ đứng sững ở đó, không biết phải làm sao, cũng không biết mình đang nằm mơ hay là nhìn thấy ảo giác nữa.

Chú Ba thần trí có vẻ mơ hồ, hai mắt khép chặt, chẳng biết có nhìn thấy tôi không. Nhưng hình như lúc nghe tiếng tôi gọi, người ổng đột ngột phản ứng rất khẽ, đôi môi nứt nẻ hơi mấp máy giống như đang hỏi: “Cháu trai?” nhưng rồi nhanh chóng  an tĩnh trở lại.

Tôi đột nhiên cảm thấy đau xót trong lòng, một thứ cảm xúc khó tả trào dâng. Thấy lão khốn ấy vẫn bình an, tảng đá đè nặng trong lòng bỗng dưng biến mất, sự nôn nóng tưởng như mất đi người mình tin tưởng phút chốc tiêu tan, nhưng lại nảy sinh một cảm giác căm phẫn cực độ, chỉ muốn đè ổng ra oánh một trận nhớ đời. Hai thứ cảm xúc pha trộn lẫn nhau, không biết nét mặt tôi lúc này như thế nào nhưng nhất định là trông rất buồn cười.

Ở đằng kia, không biết Bàn Tử đang tán gẫu chuyện gì với A Ninh, hình như đã bắt đầu ồn ào nhưng tôi cũng không thèm bận tâm. Phan Tử thấy chú Ba ra nông nỗi này, bèn lại gần lắc lắc ông vài cái, rồi cởi áo ổng ra. Tôi nhìn mà phát choáng, chỉ thấy dưới lớp quần áo của chú Ba có nước mủ nhầy nhầy, nhìn kỹ thì trên ngực ổng phủ đầy những vết lở loét, vô số con du diên có cái đầu cứng chen chúc bên dưới lớp da. Hiển nhiên chú Ba muốn lôi chúng ra, nhưng đuôi du diên đụng vào là đứt đoạn, phần còn lại vẫn nằm trong da thịt, miệng vết thương vì thế cũng không khép lại được, một thời gian sau sẽ mưng mủ hoàn toàn.

Phan Tử liền túm lấy gã nước ngoài kia, định đánh hắn nhưng bị những người khác giữ lại. Phan Tử vừa giãy giụa, vừa hét lớn: “Quân khốn nạn, các ngươi làm gì ông Ba thế kia! Sao ông Ba lại ra nông nỗi này?”

Tôi nhìn vẻ mặt kinh hoàng của gã nước ngoài kia khi thấy vết thương thì biết bọn họ cũng không hiểu chuyện gì. Nhưng chú Ba trông cũng quá thảm hại, tôi run rẩy hỏi gã: “Tìm thấy ông ấy ở đâu? Sao ông ấy lại ra nông nôĩ này?”

Gã nước ngoài kia gần như muốn nôn, quay đầu lại nói: “Tìm thấy bên dưới giếng mộ này, lúc chúng tôi phát hiện ra ông ta, còn tưởng ông ta đã chết rồi cơ. Về sau phát hiện ông ta vẫn còn sống, chỉ huy nói ông già này biết rất nhiều chuyện, nhất định phải mang theo – tôi không biết trên người ông ta có mấy thứ này, bằng không có đánh chết tôi cũng không dám cõng!”

“Nhất định là các ngươi!” Phan Tử ở bên kia nổi giận, “Hồi ở Việt Nam ta đã thấy rồi, đây chính là chiêu người Việt Nam dùng để thẩm vấn phạm nhân, học theo người Mỹ các ngươi.

(Ơ sao biết học từ Mẽo mà không phải từ Tàu =)))

Lũ khốn nạn các ngươi chắc chắn đã bức cung ông Ba, ông phải giết các ngươi!”

Những người khác đều vây kín xung quanh chúng tôi, tôi khoát tay ra hiệu cho Phan Tử bình tĩnh một chút, nói: “Không liên quan đến bọn họ đâu, nếu đúng là vậy thì bọn họ không thể không biết du diên chết sẽ thu hút đồng loại mà hoảng loạn đến thế.”

A Ninh lại gần xem xét, cũng ớn lạnh sống lưng, lập tức gọi bác sĩ đến, mấy người luống cuống đỡ chú Ba tôi nằm ra đất. Đúng vào lúc đó, tôi bỗng dưng có cảm giác chú Ba lén lút thả thứ gì đó vào túi áo tôi, động tác hết sức mau lẹ, trong nháy mắt tôi chỉ cảm thấy thấy túi mình rung nhẹ. Tôi ngây người mất một lúc, trong lòng khẽ động.

Thoáng cái đầu tôi ong lên một tiếng, lập tức nhận ra: chú Ba có thể đã tỉnh! Trong lòng trào lên cảm giác kinh hãi lại có phần an tâm. Kinh hãi vì hóa ra ổng chỉ giả bộ hôn mê, không biết để làm gì. An tâm vì lão khốn vẫn còn hơi sức mà làm cái trò mờ ám này chứng tỏ còn lâu ổng mới chết được. Tôi đảo mắt nhìn quanh bốn phía, thấy những người khác đều chấn động vì vết thương trên người chú Ba, không ai để ý đến hành động vừa nãy. Thế nên tôi cũng tỉnh bơ mà tiếp tục đỡ ổng, lại đưa tay nhéo nhéo vai ổng, ý nói mình đã biết trong túi vừa có thêm thứ gì.

Ánh mắt chú Ba lại lờ đờ như cũ. Bác sĩ lấy cồn lau miệng vết thương, sau đó dùng dao đã hơ lửa rạch da ổng, cầm nhíp gắp hết những mẩu du diên đứt đoạn bên trong rồi nặn cho mủ chảy ra. Vì nơi này rất lạnh, nước dễ dàng đóng băng nên tôi và Phan Tử châm lò không khói, không ngừng sưởi ấm người chú Ba.

Tổng cộng có mười sáu vết thương, có mấy con du diên lúc lấy ra vẫn còn sống, bị ném thẳng vào lửa cho cháy thành tro, cuối cùng vết thương cũng được khâu lại hết. Phan Tử chăm chú theo dõi cả quá trình, tôi muốn nháy mắt ra hiệu cho anh cũng không được. Trong lòng tôi nhấp nhổm không yên, nhưng trong tình thế này mà tự dưng bỏ đi cũng không ổn, muốn biết chú Ba rốt cuộc thả cái gì vào túi mình thì đành phải chờ thôi.

Chật vật mãi mới xử lí xong xuôi, bác sĩ đắp cho chú Ba tấm thảm để ổng ngủ trong một góc. Phan Tử vội hỏi ông ấy thế nào rồi, bác sĩ thở dài: “Những gì có thể làm tôi đều đã làm, bây giờ miệng vết thương của ông ấy đang bị nhiễm trùng. Tôi đã tiêm cho ông ấy một liều kháng sinh, nhưng ông ấy vẫn sốt cao, tôi cũng không biết có thể cầm cự ra ngoài được không nữa. Cái này còn phải xem ý chí của bản thân người bệnh, các anh đừng làm ồn, để yên cho ông ấy ngủ.” Lúc này tôi mới có cớ kéo Phan Tử ra, nhưng vừa động thân mới phát hiện lúc mình lăn xuống cầu thang cả người cũng đầy vết thương, giờ không sao nhấc người lên nổi.

Bác sĩ băng bó xong vết thương cho tôi thì đi khám những người khác. Đoàn của A Ninh có khoảng mười sáu mười bảy người, lúc này pháo lạnh đã dần dần lụi đi, bốn bề lại chìm vào bóng đêm nên không đếm được chính xác. Bàn Tử bị A Ninh lôi vào một góc, hai người đang huyên thuyên gì đó, tôi cũng không nhìn được rõ ràng. Tôi định kéo Phan Tử đến chỗ vắng vẻ nhưng Phan Tử cứ như người mất hồn, một mực ngồi bên chú Ba, chả có phản ứng gì.

Trong lòng tôi thật sự phát cáu. Đúng những lúc quan trọng thì không ai giúp được gì, đành phải tự mình nghĩ cách tránh né những người xung quanh. Đoàn của A Ninh chia làm hai nhóm, một nhóm bị thương đang nghỉ ngơi cho lại sức, nhóm kia trèo xuống giếng mộ. Những người này hình như không có ác ý với tôi, hẳn là do họ đều quen biết Bàn Tử. Nhưng vừa nãy một mình tôi đẩy lùi hết đám du diên, cho nên tôi đi đến đâu bọn họ đều dùng ánh mắt nghi hoặc mà dò xét tôi đến đấy. Cái mộ thất hình tròn này lại quá mức trống trải, tôi chẳng biết chui vào cái lỗ nẻ nào cho đỡ bị soi.

Tôi chợt nảy ra một ý, bèn bước tới chỗ con thi thai vừa bị tôi dẫm nát bét, giả vờ ngồi xuống ngắm nghía nó, lúc này mới không còn ai tò mò nhìn tôi nữa.

Thi thai trông giống một con tôm cực lớn, ngũ quan đều bị tôi dẫm cho lẫn lộn vào nhau, vừa liếc qua một cái da đầu đã giật giật liên hồi, nhưng tôi cũng không cần để ý nhiều làm gì. Thò tay vào túi móc thứ đồ kia ra, thì ra là một tờ giấy nhỏ. Quay lại thấy không có ai, tôi vội vàng mở ra đọc, chỉ thấy bên trong viết vài hàng chữ. Vừa nhìn lướt qua tôi đã giật mình kinh ngạc, mấy chữ này nửa bên trên không phải bút tích của chú Ba, xem nét chữ thì hình như là của Muộn Du Bình. Phía trên viết:

“Tôi đã đi xuống rồi.

Dừng ở đây thôi, các người mau quay về. Xuống sâu hơn một chút đã là nơi các người không thể ứng phó được nữa.

Tất cả những gì các người muốn biết đều nằm trong con Xà mi đồng ngư.”

Chữ kí lại càng làm tôi kinh hãi, đó chính là cái kí hiệu kì quái chúng tôi đã gặp lúc trước… Kí hiệu này quả nhiên là do Muộn Du Bình để lại, rốt cuộc nó có ý nghĩa gì?

Dưới nữa mới là mấy chữ viết rất ngoáy của chú Ba, xem ra ổng dùng móng tay viết, nhưng cũng coi như dễ đọc, chỉ có một hàng.

“Chúng ta chỉ còn cách chân tướng có một bước, hãy đưa cá đồng cho cấp dưới của A Ninh là Ô Lão Tứ để hắn dịch ra. Không sao cả, vật mấu chốt nhất nằm trong tay ta, bọn họ không dám gây khó dễ cho chúng ta đâu.”

Hiển nhiên khi chú Ba tới đây đã phát hiện ra tờ giấy của Muộn Du Bình ở nơi nào đó. Hơn nữa tờ giấy này nhất định là viết cho chúng tôi, xem ra Muộn Du Bình muốn ngăn cản chúng tôi đi xuống. Xem ẩn ý bên trong tờ giấy thì hình như còn có một thông đạo, hắn đã đi vào nơi nào đó cực kì nguy hiểm. Mà chú Ba hiển nhiên không thèm coi lời cảnh báo này ra gì, đúng là muốn đâm đầu vào chỗ chết. Lão khốn này rốt cuộc muốn làm gì? Chú Ba còn nắm giữ vật gì mấu chốt nữa? Muộn Du Bình nếu đã không muốn chúng tôi đi xuống thì kí hiệu kia để lại cho ai? Chẳng lẽ hắn để lại cho chính mình?

Đầu óc tôi lơ mơ như lạc vào cõi tiên. Thật ra khoảng thời gian này tôi cảm thấy càng ngày càng có nhiều manh mối xuất hiện, nhưng vì những bí ẩn phía trước quá hỗn loạn, cho nên một khi có ý tưởng mới xuất hiện thì lại càng thêm rối rắm.

Tôi nhớ đến kí hiệu trong mộ huyệt dưới đáy biển, Muộn Du Bình nhìn thấy nó mới nhớ ra mình đã từng đến đây. Giờ hắn khắc thêm kí hiệu, chẳng lẽ… Chẳng lẽ hắn biết mình rồi sẽ mất trí nhớ? Cho nên trước đó đã để lại kí hiệu cho bản thân mình để đến lúc ấy có thể dựa vào kí hiệu mà nhớ ra?

Chuyện này thật quá lộn xộn, đầu tôi lại âm ỉ đau. Đúng lúc này A Ninh và Bàn Tử quay về phía tôi gọi to một tiếng làm tôi giật mình nhảy dựng lên, quay lại nhìn thì thấy bọn họ đang gọi mình sang, vì thế dứt khoát không nghĩ nhiều nữa, gập tờ giấy lại bỏ vào trong túi rồi qua chỗ hai người.

A Ninh đưa bầu nước cho tôi, tôi uống một ngụm, cô ta mở lời: “Tôi và ngài Vương đây vừa chuyện trò mấy câu, chúng ta chuẩn bị hợp tác chính thức, anh thấy sao?”

Hợp tác? Tôi nhìn khuôn ngực đầy đặn ẩn hiện sau bộ quần áo bó sát người, nhớ lại chuyện xảy ra trên thuyền nên không dám nhìn thẳng. Lại nhớ tới cảnh báo của Muộn Du Bình và lời của chú Ba, bỗng dưng tôi không biết trả lời ra sao.

Tìm được chú Ba rồi, lòng tôi cũng an tâm hơn. Trong cái an tâm này cũng có một phần ích kỉ, đó là mình có thể ra ngoài rồi, vì thực chất tôi vẫn luôn nóng lòng muốn thoát khỏi nơi đây. Nhưng đúng như lời chú Ba nói, chúng tôi dường như chỉ còn cách chân tướng một đoạn rất gần. Xem ra chú Ba cũng có câu đố của riêng mình, nếu cứ khơi khơi cứu ổng ra ngoài, không chừng chính bản thân ổng cũng chẳng hiểu đầu đuôi thế nào. Mà chúng tôi có thể quên đi cũng còn may, nếu không quên được, với tính cách của chú Ba đương nhiên sẽ muốn quay lại lần nữa, đến lúc ấy tôi nào có thể trơ mắt ngồi nhìn?

Ngẫm nghĩ một lát, tôi cắn răng nói: “Hợp tác thế nào, cô nói thử xem? Nhớ nói cho thành thực, hợp tác với cô tôi phải cân nhắc cho kĩ.”

Cô ta nhìn vẻ mặt tôi, cười cười lắc đầu nói: “Lần đó ở trên đảo tôi không kịp từ biệt các anh, giờ phải cảm ơn anh đã cứu tôi. Lúc ở dưới biển… là vì nỗi khổ tâm riêng, tôi thực sự không muốn hại các anh.”

Tôi nhớ lại chuyện xảy ra dưới đáy biển, thở dài, thầm nghĩ có quỷ mới tin cô. Tôi châm một điếu thuốc, nói: “Nếu muốn hợp tác thì hãy cho tôi biết đã có chuyện gì xảy ra. Các người rốt cuộc muốn tìm vật gì dưới đáy biển? Các người tới nơi này để làm gì?”

Bàn Tử đứng bên cạnh cũng phụ họa: “Đúng! Mọi người phải thẳng thắn thì mới dễ làm việc với nhau được.”

A Ninh tỏ ra kinh ngạc: “Anh không biết? Chú Ba nhà anh không nói gì với anh sao? Các anh… không biết gì cả mà dám liều mạng chạy lung tung trong này?”

Tôi cười gượng một tiếng, thầm nghĩ nếu chú Ba kể hết mọi chuyện cho tôi biết thì tôi còn quan tâm ổng sống hay chết làm quái gì, bèn lắc đầu: “Chú ấy chưa nói, tôi chỉ đi bừa thôi.”

A Ninh nhíu đôi mày thanh nhìn tôi một lúc lâu, đến khi cảm thấy tôi thực sự không nói dối mới tiếp lời: “Chẳng trách, tôi vẫn nghĩ anh là hạng người cực kì lợi hại, nhìn kiểu gì cũng không ra anh đang nói dối. Thì ra anh thực sự chẳng biết gì cả.”

Tôi bỗng dưng cảm thấy có điều gì đó không ổn, vì sao cô ta đột ngột đòi hợp tác với chúng tôi? Bọn họ có nhiều người, binh đông lương đủ, còn chúng tôi chỉ có ba người, cần gì phải hợp tác cơ chứ? Cứ cho là vì tôi có thể đẩy lùi du diên thì cũng chỉ cần trói tôi lại khiêng theo là xong, lẽ nào — tôi nhìn quanh quất – bọn họ rơi vào cảnh ngộ không hay? Hoặc là có lí do bất đắc dĩ nào đó?

A Ninh nhìn nét mặt tôi, đại khái cũng đoán ra tôi đang nghĩ gì. Cô ta không đi bóc mẽ mà chỉ thở dài một hơi: “Thật ra chúng tôi chỉ là hạng tôm tép, đâu có biết gì nhiều, chẳng qua chỉ bán mạng cho ông chủ thôi.” Nói rồi mời chúng tôi ngồi xuống, gọi một người nước ngoài khác tới. A Ninh giới thiệu với tôi người này tên Kirk, là chuyên gia Hán học, chuyên nghiên cứu về Đông Hạ, người biết nhiều nhất về tất cả mọi chuyện, có gì cứ hỏi ông ta. Người này cũng bắt tay tôi, nói: “Ban đầu chúng tôi định giữ bí mật tuyệt đối, nhưng tình hình lúc này… Cậu muốn biết gì xin cứ hỏi.”

Tôi có cảm giác ruột gan mình vừa rớt bịch xuống.

Ông ta tiếp tục nói: “Rất tiếc, mục đích của ông chủ tôi không thể nói cho cậu được. Thật ra tôi cũng chỉ là một đội trưởng thôi, tôi với A Ninh chỉ biết chúng tôi phải đến một nơi, mang một thứ trong đó ra, vậy là hoàn thành nhiệm vụ, còn cụ thể cấp trên muốn lấy những thứ này để làm gì thì tôi thực sự không biết. Cho nên mục tiêu của chúng tôi khi xuống hải mộ có hai, một là ngọc tỷ, người Trung Quốc gọi nó là quỷ ấn, nghe nói có thể triệu tập âm binh. Thứ còn lại chính là sơ đồ địa cung này, tiếc thay chúng tôi lại không được chạm vào, cuối cùng phải nhờ A Ninh ra tay mới lấy được thứ cần phải lấy.”

“Quỷ ấn”, nghe đến đây tôi gần như muốn nhảy dựng lên. “Ý ông là quỷ ấn của Lỗ Thương vương? Trong huyệt mộ dưới đáy biển?” Nghe chúng tôi nhắc đến quỷ ấn, Bàn Tử cũng cảm thấy hứng thú, hớn hở chạy lại. A Ninh hình như rất ngán ngẩm Bàn Tử, nhưng cũng không biết phải làm sao.

Người tên Kirk kia gật đầu nói: “Chính là nó, hẳn là cậu cũng biết sơ sơ rồi. Sau khi lăng của Lỗ Thương vương bị Uông Tàng Hải đào trộm, ông ta đã dùng Xà mi đồng ngư thế chỗ cho quỷ ấn. Chúng tôi vẫn đinh ninh quỷ ấn được ông ta giấu trong lăng mộ của mình nhưng tìm mãi vẫn không thấy, mà sơ đồ thiên cung này chỉ e đã rơi vào tay chú Ba nhà các cậu. Đến giờ chúng tôi cũng không rõ mình đã bị con cáo già này lòe bịp bao nhiêu bận, nhưng vẫn phải hợp tác với ông ta vì tin tức của ông ta chuẩn xác hơn chúng tôi rất nhiều.”

Tôi gật đầu cười khổ, chuyện này thì tôi đồng cảm. Bàn Tử đứng cạnh vội nói: “Vậy ông nói xem cái lần A Ninh xuống biển với chúng tôi, cô ả đã mang ra thứ gì?”

Kirk đang định nói thì A Ninh đã ngăn lại, nói với ông ta: “Chuyện gì cần nói ông hãy nói, không cần thì ông chớ nhiều lời.”

Bàn Tử giận dữ nói: “Cô có ý gì?”

Kirk hình như không hiểu A Ninh cho lắm, cười to một trận rồi nói: “Dù cô không nói cho họ biết thì chung quy vẫn phải lấy ra, huống chi bây giờ cô có giữ khư khư mấy thứ này cũng chẳng để làm gì.”

A Ninh liếc chúng tôi một cái, giậm chân bình bịch, có vẻ rất không cam lòng: “Tôi phải chịu biết bao khổ cực mới lấy được mấy vật này, đúng là dễ dàng cho các người quá.”

Lúc này tôi có cảm giác rất quái lạ, đám người A Ninh sao lại muốn hợp tác cơ chứ? Về sau tán gẫu với chú Ba, ổng nói thực ra lúc đó đám A Ninh đã đi đến đường cùng, cô ta không còn cách nào khác mới phải đề nghị hợp tác. Bởi vì bọn họ rốt cuộc chỉ là dân nghiệp dư, cho dù thiết bị kĩ thuật có tân tiến đến đâu thì so ra vẫn kém một thổ phu tử nửa mùa như tôi. Nhưng cô ta là người cực kì thông minh, trong lòng chỉ muốn mau mau kể tuốt mọi chuyện cho tôi biết mà ngoài mặt vẫn cẩn thận thăm dò, muốn moi từ miệng tôi ra chút tin tức để trao đổi, quả là một kẻ lọc lõi. Cũng may tôi cố ý giữ kẽ, bằng không sẽ bị cô ta đoán ra toàn bộ, kế hoạch của chú Ba chắc chắn sẽ đổ bể.

Kirk nói: “Đây là bích họa tự sự cực kì quan trọng, được chụp trong gian mộ thất chính, vào cái lần cùng nhau xuống biển kia, cậu có thể xem nội dung được vẽ bên trong là gì.”

Tôi đếm sơ sơ thì thấy tổng cộng có mười lăm bức bích họa, cảnh tượng biến đổi, hiển nhiên những bức bích họa này phải liên quan đến nhau nhưng giữa chúng lại không có tình tiết liên hệ tất yếu nào. Tôi thấy có bức tranh tả cảnh leo núi tuyết, có bức nhìn xuống sơn lăng, có bức thuật lại cảnh binh lính chiến đấu, hình ảnh trong những bức bích họa này đều không có mối liên hệ tất yếu với nhau.

Kirk nhìn nét mặt tôi cũng biết tôi chả hiểu gì, mới rút một tờ đưa cho tôi xem, nói: “Cậu nhìn xem, đây là bức tranh đầu tiên, cậu thấy nó vẽ gì?”

Tranh vẽ mấy người ăn mặc kiểu Nữ Chân đang trói chặt một người Hán. Tôi nói: “Có phải cảnh bắt tù binh trên chiến trường không?”

“Có thể nói như vậy. Nhưng cậu đoán thử xem, tù binh kia là ai?” Kirk cười cười, ra vẻ thần bí.

Tôi cẩn thận ngắm nghía ảnh chụp bích họa, phát hiện tù binh này trông khá giống hình Uông Tàng Hải vẽ trên mấy món đồ gốm sứ, kinh ngạc nói: “Đây là Uông Tàng Hải? Người Nữ Chân đang bắt ông ta?”

Kirk nói: “Chính xác! Đây là bức tranh thứ nhất. Mà hình ảnh này cho thấy điều gì? Cho thấy Uông Tàng Hải có thể đã bị người ta ép phải xây dựng nơi này. Ông ta bị bắt tới đây.”

Tôi nhanh chóng nhìn ra manh mối, lại liếc mắt sang mấy tấm khác, hỏi: “Những tấm hình này thì sao?”

“Chúng đều kể lại những chuyện Uông Tàng Hải đã trải qua sau khi rơi vào tay người Đông Hạ. Tuy chúng tôi không thể hiểu hết, nhưng dựa vào những tấm ảnh trước đó cũng đoán được tám chín phần.”

Tôi cẩn thận ngắm nghía một tấm hình trong số đó, bỗng dưng phát hiện có điểm không hợp lý: “Còn tấm này…”

Kirk liếc qua, cũng gật đầu: “Cậu tinh mắt đấy, tấm ảnh này đúng là mấu chốt. Cậu cũng thấy đó, đây là hoàng lăng trong miệng núi lửa. Khi Uông Tàng Hải bị bắt đến đây thì hoàng lăng đã có rồi, hơn nữa còn rất hoang tàn.”

Tôi “A” lên một tiếng, vậy lẽ nào hoàng lăng trên đầu chúng tôi không phải do ông ta xây nên sao?

Kirk đáp: “Chúng tôi đã nghiên cứu rồi, kiến trúc tổng thể của hoàng lăng là dấu tích từ thời Ân – Thương nhưng về sau bị Uông Tàng Hải sửa thành kiểu dáng thời nhà Minh. Người Đông Hạ bắt ông ta đến đây không phải để xây hoàng lăng, mà là để tu sửa hoàng lăng, bởi vì hoàng lăng cũ trải qua bao nhiêu năm tháng đã không thể sử dụng được nữa.”

“Vậy là địa cung này đã có từ trước sao?” Bàn Tử hỏi.

Kirk gật đầu, đáp: “Chúng tôi dựa vào những tấm ảnh này để tìm ra con đường cũ dẫn vào nơi đây, nhưng vẫn có vài tấm hình không thể giải thích được, ví dụ như tấm này.”

Đó là một bức bích họa vẽ cảnh vô số ác quỷ chui ra từ tảng đá, là bức thứ ba từ cuối lên. Còn có bức miêu tả một vật tròn tròn màu đen trông như sinh vật nhuyễn thể bò lên từ vách núi lớn, mà bên trên lại có người đang dốc ngược thứ gì đó xuống dưới.

Tôi cảm thấy đầu óc mình căng như dây đàn, gần như nín thở, định ngồi xuống ngắm nhìn cho kĩ. Đúng lúc ấy, A Ninh đột ngột đưa tay về phía tôi, nói: “Tốt lắm. Chuyện của chúng tôi đã nói xong, hình ảnh anh cũng có thể xem tùy ý. Giờ anh cũng nên nói cho chúng tôi chút thông tin mới phải chứ?”

“Nói cái gì cơ?” Tôi ngơ ngác.

“Chuyện của tôi, tôi đã nói hết rồi. Còn chuyện của anh với Ngô Tam Tỉnh.” A Ninh nhìn tôi,”Không lẽ anh còn hẹp hòi hơn cả một phụ nữ như tôi?”

Lòng tôi thầm nhủ cô toàn nói nhăng nói cuội, nói mà cũng như không, trọng tâm thì phớt lờ đi, mẹ kiếp cô tưởng tôi vẫn còn là Ngô Tà ngu-ngơ-cái-gì-cũng-không-biết trước kia sao? Tâm niệm thoáng xoay chuyển, tôi hỏi cô ả: “Trong đoàn của cô có một người tên Ô Lão Tứ phải không?”

A Ninh gật đầu, nghi hoặc hỏi: “Sao vậy? Anh biết ông ta?”

Tôi lấy từ trong túi ra hai con cá đồng, huơ lên trước mặt họ, nói: “Những chuyện các người muốn biết đều nằm trong con cá này, nếu Ô Lão Tứ còn chưa chết thì mau gọi hắn ra đây.”

Trong nháy mắt, tôi thấy Kirk gần như ngã lăn ra đất, ánh mắt của A Ninh cũng trở nên căng thẳng, lắp bắp nói: “Trời ạ! Cậu có đến hai….con….” Tôi hơi xê dịch cánh tay, ánh mắt bọn họ cũng di chuyển theo.

Chương

48: Xà mi đồng ngư

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi thực sự không muốn giao Xà mi đồng ngư ra cho họ, nhưng nhớ tới lời dặn dò của chú Ba thì lòng cũng mềm đi, không ngờ vừa đưa ra đám người A Ninh đã phản ứng dữ dội như thế.

Một lúc lâu sau mới có người tỉnh lại, hỏi tôi: “Anh lấy nó ở đâu? Anh… đúng là thần thánh, lẽ nào các người đã vào Lỗ Vương cung? Đây chính là long ngư mật văn! Tôi cứ đinh ninh chỉ có một con, không ngờ…”

Tôi chẳng còn tâm trí đâu mà tán nhảm với bọn họ, khoát tay nói: “Trong các anh có ai đọc được không?”

A Ninh lập tức gọi lớn:”Ô Lão Tứ!” Một người Trung Quốc bước ra, vừa thấy con cá đồng trên tay tôi sắc mặt lập tức biến đổi, vội vàng lao đến, hét lên: “Trời ạ!”

Tôi nói với hắn: “Có thể dịch ra không?” Hắn gật đầu lia lịa, đưa tay ra nâng như nâng trứng. Đèn pin vừa chiếu lên vảy con cá đồng, vô số chữ Nữ Chân đã in lên mặt đấ, bên cạnh tôi lập tức có người ghi chép lại.

Thuộc hạ của A Ninh quả là lợi hại, vừa sao chép vừa phiên dịch, so ra còn giỏi hơn Hoa hòa thượng nhiều, họ chép xong tôi cũng nghe được sơ sơ. Tuy tôi không thể hiểu cặn kẽ, chỉ hiểu lơ mơ ý tứ bên ngoài nhưng càng nghe lại càng rõ ràng, có vẻ giống thơ tự sự. Tôi không thể ghi lại toàn bộ, nhưng trong đó cũng có vài đoạn khắc sâu vào trí nhớ.

Nội dung cả đoạn cực kì giản lược, mở đầu là mấy câu ý nói bí mật ẩn giấu trong long ngư mật văn này hết sức quan trọng. Uông Tàng Hải khắc lên đây vốn hi vọng nó vĩnh viễn không thấy ánh mặt trời, nhưng nếu có người thấy thì chỉ mong đó là người Hán chứ không phải người Nữ Chân, đại loại là như vậy.

Đoạn tiếp đó ghi lại chuyện xảy ra sau khi ông ta bị bắt đến Đông Hạ, đại để cũng giống ghi chép trên bích họa, nhưng có thêm vài câu nữa.

Để lấy một vài bảo vật mà Đông Hạ không có sẵn, ông ta đã dẫn người đào bới rất nhiều cổ mộ, lại lén đặt cá đồng vào những nơi linh khí thịnh vượng, để bí mật này có cơ hội được người đời sau phát hiện.

Tôi nghe đến đó liền ‘À!” một tiếng, thầm nghĩ thì ra là vậy. Mà nội dung những phần sau đó lại khiến tôi không tài nào tin nổi – trong đó ghi trong quá trình tu sửa hoàng lăng, ông ta đã dần dần phát hiện ra một bí mật quỷ dị của hoàng đế Đông Hạ.

Chuyện này làm tôi kinh hãi đến cực độ là vì trước đó Hoa hòa thượng từng đọc ra nửa đoạn trước: Vạn Nô vương là quái vật, là yêu nghiệt chui lên từ lòng đất, mà  đoạn tôi vừa nghe lại ăn khớp với những điều Hoa hòa thượng đã nói.

Bên trong có ghi Uông Tàng Hải bị nhốt trong này đến mười năm, từng bị dẫn đi xem một cánh cửa trong lòng đất được gọi là thần tích. Theo truyền thuyết, các đời Vạn Nô vương không phải do cha truyền con nối mà đều chui ra từ lòng đất sau khi đời trước chết đi. Mà cánh cửa trong lòng đất kia cũng chỉ có thể mở ra vào thời khắc Vạn Nô vương tiền nhiệm qua đời, bằng không nghiệp hỏa địa ngục sẽ thiêu rụi những kẻ cả gan mở cánh cửa này, khiến cho núi Trường Bạch không thể bạc đầu. Tôi nghe vậy thì liên tưởng ngay đến núi lửa phun trào, thầm nghĩ lẽ nào Vạn Nô vương kia bò ra từ trong lòng núi lửa?

Ông ta may mắn được tận mắt chứng kiến một lần vương vị thay đổi, mà thứ khiến cho ông ta cảm thấy sợ hãi tột cùng chính là Vạn Nô vương đi ra từ cánh cửa dưới lòng đất hóa ra lại là yêu quái, căn bản không phải người.

Trên đó ghi lại, cánh cửa thông xuống lòng đất này nằm ngay dưới móng hoàng lăng, dưới đáy núi Trường Bạch, niên đại từ thời thượng cổ, chỉ e là di vật từ đời nhà Hạ. Mà thông đạo dẫn xuống lòng đất kia lại do loài chim có cái đầu người canh giữ.

Tôi nhớ đến loài quái điểu kia mà toát mồ hôi lạnh, nhưng nội dung về sau còn quỷ dị hơn nhiều.

Trên con cá kia kể lại chuyện ông ta lén lút lẻn vào cánh cửa dưới lòng đất. Đoạn này tôi hoàn toàn không hiểu, chẳng biết ông ta đang nói gì nữa, hiển nhiên sau khi trở về ông ta đã khắc những dòng này trong lúc thần kinh còn chưa hồi phục, lời lẽ có phần lộn xộn.

Bàn Tử vẫn chăm chú lắng nghe, lúc này cũng bắt đầu sốt ruột mà chen miệng vào: “Trước đã nói nghiệp hỏa địa ngục sẽ thiêu rụi những kẻ cả gan mở cánh cửa này ra, sao lão già kia đi vào mà chẳng sứt mẻ gì? Con mẹ nó, hay lão ta ghi bậy ghi bạ?”

Tôi thầm nghĩ chắc chắn ông ta phải có cách nào đó mà chúng tôi không biết, nhưng nội dung ghi chép trong này đúng là rối tung rối mù. Đúng lúc này bỗng dưng có người tới báo cáo, nói là lại phát hiện ra kí hiệu.

Chúng tôi qua đó xem thì thấy mấy cỗ quan tài bên trong giếng mộ đều đã bị mở ra, có thể nhìn rõ từng đồ vật bên trong. Bên giếng mộ có người mở ra một cánh cửa ngầm, trong cửa ngầm lại phát hiện một kí hiệu.

“Kí hiệu này không phải do các anh lưu lại sao?” A Ninh hỏi.

“Đâu có, chúng tôi cũng đang rối tung lên đây.” Tôi giả nai.

Một người đứng gần đó báo cáo: “Mấy cái quan tài này đều là đồ giả, bên trong chỉ có ngọc tạo hình thi thể, quan quách thật không ở chỗ này. Ban nãy chúng tôi đã mở ra một cơ quan chứa Trùng hương ngọc, khiến cho đám du diên bị dẫn dụ ra bằng sạch. Giờ chúng tôi cẩn thận dò tìm, không ngờ chỗ này còn có một mật đạo, hơn nữa đã có người vào trước. Xem ra đây là một ngôi mộ hai tầng, quan quách thực sự có lẽ nằm ngay bên dưới . Đây là hình thức mộ táng rất phổ biến vào thời nhà Nguyên.”

Tôi nhìn quan quách cỡ bự được chế tác từ bảo thạch lưu ly, trong lòng thoáng sợ hãi, lại qua chỗ cánh cửa ngầm đang mở ngó một cái, phát hiện cánh cửa này hết sức bất thường. Lòng mật đạo dốc đứng, xem ra được đào để lấy chiều sâu. Lòng tôi “ồ” lên một tiếng, xem ra cái nơi Muộn Du Bình không cho tôi xuống chính là chỗ này.

A Ninh nhìn tôi chằm chặp, xem ra cũng nghĩ như tôi. Cô ta phất tay ra hiệu cho mọi người đi xuống, nhưng bọn họ vẫn đứng ngây ra, mọi ánh mắt đổ dồn về ph

ía tôi và Bàn Tử.

Chương

49: Lối ra duy nhất

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Mộ đạo nghiêng xuống dưới, góc độ càng ngày càng dốc đứng, tôi và Bàn Tử rọi thẳng đèn pin xuống cũng không thấy đáy đâu, chỉ thấy một khoảng không tối đen thăm thẳm.

Tôi có phần hoảng hốt, chúng tôi đã đi một quãng rất xa, đã xuyên sâu vào lòng núi Trường Bạch, nếu còn đi xuống nữa thì sẽ đến nơi nào? Tâm trái đất sao?

Nhưng dẫu có là tâm trái đất thì chúng tôi cũng phải đi, bởi vì kí hiệu dẫn đường mà Muộn Du Bình để lại nói cho chúng tôi biết hắn thực sự đã đi xuống nơi này, giờ chúng tôi đi thêm một bước có nghĩa là đến gần sự thật hơn một chút. Chúng tôi không có lựa chọn nào khác, chỉ còn cách kiên trì đi xuống.

Nương theo ánh sáng đén pin đi được chừng hai mươi phút, Bàn Tử quay sang nói: “Tiểu Ngô, cậu có nhận ra không, trong lòng mộ đạo này ấm áp hơn hẳn?”

Tôi gật đầu, đáp: “Có lẽ đích đến của chúng ta rất gần địa tầng hoạt động của núi lửa, ở đó có dung nham hoặc suối nước nóng, nhiệt độ nhờ đó mới có thể dần dần tăng cao. Rốt cuộc năm đó Uông Tàng Hải đã đào tới tận đâu chứ?”

