Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới

Ðại hội IX của Ðảng đã nói rõ hơn những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh để định hướng cho toàn Ðảng, toàn dân học tập và vận dụng thực hiện trong giai đoạn mới.Trong những năm đầu thế kỷ 21, đất nước ta có cơ hội lớn và cả thách thức không nhỏ. Tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó lường. Ðể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, cần thấm nhuần sâu sắc, vận dụng sáng tạo những nguyên lý và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết những vấn đề nóng bỏng mà thực tiễn đang đặt ra; nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh phải trở thành một nhiệm vụ mấu chốt của công tác tư tưởng của Ðảng, cần được toàn Ðảng thực hiện chặt chẽ, có chất lượng và hiệu quả.

Với tinh thần và ý nghĩa đó, ngày 27-3-2003, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 23-CT/TW về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới và nhân dịp kỷ niệm 113 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã phát động tổ chức đợt tuyên truyền, giáo dục sâu rộng tư tưởng Hồ Chí Minh. Ðây là một sinh hoạt chính trị rộng lớn, rất quan trọng cần được tổ chức chặt chẽ, khoa học, có hệ thống và sau này phải trở thành nền nếp thường xuyên trong hoạt động của Ðảng và trong đời sống xã hội ta.

Chỉ thị của Ban Bí thư đã được toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta đón nhận và tổ chức thực hiện với tinh thần tin tưởng, phấn khởi, hào hứng. Hơn một năm qua, các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị đã quán triệt nghiêm túc Chỉ thị 23-CT/TW, tổ chức đợt giáo dục, tuyên truyền sâu rộng, có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh trong Ðảng và toàn xã hội. Hoạt động nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đã được tổ chức với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, sáng tạo và rộng khắp 64 tỉnh, thành trong cả nước, trong mọi tổ chức, đoàn thể, thu hút đông đảo mọi lứa tuổi, mọi đối tượng tham gia. Nhiều công trình, đề tài khoa học, hàng chục cuốn sách và tài liệu nghiên cứu, tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh đã được thực hiện và phổ biến rộng rãi. Hàng trăm nghìn lớp học được tổ chức, thu hút hàng chục triệu người tham gia học tập, nghiên cứu 10 chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên các phương tiện thông tin đại chúng và trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, nhiều tác phẩm văn học, báo chí, tuyên truyền về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh đã được giới thiệu rộng rãi ở trong nước và nước ngoài.

Ðây là lần đầu Ðảng ta phát động và tổ chức đợt nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh với quy mô rộng lớn và được chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, khoa học. Ðặc biệt là, cùng với việc nghiên cứu, tuyên truyền giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong các tổ chức, đoàn thể và học tập qua trường, lớp, qua sách, báo, trên các phương tiện thông tin đại chúng, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương đã chỉ đạo hướng dẫn và tổ chức các cuộc thi báo cáo viên giỏi về tư tưởng Hồ Chí Minh từ cấp cơ sở đến toàn quốc; làm cho hoạt động nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh thêm sinh động hấp dẫn, hiệu quả, ấn tượng và lan tỏa. Các hội thi từ cơ sở đã thu hút sự tham gia của hàng vạn báo cáo viên ở mọi đối tượng, mọi lứa tuổi, là cán bộ, đảng viên, công nhân, viên chức, nông dân, bộ đội, công an, học sinh, sinh viên... Ðỉnh cao của các hội thi là cuộc thi chung khảo toàn quốc được tổ chức rất trang trọng, hoành tráng, ấn tượng, cảm động và đầy ý nghĩa tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, thủ đô Hà Nội vào đúng dịp kỷ niệm lần thứ 114 Ngày sinh của Bác (19-5-1890 - 19-5-2004).

Sau hơn một năm thực hiện Chỉ thị 23-CT/TW của Ban Bí thư, hoạt động nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân đã đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng, tạo cơ sở cho việc tiếp tục nghiên cứu tuyên truyền, giáo dục và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng sâu sắc hơn. Hoạt động nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành sinh hoạt chính trị rộng lớn, góp phần nâng cao nhận thức tư tưởng, lý luận của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Qua nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, những băn khoăn, vướng mắc, hoài nghi dao động trong nhận thức về mục tiêu lý tưởng và nền tảng tư tưởng của Ðảng, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, về bản sắc dân tộc và hội nhập quốc tế v.v... của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đã được giải đáp sáng tỏ hơn.

Trên cơ sở nâng cao nhận thức tư tưởng, lý luận, đợt sinh hoạt chính trị lần này đã góp phần củng cố, nâng cao niềm tin và sự kiên định đối với nền tảng tư tưởng của Ðảng ta là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tin tưởng vào sự lãnh đạo của Ðảng và tương lai, tiền đồ của dân tộc, tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã từng bước tỏa sáng trong trái tim, khối óc của mỗi người Việt Nam, hướng về cội nguồn dân tộc, trân trọng, tự hào và giữ gìn các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống mà Bác Hồ là biểu tượng và mẫu mực của sự kết tinh các giá trị phương Ðông và giá trị nhân loại. Học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là dịp để mỗi người Việt Nam tự nhìn nhận lại chính mình, theo tinh thần Bác Hồ đã dặn: Học để hành, để làm người, để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự giai cấp và nhân loại. Với ý nghĩa đó, tư tưởng Hồ Chí Minh đã tiếp tục khơi gợi tinh thần độc lập tự chủ, đổi mới và sáng tạo để nhìn nhận các vấn đề của dân tộc và thời đại sâu sắc hơn, tỉnh táo hơn, bản lĩnh hơn, trong mỗi chúng ta. Học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là thêm một lần khẩu hiệu "sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại" lại được khắc sâu vào tâm trí mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, tạo động lực tinh thần cho chúng ta tự tin, vững bước đi lên trên con đường mà Ðảng và Bác đã lựa chọn.