Bàn Tử cũng chịu, không thể trả lời câu hỏi này.

Lại đi thêm một lúc nữa, Bàn Tử đột ngột quay đầu hỏi tôi: “Cậu hãy khai thật cho tôi biết, cậu với Tiểu Ca kia có quan hệ đặc biệt gì đó phải không?”

Tôi suýt sặc nước miếng, không biết trả lời thế nào, mãi mới nghĩ ra mình đã hiểu lầm, cái ‘quan hệ’ hắn hỏi không phải loại ‘quan hệ’ mà tôi nghĩ.

(Làm sao anh có thể nghĩ xiên nghĩ xẹo một cách tai hại thế hả Tà =))))))) Đây đúng là người nói vô ý người nghe hữu tình mà =)))))

Vừa rồi đã có rất nhiều chuyện xảy ra trong khoảng thời gian ngắn, tôi cũng không kịp phản ứng. Bây giờ nghĩ kĩ lại, Bàn Tử vốn không biết khi ở Tần Lĩnh máu của tôi đã  có hiện tượng giống như bảo huyết lão Muộn. Đây là lần đầu tiên hắn chứng kiến cảnh này, bảo sao không giật mình cho được. Vì lúc ấy có mặt người của A Ninh nên không tiện hỏi, giờ chỉ còn lại hai người, hắn đương nhiên muốn hỏi chuyện này. Có điều với tính tình của hắn thì không đời nào có chuyện hỏi han nghiêm túc, hắn hỏi quan hệ giữa tôi và Muộn Du Bình, có lẽ chỉ là thắc mắc vì sao máu của tôi cũng có thể xua đuổi côn trùng?

Theo lời trợ lý Lương nói, máu tôi có năng lực kì lạ này hẳn là do ăn được máu kì lân dùng để hun khô thi thể. Nhưng tôi thực sự không nhớ nổi tôi đã nếm qua thứ này lúc nào, vả lại cũng chả biết cái khỉ biển gì về máu kỳ lân nên không thể trả lời hắn một cách chính xác. Mà thực ra chuyện vừa nãy cũng nằm ngoài ý muốn, là hành vi trong vô thức nên không thể chỉ dựa vào đó mà kết luận máu của tôi đã phát huy tác dụng.

Bàn Tử thấy tôi im thin thít, đinh ninh tôi cũng nghĩ như hắn, bèn nói: “Không chừng tên đó lại là anh em trai hoặc họ hàng thân thích của cậu thất lạc nhiều năm, cũng có thể là con riêng của cha cậu. Người nhà cậu ai cũng được di truyền thứ năng lực đặc biệt này.”

Tôi mắng: “Anh đừng nói bậy, cha tôi chỉ có tôi là con một. Người hủ nho như ông ấy mà có con riêng thì trên đời này không còn thằng đàn ông nào đáng tin nữa.”

Bàn Tử vẫn cho là trong chuyện này có điểm kỳ quặc, tôi không muốn tiếp tục chủ đề này nữa, bèn tìm cách đánh lạc hướng.

Đi mãi đi mãi, rốt cuộc cũng đến cuối mộ đạo, bỗng một cơn gió lạnh thổi tới khiến tinh thần tôi khẽ chấn động. Tôi vội chỉnh đèn pin thêm sáng, nhìn quanh bốn bề, phát hiện đây là một lang đài dựng cheo leo trên vách đá, khá giống đài cúng tế chúng tôi gặp trong linh cung giả bên dưới khung băng. Sàn đài dưới chân dùng cột trụ đỡ lơ lửng trên vách đá, chính giữa lang đài dựng một cái đỉnh đen cực lớn, một chân đỉnh đã lún xuống sàn đài bằng đá làm nó ngả nghiêng muốn đổ, hiển nhiên khi đặt chân lên đài này chúng tôi cũng phải coi chừng vì đá dưới chân đều đã biến chất. Mà ngoài rìa lang đài đều là vách đá, bên trên là một khoảng tối đen, nhìn không tới đỉnh.

Bàn Tử càu nhàu: “Thế quái nào mà… đến đây lại cùng đường rồi, mà cũng không thấy quan quách. Cái lão Vạn Nô vương rốt cuộc đã trốn vào xó xỉnh nào chứ?”

Tôi nói: “Đây vẫn chưa phải điểm kì quái nhất. Chúng ta đi theo kí hiệu của Tiểu Ca, dọc đường đi đều có manh mối hết sức rõ ràng, nhưng anh xem chỗ này chẳng có ma nào cả, không lẽ những người kia phát hiện ra đây là tử lộ nên đều đã trở về? Hay là….” Tôi nhìn màn đêm đen đặc bên cạnh, “Đã bay lên rồi?”

Chúng tôi đi đến mép lang đài, chợt thấy pháo sáng trên cao đột nhiên bốc cháy giống như mặt trời nhỏ giữa không gian tăm tối, phút chốc đã chiếu sáng cảnh tượng trước mắt chúng tôi.

Nương theo ánh sáng phát ra từ quả pháo, tôi nhận ra nơi này thực chất là một khe núi rất lớn. Lang đài chúng tôi đang đứng được dựng ở một bên vách đá của cái khe ấy, mà vách đá đối diện phải cách chúng tôi đến hai trăm mét. Khoảng cách xa xăm ấy cho người ta cảm giác mình đang đứng trên vách đá của vết đứt gãy Đông Phi (*), khiến chúng tôi không khỏi thét lên một tiếng kinh hãi.

(*) Là vết đứt gãy địa chất lớn nhất trên địa cầu, bao gồm hai nhánh có chiều dài tổng cộng khoảng 6000 km, chiều rộng từ 45 đến 100 km,  kéo dài từ

Mozambique

xuyên qua Tanzania, Kenya và Ethiopia, sau cùng nối với biển Đỏ. Xem thêm ở

đây

Pháo sáng chầm chậm rơi xuống bên dưới lang đài, soi tỏ cảnh vật bên dưới. Xuất hiện trước mắt chúng tô lại là một cảnh tượng khiến người ta khiếp sợ, chỉ thấy trong lòng khe núi sâu không thấy đáy có vô số sợi xích thanh đồng to cỡ miệng bát chăng ngang, nối liền hai bên vách khe.

Theo luồng sáng đang chầm chậm rơi xuống, từ khoảng hai mươi mét về phía dưới đài cho đến sâu bên trong lòng khe có không biết bao nhiêu sợi xích tương tự, gần như không thấy chỗ nào thưa thớt. Mà sâu trong đám xích còn treo chi chít những vật gì đó trông như vô số quả chuông, nhưng khoảng cách quá xa nên tôi nhìn không rõ lắm.

Lúc này Bàn Tử đã tìm thấy một sợi dây thừng leo núi buông từ một bên mép lang đài xuống sợi xích thanh đồng gần nhất, đầu kia buộc chặt vào sợi xích đó.

Bàn Tử nhíu mày: “Ghê thật, Tiểu Ca kia kể cũng kiên trì, xem ra hắn đã leo xuống chỗ này rồi. Chúng có nên học khỉ leo dây không?”

Tôi đáp: “Anh xem xiềng xích bên dưới dày đặc thế kia, hẳn là leo không khó. Mà Có điều đây rốt cuộc là đâu? Tại sao lại bài trí kì quặc thế này? Chẳng lẽ quan quách của Vạn Nô vương nằm dưới khe núi này? Anh đã bao giờ nghĩ hồi ấy bọn họ làm thế nào mà đưa cái quan quách khổng lồ kia xuống đây không?”

Bàn Tử nói: “Dễ là vậy lắm, người xưa kiểu gì chẳng có những phương pháp xảo diệu của riêng mình. Chúng ta nên leo lên báo cho mấy gã ngoại quốc biết hay là tự mình leo xuống trước đây?”

Tôi nói: “Leo xuống rồi chẳng biết có còn đường trở về nữa không, chúng ta tội quái gì phải làm chó dò đường cho bọn họ. Cứ gọi cả đám xuống đây, trang bị lẫn kỹ thuật của bọn họ đều tối tân hơi chúng ta rất nhiều, xuống đây còn có chỗ dùng. Huống chi Phan Tử vẫn còn ở trên đó, vả lại chú Ba cũng đã tìm được rồi, kéo dài thời gian thêm được tí nào hay tí ấy.”

Bàn Tử nhớ tới cái gã Kirk cơ bắp cuồn cuộn kia, cũng đồng tình với tôi. Chúng tôi lại theo đường cũ trở ra, lần này đã biết rõ độ dài độ dốc con đường nên bất giác cũng đi nhanh hơn.

Đám người A Ninh chờ lâu sốt ruột, còn tưởng chúng tôi gặp chuyện gì, thấy chúng tôi lành lặn trở ra mới thở phào nhẹ nhõm. Tôi nhận cốc nước Phan Tử đưa cho, uống một ngụm rồi kể lại hết những thứ mình vừa trông thấy.

Vừa nghe tôi nói bên dưới có những sợi xích thanh đồng chăng ngang, A Ninh vội vàng lấy ra những tấm ảnh mình chụp được dưới hải mộ, chỉ vào một tấm trong số đó. Chỉ thấy bức bích họa trong hình vẽ những dũng sĩ Đông Hạ lưng đeo cung tiễn đang leo lên một vách đá, bối cảnh xung quanh chính là vô số vật thể trông giống sợi xích, rõ ràng nó miêu tả cảnh người Đông Hạ đang thăm dò khe núi khổng lồ trong lòng đất kia.

Tôi nói: “Xem ra những sợi xích này cũng không phải do người Đông Hạ lắp đặt. Khi đó bọn họ hẳn cũng rất tò mò, không biết dưới đáy cái khe được những sợi xích này phong tỏa trông như thế nào.”

Bàn Tử nói: “Hay những sợi xích này chính là biện pháp phòng ngự do những người đầu tiên xây dựng lăng mộ này dùng để ngăn thứ gì đó từ bên dưới bò lên? Ví dụ như cái thứ sinh vật nhuyễn thể màu đen khổng lồ được vẽ trong một bức bích họa ấy.”

Tôi gật đầu đáp: “Cũng có thể.” Lại quay sang hỏi A Ninh: “Bức bích họa đó là thứ mấy? Bức tiếp theo vẽ cái gì?”

A Ninh nói: “Dựa theo quy luật chung của bích họa tự thuật, đây là bức thứ sáu tính từ cuối lên, phía sau còn năm bức nữa, theo thứ tự là…”

A Ninh bày năm bức ảnh cuối cùng ra, tôi thấy một bức bích họa trong số đó vẽ vô vàn dũng sĩ Đông Hạ đang giương cung bắn tên, hình như đang chiến đấu rất ác liệt. Nhưng trên bích họa lại không vẽ kẻ địch, cho nên không thể biết bọn họ đang giao chiến với thứ gì. Tôi lại nhớ đến mấy con quái điểu mỗi khi bay lên thì không thể nhìn rõ thân hình, trong lòng thoáng căng thẳng, nghĩ bụng chẳng lẽ dưới kia cũng có loài vật này?

Mà bức ảnh kế tiếp, chính là cảnh vô số ác quỷ chui ra từ tảng đá.

Giữa những bức bích họa hình như cũng không liên quan đến nhau cho lắm, nhưng nhìn qua lại khiến người ta tha hồ liên tưởng, gợi lên nhiều cảm xúc.

A Ninh hỏi tôi: “Anh lại nhìn ra điểm gì kì quặc phải không, Ngô siêu nhân?

Tôi cười cười tự giễu: “Cũng không hẳn là nhìn ra cái gì. Cô xem, sau bức bích họa leo lên vách đá chính là những cảnh chiến đấu, tôi cảm thấy nó cho chúng ta biết sau khi leo xuống khe núi kia sẽ gặp thứ gì đó nguy hiểm, ai có vũ khí nên chuẩn bị cho tốt.”

Mấy người kia đều coi tôi như thủ lĩnh tinh thần, tôi nói gì thì làm nấy. Kirk vội vàng nâng khẩu M16 của mình lên, buộc chặt vào người mình. Chúng tôi thu dọn hành trang chuẩn bị lên đường, chui vô cái mộ đạo dẫn sâu vào lòng núi Trường Bạch.

Tôi đi sau cùng, tranh thủ xem tình hình chú Ba thế nào. Ổng vẫn hôn mê bất tỉnh, không rõ đã nhìn thấy thứ gì đáng sợ trong này. Phan Tử lại khiến tôi hết sức yên tâm, anh nói dù có phải bò lê bò lết anh cũng ráng đưa chú Ba ra khỏi cái nơi quỷ quái này.

Bước vào mộ đạo, nhìn những người đi trước đều tỏ ra căng thẳng, trong lòng tôi dấy lên một cảm giác kì lạ. Lúc này không có Trần Bì A Tứ cũng chẳng có chú Ba, tôi không thể không đảm đương vị trí lãnh đạo những người này. Cảm giác này tôi  chưa từng trải qua, kể cũng hơi khoái. Nhưng suy nghĩ và quyết định của tôi liệu có chính xác hay không? Lỡ đâu tôi đang đẩy những người này vào đất chết? Nghĩ đến đây tôi bắt đầu do dự.

Chẳng mấy chốc mọi người đều đã tới lang đài ban nãy, Bàn Tử lại bắn một quả pháo sáng để mọi người thấy được cảnh sắc đồ sộ xung quanh khe núi, còn tôi và Phan Tử rút dây thừng ra chuẩn bị leo xuống. Đây là một quyết định cực kì mạo hiểm, nhưng đường đi của chúng tôi đã bị bít kín hoàn toàn, không còn lựa chọn nào khác nữa.

Không biết tình hình bên dưới là thế nào, mà đám người A Ninh cũng chẳng phải hạng tốt đẹp gì. Tôi rút hết dây thừng ra rồi kéo Bàn Tử sang một bên, dặn dò hắn phải cẩn thận một chút. Hiện giờ chúng tôi gặp cảnh khó khăn, mọi người trông có vẻ hợp tác lắm, nhưng một khi tìm thấy dấu hiệu có đường ra bên dưới thì phải đề phòng ả đàn bà khốn nạn kia trở mặt.

Bàn Tử vỗ vỗ vai tôi, nháy mắt một cái, ý là đã sớm đề phòng. Sợ tôi còn lo lắng, hắn lại kéo một góc áo lên cho tôi xem, bên hông hắn còn buộc mười cái ngòi nổ.

Chúng tôi giật thử vài cái, sợi dây thừng của Muộn Du Bình cực kì chắc chắn. Phan Tử vẫn xung phong làm người đi đầu, hạ xuống sợi xích đầu tiên rồi anh treo người lơ lửng như vận động viên xà đơn, nhẹ nhàng nhảy xuống một sợi xích khác bên dưới. Cứ lặp đi lặp lại như thế năm sáu lần, đi xuống hơn mười mét, anh dừng lại dùng tay làm dấu ‘OK’ với tôi.

Trang bị của đám A Ninh tốt hơn chúng tôi rất nhiều. Kirk mang một ngọn đèn dẫn đường tản sáng, biến bản thân thành một bóng đèn di dộng rồi nối tiếp Phan Tử. Chúng tôi lấy đầu của Kirk làm mốc, lục tục leo xuống khỏi lang đài, tiến vào thế giới xiềng xích lơ lửng trên không.

Được cái xích ken khá dày nên leo xuống rất tiện, cóc cần biết những sợi xích thanh đồng này ban đầu được bố trí ở đây để làm gì thì bây giờ cũng biến thành cái thang tiện lợi cho chúng tôi leo xuống. Leo được một lúc lâu, các động tác cũng thuần thục hơn, lại nắm được vài bí quyết, cảm giác không khác chi Spider Man tái thế.

Mười mấy người chúng tôi thong thả leo dần xuống dưới như những con nhện, dọc đường đi cũng không xảy ra chuyện gì đột ngột, mà xích thì chắc chắn khỏi bàn. Bốn giờ sau, lang đài phía trên đã biến thành một chấm nhỏ xíu, chúng tôi đã tiến sâu vào trong khe núi, đi vào phạm vi mà người đứng trên không thể nhìn tới. Những sợi xích thanh đồng treo thứ gì đó giống như chiếc chuông khổng lồ mà lúc ở trên kia chúng tôi nhìn không rõ lắm, giờ cũng dần dần hiện ra trong tầm mắt.

Ngắm nhìn thật kĩ, tôi thổi cái còi con dơi ra hiệu cho Kirk và Phan Tử ở dưới cùng dừng lại. Nhìn qua ống nhòm ban đêm của A Ninh xuống bên dưới, giữa màu xanh biếc u uẩn bao phủ tầm nhìn, tôi thấy những vật thể treo lơ lửng trên mấy sợi xích thì ra là mấy xác chết treo cổ. Một sợi tơ màu đen giống như sợi tóc kéo dài từ gáy bọn họ ra ngoài, vắt lên lên những sợi xích. Tôi muốn đếm nhưng số lượng xác chết treo trên đám xích bên dưới quá nhiều, gần như không thể đếm nổi.

Theo thông tin trong long ngư mật văn của Uông Tàng Hải, cái loài quái điểu đầu người khi bay chẳng thấy tăm hơi, phải rơi xuống đất mới lòi mặt ra mà chúng tôi gặp lúc trước rất thích treo con mồi lủng lẳng đầu cành để hong gió cho khô làm thức ăn dự trữ. Nơi này có vô số thi thể, lẽ nào bên dưới là sào huyệt của bọn chúng?

Hèn chi mà Muộn Du Bình nói chúng tôi tuyệt đối không được xuống nơi này. Nhưng bây giờ chúng tôi cũng đâu còn đường nào khác để đi, không liều mạng leo xuống một phen chẳng phải là chết chắc sao? Tôi cố đè nén nỗi sợ hãi trong lòng, vẫy tay ra hiệu cho mọi người đề phòng rồi tiếp tục leo xuống.

Đã xuống tận đây rồi, cho dù bên dưới có là địa ngục thì chúng tôi vẫn phải kiên trì đi tiếp.

Chương

50: Sào huyệt của thần gác cửa

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Những thi thể này đều mặc giáp trụ rách nát tả tơi, một số đã bị gió hong khô thành xác ướp, số khác chỉ còn lại nửa bộ xương khô, có lẽ họ đều là dũng sĩ Nữ Chân năm đó chết trên đường đi thăm dò nơi đây. Có điều vũ khí của họ khi ấy vẫn rất thô sơ, còn bây giờ chúng tôi có cả đống M16 và Cạc-bin 56(*), hỏa lực cực mạnh, nghĩ đến đây tôi cũng an tâm hơn nhiều.

Tiến vào phạm vi những sợi xích treo thi thể, lại leo xuống gần năm mươi mét nữa, lúc này trên dưới trái phải đều là xác chết. Những tròng mắt mục nát trống rỗng cứ ngó đăm đăm khiến người ta không thoải mái chút nào, bầu không khí phút chốc trở nên u ám.

Để phòng ngừa có thứ gì xuất hiện trong góc chết của tầm nhìn, hoặc là để xua đi nỗi sợ hãi ám ảnh này, có vài người đã châm pháo lạnh lên, không gian bừng sáng hơn bao giờ hết.

Lạ một nỗi mọi người chờ mãi vẫn không thấy con quái điểu nào ló mặt ra, tôi cũng không cảm nhận được những xao động khi chúng bay trong không khí, bốn bề đều yên ắng đến lạ thường.

Bàn Tử chỉ vào một thi thể treo lủng lẳng bên cạnh, khẽ hỏi tôi: “Toàn là thi thể từ đời tám hoánh, không có cái nào mới cả, hay chỗ này đã bị bỏ hoang rồi?”

Tôi lắc đầu, ý bảo hắn đừng nói nữa. Khả năng này cũng có, nhưng quái điểu trong này có thể ra ngoài kia săn mồi, chứng tỏ gần đây chắc chắn có lối ra. Hi vọng của chúng tôi đã tăng lên rất nhiều.

Đương nhiên cũng có thể chúng nó chỉ tạm thời đi vắng, giống như đàn dơi mỗi khi kiếm mồi đều bay cả đàn ra ngoài cùng lúc, nếu là như thế thì chúng tôi phải mau mau mà ra khỏi chỗ này. Vì thế tôi lại hô lớn một tiếng, thúc giục mọi người tăng tốc.

Đúng lúc này, Phan Tử và Kirk đi trước bỗng dừng lại, Phan Tử xoay người vẫy vẫy tôi qua chỗ anh.

Tôi bảo những người khác nghỉ ngơi tại chỗ, còn mình thì nhanh chóng leo xuống hơn mười sợi xích, tới gần Kirk xem xét. Thì ra đèn pin công suất lớn của hắn đã chiếu đến đáy khe núi khổng lồ, xem ra kiếp sống Spider Man của chúng tôi đã sắp kết thúc rồi.

Có điều ánh sáng đèn pin phân tán quá mạnh, không thể nhìn rõ bên dưới là thứ gì, Sau khi đi qua nhiều cổ mộ quỷ quái ở Trung Quốc, gã người Đức này rõ ràng đã mất lòng tin vào khả năng phán đoán của bản thân, cho nên mọi việc đều muốn đưa tôi xem qua mới có thể quyết định.

Cái khe trong lòng đất này cực lớn, chiếu đèn pin không thể nhìn rõ được. Tôi chỉ biết bên dưới có thứ gì đó nhưng chính xác là thứ gì lại không tài nào nhìn ra, dùng ống nhòm ban đêm cũng chỉ thấy một cái bóng mơ hồ xanh biếc.

Chúng tôi còn mấy quả pháo sáng, vốn định dè sẻn nhưng gặp tình cảnh này xem ra không thể dè sẻn được rồi. Tôi bảo Bàn Tử nghĩ cách bắn ra một quả pháo sáng, trong hoàn cảnh này hãy cố làm sao kéo dài thời gian chiếu sáng thêm một chút.

Pháo sáng của đám người A Ninh đúng là hiện đại hơn chúng tôi, Bàn Tử rất thạo việc, biết rõ phải dùng thế nào, liền ra dấu “OK” với tôi.

Hắn lấy một cây gậy huỳnh quang, lấy dao cắt ra, phết chất sơn bên trong vào đầu đạn pháo sáng rồi ném quả pháo xuống vực sâu. Chúng tôi chỉ nhìn thấy một chấm huỳnh quang nhỏ rơi xuống như vệt sao băng, chạm vào đáy khe núi, nảy lên hai cái rồi nằm im.

Tiếp theo, Bàn Tử giương súng trường Cạc-bin56, bắn liền ba phát vào đầu đạn bên dưới khiến pháo sáng tức thì cháy lên, cả đáy khe được chiếu sáng bừng.

Đúng là đã tới đáy khe, dưới nền là những tảng đá núi lửa màu đen lởm chởm mấp mô xen lẫn với với xác chết rơi xuống từ phía trên. Lớp xương cốt và chất bài tiết chồng chất không biết bao nhiêu tầng, gần như bao trùm toàn bộ bề mặt khối nham thạch. Mà ở một bên vách đá dưới đáy khe, có hai cánh cửa thanh đồng cực lớn.

Tôi không biết dùng lời nào để tả độ hoành tráng của cánh cửa này. Cửa cao cỡ ba mươi mét, rộng chừng sáu mươi mét, nếu cứ tính theo tiêu chuẩn nhà lầu bây giờ là ba mét một tầng thì cánh cửa này phải cao ngang ngửa một tòa nhà mười tầng.

Thoạt nhìn cánh cửa tựa như được đúc thành một khối nguyên, thứ này tuyệt đối không thể là đồ do người xưa đúc ra, cũng tuyệt đối không dành cho con người, bởi vì cánh cửa này nặng hơn vạn tấn, đặt trên khối nham thạch, con người đâu thể mở nó ra?

A Ninh nói: “Đây nhất định là cánh cửa cực lớn dưới lòng đất trong truyền thuyết Đông Hạ, nơi các đời Vạn Nô vương xuất hiện. Mỗi lần thay vương vị, bọn họ sẽ dùng da người sống để phong bế cánh cửa lại. Anh đoán xem… đằng sau cánh cửa đó là nơi nào?”

Tôi lắc đầu, tâm trí căn bản đang lơ lửng tận đâu đâu. Thầm nghĩ cánh cửa khổng lồ này rốt cuộc là do ai đúc ra? Vạn Nô vương đi ra như thế nào? Chẳng lẽ hắn thực sự là thần, có thần lực mở được cánh cửa nặng hàng vạn tấn? Nghĩ đoạn tôi lẩm bẩm: “Không cần biết bên trong là nơi nào, chúng ta tuyệt đối không thể vào được.”

Lần tôi vào núi Tần Lĩnh đã nhìn thấy cây Thanh đồng, cũng mà một vật bằng thanh đồng khổng lồ, cũng chôn sâu trong lòng sơn mạch giống như thế này. Những thần khí Thanh đồng khổng lồ mà con người không thể tạo tác này có mối liên hệ nào với nhau không? Phải chăng trong lòng những dãy núi lớn khác như Côn Lôn, Himalaya cũng có những vật như thế này tồn tại?

Tôi lờ mờ cảm thấy dường như mình đang đến gần một bí ẩn vĩ đại từ thời viễn cổ, một nỗi tự ti mơ hồ cũng bất giác nảy sinh. So với những thứ thần bí cổ xưa này, tôi thấy mình thật nhỏ bé, mà ngay cả hy vọng có ngày hiểu ra chân tướng cũng quá xa vời.

Pháo sáng dần lụi tắt, mặt đất lại chìm vào bóng đêm. Nhưng tôi vẫn cứ đứng ngây ra đó, cho đến khi Phan Tử vỗ vai mình, nói: “Đi xuống thôi.” tôi mới hồi phục tinh thần.

Chúng tôi lần lượt leo theo những sợi xích, rất nhanh đã xuống đến đáy khe. Cẩn thận dẫm lên lớp xương nằm dưới chân, đứng trước cánh cửa Thanh đồng khổng lồ kia, cảm giác mình thật nhỏ bé lại càng trở nên mãnh liệt, tôi quả thực xúc động đến nỗi muốn quỳ xuống luôn.

Những người sống ở thời hiện đại như chúng tôi khi tới nơi đây đều trỗi lên thứ cảm giác này, cũng không khó tưởng tượng những dũng sĩ Đông Hạ năm đó phải chịu vô vàn khổ cực theo Uông Tàng Hải xuống đây đã khiếp sợ đến chừng nào. Chẳng trách bọn họ nhớ mãi không quên những gì đã trải qua bên dưới, cho nên mới liều chết ghi lại hết thảy mọi chuyện để lưu truyền hậu thế. Tôi thậm chí có thể cảm nhận được nỗi thống khổ của Uông Tàng Hải, thấu hiểu nỗi sợ hãi khi trước đó vẫn đinh ninh mình đã hiểu rõ quy luật của vũ trụ, rồi lại đột nhiên phát hiện ra mình chẳng biết chút gì.

Đang thả hồn vào mây gió, Bàn Tử bên cạnh đã cắt đứt mạch suy nghĩ của tôi.

Hắn chiếu đèn pin vào bên trong khe núi. Khe núi này rộng chừng năm sáu trăm mét, trên mặt đất ngổn ngang từng đống đá vụn trông như những hòn núi nhỏ. Bàn Tử đã đi được rất xa, nhìn vào bên trong khe núi chỉ thấy một khối đá cực lớn được đục đẽo thành những cái đài bằng phẳng nối tiếp nhau, nhìn tổng thể giống như một tòa kim tự tháp cỡ nhỏ. Một bên khối đá có cầu thang dài dẫn xuống, mỗi bậc thang đều đặt hai đăng nô nhỏ ở hai bên.

Thứ thu hút Bàn Tử là vật nằm trên đài đá, đó là một quan quách bằng đá trắng to cỡ cái xe con, dưới chân có chín bức thạch điêu bách túc long bao quanh, tạo thành hình hoa sen. Bốn phía còn dựng bốn tượng người bằng đá đen đang quỳ lạy, quay mặt ra bốn phía.

Phía trước quan tài đặt một cái đỉnh lớn để chứa tế phẩm, mặt sau dựng một tòa ảnh bích, không nhìn rõ bên trên điêu khắc những gì. Mấy thứ này nhìn từ trên kia xuống trông như những tảng đá bình thường, khó lòng thấy được rõ ràng, cho nên vừa rồi tôi mới không để ý.

Tôi hít một hơi khí lạnh: “Chẳng lẽ đây chính là… Cửu Long bàn thi quan của Vạn Nô vương, được nhắc đến trong long ngư mật văn của Uông Tàng Hải?”

Bàn Tử hồ hởi: “Chắc chắn là vậy rồi. Ai cũng nói bên dưới quan tài của Vạn Nô vương có chín con thần long canh giữ, cậu xem dưới quan tài này chẳng phải vừa hay có chín con rết đấy thôi. Tôi còn tưởng lão Trần Bì A Tứ đó lòe bịp chúng ta, ai ngờ lại là thật!

Vẫn tưởng rằng Vạn Nô vương chỉ có quan tài giả đặt trong mộ thất dưới địa cung, còn thi thể thật thì đem thiên táng nên tôi đã sớm từ bỏ hi vọng tìm được quan tài thực sự, nào ngờ lại phát hiện ra Cửu Long bàn thi quan ở nơi này. Ai nấy đều kích động, có vài người đã sốt ruột mà chạy tới xem. A Ninh ở đằng kia vội vã gọi bọn họ lại: “Đừng qua đó! Nguy hiểm lắm!”

Những người đang chạy nghe A Ninh nói thế thì lập tức dừng chân. A Ninh hô to: “Các anh không thấy mấy con du diên long bên dưới quan tài hay sao?”

Bàn Tử đốp lại: “Con lạy mẹ, đấy chỉ là thạch điêu thôi, nguy hiểm cái nhồng gì. Mắt mẹ quáng gà rồi hả?”

A Ninh dựng đứng đôi mày thanh mảnh, nói: “Tổ sư nhà anh, có mắt anh mới quáng gà, tôi không nói mấy cái thạch điêu kia. Anh nhìn sang bên cạnh bệ đá đi!”

Bên cạnh bệ đá? Tôi thấy nét mặt A Ninh cực kì nghiêm túc, nhưng tôi nhìn trái ngó phải quanh cái bệ đá mà chẳng nhìn ra cái gì, không biết rốt cuộc cô ta vì sao lại căng thẳng nữa, đành bảo cô ta chỉ cho mình thấy.

A Ninh lấy đèn pin làm thước giáo viên, chỉ xuống phía dưới. Lúc đầu tôi vẫn không phát hiện được gì cả, đang bực mình thì chợt thấy bệ đá trước mặt khẽ động. Lúc này tôi mới nhìn ra trên bệ đá có một con du diên núi lửa bự chảng, dài chừng năm sáu mét đang uốn mình. Do nó quá lớn, hơn nữa lớp vỏ của nó cùng màu với đá núi lửa nên nhìn thoáng qua không thể phát hiện có một vật như thế đang bám bên trên. Đã phát hiện được một con, lập tức nhìn ra con thứ hai, thứ ba, thứ tư… chúng tôi đếm được tổng cộng chín con du diên cỡ bự uốn quanh bệ đá, giống hệt phù điêu, gần như hòa làm một vào nền đá xung quanh.

Cửu Long bàn thi, thật xứng với cái tên Cửu Long bàn thi!

A Ninh nói: “Các anh mà leo lên bệ đá thì còn chưa hiểu mô tê gì đã bị chúng nó cắn đứt đôi người rồi. Du diên núi lửa là loài côn trùng ăn thịt, cực kì nhanh nhẹn và hung ác, vóc người chúng ta lại chính là kiểu mồi mà nó thích nhất.”

Tôi đã trải qua rất nhiều chuyện quái đản, nếu mấy con du diên này chỉ dài cỡ một mét thì tôi còn chấp nhận được. Dẫu sao đây cũng là khe nứt ngầm trong lòng núi lửa, môi trường và thành phần không khí khác xa trên mặt đất, vả lại ở những vùng khác trên thế giới cũng từng phát hiện du diên dài cỡ đó. Nhưng loài côn trùng với kích thước vượt xa mức thông thường thế này thì đây là lần đầu tiên tôi được thấy, tụi này đúng là quái vật đột biến do phóng xạ hay gặp trong phim kinh dị Mỹ đây mà.

Một chuyên gia gốc Hoa trong đoàn của A Ninh chợt lẩm bẩm: “Quái lạ, loài du diên bình thường chỉ sống được hai đến ba năm, đáng ra mới dài bằng ngón tay đã chết. Thế mà mấy con kia lại to đùng như vậy, chẳng lẽ đã sống mấy ngàn năm?”

=====

(*)

Cạc-bin 56

: Vốn là 56

式半自動步槍

(súng trường bán tự động kiểu 56) do Trung Quốc sản xuất mô phỏng theo khẩu CKC-45 (hay đúng ra là SKS) của Liên Xô. Chính ra tên Tàu phải là 56 thức bộ kỵ thương (56

式步騎槍

, súng cạc bin kiểu 56) thì mới giống tên gốc của Nga. Trong đây mình gọi là “Cạc-bin 56″ để phân biệt rạch ròi, không bị nhầm lẫn với khẩu

K56 (hay còn gọi là AK Tàu)

.

Chương

51: Vòng vây trùng điệp

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Nhìn chín con du diên bự chảng cuộn tròn quanh cái bệ đá trong lòng khe núi, tuy tụi nó không hề cựa quậy nhưng vẫn gây ra cho chúng tôi một áp lực rất lớn, ai nấy đều tái mặt, vừa lùi vừa lôi vũ khí ra.

Chuyên gia gốc Hoa kia nói: “Các anh không cần căng thẳng quá, giờ đang là mùa lạnh, nhiệt độ không khí nơi này rất thấp, du diên vẫn còn ngủ đông, những con sâu khổng lồ này cũng không dễ dàng tỉnh lại đâu.”

A Ninh nói: “Không dễ tỉnh tức là vẫn có thể tỉnh, chúng ta đúng là món điểm tâm mùa đông lý tưởng của chúng.”

Bàn Tử lại nổi sát tâm, nói: “Cóc cần biết nó thức hay tỉnh, ông đây cứ cho nó mấy viên kẹo đồng vào đầu, dù có lớn gấp mười lần thì cũng ngỏm hết. Sau đó chúng ta sẽ đi xem cái lão Vạn Nô vương muôn kiếp không già bò ra từ trong lòng đất kia là người hay yêu.”

Phan Tử xua tay ngăn cản:”Tuyệt đối không thể, anh còn nhớ Thuận Tử từng nói du diên chết đi sẽ đánh thức đồng loại đang ngủ đông của mình không? Cái khe nứt này chạy dài theo dãy núi Trường Bạch, anh cũng thừa hiểu bên trong có bao nhiêu du diên, đến lúc đó lại có mấy con bự hơn bò ra để báo thù cho đồ tử đồ tôn nhà mình thì xong đời.”

Tôi giơ ống nhòm ban đêm lên, định nhìn lại cho rõ ràng hơn. Du diên lớn cỡ này không chừng lại là hóa thạch của côn trùng thời cổ đại, tôi quả thực không tin nổi chúng vẫn còn sống. Đưa ống nhòm lên lại thấy những phù điêu nhập nhằng trên ảnh bích đằng sau quan quách hóa ra viết đầy văn tự Nữ Chân. Tôi sửng sốt, trong lòng kích động.

Phù điêu trên ảnh bích chi chít văn tự, mà một đám văn tự tụ tập cùng một chỗ như thế dĩ nhiên phải mang nội dung tự thuật. Trong những kiến trúc do Uông Tàng Hải xây dựng rất ít khi gặp văn tự, mà ở đây lại xuất hiện dày đặc, rất có thể nó chính là tư liệu quý giá nhất trong cổ mộ – mộ chí của chủ nhân.

Tôi vội gọi gã thuộc hạ nhỏ con biết đọc văn tự Nữ Chân của A Ninh, đưa ống nhòm cho gã, bảo gã đọc giùm tôi trên kia viết cái gì.

Gã nhỏ con kia vừa nhìn qua, nét mặt đã trở nên mê man. Gã nói tuy những chữ này thoạt nhìn rất giống văn tự Nữ Chân nhưng lại không phải chữ Nữ Chân, mà là một loại văn tự khác cùng ngữ hệ, nhất thời gã cũng không hiểu nó viết gì.

Tôi thoáng nhụt chí, chửi thầm trong lòng, cái gã Vạn Nô vương này cũng quá gian manh, không để cho người ta chút sơ hở nào.

Chẳng trách một người tâm tư thâm trầm như Uông Tàng Hải đã ở đây đến hai mươi năm, trực tiếp tham gia tu tạo hoàng lăng cổ, vậy mà cũng không thể tìm ra mấu chốt cái  bí mật mà vương triều Vạn Nô đời đời che giấu. Vạn Nô vương kia đã bố trí cho mình một chướng ngại không thể vượt qua, vậy thì những kẻ chỉ biết hành động dựa trên suy đoán như chúng tôi lại càng khỏi cần bàn đến.

Chỉ tiếc Hoa hòa thượng không có ở đây. Gã làm nghề này đã nhiều năm, có thói quen suy nghĩ thấu đáo hơn người khác, nếu gã ở đây không chừng có thể đoán được sơ sơ nội dung. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại thì thấy cũng không hẳn, nếu có Hoa hòa thượng ở đây, tình hình sẽ trở nên phức tạp vượt khỏi tầm kiểm soát của tôi mất.

Những ý niệm liên tiếp nảy sinh trong đầu, rốt cuộc tôi cũng chẳng hiểu mình đang nghĩ đi đằng nào nữa. Chợt tôi nghe tiếng gọi của Phan Tử: “Bàn Tử? Anh không sao chứ? Có cần đổi người không?”

Tôi rất ghét nghe Phan Tử gọi tên Bàn Tử, nghe thế thì giật mình, ngẩng đầu lên xem thì thấy Bàn Tử và cái tên Kirk kia đã leo lên một sợi xích, cẩn thận bò lên phía trên bệ đá chứa quan quách. Thắt lưng Bàn Tử buộc một sợi dây thừng, đại khái trông giống Tom Cruise, đang treo người lủng lẳng vào một sợi xích, nhẹ nhàng leo tới phía trên quan quách. Vậy mà những người khác không những không ngăn cản, ngược lại còn đứng dưới chỉ trỏ Bàn Tử.

Tôi hỏi A Ninh có chuyện gì vậy, mấy người kia chuẩn bị xem tiết mục Cửu long hí Bàn châu sao?

(Cửu long hí bàn châu: chín con rồng đùa giỡn viên ngọc mập aka 9 con du diên bên dưới chơi đùa với Bàn Tử =))

A Ninh đáp: “Anh đừng lo, dùng cách này sẽ không quấy rầy đến đám du diên ngủ đông, hơn nữa vừa rồi tôi phát hiện ra đuôi của mấy con du diên này đều bị sợi xích thanh đồng khóa vào cái cọc bên dưới bệ đá, nghĩa là phạm vi hoạt động của chúng có hạn, chỉ những kẻ đến gần chúng mới gặp nguy hiểm. Ai đã đến nơi này đều muốn xem bên trong quan quách của Vạn Nô vương có gì, tìm thấy quan quách rồi lại không được xem thì ai mà chịu nổi.”

Tôi nói cho dù Bàn Tử có thể đu xuống thì cũng không thể mở được nắp quan quách đá lớn bằng chừng kia, cô chỉ muốn cho hắn bẽ mặt thôi chứ gì. A Ninh đáp: “Anh ta không cần mở nắp quan quách, mà chỉ cần dùng khải quan câu móc vào khe hở trên quan quách. Chúng tôi đã vắt một cái ròng rọc lên sợi xích thanh đồng phía trên, sau đó sẽ đứng đây kéo nắp quan quách ra.”

Trong lòng tôi có phần khó chịu. Cô ả A Ninh này vẫn cố thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm vật gì đó trong quan tài mà công ty giao phó, cho dù đã đến nước này cô ta vẫn không chịu buông tay. Tuy tôi không biết cô ta muốn tìm vật gì, nhưng vẫn cảm thấy không có lí do nào đủ sức khiến người ta coi một món đồ quan trọng hơn cả tính mạng mình. Vả lại những sợi xích thanh đồng phía trên quan sàng hình như dày hơn bình thường, khi thiết kế Uông Tàng Hải không thể không nghĩ ra trò mèo này của dân trộm mộ, hẳn phải có lý do khác thường khiến ông ta cho rằng phía trên không cần phòng bị. Tên Bàn Tử ngu ngốc kia đòi làm tiên phong hẳn là vì đinh ninh người đầu tiên khai quan sẽ kiếm được món hời, tôi phải ngăn hắn lại mới được.

Tôi vừa mới ra hiệu cho Bàn Tử thì đã có biến cố xảy ra. Kirk đang leo phía trên Bàn Tử đột ngột tuột khỏi dây xích, nháy mắt đã đâm sầm xuống quan sàng, phát ra một âm thanh trầm đục, đầu chúc xuống dưới, vỡ toác ra.

Không ai biết Kirk đã xảy ra chuyện gì. Bàn Tử đang điều chỉnh lại tư thế nhảy, thấy Kirk nhảy còn nhanh hơn mình thì ngây ra không hiểu gì cả. Kế đó hắn cũng đột ngột bay thẳng lên, khoa chân múa tay xoay xoay mấy vòng trên không trung một hồi rồi rơi tự do xuống. May mà thắt lưng hắn còn buộc dây thừng, đúng vào lúc đầu hắn sắp đụng quan quách thì dây thừng khựng lại, bên dưới chính là thi thể của Kirk.

Tôi sợ đến suýt ngất xỉu, cảnh tượng này thực sự vô cùng quỷ dị, chẳng lẽ trên sợi xích kia có thứ gì đẩy bọn họ rơi xuống?

Nghĩ đến đây, tôi vội vàng quay sang Phan Tử đang đứng ngây ra như phỗng, kêu to: “Pháo sáng! Mọi người mau đốt pháo!”

Mọi người lập tức phản ứng, chẳng ai còn hơi sức đâu mà để ý đến Bàn Tử nữa. Phan Tử bắn một quả pháo sáng, bùng nổ giữa không trung, thoáng cái chúng tôi đã trông thấy vô vàn cái bóng bay lượn trên đỉnh đầu, vài con đã treo người lên những sợi xích, đưa đôi mắt tò mò nhìn mấy kẻ kì quặc đang xâm nhập vào sào huyệt của mình.

Hóa ra là loài quái điểu này không biết đã quay về từ lúc nào mà không phát ra một tiếng động. Tôi thậm chí còn thấy trong đàn quái điểu bay lượn giữa không trung, có mấy con còn quắp thứ gì đó, hiển nhiên chúng đã tóm được mồi. Tôi giơ tay ra hiệu cho đám người mang vũ khí kia tuyệt đối không được nổ súng.

Loài quái điểu này giống như mù dở, dưới ánh sáng lóa mắt căn bản không nhìn thấy chúng tôi, nhưng đối với âm thanh lại vô cùng nhạy cảm. Trước kia một phát súng nã trong môn điện của chúng tôi đã dẫn đường cho hàng đống hàng đàn quái điểu từ bốn phương tám hướng bay tới. Hiển nhiên là sống trong miệng núi lửa ngầm quanh năm không thấy ánh mặt trời, loài sinh vật này này đã sớm thích nghi với cuộc sống trong bóng đêm.

Tôi đã bảo không được nổ súng, vậy mà vẫn có người không thèm nghe, hơn nữa không chỉ một tiếng mà là một tràng liên tiếp. Tiếng súng trong đáy khe trống trải lại càng thêm vang dội, vang đến tận mây xanh. Không trung tức khắc trở nên hỗn loạn, vô số cái bóng đang bay lượn bắt đầu đâm thẳng xuống dưới.

Tôi trợn mắt, quay đầu lại xem tên khốn kiếp nào đã kháng mệnh, lại thấy Bàn Tử treo phía trên bệ đá đang tìm cách bò lên dây thừng, trên tay cầm khẩu M16 của Kirk, lúc này hắn đang bắn xối xả xuống quan tài bên dưới.

Nhìn kỹ hơn, tôi phát hiện trong quan quách cực lớn của Vạn Nô vương không biết từ khi nào đã hé ra một khe hở. Ba ‘cánh tay’ xanh xanh tím tím, chú ý, là ba cái, chui từ trong quan tài ra, những ‘móng tay’ dài lạ thường quơ quào giữa không trung, muốn tóm lấy Bàn Tử bên trên.

Chương

52: Quan Âm nghìn tay

Editor: Earl Panda

Beta: Thanh Du

~0O0~

Pháo sáng vụt tắt giữa không trung, màn đêm nhanh chóng đổ ụp lên khung cảnh. Phan Tử lập tức đốt thêm một quả pháo sáng nữa rồi ném lên cao, một luồng sáng tức thì cháy bùng lên. Tiếp đó mọi người đứng dưới đất đồng loạt nổ súng, hơn mười tia lửa xẹt thẳng vào không trung, chẳng mấy chốc, trong những cái bóng đang bay lượn trên đỉnh thiên cung đã có mấy con trúng đạn, rớt bịch xuống đất.

Ánh sáng mạnh có thể khiến mấy con vật này sinh ra ảo giác tạm thời, giống như khi bạn đứng trước mặt một con gấu chó, làm động tác và giả tiếng kêu của vịt thì con gấu chó đó sẽ không phân biệt nổi rốt cuộc bạn là người hay là vịt trong một khoảng thời gian ngắn. Nhưng hiệu ứng này chỉ là tạm thời, mà nếu tôi nhớ không lầm thì đây chính là quả pháo sáng cuối cùng của chúng tôi.

Nơi này có vô số quái điểu, chỉ lát nữa thôi, khi quả pháo sáng kia tắt, chúng tôi sẽ bị xé xác không thương tiếc trong bóng tối đen kịt.

Bọn quái điểu càng ngày càng sà xuống thấp, thậm chí có con đã bay sượt qua cả đỉnh đầu. Chúng tôi vốn không đủ đạn dược để bắn trả với cường độ dữ dội như thế, chẳng mấy chốc, mấy khẩu súng đều hết sạch đạn. Bàn Tử đang lâm vào tình thế vô cùng nguy cấp, giờ nếu không ai đi cứu hắn, đảm bảo dù hắn có lớn mạng cỡ nào cũng phải tiêu đời.

Đang lúc tiến thoái lưỡng nan, chẳng biết phải làm gì, bỗng Bàn Tử bắn một phát trúng ngay dưới chân tôi, khiến tôi giật bắn người. Tôi ngẩng đầu nhìn khẩu hình của hắn, liền hiểu ý của hắn muốn bảo chúng tôi rằng, mau chạy!

Tôi nhanh chóng quyết định, bèn quay sang nói với Phan Tử: “Anh dẫn chú Ba và những người khác chạy về đầu kia của khe núi. Chỗ này là sào huyệt của bọn quái điểu, chúng nó nhất định sẽ bay xuôi theo cái khe này ra ngoài kiếm ăn. Anh xem chúng nó bay theo hướng nào thì mình chạy theo hướng đó, cứ chạy cật lực, đừng lo cho tôi, tôi đi cứu Bàn Tử!”

Phan Tử kéo tôi lại, nói: “Cậu có chịu được không, chi bằng cứ để tôi đi cứu Bàn Tử, cậu đưa ông Ba đi đi!”

Tôi đáp: “Tôi vác không nổi lão già kia!” Nói đoạn liền vung tay lên cho anh xem vết thương của mình, “Ông đây thân có máu quý, chắc chắn không sao!”

Phan Tử thấy vết thương của tôi thì cũng có phần an tâm, gật đầu, nói: “Cẩn thận, chúng tôi chờ cậu ở bên ngoài!”. Nói đoạn, anh cõng lão chú Ba đã không thể nhúc nhích nổi kia lên lưng, quay sang những người còn lại hét to: “Chạy theo tôi!” rồi mau chóng chạy về một đầu của cái khe.

Tôi đỡ lấy khẩu súng Phan Tử quăng cho, “cạch” một phát mở hộp đạn kiểm tra, còn ba viên, mẹ nó vãi cả hào phóng luôn. Những người khác chạy như điên qua chỗ tôi đứng, lớn tiếng bảo tôi mau đuổi theo, tôi đều bỏ ngoài tai cả. Bấy giờ tôi thấy A Ninh cũng đứng khựng tại một chỗ, mặt tái đi, không hề nhúc nhích.

Tôi đi tới vỗ vai cô ả một cái, kêu cô ả mau chạy. Cô ả liền hất tay tôi ra, “cạch” một tiếng lên đạn, chả hiểu lại định làm trò gì.

Tôi biết, cái ngữ này có khuyên bảo cũng vô dụng, bèn không để ý tới cô ta nữa, cầm súng chạy lên đài đá.

Hên cái là trong tình cảnh hỗn loạn này, mấy con du diên khổng lồ đang ngủ đông quanh bệ quan tài vẫn không thức giấc. Hoặc có lẽ, do chìm vào giấc ngủ say trải dài suốt nhiều năm tháng, những con trùng khổng lồ này đã chết từ lâu.

Lúc này tôi cũng chẳng hơi đâu mà nghĩ nhiều, bèn kêu to: “Bàn Tử! Quăng đây mấy viên đạn Carbine 56 (*) cái! Để tôi yểm trợ cho anh!”

(*) Carbine 56: Nguyên văn là

五六式半自

动步枪

  (súng trường bán tự động 56), là loại súng do Trung Quốc nhái lại từ khẩu

SKS bán tự động

của Liên Xô, vì thế hình dáng bên ngoài tương đối giống nhau, cách sử dụng cũng tương tự. Trong những chương trước mình vẫn để là K56, gần đây mới phát hiện ra

K56

là loại súng khác, cũng của Trung Quốc nhưng mô phỏng theo AK47, để tránh nhầm lẫn từ giờ sẽ đổi hết lại là Carbine 56.

Súng của Bàn Tử là loại Carbine 56 nên trên người cũng giắt toàn đạn 56. Khi leo lên, cần giảm trọng, cho nên mới không mang theo súng, giờ đành phải dùng khẩu M16 của Kirk. Nhưng M16 đạn không còn nhiều, nếu xài hết mà hắn vẫn còn ở trên đó thì xong đời, phải xuống đến mặt đất thì may ra mới có đường sống.

Bàn Tử nghe tiếng tôi gọi, lập tức một tay giữ súng, một tay tháo mấy băng đạn ném cho tôi. Tôi bắt được một băng, còn mấy băng khác thì khỏi cần, nhanh chóng thay đạn rồi giương súng lên bắn. Dưới sự yểm trợ của tôi, Bàn Tử điên cuồng leo xuống theo sợi xích, leo đến nơi hắn đã trèo lên lúc trước rồi trượt xuống nhanh như chớp, ngoắc tôi ra ý mau chạy.

Tôi quay đầu tìm A Ninh thì không thấy người đâu nữa, chẳng biết đã chạy thoát hay bị bọn quái điểu quắp đi mất rồi, lòng thầm than tuyệt sắc giai nhân hà tất phải cố chấp như vậy. Lại ngó lên bệ quan tài, chỉ thấy nắp quan tài đã bị gạt sang một bên, một cái xác đàn ông đen sì bật dậy, đứng thẳng lên, mặc trên người bộ giáp trụ của tộc Nữ Chân đã mục rữa, bợt màu. Điều khiến tôi thất kinh chính là, cái xác đàn ông ấy thế mà lại xòe ra những mười hai cánh tay, xếp thành vòng tròn phía sau lưng, hơn thế nữa, mười hai cánh tay ấy đều đang vặn vẹo múa may, trông như phật Quan Âm nghìn tay thường thấy trong miếu thờ vậy.

Tôi lập tức nhớ đến thi thể có mười hai cánh tay bị hóa sáp trong ngôi mộ dưới đáy biển, liền không khỏi kinh ngạc, lẽ nào hoàng tộc Đông Hạ không phải người? Phải chăng cái xác đàn ông mười hai cánh tay này chính là Vạn Nô vương?

Bàn Tử vừa bắn tỉa, đẩy lùi lũ quái điểu đang bổ nhào xuống, vừa chạy đến kéo tôi, gào lớn: “Cậu còn đứng ngây ra đó làm gì?”

Tôi không đáp lại câu hỏi của Bàn Tử, chỉ nói: “Anh xem… Thằng cha kia muốn làm gì?”

Chỉ thấy cái xác Quan Âm kia đang múa máy mười hai cánh tay, không thèm đếm xỉa gì đến tôi, chỉ chăm chăm nhảy xuống đài đá, đi thẳng về phía cánh cửa Thanh đồng khổng lồ.

Bàn Tử kinh ngạc nói: “Không lẽ nó muốn chui vào cánh cửa kia?”

Bất chợt, tôi nhớ đến câu cuối cùng trong long ngư mật văn của Uông Tàng Hải: Nếu mở cánh cửa khổng lồ trong lòng đất không đúng lúc, ắt sẽ bị trời phạt, nghiệp hỏa dưới địa ngục sẽ tuôn trào qua cánh cửa đó mà thiêu đốt cả bầu trời.

Lúc ấy chúng tôi đã cho rằng tai họa được nhắc đến trong lời tiên tri này là phán đoán của Uông Tàng Hải sau khi ông ta tiến vào cánh cửa khổng lồ kia và nhìn thấy tình hình bên trong ngọn núi lửa. Tuy nhiên, cũng có khả năng người thiết kế nên cánh cửa Thanh đồng này, vì  để đề phòng bí mật bên trong bị phát hiện, nên đã bố trí một cạm bẫy gì đó có uy lực vô cùng khủng khiếp.

Bấy giờ, chúng tôi đang đứng ngay trước cánh cửa Thanh đồng khổng lồ, nếu như có bất kỳ cơ quan cạm bẫy nào, chúng tôi chắc chắn sẽ hứng đủ, trở thành những vật hi sinh đầu tiên. Cho nên, kệ xác lời tiên tri đó là thật hay giả, chúng tôi nhất định phải ngăn cản con bánh tông dị tật này mới được.

Tôi đuổi theo cái xác Quan Âm nghìn tay, bắn liên tục mấy phát đạn, nhưng đạn găm vào cái xác cứ như bắn vào cao su, không xuyên thủng cũng không phát nổ, cứ như muối bỏ bể, mà điên nhất là nó chẳng thèm phản ứng lại chúng tôi mới cay. Tôi quay ra gọi Bàn Tử: “Thuốc nổ!”

Bấy giờ Bàn Tử mới nhớ ra trên lưng mình còn mấy cái ngòi nổ chuẩn bị sẵn để uy hiếp đám A Ninh, bèn lao lên phía trước, nhảy phắt lên lưng cái xác Quan Âm nghìn tay, nhét mìn vào mồm cái xác như nhét móng lừa đen rồi lại nhảy phắt xuống.

Tôi nheo mắt giơ súng lia một tràng, chẳng biết viên đạn nào đã bắn trúng kíp mìn, nổ đùng đùng, từ đầu đến vai cái xác Quan Âm nghìn tay bị phá be bét. Chúng tôi bị sóng xung kích hất văng xuống mặt đất, những mảnh vụn và luồng khí áp cao quật thẳng vào mặt, lồng ngực tưng tức, hai tai ù cả đi.

Lũ quái điểu lượn lờ bên trên bị luồng sóng âm mãnh liệt kích thích, nháy mắt đã trở nên điên cuồng. Tôi vội vã đứng lên, thấy cái xác Quan Âm nghìn tay đã té nhào trên mặt đất thì không khỏi mừng rỡ, quả nhiên thuốc nổ là vô địch.

Không ngờ Bàn Tử lại tỏ ra vô cùng hoảng hốt, gọi tôi thật to. Nhưng tôi chẳng nghe ra câu gì cả, chỉ thấy cái miệng hắn cứ mấp máy liên tục, mất một lúc lâu tôi mới nghe thủng, thì ra câu đó là: “Chạy mau!! Pháo sáng sắp tắt rồi!”

Nhưng còn chưa kịp chạy, ánh sáng trên đỉnh đầu bỗng dưng vụt tắt chỉ trong vài giây đồng hồ. Bóng tối đặc quánh như sương mù nhanh chóng bao phủ khắp không gian, nguồn sáng duy nhất còn sót lại là chiếc đèn pin trong tay chúng tôi.

Trong phút chốc bốn bề rơi vào tĩnh lặng, đến cả tiếng súng của những người đang trốn vào sâu trong đáy khe kia cũng im bặt tự bao giờ, chỉ còn lại tiếng thở dốc và tiếng tim đập thình thịch như sấm rền của chúng tôi.

Tôi với Bàn Tử đứng lưng tựa lưng. Tôi vừa cởi băng vải trên tay ra, để lộ vết thương vẫn còn chảy máu đầm đìa, vừa thầm cầu khấn cho máu tôi có tác dụng với bọn này. Chẳng phải cái lão giáo sư kia đã nói rồi sao, máu kỳ lân có tác dụng đối với bất kì loài vật ăn xác chết nào, cơ mà tôi cũng không biết bọn quái điểu này ăn cái gì nữa. Bàn Tử giương súng, lên đạn “cạch” một tiếng rồi nhìn giời, hỏi tôi, thế giờ tính sao. Tôi đáp, ông hỏi tôi thì tôi biết hỏi ai đây.

Lời còn chưa dứt, đột nhiên một con quái điểu hạ cánh lao vút xuống, đậu ngay trước mặt chúng tôi, cách chừng mười mét. Con quái điểu này to vật vã, đứng thẳng lên còn cao hơn đầu tôi. Sau khi hạ cánh, con chim xấu xí lúc lắc đầu mấy cái rồi nhìn chúng tôi chằm chặp, tựa như đang thăm dò hai người bọn tôi vậy. Tôi loáng thoáng thấy mấy cái răng trong mồm nó sáng lòe lòe, liền giơ tay lên, trưng vết thương ra trước mặt nó. Nhưng con quái điểu kia chẳng thèm đếm xỉa đến tôi, ngược lại vẫn lạnh lùng đứng nguyên tại chỗ.

Kế đó lại có hai con quái điểu sà xuống, một đứng bên trái, một đứng sau lưng chúng tôi. Tôi huơ huơ vết thương loạn xạ trước mặt chúng, chẳng biết tụi nó có ý đồ gì.

*khổ thân bạn Tà, âm mưu rạch tay ăn vạ đã thất bại thảm hại =)))*

Dần dà bọn quái điểu đáp xuống ngày một nhiều, con nọ nối đuôi con kia, chẳng mấy chốc xung quanh chúng tôi đã lố nhố cả đống chim chóc, có điều mấy con chim này lại chẳng cựa quậy gì, cứ đứng dàn quân đông nghìn nghịt. Tôi bắt đầu cảm thấy không ổn, mấy con chim này hình như không coi máu tôi ra cái đinh gì hết, nhưng cũng không tấn công ngay, hình như chúng có âm mưu gì đó.

——————————————————————————-

* Dự báo kì sau: Màn NP đẫm máu giữa người và… khỉ =)))))

Chương

53: Bao vây và tấn công

Editor: Earl Panda

Beta: Thanh Du

~0O0~

Vô số con quái điểu mặt người nom như tượng điêu khắc vây quanh chúng tôi, lẳng lặng hạ cánh rồi cũng đứng im tại chỗ không hề phát ra tiếng động. Tôi tự dưng nhớ đến mấy cái tượng quỷ bằng đá trong phim kinh dị nước ngoài, loại yêu quái này, ban ngày làm tượng đá, ban đêm hóa thành động vật, không lẽ nguyên mẫu chính là từ lũ chim này sao? Hơn nữa, nhìn vào ánh mắt bọn chim này thì hình như chúng cũng có trí khôn, chúng bao vây bọn tôi lại, phải chăng là vì mục đích quái quỷ nào đó?

Linh cảm của tôi chẳng mấy chốc đã ứng nghiệm. Một con quái điểu bỗng dưng bay vọt qua đầu chúng tôi, rồi thả một vật gì đó rơi bịch xuống đất ngay trước mắt cả hai, máu tươi văng tung tóe. Tôi nhìn kĩ, không ngờ đó chính là Diệp Thành, cổ hắn ta bị cắn đứt, đang ho khan khùng khục không ngừng, nhưng đồng tử đã giãn, hết cứu.

Kế tiếp lại thêm một cái xác nữa bị ném xuống. Chẳng biết là ai, xác không có đầu, toàn thân đẫm máu.

Sau khi tách khỏi chúng tôi, Trần Bì A Tứ chạy thẳng vào hoàng lăng, hiển nhiên bọn họ cũng bị lũ quái điểu này tập kích. Chắc hẳn Diệp Thành đã bị bọn chim khổng lồ này bắt được khi ở trung tâm hoàng lăng. Không có ám hiệu của chú Ba dẫn đường, những người này cứ thế rơi vào kết cục thê thảm như vậy, đến mức tôi cũng không tài nào tưởng tượng nổi.

Tôi tưởng rằng Trần Bì A Tứ cũng chẳng thể may mắn thoát khỏi số kiếp, nhưng mấy cái xác bị ném xuống sau đó đều là cấp dưới của A Ninh. Có thể thấy vừa rồi không phải ai cũng chạy thoát được hết, may mà không thấy thi thể nào là của chú Ba hay Phan Tử, tôi cũng an tâm hơn một chút.

Bàn Tử bấy giờ mới biết sợ, liền hỏi tôi: “Mấy con chim đó muốn bắt sống chúng ta làm gì vậy trời?”

Tôi đáp: “Hình như là muốn gom con mồi vào một chỗ, tôi không phải chuyên gia trong lĩnh vực này, cũng chẳng rõ nữa. Anh còn thuốc nổ không? Có khi tụi mình phải học tập tấm gương đồng chí Đổng Tồn Thụy rồi.”

Bàn Tử lắc đầu: “Đã đem nổ banh xác Vạn Nô vương cả rồi, cậu đâu có dặn phải để lại một ít dự phòng.”

Tôi nghĩ bụng, phiền phức to rồi đây, tôi tính ngược tính xuôi cũng không tính ra được Ngô Tà này lại chết như thế. Bốn phía cơ man là chim, một cái khe mà lách cũng chả có, cơ hội đào tẩu cũng không, chẳng lẽ thật sự phải chết ở đây rồi dăm ba bữa nữa biến thành mấy bãi phân chim nhoen nhoét sao?

Lòng đang nóng như lửa đốt, Bàn Tử chợt kéo tôi lùi về phía sau: “Hai mặt giáp địch thế này rất bất lợi, ở đây có cái khe đá, chúng ta trốn vào đó, mỗi người chặn một đầu, có chết cũng không thể để mấy con chim khốn kiếp này

đắc lợi

.”

Tôi quay đầu nhìn lại, thì ra giữa hai khối đá núi khổng lồ dưới đáy cốc có một cái khe hở đủ rộng cho một người chui lọt, hai bên đều thông. Chui vào đó thì cử động hơi bất tiện, nhưng lại là nơi lý tưởng để phòng thủ.

Chết ngay tức khắc hay chống cự một hồi rồi mới chết,

cái sau đương nhiên có lợi hơn. Chúng tôi lập tức tháo băng đạn trên người mấy cái xác ra, rồi lẩn nhanh như trạch vào khe đá. Không gian bên trong rất hẹp, tôi còn có thể cựa quậy chút xíu chứ Bàn Tử có vẻ rất miễn cưỡng, xem ra mấy con chim đó muốn vào cũng không nổi.

Bàn Tử từng trải qua vài bận tính mệnh như chỉ mành treo chuông

, nên lúc này bình tĩnh hơn tôi rất nhiều. Hắn vừa chui vào khe hở đã mau chóng chất mấy tảng đá chặn ở cửa vào để che chắn, rồi quay ra nói với tôi: “Chúng chỉ có thể vào từng con một, cứ giết vài con là đám còn lại cũng phải chờn, chúng ta có thể cầm cự được lâu lâu một chút.”

Tôi thầm cười khổ, đạn chúng tôi chẳng còn nhiều, vả lại, cũng không có thời gian để thay, nếu dùng hết số đạn trong băng thì coi như tiêu. Chẳng qua giờ còn chưa đến lúc ngắc ngoải, cho nên vẫn còn trông chờ một tia may mắn.

Đang miên man suy nghĩ, bỗng tôi nghe thấy đám chim bên ngoài rít lên ầm ĩ.

T

Nhìn qua khe hở, tôi thấy con quái điểu đứng đầu đột nhiên há to miệng

, lộ ra cái mồm lởm chởm răng nanh. Sau đó, từ trong khoang miệng, bỗng nôn ra một sinh vật trông giống như loài khỉ Macaca. Sinh vật này vô cùng nhanh nhẹn, thoắt cái đã nhảy xuống mặt đất, trước tiên, nó cẩn thận thăm dò xung quanh một vòng, sau đó lao vào đống xác chết bắt đầu cắn xé. Tôi nhìn kỹ, phát hiện con khỉ này không có da, toàn thân đều là máu, trông cứ như một bộ phận trên cơ thể con quái điểu kia vậy.

Kế đến, những con quái điểu khác cũng bắt đầu  nôn thốc ra cái thứ sinh vật này. Vô số con “khỉ trong miệng” chồm ra từ đám chim, lao vào đống xác chết, dường như không phân chi giai cấp gì hết, cứ thế mà xâu xé, cắn nuốt. Trong khoảnh khắc, máu và thịt vụn tung tóe khắp nơi, trong lúc tranh giành thức ăn thỉnh thoảng chúng còn xảy ra tranh chấp.

Tôi với Bàn Tử mặt nhăn mày nhó, mấy lần suýt mửa ra đầy đất, cứ tưởng tượng lát nữa hai đứa cũng rơi vào kết cục này là chịu không nổi.

Đám “khỉ trong miệng” đông như kiến cỏ, chẳng mấy chốc, đống xác chết đã bị ăn sống nuốt tươi cho bằng sạch, trong không khí phảng phất mùi máu tanh nồng đến không thể chịu nổi. Bàn Tử hai mắt đỏ ngầu, biết là sau đó sẽ đến lượt hai đứa chúng tôi lên thớt, bèn làm một hớp rượu đế, nói:

“Mẹ kiếp, muốn ăn thịt Bàn gia ta à,

còn phải xem răng chúng mày đủ sắc không đã.”

Tôi bất giác run rẩy, bèn lấy luôn bầu rượu của hắn, tu ừng ực một lèo hết quá nửa, tức thì cổ họng nóng rẫy như có lửa thiêu. Rượu đúng là thứ tốt,

đàn ông có rượu vào cảm giác khác hẳn lúc bình thường.

Lũ “khỉ trong miệng” bên ngoài vẫn còn lùng sục trong đống xương, đột nhiên, có một con phát hiện ra chúng tôi trong khe đá. Nó rít lên một tiếng chói tai quái đản, tức thì mấy con “khỉ” khác cũng hiếu kỳ bu lại, thi nhau thò đầu vào ngó bọn tôi.

Lúc này tôi mới nhìn rõ, hóa ra bọn “khỉ” này không có môi, thảo nào hàm răng lại sắc bén, dữ tợn lạ thường như vậy. Quái đản nhất là, trên cổ đám “khỉ trong miệng” này, con nào con nấy đều đeo một cái chuông đồng lục giác, có cái vẫn nguyên vẹn, có cái chỉ còn một nửa. Những cái chuông này lúc lắc theo từng hành động của lũ “khỉ”, nhưng lại không hề phát ra bất cứ tiếng động nào.

Lúc ấy tôi sợ hết hồn, còn tâm trí đâu mà đi suy xét mấy thứ đó có ý nghĩa gì. Tuy nhiên sau này nhớ lại, mấy cái chuông thanh đồng hiển nhiên có liên quan mật thiết đến toàn bộ bí ẩn, nhưng hình như chúng lại không thuộc cùng một nền văn hóa.

Lũ “khỉ trong miệng” mới đầu còn rất dè dặt, xúm lại quanh cửa vào khe đá thật lâu. Bàn Tử và tôi không ai dám thở mạnh, chỉ ghìm súng chờ chúng xông vào. Một lúc sau, có mấy con hình như không kìm được nữa, đột ngột leo ngược lên đỉnh khe đá, treo mình lơ lửng, thoắt cái đã chui vào trong khe, bổ nhào về phía Bàn Tử với vẻ thăm dò.

Bàn Tử không kịp đề phòng, đến khi đầu con khỉ kia gần như dán vào nòng súng hắn mới bóp cò. Viên đạn bay ngang, đồng thời xác con khỉ cũng bắn ra ngoài, văng vào giữa đống thi thể. Tiếp đó hắn nã súng xối xả, đường đạn quét ngang, đám khỉ kinh hoảng rú rít điên cuồng, có mấy con bị bắn cho máu thịt bầy nhầy.

Tức thì cả đàn khỉ đều ngó đăm đăm vào hai đứa chúng tôi, tình hình bắt đầu

mất kiểm soát. Con “khỉ trong miệng” đầu đàn rít lên một tiếng xé tai, cả đàn bắt đầu thi nhau bổ nhào vào khe đá. Tôi nuốt nước miếng đánh ực một cái, biết rằng, cơn ác mộng sắp tới rồi.

Không đợi tôi cầu thần vái phật, mấy con khỉ đã lao vào trong khe nhanh như chớp, treo mình trên đỉnh khe mà ngoạc cái mồm to tướng về phía tôi. Khẩu Carbine 56 quá dài, không dùng báng súng đánh được, tôi đành nhảy lên tung cước đạp nó ra ngoài, sau lại dùng súng bắn chết một con khác bằng hai phát đạn. Máu văng tung tóe, bắn vào cả mặt tôi. Lại một con nữa điên cuồng vọt tới, tôi chẳng kịp chuẩn bị tâm lý để mà bắn từng phát đạn một, bèn cứ thế cầm súng mà rải đạn ầm ầm.

Trong suốt năm, sáu phút ấy, tôi cũng không còn biết mình đang làm gì nữa,  chỉ thấy từng con khỉ dữ tợn nhảy vọt vào rồi bị tôi bắn văng ra, nơi nơi toàn là máu tươi tung tóe. Bọn khỉ cứ như phát điên phát rồ, chẳng hề sợ hãi, thỉnh thoảng còn có mấy con chen chúc

nhau chui vào khe, thế là kẹt cứng lại,  cuối cùng bị tôi dốc sức đá văng ra ngoài. Thế nhưng, bọn khỉ ùa vào càng ngày càng nhiều như nước triều ùn ùn mà dâng. 

Đạn lia qua một đường, tức thì cứa đứt đôi cơ thể, nhưng chỉ cần phần còn lại cử động được thì

nó vẫn đâm đầu vào trong khe, quả là vô cùng hung hãn!

Chẳng mấy chốc mà hết đạn. Tôi vốn tưởng rằng, với số đạn này thì kiên trì cầm cự trong một tiếng đồng hồ là chuyện đơn giản, ai ngờ vào thực chiến rồi anh sẽ không thể kiểm soát nổi lượng đạn tiêu hao. Tôi còn rất nhiều băng đạn dự trữ, nhưng nếu bọn khỉ này cứ không ngừng tấn công thì chúng tôi cũng chẳng có thời gian mà thay đạn.

Khẩu M16 của Bàn Tử hết đạn đầu tiên. Hắn đã bắn giết đến đỏ hai mắt rồi, bèn chửi bậy một tiếng rồi vứt súng đi, rút thanh mã tấu tính nhảy ra ngoài oánh giáp lá cà một mẻ. Thế nhưng, địch không cho hắn cơ hội này, trong nháy mắt, năm, sáu con khỉ đã nhảy chồm lên người hắn, há mồm ra cạp. Bàn Tử đau đớn gào tướng lên, tóm lấy hai con quật chết tươi, nhưng lại bị bốn con khác bổ nhào vào mặt.

Ngay sau đó, khẩu Carbine 56 của tôi cũng hết đạn, tay bóp cò nghe “cạch cạch” “rắc rắc” vài tiếng. Cả người chợt lạnh toát, kế đến, trong chớp mắt, vài luồng ánh sáng đỏ tươi xẹt đến trước mặt tôi, tôi không kịp rút dao, bả vai và đùi trong lập tức dính chưởng. Tôi vô thức giơ cánh tay bị thương lên dọa nó, thế nhưng chẳng có chút xíu tác dụng nào cả. Trong lúc giãy dụa vật lộn, đầu tôi chỉ còn lại một suy nghĩ duy nhất: Ngô Tà tôi đây và Vương Bàn Tử, chỉ e hôm nay không thể thoát ra khỏi cái hang trong lòng núi Trường Bạch này được nữa. Cao số như chúng tôi, không ngờ cũng có ngày phải bỏ mạng.

Chương

54: Khoảng cách giữa trời và đất

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~0O0~

Vô số con “khỉ trong miệng” lao bổ vào người tôi mà cắn xé điên cuồng. Tôi giãy dụa kịch liệt, quyết không buông xuôi cho đến hơi thở cuối cùng, nhưng thật ra trong lòng đã sớm tuyệt vọng, trong tình thế này cho dù có ông Bụt xuất hiện cũng không cứu nổi chúng tôi.

Đang lúc dựa vào địa hình mà chống đỡ, bốn bề đột nhiên chấn động, chúng tôi đều bị đẩy ngã. Bất ngờ lũ khỉ bám trên người tôi đều ngẩn tò te, trong nháy mắt cả đám đồng loạt nhảy xuống, liều mạng chạy trốn ra khỏi miệng khe.