Tuy nhiên, trong năm qua, giữa bộn bề khó khăn, thách thức, lo toan, việc nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân ta tất nhiên khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Ðiều dễ nhận thấy là còn ít các công trình nghiên cứu khoa học, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí ngang tầm với tư tưởng và sự nghiệp của Bác và đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. Tinh thần độc lập tự chủ, đổi mới và sáng tạo của Hồ Chí Minh chưa được nghiên cứu đầy đủ sâu sắc. Tư tưởng của Người chưa được vận dụng một cách toàn diện và gắn chặt với những lĩnh vực cụ thể của từng cấp, từng ngành, từng tổ chức, đơn vị. Việc tuyên truyền, giáo dục tư tưởng của Người được tổ chức trên diện rộng nhưng chưa thật sâu; lan tỏa song chưa tạo được sự chuyển biến thật sự trong hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Phải chăng vì nội dung nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục chưa được chuẩn bị thật công phu từ cơ sở; hình thức và phương pháp tuyên truyền, giáo dục ở nhiều nơi còn đơn giản, xuôi chiều. Tính khoa học, tính chiến đấu trong tuyên truyền, giáo dục chưa thật sâu sắc. Một bộ phận cán bộ làm công tác nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là ở cơ sở, chất lượng còn hạn chế, chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ.

Ðể đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới và nguyện vọng của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân, để xứng đáng với công lao to lớn của Bác Hồ và tầm tư tưởng vĩ đại của Người, nghiên cứu công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải được tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa, tiến xa hơn nữa trong thời gian tới.

Ban Bí thư Trung ương Ðảng ra Thông báo kết luận về "Tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị số 23 ngày 27-3-2003 và đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới" đã chỉ rõ, trong năm 2004, 2005 các cấp ủy, địa phương, đơn vị cần làm tốt một số nhiệm vụ sau:

"Tiến hành rà soát để bổ sung xây dựng chương trình, kế hoạch nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo đảm việc nghiên cứu, học tập nghiêm túc, thiết thực, phù hợp thực tế của địa phương, đơn vị; nghiên cứu có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh và chú ý học tập những lời dạy của Người đối với ngành, đoàn thể, địa phương mình. Coi trọng việc đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống, học đi đôi với hành. Gắn việc học tập với rèn luyện, làm theo tư tưởng, đạo đức, lối sống cao đẹp của Người, nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên; khắc phục những biểu hiện tiêu cực của chủ nghĩa cá nhân; liên hệ, vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của ngành, đoàn thể, địa phương, đơn vị. Ðẩy mạnh hoạt động nghiên cứu tổng kết thực tiễn làm cơ sở cho việc bổ sung Cương lĩnh và phương hướng, nhiệm vụ của Ðại hội X của Ðảng. Ðấu tranh phê phán, bác bỏ có hiệu quả các quan điểm sai trái, phủ định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh".

Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ chính trị quan trọng thường xuyên của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân; là nội dung trọng yếu trong công tác xây dựng Ðảng, là tình cảm, nguyện vọng thiết tha của mọi người Việt Nam. Nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh phải nhằm mục đích lâu dài, nhất quán, là biến tư tưởng của Người thành hiện thực; hình thành và phát triển tố chất Hồ Chí Minh, tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo trong mỗi con người Việt Nam.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức 

Các nhà sáng lập và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học như C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh là những người rất quan tâm đến trí thức và vấn đề tri thức, bởi chính các ông là những người trí thức lớn, rất uyên bác về chính trị và thời cuộc. Mục đích sử dụng trí thức của các ông là nhằm vào việc cải tạo thế giới, giải phóng xã hội, giải phóng con người. V.I.Lênin định nghĩa về trí thức: “Trí thức bao hàm không những chỉ các nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại biểu của những nghề tự do nói chung, các đại biểu của những người lao động trí óc”(1). Quan niệm của V.I.Lênin về người trí thức cũng rất rõ ràng: “Người trí thức đấu tranh, tuyệt nhiên không phải là bằng cách dùng thực lực theo lối này hay lối khác, mà là bằng cách dùng những lý lẽ. Vũ khí của họ chính là sự hiểu biết của cá nhân họ, những năng lực của cá nhân họ, lòng tin của cá nhân họ. Họ chỉ nhờ vào những phẩm chất cá nhân của họ, cho nên mới có thể đóng được một vai trò nào đó. Vì vậy, đối với họ, quyền được hoàn toàn tự do biểu hiện bản chất cá nhân của mình là điều kiện đầu tiên để công tác được kết quả. Với tư cách là một bộ phận trong toàn thể, họ chỉ phục tùng toàn thể đó một cách miễn cưỡng, phục tùng vì bắt buộc, chứ không phải tự nguyện. Họ chỉ thừa nhận kỷ luật là cần thiết đối với quần chúng, chứ không phải đối với những nhân vật được lựa chọn. Dĩ nhiên là họ xếp mình vào những hàng ngũ những nhân vật được lựa chọn...”(2). Hồ Chí Minh định nghĩa về trí thức: “Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó, không có trí thức nào khác. Một người học xong đại học, có thể gọi là trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức toàn toàn, thì phải biết đem trí thức đó áp dụng vào thực tế”(3). 