*Tam Thúc nuôi nhiều khỉ nhờ, đa dạng ghê luôn, khỉ lớn khỉ nhỏ khỉ biển khỉ núi, phần 2 có khỉ, phần 3 có khỉ, và bây giờ cũng khỉ :v*

Tôi quay sang Bàn Tử thì thấy cảnh tượng bên đó cũng y như vậy, cả đám “khỉ trong miệng” rút khỏi khe hở trong chớp mắt như có ma đuổi.

Bàn Tử bị thương khắp người, cũng chẳng hiểu mô tê gì. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, hắn làu bàu: “Sao thế nhỉ, mỡ đến miệng mèo mèo còn chê? Chẳng lẽ nó chê thịt ông quá ngấy?”

Lũ “khỉ trong miệng” vẫn chưa hết hỗn loạn, đám khỉ nhung nhúc bên ngoài khe hở không ngừng chui lại vào miệng mấy con chim đầu người khổng lồ. Đám quái điểu bắt đầu rục rịch di chuyển, ào ào bay lên rồi nhanh chóng mất hút, cứ như nhận được mệnh lệnh nào đó hoặc là gặp phải thiên địch đáng sợ nên mới điên cuồng trốn chạy.

Tôi đưa khẩu Carbine 56 cho Bàn Tử để hắn nạp đạn, sau đó cẩn thận nhích người ra miệng hang, không dám chui hẳn ra ngoài mà chỉ ló đầu quan sát. Vừa nhìn đã ngớ người, lũ quái điểu đầu người nối đuôi nhau bay lên trời, nhoáng một cái xung quanh đã chẳng còn mống nào. Bốn bề chìm vào tĩnh lặng, chỉ còn lại hai người chúng tôi.

Con mẹ nó, thế này cũng quái đản quá đi, tôi gọi Bàn Tử một tiếng, ra hiệu cho hắn chui ra. Chúng tôi quan sát một vòng xung quanh, hai đứa đều cảm thấy có phần chưng hửng với cái lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc này. Trong lòng thầm nhủ, ông trời hỡi, dù ông thật sự không nỡ nhìn con chết thì cũng phải cho con cái lý do nào đó nghe lọt tai một chút chứ.

Tôi tự hỏi: “Rốt cuộc bọn chúng sợ cái gì vậy? Loài quái vật này không lẽ cũng có thiên địch sao?”, lời còn chưa dứt, Bàn Tử đã vỗ vai tôi, nói mình vừa nhìn thấy thứ gì đó.

Tôi nhìn theo hướng đó, chỉ thấy tấm da người niêm phong trên cánh cửa Thanh đồng khổng lồ kia không biết đã rách toạc ra từ đời nào. Hai cánh cửa Thanh đồng cực lớn hơi hé ra, chính giữa xuất hiện một khe hở nhỏ xíu đen ngòm.

Tim tôi tưởng như nhảy vọt ra khỏi cổ họng, toàn thân ướt đẫm mồ hôi. Cánh cửa khổng lồ như thế lại tự mình mở ra, cơn chấn động ban nãy nhất định là hiệu ứng khi cửa mở. Là ai đã đứng trong đó, mở ra cánh cửa nặng nề này?

Theo lời tự thuật của Uông Tàng Hải, cánh cửa khổng lồ dưới lòng đất được miêu tả như thông đạo để quỷ thần lui tới giữa địa ngục và cõi tiên, bên trong ẩn chứa ác niệm ngàn đời, nói chung không phải thứ tốt đẹp gì. Hôm nay địa môn lại mở ra, chẳng lẽ quỷ thần dưới địa ngục chuẩn bị dắt chó đi dạo bên ngoài?

*đề nghị đồng chí Tà ngừng ngay công cuộc biến truyện kinh dị thành truyện hài nhóe =))))))))*

Cảnh tượng này hoàn toàn nằm ngoài dự liệu, trong nháy mắt đầu óc tối xoay vòng cả chục lần, là yêu quái hay bánh tông? Bỏ chạy hay cứ nhìn cho kĩ rồi tính? Mà nếu chạy thì chạy đi đằng nào?

Mạch suy nghĩ của tôi lúc này lại hết sức rõ ràng, chính bản thân tôi cũng phải khâm phục sự bình tĩnh bản thân trong hoàn cảnh bị giày vò tan nát này.

Có điều sau khi cửa mở lại không có thêm bất cứ động tĩnh gì, không thấy nó mở rộng hơn, càng không thấy có thứ gì chui ra. Đứng ngẩn ra một lúc lâu, Bàn Tử hỏi tôi: “Có muốn qua đó xem thử không?”

Nhưng lỡ như vào rồi mà nó đóng lại, cánh cửa Thanh đồng bự cỡ này cho dù có cả ngàn người hợp sức cũng không cách nào đẩy ra nổi, chúng tôi chắc chắn sẽ bị nhốt trong đó đến chết, bấy giờ dù biết bí mật thì cũng có mài ra ăn được đâu?

Đây thực ra chính là lựa chọn giữa hai phương án, hoặc an toàn rời khỏi đây, hoặc mạo hiểm đi tìm câu trả lời.

Đắn đo một hồi, cuối cùng tôi vẫn không thể kiềm chế nỗi tò mò muốn khám phá cái bí mật đã giày vò mình cả năm trời, tôi nhất định phải vào đó xem rốt cuộc ma cảnh mà Uông Tàng Hải nhìn thấy năm đó trông như thế nào? Đằng sau cái bí mật kéo dài cả ngàn năm, liên lụy đến ba đời nhà tôi, là thế lực thần bí nào?

Tôi nhìn sang Bàn Tử, hắn cũng nghĩ y như tôi.

Hắn đưa khẩu Carbine 56 cho tôi, còn mình thì nhặt khẩu M16 rồi lục lấy mấy băng đạn từ đám thi thể trên mặt đất, sau đó lau máu trên mặt, ra hiệu cho tôi đi cùng.

Cánh cửa kia quá lớn, khe hở nhìn xa thì thấy nhỏ xíu, đến gần mới biết nó đủ rộng để lái cả chiếc xe tải vào. Muốn cánh cửa nặng hàng vạn tấn di chuyển một khoảng bằng chừng này, phải dùng đến một sức mạnh không thể nào đong đếm được.

Tôi cố đè nén cảm giác phấn khởi trong lòng, đi đến trước cảnh cửa khổng lồ. Mũi ngửi thấy một mùi hương lạ lùng bay ra từ bên trong khe hở, tim bỗng dưng đập loạn, nỗi căng thẳng hòa lẫn với bất an ngày càng trở nên rõ ràng, hai tay túa mồ hôi lạnh, ngay cả chân cũng muốn nhũn ra.

Bàn Tử thử chiếu đèn pin, ánh sáng vừa lọt vào bên trong cánh cửa đã hoàn toàn biến mất, chẳng thấy được gì. Uông Tàng Hải từng nói, năm đó khi người Đông Hạ đưa ông ta tới nơi này, đoạn đường đầu tiên ngay sau khi bước qua cánh cửa là một khoảng hư vô, phải dùng đến một dụng cụ chiếu sáng kỳ lạ gọi là “Chân thực chi hỏa” – mà chúng tôi đoán nó chính là nến bằng sừng tê – mới nhìn thấy cảnh tượng bên trong.

Nghĩ đến đây tôi không khỏi sửng sốt, thầm nhủ thôi hỏng rồi. Chúng tôi chẳng mang theo vật gì tương tự, dù có đi vào bên trong cũng chỉ nhìn thấy một khoảng không tăm tối, liệu có thể vượt qua không gian hư vô kia mà tiến vào ma cảnh hay không?

Bàn Tử thì không nghĩ nhiều đến vậy, thấy tôi đứng ngẩn ra lại tưởng tôi sợ hãi, bèn hỏi: “Có đi nữa không đây?”

Tôi đang định trả lời, chợt nhìn thấy trong bóng tối đằng sau khe hở giữa hai cánh cửa Thanh đồng khổng lồ lóe lên vài ánh đuốc, tựa như có thứ gì đang đi tới. Vừa định kéo Bàn Tử lại xem thì hắn đã kéo tôi trước, tôi quay đầu lại, chỉ thấy mấy kẽ đá dưới chân không biết từ bao giờ đã tản ra một làn sương màu lam nhàn nhạt, nhanh chóng vẩn lên như mây mù.

———————————————————–

Lời ngỏ: Hôm qua có người chê bản beta của phần 4 là buồn ngủ, mình có phần sốc vì xưa nay vẫn luôn tự tin với bản beta của mình, đây là lần đầu tiên nghe ý kiến trái chiều. Ý kiến cá nhân khó tránh khỏi chủ quan, người ta cũng không thể tự nhìn ra vấn đề của bản thân mình, nên mình muốn mở một cuộc thăm dò nhỏ để lấy ý kiến của tất cả mọi người về những điểm còn thiếu sót trong phần này. Phần 4 cũng sắp kết thúc, muốn rút kinh nghiệm thì không còn kịp nữa, nhưng mình có thể dùng những lời nhận xét của các bạn để chỉnh sửa lại nó cho hoàn thiện, mong các bạn góp ý nhiệt tình ~

Cụ thể mình muốn hỏi về những vấn đề sau:

- Nhận xét về cách diễn đạt, cụ thể là có gây cảm giác nhàm chán hoặc không đủ nghiêm túc? Có mắc những lỗi diễn đạt như lủng củng, lặp từ, câu thiếu thành phần hoặc đọc lên nghe trúc trắc không thuận tai hay không?

- Nhận xét về cách dùng từ, có “sáng tạo” quá đà, làm bạn cảm thấy khó khăn khi đọc hiểu hoặc đơn giản là nghe không quen tai? Có từ nào giữ nguyên phiên âm tiếng Hán một cách không cần thiết hoặc thuần Việt không hợp lý?

- Ngôi xưng (cả ngôi thứ 2 dùng khi đối thoại lẫn ngôi thứ 3 dùng trong mạch suy nghĩ của Tà) đã phù hợp chưa? Nếu chưa thì bạn muốn sửa ngôi xưng của nhân vật nào và sửa như thế nào?

- Lời thoại có thể hiện đúng tính cách nhân vật theo cảm nhận của bạn không?

- Chú thích đã đầy đủ và dễ hiểu chưa? Chú thích nên đặt giữa bài hay đặt ở cuối chương? (hiện giờ mình áp dụng cả hai cách, chú thích có hình ảnh đặt cuối chương, chỉ có chữ thì đặt giữa bài)

- Những câu chen ngang của editor/beta có làm gián đoạn mạch truyện?

- Giữa các chương có sự chênh lệch lớn về văn phong do khác editor hay không?

- Nếu đã đọc trước bản tiếng Trung hoặc bản QT, bạn có phát hiện ra chỗ nào dịch chưa chính xác (do hiểu sai nghĩa của từ, hoặc do phân tích sai cấu trúc câu) không?

- Cảm tưởng chung của bạn về văn phong của phần 4, so sánh với những phần trước.

Với mỗi nhận xét, mình mong có ví dụ cụ thể cho dễ hình dung. Confess giấu tên, bạn có thể thoải mái bày tỏ suy nghĩ của mình, không việc gì phải ngần ngại ~ Hãy hãy ném đi ném đi đừng ngại ngần chi ~

https://docs.google.com/forms/d/1E_tW3CIgZiavEwIZ9AUXUbe-GKlcwU2TLYQVj3XWuAY/viewform

P/S: Chương sau có hint ~~~ 1 phân đoạn kinh điển luôn…

Chương

55: Bí ẩn không lời giải

Editor: Dứa

Beta: Thanh Du

~0O0~

Chúng tôi lui lại vài bước, phát hiện từ những khe hở của vách đá chung quanh nhanh chóng tản ra một làn sương màu lam nhạt với tốc độ kinh người. Chẳng mấy chốc, trước mắt chúng tôi chỉ còn lại một màu xanh nhờ nhờ, bên dưới sương đã ngập đến gối và không ngừng dâng lên, ánh sáng từ đèn pin đã trở thành vô dụng.

Ngay sau đó, chúng tôi nghe tiếng tù và sừng hươu văng vẳng truyền tới từ đầu kia khe núi, âm thanh du dương không gì sánh nổi, vang vọng trong lòng khe mãi không tan. Vô số bóng đen âm u tụ lại thành một hàng dài theo tiếng tù và sừng hươu, thoắt ẩn thoắt hiện giữa màn sương nơi đáy cốc.

Tôi chẳng còn thời gian mà phản ứng, nơi đây vốn chẳng còn lại ai, người thì chết, người đã chạy trốn cả, sao bỗng dưng lại xuất hiện ngần này người? Chẳng lẽ trong này còn có nhóm nào khác nữa? Nhưng cũng không phải… chừng này người thì quá nhiều rồi…

Bàn Tử đứng bên mặt đã cắt không còn giọt máu, tựa như đã hiểu ra đây là chuyện gì, lắp bắp mãi mới thốt ra được trọn câu: “Âm binh mượn đường!”

Âm binh? Tôi chẳng hiểu mô tê gì, toan hỏi lại thì đã bị hắn bịt kín miệng, ra dấu tuyệt đối im lặng. Chúng tôi đặt đèn pin xuống, lùi lại nấp phía sau một tảng đá lớn.

Đoàn người kia khoan thai tiến về phía chúng tôi, không nhanh cũng không chậm, tôi loáng thoáng thấy bóng người đi đầu cầm một lá cờ phiên. Đội ngũ bốn người một hàng, hành quân hết sức chỉnh tề, chẳng mấy chốc đã vượt một quãng đường xa từ đầu đằng kia của khe núi tiến tới trước mặt chúng tôi. Trong tầm chiếu của đèn pin, có thể thấy rõ sương mù không ngừng dày lên.

Tôi vừa ngước nhìn đã thấy rợn gáy, chỉ thấy những người đi đầu mặc giáp trụ cũ nát từ thời Ân – Thương, tay cầm cán cờ, phía sau có người thổi tù và. Hàng trang nặng nề là thế, nhưng những người này di chuyển nhẹ nhàng như bay, không hề gây tiếng động, tốc độ cũng rất nhanh. Nhìn đến gương mặt bọn họ, tôi suýt nữa đã cắn phải lưỡi. Đó là những gương mặt biến dạng, dài gấp đôi người thường, sắc mặt nhợt nhạt không hề biểu lộ cảm xúc.

Đội quân lướt qua trước mặt như u linh, dường như không phát hiện ra chúng tôi, chui thẳng vào khe hở giữa hai cánh cửa Thanh đồng, ngàn người như một, hệt như hình nhân bằng giấy.

Tôi và Bàn Tử chẳng dám hó hé gì, trong lòng chỉ mong cho bọn họ mau mau mà biến đi. Đúng vào lúc này, bàn tay Bàn Tử đang bịt miệng tôi bất chợt run rẩy, tôi tò mò nhìn sang, không ngờ lại thấy Muộn Du Bình cũng mặc thứ giáp trụ y hệt, đi lẫn vào đoàn quân kia. Khuôn mặt bình thường của hắn ta nổi bần bật giữa những gương mặt yêu dị xung quanh, liếc một cái là nhận ra liền.

Tôi suýt nữa đã kêu lên, không lẽ Muộn Du Bình đã chết, hồn phách bị đám âm binh này dẫn đi rồi sao?

Nhưng nhìn kĩ lại mới thấy sau lưng Muộn Du Bình vẫn mang Hắc kim cổ đao, động tác đi đứng bình thường, khác hẳn với đám âm binh bên cạnh. Tôi biết, hắn ta vẫn sống.

Nhưng hắn định làm gì? Trong đầu tôi nảy ra một ý tưởng cực kì táo bạo… không lẽ hắn muốn trà trộn vào đám âm binh này?

Tên này điên rồi! Tim tôi bắt đầu tăng nhịp, nỗi sợ hãi bấy lâu lại ùa về, hơi thở dần dần trở nên gấp gáp. Tôi định chạy ra ngăn cản hắn, nhưng bị Bàn Tử giữ rịt lại không cho nhúc nhích.

Tôi thấy Muộn Du Bình cũng chú ý đến chúng tôi. Hắn ta quay đầu sang, nhìn vào tôi và Bàn Tử, bỗng dưng nở một nụ cười ý vị sâu xa, bờ môi mấp máy, nói vẻn vẹn mấy chữ: “Hẹn gặp lại.”

Rồi hắn bước vào cánh cửa Thanh đồng, hoàn toàn mất hút trong bóng đêm. Tôi chết lặng nhìn theo, đầu ong ong như muốn nổ tung.

*Lắc lư theo nhạc Thiên chân* Còn nhớ anh đã cười, nhìn anh tan biến trong biển vong linh. Trước cửa Thanh đồng, ánh nến đã tàn, phải chăng đây chính là chung cực?

Cả đội âm binh nhanh chóng tiến vào bên trong cửa Thanh đồng, sau đó mặt đất đột ngột rung chuyển dữ dội, hai cánh cửa đồ sộ khép thành một khối nguyên vẹn chỉ trong nháy mắt.

Tôi ngã ngồi xuống đất, cảm giác bải hoải rã rời lan ra khắp tứ chi. Thế này là sao? Muộn Du Bình, rốt cuộc hắn ta muốn làm gì? Đội quân kia thực sự là âm binh?

Bàn Tử chạy ra nhặt đèn pin, hắn cũng kinh ngạc không kém gì tôi, cứ nhìn đăm đăm vào cánh cửa khổng lồ, tinh thần có vẻ bấn loạn.

Nhưng chúng tôi cũng chẳng có thời gian mà ngẩn người. Sương mù bốn phía dần dần tan đi, chúng tôi đã tiếng quái điểu đứt quãng vang lên nơi cuối khe, càng ngày càng đến gần.

Bàn Tử phản ứng ngay lập tức, quay sang hét lên với tôi. “Đi mau! Lũ chim kia đã trở về rồi, lần này chắc chắn chúng ta sẽ không hên như hồi nãy đâu!”

Nghe tiếng gọi của Bàn Tử, tôi tựa như bị tạt một gáo nước lạnh mà hoàn hồn, lập tức xoay người chạy theo Bàn Tử về đầu đằng kia của cái khe – hướng lúc nãy đám Phan Tử đã chạy trốn.

Nền đá dưới đáy khe mấp mô như những quả đồi nhỏ, chạy rất khó khăn, chúng tôi chưa chạy được bao xa đã nghe tiếng kêu của quái điểu áp sát. Tôi thầm cầu nguyện trong lòng, lúc nãy tiêu đời thì chẳng nói làm gì, đằng này đã thoát được một lần rồi mà sau đấy lại bỏ mạng đúng chỗ này thì thật không đáng.

Miệng vết thương của chúng tôi đã từ đau biến thành tê rần. Ai đó từng nói khi hồi hộp con người ta thường quên đi cảm giác đau, nhưng hiện giờ chân tôi đã tê liệt đến độ mất cha nó cảm giác rồi, thậm chí nghiến răng chạy cũng không được nhanh. Tôi với Bàn Tử đành phải dắt díu nhau, dốc sức chạy tới không ngừng không nghỉ, bởi một khi đã ngừng chỉ e không thể chạy tiếp được nữa.

Chúng tôi cứ thế vừa lăn vừa bò vào sâu trong khe núi. Tôi nhanh chóng mất đi ý thức, không hiểu mình đang làm gì nữa.

Vượt qua tảng đá lớn cỡ một tòa núi nhỏ, trước mặt xuất hiện ba ngã rẽ là ba cửa hang cực lớn. Tôi lơ mơ chẳng rõ, biết làm sao bây giờ? Đi đường nào? Chúng tôi cứ ngỡ khe núi chỉ có một mạch thông từ đầu đến cuối, ra ngoài là gặp được Phan Tử. Giờ chúng tôi đã cạn sạch thức ăn nước uống, cứ cho cả ba ngả này đều dẫn ra ngoài, lỡ như không gặp được Phan Tử thì cũng chỉ còn đường chết.

Lại gần ba cửa hang, chúng tôi chợt trông thấy gần một miệng hang lớn có khắc một mũi tên nguệch ngoạc xấu xí, chỉ về một hướng.

Bàn Tử chửi: “Thằng Phan Tử lười thối thây, có cái mũi tên cũng đếch biết vẽ cho đẹp hả!”

Tôi không ngờ họ còn nghĩ đến chuyện đánh dấu đường cho chúng tôi, nói: “Anh còn đòi hỏi nỗi gì, có mà dùng là may lắm rồi!” Không nói thêm gì nữa, tôi cắn răng chui vào trong hang.

Cái hang này hẹp hơn nhiều so với khe núi ngoài kia, bọn quái điểu có bay cũng chật vật hơn nhiều. Đi sâu vào  bên trong chúng tôi sẽ dễ dàng chống trả hơn, cho nên cảm thấy rất an tâm.

Lát sau, phía trước lấp ló ánh sáng đèn pin, tim tôi bỗng dưng thót lên một cái. Thầm nghĩ tính theo tốc độ của bọn họ thì giờ này phải đi được một đoạn đường rất xa mới đúng, sao ở đây lại có ánh đèn pin, không lẽ bọn họ đã gặp chuyện bất trắc rồi bỏ mạng chốn này?

Đi thêm vài bước, lại gặp ngay Phan Tử cùng mấy tay ngoại quốc lưng dắt đầy đạn chạy ngược trở về, xem ra họ muốn quay lại cứu chúng tôi. Thấy chúng tôi, Phan Tử mừng rỡ, rồi lại ngơ ngẩn hỏi: “Chỉ có hai người? Còn những người khác đi đâu cả rồi?

Tôi bảo anh đừng hỏi nữa, đây đã thê thảm lắm rồi, ta mau đi thôi, bọn quái điểu đang đuổi theo phía sau kìa.

Ở đây có thể nghe thấy tiếng kêu của bọn chúng nhưng tình hình bên trên lại không nhìn rõ lắm. Không có pháo sáng, muốn dùng đèn pin soi quái điểu là chuyện không tưởng.

Phan Tử ngoắc tay ra hiệu lập tức quay về, người cuối đoàn đốt một cây pháo lạnh, đi trước dẫn đường. Một người ngoại quốc thấy tôi bị thương quá thảm bèn cõng tôi lên, đoàn người nhanh chóng đi sâu vào trong hang.

Đã lâu không được ai cõng, tôi có phần không quen, nhưng ánh sáng từ cây pháo lạnh chiếu lên vô vàn bức bích họa trên vách đá đã nhanh chóng thu hút sự chú ý của tôi. Tiếc là thời gian gấp gáp, căn bản không cách nào nhìn cho kĩ càng.

Những tiếng kêu thê lương dần dần yếu đi, xem ra bọn quái điểu đã không còn đuổi theo nữa. Thực ra chúng tôi vừa gặp được Phan Tử là đã yên tâm hơn rất nhiều, biết ngay mình không chết nổi. Người anh mang tới đều là những tay thiện xạ trong đội của A Ninh, dù có phải đánh xáp lá cà cũng không đến nỗi yếu thế.

Nhắc đội của A Ninh là nhớ tới A Ninh, tôi hỏi Phan Tử có gặp cô ta hay không.

Phan Tử bảo yên tâm đi, người đẹp kia đã bị người ta đánh ngất xỉu cõng về rồi.

Chạy mãi chạy mãi, hang càng đi càng hẹp dần, cuối cùng chỉ có thể đi hàng một. Không khí bỗng dưng ấm áp lên hẳn, chúng tôi cũng đi thong thả hơn. Lúc này phía trước lại xuất hiện hai người, hình như làm nhiệm vụ gác đêm, thấy chúng tôi quay về đều hò reo ầm ĩ.

Tôi còn đang thắc mắc vì sao không khí nơi này lại ấm áp đến thế thì đã thấy gần chỗ Phan Tử đứng có vài lạch nước nóng. Tôi lập tức thả lỏng hoàn toàn, cảm giác bải hoải lan khắp người, gần như hôn mê bất tỉnh ngay tại chỗ.

Chương 56: Sau khi nghỉ ngơi

Editor: Long Vy Hương

Beta: Thanh Du

~0O0~

Bác sĩ trong đoàn A Ninh kiểm tra vết thương cho chúng tôi, tiêm một liều kháng viêm và vắc xin phòng bệnh lây truyền qua động vật, vết thương bị rách quá to cũng được rửa sạch và khâu lại. Mông Bàn tử bị thương nặng nhất, khiến hắn chỉ có thể nằm sấp mà ăn uống.

Chúng tôi đã sắp chết đói đến nơi rồi, mặc dù thức ăn không nhiều lắm, nhưng người dẫn đường của nhóm A Ninh nói nơi này gió nhẹ, nhất định có đường ra, không cần quá lo lắng làm gì. Chúng tôi ngốn rất nhiều thức ăn chứa đường, các bộ phận trên thân thể đã dần dần lấy lại cảm giác, chỗ đau đau hơn mà chỗ ngứa cũng ngứa hơn, cực kì khó chịu.

Chú Ba vẫn còn mê man, có điều cơn sốt đã lui. Phan Tử quấn chặt ổng trong cái túi ngủ, liên tục bón nước cho ổng.

Suối nước nóng chảy róc rách không ngừng, chúng tôi đều múc nước suối lau người. Hoàn cảnh hiện tại tuy chẳng hề dễ chịu, nhưng tôi có cảm giác thân thể được lau rửa sạch sẽ xong cứ lâng lâng như tiên.

Trong lúc đó tôi mới kể mọi chuyện mình được chứng kiến cho bọn họ nghe, không hề dấu diếm. Nghe xong ai nấy đều im lặng, không bình luận gì cả. Bọn họ đều là người nước ngoài, lần này coi như được thấy mặt quỷ dị tà ác trong thế giới huyền bí cổ xưa Trung Quốc, muốn bọn họ ý kiến ý cò cũng bằng làm khó nhau.

Một chuyên gia nghiên cứu động vật trong số đó có nói, loài quái vật bao gồm khỉ sống trong miệng quái điểu này, có thể là một loại quan hệ ký sinh có từ thời viễn cổ, gần giống với con bái (*) chuyên bám lên lưng con sói. Quái điểu có lẽ không thể tiêu hóa được thức ăn, phải nhờ “khỉ trong miệng” giúp sức, sau đó quái điểu sẽ sống bằng phân và nước tiểu của khỉ, quan hệ ký sinh này rất hay gặp ở sinh vật sống dưới biển.

(*) Bái là một loại động vật trong truyền thuyết Trung Quốc, là họ hàng gần với Sói. Bởi vì chân trước của Bái đặc biệt ngắn, cho nên khi di chuyển phải bám lên mình con Sói. Bái không có khả năng tồn tại độc lập, một khi không có Sói trợ giúp thì nó không thể hành động. Bởi vậy mới có câu, “lang bái vi gian”.

Tôi chẳng ừ hữ gì, từ khi tiến vào Vân Đỉnh thiên cung, mọi chuyện đều diễn ra quá nhanh, chúng tôi căn bản không cách nào hiểu cho rõ ràng. Giờ tôi chỉ cảm thấy mình vừa trải qua một giấc mộng, thật sự không muốn nghĩ về những vấn đề này nữa.

Nhưng theo lệ thường, tôi vẫn giao hẹn với mấy lão chuyên gia: nếu mọi người đều sống sót trở về, sau này phát hiện ra tình tiết nào mới thì có thể chia sẻ với nhau qua Email, chỉ mong từ rày về sau quan hệ giữa chúng ta sẽ không phải là cạnh tranh hơn thua.

Chúng tôi nghỉ ngơi và hồi phục tại chỗ mất nửa ngày, Phan Tử mới dẫn theo mấy người nữa đi vào trong khe dò đường, kế đó chúng tôi lại một lần nữa khởi hành, tiến sâu vào hang núi.

Theo ý kiến của chuyên gia về hang động, căn cứ vào dòng không khí lưu chuyển thì cửa hang này hẳn là thông lên mặt đất, hơn nữa đầu bên kia nhất định phải nằm đầu nguồn gió.

Lúc ấy tôi cũng chẳng tin tưởng cho lắm, nhưng mải miết đi được gần một ngày rồi, chúng tôi chợt phát hiện bốn phía trở nên quen thuộc. Khi Bàn Từ há hốc mồm chỉ vào bức bích họa hai lớp trên vách khe bị người bóc ra, tôi không nén nổi một nụ cười.

Cửa vào của khe nứt này thì ra chính là cái miệng khe bị tảng phong thạch che khuất mà khi lên núi chúng tôi đã vào để tránh cơn bão tuyết.

Tôi thậm chí còn thấy mấy thứ vật dụng sinh hoạt mình đã bỏ lại bên trong, Phan Tử thấy thế cũng gượng cười.

Nghĩ lại thì khi mới đến đây chúng tôi đã ôm biết bao nhiêu vọng tưởng xa vời, giờ thì chẳng khác nào bại binh. Cảm giác hưng phấn và huyền bí khi cả đám nhìn thấy bức bích họa hai tầng, đoán ngược đoán xuôi về bí mật bên trong Vân Đỉnh thiên cung, giờ đã biến thành cay đắng và châm chọc, không thể xua tan đi. Hơn nữa lúc ấy chúng tôi không tài nào tưởng tượng được, chỉ cần đi sâu thêm vài cây số vào cái khe này là đã tới nơi đặt Cửu Long đài thi quan. Ai mà biết chúng tôi lại đi một vòng luẩn quẩn lớn đến thế kia chứ.

Đây hẳn là bách nhục xuyên tâm rồi, cũng không biết cái nhục này là điều bất ngờ cuối cùng mà Uông Tàng Hải để lại cho chúng tôi, hay là một sự trùng hợp hết sức ngẫu nhiên mà ngay bản thân ông ta cũng không biết.

Sau đó chúng tôi nhanh chóng chui ra khỏi khe nứt. Đây là lần đầu tiên mọi người nhìn thấy ánh mặt trời sau cả tuần dài dằng dặc nên mắt ai cũng bị chói nắng, không tài nào mở ra được.

Lương thực của chúng tôi căn bản đã cạn sạch rồi, nhưng nước thì không thiếu, tinh lực kể như dồi dào, nhịn đói lê lết một ngày chắc cũng chả chết được. Cho nên khi đã xác định được tuyến đường cần đi, A Ninh thông qua điện thoại vệ tinh, gọi bác sĩ giỏi đến tiếp ứng, nói rằng trên đường về sẽ có người tới đón chúng tôi.

Chúng tôi đi theo đoàn của bọn họ, từ từ vượt qua ranh giới tuyết, đến khi gặp được đội cứu hộ vùng núi thì đã ở bên ngoài thôn Doanh Sơn.

Tất cả những người bị thương đều được xe Jeep chở đến bệnh viện gần nhất để sơ cứu, sau đó lại thuyên chuyển đến Bệnh viện 3 thuộc đại học Cát lâm. Kiếm tra thấy chú Ba bị biến chứng sau chấn thương sọ não và nhiễm trùng vết thương, cần điều trị lâu dài. Tôi với Bàn Tử thì chỉ bị ngoại thương, vết thương chi chít đến độ tôi đã không còn hâm mộ cơ thể tráng kiện đầy những vết sẹo của Phan Tử nữa, bởi vì sắp tới tôi cũng chẳng thua kém anh là bao.

Hơn nữa, mặc dù tôi vẫn còn mù mờ đối với mục đích và động cơ của chú Ba, nhưng cuối cùng đã kéo được lão về, trong lòng cũng dâng lên cảm giác tự hào.

Chú Ba vẫn muốn ở lại bệnh việc điều trị cho đến khi bệnh tình khá lên. Tôi, Phan Tử, Bàn Tử cùng mấy người ngoại quốc ăn chơi nhảy múa ở Cát Lâm một thời gian, đại khái nửa tháng sau cũng lần lượt cáo từ.

Phan Tử trở về Trường Sa, thu thập tàn cục tiêu tốn tinh lực rất lớn, sau cũng không liên lạc nữa. Bàn Tử trở về Phan gia viên ở Bắc Kinh, nói cần nghỉ ngơi vài tháng. Mấy người ngoại quốc cũng lần lượt bay về nước, cuối cùng chỉ còn lại mình tôi, vừa chăm sóc chú Ba, vừa sắp xếp lại toàn bộ câu chuyện, cố gắng sử dụng những manh mối mình có từ trước để tìm ra chút ít liên hệ. Nhưng không có phần tin tức từ miệng chú ba, thật sự không có cách nào chắp nối cả câu chuyện lại với nhau được.

Thật ra một phần câu đố của Uông Tàng Hải đã có đáp án rõ ràng:

Thứ nhất, Vân Đỉnh Thiên Cung không phải do Uông Tàng Hải xây nên, mà ông ta chỉ tu sửa lại. (nhưng cái di chỉ khổng lồ có từ thời Ân Thương này, rốt cuộc là ai đã xây ra nó và xây với mục đích gì?)

Thứ hai, Uông Tàng Hải không tự nguyện tham gia vào công cuộc tu sửa này, mà phần lớn những công nhân người Hán tham gia xây dựng cũng đều bị người Đông Hạ bắt tới. Trong quá trình tu sửa, Tổng tư lệnh Uông Tàng Hải bắt đầu thiết kế mấy mật đạo đào thoát nối liền hai ngọn núi Tiểu Thánh và Tam Thánh, tránh cho mình bị Vạn Nô vương dị tộc kia chôn sống khi địa cung bị phong bế.

Thứ ba, trong quá trình cải tạo lăng tẩm, Uông Tàng Hải đã dần dần che giấu đi rất nhiều bí mật nằm dưới đáy hoàng lăng Đông Hạ, sâu trong sơn thể núi Trường Bạch. (Sau cánh cửa Thanh đồng khổng lồ đó, rốt cuộc ông ta đã nhìn thấy thứ gì?)

Thứ tư, Uông Tàng Hải đem những bí mật này ghi chép vào Long ngư mật văn, hi vọng sẽ đến một ngày nó được người đời biết đến.

Thứ năm, do Đông Hạ là một nước nhỏ nơi biên cảnh, quốc khố trống rỗng, cho nên rất nhiều kỳ trân dị bảo trong Vân Đỉnh thiên cung đều vơ vét từ những huyệt mộ khác. Trong quá trình Uông Tàng Hải dẫn quân đội Đông Hạ đi đổ đấu, cũng len lén dấu long ngư mật văn vào bên trong những cổ mộ đó, hy vọng có người phát hiện ra. Tổng cộng đã giấu hai cái, cái thứ ba ông ta đem giấu vào phần mộ của chính mình trước khi chết già.

Thứ sáu, tại sao ông ta lại xây mộ mình nơi đáy biển? Vì lo sợ con cháu người Đông Hạ sẽ hủy đi bí mật này sao?

Thứ bảy, những người đã biến mất trong mộ huyệt dưới đáy biển đều xuất hiện trong mật thất của Vân Đỉnh thiên cung. (chỉ trừ hai người đã thoát ra, những kẻ khác đều chết sạch, vậy hai người đó là ai? Bọn họ đã đi đâu? Phải chăng họ cũng giống như Muộn Du Bình, đã tiến vào cánh cửa đồ sộ kia? Rốt cuộc vì sao bọn họ lại muốn đi vào đó? Mục đích chú Ba khi đến Vân Đỉnh thiên cung là gì?)

Thứ tám, cây cổ thụ khổng lồ bằng thanh đồng, cánh cửa đồ sộ bằng thanh đồng cùng với chuông lục giác xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau, giữa những vật làm từ thanh đồng này phải chăng có mối liên hệ nào đó? Nó đại diện cho một thứ sức mạnh thần bí, rốt cuộc là gì?

Tôi cũng dần dần phát hiện, những chuyện đã xảy ra trong huyệt mộ dưới đáy biển hai mươi năm về trước mới là mấu chốt cho tất cả.

————————————————–

Lời beta: Vậy là cuối cùng phần 4 cũng đã hoàn :”>~~~ Ban đầu buông lời hứa mỗi ngày 1 chap, mình cũng không nghĩ có thể duy trì nó suốt 2 tháng không gián đoạn ngày nào, dù thỉnh thoảng có bị lố giờ post từ dăm chục phút tiếng cho đến vài tiếng. Chủ yếu vẫn là do có editor chăm chỉ với tốc độ khủng bố cùng với động lực giả thù vô cùng mạnh mẽ thôi thúc nên mình mới kìm nén được những cơn lười thường xuyên bộc phát mà hoàn thành cho đúng tiến độ :)) Tóm lại là đã xong rồi đó, beta xin được nghỉ phép dài hạn, nhanh thì vài tháng (cho đến khi mình ra trường), chậm có thể là vĩnh biệt luôn :))

Anw, xong phần 4 vẫn chưa hết nợ, cho mình xin lỗi những bạn từng bị cho đi tàu bay giấy với lời hứa trong vài ngày sẽ post bản beta hoàn chỉnh quyển 1 để đi in nhé. Giờ xong phần 4 coi như rảnh rang rồi, mình sẽ cố hoàn thành lời hứa này, sau đó lấp cho xong cái hố Lư châu, rảnh ranh nữa thì lấp nốt Hồ sơ chuyện lạ. Vào một ngày đẹp trời nào đó khi đã rũ sạch nợ nần, rất có thể mình sẽ trở lại với một cái hố nho nhỏ xinh xinh (hố to không dám thầu đâu) thời gian thì không thể hứa trước được :”>

Còn vấn đề phần 5 bao giờ lên sóng không thuộc thẩm quyền của mình, có gì xin hãy liên hệ beta chính của phần này là Earl Panda, mình rất hạnh phúc vì đã đi trọn phần đường của mình và xin hết ở đây ~~~

Quyển 8

Trong mấy tháng sau đó đã xảy ra rất nhiều chuyện.

Cuộc sống của tôi dần dần trở lại với nhịp điệu cũ. Tôi dùng thân phận của chú Ba giải thích với người dưới quyền rằng mình phải đến nơi khác khảo sát một thời gian dài, việc làm ăn của cửa hàng giao lại hết cho thằng cháu quản lý.

Chờ người của Tiểu Hoa từ Trường Sa đến, tôi mới được tháo mặt nạ trong một khách sạn.

Khi nhìn thấy gương mặt của mình một lần nữa, tôi đã xúc động đến bật khóc. Tôi không ngờ vào giờ phút này mình lại yếu đuối đến thế. Cảm giác khi ấy như thể tôi vừa tháo xuống không biết bao nhiêu áp lực phải kiên cường, phải dũng cảm, phải gánh vác, phải quyết liệt, phải đổ máu, phải tàn nhẫn. Thế rồi, tôi trở lại làm Ngô Tà.

Cuối cùng tôi có thể làm  một Thiên Chân Vô Tà được phép chùn chân, được phép yếu đuối, được phép cười hì hì, được phép thất thố, được phép ngốc nghếch.

Tôi có thể đáp lại người khác không chút do dự, rằng cái này “Vì sao”, rằng cái kia “Không thể nào”, thậm chí, có thể chửi thẳng người ta không hề kiêng nể: “Tổ sư, ông mà không biết thì tôi còn hỏi ai được nữa?”

Tôi đã khóc rất lâu, khóc vì lấy lại được thứ tưởng chừng đã mất hay vì tâm trạng suy sụp? Chẳng vì lí do gì cả, chỉ là tôi không sao cầm được nước mắt. Tôi ôm lấy cô gái kia, cô vỗ vỗ vào lưng tôi, không nói một lời.

Khi buông cô ra, tôi phát hiện vành mắt cô cũng đã ầng ậng nước. Cô nói mình chưa bao giờ nhìn thấy ai khóc lóc đau khổ đến thế.

Tối đến, tôi nốc rượu cật lực. Tôi xếp rất nhiều cốc chén lên bàn, mong cô hồn dã quỷ cùng đến chung vui. Tôi ước chi trong số đó có người quen của mình, họ có thể nhìn thấy tôi ngay lúc này, nghĩ vậy trong lòng tôi bỗng cảm thấy vui vẻ.

Thế nhưng, mặt nạ trên mặt dễ tháo, mặt nạ vô hình che giấu lòng người mới khó cởi. Vài ngày sau, tôi thường đột ngột nói bằng giọng điệu của chú Ba, hay đôi khi lại đột nhiên tỉnh giấc giữa cơn mơ, có cảm giác chỉ cần mình lộ thân phận thì bao nhiêu công sức bấy lâu nay sẽ đổ sông đổ biển hết, thậm chí khi soi vào trong gương cũng cảm thấy thật xa lạ.

Cũng may, thời gian dần trôi, ảo giác này cũng dần nhạt.

Bàn Tử nói không sai, tôi chí ít cũng là một người rất giỏi thích ứng với hoàn cảnh,

Nghỉ ngơi một thời gian, sau đó tôi trở về với cửa hàng nhỏ của mình. Khi Vương Minh nhìn thấy tôi, cậu ta còn tỏ ra bỡ ngỡ, phải rất lâu sau mới nhận ra tôi đã trở về.

Cậu ta trông béo tốt hơn một chút, cũng suy sụp ít nhiều. Tôi liếc nhìn xấp bản dập đang bày bán trên giá, hình như là vơi đi một chút rồi. Xem ra, dù không còn kinh doanh thì vẫn luôn có một vài cái đơn hàng ông trời ban cho.

Chương 87.

Tôi nằm ngả trên ghế dựa ở buồng trong, nhìn bốn phía căn phòng vừa quen thuộc lại vừa lạ lẫm, lại bắt đầu cái cuộc sống mơ mộng giữa ban ngày này.

Nhưng rất nhanh sau đó, tôi cảm thấy mình không thể tiếp tục sống thế này được nữa. Phần việc của chú Ba phía bên kia rất nặng nề, tôi cần phải chăm chỉ hơn.

Tối hôm đó, Vương Minh lần đầu tiên xin tôi cho thôi việc. Tôi tăng tiền lương cho cậu ta, cậu ta mới đồng ý ở lại.

Ngay cả những người có tấm lòng vững vàng nhất, đơn thuần nhất cũng sẽ dần dần thay đổi theo thời gian. Đương nhiên, sự thay đổi này là tất yếu, chẳng qua lâu nay tôi vẫn ngộ nhận đó thôi.

Thực ra hồi trước tôi đã từng có ý muốn sa thải cậu ta. Nhưng bây giờ, tôi chỉ hy vọng xung quanh mình có thật nhiều người, để tôi có thể cảm nhận được sự tồn tại của chính mình, cố gắng không thay đổi bất cứ thứ gì.

Tôi không biết gọi tâm lý này là gì, nhưng trên mạng có rất nhiều người gọi nó là: cậu già rồi.

Dùng thân phận Ngô Tà đi quản lý công việc làm ăn của chú Ba vẫn còn chút khó khăn. Trong một số vấn đề, tôi được chú Hai giúp đỡ. Quản lý mấy chuyện kinh doanh luôn khó khăn trắc trở, nhưng tôi hoàn toàn không sợ.

Bởi vì, cho dù đã đánh mất tất cả, tôi cũng chẳng còn quan tâm nữa. Những ai đã đạt đến cảnh giới này, ngược lại càng thêm tỉnh táo và khách quan để nhận định những vấn đề hệ trọng.

Trong khoảng thời gian này, tôi cũng nhận được một ít tin tức của Tiểu Hoa. Những chuyện này đối với cậu ta không thể coi là quá mức khốn đốn, chỉ là hơi khó khăn một chút thôi.

Thương thế của cậu ta rất nghiêm trọng, sau khi nằm ở bệnh viện Hiệp Hòa một thời gian, cậu ta được chuyển sang Mỹ chữa trị, khoảng hai tháng sau mới trở về.

Mới về nước được vài ngày, cậu ta gửi cho tôi một phong thư, trong thư có kể sơ lược về tình hình của mình hiện giờ..

Đám tang của Hoắc lão thái, cậu ta không tham dự. Chiếu theo chỉ thị của Hoắc lão thái, Tú Tú tiếp quản Hoắc gia. Nhưng thế lực cá nhân của Tú Tú chưa đủ mạnh để cân bằng được các mâu thuẫn trong gia tộc.

Tiểu Hoa phải cắt đứt mọi mối làm ăn với Hoắc gia mới miễn cưỡng khống chế được cục diện.

Bọn đầu trâu mặt ngựa đó chắc chắn còn bày đủ trò nữa, nhờ phong gia thư chỉ thị của Hoắc lão thái mà những trò này chỉ có thể ngấm ngầm tiến hành trong bóng tối.

Những ngày sau đó rất gian nan, nhưng Tiểu Hoa nói, tình hình bây giờ so với hồi cậu ta còn bé đã tốt hơn nhiều lắm rồi. Cậu ta bảo tôi đừng lo lắng nhiều.

Tôi đại diện cho Ngô gia ở Hàng Châu, cũng thể hiện rõ thái độ trước sự việc. Tôi biết, có Tiểu Hoa ở bên, Tú Tú nhất định có thể tiếp tục yên ổn bước trên con đường này. Nếu bọn họ cần nhờ tôi chuyện gì, tôi nhất định sẽ giúp đỡ.

Tuy thời gian tới sẽ có rất nhiều khó khăn trắc trở, nhưng giờ đây chúng tôi cũng chỉ có thể dò dẫm từng bước một mà thôi.

 Chương 88.

Ba tháng sau khi trở về, tôi cử hành một đám tang nhỏ cho Phan Tử, làm một lễ truy điệu cũng không quá lớn.

Mộ Phan Tử chôn theo ít quần áo và di vật, nằm cách mộ Đại Khuê sáu bài vị. Mộ Đại Khuê lâu rồi không có ai đến thăm nom, giờ đã trở thành một đống bừa bộn, tôi cũng tiện tay quét dọn qua loa một chút.

Sau đó, tôi đi xử lý vài việc vặt mà Phan Tử lúc sinh thời chưa kịp làm.

Khi bước vào căn phòng trọ của Phan Tử, tôi thấy trên bàn có một bát mì đã thối um, mọc đầy nấm mốc. Chiếc đũa đặt ngay bên cạnh, trong bát có mấy lát đậu phụ đã mọc cả tầng nấm mốc, hoàn toàn chuyển sang màu đen.

Rõ ràng, trước khi đi Phan Tử đã ở đây ăn dở bát mì này. sau đó vội đi đến mức còn chưa kịp thu dọn bát đũa, rồi từ đó cũng vĩnh viễn không thể trở về nữa.

Nhưng rồi tôi lại nghĩ, chắc chắn anh ấy đã đoán biết mình sẽ không về được, cho nên mới không thu dọn bất cứ thứ gì.

Tôi ngồi bên bàn, mở hai lon bia, uống hết một lon rồi đổ bát mì đi, rửa bát đũa sạch sẽ. Sau đó tôi ra ngoài tìm chủ nhà của Phan Tử, trả toàn bộ số tiền thuê nhà anh ấy khất nợ đã lâu.

Chủ nhà tò mò hỏi: “Người anh em kia đâu rồi?”

Tôi ngẫm nghĩ một chút rồi đáp: “Về quê (*) cưới vợ rồi.”

(*) Nguyên là “hồi lão gia”, còn có nghĩa bóng là “về nơi chín suối, về với tổ tiên” aka chết. Bạn Tà chơi chữ ;_;

Tôi cho rằng, đây là cái kết tốt nhất đối với Phan Tử. Anh ấy vốn có cơ hội thoát khỏi cái vòng tròn luẩn quẩn đó, vậy mà cuối cùng vẫn chọn con đường cũ. Có điều tôi cũng không biết được bản thân anh ấy thích cái kết nào hơn.

Với Phan Tử, không chừng anh ấy thích cái kết như bây giờ hơn. Nhưng đối với người ngoài, lựa chọn của anh lại chính là sai lầm.

Bàn Tử vẫn ở lại thôn Ba Nãi. Liên lạc bằng điện thoại rất khó khăn, tôi chỉ có thể gọi cho A Quý, hỏi sơ qua tình hình gần đây của Bàn Tử.

A Quý nói, hiện giờ Bàn Tử sinh hoạt rất điều độ, ban ngày ra đồng cày cấy, sàng gạo, buổi tối nấu cơm, ăn xong thì ngẩn người ngắm trăng. Nhiều khi cả ngày ông ta cũng chỉ nói được với Bàn Tử có hai ba câu.

Tôi hỏi Bàn Tử có cảm xúc gì không? Không lẽ vẫn còn đờ đẫn như trước?

A Quý bảo, chịu, chẳng biết có cảm xúc gì không. Nhưng Bàn Tử làm việc rất nhanh nhẹn, nói cũng không nhiều, So với trước kia thì hắn ta cũng có điểm tiến bộ, đó là lâu lâu cũng biết xổ ra vài câu dí dỏm.

Tôi bảo A Quý, nếu ở bên đó Bàn Tử thiếu thốn tiền bạc gì thì cứ nói thẳng với tôi, tôi sẽ chuyển tiền cho.

Tôi cảm thấy Bàn Tử rồi sẽ khá lên thôi. Bàn Tử không phải là người dễ chìm đắm trong đau buồn uất ức, hắn biết Vân Thải cũng không muốn thấy ông chủ béo của mình trở nên kém thú vị hơn xưa.

Bàn Tử sẽ dần dần hồi phục thôi. Tuy chuyện lần này chắc chắn sẽ để lại trong lòng hắn một vết sẹo không bao giờ lành, nhưng Bàn Tử là người tốt, ông trời sẽ không làm khó hắn lâu đâu.

Sau khi tôi tăng tiền lương cho Vương Minh, thái độ làm việc của cậu ta đã tích cực hơn nhiều. Hơn nữa tôi cũng đã quay về, công việc của chú Ba bên kia có gì sẽ được báo cáo đến tận cửa hàng của tôi. Nhiều người không biết quan hệ của tôi với cậu ta, nghĩ cậu ta là thân tín của tôi nên ngày càng thêm xun xoe nịnh bợ.

Cuộc đời cậu ta đã dần dần có giá trị hơn, tinh thần cũng sảng khoái lên rất nhiều.

————————————————

Chương 89

Thấy thái độ làm việc của cậu ta tốt, tôi bắt đầu dạy cậu ta cách xử lý một số việc, cậu ta lên tay rất nhanh, sau đó quả thực cũng giúp đỡ tôi không ít.

Tuy tôi không trông mong cậu ta có thể trở thành một trợ thủ đắc lực như Phan Tử, nhưng dần dần tôi cũng bắt đầu nghĩ, mình có thể dựa vào cậu ta trong nhiều vấn đề rồi.

Lão Hải, vì vấn đề làm ăn và công việc nên tôi cũng có liên lạc với ông ta vài lần.

Công việc của lão Hải phất lên rất mau, nhưng hình như ông ta bị một cơ quan nào đó theo dõi. Ai bảo mấy vụ thuế má vốn đã bất minh, cửa hàng đồ cổ của ông ta lại còn giao dịch bằng tiền mặt. Vì vậy, về sau ông ta làm việc cẩn thận hơn rất nhiều.

Để tránh liên lụy, bọn tôi đã dùng rất nhiều thủ đoạn lạ lùng. Trong nhiều giao dịch ông ta không hề đứng ra, mà chỉ có tôi trực tiếp liên hệ với bên mua, sau đó đổi tiền ra hiện vật hoặc chỉ vàng, giao cho cô con gái của ông ta.

Con gái ông ta vốn đúng là mẫu con gái tôi thích nhất, một tiểu Hoàng Dung xinh xắn hoạt bát. Tuy nhiên, kể từ sau lần gặp mặt kia là chúng tôi chẳng còn mấy dịp tiếp xúc với nhau nữa. Về sau, con bé cũng dần dần trưởng thành, cái cảm giác yêu thích của tôi đối với con bé cũng dần dần nhạt đi.

Có lần tôi ra ngoài giải sầu, có đi ngang qua Anh Hùng Sơn. Lúc đó là cuối tuần, khắp nơi người ta nhộn nhịp đi lại, giữa biết bao nhiêu các cửa hàng, cửa hiệu đủ loại đủ màu sắc, tìm mãi tôi mới thấy được cửa hàng của lão Hải, thế nhưng, cửa lẫn rèm cửa đều đóng kín mít.

Tôi biết ông ta ở bên trong, nhưng lại nghĩ đến mấy thứ chào hỏi rồi tán chuyện này nọ, tự dưng thấy chán quá, tôi liền quay người bỏ đi.

Thời gian cứ thế trôi qua, dần dần, số lần gặp gỡ giữa tôi và ông ta càng ngày càng ít đi. Về sau, chẳng biết ông ta làm ăn sinh sống thế nào nữa, không biết vẫn còn ở trong nước, hay đã chạy ra nước ngoài rồi.

Cầu Đức Khảo sau khi trở về từ Ba Nãi, sống được ba tháng thì hạc giá quy tiên. Các cổ đông của công ti cứu hộ quốc tế đã họp lại, bán đấu giá một ít tài sản thu được. Trong nhóm của Cầu Đức Khảo có vài người có quan hệ cá nhân với tôi, nên khi nhiều hạng mục bị hủy bỏ, họ đã lấy đi rất nhiều tài liệu.

Đương nhiên, tất cả những tài liệu bị lấy đi đó đều được gửi về chỗ tôi, nhưng trong số đó không có mười hai tập tài liệu quan trọng lúc trước. Tuy số tài liệu có trong tay đã giúp tôi bổ sung nhiều chi tiết còn thiếu về chuyện đã xảy ra trong quá khứ, nhưng để gom được đầy đủ thì không có tiến triển gì.

Tôi có đi uống cà phê với mấy người đó, bọn họ nói cho tôi biết, cấp cao của công ty cứu hộ quốc tế có thể sẽ còn tiếp tục nhiều cuộc tìm kiếm nữa, năng lực tài chính của bọn chúng vẫn còn rất lớn.

Mấy bố già có khả năng ngồi lên cái ghế trống của Cầu Đức Khảo nhờ bọn họ tiện thể nhắn lại cho tôi, nếu có cơ hội, muốn tiếp tục hợp tác, điều kiện đưa ra sẽ béo bở hơn năm xưa khi chúng hợp tác với Cầu Đức Khảo rất nhiều.

Tôi giơ ngón giữa

thay cho câu trả lời, nhờ bọn họ nhắn nhủ giùm nguyện vọng của mình đến chúng.

Nửa năm sau, chị Á kết hôn. Chú rể là một người đàn ông rất kém thu hút, đầu hơi hói, tuổi lại tầm trung niên, hình như nhà cũng chẳng có bao nhiêu tiền.

Nhiều người nói hắn ta không phải thực sự yêu chị Á, mà chỉ là yêu tiền tài địa vị của chị thôi. Tôi tham gia hôn lễ, biết người này hình như tên là A Bang, mặt mũi đầy vẻ xảo trá quỷ quyệt, nhưng hành động thì rất ân cần, không ngừng mời mọc, kính rượu, châm thuốc cho mọi người. Mà chị Á, gương mặt vẫn không hề biểu lộ cảm xúc, chỉ chăm chăm nhìn chỗ trống bên cạnh tôi.

.

Chương 90.

Đàn ông, không phải được người ta ghi nhớ vì vẻ ngoài thế này thế kia. Anh ta được người khắc ghi trong lòng, bởi vì anh ta vĩnh viễn không bao giờ trở về nữa.

Có người nói, chị Á với người đàn ông này có quen biết. Bởi vì hắn ta là một kẻ thường xuyên rượu vào rượu ra, rất nhiều lần như thế, rồi cho đến khi thấy nữ khách hàng say bí tỉ chẳng biết trời trăng gì nữa thì hắn bắt đầu tiện thể “chăm sóc khách hàng” một chút, thế mới xảy ra quan hệ.

Sau khi thương thế của Bì Bao khỏi hẳn, cậu ta hoàn toàn hối cải, học hành đi thi, hình như là thi vào chuyên ngành thương mại quốc tế.

Thế nhưng cậu ta cứ bị vướng ở kỳ thi đầu vào mãi, theo như cậu ta kể lại thì trình độ văn hóa của cậu ta cũng chỉ tầm tầm, nhiều đề bài đọc còn chả hiểu, chứ nói gì làm bài. Còn tiếng Anh, hai mươi sáu chữ trong bảng chữ cái cậu ta còn chả thuộc hết.

Cuối cùng, cậu ta trở về với nhóm của mình, nhưng tuyệt đối không đi buôn lớn như xưa nữa. Người hợp tác với cậu ta còn bảo, hiện giờ, câu cửa miệng của cậu ta là “Có lắm tiền mà phải bán mạng, chi bằng về nhà bán đậu hũ còn hơn.”

Bì Bao thành kẻ có tay nghề xuất sắc nhất trong nhóm, nhưng cũng là kẻ nhát gan nhất. Tôi nghĩ, trong tương lai cậu ta sẽ trở thành một người kiệt xuất, hay chí ít cũng giàu có dư dả.

Nhắc đến Tú Tú, tôi nghĩ, Tú Tú hẳn là thích Tiểu Hoa lắm, dù sao hai người họ cũng lớn lên bên nhau, cùng nhau gánh vác rất nhiều chuyện. Tuy nhiên, cái tình cảm “thích” này, tôi không cho rằng đó là “yêu”. Bởi vì, hai người họ đã quá quen thuộc, quá hiểu rõ nhau, đương nhiên là có rất nhiều tình cảm với nhau, nhưng chưa nảy sinh thành một thứ tình cảm sâu sắc kia.

Tú Tú không còn liên lạc với tôi nữa, chắc là bị tôi làm tổn thương nhiều lắm. Có lẽ, thảm cảnh sau khi sự việc kết thúc và quyết định của tôi khi ấy đã khiến cô không thể đối mặt với tôi được nữa.

Nội tâm của tôi bây giờ đã được trui rèn đủ chai sạn rồi, sự trốn tránh của cô với tôi chỉ là chuyện nhỏ mà thôi.

Người cuối cùng tôi muốn nhắc đến, là Muộn Du Bình.

Nhiều người bảo, người khiến tôi lo lắng nhiều nhất chính là hắn, vì hình như hắn không thuộc về thế giới này. Hắn là người chỉ hướng đến mục đích của mình, chỉ một mực tiến thẳng về phía trước.

Dù khi bước trên con đường ấy, phải chịu biết bao đau đớn, cào da rách thịt, hắn nhất định vẫn sẽ bước về phía trước, mặc kệ bao nhiêu chông gai. Dù thân thể da thịt bị đâm chém, bị cắt gọt, có lẽ, hắn vẫn tồn tại, cho đến khi nào đạt được mục đích mới thôi.

Thực ra hai người bọn tôi, hai thế hệ khác nhau, chuyện của thế hệ trước tôi cũng biết đại khái sơ sơ. Chỉ có mình hắn, mục đích của hắn là gì, tôi hoàn toàn không biết.

Mục đích của mọi người, tôi đều có thể đoán ra được. Thế nhưng, chỉ có Muộn Du Bình, hắn giống như một con rối bị động vậy, trong tất cả mọi chuyện, hình như hắn đều làm vì người khác.

.

 Chương 91.

Thế nhưng, nếu nhìn lại tất cả những chuyện tôi với Muộn Du Bình đã cùng nhau trải qua, tôi lại thấy hắn là một người biết xác định mục đích rất rõ ràng. Mỗi lần hắn đến đâu, đều vì mục đích riêng của mình.

Xét qua nghề nghiệp của hắn, skill mất tích thần thánh, và cái trạng thái ngẩn ngơ như bị mộng du

(bị bệnh thần kinh cấp 9)

trên suốt quãng đường đi, chắc chắn những thứ hắn biết nhiều hơn chúng tôi rất nhiều.

Đã rất nhiều lần tôi nghĩ, có lẽ, trong lòng hắn, mục đích của chúng tôi đều nhảm nhí nực cười, mà chỉ có mục đích của hắn mới là quan trọng.

Lúc ấy, hắn đã cự tuyệt mọi lời đề nghị cùng nhau tiếp tục hành trình của mọi người đến lần thứ hai, sau đó, lựa chọn một mình lên đường không chút do dự.

“Mọi người đã đi cùng tôi nhiều lắm rồi, con đường tiếp theo chính là đường cùng, các người không ai chịu nổi đâu. Xin đừng tiếp tục đi theo tôi nữa.”

Đ** m*, cái thể loại chó má gì đây, cả bọn bị cuốn vào một âm mưu lớn đến thế, vất vả lắm mới hiểu rõ được tình hình, ấy thế mà hóa ra trong lòng Muộn Du Bình căn bản không hề quan tâm đến mấy vấn đề đó. Điều hắn quan tâm nhất lại là những thứ mà tôi không hề biết tí gì.

Phải chăng lúc ấy tôi nên ôm chân hắn gào khóc “Ới anh ơi đừng bỏ chúng em lại” chăng? Đương nhiên, lúc ấy xét cả tình hình lẫn tâm trạng, chẳng ai còn hơi sức mà làm vậy, cho nên chúng tôi đành phải để hắn đi.

Bây giờ, âm mưu sắp đặt suốt bao lâu ấy hình như đã kết thúc rồi, những bí ẩn xung quanh tôi đã tiêu tan thành mây khói. Thế nhưng, những bí ẩn xung quanh hắn vẫn chẳng có dấu hiệu gì là sắp giải mã được.

Mà, kể từ ngày tôi và hắn chia tay nhau, tôi không còn nghe thấy bất kỳ tin tức gì của hắn nữa.

Số trời đã định, hắn thẳng đường về phương Bắc, cứ như là đi đến cuối đường thì thôi. Nhìn cái vẻ mặt ngàn năm không đổi của hắn lúc bỏ đi là biết, thảm trạng của bọn tôi lúc đó đối với hắn chẳng là cái thá gì.

Tôi còn nhớ rõ câu nói kia của Bàn Tử: Nếu một người thân của anh qua đời mà những người khác đều khỏe mạnh, thì lúc đó, cái chết của người thân ấy, đối với anh sẽ là một cú sốc rất lớn.

Nhưng nếu như những người thân thiết của anh, cứ mỗi năm lại lần lượt từng người từng người qua đời, dần dần, anh sẽ trở nên chai sạn. Mà ánh mắt của Tiểu Ca lúc bỏ đi, có lẽ chính là loại thứ hai.

Một thời gian dài dằng dặc trôi qua, nhìn những người bên cạnh mình lần lượt người này lại đến người kia ra đi, anh sẽ phát hiện ra, không một ai có thể ở bên anh mãi. Bấy giờ, anh sẽ có một cái nhìn hoàn toàn khác đối với cái chết.

Hơn cả chai sạn, chính là sự thản nhiên. Thản nhiên với cái chết.

Thời gian chậm chạp trôi, tôi vẫn cứ chờ một lá thư nói rằng bí mật đã được công bố. Thế nhưng, chờ mãi chờ mãi vẫn không có bất cứ thứ gì được gửi đến cho tôi.

Lúc đầu, mỗi ngày tôi kiểm tra hòm thư hai lần, sau đổi thành mỗi ngày một lần, rồi lại thành ba ngày một lần, cuối cùng một tuần một lần, nhưng vẫn chẳng có tin tức gì.

Tôi bắt đầu nghĩ, sẽ chẳng có thư từ bưu kiện gì gửi cho tôi nữa đâu. Tôi lại bị lừa gạt một lần nữa, mà tất cả mọi thứ, có lẽ nên chấm dứt như thế này thôi.

Tôi không đau lòng, cũng không luyến tiếc. Về sau, thậm chí, tôi còn mong bưu kiện đừng gửi tới.

Mỗi tuần lại mở hòm thư, sau đó lẳng lặng đóng hòm lại, đi ngắm cảnh Tây Hồ, chửi mắng đám người làm. Mỗi ngày trôi qua như thế là đủ.

Chương 92:

Trên thực tế, gói bưu kiện kia đã sớm được chuyển đến, nhưng lúc đó tôi không hề biết rằng có một người trông giống hệt tôi đã tới lĩnh gói bưu kiện đó đi mất rồi. Chuyện này mãi về sau tôi mới phát hiện ra.

Một năm sau, vào ngày lập thu, tôi cưỡi xe đạp dạo một vòng Tây Hồ để rèn luyện sức khỏe, sau đó trở lại cửa hàng. Vừa bước qua ngưỡng cửa tôi liền thấy sắc mặt Vương Minh có vẻ kỳ lạ khác thường.

Trải qua một khoảng thời gian rèn luyện, Vương Minh đã trở thành một thằng nhỏ đặc biệt biết giữ bình tĩnh. Biểu hiện của ngày hôm nay chứng tỏ Vương Minh đã đụng phải chuyện gì đó khiến cậu ta phải bó tay rồi.

Tôi hỏi cậu ta có chuyện gì vậy, cậu ta liền chỉ chỉ sang bên cạnh, tôi mới thấy có người đã đứng trong một góc cửa hàng từ lúc nào rồi. Hắn đang lướt mắt qua một ít bản dập chúng tôi chưa bán được.

Người này có thân hình tương đối quen thuộc, nhưng ngay lúc đó tôi lại không nhận ra. Hắn mặc một bộ đồ thể thao đen tuyền, bên cạnh dựng một chiếc ba lô to tướng.

“Tiểu Ca.” Hắn vừa quay đầu lại tôi đã nhận ra ngay, “Anh… Sao lại…. Sao đã quay về rồi?”

Hắn thản nhiên nhìn tôi hồi lâu rồi mới lên tiếng: “Đã đến lúc rồi, tôi tới đây để tạm biệt cậu.”

Tôi đưa Muộn Du Bình ra quán Lâu Ngoại tìm một bàn kê gần cửa sổ. Sắc trời thật u ám, mây đen trĩu nặng bao phủ bầu không, có lẽ chẳng mấy chốc trời sẽ mưa.

Muộn Du Bình trước sau vẫn giữ nguyên vẻ trầm lặng, cũng may từ lâu tôi đã quen với thái độ hờ hững này của hắn nên tự động gọi món, nhìn sang thì thấy hắn vẫn lặng lẽ dõi mắt ra bên ngoài cửa sổ.

Tôi hiểu rất rõ, nếu mình không mở miệng nói chuyện thì tình hình này sẽ cứ tiếp diễn cho đến khi hắn rời đi. Hắn tuyệt đối sẽ không mở miệng nói chuyện trước để phá tan bầu không khí tẻ nhạt này đâu.

Ngồi năm sáu phút đồng hồ để gió Tây Hồ lùa cho lạnh ngắt, khi món ăn đầu tiên được dọn lên, tôi châm điếu thuốc lá rồi hỏi: “Chuyện của anh đã xong rồi hả?”

“Ừ.” Hắn khẽ gật đầu. Tôi nhận ra trong ánh mắt hắn thực sự đã không còn thấy vẻ cố chấp trước kia nữa, mà thay vào đó là cảm giác hờ hững càng lúc càng khắc sâu.

Không giống như khi hắn mất đi ký ức, loại hờ hững sâu sắc này toát ra từ một tâm hồn bình yên đến cực điểm.

“Mọi chuyện đã xong cả rồi sao?” Tôi hỏi hắn. Hắn quay đầu lại nhìn tôi: “Ừ, kết thúc cả rồi.”

“Vậy chuyện sau này anh tính sao? Có tính đi đâu không? Nếu không thì hay là anh ở lại Hàng Châu nhé?” Tôi hỏi, thầm tính toán trong lòng số tài sản mình có.

Gần đây giá nhà đất Hàng Châu tăng chóng mặt, cái tên nghèo kiết xác này nếu muốn mua nhà ở Hàng Châu thì kiểu gì chẳng phải hỏi vay tiền tôi!

Tiền của hắn cũng chẳng biết là tiêu vào chỗ nào hết rồi, xưa nay tôi chưa từng thấy trong túi quần hắn có tờ tiền nào lớn.

má, lục túi chồng kìa =”))))

  Số tiền tôi có căn bản cũng không đủ. Nếu hắn muốn tìm tôi vay tiền mua nhà, chắc tôi sẽ khuyên hắn thuê phòng ở tạm một thời gian rồi tính sau.

Chương 93

“Tôi sẽ trở lại nơi mình cần phải đến.” Hắn nói.

“Một mình anh thì đi đâu chứ? Có xa không?” Tôi hỏi hắn. Hắn nhấc đũa lên, lặng lẽ gắp một nhúm đồ ăn, khẽ gật đầu.

“Vậy anh đến là để…” Tôi rất ít khi nói chuyện đứng đắn với hắn như thế này nên cảm thấy khá là gượng gạo, đành phải đưa đẩy câu được câu chăng theo hắn.

“Tôi đến để từ biệt cậu.” Hắn nói, “Khi mọi chuyện đều đã kết thúc, tôi mới chợt nhận ra cậu là mối liên hệ duy nhất của tôi với thế giới này.”

Vâng vậy là 1 trong những câu tỏ tình sến súa bậc nhất của Bình nhà ta đã lên sàn… một thằng mặt than như anh mà cũng tuôn ra được cái câu đậm chất rồ măng tích này làm em xúc động chết mất thôi *ôm tym*

“Không sao đâu, sau này anh có thể gọi điện thoại hoặc là viết thư cho tôi mà. Anh không biết đánh máy, nhưng viết chữ chắc phải biết chứ?” Tôi nói, “Xã hội hiện đại rồi, khoảng cách xa xôi cũng chẳng có ý nghĩa gì lớn.”

*Fangirl’s version: “Không sao đâu anh, sau này nếu quằn cmn quại nhớ em anh có thể gọi điện hoặc viết thư mà. Anh không biết đánh máy nhưng viết chữ thì thừa sức phải hông.” Tôi đổi giọng dịu dàng: “Chỉ cần trong lòng ta có nhao thì không khoảng cách nào chia cắt được hai đứa mềnh.”

Hắn không hề phản ứng, vẫn cắm cúi ăn.

Động tác của Muộn Du Bình rất nhẹ, gần như không hề dùng sức. Thật ra đây là do lực cổ tay hắn cực mạnh, thêm vào đó là khả năng khống chế động tác chuẩn xác cực kỳ.

Trước đây, những lúc ăn cơm cùng với hắn luôn có nhiều người vây kín xung quanh nên tôi cũng không quá chú ý đến hắn, hiện giờ nhìn kĩ mới thấy thật là một chuyện hay ho.

Bầu không khí lại rơi vào thinh lặng khiến tôi bắt đầu nhớ nhung Bàn Tử da diết. Hóa ra từ trước tới giờ tôi chưa từng thấy tẻ nhạt là do Bàn Tử đã lặng lẽ bỏ rất nhiều công lao để tạo dựng bầu không khí. Đến hôm nay chỉ còn lại hai người, tôi thật chẳng biết phải làm sao nữa.

“Nói xem, anh định đi đâu? Chúng ta đã cùng nhau trải qua nhiều chuyện như vậy, nhất định sẽ là bạn tốt cả đời, thường xuyên giữ liên lạc là được rồi.”

Tôi nói tiếp, “Anh cần gì cũng đừng ngại mở miệng nói với tôi. Tôi tuy không được tính là sung túc, nhưng những nhu cầu cơ bản tôi vẫn có thể lo giùm anh.” 

<— í hí hí, nhu cầu cơ bản ý :”> 

“Tôi phải đến núi Trường Bạch.” Hắn đã chịu nói ra.

“À, chỗ đó lạnh lắm đấy.” Tôi đáp, “Ở Giang Nam vẫn hơn, bốn mùa phân rõ rệt, khí hậu lại ẩm ướt, là một nơi an dưỡng rất tốt.”

<— sặc mùi dụ dỗ =”))))) 

“Tôi chỉ có thể đến đó.” Nói rồi, hắn liền buông đũa.

Sau khi hắn nói ra câu đó, chúng tôi cũng không đả động gì đến những chuyện tương tự nữa. Trong bầu không khí tĩnh lặng, cả hai cứ thế lặng lẽ ăn tới cuối bữa, tôi cũng không còn khó xử nữa.

Cuối cùng hắn buông đũa, nhìn tôi mãi mới bật ra được một câu: “Tạm biệt.”

Nói rồi hắn đứng dậy xốc ba lô lên vai, đi xuống dưới lầu. Tôi hơi ngạc nhiên, bèn gọi với theo: “Chúng ta còn chưa ăn xong mà.”

Nhưng hắn đã xuống lầu mất rồi. Tôi rầu rĩ rít vài hơi thuốc, đứng tựa vào cửa sổ nhìn xuống thì thấy hắn đã men theo đường Cô Sơn đi được khá xa.

Tôi lại ngồi xuống, trong lòng tự hỏi chuyện quái quỷ gì đây, bộ hắn không có tiền trả nên xấu hổ chắc? Trước kia còn hay kẹt tiền hơn mà có bao giờ thấy hắn khách khí như vậy đâu?

Tiểu Ca anh thật mất mặt *nguýt* 

Ngẫm nghĩ một chút những lời hắn nói ban nãy, tôi cảm giác có gì đó là lạ, hình như trong đó ẩn chứa một thứ cảm xúc đặc biệt khó hiểu.

“Tôi đến để từ biệt cậu.” “Khi mọi chuyện đều đã kết thúc, tôi mới chợt nhận ra cậu là mối liên hệ duy nhất của tôi với thế giới này.”

Nghĩ đến đây tôi đứng bật dậy khỏi ghế, nhớ tới một biệt hiệu khác của hắn — chuyên gia mất tích.

Trước kia, những lúc muốn rời xa chúng tôi, hắn chưa từng hé răng một lời. Khi chia tay chúng tôi ở Ba Nãi tôi cũng chẳng thấy hắn nói câu nào.

Chuyện đến chào từ biệt này hình như rất khó tin với cái tên chuyên gia mất tích kia. Hơn nữa, lần này để tìm tôi nói lời từ biệt hắn còn có lòng lặn lội từ một nơi xa xôi ngàn dặm đến tận đây.

Chương 94:

Lần từ biệt này chắc chắn không hề giống với những lần hắn bỏ đi trước đó.