Qua nghiên cứu những trước tác của Hồ Chí Minh, có thể rút ra một số vấn đề trong tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức: 1) Trí thức phải biết lấy việc phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc làm mục tiêu phấn đấu suốt đời của mình. 2) Trí thức phải đồng hành với dân tộc, cùng dân tộc tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước phồn vinh. 3) Trí thức phải có tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội. 4) Trí thức phải biết đem kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ và sự hiểu biết của mình áp dụng vào thực tế. Xa rời thực tế, trí thức trở thành lý luận suông. 5) Trí thức phải gắn bó mật thiết với công nhân, nông dân và nhân dân lao động và cũng phải học hỏi họ ở tinh thần cần cù lao động. 6) Trí thức phải tiếp tục học hỏi, không ngừng chiếm lấy đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật. 7) Trí thức phải có cuộc sống lành mạnh, có đạo đức và tư cách. 8) Đảng và Chính phủ phải biết tôn vinh trí thức và trí thức phải biết tôn trọng Đảng, Chính phủ, tôn trọng nhân dân lao động. 9) Đảng và Chính phủ phải có chính sách trọng dụng trí thức, trọng dụng nhân tài, hiền tài. 10) Đảng và Chính phủ phải thật sự dân chủ đối với trí thức.

2. Nhận thức của Đảng ta về trí thức 

Nghiên cứu về quá trình nhận thức của Đảng ta về vấn đề trí thức, thấy rằng, nó phát triển từ thấp đến cao, từ chưa đúng đến đúng. Giai đoạn mới thành lập, Đảng đánh giá thấp đội ngũ trí thức nước nhà. Năm 1930, Xứ uỷ Trung kỳ ra chỉ thị về vấn đề thanh Đảng. Chỉ thị viết: “Thanh trừ trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”(4). Trước một nhận định không đúng đắn về trí thức của một đảng bộ lớn, Trung ương Đảng đã kịp thời uốn nắn nhận thức tư tưởng lệch lạc này, cho rằng, “như vậy thì gốc đâu mà đào, xem rễ ở đâu mà trốc, quả là một ý nghĩ mơ hồ, một chỉ thị võ đoán và là một lối hành động quàng xiên chí tướng”(5). Trung ương yêu cầu Xứ uỷ Trung Kỳ phải có nhận thức đúng đắn đối với trí thức nhằm lôi kéo họ về với cách mạng và không được đẩy họ về phía khác. Tuy nhiên, nhận thức của Đảng lúc này đối với trí thức vẫn còn nặng nề, chưa thấy sáng, vẫn xếp trí thức tiểu tư sản vào hàng ngũ của giai cấp tư sản dân tộc cải lương, chưa đặt họ vào hàng ngũ công – nông(6). Ngay trong Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 10-1930) cũng xếp trí thức, tiểu tư sản, học sinh “là bọn xu hướng quốc gia chủ nghĩa”(7). “Trong thời kỳ chống đế quốc chủ nghĩa thì bọn ấy cũng hăng hái tham gia, nhưng chỉ lúc đầu mà thôi; chúng nó không thể binh vực quyền lợi cho dân cày được, vì chúng nó phần nhiều có dây dướng với bọn địa chủ”(8). Tới trước năm 1951, Đảng ta vẫn xếp hai động lực chính (hai lực lượng chính) của cách mạng Đông Dương là thợ thuyền và nông dân. Đến Đại hội II của Đảng (tháng 2-1951), vấn đề trí thức mới dần dần được gỡ ra, khi nhận định rằng, trước kia, tầng lớp này bị đế quốc, phong kiến và tư sản trong nước áp bức, bóc lột. Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã mang lại cho họ ít nhiều quyền lợi. Vì vậy, nói chung, họ có tinh thần cách mạng và là bạn đồng minh có thể tin cậy của giai cấp công nhân. “Nhưng họ không thể lãnh đạo cách mạng, vì do địa vị xã hội của họ, họ có thái độ không được dứt khoát”(9). Đại hội II xác định: “Động lực của cách mạng Việt Nam là nhân dân. Kẻ lãnh đạo cách mạng Việt Nam là giai cấp công nhân”(10). Đối với tầng lớp trí thức, văn kiện Đại hội II xác nhận họ “là bạn đồng minh có thể tin cậy”(11). Các Đại hội III (năm 1960), Đại hội IV (năm 1976), Đại hội V (năm 1982) của Đảng đều có sự đánh giá đúng đắn về đội ngũ trí thức nước nhà. Đến Đại hội VI của Đảng (năm 1986), Đại hội định ra đường lối đổi mới toàn diện, thì vấn đề trí thức được thực sự mở ra với những điểm sáng mới. Trước hết là Đảng cần đổi mới tư duy trong vấn đề nhìn nhận trí thức. “Phá bỏ những quan niệm hẹp hòi, không thấy tầng lớp trí thức ngày nay là những người lao động xã hội chủ nghĩa, được Đảng giáo dục và lãnh đạo, ngày càng gắn bó chặt chẽ với công nhân và nông dân”(12). “Điều quan trọng nhất là bảo đảm quyền tự do sáng tạo. Đánh giá đúng năng lực và tạo điều kiện cho năng lực được sử dụng đúng và phát triển”(13). Sự nhìn nhận với tư cách là Đảng lãnh đạo, vấn đề trí thức Việt Nam đã được thể hiện với tư duy mới trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thờikỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (Cương lĩnh năm 1991): “Đào tạo, bồi dưỡng và phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước”(14). Hội nghị Trung ương 7, Khoá X, ra nghị quyết chuyên đề về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết đã đánh giá về sự phát triển và đóng góp của đội ngũ trí thức; công tác xây dựng đội ngũ trí thức; chỉ ra những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân, qua đó, xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ mới. Vấn đề thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức được nêu khá đầy đủ trong nghị quyết, bảo đảm để trí thức phát triển bằng chính phẩm chất, tài năng và những kết quả cống hiến của mình cho đất nước. 