Một dự cảm bất an nổi lên ngày càng rõ rệt khiến tôi thấy lòng mình nóng như lửa đốt. Hắn muốn rời bỏ thành phố này? Rời bỏ người bạn là tôi này? Không phải! Vậy chẳng lẽ, thứ mà hắn muốn rời bỏ, lại là cả thế giới này?

“Núi Trường Bạch?” Tôi rút hết số tiền mặt mang trong người, bảo tiếp tân mang tiền thừa sang trả cho Tây Linh ấn xã nằm cách vách, sau đó vơ lấy đống quần áo vứt trên ghế mà vội vã đuổi theo.

Tôi chạy một mạch đến tận đường Bắc Sơn, gấp đến nỗi toàn thân ướt đẫm mồ hôi, nhưng vẫn không đuổi kịp hắn. Trên đường Bắc Sơn chỉ có vô số taxi trống lượn lờ qua lại như thoi đưa.

Tôi lại quay về cửa hàng của mình, gói ghém sơ sơ ít hành lý, vừa đeo lên vai vừa dặn Vương Minh: “Anh muốn ra ngoài một thời gian.”

Vương Minh tái mặt, bỗng kéo tay tôi lại. Tôi hỏi cậu ta làm cái gì thế, cậu ta mới nói: “Ông chủ, chuyện thế này cũng đã xảy ra rất nhiều lần rồi. Tự dưng có một người đến cửa hàng, sau đó y như rằng anh lại vội vội vàng vàng cuốn gói đi ngay, mà lần nào cũng đi mất hút luôn. Anh giải thích chút đi xem nào.”

Tôi nghĩ bụng đây không rảnh mà giải thích, bèn đáp qua loa: “Nếu có ai đến tìm anh thì chú cứ bảo anh đi nghỉ mát rồi, việc làm ăn giao cho chú quản hết đấy. Nếu có phi vụ mua bán nào lớn mà chú không chắc chắn thì đừng tiến hành, cứ chờ anh về rồi tính sau.”

“Anh sẽ quay về thật chứ?” Vương Minh hỏi.

Tôi hỏi ngược lại: “Sao lại hỏi câu đó?”

Cậu ta nói: “Chẳng phải anh đã nói sẽ không bao giờ đi lung tung nữa sao? Em xem tivi thấy cao nhân nào đã thoái ẩn giang hồ mà còn bị người ta gọi ra cũng đều chết ráo cả, anh nhất định phải thật cẩn thận nha.”

Tôi vỗ vai cậu ta, bụng bảo dạ khi về phải cho mi biết tay cái tội mồm miệng bá láp xui xẻo mới được. Rồi tôi cũng không thèm để ý nữa, quay người chạy như bay ra ngoài.

Muộn Du Bình không có chứng minh thư nên không thể mua vé máy bay, chắc chắn sẽ phải đi xe khách hoặc xe lửa. Nhưng xe lửa có chuyến cố định, khi ngồi trên taxi tôi thử lấy di động tra cứu giờ khởi hành của những chuyến đi trong ngày, nhanh chóng nhận ra hắn không thể đi xe lửa được.

Xe lửa khởi hành đi Cát Lâm phải đến khuya mới có chuyến, xem ra hắn đã đi xe khách đường dài.

Nghĩ vậy, tôi liền bảo taxi chở mình đến bến xe khách. Như thế dù không tìm thấy hắn ở bến xe thì vẫn còn thời gian đến ga xe lửa, chứ không lẽ hắn lại cuốc bộ?

Nghĩ đến đây, tôi cảm thấy kế hoạch của mình đã tương đối ổn thỏa.

Cứ thế đi thẳng một mạch đến bến xe, chẳng biết đây là cái mùa đắt khách chết toi nào mà người đông như kiến cỏ. Tôi chen giữa đám người, không ngừng tìm kiếm, đã nhiều lần có cảm giác hình như mình thấy rồi, đến khi chen lại gần mới biết chỉ là nhầm nhọt.

Sau đó tôi chạy đến cửa đón khách, tiếp tục tìm kiếm khắp xung quanh nhưng vẫn chẳng thấy người đâu.

Đầu tôi nhễ nhại mồ hôi, nghĩ bụng chẳng lẽ tài xế taxi phóng quá nhanh nên tôi đã vượt qua hắn mà đến đích trước? Hay là Tiểu Ca thực sự không có tiền nên không lên xe mà cứ tà tà cuốc bộ? Nếu như thế, giờ này hắn giỏi lắm cũng chỉ đi đến giao lộ Duyên An là cùng.

Lại chen chúc thêm vài bận nữa, tôi dần cảm thấy không thể tìm được hắn bằng cách này, bèn đi tra thời gian khởi hành của xe khách. Đến lúc này tôi mới phát hiện ra không có xe đi Cát Lâm, có lẽ là vì tuyến đường này quá xa.

Lòng tôi phút chốc dịu đi, vừa định nói xem ra hắn chỉ có một con đường là đi xe lửa. Nhưng trong khoảnh khắc ấy, tôi chợt thấy hắn đang ngồi trong một cỗ xe đỗ ngoài bãi. Xe đã nổ máy, sau đó nghênh ngang lái qua bên ngoài cửa sổ phòng chờ.

——————————————–

Chương 95:

Tôi ơ một tiếng, nghĩ bụng cái quái gì vậy, rõ ràng không có xe đi Cát Lâm mà. Tôi lập tức đến hỏi nhân viên trực ca, anh ta nói đó là xe đi Bắc Kinh.

Tổ sư nó, tôi chửi thầm chuyện quái quỷ gì đây, thôi thì xe gì cũng rứa, chỉ cần cùng đi về một hướng là được, trước hết cứ lên xe rồi tính sau.

Đây là logic riêng của Muộn Du Bình, chỉ có bản thân hắn mới hiểu rõ mọi hành động của mình, chẳng liên quan tí nào đến lý trí cả.

Tôi vội vàng chạy đến cửa ra, nhưng cửa ra của bến xe cách phòng chờ một quãng rất xa, khi tôi đến nơi thì khói xe cũng chẳng kịp ngửi. Tôi thở hổn hển, tự nhắc mình phải thật tỉnh táo.

Tôi không tin mình lại thua một kẻ có kĩ năng sống thương tật đến cấp 9 ngay trong địa bàn thành thị này.

(=]])

Tôi lại vẫy xe quay về cửa hàng, thấy Vương Minh đang hớn hở chơi dò mìn. Khi bước vào, tôi suýt nữa đã dọa cho cậu ta té nhào khỏi ghế.

“Ông chủ, lần này sao anh quay về nhanh thế.”

“Bớt nói nhảm đi.” Tôi đạp cậu ta ra lấy chỗ, lên mạng đặt vé máy bay, sau đó nhanh chóng tra cứu mọi lộ trình, thời gian địa điểm xe khách cập bến, những con đường hắn có thể sẽ đi tiếp. Sau khi ghi chép tất tật mọi thứ, tôi chạy như điên ra sân bay.

Bay đến Bắc Kinh rồi, tôi xem đồng hồ, thấy mình đã đến sớm hơn xe khách ít nhất năm tiếng. Ở cửa ra của bến xe, tôi mua mấy quả trứng luộc nước trà ăn lót dạ, chờ Muộn Du Bình đến.

Trong lúc đó, tôi không ngừng suy nghĩ phải làm sao mới khuyên bảo được hắn.

Đánh nhau xem chừng không lại, đuổi theo cũng không kịp. Nếu hắn tâm đã quyết, ý đã định, tôi thực sự cũng không biết phải làm gì hơn, chẳng qua chỉ phí lời vô ích.

Hay là mình thừa dịp hắn sơ ý, đánh lén từ sau lưng? Tôi nhìn quanh quất kiếm được một tấm ván, ước lượng sơ sơ, rồi nhìn sang gã bán trứng ở gần đó có vóc dáng xấp xỉ Muộn Du Bình, khua tay múa chân vài cái.

Tôi lập tức tưởng tượng ra cảnh Muộn Du Bình xoay người đá tôi một phát dính bẹt vào góc tường. Hắn cực kì cảnh giác mà, tôi ảo não nhận ra rằng nếu đánh lén hắn thì xác suất thành công cực thấp. Hơn nữa giả dụ thành công, một đòn đập hắn chết tươi, ông đây dễ chừng phải ngồi tù hoặc là dựa cột.

Mà xuống dưới đó lỡ đâu còn gặp lại hắn thì cũng không biết ăn nói làm sao cho phải.

Chuốc thuốc?

Nhưng tôi cũng không rõ thuốc ngủ thời hiện đại có tác dụng gì với thể chất của hắn hay không. Nếu có, thì trước hết tôi phải dụ hắn vào nhà nghỉ (*), kiếm cớ là tôi có chuyện quan trọng muốn bàn bạc, mong hắn ra tay giúp đỡ. Sau đó bỏ thuốc ngủ vào đồ uống của hắn, đợi hắn lăn ra đo ván thì trói chặt lại, nhờ Tiểu Hoa chuẩn bị xe, tống thẳng về Hàng Châu.

(*) Nguyên văn chỉ là kiếm chỗ nào đó nghỉ ngơi, nhưng mềnh thấy để thế không chất nên tự ý sửa lại =)))))) *né dép*

Trong đầu tôi lại hiện ra cảnh tượng Muộn Du Bình nghe tôi nói muốn tìm hắn bàn chuyện thì hoàn toàn dửng dưng quay đầu bước đi. Tất nhiên tôi sẽ níu kéo hắn lại, sau đó hắn xoay người đá tôi một cú dính vô góc tường.

Đầu tôi đau muốn nứt, nghĩ ra đủ mọi cách cũng chẳng ăn thua gì. Cho dù có gô cổ hắn tống thẳng về Hàng Châu thì cũng không sao giữ hắn lại được, trừ khi nhốt vào lồng sắt, chứ không hắn nói đi là sẽ đi liền.

Nếu tôi tống hắn vào bệnh viện tâm thần, may ra có thể sẽ giữ chân được hắn. Nhưng bản lĩnh của hắn quá mức siêu phàm, tôi cảm thấy chẳng nơi nào có thể trói chân nổi, không chừng tống hắn vào đấy còn liên lụy đến bác sĩ và y tá của bệnh viện.

Chương 96:

Càng nghĩ càng ngán ngẩm, tôi nhận ra phương án nào cũng bất khả thi, có lẽ tôi sẽ không thể thay đổi chủ ý của hắn được.

Nhưng gì thì gì, tôi vẫn muốn thử sức một lần. Tôi còn nghĩ, phải chăng Muộn Du Bình chỉ muốn đến định cư trong một thôn nhỏ dưới chân núi Trường Bạch, ngày ngày ngắm đỉnh núi tuyết, hút tẩu thuốc cũ, chuẩn bị an hưởng tuổi già ở đó?

Không sao cả, cho dù là thế, cùng lắm tôi chỉ biến thành kẻ ngáng chân đáng ghét thôi, chẳng có gì đáng kể.

Khi tôi thoát khỏi dòng suy nghĩ, chợt thấy gã bán trứng luộc nước trà đang nhìn chằm chằm cục gạch trong tay mình, hấp ta hấp tấp dọn quán rời đi.

bớ người ta có kẻ muốn mưu sát chồng =))))))))

Có lẽ vừa rồi khi suy tính các phương án, tôi đã làm chuyện gì quái đản chăng? Tôi vội vàng vứt cục gạch đi, trong lòng âm thầm hạ quyết tâm: đây là lần cuối cùng mình tìm cách khuyên nhủ hắn, nếu không khuyên nổi thì thôi, mình cũng chẳng cưỡng cầu làm gì nữa.

Có điều Muộn Du Bình vĩnh viễn không để cho tôi toại nguyện. Tôi cứ thế đợi ở bến xe ròng rã suốt nhiều giờ, đợi đến rạng sáng khi xe kia vào bến mới phát hiện ra Muộn Du Bình không ở trong xe.

Tôi nhìn từng người từng người một xuống xe rồi tản đi, cứ dõi theo bóng lưng họ một hồi lâu như thế, cuối cùng mới dám khẳng định Muộn Du Bình thực sự không ở trên xe. Tôi lập tức leo lên, túm cổ lái xe, hỏi Muộn Du Bình đi đâu mất rồi.

Lăn qua lộn lại hồi lâu lái xe mới hiểu tôi muốn hỏi gì, hắn nói Muộn Du Bình đã xuống một trạm thu phí dọc đường rồi. Tôi lắc lắc lái xe liên tục, hỏi: “Anh khẳng định anh ta xuống xe chứ không phải là đi vệ sinh bị kẹt mãi chưa ra?” Người lái xe đáp, chính miệng Muộn Du Bình nói thế nên tuyệt đối không thể nhầm đâu.

Tôi hỏi vị trí trạm thu phí kia rồi tìm một quán net gần đó, cẩn thận tra cứu bản đồ. Tôi phát hiện ra từ trạm thu phí kia đi xuống không xa lắm là một thị trấn nhỏ, ở đó có thể bắt xe đi tới Nhị Đạo Bạch Hà (*).

(*) Nhị Đạo Bạch Hà: Tên một địa khu nằm dưới chân núi Trường Bạch.

Tôi gọi cho Tiểu Hoa, bảo hắn chuẩn bị ngay cho tôi một chiếc xe, toàn bộ phí tổn tôi chịu hết, mau mau phóng tới Nhị Đạo Bạch Hà. Trong lòng tôi cũng phải âm thầm cảm thán, xem ra mình đã quá coi thường gã Tiểu Ca kinh nghiệm sống thương tật đến cấp 9 này rồi.

Hiển nhiên là với những nơi đã đi qua, hắn rất giỏi ghi nhớ đường tắt, cho dù là trong cổ mộ hay trong xã hội hiện đại cũng không hề thay đổi.

Tạm thời không nhắc tới những câu chuyện phiếm trên đường đi, rạng sáng hôm sau tôi đã tới Nhị Đạo Bạch Hà.

Vừa xuống xe, tôi lập tức hỏi thăm dân bản xứ điểm trả khách trái phép của cái xe dù kia. Khi tìm đến nơi, vừa hay tôi nhìn thấy Muộn Du Bình lưng đeo hành lý đang cắm cúi hướng về một phương trời xa.

Tôi vội vàng gọi tên hắn. Hắn quay đầu lại, thấy tôi, hắn mơ hồ tỏ ra kinh ngạc nhưng cũng không hỏi tại sao tôi bám theo đến tận đây mà chỉ lẳng lặng quay người tiến thẳng về phía trước.

Ngay tức khắc, tôi cũng lảo đảo đuổi theo.

——————————————–

Chương 97:

Vào tiết thu, Nhị Đạo Bạch Hà lạnh đến tê người, cũng may Tiểu Hoa đã chuẩn bị quần áo cho tôi rất chu đáo.

Tôi khoác thêm áo choàng rồi bám sát bên cạnh hắn, cùng tiến lên phía trước. Tôi hỏi: “Không phải anh muốn đến đây tự sát đấy chứ?”

Hắn liếc nhìn tôi, lắc đầu, rồi tiếp tục cất bước. Tôi lại hỏi: “Hay anh muốn sinh sống lâu dài ở đây? Sao lại chọn cái chỗ rét mướt này mà ở chứ?”

Hắn nhìn thẳng về phía trước, hồi lâu mới đáp: “Không phải ở đây, tôi muốn lên trên đó.”

Tôi ngước nhìn theo ánh mắt của hắn, thấy nơi chân trời đứng sừng sững một dãy núi tuyết.

Trong khoảnh khắc ấy tôi không thể không ngừng bước, ngây người trong giây lát mới hoàn hồn mà đuổi theo: “Anh muốn lên núi?”

Hắn không đáp lời, cứ cắm cúi bước về phía trước, hướng thẳng lên đỉnh núi phủ trắng tuyết.

Trên đường đi Muộn Du Bình không thèm hé răng nửa lời, lại càng không định dừng lại. Bất kể tôi có đuổi kịp hay không, hắn vẫn cứ tiến thẳng về phía trước.

Trên đường đi tôi cứ dồn dập truy hỏi nhưng không hề có kết quả. Sau vô số lần bốc hỏa, tôi nghĩ bụng được thôi, anh đã muốn chết đến thế thì cứ đi mà chết.

Theo phán đoán của tôi, Muộn Du Bình nhất định muốn tìm đến cái chết, bởi lẽ tôi không thấy hắn mang theo bất cứ thứ đồ ăn nào. Hắn đi thẳng một mạch mà trên người chỉ đeo có một cái ba lô.

Theo kinh nghiệm lần leo núi trước, trang bị sơ sài như thế còn chưa trụ nổi ba ngày đã chết đói chứ đừng nói đến chuyện trở về.

Tôi càng đi càng cảm thấy chuyến này gay go to, chưa gì đã thấy có mấy cái xe dù đang lén chở người lên núi. Trên đường đi tôi đành phải tìm một cửa hàng mua vài món đồ, ra sức nhồi nhét vào túi hành lý mang theo.

Cũng may những món đồ khô kia không chiếm chỗ cho lắm, giờ trong hành lý của tôi đã chất đủ loại túi nhựa.

Sau đó hai người chúng tôi bắt đầu đặt chân lên sườn dốc, một mạch hướng thẳng lên triền núi cao.

Đến đây, Muộn Du Bình mới quay sang nói với tôi: “Cậu không thể tiếp tục đi theo tôi nữa.”

“Nếu tôi bảo anh đừng đi thì anh có chịu ở lại không?” Tôi hỏi. Hắn lắc đầu làm tôi điên tiết: “Mẹ kiếp, thế nên anh bảo tôi ở lại thì cũng đừng mong tôi ngoan ngoãn nghe theo. Tóm lại anh đừng nhiều lời nữa, tôi muốn theo anh có thế thôi.”

(đấy, ngỏ lời cầu hôn rồi đấy :v)

Hắn liếc tôi một cái rồi lại quay mặt đi, lặng thinh không nói.

Trên đường đi chúng tôi chẳng nói với nhau câu nào, mãi cho đến khi gặp một khách sạn du lịch trong núi. Lúc ấy nhiệt độ đã xuống khá thấp, hắn đi thẳng vào khách sạn thuê phòng.

Tôi chẳng thèm nhìn trước ngó sau, cứ lẽo đẽo bám theo, lúc này trong lòng tôi đã sẵn sàng cho một ván cược lớn.

——————————————–

Chương 98

Muộn Du Bình vẫn im như tượng đá, đợi đến khi đặt lưng xuống giường tôi mới bắt đầu cảm thấy hối hận.

(khỏi cần nghi ngờ, nghe câu này là biết hai chẻ thuê chung phòng ngủ chung giường rồi =)))

Xem tình hình hiện giờ của hai người chúng tôi mới thấy những hành trang Muộn Du Bình chuẩn bị trước đây đều rất phù hợp cho việc leo núi, mà hành trang của tôi lại quá sơ sài, cứ đà này kiểu gì cũng chết chắc.

Chỉ e hai chúng tôi còn chưa đi được nửa đường đến đích thì tôi đã chết cóng mất rồi. Chắc chắn Muộn Du Bình hiểu rất rõ điều ấy nên mới không hề ngăn cản tôi, bởi vì ngay khi vượt qua ranh giới vùng đất tuyết tôi sẽ phải đối mặt với hai lựa chọn, hoặc là bỏ mạng, hoặc là bỏ cuộc. Lần này dù tôi lấy tính mạng mình ra  uy hiếp hắn, có lẽ cũng vô ích.

Muộn Du Bình có lần đã nói, hắn chỉ cứu người muốn sống. Nếu như đối phương được quyền lựa chọn giữa sống và chết mà vẫn nhất quyết chọn cái chết, hắn sẽ không nhúng tay vào.

Tình hình hiện giờ của tôi cũng giống như thế —— nếu tôi tự mình lựa chọn đi theo hắn vào vùng đất phủ tuyết thì sau đó có chết cóng hắn cũng không chịu ra tay can thiệp.

Tôi lựa lúc hắn nghỉ ngơi, vội vàng ra ngoài mua thêm trang bị. Trong khách sạn có khá nhiều du khách, tôi cầm tiền mặt mua chỗ này một ít chỗ kia một ít đồ. Hết tiền, tôi quét thẻ ở chỗ ông chủ khách sạn, đổi sang tiền mặt với tỉ lệ mười ăn tám rồi tiếp tục thu mua, chật vật mất một lúc cuối cùng cũng gom đủ một bộ trang bị coi như xài được.

Sau khi mặc cái đống đó vào người, quả thực trông tôi vô cùng thê thảm. Áo choàng của Tiểu Hoa vốn không đủ dày, tôi đành cắn răng khoác thêm một tầng áo nữa ra bên ngoài. Người tôi tròn vo như cái kén, nhìn không khác gì con gấu chó.

(sắp chết rét đến nơi bạn vẫn điệu ;)))

Hai cái găng tay không cùng một đôi, tay trái là găng của nữ nên khá chật, đeo lên rồi cử động cũng bị hạn chế, thành ra mọi hoạt động chủ yếu đều dựa vào tay phải.

Giày leo núi lại là một đôi hoàn chỉnh, có điều chủ nhân trước kia của nó đích thị là một thằng cha thối chân, thối đến nỗi bánh tông lỡ ngửi được cũng phải lăn quay ra chết. Tôi không còn cách nào khác, đành phải bịt mũi nhăn nhó mà đi vào chân.

Còn một ít lương khô để ăn khi lên núi, tôi sắp xếp cho gọn gàng rồi nhặt đồ làm bếp và lò không khói bỏ hết vào một cái ba lô leo núi to đùng. Tiếp đó tôi chia nhỏ đồ ăn vặt đã mua lúc trước rồi cất vào một cái túi nhựa cỡ bự, cũng nhét cả vào ba lô, đến đây mới tạm thời yên tâm.

Chuẩn bị xong xuôi, tôi quay về phòng nghỉ ngơi. Duỗi thẳng cẳng trên giường, tự nhiên tôi lại muốn bỏ cuộc. Cũng không hiểu rốt cuộc mình muốn gì, nhưng tôi thật sự không thể để hắn một thân một mình lên núi.

Tôi không biết lấy gì khuyên nhủ hắn, bởi vì tôi còn không rõ rốt cuộc hắn muốn làm gì. Tôi chỉ có thể đi cùng hắn đến tận nơi, biết rõ hắn muốn làm gì rồi mới từ từ nghĩ cách thuyết phục hắn quay về.

Nhưng không hiểu vì sao, tôi cứ có cảm giác những chuyện tôi làm lần này đã hỏng bét. Nửa đêm tôi trằn trọc mất ngủ, đành vùng dậy gọi hai cuộc điện thoại cho ông cụ ở nhà và Tiểu Hoa, bộc bạch hết suy nghĩ của mình với Tiểu Hoa.

Ông cụ chỉ bảo tôi nên thả lỏng một chút cho tâm hồn thư thái, tôi nghĩ bụng thư thái thế quái nào được. Tiểu Hoa nghe xong, trầm ngâm giây lát rồi nói: “Chuyện lần này tôi vốn định khuyên cậu đừng đi theo, nhưng sau đó tôi lại cảm thấy nên để cậu thử một lần xem sao. Dù sao nếu như cậu trơ mắt nhìn mọi thứ diễn ra thì quãng đời còn lại cũng không thể sống trong thanh thản. Nhưng tôi muốn nhắc cậu khi tiến vào núi phải chú ý khoảng cách, giờ đang là mùa thu, núi Trường Bạch còn chưa phong tỏa. Cậu nên nhớ vượt qua ranh giới ấy, đi sâu hơn vào bên trong là cửu tử nhất sinh, nếu trước khi đi đến ranh giới ấy cậu vẫn chưa thể khuyên nhủ anh ta thì phải quay về ngay.”

Tôi nói: “Nhưng nếu hắn cứ khăng khăng không chịu nghe lời tôi thì phải làm sao mới khuyên nhủ được hắn đây?”

“Nếu anh ta đã đến từ biệt cậu thì cậu cứ nói đi đừng ngại gì, tôi tin cho dù anh ta không đáp lại thì lời cậu nói vẫn lọt lỗ tai thôi.” Tiểu Hoa trấn an.

Giữa trưa ngày thứ hai, tôi xuất phát cùng lúc với Muộn Du Bình. Ra đến cửa hắn còn quay đầu lại liếc tôi một cái, tôi cũng liếc trả, nói: “Yên tâm, tôi chỉ muốn đi cùng anh đến cuối con đường.” Nghe vậy hắn mới chịu quay người xuất phát.

Beta: Thanh Du

Chương 99

Những chuyện về sau không có gì đáng nói, cũng chẳng cần thiết phải liệt kê ra từng sự kiện làm gì.

Thấm thoắt đã qua ba ngày, chúng tôi tiến vào ranh giới vùng đất tuyết.

Mùa thu là mùa du lịch núi Trường Bạch làm ăn phát đạt nhất, bên ngoài vùng tuyết phủ có rất nhiều danh lam thắng cảnh, thậm chí còn được dùng làm chỗ tiếp tế. Tôi cực kỳ phấn khởi bổ sung nốt những trang bị cần thiết tại mấy điểm thắng cảnh ngoài vùng tuyết này.

Đi sâu hơn vào phía trong, qua khu vực giành cho khách du lịch chính là con đường nhỏ dẫn vào núi tuyết mà chúng tôi đã đi lần trước. Hiện giờ nó đã hoàn toàn thay đổi, nhưng Muộn Du Bình vẫn giải quyết êm thấm.

Hắn đi một mạch về phía trước, không ngừng xem xét núi non và hướng nắng xung quanh. Ngày hôm đó khi mặt trời sắp lặn, chúng tôi đã leo đến lưng chừng một ngọn núi tuyết.

Dưới hoàng hôn tôi lại nhìn thấy một cảnh tượng quen thuộc: ngọn núi tuyết trong ánh chiều tà toát lên thứ cảm giác vừa ấm áp lại vừa buốt giá pha trộn lẫn nhau.

Ngày ấy, cũng dưới ánh nắng chiều giống như hôm nay, Muộn Du Bình đã bái lạy ngọn núi tuyết xa xôi. Nhưng lần này hắn không quỳ xuống nữa mà chỉ hờ hững liếc nhìn. Ánh tà dương hắt lên khuôn mặt hắn, toát ra cảm giác quạnh quẽ đến khôn cùng.

Muộn Du Bình đứng trên núi tuyết với vẻ mặt cực kỳ trang nghiêm. Tôi không biết thứ cảm xúc này là gì, nhưng tôi hiểu rõ đối với hắn những ngọn núi tuyết này có ý nghĩa vô cùng đặc biệt.

Tôi có thể tượng tượng được, trong lòng hắn lúc này nhất định không còn là một khoảng trống rỗng nữa. Mọi thứ nơi đây đều có chung nguồn gốc sâu xa với hắn, nhưng cụ thể là nguồn gốc ra sao thì tôi chẳng biết suy đoán theo hướng nào.

Muộn Du Bình cứ thế đứng lặng hồi lâu.

Đêm ấy chúng tôi không đi tiếp mà đào một cái hang trong đống tuyết đọng, trải bạt chống thấm lên trên rồi nhóm bếp lò không khói, cứ thế qua một đêm.

Ngày hôm sau, chúng tôi lại thu dọn hành lý xuất phát, tiếp tục đi sâu vào trong núi.

Trên đường đi chỉ có mình tôi thao thao bất tuyệt, nói về những điều tốt đẹp của thế giới này, kể cho hắn nghe còn nơi nào có món ăn ngon hết sẩy, chốn nào hắn chưa từng đặt chân tới.

Từ đầu đến cuối hắn vẫn im như thóc, nhưng cũng không tỏ vẻ chán ngán.

Kỳ thực tôi cũng chẳng rõ hắn cảm thấy hứng thú với điều gì, chỉ biết gắng sức lục lọi trong những chuyện đã trải qua cùng hắn để tìm ra thứ có khả năng khiến hắn để tâm.

Ví dụ như chuyện hắn luôn luôn dõi mắt ra ngoài cửa sổ chẳng hạn. Tôi cảm thấy có lẽ hắn đặc biệt thích những chuyến đi xa.

Ban đầu tôi còn có thể huyên thuyên khuyên nhủ hắn như cái máy, nhưng về sau đường ngày càng khó đi, thể lực của tôi tiêu hao càng lúc càng nhiều. Tôi cũng đành ngậm miệng không nói, lầm lũi tiến về phía trước.

Đi liên tục vài ngày, chúng tôi đã tiến vào một nơi nhìn ngút mắt cũng chỉ thấy những núi tuyết trắng xóa, mặt đất dưới chân đã biến mất hoàn toàn. Đứng từ trên cao quay đầu nhìn lại, những thôn xóm nơi chúng tôi xuất phát đều đã vượt ra khỏi tầm mắt.

Chương 100

Đưa mắt nhìn lại, tôi thấy dãy núi Trường Bạch trải dài ngút ngàn, đỉnh cao vực sâu bên trong phải đến hơn một nghìn, phần lớn là vắng dấu chân người.

Tôi không sao đoán nổi liệu con đường chúng tôi lên núi lần này có cùng một lối với lần trước hay không.

Còn nhớ, người dẫn đường của chúng tôi khi đó đã từng nhắc tên một số đỉnh núi, nào Tam Thánh tuyết sơn, nào Diêu Tử tuyết sơn. Hình dáng của những ngọn núi đó xem ra không hề giống với những gì tôi thấy lúc này.

Còn nhớ, Phan Tử vẫn làm đủ trò chòng ghẹo đúng lúc đúng chỗ, mà giờ đây cả cảnh lẫn người đều đã khác quá xa.

Ngày thứ ba, chúng tôi dựng lều bạt ngủ qua đêm. Chỗ này rất gần nơi lần trước chúng tôi lấy làm mốc mà chia hai ngả, ước chừng chỉ cách một ngày đường.

Đêm ấy, chúng tôi tìm được một khoảnh đất tương đối khô ráo để nhóm lửa. Ngồi trước đống lửa, hắn mới lặng lẽ ném cho tôi ánh mắt đầu tiên.

Tôi cũng ngước mắt đáp trả hồi lâu nhưng hắn không hề tỏ ý muốn bỏ cuộc, khiến tôi bắt đầu băn khoăn không biết ánh mắt hắn có thực sự đặt trên người tôi không.

Đến khi phát hiện ra đúng là hắn đang nhìn mình thật, tôi lại cảm thấy hết sức kỳ quái. Tôi ướm hỏi: “Trên người tôi có gì hay mà nhìn? Chẳng lẽ sau lưng tôi có quái vật?”

Hỏi đi hỏi lại mấy lần hắn vẫn không mảy may phản ứng, tôi mới nghĩ người này vào lúc bình thường cũng nào phải bình thường đâu, tình hình lúc này tôi nhất định không thể hiểu nổi, mà cũng chẳng cần tìm hiểu làm cái quái gì.

Nhưng một lát sau, hắn lại đột ngột hỏi xin tôi điếu thuốc.

Tôi đưa thuốc, cứ ngỡ hắn sẽ nhét vào miệng nhai luôn như lần trước, ai dè hắn lại đưa vào đống lửa để châm, sau đó thật sự bắt đầu hút.

“Ái dà, anh cũng biết hút cơ đấy.” Trong lòng tôi trộm giật mình.

Trong ánh lửa bập bùng, hắn đột nhiên hỏi: “Cậu định đi theo tôi tới khi nào?”

Tôi không khỏi sững sờ, độp ngay lại: “Chẳng liên quan gì đến anh, đây là chuyện của riêng tôi.”

Hắn tiếp lời: “Nếu ngày mai cậu còn đi theo tôi, chớ trách tôi đánh ngất cậu.”

Tôi nhìn vẻ mặt hắn cũng hiểu hắn tuyệt đối không đùa, không biết làm sao cho phải, lắp bắp kêu lên: “Anh… anh định làm gì? Đừng có làm bậy đấy.”

(làm bậy là làm dư lào, em nghĩ ảnh định mần gì em hở Tà :”> )

Hắn bảo: “Cậu sẽ không sao đâu.”

Tôi thật sự cảm thấy vừa tức vừa buồn cười, bèn nói: “Anh đừng hòng đánh ngất được tôi”

Hắn thản nhiên trả lời: “Thế thì ngay bây giờ cậu có thể chạy trốn, hoặc là từ giờ trở đi cách xa tôi ra một chút.”

Tôi hỏi: “Xa cỡ nào mới được?”

Muộn Du Bình đáp: “Chỉ cần cậu cách tôi trong vòng 100 mét, tôi vẫn có thể dùng đá ném ngất cậu. Tôi sẽ vác cậu đến một nơi an toàn, đến khi tỉnh lại thì cậu đã không thấy tôi đâu nữa.”

Trong một tích tắc kia tôi ngây ngẩn cả người. Tôi chợt nhận ra đoạn đối thoại này nghe qua có vẻ thú vị, song ý tứ ẩn chứa trong đó lại cực kỳ rõ ràng.

Hắn không muốn tôi tiếp tục đưa tiễn hắn. Hắn rõ ràng không tin lời tôi nói, rằng đến cuối chặng đường này tôi sẽ buông tay. Chiếu theo nhịp điệu riêng của mình, hắn cảm thấy giờ đã là lúc chia xa rồi.

Chương 101

Tôi kiên trì thuyết phục: “Anh không thể nghiêm túc cân nhắc thêm lần nữa sao? Hiện giờ anh làm như vậy thì có ý nghĩa gì đâu?”

“Cái gọi là ý nghĩa, nó có ý nghĩa sao?” Muộn Du Bình đối với cái từ “ý nghĩa” này tỏ ra có chút lưu tâm. Hắn đăm đăm nhìn đống lửa đang bốc cháy rừng rực, lại tiếp: “Cái từ ‘ý nghĩa’ này, bản thân nó đã không có ý nghĩa rồi.”

Tôi ngơ ngẩn nhìn hắn dễ phải đến ba phút, không còn gì để nói nữa, đành quay người chui vào trong lều.

Đến bó tay, tôi thật sự không còn lời nào để khuyên nhủ hắn rồi. Nếu có thể thì tôi rất muốn xông đến táng cho hắn mấy phát vào mồm, có lẽ chuyện hắn lập tức trở mình quay ra kẹp vỡ đầu tôi cũng không dễ xảy ra.

Có điều khả năng lớn nhất vẫn là tôi đánh không lại hắn, vì tốc độ của hắn không gì sánh được. Còn chửi mắng hắn thì có khác gì mắng cái đầu gối, chẳng đã chút nào.

(<— thế làm sao thì cháu mới sướng ┐(─__─)┌ đến khổ vì cái thói tờ sun vặn vẹo của cháu ┐(─__─)┌)

Có bao nhiêu lý lẽ đã rao giảng rã cả họng rồi, tôi biết rõ hiện giờ mình có làm gì cũng vô ích.

Dù sao cũng chỉ còn có một ngày đường, thay vì đi cùng hắn cho đến ranh giới tự mình đặt ra rồi tiếp tục vặn xoắn trong bất lực cho đến khi gục ngã, rốt cuộc bị hắn đập cho ngất xỉu, chi bằng buông tay ngay tại đây. Ít ra tôi còn có thể đứng lại nơi này mà chờ đợi, mà dõi mắt nhìn theo bóng hình hắn biến mất giữa đồng tuyết mênh mông.

Lúc này đây tôi đã hạ quyết tâm: tảng sáng ngày mai tôi sẽ quay về. Tôi sẽ đặt một dấu hiệu ở đây, sau đó hàng năm đều đến nơi này tảo mộ cúng bái.

Tôi chui vào túi ngủ nằm, trong lòng phiền muộn không sao tả xiết, không chợp mắt nổi. Nằm được hơn mười phút thì Muộn Du Bình cũng bước vào lều, bắt đầu sắp xếp lại đồ đạc của mình. Sắp xếp xong, hắn mới lên tiếng: “Tạm biệt.”

Tôi nói với hắn: “Làm bạn với tôi một lát đã, ngày mai hẵng đi. Tôi sẽ không đi theo anh nữa đâu.” Hắn gật gật đầu, lấy trang bị bảo hộ ban đêm rồi bước ra khỏi lều.

Người rất thân thiết với bạn một mực tìm đến cái chết nhưng bạn chỉ có thể trơ mắt đứng nhìn mà không sao ngăn cản được, giữa bạn và người kia tồn tại một vách ngăn dùng bất cứ thứ gì cũng không thể xuyên thấu.

Bạn chỉ có thể chạm vào vách ngăn kia mà không sao tìm ra một lỗ hổng để phá tan nó.

Quyết định rồi tôi cảm thấy vô cùng khổ sở, nhưng cũng mơ hồ cảm thấy dường như mình đã hiểu câu nói kia của Muộn Du Bình: cái từ “ý nghĩa” này, bản thân nó vốn đã không có ý nghĩa.

Tôi xoay mặt đi, nội tâm từ từ trở về với tĩnh lặng, cố gắng không để ý gì đến người bên ngoài nữa, cứ thế nhắm mắt dưỡng thần.

Thế rồi tôi thiếp đi lúc nào không hay. Cũng không biết ngủ được bao lâu, tôi lại bị một âm thanh lạ lùng đánh thức.

Thứ âm thanh này trong lúc mơ màng nghe cứ như có một đám người quái gở đang ca hát. Tiếng ca du dương êm ả, số người hát hình như cũng khá nhiều, lại cất lên ở nơi khỉ ho cò gáy này khiến người ta càng cảm thấy quái lạ.

Beta: Thanh Du

Chương 99

Những chuyện về sau không có gì đáng nói, cũng chẳng cần thiết phải liệt kê ra từng sự kiện làm gì.

Thấm thoắt đã qua ba ngày, chúng tôi tiến vào ranh giới vùng đất tuyết.

Mùa thu là mùa du lịch núi Trường Bạch làm ăn phát đạt nhất, bên ngoài vùng tuyết phủ có rất nhiều danh lam thắng cảnh, thậm chí còn được dùng làm chỗ tiếp tế. Tôi cực kỳ phấn khởi bổ sung nốt những trang bị cần thiết tại mấy điểm thắng cảnh ngoài vùng tuyết này.

Đi sâu hơn vào phía trong, qua khu vực giành cho khách du lịch chính là con đường nhỏ dẫn vào núi tuyết mà chúng tôi đã đi lần trước. Hiện giờ nó đã hoàn toàn thay đổi, nhưng Muộn Du Bình vẫn giải quyết êm thấm.

Hắn đi một mạch về phía trước, không ngừng xem xét núi non và hướng nắng xung quanh. Ngày hôm đó khi mặt trời sắp lặn, chúng tôi đã leo đến lưng chừng một ngọn núi tuyết.

Dưới hoàng hôn tôi lại nhìn thấy một cảnh tượng quen thuộc: ngọn núi tuyết trong ánh chiều tà toát lên thứ cảm giác vừa ấm áp lại vừa buốt giá pha trộn lẫn nhau.

Ngày ấy, cũng dưới ánh nắng chiều giống như hôm nay, Muộn Du Bình đã bái lạy ngọn núi tuyết xa xôi. Nhưng lần này hắn không quỳ xuống nữa mà chỉ hờ hững liếc nhìn. Ánh tà dương hắt lên khuôn mặt hắn, toát ra cảm giác quạnh quẽ đến khôn cùng.

Muộn Du Bình đứng trên núi tuyết với vẻ mặt cực kỳ trang nghiêm. Tôi không biết thứ cảm xúc này là gì, nhưng tôi hiểu rõ đối với hắn những ngọn núi tuyết này có ý nghĩa vô cùng đặc biệt.

Tôi có thể tượng tượng được, trong lòng hắn lúc này nhất định không còn là một khoảng trống rỗng nữa. Mọi thứ nơi đây đều có chung nguồn gốc sâu xa với hắn, nhưng cụ thể là nguồn gốc ra sao thì tôi chẳng biết suy đoán theo hướng nào.

Muộn Du Bình cứ thế đứng lặng hồi lâu.

Đêm ấy chúng tôi không đi tiếp mà đào một cái hang trong đống tuyết đọng, trải bạt chống thấm lên trên rồi nhóm bếp lò không khói, cứ thế qua một đêm.

Ngày hôm sau, chúng tôi lại thu dọn hành lý xuất phát, tiếp tục đi sâu vào trong núi.

Trên đường đi chỉ có mình tôi thao thao bất tuyệt, nói về những điều tốt đẹp của thế giới này, kể cho hắn nghe còn nơi nào có món ăn ngon hết sẩy, chốn nào hắn chưa từng đặt chân tới.

Từ đầu đến cuối hắn vẫn im như thóc, nhưng cũng không tỏ vẻ chán ngán.

Kỳ thực tôi cũng chẳng rõ hắn cảm thấy hứng thú với điều gì, chỉ biết gắng sức lục lọi trong những chuyện đã trải qua cùng hắn để tìm ra thứ có khả năng khiến hắn để tâm.

Ví dụ như chuyện hắn luôn luôn dõi mắt ra ngoài cửa sổ chẳng hạn. Tôi cảm thấy có lẽ hắn đặc biệt thích những chuyến đi xa.

Ban đầu tôi còn có thể huyên thuyên khuyên nhủ hắn như cái máy, nhưng về sau đường ngày càng khó đi, thể lực của tôi tiêu hao càng lúc càng nhiều. Tôi cũng đành ngậm miệng không nói, lầm lũi tiến về phía trước.

Đi liên tục vài ngày, chúng tôi đã tiến vào một nơi nhìn ngút mắt cũng chỉ thấy những núi tuyết trắng xóa, mặt đất dưới chân đã biến mất hoàn toàn. Đứng từ trên cao quay đầu nhìn lại, những thôn xóm nơi chúng tôi xuất phát đều đã vượt ra khỏi tầm mắt.

Chương 100

Đưa mắt nhìn lại, tôi thấy dãy núi Trường Bạch trải dài ngút ngàn, đỉnh cao vực sâu bên trong phải đến hơn một nghìn, phần lớn là vắng dấu chân người.

Tôi không sao đoán nổi liệu con đường chúng tôi lên núi lần này có cùng một lối với lần trước hay không.

Còn nhớ, người dẫn đường của chúng tôi khi đó đã từng nhắc tên một số đỉnh núi, nào Tam Thánh tuyết sơn, nào Diêu Tử tuyết sơn. Hình dáng của những ngọn núi đó xem ra không hề giống với những gì tôi thấy lúc này.

Còn nhớ, Phan Tử vẫn làm đủ trò chòng ghẹo đúng lúc đúng chỗ, mà giờ đây cả cảnh lẫn người đều đã khác quá xa.

Ngày thứ ba, chúng tôi dựng lều bạt ngủ qua đêm. Chỗ này rất gần nơi lần trước chúng tôi lấy làm mốc mà chia hai ngả, ước chừng chỉ cách một ngày đường.

Đêm ấy, chúng tôi tìm được một khoảnh đất tương đối khô ráo để nhóm lửa. Ngồi trước đống lửa, hắn mới lặng lẽ ném cho tôi ánh mắt đầu tiên.

Tôi cũng ngước mắt đáp trả hồi lâu nhưng hắn không hề tỏ ý muốn bỏ cuộc, khiến tôi bắt đầu băn khoăn không biết ánh mắt hắn có thực sự đặt trên người tôi không.

Đến khi phát hiện ra đúng là hắn đang nhìn mình thật, tôi lại cảm thấy hết sức kỳ quái. Tôi ướm hỏi: “Trên người tôi có gì hay mà nhìn? Chẳng lẽ sau lưng tôi có quái vật?”

Hỏi đi hỏi lại mấy lần hắn vẫn không mảy may phản ứng, tôi mới nghĩ người này vào lúc bình thường cũng nào phải bình thường đâu, tình hình lúc này tôi nhất định không thể hiểu nổi, mà cũng chẳng cần tìm hiểu làm cái quái gì.

Nhưng một lát sau, hắn lại đột ngột hỏi xin tôi điếu thuốc.

Tôi đưa thuốc, cứ ngỡ hắn sẽ nhét vào miệng nhai luôn như lần trước, ai dè hắn lại đưa vào đống lửa để châm, sau đó thật sự bắt đầu hút.

“Ái dà, anh cũng biết hút cơ đấy.” Trong lòng tôi trộm giật mình.

Trong ánh lửa bập bùng, hắn đột nhiên hỏi: “Cậu định đi theo tôi tới khi nào?”

Tôi không khỏi sững sờ, độp ngay lại: “Chẳng liên quan gì đến anh, đây là chuyện của riêng tôi.”

Hắn tiếp lời: “Nếu ngày mai cậu còn đi theo tôi, chớ trách tôi đánh ngất cậu.”

Tôi nhìn vẻ mặt hắn cũng hiểu hắn tuyệt đối không đùa, không biết làm sao cho phải, lắp bắp kêu lên: “Anh… anh định làm gì? Đừng có làm bậy đấy.”

(làm bậy là làm dư lào, em nghĩ ảnh định mần gì em hở Tà :”> )

Hắn bảo: “Cậu sẽ không sao đâu.”

Tôi thật sự cảm thấy vừa tức vừa buồn cười, bèn nói: “Anh đừng hòng đánh ngất được tôi”

Hắn thản nhiên trả lời: “Thế thì ngay bây giờ cậu có thể chạy trốn, hoặc là từ giờ trở đi cách xa tôi ra một chút.”

Tôi hỏi: “Xa cỡ nào mới được?”

Muộn Du Bình đáp: “Chỉ cần cậu cách tôi trong vòng 100 mét, tôi vẫn có thể dùng đá ném ngất cậu. Tôi sẽ vác cậu đến một nơi an toàn, đến khi tỉnh lại thì cậu đã không thấy tôi đâu nữa.”

Trong một tích tắc kia tôi ngây ngẩn cả người. Tôi chợt nhận ra đoạn đối thoại này nghe qua có vẻ thú vị, song ý tứ ẩn chứa trong đó lại cực kỳ rõ ràng.

Hắn không muốn tôi tiếp tục đưa tiễn hắn. Hắn rõ ràng không tin lời tôi nói, rằng đến cuối chặng đường này tôi sẽ buông tay. Chiếu theo nhịp điệu riêng của mình, hắn cảm thấy giờ đã là lúc chia xa rồi.

Chương 101

Tôi kiên trì thuyết phục: “Anh không thể nghiêm túc cân nhắc thêm lần nữa sao? Hiện giờ anh làm như vậy thì có ý nghĩa gì đâu?”

“Cái gọi là ý nghĩa, nó có ý nghĩa sao?” Muộn Du Bình đối với cái từ “ý nghĩa” này tỏ ra có chút lưu tâm. Hắn đăm đăm nhìn đống lửa đang bốc cháy rừng rực, lại tiếp: “Cái từ ‘ý nghĩa’ này, bản thân nó đã không có ý nghĩa rồi.”

Tôi ngơ ngẩn nhìn hắn dễ phải đến ba phút, không còn gì để nói nữa, đành quay người chui vào trong lều.

Đến bó tay, tôi thật sự không còn lời nào để khuyên nhủ hắn rồi. Nếu có thể thì tôi rất muốn xông đến táng cho hắn mấy phát vào mồm, có lẽ chuyện hắn lập tức trở mình quay ra kẹp vỡ đầu tôi cũng không dễ xảy ra.

Có điều khả năng lớn nhất vẫn là tôi đánh không lại hắn, vì tốc độ của hắn không gì sánh được. Còn chửi mắng hắn thì có khác gì mắng cái đầu gối, chẳng đã chút nào.

(<— thế làm sao thì cháu mới sướng ┐(─__─)┌ đến khổ vì cái thói tờ sun vặn vẹo của cháu ┐(─__─)┌)

Có bao nhiêu lý lẽ đã rao giảng rã cả họng rồi, tôi biết rõ hiện giờ mình có làm gì cũng vô ích.

Dù sao cũng chỉ còn có một ngày đường, thay vì đi cùng hắn cho đến ranh giới tự mình đặt ra rồi tiếp tục vặn xoắn trong bất lực cho đến khi gục ngã, rốt cuộc bị hắn đập cho ngất xỉu, chi bằng buông tay ngay tại đây. Ít ra tôi còn có thể đứng lại nơi này mà chờ đợi, mà dõi mắt nhìn theo bóng hình hắn biến mất giữa đồng tuyết mênh mông.

Lúc này đây tôi đã hạ quyết tâm: tảng sáng ngày mai tôi sẽ quay về. Tôi sẽ đặt một dấu hiệu ở đây, sau đó hàng năm đều đến nơi này tảo mộ cúng bái.

Tôi chui vào túi ngủ nằm, trong lòng phiền muộn không sao tả xiết, không chợp mắt nổi. Nằm được hơn mười phút thì Muộn Du Bình cũng bước vào lều, bắt đầu sắp xếp lại đồ đạc của mình. Sắp xếp xong, hắn mới lên tiếng: “Tạm biệt.”

Tôi nói với hắn: “Làm bạn với tôi một lát đã, ngày mai hẵng đi. Tôi sẽ không đi theo anh nữa đâu.” Hắn gật gật đầu, lấy trang bị bảo hộ ban đêm rồi bước ra khỏi lều.

Người rất thân thiết với bạn một mực tìm đến cái chết nhưng bạn chỉ có thể trơ mắt đứng nhìn mà không sao ngăn cản được, giữa bạn và người kia tồn tại một vách ngăn dùng bất cứ thứ gì cũng không thể xuyên thấu.

Bạn chỉ có thể chạm vào vách ngăn kia mà không sao tìm ra một lỗ hổng để phá tan nó.

Quyết định rồi tôi cảm thấy vô cùng khổ sở, nhưng cũng mơ hồ cảm thấy dường như mình đã hiểu câu nói kia của Muộn Du Bình: cái từ “ý nghĩa” này, bản thân nó vốn đã không có ý nghĩa.

Tôi xoay mặt đi, nội tâm từ từ trở về với tĩnh lặng, cố gắng không để ý gì đến người bên ngoài nữa, cứ thế nhắm mắt dưỡng thần.

Thế rồi tôi thiếp đi lúc nào không hay. Cũng không biết ngủ được bao lâu, tôi lại bị một âm thanh lạ lùng đánh thức.

Thứ âm thanh này trong lúc mơ màng nghe cứ như có một đám người quái gở đang ca hát. Tiếng ca du dương êm ả, số người hát hình như cũng khá nhiều, lại cất lên ở nơi khỉ ho cò gáy này khiến người ta càng cảm thấy quái lạ.

Editor: Thanh Du

Chương 102

Tỉnh lại rồi, tôi vừa mở mắt đã nhận ra đó là tiếng gió thét gào.

Căn lều bạt của tôi lắc lư dữ dội, hết nghiêng sang phải lại ngả sang trái, ngọn đèn bão chiếu sáng bên trong chao đảo muốn rơi xuống, ánh lửa lập lòe sáng tối bất định.

Tôi đứng dậy đi ra ngoài, thấy bốn phía nổi lên từng trận gió lốc, cơn cuồng phong cuốn lên vô vàn mảnh tuyết vụn, thốc thẳng vào khe núi. Muộn Du Bình đã đi mất dạng, hành lý của hắn cũng không thấy đâu nữa.

Không thèm chào nhau một tiếng đã đi rồi… Tôi sờ sờ đầu, xem xem có phải hắn đã thừa lúc tôi ngủ mà oánh tôi một cú cho ngất hẳn không. Trên đầu không có cảm giác gì, có lẽ hắn thấy tôi ngủ say nên cũng lười đánh ngất.

Tôi ngắm sắc trời, biết tình hình gay go to rồi. Xem ra đây chính là trận tuyết lớn đầu mùa ở núi Trường Bạch, với thời tiết này, nếu vẫn cứ nhùng nhằng ở đây chắc chắn sẽ tiêu đời.

Nếu còn đi sâu hơn vào trong núi, con đường phía trước chính là cửu tử nhất sinh. Tôi thấy Muộn Du Bình để lại toàn bộ đồ ăn, hiểu rõ kết cục này đã định, trong lòng bùi ngùi mãi không thôi.

Gió càng ngày càng dữ dội, lều bạt hứng gió, xém chút nữa đã bị thổi bay. Tôi xem đồng hồ, giờ quay về đi cỡ ba ngày đường là có thể đến khu tiếp tế.

Mà cuốn gói càng sớm thì khả năng bị bão tuyết đuổi kịp lại càng nhỏ, vì thế tôi bắt đầu thu dọn đồ đạc mang theo.

Khi đã gói ghém xong xuôi, tôi chợt thấy lớp tuyết đọng trên sườn dốc xung quanh bị gió thổi bay mù mịt giữa không trung, tựa như bất cứ lúc nào cũng có thể sụp xuống.

Trước đây, tôi cứ đinh ninh Muộn Du Bình vẫn còn cơ hội sống sót. Thậm chí sau khi trở về khu du lịch, nếu tôi báo cho người ta biết trong núi có người mất tích, nhiều khả năng còn nhờ được họ lên núi tìm kiếm, nếu đông người không chừng có thể trói cứng Muộn Du Bình khiêng về. 

Vầng bạn vẫn chưa từ bỏ âm mưu bắt nhốt người trái phép ợ =,=

Nhưng dưới thời tiết này, e rằng có phái cả một đại đoàn hay sư đoàn đi tìm thì Muộn Du Bình cũng không còn cơ hội sống sót.

Thôi như thế cũng tốt, hắn không có thân nhân, coi như chẳng vướng bận gì.

Trung Quốc có một câu cổ ngôn: nuốt quả cân, lòng hóa sắt đá. Chuyện Muộn Du Bình đã quyết, không ai có thể thay đổi.

Tôi đi đến đây coi như đã hết trách nhiệm của mình đối với hắn rồi. Cố gắng đè nén cảm giác bi thương đến cực độ trong lòng, tôi bắt đầu quay người rời bước.

Gió càng lúc càng ác liệt, tôi mới đi được vài bước, bỗng lớp tuyết đọng trên sườn núi phía trước bắt đầu trượt xuống từng mảng lớn, con đường trước mặt trở nên ngày càng khó đi.

Đi thêm mấy trăm mét, tôi vượt qua một cái thung, phát hiện tình hình không ổn. Tòa núi trước mặt đã sụp đổ hoàn toàn, chỉ thấy những đụn tuyết lớn trước đây chưa từng gặp.

Tôi bò lên cao vài mét, vừa nhìn xuống đã choáng váng mặt mày. Những đụn tuyết này đã vùi lấp toàn bộ con đường tôi đi tới đây, khiến tôi không tài nào nhìn ra đường về nằm ở đâu nữa.

Tôi châm điếu thuốc, rít vài hơi, cân nhắc xem mình nên làm gì bây giờ. Dẫu sao nơi này cũng khá gần với khu du lịch, dù chuyện gì xảy ra tôi vẫn có cách thoát ra ngoài, chỉ e lỡ đâu mình đi sai hướng thì phiền phức to.

Tuy hết sức thương tâm cho vận mệnh của Muộn Du Bình, nhưng cứ nghĩ mình rất có thể còn chết sớm hơn cả hắn, tôi cũng cảm thấy tương đối đau đầu.

Giống như có một người bệnh nặng hấp hối, bạn đến thăm anh ta căn bản là để chuẩn bị đưa tiễn anh ta về nơi chín suối. Nhưng đến nơi rồi, cái người đang thoi thóp sắp ngỏm kia lại vác một khẩu tiểu liên phục sẵn chờ bạn. Thấy bạn đến, anh ta pằng pằng pằng lia cho bạn nguyên một băng đạn, đợi bạn giãy chết trong vũng máu mới ung dung chui vào quan tài. 

Hợ, iem bái phục trí tưởng tượng siêu hơn cả Fristi của anh rồi đấy =)))))

Bạn nằm trên mặt đất, chính mắt nhìn thấy máu trong thân thể mình không ngừng tuôn ra như suối, cảm xúc trong lòng lúc ấy sẽ phức tạp đến nhường nào? 

Chương 103

Cảm giác của tôi bây giờ chính là như thế.

Hút thuốc xong, tôi tiếp tục bò lên cao, bất ngờ phát hiện trên đỉnh đầu mình lăn xuống vô số quả cầu tuyết to cỡ nắm tay.

Những quả cầu tuyết này lớn nhỏ không đều, dễ nhận thấy chúng hình thành hoàn toàn tự nhiên. Tôi ngẩng đầu nhìn lên, thấy lớp tuyết đọng phía trên đã bắt đầu sạt lở dữ dội, từng mảng tuyết phủ trên sườn núi liên tục nứt gãy, trượt dài xuống phía dưới.

Tôi hết sức cẩn thận bò lên cao, lên đến đỉnh núi không ngờ lại tìm ra con đường tiếp tục tiến về phía trước.

Cảm xúc trong lòng dần dần dịu xuống, tôi thuận thế trượt từ đỉnh núi xuống sườn phía bên kia, cũng chính là sườn núi phía nam.

Tôi ngẩng đầu nhìn lên, vừa hay trông thấy mặt trời mọc lên sau rặng núi xa, sườn núi đối diện bỗng chốc biến thành một mặt gương khổng lồ. Tôi cảm thấy toàn thân dâng lên cảm giác mờ mịt khó tả, quang cảnh xung quanh bỗng chốc chuyển thành màu hồng phấn rồi dần dần trở nên mơ hồ.

Tôi ngẩn người, nghĩ bụng chuyện gì đang xảy ra vậy? Ngay lập tức tôi đã hiểu ra đây là chứng quáng tuyết. Nhắm nghiền hai mắt, tôi biết từ giờ mình đã không thể dùng đôi mắt này nữa rồi.

Nếu còn cố tình mở mắt, quang cảnh phía trước sẽ hoàn toàn biến thành màu đen, không thể nhìn thấy bất cứ thứ gì.

Bị quáng tuyết phải mất từ một đến ba ngày mới hồi phục lại như cũ, nếu vì thế mà tôi bị kẹt cứng ở đây thì không những chết sớm hơn mà thậm chí còn chết thảm hơn Muộn Du Bình nữa.

Mình đang nghĩ đi đâu đây?

Tôi nhắm nghiền hai mắt, trong lòng vô cùng ảo não. Lần trước khi đến đây bầu trời xám xịt mây, nào có cơ hội được biết quáng tuyết là gì, cho nên lần này không hề chuẩn bị gì cả, ai mà biết lại gặp chuyện đen đủi này. Tiên sư nó chứ, lần này đúng là tự mình đâm đầu đi tìm chết rồi.

Quáng tuyết là một chứng bệnh hết sức kì lạ, người ta thường cho rằng bệnh này phát sinh do võng mạc bị ánh sáng cường độ quá mạnh kích thích nên tạm thời rơi vào trạng thái mù.

Thường thì chỉ cần nghỉ ngơi mấy ngày thị lực tự khắc sẽ khôi phục như cũ. Người đã từng bị quáng tuyết nếu không chú ý rất có thể sẽ tiếp tục bị quáng, mà lần quáng tuyết sau bệnh tình lại càng thêm nặng nề.

Bị quáng tuyết nhiều lần sẽ khiến thị lực người ta dần dần suy yếu, về lâu về dài mắt sẽ bị tật, nếu nghiêm trọng thậm chí có thể mù vĩnh viễn.

Chương 104

Khi đi trên đồng tuyết, bình thường người ta đều đeo kính bảo hộ, không thì dùng kính râm bình thường cũng có thể ngăn ngừa hoặc giảm bớt tác động của chứng quáng tuyết.

Nhưng người Mỹ còn có một công trình nghiên cứu đưa ra kết luận chứng quáng tuyết thực ra là do hai mắt không tìm thấy vật thể làm tiêu điểm trong đồng tuyết (thường thì đứng trên núi tuyết chỉ có thể nhìn thấy một sắc trắng thuần), hai mắt căng thẳng quá độ mà thành tật.

Chứng quáng tuyết rất hiếm khi gây mù vĩnh viễn, nhưng một khi xuất hiện bệnh trạng thì tuyệt đối không được mở mắt, phải để đôi mắt có thời gian nghỉ ngơi.

Nói cách khác, căn cứ vào tình hình hiện tại, ước chừng mười hai giờ sau tôi mới có thể yên tâm mở mắt. Còn bây giờ dù thi thoảng hé mắt ra ngó đường một cái cũng phải cực kì cẩn thận.

Cũng có nghĩa là tôi chắc chắn phải ở lại đây một khoảng thời gian khá dài.

Nghĩ đến đây tôi cảm thấy cực kì cực kì ảo não, trong lòng tự nhủ tại sao khi lên xuôi chèo mát mái là thế mà đến lúc về lại thê thảm bậc này. Nếu trên đường tới đây tôi gặp chuyện bất trắc, có khi Muộn Du Bình còn phải đưa tôi về.

Nếu sớm đoán trước được chuyện này, mấy ngày qua tôi đã kiếm cớ tự đánh cho chân mình cà nhắc rồi. 

Iem bó tay với bạn Tà, để níu chân chồng bạn không tiếc tự đánh què chân mình, thật là tềnh thâm ý thiết quá xá -_-

Còn đang nhớ lại chuyện cũ mà sinh ấm ức, tôi chợt cảm thấy dưới mông lỏng lẻo, thế rồi nguyên mảng tuyết tôi đang ngồi bỗng trượt xuống.

Mảng tuyết phủ trên sườn núi một khi đã trượt xuống thì hoàn toàn không thể phanh lại, tôi còn chưa kịp phản ứng đã thấy mình vừa lăn vừa trượt thẳng xuống dưới, hai tay chỉ biết quơ quào loạn xạ khắp bốn vùng quanh.

Giờ khắc này không thể nhắm mắt nữa rồi, đã mấy lần tôi vùi tay thật sâu vào tuyết, mong tạo ra lực cản giữ mình dừng lại, song mỗi lần nắm tay chỉ làm lở xuống một khối tuyết lớn hơn.

Tôi vừa la hét trong kinh hoàng vừa lăn thẳng xuống triền dốc. Tôi biết dưới kia là một vách núi dựng đứng, độ cao bét ra cũng có 30m. Dù bên dưới phủ một tầng tuyết dày đi chăng nữa thì tôi cũng không thể bình yên vô sự.

Trước kia tôi có thể nhủ thầm chết thì chết sợ quái gì, nhưng hiện giờ lại không tài nào chấp nhận kết cục ấy. Tôi hoảng hốt quơ quào loạn xạ, nhưng ngay sau đó thân thể đã trượt ra khỏi vách núi, chơi vơi ngã xuống.

Khi rơi khỏi sườn núi được chừng 6, 7m, tôi nhận thấy cảnh vật xung quanh dường như đã biến thành một thước phim quay chậm, thậm chí tôi hoàn toàn có thể nhìn rõ quỹ đạo kỳ quái của những khối tuyết rơi xuống theo mình.

Tiếp đó tôi gần như ngã ngửa vào tuyết.

Từ độ cao 30m ngã xuống một lớp tuyết xốp như bông, nghĩ kĩ thì đây có lẽ là một chuyện đặc biệt thú vị. Tôi cũng không rõ thân thể mình vùi sâu vào tuyết đến chừng nào, nhưng chắc chắn nếu có người đứng trên mặt tuyết, nhất định sẽ thấy một cái hố hình người với tư thế cực kì quái gở.

Tuyết ở nơi này đặc biệt xốp, sau khi tôi ngã xuống, vô số mảnh tuyết vụn trên miệng hố cũng rơi xuống theo, đập thẳng vào mặt khiến đầu tôi ong ong nhức buốt. Nhưng rất may khi ngã xuống tôi cảm thấy mình không đập phải vật gì cứng rắn. Nếu trong tuyết có một vài tảng đá ngầm thì chắc chắn tôi không thể có cảm giác như hiện giờ.

Tôi gạt gạt lớp tuyết phủ trên mặt, cố gắng bò lên, thò đầu ra khỏi hố. Còn chưa kịp chửi thề mấy tiếng cho bõ tức, tôi bỗng cảm thấy phía trên hình như bị một cái bóng che phủ. Ngẩng đầu nhìn lên, vừa hay thấy mảng tuyết bị tôi khuấy động ban nãy giờ đang từ từ trượt xuống khỏi vách núi.

Thì ra cái bóng kia chính là mảng tuyết phủ trên triền núi. Nhìn thoáng qua, tôi ước chừng sẽ có khoảng một tấn tuyết đổ ụp xuống mặt mình, một lần nữa đẩy tôi xuống đáy hố sâu.

————————————————————-

Dự báo chương sau: Anh hùng cứu bựa nhân :”>

Editor: Thanh Du

Chương 105

Tuyết vụn giống như những hạt cát nhỏ nhanh chóng lấp kín mọi khoảng trống xung quanh tôi, kể cả mũi lẫn miệng.

Tôi cố gắng đào bới, chợt phát hiện ra tuyết vụn đã phủ lên mặt hố một lớp cực dày, chôn vùi tôi kín mít như lấp một nấm mồ, dù bới mỏi tay cũng không sao tìm nổi một vị trí có thể thoát ra.

Đến khi không nhịn nổi nữa, tôi bắt đầu hít thở, nhưng vừa hít một cái vụn băng đã chui đầy vào mũi.

Chìm dưới đống tuyết so với chìm vào trong nước có một điểm khác biệt rất rõ ràng, đó là tuyết không phải một khối đặc, bên trong còn chứa vô số không gian nhỏ tràn đầy không khí.

Tôi xoay trái xoay phải, nén tuyết xung quanh lộ ra một khoảng không nhỏ, thở gấp vài hơi. Tuy chưa đến mức hoảng hốt sợ sệt nhưng vẫn cảm thấy lồng ngực tức anh ách, đầu óc choáng váng.

Đúng vào lúc tôi đắm chìm trong tuyệt vọng, bên tai bỗng nghe thấy tiếng động gì đó từ ngoài kia truyền vào. Tiếp theo, đôi tay không ngừng quơ quào loạn xạ bị người nào đó túm lấy, thế rồi toàn thân tôi được kéo ra khỏi hố tuyết.

Tôi há mồm thở dốc, sau đó lại thấy Muộn Du Bình túm lấy gáy áo tôi, dốc sức kéo tôi đứng lên trên nền đất tuyết.

Trước mắt tôi vẫn là một màu hồng phấn mông lung, mờ mờ ảo ảo. Thấy hắn, tôi không dưng nổi giận vô cớ, sẵng giọng: “Anh còn vác xác về đây làm gì?”

Bạn dỗi kìa =))))))

Hắn nhìn tôi chằm chằm, lại nhìn vách núi trên đầu rồi đáp: “Tôi nghe tiếng cậu kêu cứu.”

Nền đất tuyết truyền âm cực nhạy, hơn nữa tôi còn ở đầu gió, hắn nghe thấy tiếng tôi cũng không lạ. Tôi chỉ nghĩ bụng, quái, lúc ấy tôi đang ân cần hỏi thăm mười tám đời tổ tông nhà anh cơ mà.

Tôi đứng lên, nheo mắt nhìn quanh, lập tức hiểu ra hắn nhất định đã nhảy xuống từ độ cao 30m, trong lòng không khỏi cảm động.

Cuối cùng hắn cũng trở về. Tôi bỗng có cảm giác phải chăng hắn đã thông suốt ít nhiều, đây chẳng phải là cơ hội trời cho để tôi thuyết phục hắn sao? Hắn còn quay lại, chứng tỏ hắn còn lưu luyến thế gian này.

Thực ra ảnh chỉ lưu luyến mình anh thôi Tà à, không nghe người ta nói cậu là mối liên hệ duy nhất của tôi với thế giới sao?

Nhưng tôi còn chưa kịp mở miệng, hắn đã giành nói trước.

“Cậu mau theo tôi.” Muộn Du Bình nói, “Đây là một cái khe cụt, càng ngày sẽ càng nhiều tuyết sụp xuống. Trước tiên hãy đi tới trung tâm khe núi này đi.” Hắn chỉ bốn vùng quanh.

Ngay sau đó tôi phát hiện ra nơi này bốn phía đều bị bao phủ bởi những vách núi cao trên 30m, không kiềm được một tiếng chửi thầm.

Tôi nhìn quanh quất bốn phía nhưng hoàn toàn không thấy bất cứ lối đi nào thông ra bên ngoài, kế đó, tôi thấy Muộn Du Bình tự nắm cổ tay mình.

Mặt vẫn hoàn toàn lãnh đạm, nhưng một tay hắn lại đang nắm chặt cổ tay bên kia. Tôi vội hỏi: “Làm sao thế? Anh bị thương à?” Hắn thờ ơ đáp: “Chẳng sao cả, trước khi đến đây tay hơi trật chút thôi, giờ vẫn chưa lành.”

Tôi thở dài một hơi, muốn mang ba lô giùm hắn, hắn lại xua tay ngăn cản. Tôi bỗng nhận ra cánh tay hắn uốn thành một độ cong kì lạ, nhìn qua đủ biết nó đã gãy rồi.

Chương 106

Tôi không khỏi nhíu mày: “Tay anh làm sao thế? Gãy rồi phải không?”

Muộn Du Bình đáp: “Trước khi gặp lại cậu đã gãy rồi, vừa mới bình phục chút ít, ban nãy nhảy xuống lại vung hơi mạnh.”

tsun chúa là đây…

Tôi ngây ngẩn hồi lâu, rồi không nén nổi một nụ cười.

Mọi chuyện đột ngột phát sinh theo hướng này, quả thực đã vượt quá dự liệu của tôi.

Giờ đây hai chúng tôi đã bị vây khốn, tôi còn có triệu chứng quáng tuyết thời kì đầu. Sắc trời ngày càng xấu, Muộn Du Bình vì cứu tôi mà gãy xương cổ tay, tôi đã không còn nhiều lựa chọn nữa.

Nếu không thể kéo hắn quay về, tôi chỉ còn cách cùng hắn đi tiếp chặng đường này, đi mãi đi mãi đến khi nào hắn đánh ngất tôi mới thôi. Bằng không, chuyện lần này thật không biết nên khuyên bảo hắn thế nào cho phải.

Xương cổ tay gãy hẳn là đau nhức vô cùng, tôi nhìn qua hành trang của mình, muốn tìm thứ gì đó hữu dụng để sơ cứu tạm thời cho Muộn Du Bình.

May mà trong hành lý không có món gì bị vỡ, ba lô với đống đồ ăn vẫn còn xài ngon. Có mấy thứ bị văng ra ngoài trong lúc tôi lăn lộn quẫy đạp giờ đã vùi sâu dưới tuyết, tài thánh cũng không mò được, nhưng mấy món đồ ăn quan trọng nhất gói bằng túi nhựa vẫn không suy suyển gì.

Tôi tìm một sườn dốc phủ tuyết, bẻ hai que băng thay nẹp để cố định cổ tay Muộn Du Bình. Gió ở nơi này không quá dữ dội, nhưng phía trên thi thoảng lại có những quả cầu tuyết bị thổi xuống, nện lên đầu chúng tôi, đau như chí cắn. Lỡ như có quả cầu tuyết bự hơn chút nữa hoặc trong ruột chứa khối băng rơi trúng đầu, rất có thể chúng tôi sẽ bị tổn thương.

Tôi băng bó giùm hắn rồi lựa lời khuyên nhủ: “Tôi cóc cần biết anh muốn làm chuyện gì, trước tiên anh nhất định phải đi đến một nơi nào đó. Nhưng với tình trạng sức khỏe của anh bây giờ thì không chừng đi được nửa đường đã mất mạng, tôi thấy tốt nhất anh nên quay lại dưỡng thương cho tốt. Không bằng chúng ta về nhà trước.”

Hắn lắc đầu, lặng lẽ nói: “Chỉ là chuyện vặt thôi, cậu về đi.”

Tôi kiên trì: “Anh cứu tôi nên mới gãy tay, nếu vì thế mà kế hoạch cuối cùng của anh thất bại thì tôi không đành lòng chút nào, nên tôi nhất định phải đi theo anh.”

Hắn nói: “Vậy thì tôi chỉ có thể dùng đến biện pháp đã nói tối qua.”

“Được, tùy ý anh thôi, nếu anh thật sự đánh ngất tôi thì tôi cũng không còn gì để nói. Nhưng tôi mong anh hiểu rõ một điều, nếu anh cần có người cùng anh đi đến cuối con đường này, tôi nhất định sẽ không từ chối.”

Tôi tiếp lời, “Tôi muốn theo anh, đây là quyết định của riêng tôi, cho nên anh đừng có nhiều lời.”

*Fangirl già đã hết hơi để gào rú trước đống hint tát bôm bốp vào mặt này, đành nhường phần cho những fangirl trẻ trung hơn….*

Bầu không khí lại rơi vào im lặng, Muộn Du Bình nhiều lời đột xuất như vậy khiến tôi có cảm giác hắn cũng thật sự bó tay với tôi rồi. Hai người trầm mặc trong chốc lát rồi lại tiếp tục cất bước.

Khi tiến vào khe núi, Muộn Du Bình nói: “Trận bão tuyết đầu mùa sẽ đến trong vòng ba ngày tới, nếu chúng ta không thể trở về suối nước nóng lần trước, cả hai sẽ chết hết ở chỗ này. Trái lại nếu quay đầu, cậu sẽ rất nhanh trở về thế giới của mình.”

Muộn Du Bình muốn cho tôi biết, dù tôi có muốn tiếp tục đi cùng hắn thì sự tình cũng không dễ dàng như tôi tưởng. Nhưng tôi đã hạ quyết tâm nên không thèm để ý hắn nói gì nữa, thậm chí không thèm suy xét những điểm hợp lý trong lời hắn nói.

Tôi đáp trả: “Tôi muốn đi tiếp, đây là lựa chọn của bản thân tôi.” Tôi sửa soạn lại đống hành lý, định san bớt đồ của hắn sang túi mình nhưng hắn nhất quyết không chịu, giành lấy túi đồ rồi đeo lên vai. Hành trang của hắn không nhiều nhưng trọng lượng cũng khá lớn, đè nặng trĩu lên đôi vai ấy.