Nhận thức là một quá trình. Mục đích của nhận thức là đạt tới chân lý khách quan. Nhận thức của Đảng về vấn đề trí thức Việt Nam cũng là một quá trình. Lúc đầu, có phần chủ quan, phiến diện, nhưng càng về sau, qua những đóng góp thực tiễn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, sự nhìn nhận về đội ngũ trí thức nước nhà có phần khách quan hơn. Tuy nhiên, sau khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7, Khoá X về trí thức, nhiều nhà trí thức cho rằng, muốn tạo sự chuyển biến thật sự đối với vấn đề trí thức Việt Nam, các nhà lãnh đạo cần phải đổi mới mạnh hơn nữa tư duy đối với trí thức, tư duy ấy phải thể hiện bằng những giải pháp đối nhân xử thế đối với những người thật sự có khả năng quản lý và khả năng nghiên cứu khoa học, những người có phẩm chất công tác; không định kiến, mặc cảm đối với họ, thật sự dân chủ đối với họ; quan hệ tốt với họ; tỉnh táo trong việc dùng người, cảnh giác đối với bọn cơ hội, tài giả, đức giả nhưng lại đòi leo lên ghế lãnh đạo, ghế quản lý. Cái mà người trí thức sợ nhất là người lãnh đạo, người quản lý định kiến đối với họ. Mọi sự định kiến đều dẫn đến thui chột tài năng và sự mặc cảm rất nặng nề. Mong rằng, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7, Khoá X về vấn đề trí thức sẽ ló ra tia hy vọng đối với trí thức nước nhà bằng việc giải quyết những chính sách đối với họ.      

3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 

Về phía Đảng và Nhà nước:

- Cần quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh đối với trí thức: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm, nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”(15). Triệt để vận dụng tư tưởng đó vào trong công tác nhân sự dùng người một cách có hiệu quả nhất và đúng đắn nhất. 

- Có chế độ, chính sách (gọi chung là cơ chế) đối với trí thức là các nhà khoa học tự nhiên và khoa học xã hội thật sự có năng lực quản lý và năng lực chuyên môn, trong đó có chính sách dùng người, chính sách tiền lương, chính sách khen thưởng, chính sách nhà cửa, chính sách đối với những phát minh của họ. 

- Xây dựng đội ngũ những người làm công tác cấp uỷ, những người làm công tác tổ chức nhân sự thật giỏi, bảo đảm phải nhìn cho ra được những con người tài thật, đức thật và những con người tài giả, đức giả để gạt bỏ và trọng dụng. Phương thức “gạt bỏ và trọng dụng” là phương thức cần được áp dụng trong công tác nhân sự đối với trí thức. Hiện nay, chúng ta đang ở trong tình trạng dùng người lẫn lộn, giả, thật, thật, giả không phân miêng, dẫn đến nghĩa tình không trọn vẹn, ảnh hưởng rất nhiều đến tâm tư, tình cảm của trí thức. 

- Phải có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất nước. Đây là vấn đề vừa nổi cộm, vừa nóng bỏng nhất hiện nay. Người nước ngoài họ kêu ca rất nhiều về chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam. Đào tạo và giáo dục là vấn đề liên quan trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực. Theo “Báo cáo giám sát toàn cầu về giáo dục cho mọi người – mục tiêu có đạt được vào năm 2015 hay không?” đã được UNESCO công bố ngày 3-11-2008, thì Việt Nam đang đứng thứ 79/129 nước được điều tra về chỉ số phát triển giáo dục (EDI). Dư luận báo chí nước ngoài cho rằng, hệ thống giáo dục của Việt Nam dường như không có khả năng cung cấp những lao động có tay nghề cao cần thiết cho một nền kinh tế hiện đại. “Diễn đàn kinh tế thế giới” xếp giáo dục đại học của Việt Nam đứng thứ 93/131 nước được điều tra, sau cả Bôlivia, Xrilanca, thua xa Thái Lan (44/131), Philíppin (66/131), Inđônêxia (65/131). 

Xây dựng chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam theo các tiêu chí nào cần phải bàn luận cho thấu đáo. Vấn đề ở chỗ phải xác định rõ nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất của Việt Nam trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Một đất nước rất ít tài nguyên thiên nhiên như ở Việt Nam, cần phải lấy nguồn nhân lực làm tài nguyên thay thế, gọi là tài nguyên nguồn nhân lực, hoặc tài nguyên con người. Phải có nhiều trường đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo nghề nghiệp và chuyên môn với chất lượng cao. Phải nâng cao hơn nữa đến chất lượng con người và chất lượng cuộc sống. Phải không ngừng nâng cao trình độ học vấn của cả nước lên, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế. 

Về phía người trí thức: 

- Phải thường xuyên rèn luyện nhân cách của người trí thức trong chế độ xã hội chủ nghĩa, có tinh thần yêu nước theo quan điểm mới, gắn bó với dân tộc, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân trong mọi hoàn cảnh. Phải xác định quan điểm mình đã làm gì cho dân tộc, cho đất nước trước khi đưa ra đòi hỏi đất nước, dân tộc phải cho mình những gì. Ra sức học tập tấm gương của các bậc trí thức đàn anh thật sự tài năng, tiêu biểu như Tôn Thất Tùng, Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Lương Đình Của, Trần Đức Thảo, Vũ Đình Cự, Nguyễn Văn Hiệu, Phạm Minh Hạc,... 

- Đi sâu nghiên cứu khoa học, phấn đấu quyết liệt để có những công trình sáng giá, phục vụ thiết thực đời sống xã hội và phát triển kinh tế; nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, thành thục công việc; nâng cao trình độ lãnh đạo, trình độ quản lý, biết vạch phương hướng, chiến lược, dự báo khoa học để giúp cho Đảng và Nhà nước đề ra được những chính sách tốt. 

Ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong rất nhiều diễn biến lớn của thế giới, có thể nói đến ba hiện tượng nổi bật: Một là, sự phát triển bùng nổ của khoa học và công nghệ, nhất là khoa học công nghệ viễn thông với in-tơ-nét toàn cầu, tạo ra một nền văn minh mới - văn minh trí tuệ, đồng thời tạo cơ sở thuận lợi cho sự phát triển sức sản xuất, trước hết là đẩy mạnh sức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Hai là, toàn cầu hóa mọi mặt đời sống xã hội, dẫn đến thế giới hình thành một thị trường chung trên nhiều phương diện, đặc biệt là thị trường tài chính tiền tệ. Ba là, những diễn biến mới trong lòng chủ nghĩa tư bản, tạo nên sự phát triển không bình thường giữa quan hệ sản xuất với phương thức phân phối, dẫn đến những khủng hoảng không thể tránh khỏi. Đây là một hiện tượng mới thuộc khuyết tật bẩm sinh của chủ nghĩa tư bản mà từ lâu Mác đã thấy. Cuộc vận động tăng lên không ngừng trong những lực lượng sản xuất đã dẫn đến toàn cầu hóa hay còn gọi là chủ nghĩa tư bản phiên bản 3.0, khiến cho của cải vật chất ngày càng dồi dào, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng tăng tiến; cuộc vận động phủ định không ngừng trong quan hệ xã hội dẫn đến sự phân hóa trong chính giai cấp tư sản, hình thành thị trường tài chính tiền tệ và các nhà tư bản tài chính đầu cơ tài chính tiền tệ nhằm tìm kiếm siêu lợi nhuận, dẫn đến cuộc đấu tranh giữa các nhà tư bản ngày càng khốc liệt, xảy ra khủng hoảng là đương nhiên; và, một sự vận động hình thành không ngừng trong những ý niệm, đó chính là những quan niệm khác nhau về lý thuyết phát triển chủ nghĩa tư bản. Trong bối cảnh mới và đặc biệt ấy, chúng ta tiếp tục nghiên cứu, khám phá về ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Nhưng, trước hết cần làm rõ quan niệm về thời đại hiện nay là gì. Đây là một vấn đề lớn có ý nghĩa thời sự cấp thiết, vì nó có tác động trực tiếp đến việc định hướng quan điểm phát triển của nhiều nước, nhất là những nước chưa qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản như Việt Nam. Với phát hiện của Mác về lịch sử tiến hóa của nhân loại là lịch sử đấu tranh giai cấp, thời đại đã được xác định theo bước tiến của các phương thức sản xuất gắn với các chế độ xã hội. Với quan niệm duy vật về lịch sử và khẳng định quá trình phát triển của nhân loại diễn ra trong đấu tranh giai cấp và hình thành các phương thức sản xuất, rõ ràng Mác đã giúp chúng ta một định hướng đúng đắn về phương pháp luận trong việc đi tìm định nghĩa về thời đại. Với thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga, Lê-nin là người đầu tiên đặt mốc mới cho thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.

Tiếp theo Mác, Lê-nin vạch ra những đường nét cơ bản để xác định thời đại mới chứ chưa thể thấy rõ thời đại ấy sẽ diễn ra như thế nào khi thế giới không chỉ có các nước tư bản phát triển mà còn số lớn các nước kém phát triển với hàng tỷ người trên trái đất chưa biết chủ nghĩa tư bản là gì. Phải đến Hồ Chí Minh, vấn đề thời đại mới thấy rõ nét và bao quát hơn, được bổ sung những nhận định mới rất cơ bản, bao gồm không chỉ các nước tư bản phát triển mà toàn thể nhân loại cần lao trên khắp hành tinh, trong đó có số lớn các nước lạc hậu chưa qua phát triển chủ nghĩa tư bản như Việt Nam, dù cho tên gọi về thời đại vẫn giữ nguyên.

Chính vì vậy, trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước cũng như nhân dân ta đã từng khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị đối với nước ta mà còn mang ý nghĩa và giá trị thời đại.

Việc khẳng định ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng thể hiện rõ tầm cao trí tuệ cũng như giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đã vượt qua biên giới Việt Nam đến với nhiều quốc gia dân tộc có hoàn cảnh như Việt Nam trong đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Nói về Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Cách mạng Tháng Mười mở ra con đường giải phóng các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới... Vấn đề là ở chỗ, cần làm rõ ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh trên lĩnh vực lý luận cũng như thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước ta trong bối cảnh hiện nay như thế nào.

1. Tiếp thu đồng thời phát triển học thuyết Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh đã thấy thế giới là thống nhất, không chỉ gồm các nước tư bản phát triển mà cả nhân loại cần lao đang cần được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, khỏi nghèo nàn, lạc hậu để có cuộc sống thật sự ấm no, hạnh phúc, cuộc sống đúng với ý nghĩa của nó. Người tìm thấy đối tượng cần được giải phóng cũng như nguồn lực sức mạnh đấu tranh giải phóng con người không chỉ có giai cấp vô sản mà là những người lao động trên khắp hành tinh, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, mầu da, nam, nữ và cả chính kiến.

Chính vì lẽ đó, từ khi đi tìm đường cứu nước, tiếp cận với học thuyết Mác và chủ nghĩa Lê-nin, Hồ Chí Minh không chỉ tìm được con đường cứu nước mà còn trang bị cho mình một nhân sinh quan mới, tìm thấy con đường phát triển của một đất nước còn lạc hậu, kém phát triển như Việt Nam. Đây là quá trình Hồ Chí Minh tìm hiểu và vận dụng những nguyên lý cách mạng và học thuyết của học thuyết Mác và chủ nghĩa Lê-nin vào Việt Nam với tư duy độc lập, sáng tạo. Chính quá trình đó, Người không chỉ thành công trong việc vận dụng một học thuyết vốn có cơ sở thực tế từ xã hội phương Tây tư bản chủ nghĩa vào thực tiễn một nước thuộc địa, nông nghiệp, chưa phát triển như Việt Nam mà còn phát triển học thuyết Mác lên một tầm cao mới phù hợp không chỉ với thế giới tư bản chủ nghĩa mà cả với phần thế giới còn lại là những nước chưa qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản mà Việt Nam là một điển hình.

Từ đó, có thể nói, nếu học thuyết Mác và chủ nghĩa Lê-nin mang tính thời đại bao nhiêu thì tư tưởng Hồ Chí Minh cũng mang giá trị thời đại bấy nhiêu. Với Mác, ý nghĩa thời đại của học thuyết cách mạng và khoa học diễn ra trực diện và phù hợp với những nước phát triển chủ nghĩa tư bản. Với Lê-nin, thời đại đã được xác định với tên gọi cụ thể nhưng vẫn tập trung ở ý nghĩa đấu tranh giai cấp giữa giai cấp công nhân và chủ nghĩa tư bản. Với Hồ Chí Minh, ý nghĩa và giá trị thời đại không chỉ diễn ra ở các nước tư bản phát triển mà còn bao quát hơn ở tất cả các nước chưa phát triển; không chỉ bao gồm cuộc đấu tranh sống còn giữa giai cấp công nhân với chủ nghĩa tư bản mà cuộc đấu tranh đã được mở rộng trên tất cả các phạm vi và lĩnh vực đời sống xã hội; không chỉ là đấu tranh giai cấp với ách áp bức, bóc lột mà cả đấu tranh xóa bỏ đói nghèo và lạc hậu, nhằm xây dựng một thế giới mới theo mục tiêu lý tưởng của Mác: "Tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người".

Hồ Chí Minh tiếp thu Mác ở hai khía cạnh lớn: Đó là phương pháp luận biện chứng và nhân sinh quan tất cả vì con người, cho con người và do con người. Nhưng, Người tập trung hơn vào phát hiện thứ ba của Mác được Ăng-ghen nhắc đến sau khi Mác qua đời, đó là lịch sử phát triển các nền văn minh, tập trung vào lý tưởng giải phóng con người không chỉ khỏi áp bức, bóc lột mà còn phải giải phóng con người khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Đây là vấn đề có ý nghĩa thời đại cấp bách hiện nay.

2. Từ những phát hiện mới, Hồ Chí Minh phát huy chủ nghĩa dân tộc chân chính gắn với chủ nghĩa quốc tế chân chính nhằm tổ chức cuộc đấu tranh trường kỳ, anh dũng để giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước ta phát triển theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Đó là sự khởi đầu mang tính thời đại một cách sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay chủ nghĩa tư bản không còn phát triển bình thường nữa, chính nó đã tạo ra sự vận động hình thành không ngừng những ý niệm, vì theo Mác, những quan hệ sản xuất trong đó giai cấp tư sản vận động, không có một tính chất nhất trí, một tính chất đơn mà là một tính chất kép; rằng trong cùng quan hệ ấy sự giàu có được sản sinh ra thì sự khốn cùng cũng được sản sinh ra; trong cùng những quan hệ ấy, có sự phát triển của lực lượng sản xuất thì cũng có một lực lượng sản sinh ra áp bức; rằng những quan hệ ấy chỉ sản sinh ra sự giàu có tư sản, nghĩa là sự giàu có của giai cấp tư sản, bằng cách không ngừng thủ tiêu sự giàu có của những thành viên cấu thành của giai cấp ấy và bằng cách sản sinh ra một giai cấp vô sản không ngừng tăng lên. Đó là biểu hiện của sự thoái trào của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến sự phá sản tất yếu của nó, là hậu quả tất yếu của phương thức sản xuất hiện đang tồn tại "những dấu hiệu chứng tỏ rằng phương thức sản xuất đó bắt đầu tan rã" như Ăng-ghen dự báo.

Trên cơ sở thực tiễn ấy, Hồ Chí Minh đã rút ra nhận định: "Thời đại chủ nghĩa tư bản lũng đoạn cũng là thời đại của một nhóm nước lớn do bọn tư bản tài chính cầm đầu thống trị các nước phụ thuộc". Chính nhóm nước lớn, do bọn tư bản tài chính cầm đầu được xem là "thầy phù thủy" không kiểm soát nổi của chủ nghĩa tư bản, đang tạo nên sự phá sản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đòi hỏi một phương thức sản xuất mới thay thế. Đó chỉ có thể là chủ nghĩa xã hội. Không phải là ngẫu nhiên, trong sự vận động hình thành những ý niệm trong lòng chủ nghĩa tư bản, cũng xuất hiện cả ý niệm về chủ nghĩa xã hội. Điều đó chứng minh rằng, chủ nghĩa xã hội và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thay thế chủ nghĩa tư bản. Hiện nay, sự phát triển của khoa học và công nghệ tạo ra sức sản xuất mới đáng lẽ phải có một chế độ xã hội mới cao hơn là chủ nghĩa xã hội tương ứng với nó, nhưng xã hội mới đó lại chưa đủ mạnh để thay thế chủ nghĩa tư bản đã không còn thích hợp nữa. Trong bối cảnh đó, nhân loại hướng về việc tìm kiếm một mô hình về chủ nghĩa xã hội, dường như là điều tất yếu. Và, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội không chỉ có ý nghĩa và giá trị đối với Việt Nam mà còn có ý nghĩa và giá trị thời đại ở ngay cả các nước tư bản phát triển, dù cho quan niệm về chủ nghĩa xã hội đang cũng có nhiều ý kiến khác nhau.

3. Phát hiện quan trọng nữa của Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở những nước chưa phát triển như Việt Nam, không chỉ là đấu tranh giai cấp mà trước hết và trên hết phải tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, làm sao cho dân giàu, nước mạnh, nhân dân được tự do, hạnh phúc. Đó là con đường phấn đấu lâu dài, gian khổ, liên tục trên mọi phương diện từ kinh tế, chính trị đến văn hóa và xã hội, y tế và giáo dục.

4. Ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ trên nhiều lĩnh vực khác về xây dựng con người và văn hóa... Trong bối cảnh mới, tư tưởng của Người mang ý nghĩa và giá trị mới.

Có thể nói, chưa bao giờ thế giới lại diễn ra nhiều nghịch lý như hiện nay. Thế giới càng giàu lên thì sự phân hóa giàu nghèo càng trở nên sâu sắc. Chính nghịch lý đó đang tạo ra những khủng hoảng về niềm tin, về tâm lý, dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội như một tất yếu ở các nước được xem là văn minh, vào chính con người ở ngay các nước giàu có nhất. Trớ trêu thay, cái thế giới văn minh như đã thấy khiến con người có đủ mọi thứ, thực hiện được mọi ước mơ mà trước kia chỉ là huyền thoại lại vẫn có vô số sự bất công, vô số người mất lòng tin đã tìm đến cái chết để trốn tránh cuộc đời. Trớ trêu thay, chính ở những nước có nền kinh tế phát triển, có nhiều người là tỷ phú đô-la, lại nảy sinh hiện tượng khủng hoảng về lẽ sống, phải tìm đến những cách sống xa lạ trái với tự nhiên. Phải chăng, đó cũng chính là biểu hiện của sự suy thoái đạo đức khi con người chỉ hướng vào "cái tôi" thuần túy, chạy theo chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Trong bối cảnh đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa nhân văn, về đạo đức mới đang có ý nghĩa định hướng cho con người hành động, cho con người thấy hướng đi đúng đắn.

Không phải ngày nay chúng ta mới thấy được ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ rất lâu, nhân loại tiến bộ trên thế giới, nhất là những trí thức lớn, những chính khách giàu lòng bác ái, đã từng ca ngợi và bày tỏ sự khâm phục tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nhưng, có thể nói, trong bối cảnh thế giới đang có những diễn biến phức tạp, đan xen những thời cơ và thử thách, những tiêu cực và tích cực, những nghịch lý... thì ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh càng được tỏa sáng hơn bao giờ hết.

Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, “Là đạo đức, là văn minh” trong giai đoạn hiện nay

Đất nước ta đang đứng trước thời cơ lớn và thách thức lớn của sự phát triển. Để lãnh đạo đất nước trong điều kiện mới, Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao được năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, nắm bắt thời cơ, chấp nhận và vượt qua thách thức, nguy cơ, nâng cao tầm trí tuệ. Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng, cấp ủy đảng phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, chung tay xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”.

Với nhận thức chung đó, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng hiện nay cần tập trung vào những nội dung, công việc chính sau đây.

1. Nâng cao phẩm chất trí tuệ của Đảng, xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới, đề ra các chủ trương, giải pháp phù hợp cho giai đoạn phát triển mới

Đảng ta là Đảng cầm quyền. Năng lực cầm quyền của Đảng là sự tổng hoà trình độ, khả năng, bản lĩnh chính trị để giải quyết các yêu cầu, nhiệm vụ do tình hình đất nước và thế giới đặt ra, nhằm lãnh đạo toàn dân thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”.

Muốn đề ra đường lối, chủ trương, quyết sách phù hợp, Đảng phải nâng cao tầm trí tuệ, nắm chắc yêu cầu thực tiễn, tình hình trong nước và quốc tế để tiếp tục hoàn thiện đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Trong hoạch định đường lối phải tránh bảo thủ, trì trệ, đồng thời phải tránh hấp tấp, vội vàng, làm tốt công tác dự báo, chú ý đến những vấn đề mới nảy sinh để kịp thời nghiên cứu, tổng kết, bổ sung, phát triển cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng.

Việc xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh “Đảng… phải có chủ nghĩa làm cốt”. Đảng phải kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm kim chỉ nam cho hành động, cơ sở quy tụ, xây dựng và phát huy sức mạnh đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân tộc.

2. Quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, thực sự coi xây đựng Đảng lả nhiệm vụ then chốt ở tất cả các cấp, các ngành

– Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, sự suy yếu thoái hóa, biến chất của tổ chức Đảng, làm cho vai trò cầm quyền của Đảng bị suy giảm, dẫn đến mất ổn định chính trị – xã hội là một nguy cơ lớn. Chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là điều kiện tối cần thiết và là điều kiện tiên quyết để giữ vững ổn định chính trị – xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

– Toàn Đảng phải quán triệt đầy đủ quan điểm xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Tính chất then chốt của nhiệm vụ xây dựng Đảng thể hiện trong các điểm sau:

Một là, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, thu hút và phát huy tiềm năng trí tuệ của toàn dân tộc.

Trong thực hiện nhiệm vụ này, cần quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: Xây dựng xã hội mới là công việc “rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân” (12).

Hai là, cần đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ đức và tài, đầy tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước dân tộc, năng động, dám nghĩ dám làm,… không chỉ là sự quan tâm, phát huy nhân tố con người trong Đảng, mà còn để phát huy sức mạnh của toàn dán tộc, vấn đề có ý nghĩa quyết định đến thành bại của cả sự nghiệp cách mạng.

Ba là, kiên quyết đấu tranh, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tiêu cực khác ở trong Đảng và ngoài xã hội. Những tiêu cực trong xã hội đã xâm nhập vào cơ thể Đảng, vào bộ máy Nhà nước, thách thức nghiêm trọng uy tín của Đảng, Nhà nước trong nhân dân, ảnh hưởng đến việc cầm quyền của Đảng, sự tồn vong của chế độ và con đường phát triển của đất nước. Do vậy, toàn Đảng và mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần có nhận thức đúng đắn tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh về nhiệm vụ xây dựng Đảng, để tham gia đấu tranh khắc phục tình trạng trên, xây dựng Đảng ta thực sự “là đạo đức, là văn minh”.

3. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

– Phương thức lãnh đạo của Đảng có vai trò quan trọng để đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Đó cũng chính là yêu cầu mà Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã đề ra trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc.

– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết và đặt trọng tâm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam xác định Hiến pháp và pháp luật là quyền lực tối thượng, điều chỉnh mọi quan hệ xã hội. Trong điều kiện đó, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có vai trò rất quan trọng, thể hiện năng lực cầm quyền của Đảng.

– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng hiện nay phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội. Ngày nay, vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội ngày càng mở rộng. Đảng tiếp thu những ý kiến của các tổ chức đoàn thể để bổ sung, phát triển, điều chỉnh đường lối, chủ trương; để đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Cần quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và trung thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo” (13).

4. Giải quyết tốt mối quan hệ với dân

– Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ trương tập hợp tất thảy những người yêu nước vào sự nghiệp cách mạng, xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân có ý nghĩa lớn về lý luận và thực tiễn trong công tác xây dựng Đảng, cần được quán triệt và tổ chức thực hiện tốt ở tất cả các cấp, các ngành.

– Giải quyết mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân hiện nay đang trở thành vấn đề cấp thiết, là bài học lớn rút ra từ hơn 20 năm đổi mới. Sự phản ứng, đôi khi gay gắt của nhân dân ở một số nơi đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, chính quyền các cấp, rõ nhất là cấp cơ sở; các “điểm nóng” liên quan đến nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề nhà, đất, quyền dân chủ, dân sinh,… liên tiếp xuất hiện ở nhiều địa phương đã phản ánh sự không bình thường trong mối quan hệ máu thịt này.

– Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế,… để giải quyết mối quan hệ này, nhưng nói chung hiệu quả vẫn còn rất thấp. Điều đó phản ánh sự cố gắng, quyết tâm chính trị nhưng vấn đề cơ bản hiện nay là tổ chức thực hiện tích cực, kiên quyết, đồng bộ, có hiệu quả ở các cấp, các ngành. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, của mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên của. Đảng, trước hết là các cấp ủy đảng.

– Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với dân, ở tất cả các cấp, các ngành phải quán triệt các chỉ dẫn của Bác: Các quyết định, chủ trương được thông qua phải lấy lợi ích của đa số nhân dân làm mục đích; các chính sách được ban hành phải theo mục tiêu vì dân; cán bộ, đảng viên, công chức phải là công bộc của dân, “vì nhân dân phục vụ”; các biện pháp thực hiện phải dựa vào sức dân và mang lợi ích cho dân… Điều quan trọng là mọi hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể phải thực sự lấy dân làm gốc.

5. Tổ chức tốt đại hội đảng bộ các cấp theo quy định của Điều lệ Đảng

Ngày 4-8-2009, Bộ Chính trị khóa X đã ban hành Chỉ thị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (Chỉ thị số 37-CT/TW). Theo Chỉ thị, Trung ương Đảng đã quyết định tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI vào nửa đầu tháng 1-2011. Chỉ thị đã xác định các yêu cầu và nội dung tiến hành đại hội Đảng các cấp. Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh” phải trực tiếp phục vụ cho việc tổ chức tốt đại hội các cấp theo quy định của Điều lệ Đảng.

– Trong Báo cáo chính trị trình đại hội các cấp phải gắn kiểm điểm việc thực hiện nhiệm vụ chính trị với kiểm điểm việc thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, qua đó để phát huy vai trò và gắn trực tiếp Cuộc vận động với nội dung tiến hành Đại hội.

– Trong việc chuẩn bị và tiến hành Đại hội phải phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết, giữ vững kỷ cương, coi trọng chất lượng. Phát huy cao nhất trí tuệ, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên trong công tác xây dựng Đảng. Tổ chức thật tốt việc thảo luận những quan điểm, chủ trương, định hướng lớn nêu trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI và các văn kiện đại hội đảng bộ. Báo cáo của mỗi cấp bộ đảng trước đại hội cần tập trung vào những vấn đề quan trọng, cấp bách trước mắt và có ý nghĩa lâu dài của địa phương, đơn vị. Tổ chức lấy ý kiến góp ý của các tầng lớp nhân dân về các văn kiện dự thảo.

– Nâng cao tinh thần phê bình và tự phê bình, đánh giá đúng mức ưu điểm, khuyết điểm, kết quả lãnh đạo của cấp ủy và đảng bộ trong thực hiện nhiệm vụ chính trị; chỉ rõ nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, của những yếu kém, khuyết điểm và đề ra những biện pháp khắc phục.

– Việc lựa chọn, giới thiệu nhân sự bầu vào cấp ủy các cấp căn cứ vào tiêu chuẩn chung quy định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII về Chiến lược cán bộ. Trong điều kiện hiện nay, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về yêu cầu đối với cán bộ lãnh đạo, cần đặc biệt nhấn mạnh tiêu chuẩn về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ được giao; uy tín trong Đảng và trong xã hội; có tư duy đổi mới, khả năng tiếp cận, nắm bắt, xử lý các vấn đề mới và vấn đề phức tạp mới nảy sinh; khả năng đoàn kết, quy tụ; phong cách làm việc khoa học, dân chủ, sâu sát, nói đi đôi với làm; dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm.

Vận dụng tốt tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh” trong tổ chức đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XI có ý nghĩa rất thiết thực trong công tác xây dựng Đảng, trong thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” hiện nay; đáp ứng được yêu cầu thang của công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; sự mong đợi của đông đảo cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top

Tags: #linh#tại