Chương 107

Chúng tôi tiếp tục tiến lên tìm đường ra khỏi khe núi phủ tuyết này, cuối cùng phát hiện ra một nơi có thể leo lên hiện đang bị vùi dưới lớp tuyết dày. Tôi rút cái cuốc chim cạo sạch tuyết, tìm điểm đặt chân trên vách đá rồi leo lên từng chút từng chút một, đến tối lại dựa người vào vách núi mà nghỉ ngơi. Mãi đến giữa trưa ngày thứ hai, chúng tôi mới leo lên khỏi vách núi cao 30m.

Cả hai tiếp tục gian nan tiến về phía trước. Tôi lẳng lặng bám theo Muộn Du Bình, cho đến hoàng hôn quãng đường đi được còn chưa tới 20 km, nhưng chúng tôi cũng bắt đầu phát hiện ra những vệt tuyết tan xung quanh. Muộn Du Bình căng tai lên mà nghe, cẩn thận lần mò, rốt cuộc cũng tìm thấy khe núi đã bị chôn vùi dưới tuyết.

Khi màn đêm buông xuống, nhiệt độ hạ thấp hơn tôi tưởng rất nhiều. Chúng tôi chui vào khe núi, đi tới đúng con suối nước nóng cả hai từng nghỉ ngơi lần trước. Bên bờ suối tôi nhóm lửa sưởi ấm, còn đun một ít nước sôi.

Tôi không có tâm trạng ăn uống nên chẳng thèm động đũa, còn Muộn Du Bình thì hình như căn bản không hề muốn ăn. Nghỉ ngơi ngoài miệng khe núi một thời gian ngắn, chúng tôi tiếp tục tiến sâu hơn. Lúc này tôi đã hiểu rất rõ Muộn Du Bình muốn đi đâu rồi, chắc chắn hắn muốn đến chỗ cánh cửa thanh đồng. Đó là nơi đã đảo lộn hoàn toàn nhân sinh quan của tôi, thật lòng mà nói tôi tuyệt không muốn nhìn thấy nó thêm một lần nào nữa.

Nhưng hiển nhiên đích đến của Muộn Du Bình chính là nơi này. Từ khe núi này một mạch tiến vào trong, chẳng mấy chốc đã đến chỗ kia, không cần phải vượt qua cả tòa Vân Đỉnh thiên cung làm gì.

Tôi nhớ lại những nhân diện điểu kia, không biết giờ này ra sao rồi. Đêm đó tôi nằm mơ thấy tôi đi cùng Muộn Du Bình đến trước cửa thanh đồng, Muộn Du Bình nói lời tạm biệt rồi cứ thế bước vào, để tôi bơ vơ đứng ngoài. Tôi vừa quay đầu lại đã thấy vô số nhân diện điểu đang nhìn mình chằm chằm, thế rồi tôi giật mình tỉnh giấc. Thức dậy rồi, lại thấy Muộn Du Bình không ngủ mà đang sắp xếp lại đồ đạc của mình.

Tôi hỏi hắn muốn làm gì, hắn đáp:”Tôi đang xem xét món đồ nào cậu dùng được để còn lưu lại cho cậu. Trên đường trở về, rất có thể cậu sẽ phải dùng đến nó.”

“Vậy còn anh thì sao?” Tôi giật mình hỏi.

“Ở nơi này, cho dù tôi chỉ là hài đồng mới sinh cũng chẳng quan trọng, tôi đã đến rất gần với mục đích của mình.” Hắn thờ ơ đáp,”Cậu không nên đi sâu hơn nữa, bên trong rất nguy hiểm.”

Chớ anh nghĩ nếu không nguy hiểm thì sao Tà phải liều mạng chạy theo kéo anh về hở = =

Chương 108

Tôi kinh ngạc nhìn Muộn Du Bình lấy từ hành lý của hắn ra hai khối Quỷ ngọc tỷ, ngẫm nghĩ một lát rồi giao cho tôi một khối.

“Cậu đã đến đây rồi, tôi nghĩ cũng nên cho cậu biết một chuyện”, hắn nói, “Cậu mang Quỷ ngọc tỷ này về đi, tôi chỉ cần một khối là đủ rồi.”

Vầng có một điều khó hiểu là tại sao chỉ cần 1 khối cũng mở được cửa mà anh lại mang theo những 2 khối cho nặng ạ, phải chăng… :”>

“Anh lấy cái này ở đâu thế?”

“Hoắc lão thái thái đưa cho tôi”, Muộn Du Bình đáp, “Lúc các cậu không để ý.”

“Cái này dùng để làm gì?” Đã chẳng còn hứng thú muốn biết rốt cuộc sau lưng mình xảy ra những chuyện gì, tôi vào thẳng vấn đề.

Muộn Du Bình đáp: “Mở cửa.”

Tội nhận lấy Quỷ ngọc tỷ, hắn lại tiếp: “Mười năm sau nếu còn nhớ đến tôi, cậu hãy mang theo vật này đến đây, mở ra cánh cửa thanh đồng. Tôi sẽ chờ cậu đằng sau cánh cửa ấy.”

“Sau cánh cửa kia rốt cuộc là nơi nào?”, tôi hỏi ngược lại, “Tại sao anh phải vào đó?”

“Tôi không thể cho cậu biết đó là một nơi như thế nào”, Muộn Du Bình nói, “Tôi chỉ có thể tiết lộ về một giao ước mà thôi. Rất lâu về trước, tôi đã mang theo bí mật này tìm đến những người mà các cậu gọi là Lão Cửu Môn. Có thể cậu chưa biết, tổ huấn của Trương gia luôn lấy bảo toàn làm mục tiêu hàng đầu. Trong quá trình phát triển của Trương gia, người trong gia tộc này đều mong muốn Trương gia có thể tồn tại dù thời đại loạn lạc đến đâu. Do đó theo thông tin mà tôi có được, khu lăng mộ trong Trương gia cổ lâu lưu giữ một bí mật cực lớn mà chỉ có tộc trưởng mới biết. Trương gia đã có được bí mật này ngay từ khi mới hình thành.

Bí mật này cứ âm thầm trôi trong dòng chảy vô tận của lịch sử Trung Quốc mà không ai được biết nó là gì. Chúng tôi chỉ biết bí mật đó thực sự tồn tại và bản thân nó có một thời điểm then chốt, mà hiện giờ chính là thời điểm then chốt ấy, ngay sau khi hy vọng tồn tại cuối cùng của Trương gia sụp đổ.

Tôi đã tìm được Lão Cửu Môn đương nhiệm, hy vọng có thể mượn thế lực của họ trợ giúp cho Trương gia, cùng chung tay gánh vác trách nhiệm giữ kín bí mật này. Thế nhưng trong Lão Cửu Môn lại không một ai tuân thủ lời hứa.”

“Tôi muốn bảo vệ điểm cốt lõi của bí mật này nằm sau cánh cửa thanh đồng. Để bảo vệ nó cần rất nhiều thời gian, tôi sẽ đi vào cửa thanh đồng trấn giữ mười năm, chờ đợi người kế nhiệm.”

“Vì sao bọn họ không chịu tuân thủ lời hứa?”

“Vì trong vòng một trăm năm trước, tất cả những người bảo vệ bí mật này đều là người của Trương gia, do đó thực lực của Trương gia mới bị suy yếu. Theo thỏa thuận ban đầu giữa chúng ta, người trong Lão Cửu môn phải luân phiên nhau bảo vệ bí mật này.”

“Nhưng rồi bọn họ không ai giữ lời sao?”

Muộn Du Bình gật đầu: “Tôi đã là Trương Khởi Linh cuối cùng của Trương gia, nhiệm vụ canh giữ từ nay về sau đều do tôi gánh vác. Nhưng cậu đã đến đây rồi thì tôi cũng cho cậu biết, mười năm sau nếu còn nhớ đến tôi, cậu có thể mở cánh cửa thanh đồng đến thay thế cho tôi.”

Chương 109

“Khoan đã”, tôi mất một lúc mới tiêu hóa hết mấy thông tin này, lại hỏi: “Theo như lời anh nói thì Lão Cửu Môn phải luân phiên nhau gánh vác trách nhiệm. Vậy Trương gia các anh đã truyền qua nhiều đời rồi sao?”

Muộn Du Bình gật đầu, tôi lại hỏi: “Nếu không gặp phải chuyện ngoài ý muốn, chiếu theo giao ước thì giờ đến phiên ai trong Lão Cửu Môn?”

“Cậu”, Muộn Du Bình đáp gọn lỏn.

Là tôi? Tôi ngẩn người: “Ý anh muốn nói, vốn dĩ tôi mới là người phải đi vào cánh cửa thanh đồng chờ đợi mười năm sao?”

Muộn Du Bình gật đầu, tôi còn định bảo anh nói rõ ràng hơn chút đi, hắn đã đột ngột đưa tay điểm một cái vào sau cổ tôi, tôi liền mất đi tri giác.

Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy Muộn Du Bình. Sau khi tỉnh lại, ngoại trừ Quỷ ngọc tỷ hắn để lại cho tôi, mọi thứ liên quan đến hắn đều đã biến mất.

Tôi điên cuồng lao đi tìm hắn, tìm đến nơi sâu nhất trong khe núi mới biết thì ra trong đó chẳng có con đường nào cả.

Con đường dẫn chúng tôi đến đây lúc trước không ngờ đã đóng lại. Còn nhớ lần trước khi Muộn Du Bình bò qua cái khe này, hắn bỗng dưng biến mất rồi đột ngột xuất hiện ngay trước mắt tôi, có lẽ lúc ấy hắn đi khởi động cơ quan nào đó nên mới có đoạn đường về sau?

Tôi mòn mỏi đợi chờ ba ngày, đến khi cơn bão tuyết dần dần dịu lại, tôi mới hoàn toàn tuyệt vọng.

Lầm lũi trở về.

Cuối cùng tôi cũng về tới Hàng Châu. Khi dạo bước bên bờ Tây Hồ, trời bỗng đổ cơn mưa lất phất. Tôi nhớ lại tất cả những chuyện đã qua, nghĩ tới kết cục của từng người, đột nhiên cảm thấy mệt mỏi, mệt mỏi rã rời.

Không hiểu vì sao, nước mắt tôi cứ lã chã tuôn rơi. Tôi trở về cửa hàng của mình mà tưởng như quay về với tháng ngày xa xưa trong dĩ vãng, khi mọi chuyện chưa hề xảy ra.

Tôi cứ ngỡ sau khi mình đã hoàn thành tất cả, vẫn còn một điều gì đó lưu lại, thật không ngờ đã chẳng còn gì nữa.

Nhưng tôi biết mình không thể ngừng chân, mình phải tiếp tục con đường phía trước, bởi vẫn còn đó một lần mười năm.

*Fangirl già đã chết lặng con tym, một lần nữa nhường lời cho lớp trẻ :(((((*

Chương 110

Chuyện đến đây có lẽ đã hoàn toàn kết thúc, những điều có thể biết tôi đã biết rõ ràng, những gì không thể biết tôi cũng hoàn toàn buông bỏ.

Nhưng có một số việc vẫn nên sắp xếp lại để hoàn chỉnh toàn bộ câu chuyện.

Đến bây giờ tôi đã có thể xác định người trong Trương gia quả thực đến từ Quan Đông, bọn họ sống tại khu vực tập trung những người dân tộc thiểu số ở Quan ngoại

(vùng đất phía đông Sơn Hải Quan)

, tất nhiên vào lúc đó họ còn chưa phải thiểu số.

Về cơ bản có thể thấy thời kỳ người Mông Cổ tiến vào trung nguyên và dựng lên triều Nguyên ở Trung Quốc cũng chính là thời kỳ người Trương gia ít hoạt động nhất. Hầu như tất cả bọn họ đều lẩn trốn, mãi đến triều Minh mới bắt đầu hoạt động trở lại.

Tộc quy Trương gia vô cùng nghiêm khắc, cái tên Trương Khởi Linh không phải ai cũng có thể đặt bừa, mà nhất định phải là người được tộc nhân lựa chọn làm tộc trưởng kế nhiệm mới được mang cái tên này.

Cho nên lúc đó mới có Kế hoạch Trương Khởi Linh, bọn họ muốn thông qua cách này để tìm ra tộc trưởng đương nhiệm của Trương gia.

Hơn nữa tôi đoán rằng không phải tất cả người trong Trương gia đều mang loại máu kỳ lạ này, đó hẳn là một đặc tính di truyền lặn, thậm chí có thể xem là một chứng bệnh. Trong số hiếm hoi những người thuộc Trương gia mang loại máu kỳ lạ này, người nào có dòng máu thuần chất nhất mới được làm tộc trưởng. Mà phu nhân của tộc trưởng cũng phải là một cô gái trong tộc có dòng máu tương tự, như thế mới đảm bảo năng lực này được lưu truyền cho muôn đời sau.

Đây chính là hôn nhân cận huyết, tuy bảo tồn được dòng máu quý giá nhưng cũng đồng thời di truyền lại một chứng bệnh khác, đó là chứng mất trí nhớ.

Từ thời kỳ giữa của Trung Hoa Dân Quốc đã không còn ai tiến vào cổ lâu nữa, điều này cho thấy khi đó Trương gia đã bắt đầu suy yếu một cách nhanh chóng. Nguyên nhân suy yếu là họ gặp phải kết cục chung của những thế lực phong kiến Trung Quốc đương thời, mấy lần cách mạng đều là cách mạng toàn diện về hình thái ý thức, người của Trương gia dù có tài phú và thực lực đến đâu, dưới sự công kích của luồng tư tưởng mới cũng dần dần sụp đổ từ trong gốc rễ.

Cũng chính lúc này, một thế lực trong gia tộc nhỏ của Trương Đại phật gia đã rời khỏi phạm vi khống chế của Trương gia.

Những người đó hẳn là bậc cha chú của Trương Đại Phật Gia, bọn họ rời đi cũng không mang theo tin tức gì về gia tộc. Họ vẫn hoạt động tại vùng Đông Bắc nhưng lại vứt bỏ toàn bộ tổ huấn của Trương gia, bắt đầu mở rộng buôn bán, dần dần trở thành thương nhân. Về sau người Nhật Bản xâm lược Đông Bắc, lớp người đi trước Trương Đại phật gia hầu như đã chết hết trong thời kỳ cách mạng, vì thế Trương Đại Phật Gia mang theo người trong tộc trốn đến Trường Sa.

Thời bấy giờ cũng vì đại bản doanh của dân trộm mộ vùng Quan nội

(chỉ miền tây Sơn Hải Quan)

đặt ở Trường Sa nên Trương Đại phật gia mới có thể trốn đến đó.

About these ads

Beta: Thanh Du

Chương 111

Từ khi đến Trường Sa, Trương Đại phật gia nhanh chóng khuếch trương thế lực, một mặt tích cực kháng Nhật, mặt khác mở rộng quan hệ với những hào kiệt ở địa phương. Năm ấy Trung Quốc đang ở vào thời kì rối ren nhất, nhưng cũng là những năm tháng huyền thoại với tầng tầng lớp lớp anh hùng xuất thế, dần dần Lão Cửu Môn cũng được hình thành.

Trong đó, Thượng tam môn do liên hệ với Trương Đại phật gia kháng Nhật, dần dần cũng đứng về phe quân đội. Kháng Nhật thắng lợi, Trương Đại phật gia bước chân vào chính trường, dựa vào gia thế và hoàn cảnh của mình, ông ta thừa sức đứng đầu cả một nhánh chuyên biệt; đồng thời ông ta cũng một mực muốn tìm ra bí mật trường thọ của gia tộc mình.

Tuy Trương Đại phật gia hoàn toàn không biết tộc Trương gia gốc ở đâu, nhưng bậc cha chú của ông ta thì thế nào cũng còn lưu lại một chút ấn tượng trong trí nhớ. Hơn nữa, trong các thư tịch của Trương gia cũng ghi chép lại ít nhiều, bởi vậy ông ta biết được mọi bí mật mà tổ tiên mình sở hữu đều nằm trong cổ lâu của Trương gia – một mộ huyệt tập thể, nơi mai táng những người thuộc Trương gia.

Ông ta cần phải tìm được Trương gia cổ lâu.

Trước tiên, ông ta bắt đầu vạch ra kế hoạch Trương Khởi Linh, giữa chiến loạn ra sức tìm kiếm vị tộc trưởng hoàn toàn không rõ tung tích kia của Trương gia.

Rất nhiều người trùng tên trùng họ với Trương Khởi Linh được đưa đến, nhưng tìm mãi vẫn không thấy chính chủ. Lão Cửu Môn đương nhiệm cũng phải đứng dưới sự quản chế của Trương Đại phật gia, vừa để bảo vệ vừa để giám sát.

Cuối cùng, đến những năm sáu mươi của thế kỷ hai mươi, họ cũng tìm được Trương Khởi Linh. Dưới sự dẫn dắt của người này, Lão Cửu Môn đã hợp tác tiến hành một cuộc đổ đấu lớn nhất trong lịch sử, nhưng lại tổn thất nặng nề.

Lần đổ đấu đó đã dẫn đến hai hậu quả.

Đầu tiên, địa vị của Trương Khởi Linh đã bị nghi ngờ đến gay gắt, toàn bộ tổ chức chia ra làm hai phe phái.

Phe thứ nhất, tiêu biểu có nhóm của Hoắc lão thái khôn ngoan sắc bén nhất trong Lão Cửu Môn, do được Trương Khởi Linh cứu giúp nên ra sức ủng hộ Trương Khởi Linh, thậm chí tôn thờ cúng bái Trương Khởi Linh như thánh thần. Điều này khiến cho sự quản chế của gia tộc Trương Đại phật gia trở nên hết sức gượng gạo. Phe còn lại bao gồm những người muốn đổ hết trách nhiệm của vụ đổ đấu thất bại này lên đầu Trương Khởi Linh. Mà ngay trong gia tộc Trương Đại phật gia cũng lại chia ra thành hai phe phái nhỏ. Phe của Trương Khởi Linh phải đối mặt với nguy cơ bị thanh trừ, mà phe thứ hai, do có quan hệ chặt chẽ với các cấp trên nên thế lực ngày một hùng mạnh. Cuối cùng, đôi bên cấu xé đấu đá nhau cực kỳ gay gắt.

Ông nội tôi bắt đầu nảy sinh ý định muốn rút lui ngày càng mãnh liệt. Ông không muốn tiếp tục chứng kiến mọi người bỏ mạng vì những chuyện vô nghĩa này nữa, không muốn thấy biết bao anh hùng hào kiệt năm nào chỉ vì đi theo Trương Đại phật gia mà chết oan chết uổng.

Cho nên, ông vẫn một mực đứng về phe Trương Khởi Linh. Về phần Trương Khởi Linh, sau lần đổ đấu kia đã bị trọng thương, khi tỉnh lại thì hoàn toàn mất đi ký ức.

Chương 112

Ông nội tôi thu xếp cho ba đứa con trai của mình thật ổn thỏa. Ông biết thế hệ kế tiếp của mình nhất định không thể nào trốn thoát, nhưng nhờ sự cơ trí, ông đã thấy được cơ hội để phát triển.

Ông mong muốn đến đời tôi là Ngô gia có thể hoàn toàn thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn này, vì vậy ông đã sắp xếp sẵn từng đường đi nước bước trong cuộc đời của cha tôi, chú Hai và chú Ba.

Ông sắp xếp mọi việc vô cùng khéo léo, tất cả đều căn cứ vào sự khác biệt trong tính cách của ba người con trai.

Ông chọn chú Hai, người khôn ngoan và có sở trường nhất về tâm kế làm người nối nghiệp mình; đồng thời muốn cha tôi cùng với kẻ cứng đầu khó quản thúc nhất là chú Ba hoàn toàn thoát khỏi vòng kìm kẹp của tổ chức.

Nhưng ông không ngờ, sự xuất chúng của chú Ba đã vượt ra khỏi tầm khống chế của ông. Tức là, chú Ba không chỉ trở thành kẻ trộm mộ với tài nghệ xuất sắc nhất, kẻ hào sảng phóng khoáng nhất trong ba anh em, mà còn trở thành một trong những nhân tài kiệt xuất được cấp trên coi trọng nhất.

Kết quả, chú Hai lại biến thành người thừa. Đời thứ hai của Lão Cửu Môn, nhân vật đại diện cho Ngô gia là Ngô Tam Tỉnh. Lúc đó chú Ba không hề biết đó chẳng phải là chuyện vẻ vang gì. Đương nhiên cấp trên cũng không biết chú Ba không phải kẻ dễ chọc.

Tất cả các gia tộc khác đều có quyết định của riêng mình. Hoắc gia do có quan hệ thông gia với cấp trên, nên vẫn một mực đứng về phe Trương Khởi Linh. Gia tộc này chỉ do phụ nữ đứng đầu, có một thời gian Hoắc Tiên Cô đã dốc toàn bộ sức lực và khả năng để bảo vệ tính mạng của Trương Khởi Linh.

Về phần Giải gia thì Giải Cửu Gia chính là người nhìn nhận thấu suốt nhất cái thế cục hỗn loạn này. Ông ta hiểu rõ chạy trốn giống như ông nội tôi hay gầm ghè vật lộn giống như Hoắc Tiên Cô đều không thể giải quyết được vấn đề. Cứ như vậy mãi thì cuối cùng Lão Cửu Môn nhất định sẽ bị hủy diệt hoàn toàn, ông ta đã thấy rất nhiều ví dụ tương tự trong lịch sử rồi.

Sau khi thông suốt điểm này, Giải Cửu Gia liền bắt tay hạ một ván cờ cực kỳ cực kỳ hiểm độc.

 Chương 113

Ông ta tìm đến đứa con trai của mình, hạ xuống quân cờ đầu tiên.

Sự phản kích của Lão Cửu Môn đã bắt đầu đúng như mưu tính của Giải Cửu Gia.

Công tác khảo cổ Trương gia cổ lâu sau này do đời thứ hai của Lão Cửu Môn lần đầu hợp tác. Bọn họ cũng không biết, lần thám hiểm này nguy hiểm đến thế nào. Ngoại trừ mấy nhân vật chủ chốt, những người còn lại đều không hay biết lần đó vốn không phải khảo cổ, mà thực ra chỉ là một cuộc đưa tang. Nghiên cứu khảo cổ về Trương gia cổ lâu đã hoàn thành từ năm 1970 rồi, làm được điều này đều nhờ vào số tài liệu khổng lồ do lần khảo cổ lớn nhất trong lịch sử năm đó thu về. (Đa số tài liệu đều là thành quả thu hoạch của lão Răng Vàng, Kim Vạn Đường)

Xưa nay chưa từng có lực lượng nào hùng hậu đến thế, đội ngũ này do gia tộc Trương Đại phật gia khi ấy đang đắc thế chỉ huy nhằm hoàn thành toàn bộ hoạt động thăm dò khảo cổ. Nhưng sau khi bước vào Trương gia cổ lâu, cả đội đã bị tiêu diệt.

Vì thế, cấp trên mới bắt đầu sử dụng đến đời thứ hai đã dần dần lộ diện. Một đội đã bị Bàn Mã giết hại, lúc ấy chỉ có vài người xuống dưới lòng đất khảo sát là may mắn thoát nạn, thế nhưng khi bọn họ trở lại mặt đất thì đội của Giải Cửu Gia đã tiếp quản tất cả.

Đội ngũ này hoàn toàn không chấp hành bất cứ nhiệm vụ nào nữa, bọn họ thiêu hủy quan tài cần phải hạ táng, dùng nước thép bao phủ thi thể, hủy luôn toàn bộ số tài liệu rồi mang theo thi thể bỏ trốn.

Tổ chức bắt đầu phát hiện có điểm khác thường, liền truy nã bọn họ khắp trời Nam đất Bắc.

Bọn họ trốn đến Hàng Châu đúng vào lúc phạm vi cuộc truy đuổi gay gắt nhất, đành bất đắc dĩ xin nương nhờ chỗ ông nội tôi.

Mà lúc đó, chú Ba tôi đang lấy cớ xây sửa cửa hàng để ngấm ngầm thăm dò một hoàng lăng bí mật triều Nam Tống nằm sâu dưới lòng đất Hàng Châu. Ông nội tôi bèn dùng chiêu Ve sầu thoát xác, giấu luôn thi thể vào hoàng lăng kia.

Còn người của Giải Cửu Gia thì chia thành từng tốp nhỏ, lẫn vào trong nội bộ của tổ chức, bắt đầu mục tiêu phá hủy phần lớn các tài liệu liên quan, giết chết hoặc thay thế các nhân viên chủ chốt. Cũng trong thời gian đó, Hoắc lão thái bắt đầu phát hiện con gái mình có điểm gì đó bất thường.

Song song với đó, một mục tiêu khác của Giải Cửu Gia chính là đưa Trương Khởi Linh đi. Vào thời ấy chỉ có một viện điều dưỡng tên Cách Nhĩ Mộc là không kẻ nào có thể chấm mút được gì, toàn bộ tư liệu cũng như nhân vật chủ chốt đều nằm trong đó.

Nghiên cứu vẫn được tiếp tục, đội khảo cổ giả nhận chỉ thị của đoàn khảo cổ Tây Sa, đến Tây Sa trước. Khi đội khảo cổ ở Tây Sa đang sắp xếp lại trang bị, Hoắc Linh và Văn Cẩm thật sử dụng mật lệnh giả, điều Hoắc Linh và Văn Cẩm giả đến núi Trường Bạch, còn bản thân mình thì trà trộn vào đội khảo cổ giả. Để thêm người giúp đỡ, Văn Cẩm đã đến tìm chú Ba. Mà cũng chính vào lúc đó, gián điệp của Giải Cửu Gia đã đưa được Trương Khởi Linh ra khỏi viện điều dưỡng thành công.

Trong khi đó, để nhận được sự hỗ trợ nhiều hơn, Giải Liên Hoàn đã liên hệ với Cầu Đức Khảo. Cầu Đức Khảo có tay trong, trực tiếp lấy tài liệu về cổ mộ Tây Sa trợ giúp cho Giải Liên Hoàn.

Đó là lần đầu tiên chú Ba tham gia vào vụ việc. Lúc đó, Giải Cửu Gia đã qua đời, Giải Liên Hoàn phát hiện đội ngũ của mình có vấn đề, nhưng nhất thời ông ta không đoán ra được vấn đề ở chỗ người đánh tráo đã bị đánh tráo trở lại, chuyện này thật sự rất kỳ quặc, khó mà hiểu nổi.

Giải Liên Hoàn khác Giải Cửu Gia ở chỗ ông ta không tuyệt tình được như cha mình, không thể hi sinh mọi thứ vì mục đích cuối cùng. ĐaKhi ấy, kế hoạch của Giải Liên Hoàn hẳn là chiếu theo suy nghĩ của Giải Cửu Gia, tìm một người thay thế cho Ngô Tam Tỉnh, cho nên trước đó ông ta đã mang theo một con thuyền, bám theo đoàn thuyền của đội khảo cổ từ xa.

Trên thuyền ông ta chuẩn bị sẵn một kẻ thay thế cho Ngô Tam Tỉnh, người này nhất định là do Giải Cửu Gia sắp xếp chu toàn từ rất lâu trước đó.

Ngô Tam Tỉnh hoàn toàn không bị khống chế, việc đó xảy ra trước khi chú Ba kể lại câu chuyện này.

Chuyện xảy ra giữa Giải Liên Hoàn và chú Ba dưới đáy biển hoàn toàn là do chú Ba hư cấu, bởi đó là lần đầu tiên họ chạm mặt trong hoàn cảnh không có bất kì kẻ nào theo dõi.

Trong cổ mộ, giữa hai người đã xảy ra một trận đụng độ kịch liệt. Khi đó chú Ba đã hoàn toàn phát điên, thân thủ, sự quyết đoán, thận trọng và tàn nhẫn đã bù đắp cho bản tính lỗ mãng ngày thường của chú. Kẻ đứng trong bóng tối định tập kích chú Ba trong nháy mắt đã bị giết chết.

Hẳn là vì bị chú Ba ép hỏi, hoặc là gặp thời cơ thuận lợi, Giải Liên Hoàn đã nói ra tất cả kế hoạch.

Cho nên, trong mộ thất dưới đáy biển, hai người bắt tay hợp mưu với nhau. Bản thân Giải Cửu Gia điều hành cả một tổ chức như vậy vốn đã không thuận lợi, cho nên sự gia nhập của chú Ba đã thay đổi hoàn toàn kế hoạch của Giải Liên Hoàn kế thừa từ Giải Cửu Gia.

Tính quyết đoán của Chú Ba vừa khéo bù đắp cho khuyết điểm của Giải Liên Hoàn, thêm vào đó bản thân chú vốn cẩn thận nên hai người bọn họ đã bắt tay vào một kế hoạch mạo hiểm và chóng vánh nhằm hoàn toàn hủy diệt đầu não của tổ chức, cũng chính là hậu duệ của Trương Đại phật gia.

Điểm quan trọng nhất trong kế hoạch này chính là bọn họ phải tìm được viện điều dưỡng.

Cho nên Giải Liên Hoàn giả dạng thành chú Ba, diễn một vở kịch Song hoàng (*). Ở huyệt mộ dưới đáy biển, chú Ba đã dùng hương Cấm Bà gây mê mọi người, sau đó lấy thuyền của Giải gia đưa họ cập bờ, trả về cho tổ chức.

(*) Một loại hình kịch nghệ cổ của Trung Quốc do hai người phối hợp diễn xuất. Một người biểu diễn động tác, một người đứng sau màn hát hoặc nói.

Hương Cấm Bà là một loại dược vật hết sức đặc biệt, thời gian thần trí mơ hồ khá dài. Giải Liên Hoàn đóng vai người đầu tiên tỉnh lại, thêu dệt một câu chuyện li kì rồi chuyển bọn họ đến viện điều dưỡng.

Sau đó, Giải Liên Hoàn cùng với chú Ba nội ứng ngoại hợp, đồng thời sử dụng mưu kế chặt đứt mối dây liên hệ giữa viện điều dưỡng và tổ chức.

Cùng lúc đó, một đội ngũ khác bị lừa đến núi Trường Bạch, không ngoài dự đoán đã găp nạn ở Vân Đỉnh thiên cung. Đống thây khô chúng tôi trông thấy trong Vòng tử vong chính là thi thể của nhóm người này.

Căn cứ vào số lượng thi thể kết hợp với câu chuyện của Thuận Tử (*), có thể suy ra những người lên núi năm đó không phải đều đã chết hết. Tôi nghĩ những kẻ có thể giả mạo Trần Văn Cẩm và Hoắc Linh hẳn phải có chút bản lĩnh, không rõ hai cô gái ấy có chạy thoát khỏi tay hai kẻ kia không.

(*) Là người dẫn đường cho nhóm của Tà lên Vân Đỉnh thiên cung trong phần 4.

Nhưng đúng vào lúc này, tình hình đã phát sinh biến đổi. Lúc này cả đội chia ra làm ba nhóm, một là nhóm Trần Văn Cẩm chạy trốn sau cùng, một nhóm là chú Ba và Giải Liên Hoàn, nhóm còn lại là Muộn Du Bình.

Chú Ba thật một mực muốn tìm kiếm đám người Giải Liên Hoàn và Trần Văn Cẩm. Mà đám người Trần Văn Cẩm sau khi trốn ra khỏi viện điều dưỡng đã không thể tin tưởng bất kì ai nữa.

Hiển nhiên cả Giải Liên Hoàn lẫn Ngô Tam Tỉnh đều không đáng tin, hai kẻ đó sẵn sàng hi sinh những người khác vì mục đích của mình, mà tổ chức thì càng tuyệt đối không thể tin.

Bọn họ vì lẩn trốn cuộc truy bắt và tìm kiếm chân tướng sự việc mà bắt đầu thám hiểm Cách Nhĩ Mộc, hơn nữa còn làm ra cuộn băng ghi hình, mục đích là để cảnh báo đời thứ ba.

Tôi nghĩ tới đây, cảm thấy lòng mình tràn đầy ấm áp. Trong thế cục hỗn loạn này, những kẻ khác đều vì công danh lợi lộc của riêng mình, bất chấp đôi tay vấy máu. Duy chỉ có đội ngũ do hai cô gái này dẫn đầu dù ở vào cảnh khốn cùng đến thế nào vẫn luôn nghĩ đến chuyện tìm hiểu bí mật và bảo vệ người khác.

Mà chú Ba và Giải Liên Hoàn vẫn cố thủ ở Hàng Châu, tìm kiếm tung tích của những người kia ở khắp mọi nơi. Tôi tin chú Ba chấp nhất như thế là vì tình cảm đối với Trần Văn Cẩm.

Nhưng không thể phủ nhận rằng hoàn toàn có khả năng Giải Liên Hoàn muốn thủ tiêu bọn họ để trừ hậu hoạn. Lần đó Văn Cẩm gặp tôi có nhắc cho tôi biết chú Ba là giả, cũng chính vì nguyên nhân này.

Lúc này, công cuộc truy lùng Giải Liên Hoàn diễn ra trong bí mật đã trở nên khẩn trương hơn bao giờ hết. Cuối cùng Giải Liên Hoàn cũng tới Hàng Châu, đi xuống bên dưới cửa hàng của chú Ba trông chừng cỗ quan tài kia, đợi ngày đó tới.

Cũng từ ngày đó trở đi, chú Ba mà tôi gặp thật ra là hai người khác nhau, chẳng qua lúc ấy tôi thật sự không ngờ trên thế gian này lại có kỹ thuật làm mặt nạ da người hoàn hảo đến vậy. Vả lại hai người kia cũng có vô số điểm giống nhau, cho nên thật sự rất khó phân biệt.

Trong thời gian này, tôi luôn cảm thấy chú Ba xuất quỷ nhập thần, thì ra là do có hai chú Ba. Cả hai chú Ba đều hết sức quen thuộc với tất cả mọi thứ, có điều tính cách hơi bất đồng, khi bọn họ cùng làm một việc thì mỗi người lại có cách riêng của mình, cũng để lại những manh mối khác nhau. Những manh mối này đan xen lẫn lộn khiến cho sự việc càng thêm phức tạp kì quái.

Tôi không sao phân biệt nổi người đối diện tôi khi nào là Ngô Tam Tỉnh, khi nào lại là Giải Liên Hoàn. Nhưng tôi vẫn còn nhớ rất rõ ràng, không chỉ một lần tôi thấy tính cách chú Ba thay đổi.

Bỏ qua những điều vụn vặt thì bọn họ tựa như anh em song sinh, vì một mục đích chung mà không ngừng cố gắng.

Lại nói đến Trần Văn Cẩm và Hoắc Linh, lúc này họ đã đưa người của mình đến Cách Nhĩ Mộc điều tra được một thời gian. Thân thể của họ vì ăn nhầm đan dược mà xảy ra rất nhiều biến đổi.

Hoắc Linh biến đổi đặc biệt nhanh, thần trí bắt đầu mơ hồ, trí nhớ dần dần giảm sút. Bọn họ đành phải lấy viện điều dưỡng bỏ hoang làm nơi theo dõi tình trạng của Hoắc Linh.

Mà Muộn Du Bình cũng có mục đích của riêng mình, hắn trở lại Trương gia cổ lâu. Đáng tiếc từ nhỏ hắn đã mắc phải căn bệnh mất trí nhớ di truyền của Trương gia, sau bị bắt làm mồi đem vào cổ mộ câu thi rồi được Trần Bì A Tứ cứu, một lần nữa trở về với mọi người.

Nhưng lúc này thế lực của tổ chức đã chẳng còn như xưa, cơ hồ trở thành hữu danh vô thực, không thể khống chế chặt chẽ cục diện như trước nữa.

Lúc ấy chú Ba và Giải Liên Hoàn cảm thấy mọi chuyện hết sức kỳ quặc, bọn họ lấy ra từ cổ mộ bên dưới cửa hàng chú Ba một chiến lợi phẩm lấy được từ Trương gia cổ lâu —— Hắc kim cổ đao, dùng để dò xét Muộn Du Bình.

Cùng lúc đó, Cầu Đức Khảo bắt đầu chính thức nhúng tay vào vụ này, không cam lòng làm một kẻ đầu tư bị lừa gạt nữa. Do đó mới có chuyện Cầu Đức Khảo mang theo tất cả tài liệu mà Kim Vạn Đường thu thập được đến cửa hàng tìm tôi.

Ngay sau khi thấy sách lụa Chiến quốc, chú Ba lập tức hiểu ra Cầu Đức Khảo hiện giờ là mối họa lớn cần phải chế ngự, vì thế mới tổ chức chuyến thám hiểm đầu tiên đến Thất tinh Lỗ Vương cung. Thật không ngờ, mọi chuyện từ đó về sau ngày càng không thể kiểm soát.

Hết.

.u đầu vì sự xuất hiện của Ngô Tam Tỉnh, ông ta cũng trà trộn vào trong đội ngũ

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top

Tags: