Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

Chương 8- Kế toán thu nhập- chi phí

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương Viii

kế toán thu nhập - chi phí

và kết quả kinh doanh của nhtm

1. Những vấn đề chung về kế toán thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh của NHTM

1.1. Khái quát về cơ chế tài chính của NHTM

Các NHTM là những doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng với nhiệm vụ cơ bản của các NHTM là kinh doanh và phục vụ cho các chính sách kinh tế của đất nước. NHTM là những đơn vị hạch toán kinh tế độc lập, có quyền tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế trong toàn hệ thống, lấy thu nhập bù đắp chi phí và đảm bảo có lãi.

Hoạt động tài chính của NHTM vừa phải tuân thủ theo cơ chế tài chính của các doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp, vừa tuân theo cơ chế tài chính của ngân hàng theo quy định của Luật các TCTD.

Tuy nhiên, do tính chất hoạt động kinh doanh của NHTM là kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, hoạt động tài chính của ngân hàng cũng mang những đặc điểm sau đây

- Nguồn vốn của ngân hàng được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, do ngân sách cấp, vốn cổ phần, vốn tự bổ sung, vốn huy động, vốn liên doanh liên kết... trong đó nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng chủ yếu. Việc quản lý vốn trong ngân hàng được thực hiện theo nguyên tắc điều hoà trong toàn hệ thống, giữa các chi nhánh và hội sở chính có các nghiệp vụ về phân phối, điều chuyển vốn.

- Doanh thu của NHTM được tạo ra trên cơ sở các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ như hoạt động tín dụng, kinh doanh ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, đầu tư, góp vốn liên doanh liên kết, nghiệp vụ đại lý và từ dịch vụ thanh toán... Thu nhập của ngân hàng chính là một bộ phận thu nhập của các nhà sản xuất, kinh doanh khác phải nhường lại do nhận tín dụng hoặc sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Trong đó, khoản thu chủ yếu là thu lãi từ hoạt động tín dụng, đầu tư và chịu ảnh hưởng bởi quy mô, chất lượng hoạt động tín dụng, đầu tư. Tuy nhiên, với xu thế phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện nay nên các khoản thu từ dịch vụ đang ngày một tăng ở các ngân hàng hiện đại.

- Chi phí của ngân hàng chủ yếu là chi phí cho huy động vốn trả cho các tổ chức, các nhân có tiền gửi, đầu tư hoặc cho ngân hàng vay. Trong đó chi trả lãi tiền gửi và tiền vay thường là khoản chi phí lớn nhất và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chính sách kinh doanh của ngân hàng, lãi suất thị trường, lạm phát... Các khoản chi trong ngân hàng chủ yếu mang tính chất chi phí hoạt động dịch vụ và gắn liền với kết quả kinh doanh, nên việc quản lý các khoản chi phí trong ngân hàng có ý nghĩa rất quan trọng đối với mục tiêu tăng lợi nhuận của ngân hàng.

- Mỗi NHTM là một đơn vị hạch toán kinh tế độc lập, các chi nhánh là những đơn vị hạch toán phụ thuộc, kết quả kinh doanh được tính chung cho toàn hệ thống. Để xác định kết quả kinh doanh, người ta phân chia đời sống ngân hàng ra làm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn gắn với một năm hoạt động (năm tài chính) và được coi là một chu kỳ kinh doanh. Việc tính toán kết quả kinh doanh của ngân hàng chỉ được xác định chính thức vào cuối năm tài chính và cho toàn hệ thống.

- Lợi nhuận của ngân hàng là chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí trong năm, sau khi làm xong nghĩa vụ nộp Ngân sách Nhà nước, ngân hàng phải trích lập các quỹ bổ sung nguồn vốn chủ sở hữu và dự phòng cho các rủi ro trong kinh doanh, lập quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, sau đó mới được trích lập quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi. Các quỹ được trích lập theo các tỷ lệ quy định và sử dụng theo đúng tính chất của từng quỹ.

- Các NHTM phải lập báo cáo tài chính theo đúng quy định của chế độ kế toán thống kê và các chuẩn mực kế toán để gửi cho các cơ quan tài chính và NHNN trong thời hạn quy định sau khi đã được kiểm toán.

1.2. Tài khoản và chứng từ sử dụng

1.2.1. Tài khoản sử dụng

Trong kế toán thu chi và kết quả kinh doanh của NHTM sử dụng các nhóm tài khoản sau:

1.2.1.1. Tài khoản phản ánh kết quả kinh doanh

Phản ánh kết quả kinh doanh của ngân hàng là tài khoản lợi nhuận chưa phân phối (TK 69). Khi hạch toán tài khoản này cần tôn trọng một số quy định sau:

- Việc phân phối kết quả kinh doanh của ngân hàng phải đảm bảo rõ ràng, minh bạch theo đúng chế độ tài chính.

- Phải hạch toán chi tiết kết quả kinh doanh của từng niên độ kế toán, đồng thời theo dõi chi tiết theo từng nội dung phân phối.

- Trường hợp phát hiện các sai sót ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của năm trước thì việc sửa chữa các sai sót đó được điều chỉnh hạch toán vào tài khoản lợi nhuận để lại năm trước.

Tài khoản lợi nhuận chưa phân phối được phân chia thành hai tài khoản cấp 2 là:

Tài khoản lợi nhuận năm nay - TK 691

Tài khoản lợi nhuận năm trước - TK 692

Kết cấu tài khoản lợi nhuận chưa phân phối:

Bên Có ghi: - Số dư cuối kỳ của các tài khoản thu nhập chuyển sang

- Nhận lại phần thuế nộp thừa

Bên Nợ ghi: - Số dư cuối kỳ của các tài khoản chi phí chuyển sang

- Nộp bổ sung số thuế còn thiếu

- Trích lập các quỹ

- Chia lợi nhuận cho các bên tham gia liên doanh, cho các cố đông

Số dư Có phản ánh số lợi nhuận chưa phân phối hoặc chưa sử dụng

Số dư Nợ phản ánh số lỗ hoạt động kinh doanh chưa xử lý

Hạch toán chi tiết: Mở một tài khoản chi tiết

1.2.1.2. Nhóm tài khoản phản ánh thu nhập của ngân hàng

Bao gồm các tài khoản phản ánh các khoản thu nhập của ngân hàng như thu từ hoạt động tín dụng, kinh doanh, thu về dịch vụ ngân hàng và thu nhập bất thường. Mỗi loại thu nhập được mở một tài khoản riêng, cụ thể là:

- Tài khoản thu nhập từ hoạt động tín dụng (TK 70

- Tài khoản thu nhập phí từ hoạt động dịch vụ (TK 71)

- Tài khoản thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại hối (TK 72)

- Tài khoản thu nhập từ hoạt động kinh doanh khác (TK 74)

- Tài khoản thu lãi góp vốn, mua cổ phần (TK 78)

- Tài khoản thu nhập khác (TK 79)

Kết cấu của các tài khoản thu nhập:

Bên Có ghi : Các khoản thu về hoạt động kinh doanh trong năm.

Bên Nợ ghi : - Chuyển tiền số dư có cuối năm vào tài khoản lợi nhuận năm nay khi quyết toán

- Điều chỉnh hạch toán sai sót trong năm

Số dư Có phản ánh các khoản thu nhập trong năm chưa kết chuyển

Hạch toán chi tiết: Mở một tài khoản chi tiết

1.2.1.3. Nhóm tài khoản phản ánh chi phí của ngân hàng

Nhóm tài khoản này phản ánh các khoản chi phí của ngân hàng bao gồm: - TK Chi phí hoạt động tín dụng (TK80)

- TK Chi phí hoạt động dịch vụ (TK81)

- TK Chi hoạt động kinh doanh ngoại hối (TK82)

- TK Chi nộp thuế, các khoản phí và lệ phí (TK83)

- TK Chi hoạt động kinh doanh khác (TK84)

- TK Chi phí nhân viên (TK85)

- TK Chi công vụ và quản lý (TK86)

- TK Chi về tài sản (87)

- TK Chi dự phòng, bảo toàn và bảo hiểm tiền gửi (TK88)

- TK Chi phí khác (TK 89).

Kết cấu của các tài khoản chi phí:

Bên Nợ ghi: Các khoản chi về hoạt động kinh doanh trong năm.

Bên Có ghi : - Số tiền thu giảm chi trong năm.

- Chuyển số dư nợ cuối năm vào tài khoản lợi nhuận năm nay khi quyết toán.

Số dư Nợ phản ánh các khoản chi phí trong năm chưa kết chuyển

Hạch toán chi tiết: Mở một tài khoản chi tiết

1.2.2. Chứng từ

Chứng từ dùng trong kế toán kế toán thu chi tài chính và kết quả kinh doanh của ngân hàng chủ yếu là các chứng từ nội bộ như phiếu chuyển khoản, phiếu thu, phiếu chi được lập trên cơ sở các nghiệp vụ phát sinh. Ngoài ra, còn sử dụng một số các chứng từ khác như các bảng kê tính lãi, các chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt.

Các chứng từ dùng trong nghiệp vụ thu, chi và phân phối lợi nhuận được quản lý và sắp xếp riêng. Trên các chứng từ này phải có đầy đủ chữ ký của giám đốc ngân hàng, kế toán trưởng mới có giá trị để thực hiện bút toán.

2. Quy trình kế toán thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh

2.1. Kế toán doanh thu của ngân hàng

2.1.1. Chuẩn mực kế toán về kế toán doanh thu

Thu nhập của NHTM gồm nhiều loại khác nhau, mỗi loại có nội dung, tính chất riêng. Nếu xét trong mối quan hệ với chính sách thuế của Nhà nước thì có những loại thu nhập phải chịu thuế GTGT theo phương pháp tính thuế trực tiếp hoặc khấu trừ, có những loại thu không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT. Nếu xét theo tính chất phát sinh và mối quan hệ với lãi suất thì trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có những khoản thu nhập mang tính chất thường xuyên, có khoản thu mang tính chất bất thường; có khoản thu tính theo lãi suất và những khoản thu không dựa trên cơ sở lãi suất. Từ đó, trong kế toán phải phân định rõ tính chất và nội dung của từng loại thu để áp dụng phương pháp hạch toán phù hợp với quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Trong hạch toán doanh thu của ngân hàng phải tuân thủ Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14 về doanh thu và thu nhập khác, Chuẩn mực kế toán quốc tế số 18 về doanh thu.

Doanh thu của giao dịch được ghi nhận khi kết quả giao dịch về cung cấp dịch vụ được xác định một cách đáng tin cậy. Trường hợp giao dịch liên quan đến nhiều kỳ thi doanh thu được ghi nhận trong kỳ theo kết quả phần công việc đã hoàn thành vào ngày lập bảng cân đối kế toán của kỳ đó. Kết quả của giao dịch được xác định khi thoả mãn tất cả 4 điều kiện sau:

(1) Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn

(2) Có khả năng thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch cung cấp dịch vụ đó

(3) Xác định được phần công việc đã hoàn thành vào ngày lập bảng cân đối kế toán

(4) Xác định được chi phí phát sinh cho giao dịch và chi phí để hoàn thành giao dịch cung cấp dịch vụ đó.

Ngoài ra, trong kế toán doanh thu của NHTM còn phải tuân thủ một số quy định sau:

- Các tài khoản thu nhập luôn phản ánh số phát sinh bên Có và dư Có, cuối kỳ số dư có được kết chuyển toàn bộ sang tài khoản kết quả kinh doanh và không còn số dư.

- Đối với các khoản thu nhập từ các hoạt động mua bán chứng khoán, vàng, ngoại tệ... chỉ hạch toán phần chênh lệch giữa giá mua và bán (không phản ánh tổng số tiền bán thu được), số lãi về trái phiếu, tín phiếu hoặc cổ phiếu.

- Đối với khoản tiền lãi đầu tư nhận được từ khoản đầu tư cổ phiếu, trái phiếu thì chỉ có phần tiền lãi của các kỳ mà ngân hàng mua lại khoản đầu tư này mới được ghi nhận là thu nhập phát sinh trong kỳ; còn khoản lãi đầu tư dồn tích trước khi ngân hàng mua lại khoản đầu tư đó thì ghi giảm giá trị khoản đầu tư trái phiếu, cổ phiếu đó.

- Lãi phát sinh do thanh lý, nhượng bán TSCĐ được xác định bằng số chênh lệch dương giữa thu nhập với chi phí thanh lý, nhượng bán cộng giá trị còn lại của TSCĐ. Số lãi này được ghi nhận là thu nhập từ nhượng bán, thanh lý TSCĐ.

- Những khoản đã ghi vào thu nhập nhưng sau đó không thu được phải bù đắp bằng khoản dự phòng đã lập hoặc hạch toán vào chi phí phát sinh trong kỳ (nếu chưa được lập dự phòng hoặc số dự phòng nhỏ hơn số nợ không thu được) mà không ghi giảm thu nhập.

- Cuối năm, khi lập báo cáo tài chính thì các khoản phát sinh từ giao dịch nội bộ (lãi tiền gửi, cho vay nội bộ) phải loại trừ.

- Đối với thu nhập từ các cam kết ngoại bảng phải phân bổ trong suốt thời hạn thực hiện cam kết.

2.1.2. Nội dung và phương pháp hạch toán các khoản thu nhập của ngân hàng

Nội dung các khoản thu nhập của ngân hàng bao gồm:

- Thu nhập từ hoạt động tín dụng bao gồm thu lãi tiền gửi, thu lãi cho vay, thu lãi từ đầu tư chứng khoán, thu lãi cho thuê tài chính và thu lãi khác.

- Thu nhập phí từ hoạt động dịch vụ gồm thu từ dịch vụ thanh toán, thu từ nghiệp vụ bảo lãnh, thu từ dịch vụ ngân quỹ, thu từ nghiệp vụ uỷ thác và đại lý, thu từ dịch vụ tư vấn, thu từ kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm, thu phí nghiệp vụ chiết khấu, thu từ cung ứng dịch vụ bảo quản tài sản, cho thuê tủ, két và thu khác.

- Thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại hối gồm thu về kinh doanh ngoại tệ và thu về kinh doanh vàng.

- Thu nhập từ hoạt động kinh doanh khác như thu về kinh doanh chứng khoán thu từ nghiệp vụ mua bán nợ và thu về hoạt động kinh doanh khác

- Thu lãi góp vốn, mua cổ phần là số lãi thu được từ việc góp vốn mua cổ phần, góp vốn liên doanh của ngân hàng với tổ chức khác.

- Thu nhập bất thường là các khoản thu nhập của ngân hàng ngoài các khoản thu nhập nói trên, những khoản thu nhập phát sinh do chủ quan hoặc khách quan đưa tới mà ngân hàng không dự tính trước hoặc dự tính trước nhưng ít có khả năng thực hiện, những khoản thu không mang tính chất thường xuyên.

Khi hạch toán các khoản thu nhập có thể áp dụng một số phương pháp hạch toán sau:

- Phương pháp hạch toán thu trực tiếp khi phát sinh khoản thu nhập không qua dự thu hoặc doanh thu chờ phân bổ.

- Hạch toán theo phương pháp dự thu

- Phương pháp hạch toán qua doanh thu chờ phân bổ

- Ngoài ra, trong quá trình hạch toán thu nhập, có những khoản thu chịu thuế GTGT cần phân định rõ phần được ghi vào thu nhập của ngân hàng và phần thuế phải nộp để hạch toán riêng làm căn cứ nộp thuế cho NSNN.

2.1.2.1. Kế toán các khoản thu trực tiếp

Phương pháp hạch toán thu trực tiếp là hạch toán thẳng vào tài khoản thu nhập mà không hạch toán qua tài khoản dự thu hoặc doanh thu chờ phân bổ. Phương pháp này thường áp dụng trong hạch toán các khoản thu:

- Các khoản thu không thường xuyên như thu phí dịch vụ theo món

- Thu lãi từ hoạt động tín dụng, đầu tư, tiền gửi tại NHNN và TCTD khác đối với những trường hợp mà ngân hàng không áp dụng dự thu.

- Các khoản thu nhập bất thường như thu về thanh lý tài sản, thu tiền phạt vi phạm hợp đồng, thu tiền bảo hiểm được bồi thường, thu các khoản nợ đã xoá, thừa quỹ, thu các khoản thuế được giảm hoặc được hoàn lại.

Tuỳ theo nội dung, tính chất của khoản thu để tính toán, xác định chính xác số tiền thu theo các phương pháp:

+ Dựa vào biểu phí quy định để tính theo tỷ lệ hoặc thu theo mức tối thiểu, mức tối đa.

+ Dựa vào lãi suất thoả thuận để tính theo tích số dư nợ hàng tháng hoặc theo món nợ.

+ Lập chứng từ để thu hoặc chứng từ do người khác chuyển đến để hạch toán.

Khi phát sinh các khoản thu, kế toán căn cứ vào các chứng từ để hạch toán vào sổ kế toán hoặc nhập dữ liệu vào máy theo bút toán:

Nợ: TK thích hợp (tiền mặt, tiền gửi của khách hàng...)

Có: TK thu nhập theo nội dung, tính chất của khoản thu

2.1.2.2. Kế toán các khoản dự thu

Dự thu hay còn gọi là thu theo phương pháp dồn tích là những khoản thu nhập sẽ được thu trong tương lai nhưng gắn liền với những hoạt động kinh doanh hiện tại đang diễn ra. Các khoản thu này được ghi nhận là doanh thu khi đồng thời thoả mãn hai điều kiện:

- Có khả năng thu được lợi ích kinh tế từ hoạt động này

- Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn

Phương pháp này thường áp dụng đối với thu lãi cho vay, thu lãi tiền gửi, lãi đầu tư chứng khoán... mà những hoạt động này đã thoả thuận thu lãi sau hoặc theo định kỳ không trùng khớp với các kỳ kế toán của ngân hàng. Trước khi ghi chép vào tài khoản, kế toán viên phải tiến hành tính toán hoặc sử dụng chương trình máy tính để xác định mức lãi phải thu và lập các chứng từ thu lãi hợp lệ làm cơ sở để hạch toán. Việc tính và thu lãi được ghi nhận trên cơ sở thời gian và lãi suất thực tế từng kỳ. Tuỳ theo điều kiện công nghệ và cách thức quản lý, việc hạch toán lãi dự thu tại các NHTM có thể được thực hiện theo ngày, tháng, quý hoặc cuối năm tài chính; thông thường nhiều ngân hàng thực hiện hạch toán dự thu hàng tháng. Các bút toán hạch toán dự thu sẽ là:

- Khi tính và hạch toán dự thu:

Nợ: Tài khoản lãi phải thu thích hợp

Có: Tài khoản thu lãi

- Khi số tiền lãi được trả sẽ ghi:

Nợ: TK thích hợp

Có: TK lãi phải thu

- Nếu quá thời hạn quy định về trả lãi (hoặc số nợ gốc cho vay bị chuyển sang quá hạn) thì kế toán phải hạch toán dự phòng số lãi đã cộng dồn và theo dõi trên tài khoản ngoại bảng:

Nợ: TK chi dự phòng

Có: TK dự phòng rủi ro lãi phải thu

Đồng thời ghi nhập tài khoản lãi chưa thu được

- Khi số lãi đã dự phòng rủi ro này được thanh toán thì sẽ hạch toán trực tiếp vào tài khoản thu nhập và tất toán số dự phòng rủi ro đã trích và xuất tài khoản ngoại bảng. Trường hợp không thu được, sau một thời gian quy định ngân hàng sử dụng số dự phòng đã trích để bù đắp và tiếp tục theo dõi ở ngoại bảng.

2.1.2.3. Kế toán các khoản thu chờ phân bổ

Thu chờ phân bổ là những khoản thu tính trước và giá trị lớn từ các nghiệp vụ kinh doanh diễn ra trong một thời gian nhất định như đầu tư chứng khoán trả lãi trước, thu phí chiết khấu trước, số tiền góp vốn nhỏ hơn mệnh giá cổ phiếu... Để phù hợp với quá trình hoạt động kinh doanh, các khoản thu này phải được phân bổ đều vào thu nhập theo diễn biến của nghiệp vụ kinh doanh.

Số thu nhập theo định kỳ = Tổng số tiền thu được

Số kỳ phân bổ

- Khi phát sinh khoản thu nhập chờ phân bổ, căn cứ vào chứng từ hợp lệ, kế toán ghi:

Nợ: TK thích hợp

Có: TK doanh thu chờ phân bổ (TK 488)

- Định kỳ, lập phiếu chuyển khoản để phân bổ vào thu nhập:

Nợ: TK doanh thu chờ phân bổ (TK 488)

Có: TK thu nhập thích hợp

2.1.2.4. Kế toán thu thuộc đối tượng chịu thuế GTGT

Trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, có các khoản thu thuộc đối tượng chịu thuế GTGT phải nộp theo Luật thuế của Nhà nước. Trong đó, có những khoản thu chịu thuế theo phương pháp tính thuế trực tiếp và có những khoản thu chịu thuế theo phương pháp khấu trừ. Với những khoản thu thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ như thu lệ phí, hoa hồng, thu phí từ việc cung cấp các dịch vụ mang lại cần phải xác định và hạch toán riêng số thuế GTGT. Với những khoản thu không sử dụng hoá đơn thuế GTGT thì kế toán phải tính thêm phần thuế phải nộp để hạch toán.

Khi phát sinh các khoản thu kế toán sẽ ghi:

Nợ: Tài khoản thích hợp (số tiền NH được hưởng và số VAT phải nộp)

Có: Tài khoản thuế GTGT phải nộp (TK 4531) số VAT

Có: Tài khoản thu nhập thích hợp (số tiền NH được hưởng)

2.1.2.5. Kế toán các khoản thu nhập bằng ngoại tệ

Thu nhập bằng ngoại tệ có nhiều nội dung (các khoản thu này phụ thuộc vào phạm vi hoạt động kinh doanh ngoại tệ của từng ngân hàng thương mại). Hiện nay tại các ngân hàng thương mại, khoản thu bằng ngoại tệ chủ yếu là thu lãi cho vay, đầu tư bằng ngoại tệ, thu từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ, thu thủ tục phí trong các nghiệp vụ thanh toán quốc tế... Như vậy kế toán phải xác định được tính chất của các khoản thu này để hạch toán vào tài khoản thích hợp.

Theo nguyên tắc, các khoản thu bằng ngoại tệ, hàng ngày ngân hàng phải quy đổi ra Đồng Việt Nam để hoà nhập vào kết quả kinh doanh chung của ngân hàng. Tuỳ theo tình hình hoạt động ngoại tệ, các khoản thu nhập, chi phí bằng ngoại tệ có thể dược quy đổi ra Đồng Việt Nam theo từng nghiệp vụ hoặc tiến hành vào cuối ngày. Khi quy đổi kế toán sử dụng các tài khoản mua bán ngoại tệ kinh doanh để quy đổi theo tỷ giá mua.

- Phương pháp quy đổi theo từng nghiệp vụ

+ Khi phát sinh khoản thu, ghi:

Nợ: TK thích hợp

Có: TK mua bán ngoại tệ kinh doanh (4711)

+ Tính quy đổi ra VND theo tỷ giá mua và hạch toán:

Nợ: TK Thanh toán mua bán ngoại tệ kinh doanh (4712)

Có: TK thu nhập thích hợp

- Phương pháp quy đổi một lần vào cuối ngày:

+ Trong ngày phát sinh các khoản thu bằng ngoại tệ, ghi:

Nợ: TK thích hợp

Có: TK thu nhập thích hợp bằng ngoại tệ

+ Cuối ngày, tất toán số thu bằng ngoại tệ và quy đổi ra VND theo tỷ giá mua, ghi:

Có (đỏ): TK thu nhập thích hợp bằng ngoại tệ

Có: TK Mua bán ngoại tệ kinh doanh (số ngoại tệ thu trong ngày)

Đồng thời ghi:

Nợ: TK Thanh toán mua bán ngoại tệ kinh doanh

Có: TK thu nhập thích hợp (số VND tính theo tỷ giá mua)

2.2.2.6. Kế toán khi thoái thu

Kế toán thoái thu hay giảm thu xảy ra trong các trường hợp:

- Do tính toán sai số học dẫn đến thu thừa, nay phải hoàn trả

- Do hạch toán nhầm tài khoản nên phải điều chỉnh cho đúng

Khi phát hiện ra những sai sót, nhầm lẫn, kế toán phải kiểm tra cẩn thận trước khi điều chỉnh. Khi thoái thu, kế toán lập chứng từ trình Giám đốc ngân hàng và trưởng phòng kế toán kiểm soát trước khi ghi:

Nợ: TK thu nhập (trước đây đã ghi có)

Có: TK thích hợp

2.2. Kế toán các khoản chi phí của ngân hàng

2.2.1. Nguyên tắc và phương pháp hạch toán chi phí trong NHTM

Khi hạch toán các khoản chi phí phải tuân thủ các quy định sau:

- Các ngân hàng phải chấp hành nghiêm túc chế độ quản lý tài chính của Nhà nước trong quá trình chi tiêu. Xây dựng và thực hiện kế hoạch, định mức chi tiêu hợp lý để đảm bảo tiết kiệm nhưng vẫn không ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

- Loại tài khoản phản ánh chi phí trong kỳ kế toán luôn phản ánh số phát sinh bên Nợ và dư Nợ, cuối kỳ số dư có được kết chuyển toàn bộ sang tài khoản kết quả kinh doanh và không còn số dư.

- Lỗ phát sinh do thanh lý, nhượng bán TSCĐ được xác định bằng số chênh lệch âm giữa thu nhập với chi phí thanh lý, nhượng bán cộng giá trị còn lại của TSCĐ. Số lỗ này được ghi nhận là chi phí nhượng bán, thanh lý TSCĐ.

- Đối với các khoản thu nhập từ các hoạt động mua bán chứng khoán, vàng, ngoại tệ... chỉ hạch toán phần chênh lệch giữa giá mua và bán (không phản ánh tổng số tiền bán thu được), số lãi về trái phiếu, tín phiếu hoặc cổ phiếu.

- Cuối năm, khi lập báo cáo tài chính thì các khoản phát sinh từ giao dịch nội bộ (chi trả lãi tiền gửi, tiền vay nội bộ) phải loại trừ. Tổng chi tiền lãi nội bộ phải bằng tổng thu tiền lãi nội bộ trong hệ thống.

- Các khoản sau đây không được hạch toán vào chi phí mà phải sử dụng đúng nguồn để bù đắp:

+ Tiền phạt phải nộp Ngân sách Nhà nước do vi phạm luật thuế hoặc vi phạm các chế độ khác (nghĩa vụ báo cáo, nghĩa vụ khác...)

+ Các khoản phải trả khách hàng về những thiệt hại vật chất do ngân hàng gây ra (chậm trễ trong việc chi trả tiền, vi phạm hợp đồng đã thoả thuận ...)

+ Các khoản mất mát, tổn thất tài sản do lỗi của các cá nhân, tập thể ngân hàng gây ra.

+ Các khoản mua sắm TSCĐ, xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn XDCB.

+ Các khoản chi vượt chế độ, vượt định mức hoặc không hợp lý

+ Các khoản chi thuộc nguồn vốn khác (bù đắp rủi ro, khen thưởng, chi phúc lợi, ủng hộ các tổ chức và cá nhân...).

Trong hạch toán các khoản chi phí cũng có thể áp dụng các phương pháp hạch toán trực tiếp khi phát sinh nghiệp vụ, hạch toán dồn tích hoặc hạch toán qua chi phí chờ phân bổ. Tuy nhiên, do tính chất đa dạng của các khoản chi phí và yêu cầu quản lý nên phải căn cứ vào tính chất cụ thể của từng khoản chi để hạch toán theo đúng chế độ. Trong quá trình hạch toán phải đảm bảo phù hợp với quá trình phát sinh chi phí mà ngân hàng phải bỏ ra để thực hiện nghiệp vụ cũng như đánh giá đúng kết quả kinh doanh của ngân hàng qua các thời kỳ.

Từ đó, nhiệm vụ cơ bản của kế toán chi tiêu là phải xác định đúng nội dung, tính chất các khoản chi để hạch toán đúng, kịp thời vào tài khoản thích hợp, chấp hành tốt kế hoạch tài chính, giám đốc các khoản chi theo đúng chế độ của Nhà nước và các quy định của ngành với mục tiêu tiết kiệm chi phí để góp phần tăng lợi nhuận cho ngân hàng.

2.2.2. Nội dung các khoản chi phí của NHTM

Các khoản chi phí của ngân hàng rất phong phú, đa dạng. Có các khoản chi thuộc về nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ như trả lãi tiền gửi, trả lãi tiền vay, có những khoản chi mang tính chất chi dịch vụ (chi dịch vụ thanh toán, ngân quỹ, chi uỷ thác...), chi cho quá trình sản xuất gia công, chế tác vàng bạc, đá quý và các khoản chi cho hoạt động nội bộ của bộ máy ngân hàng (chi về tài sản, chi phí nhân viên, công vụ, chi quản lý...). Sau dây đề cập đến các khoản chi chủ yếu của NHTM hiện đang áp dụng:

a. Chi phí cho nghiệp vụ kinh doanh: Bao gồm các khoản chi phí phát sinh trong nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ của ngân hàng. Cụ thể là:

- Trả lãi tiền gửi và các giấy tờ có giá là khoản chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số chi phí của ngân hàng. Khoản chi này phụ thuộc vào quy mô, cơ cấu vốn huy động và mức lãi suất phải trả.

- Trả lãi tiền vay là số lãi phải trả cho các khoản vay từ NHNN hoặc các tổ chức tín dụng khác trong nước và nước ngoài.

- Chi cho hoạt động dịch vụ như dịch vụ thanh toán và ngân quỹ; cước phí tham gia mạng viễn thông; chi uỷ thác, đại lý; chi cho dịch vụ tư vấn, môi giới...

- Chi về hoạt động kinh doanh ngoại hối bao gồm các khoản chi trực tiếp cho hoạt động kinh doanh vàng, ngoại tệ; phí nhờ tiêu thụ ngoại tệ, mua bán các bản tin phục vụ cho việc kinh doanh ngoại tệ, chi phí vận chuyển, đóng gói, bảo quản, chế tác vàng, bạc, ...

- Chi về các hoạt động kinh doanh khác như kinh doanh chứng khoán, cho thuê tài chính,...

b. Chi phí cho nhân viên và chi phí quản lý: Bao gồm các khoản chi cho các hoạt động của bộ máy ngân hàng. Nội dung các khoản chi này là:

- Chi lương và phụ cấp cho cán bộ công nhân viên ngân hàng theo chế độ quy định.

- Các khoản chi để đóng góp theo lương như chi nộp bảo hiểm xã hội, đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm lao động, nộp kinh phí công đoàn và các khoản chi đóng góp khác theo chế độ.

- Chi trợ cấp như trợ cấp khó khăn, trợ cấp thôi việc và trợ cấp khác theo quy định.

- Chi trang phục giao dịch và phương tiện bảo hộ lao động.

- Chi hoạt động quản lý và công vụ như chi về vật liệu giấy tờ in, chi công tác phí, chi đào tạo huấn luyện nghiệp vụ, chi nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, chi bưu phí và điện thoại, chi xuất bản tài liệu tuyên truyền quảng cáo, chi phí quản lý khác.

c. Chi về tài sản: Bao gồm chi khấu hao cơ bản tài sản cố định, bảo dưỡng và sửa chữa tài sản, xây dựng nhỏ, mua sắm công cụ lao động, bảo hiểm tài sản, thuê tài sản.

d. Chi nộp thuế và các khoản phí, lệ phí: Gồm chi nộp thuế và các khoản phí, lệ phí.

e. Chi phí dự phòng, bảo toàn, bảo hiểm tiền gửi: Bao gồm các khoản chi dự phòng giảm giá vàng, ngoại tệ, giảm giá chứng khoán, giảm giá hàng tồn kho, dự phòng nợ khó đòi, dự phòng cho dịch vụ thanh toán, chi nộp bảo hiểm tiền gửi cho khách hàng

f. Chi phí khác: Thường là các khoản chi phí bất thường như chi về thanh lý tài sản, các khoản lỗ do các sự kiện hay nghiệp vụ riêng biệt của đơn vị, các khoản chi bị bỏ sót từ năm trước...

2.2.3. Kế toán toán các khoản chi

2.2.3.1. Kế toán các khoản chi phí trực tiếp

Các khoản chi phí trực tiếp thường phát sinh theo từng lần và được hạch toán trực tiếp vào chi phí của ngân hàng mà không qua tài khoản dự trả hoặc chờ phân bổ như trả lãi từng lần theo tháng hoặc theo món với thời hạn ngắn, chi khấu hao TSCĐ, chi lương hàng tháng cho cán bộ CNV, chi quản lý và công vụ, chi nộp thuế và lệ phí... Các khoản chi này gắn liền với hoạt đọng kinh doanh hàng ngày của các NHTM. Khi hạch toán các khoản chi phí này đồi hỏi phải kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo đúng chế độ tài chính của ngân hàng và của Nhà nước. Căn cứ vào các chứng từ hợp lệ, hợp pháp sau khi đã được giám đốc ngân hàng và trưởng kế toán duyệt, kế toán ghi:

Nợ: TK chi phí thích hợp (theo đúng nội dung, tính chất của khoản chi)

Có: TK thích hợp (theo hình thức thanh toán)

Trong trường hợp tạm ứng cho cán bộ ngân hàng để tiến hành các khoản chi mua sắm, đi công tác... phải hạch toán vào tài khoản tạm ứng đứng tên người đã tạm ứng. Khi hoàn thành công việc, người tạm ứng phải nộp đầy đủ kịp thời chứng từ để thanh toán tạm ứng. Căn cứ vào chứng từ và chế độ tài chính, kế toán tính toán chính xác số chi phí được thanh toán để hạc toán vào tài khoản chi phí thích hợp. Số đã tạm ứng thừa, cá nhân người tạm ứng phải hoàn trả kịp thời; nếu số được thanh toán lớn hơn số đã tạm ứng, sẽ chi trả tiếp cho người được hưởng.

2.2.3.2. Kế toán các khoản chi phí dự trả

Phương pháp này thường áp dụng để hạch toán đối với số lãi phải trả cho số tiền gửi, các giấy tờ có giá mà ngân hàng đã phát hành, lãi tiền vay, lãi trả cho vốn tài trợ, uỷ thác đầu tư, cho các công cụ tài chính phái sinh... trong trường hợp trả lãi sau hoặc định kỳ trả lãi không trùng với kỳ hạch toán. Trong đó, lãi dự trả được ghi nhận trên cơ sở thời gian và lãi suất thực tế từng kỳ, thể hiện số lãi dồn tích mà ngân hàng đã hạch toán vào chi phí những chưa chi trả cho khách hàng. Theo phương pháp này, định kỳ (ngày, tháng hoặc cuối kỳ kế toán) dựa trên số dư nợ hoặc giá trị các công cụ tài chính phái sinh, thời gian tính lãi và lãi suất thực tế từng kỳ để xác định số lãi phải trả và hạch toán

Nợ: TK chi trả lãi thích hợp

Có: TK lãi phải trả (cho tiền gửi, cho phát hành GTCG, cho tiền vay, cho vốn tài trợ uỷ thác, cho công cụ tài chính phái sinh)

Đến hạn trả lãi, căn cứ vào số lãi thực trả, kế toán ghi:

Nợ: TK lãi phải trả (cho tiền gửi, cho phát hành GTCG, cho tiền vay, cho vốn tài trợ uỷ thác, cho công cụ tài chính phái sinh)

Có: TK thích hợp (tiền gửi của KH, tiền mặt...)

Trường hợp đáo hạn số tiền gửi hoặc giấy tờ có giá đến hạn nhưng khách hàng không đến rút tiền, thì số lãi dự trả sẽ được nhập vào gốc và kế toán sẽ chuyển sang kỳ hạn tiền gửi có thời hạn tương ứng.

Trường hợp khách hàng rút tiền gửi trước hạn, tuỳ theo quy định của ngân hàng và thời gian gửi thực tế để áp dụng mức lãi suất phù hợp (thấp hơn mức lãi suất đã thoả thuận - lãi suất phạt rút trước hạn). Sau khi xác định được số lãi thực tế phải trả, số lãi dự trả đã tính lớn hơn thì kế toán lập chứng từ để hạch toán giảm chi số chênh lệch lãi còn lại:

Nợ: TK tiền gửi, phát hành GTCG (số tiền gốc)

Nợ: TK lãi phải trả (số lãi trả cho KH)

Có: TK thích hợp (số tiền gốc và số lãi KH được hưởng)

Đồng thời ghi:

Nợ: TK lãi phải trả

Có: TK chi trả lãi (số chênh lệch giảm chi)

2.2.3.3. Kế toán chi phí chờ phân bổ

Phương pháp hạch toán chi phí chờ phân bổ áp dụng để phân bổ đều cho các kỳ kế toán (thường là theo tháng) các khoản chi phí tính hoặc trả trước cho một nghiệp vụ phát sinh tại một thời điểm nhưng có liên quan tới một khoảng thời gian trong tương lai. Chẳng hạn như lãi trả trước cho giấy tờ có giá mà ngân hàng phát hành ra để huy động vốn, xuất một số lượng lớn công cụ lao động ra sử dụng, lãi tính trước cho khoản đi thuê tài chính... Việc tính phân bổ thường là tính bình quân cho số kỳ cần phân bổ.

- Khi phát sinh số chi phí chờ phân bổ, căn cứ vào chứng từ kế toán sẽ ghi:

Nợ: TK chi phí chờ phân bổ

Có: TK thích hợp (tiền mặt, tiền gửi của KH, nợ phải trả...)

- Căn cứ vào số kỳ phân bổ, để xác định số chi phí phân bổ cho mỗi kỳ theo công thức:

Số chi phí phân bổ hàng kỳ = Tổng số chi phí thực tế phát sinh

Số kỳ phân bổ

Nợ: TK chi phí thích hợp

Có: TK chi phí chờ phân bổ

2.2.3.4. Kế toán chi dự phòng, bảo hiểm

Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thường phát sinh những rủi ro gây thất thoát tài sản đe doạ tới sự ổn định hoạt động của ngân hàng. Rủi ro trong hoạt động ngân hàng rất đa dạng, những có một số rủi ro mà ngân hàng có thể dự đoán trước được từ nhận biết những dấu hiệu từ phía đối tác, từ biến động thị trường như rủi ro tín dụng, rủi ro giảm giá chứng khoán đầu tư, giảm giá ngoại tệ, rủi ro trong các nghiệp vụ thanh toán... Để tránh những tác động bất thường do những rủi ro này gây ra, các ngân hàng cần trích lập một khoản dự phòng thoả đáng để bù đắp tính vào chi phí hoạt động của mình. Tuy nhiên, các loại rủi ro có nguyên nhân và mang đặc điểm khác nhau theo sự vận động của đối tượng kinh doanh. Rủi ro tín dụng khi số tiền ngân hàng cấp cho một khách hàng nào đó nhưng không thu hồi được, rủi ro kinh doanh chứng khoán và ngoại tệ phát sinh khi số chứng khoán hoặc ngoại tệ mà ngân hàng mua vào những chưa bán ra bị giảm giá, rủi ro đầu tư khi giá thị trường của khoản mục đầu tư này giảm giá trị... Từ đó, việc trích lập và sử dụng số dự phòng rủi ro cũng có nội dung và phương pháp tính toán, hạch toán khác nhau.

a- Kế toán dự phòng rủi ro nợ phải thu khó đòi

Loại rủi ro này chủ yếu liên quan đến các khoản nợ khó đòi trong hoạt động tín dụng và từ những tài sản có khác mà ngân hàng có nguy cơ không thu hồi được. Việc tính toán số dự phòng cho loại rủi ro này phải trên cơ sở đánh giá chất lượng tín dụng và phân loại các tài sản theo từng nhóm để trích dự phòng theo những tỷ lệ thích hợp. Thông lệ quốc tế, định kỳ người ta phân loại tài sản của ngân hàng ra làm các loại: Tài sản chất lượng bình thường, kém chất lượng, chất lượng xấu còn khả năng thu hồi, khó thu hồi và không thể thu hồi để tiến hành trích dự phòng. ở Việt Nam hiện nay, việc dự phòng cũng đang từng bước tiếp cận với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, bao gồm dự phòng chung và dự phòng cụ thể. Trong đó, dự phòng chung là số tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ỏ cụ thể và trong các trường hợp khó khăn về tài chính của NHTM khi chất lượng các khoản nợ suy giảm. Dự phòng cụ thể là khoản tiền được trích lập trên cơ sở phân loại nợ các khoản nợ cụ thể để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra. Ngân hàng phân các khoản nợ tín dụng làm 5 nhóm:

- Nhóm 1: Bao gồm các khoản nợ đủ tiêu chuẩn gồm các khoản nợ trong hạn mà ngân hàng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn. Trường hợp khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo kỳ hạn đã được cơ cấu lại tối thiểu trong vòng 1 năm đối với các khoản nợ trung và dài hạn và 3 tháng đối với nợ ngắn hạn và được đánh giá là có khả năng trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn đã được cơ cấu lại. Tỷ lệ trích dự phòng cho nhóm này là 0%,

- Nhóm 2: Là nhóm nợ cần chú ý gồm các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại và các khoản nợ khác theo quy định phải phân loại lại vào nhóm này. Tỷ lệ dự phòng cho nhóm nợ này là 5%.

- Nhóm 3: Tỷ lệ dự phòng là 20%, gồm các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại và các khoản nợ khác phải phân loại vào nhóm này theo quy định.

- Nhóm 4: Tỷ lệ dự phòng là 50%, gồm các khoản nợ quá thời hạn từ 181 đến 360 ngày; khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại; các khoản nợ khác bị phân loại vào nhóm này theo quy định.

- Nhóm 5: Tỷ lệ dự phòng là 100%, gồm các khoản nợ quá thời hạn trên 360 ngày; nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý; khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại; các khoản nợ khác bị phân loại vào nhóm này theo quy định. Riêng các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý thì được trích lập dự phòng theo khả năng tài chính của ngân hàng.

Trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ với ngân hàng mà có bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì các khoản nợ còn lại của khách hàng đó phải chuyển sang các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro. Trường hợp các khoản nợ, kể cả nợ trong hạn và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn đã cơ cấu lại mà ngân hàng có đủ cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì ngân hàng chủ động quyết định phân loại vào nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro.

Những ngân hàng có đủ khả năng và điều kiện thực hiện phân loại nợ theo phương pháp định tính phải xây dựng chính sách phân loại nợ để trích lập dự phòng rủi ro theo hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và được NHNN chấp thuận. Trường hợp này, việc phân loại nợ cũng gồm 5 nhóm như sau:

- Nhóm 1: Là nhóm nợ đủ tiều chuẩn, bao gồm các khoản nợ mà ngân hàng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn. Tỷ lệ trích dự phòng cho nhóm này là 0%,

- Nhóm 2: Là nhóm nợ cần chú ý, gồm các khoản nợ được ngân hàng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ. Tỷ lệ dự phòng cho nhóm nợ này là 5%

- Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, tỷ lệ dự phòng là 20%. Gồm các khoản nợ được ngân hàng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn và được đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.

- Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, tỷ lệ dự phòng là 50%. Gồm các khoản nợ được ngân hàng đánh giá là khả năng tổn thất cao.

- Nhóm 5: Là nợ có khả năng mất vốn gồm các khoản nợ được ngân hàng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn. Tỷ lệ dự phòng là 100%.

Ngoài việc phân loại nợ theo các nhóm, ngân hàng phải xác định giá trị tài sản bảo đảm trên cơ sở tích số giữa tỷ lệ quy định với giá trị được sử dụng để tính theo từng loại tài sản bảo đảm. Từ đó, xác định số tiền dự phòng cụ thể phải trích theo công thức:

R = max {0, (A- C)} x r

Trong đó: R là số tiền dự phòng cụ thể phải trích; A là giá trị của khoản nợ; C là giá trị tài sản bảo đảm; r là tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể.

Đối với khoản dự phòng chung, ngân hàng trích lập bằng 0,75% tổng giá trị của các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4. Ngoài ra, số lãi phải thu mà ngân hàng đã tính dự thu nhưng quá hạn không thu được cũng phải trích dự phòng. Đối với các khoản thanh toán được xác định theo tỷ lệ chung tính trên số nợ phải thu từ dịch vụ này.

Sau khi tính toán số dự phòng phải trích, kế toán hạch toán số dự phòng phải trích vào chi phí của ngân hàng, ghi:

Nợ: TK chi dự phòng

Có: TK dự phòng (phải thu khó đòi; dự phòng lãi phải thu,...).

Số dự phòng đã trích, tuỳ theo quy định của từng ngân hàng có thể được chuyển về quản lý tập trung tại hội sở chính hoặc giao cho chi nhánh quản lý nhưng việc sử dụng số dự phòng để bù đắp rủi ro vẫn phải được Hội đồng xử lý rủi ro phê duyệt. Định kỳ theo quy định, kế toán tính toán lại số dự phòng phải trích và so sánh với số dự phòng đã trích để xử lý. Nếu số phải trích lớn hơn số đã trích sẽ trích thêm số chênh lệch còn thiếu, nếu số phải trích thấp hơn số đã trích, tuỳ theo quy định của NHNN và Bộ Tài chính số chênh lệch thừa này phải hoàn nhập hoặc được giữ lại để làm nguồn vốn kinh doanh sau này. Riêng số dự phòng lãi phải thu và dự phòng cho thanh toán khi thu được phải hoàn nhập số dự phòng đã trích. Khi các NHTM phải hoàn nhập lại số chênh lệch dự phòng thừa hoặc số dự phòng lãi phải thu, dự phòng thanh toán không sử dụng đến sẽ hạch toán:

Nợ: TK dự phòng (phải thu khó đòi, dự phòng lãi phải thu...)

Có: TK chi dự phòng

Việc sử dụng số dự phòng để bù đắp rủi ro được thực hiện khi số nợ bị thất thoát không thu hồi được và được xác định theo từng định kỳ trên cơ sở sự phê chuẩn của hội đồng xử lý rủi ro. Căn cứ vào biên bản xử lý rủi ro và các khoản nợ được xử lý, kế toán lập chứng từ hạch toán:

Nợ: TK dự phòng (phải thu khó đòi, lãi phải thu)

Có: TK thích hợp (nợ quá hạn, nợ phải thu, lãi phải thu)

Trường hợp quỹ dự phòng được quản lý tập trung tại hội sở chính, thì chi nhánh sẽ được hội sở chuyển tiền để xử lý số nợ được xử lý. Số nợ đã xử lý vẫn phải tiếp tục được theo dõi trên các tài khoản ngoại bảng để đôn đốc thu, sau thời gian quy định không thể thu được mới được xem xét để xuất khỏi sổ sách. Trường hợp số nợ đã xử lý, sau đó thu được sẽ ghi nhận như một khoản thu nhập bất thường của ngân hàng.

b- Kế toán dự phòng giảm giá

Loại dự phòng rủi ro này xuất phát từ biến động thị trường dẫn đến số tài sản mà ngân hàng đang nắm giữ bị giảm giá trị so với giá mua vào. Trong đó phổ biến là giảm giá chứng khoán, giảm giá ngoại tệ kinh doanh, giảm giá các khoản đầu tư, giảm giá hàng tồn kho vàng, bạc đá quý.... Định kỳ đánh giá theo quy định hoặc trước khi lập cân đối kế toán, ngân hàng phải căn cứ vào giá thị trường của số chứng khoán kinh doanh, số ngoại tệ mua vào chưa bán ra, khoản mục đầu tư và lượng hàng tồn kho để so sánh với giá khi mua vào. Nếu giá thị trường giảm thấp hơn giá mua vào, kế toán phải trích lập dự phòng giảm giá cho những tài sản này theo công thức:

Số dự phòng giảm giá hàng tồn kho, ngoại tệ, CK, khoản đầu tư = Lượng hàng tồn kho, số ngoại tệ, CK mua vào chưa bán ra, khoản đầu tư x Giá thị trường của HH, CK, tỷ giá thị trường, giá thị trường của khoản đầu tư - Giá thực tế khi mua vào của số HH, CK, ngoại tệ, giá trị thực tế khi đầu tư

Nếu giá thị trường của các khoản mục trên giảm thấp hơn giá thực tế mua vào, kế toán hạch toán trích dự phòng bởi bút toán:

Nợ: TK chi dự phòng (giảm giá vàng, ngoại tệ, CK, hàng tồn kho...)

Có: TK dự phòng giảm giá thích hợp

Khi số vàng, bạc, ngoại tệ, chứng khoán, hàng hoá được bán ra, khoản mục đầu tư được chuyển nhượng sẽ xử lý:

- Nếu giá bán thấp hơn giá mua thì sử dụng số dự phòng đã trích để bù đắp:

Nợ: TK dự phòng giảm giá

Có: TK thích hợp (TT mua bán ngoại tệ, mua bán CK....)

- Nếu giá bán cao hơn giá mua thì phải hoàn nhập số dự phòng đã trích:

Nợ: TK Dự phòng giảm giá

Có: TK chi dự phòng giảm giá

c- Kế toán chi bảo hiểm, bảo toàn tiền gửi của khách hàng

Theo quy định của Luật các TCTD, để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền các NHTM và TCTD phải có trách nhiệm tham gia bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi. Đối tượng và mức bảo hiểm tuỳ theo quy định của Nhà nước cho phù hợp với mỗi thời kỳ. Hiện nay, đối tượng bảo hiểm tiền gửi chủ yếu là các tầng lợp dân cư và mức bảo hiểm tối đa là 30 triệu đồng. Để tham gia bảo hiểm, các NHTM phải nộp phí bảo hiểm theo quy định trên cơ sở số tiền cần được bảo hiểm và mức phí bảo hiểm theo quy định. Thông lệ quốc tế, mức phí bảo hiểm phụ thuộc vào chính sách bảo hiểm và tình trạng lành mạnh của từng ngân hàng hay TCTD. Đến kỳ nộp bảo hiểm, kế toán tính toán tổng số tiền gửi cần bảo hiểm và phí bảo hiểm để xác định số phí phải nộp:

Số phí bảo hiểm phải nộp trong kỳ = Tổng số tiền gưỉ cần bảo hiểm x Tỷ lệ phí

Khi nộp bảo hiểm, kế toán ghi:

Nợ: TK chi bảo hiểm, bảo toàn tiền gửi

Có: TK thích hợp (TG tại NHNN, TT bù trừ...)

2.2.3.5. Kế toán chi phí bằng ngoại tệ:

Cũng giống như các khoản thu nhập bằng ngoại tệ, hàng ngày kế toán phải quy đổi số chi phí tính bằng ngoại tệ ra đồng Việt Nam thông qua nghiệp vụ bán ngoại tệ để hoà vào cân đối chung theo một trong hai phương pháp:

- Nếu quy đổi theo từng nghiệp vụ, khi phát sinh chi phí ghi:

Nợ: TK mua bán ngoại tệ kinh doanh

Có: TK thích hợp (số ngoại tệ chi ra)

Đồng thời quy đổi ra số VND theo tỷ giá mua và ghi:

Nợ: TK chi phí thích hợp

Có: TK TT mua bán ngoại tệ kinh doanh (số VND theo tỷ giá mua)

- Nếu quy đổi một lần vào cuối ngày, khi phát sinh chi phí ghi:

Nợ: TK chi phí bằng ngoại tệ thích hợp

Có: TK thích hợp (số ngoại tệ)

Cuối ngày quy đổi ra VND theo tỷ giá mua và hạch toán:

Nợ: TK mua bán ngoại tệ KD

Nợ (đỏ): TK chi phí bằng ngoại tệ (tổng số ngoại tệ chi trong ngày)

Đồng thời ghi:

Nợ: TK chi phí thích hợp

Có: TK TT mua bán ngoại tệ KD (số VND tính theo tỷ giá mua)

2.2.3.6. Kế toán chi nộp thuế, phí và lệ phí

Trong quá trình hoạt động kinh doanh, các NHTM thường phát sinh các khoản phí, lệ phí phải nộp cho ngân sách như phí đăng ký, phí giao thông cho các phương tiện vận tải và các khoản thuế như thuế GTGT, thuế môn bài, thuế sử dụng đất, thuế trước bạ... theo luật thuế của Nhà nước.

a- Kế toán chi nộp thuế GTGT

Thuế GTGT là loại thuế tính trên giá trị tăng thêm của các hàng hoá và dịch vụ mà ngân hàng đã cung ứng (tiêu thụ) trên thị trường và do người mua các sản phẩm dịch vụ này chịu. Căn cứ vào Luật thuế GTGT và quy định của Bộ Tài chính, trong hoạt động kinh doanh ngân hàng các đối tượng chịu thuế GTGT như các dịch vụ thu phí, hoạt động kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, kim loại quý, đá quý, kinh doanh chứng khoán. Trong đó, các hoạt động dịch vụ thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ; hoạt động kinh doanh vàng bạc, đá quý, ngoại tệ thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp. Để xác định số thuế theo phương pháp khấu trừ, các ngân hàng phải xác định chính xác số thuế đầu ra và số thuế đầu vào để tính toán số thuế phải nộp sau khi đã khấu trừ.

- Kế toán thuế GTGT đầu vào: Thuế GTGT đầu vào là số thuế mà ngân hàng đã phải trả cho các vật tư, hàng hoá, tài sản hoặc dịch vụ khi mua để đưa vào hoạt động. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể để hạch toán trực tiếp số thuế vào tài khoản thuế GTGT đầu vào hoặc tính theo mức thuế suất trên tổng giá trị thanh toán. Trường hợp mua vật tư, hàng hoá sử dụng hoá đơn thuế GTGT theo quy định của Bọ Tài chính, trên hoá đơn cần xác định rõ số thuế GTGT. Trường hợp mua vật tư hàng hoá không sử dụng hoá đơn thuế GTGT thì căn cứ vào thuế suất của loại vật tư hàng hoá để xác định số thuế đầu vào theo công thức:

Số thuế GTGT đầu vào = Tổng giá trị thanh toán x Thuế suất

1 + Tỷ lệ thuế

Sau khi xác định được số thuế đầu vào, kế toán hạch toán:

Nợ: TK thích hợp (giá thanh toán chưa có thuế)

Nợ: TK thuế GTGT đầu vào (thuế GTGT)

Có: TK thích hợp (tổng giá trị thanh toán)

Trường hợp yếu tố đầu vào chỉ sử dụng cho đối tượng không chịu thuế và chịu thuế tính trực tiếp thì số thuế đầu vào được tính vào giá trị của yếu tố đầu vào đó (TSCĐ, vật liệu). Nếu yếu tố đầu vào sử dụng cho nhiều đối tượng thì số thuế GTGT đầu vào được hạch toán vào tiểu khoản thuế đầu vào riêng, sau đó căn cứ vào mức độ tham gia của yếu tố này trong các hoạt động để định kỳ tiến hành phân bổ số thuế được khấu trừ và kết chuyển vào tài khoản thích hợp số thuế không được khấu trừ.

- Kế toán thuế GTGT đầu ra: Thuế GTGT đầu ra là số thuế mà các khách hàng mua các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của ngân hàng phải trả được tính vào số tiền mà khách hàng phải thanh toán.

Trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng có những hoạt động thuộc đối tượng không chịu thuế (hoạt động tín dụng), hoạt động chịu thuế trực tiếp (kinh doanh vàng bạc, ngoại tệ, chứng khoán) và hoạt động chịu thuế theo phương pháp khấu trừ (các hoạt động dịch vụ).

+ Đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và chứng khoán... là đối tượng kinh doanh chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, thì số thuế GTGT tính trên phần giá trị tăng thêm và mức thuế suất cho từng đối tượng.

Số thuế GTGT đầu ra = Số tiền thu được theo giá bán - Số tiền đã trả theo giá mua x Thuế suất

Căn cứ vào số thuế tính được, kế toán hạch toán:

Nợ: TK chi nộp thuế

Có: TK thuế GTGT phải nộp

Nếu doanh thu bán hàng nhỏ hơn giá mua vào thì phần chênh lệch được chuyển sang kỳ tiếp theo để tính GTGT.

+ Đối với các hoạt động dịch vụ là đối tượng chịu thuế theo phương pháp khấu trừ, căn cứ vào số thuế tính trên từng khoản thu theo biểu thuế suất, và hạch toán:

Nợ: TK thích hợp (tổng giá trị được thanh toán)

Có: TK thuế GTGT phải nộp (số thuế GTGT)

Có: TK thu nhập thích hợp (số tiền được hạch toán vào thu nhập)

- Quyết toán thuế GTGT

Cuối kỳ, các ngân hàng phải xác định chính thức số thuế GTGT phải nộp để quyết toán và thanh toán với Kho bạc Nhà nước. Để xác định số thuế phải nộp ngân sách, kế toán tiến hành kết chuyển số thuế đầu vào được khấu trừ kỳ này, số thuế đầu vào phải phân bổ vào chi phí trong kỳ, số thuế đầu vào tính phân bổ cho kỳ sau để hạch toán:

Nợ: TK chi phí thích hợp (số thuế đầu vào không được khấu trừ và tính vào chi phí trong kỳ)

Nợ: TK chi phí chờ phân bổ (số thuế đầu vào tính cho kỳ sau)

Nợ: TK Thuế GTGT phải nộp (số thuế được khấu trừ kỳ này)

Có: TK Thuế GTGT đầu vào

Sau khi xác định chính xác số thuế GTGT phải nộp, kế toán lập chứng từ nộp thuế cho Ngân sách qua Kho bạc và hạch toán:

Nợ: TK thuế GTGT phải nộp

Có: TK thích hợp (tiền gửi tại NHNN, TTBT, tiền mặt, tiền gửi của Kho bạc, TTBT)

Trường hợp số thuế đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế đầu ra sẽ được tính trừ vào số thuế phải nộp kỳ sau hoặc được Ngân sách hoàn lại. Số chênh lệch chờ NSNN thanh toán sẽ được hạch toán vào tài khoản chờ NSNN thanh toán:

Nợ: TK chờ NSNN thanh toán

Có: TK thuế GTGT phải nộp

Nếu được hoàn thuế GTGT, căn cứ vào chứng từ chuyển tiền của Kho bạc, kế toán ghi:

Nợ: TK thích hợp (tiền mặt, tiền gửi tại NHNN, tiền gửi của Kho bạc...)

Có: TK chờ NSNN thanh toán

Trường hợp ngân hàng tạm ứng nộp thuế GTGT thì khi tạm ứng nộp thuế sẽ hạch toán vào tài khoản tạm ứng nộp NSNN, sau khi xác định số thuế GTGT phải nộp sẽ tất toán tài khoản tạm ứng nộp Ngân sách và nộp tiếp số thuế còn thiếu hoặc thu hồi số thuế đã nộp thừa.

b- Kế toán chi nộp các khoản phí, lệ phí và thuế khác

Các khoản thuế khác, phí và lệ phí mà ngân hàng phải nộp cho ngân sách bao gồm thuế sử dụng đất, thuế trước bạ, lệ phí giao thông, phí đăng kiểm, đăng ký cho các phương tiện vận tải, phí chuyển quyền sở hữu tài sản....

- Trường hợp chi nộp trực tiếp thì khi phát sinh nghiệp vụ, kế toán xác định số thuế, phí hoặc lệ phí phải nộp, căn cứ vào chứng từ tính thuế nộp cho Ngân sách, kế toán ghi:

Nợ: TK chi nộp thuế (số thuế phải nộp)

Nợ: TK chi nộp các khoản phí, lệ phí (số phí và lệ phí phải nộp)

Có: TK thích hợp (tiền mặt, tiền gửi tại NHNN, tiền gửi của Kho bạc,...)

- Trường hợp tạm ứng nộp Ngân sách thì căn cứ vào mức thuế hoặc phí của cơ quan tài chính sẽ tạm ứng nộp cho Ngân sách:

Nợ: TK tạm ứng nộp NSNN

Có: TK thích hợp (tiền mặt, TG tại NHNN, tiền gửi của Kho bạc...)

Khi quyết toán số thuế, phí và lệ phí phải nộp theo thông báo của cơ quan tài chính để xác định số còn phải nộp hoặc thu hồi số nộp thừa

- Nếu số phải nộp lớn hơn số đã nộp, hạch toán:

Nợ: TK chi nộp thuế hoặc chi nộp phí, lệ phí (số phải nộp)

Có: TK tạm ứng nộp Ngân sách Nhà nước (số đã nộp)

Có: TK thích hợp (tiền mặt, TG tại NHNN, TG của Kho bạc...) (số phải nộp thêm)

- Nếu số đã tạm ứng nộp lớn hơn số phải nộp, hạch toán:

Nợ: TK chi nộp thuế hoặc chi nộp phí, lệ phí (số phải nộp)

Nợ: TK chờ NSNN thanh toán (số chênh lệch nộp thừa)

Có: TK tạm ứng nộp Ngân sách Nhà nước (số đã nộp)

2.2.3.7. Kế toán giảm chi

Thực chất của khoản giảm chi là thu hồi số tiền trước đây đã hạch toán vào chi phí nhưng không đúng chế độ hoặc chi thừa nay phải hoàn lại. Khi xác định được số tiền cần thu để giảm chi, kế toán lập chứng từ qua trưởng phòng kế toán và giám đốc ngân hàng duyệt để hạch toán:

Nợ: TK thích hợp

Có: TK chi phí (trước đây đã ghi nợ)

2.3. Kế toán kết quả kinh doanh và phân phối lợi nhuận

Kết quả kinh doanh của ngân hàng được xác định vào cuối năm tài chính, là chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí trong năm. Khi kết thúc năm tài chính, kế toán ngân hàng có nhiệm vụ:

- Xác định và kết chuyển số dư của các tài khoản khoản thu - chi cuối năm sang tài khoản lợi nhuận năm nay một cách chính xác, kịp thời. Trên cơ sở đó để tính toán chính xác tình hình lãi, lỗ của ngân hàng.

- Phát hiện các các nguồn thu ổn định, có khả năng khai thác được và những khoản chi không cần thiết có thể tiết kiệm được để tham mưu cho lãnh đạo xây dựng kế hoạch tài chính cho năm tiếp theo.

- Lập báo cáo tài chính để báo cáo tình hình lãi, lỗ kịp thời, chính xác, đúng chế độ gửi cho ngân hàng cấp trên, NHNN và cơ quản tài chính.

- Kết chuyển số lãi (hoặc lỗ) kịp thời về ngân hàng cấp trên

- Phản ánh chính xác tình hình phân phối lợi nhuận, trích lập và sử dụng các quỹ. Giám đốc việc thực hiện chế độ phân phối lợi nhuận theo đúng quy định của Bộ Tài chính và NHNN.

2.3.1. Kế toán kết quả kinh doanh

Xuất phát từ đặc điểm kinh doanh của ngân hàng là hạch toán kinh tế toàn hệ thống, việc tính toán kết quả kinh doanh chỉ được chính thức xác định cho toàn hệ thống tại hội sở chính của ngân hàng. Vì vậy, khi quyết toán năm các chi nhánh ngân hàng phải xác định kết quả kinh doanh tại đơn vị mình và chuyển về hội sở chính để tính toán kết quả kinh doanh chung cho cả ngân hàng.

2.3.1.1. Kế toán tại các chi nhánh ngân hàng

Khi kế thúc năm tài chính, kế toán phải xác định lại chính xác số dư của các tài khoản thu nhập, chi phí đến cuối ngày 31 tháng 12. Sau khi lên cân đối tài khoản tháng 12 sẽ lập phiếu chuyển khoản để kết chuyển số dư các tài khoản thu nhập, chi phí sang tài khoản lợi nhuận năm nay.

- Đối với các tài khoản thu nhập kế toán hạch toán:

Nợ: TK thu nhập

Có: TK lợi nhuận năm nay.

- Đối với các tài khoản chi phí, hạch toán:

Nợ: TK lợi nhuận năm nay

Có: TK chi phí

Sau khi kết chuyển toàn bộ thu nhập và chi phí sang tài khoản lợi nhuận năm nay, kế toán tính toán và rút số dư tài khoản lợi nhuận năm nay để xác định số lãi hoặc lỗ của đơn vị mình. Nếu tài khoản lợi nhuận năm nay có số dư có thì ngân hàng có lãi, dư nợ thì ngân hàng bị lỗ.

Sang ngày đầu của năm mới, số dư của tài khoản lợi nhuận năm nay sẽ được chuyển thành số dư của tài khoản lợi nhuận năm trước. Khi nhận được lệnh của ngân hàng chủ quản, các chi nhánh sẽ lập phiếu chuyển khoản và chứng từ chuyển tiền để chuyển kết quả kinh doanh về ngân hàng cấp trên, hạch toán.

- Nếu chi nhánh ngân hàng có lãi, kế toán sẽ hạch toán:

Nợ : TK lợi nhuận năm trước

Có : TK chuyển tiền đi

- Nếu chi nhánh bị lỗ, kế toán ghi:

Nợ : TK chuyển tiền đi

Có : TK lợi nhuận năm trước

2.3.1.2. Kế toán tập hợp kết quả kinh doanh tại hội sở chính

Khi nhận các chuyển tiền về việc chuyển lãi hoặc lỗ từ các chi nhánh gửi về, sau khi kiểm soát kế toán tại hội sở sẽ ghi:

- Đối với chuyển tiền của chi nhánh có lãi

Nợ : TK chuyển tiền đến

Có : TK phải trả (tiểu khoản của chi nhánh)

- Đối với chuyển tiền của chi nhánh bị lỗ:

Nợ : TK phải thu (tiểu khoản của chi nhánh)

Có : TK chuyển tiền đến.

Sau khi tập trung toàn bộ các khoản lãi, lỗ từ các chi nhánh cấp dưới chuyển lên và xác định kết quả kinh doanh tại hội sở, kế toán tại Hội sở kết chuyển các tài khoản phải thu, phải trả của từng chi nhánh sang tài khoản lợi nhuận năm trước của toàn hệ thống và xác định chính thức kết quả kinh doanh của toàn ngân hàng. Nếu tài khoản lợi nhuận năm trước toàn hệ thống dư có tức là ngân hàng có lãi, nếu dư nợ thì ngân hàng bị lỗ. Trên cơ sở kết quả hoạt động kinh doanh cả năm, ngân hàng lập báo cáo tài chính để gửi NHNN và cơ quan tài chính xin duyệt quyết toán.

2.3.2. Kế toán phân phối lợi nhuận, trích lập và sử dụng các quỹ

2.3.2.1. Nguyên tắc phân phối lợi nhuận

Lợi nhuận của NHTM là cơ sở để xác định thu nhập của chủ sở hữu, tiền lương kinh doanh cho cán bộ công nhân viên và là nguồn bổ sung vốn từ nội bộ của mỗi ngân hàng. Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, số lợi nhuận thu được các ngân hàng phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho ngân sách nhà nước theo quy định. Số lợi nhuận sau khi làm nghĩa vụ với Ngân sách, trích lập quỹ bổ sung nguồn vốn sẽ được phân phối theo chế độ tài chính của Nhà nước hoặc theo quyết định của Đại hội cổ đông. Việc phân phối lợi nhuận của NHTM cần tuân thủ một số nguyên tắc sau:

- Việc phân phối lợi nhuận chỉ được thực hiện sau khi đã được cơ quan tài chính duyệt quyết toán.

- Số lợi nhuận sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho NSNN sẽ được phân phối như sau:

a. Đối với các NHTM Nhà nước

1- Trích lập Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ (5%), quỹ này tối đa không quá số vốn điều lệ thực có.

2- Bù các khoản lỗ năm trước không được trừ vào lợi nhuận trước thuế.

3- Nộp các khoản thu về sử dụng vốn NSNN, bù đắp khoản phạt cho ngân sách, cho khách hàng do vi phạm pháp luật, vi phạm hợp đồng; các khoản phải bồi thường thuộc trách nhiệm của ngân hàng.

4- Phần còn lại được trích lập các quỹ theo tỷ lệ và mức quy định, gồm:

- Trích lập quỹ đầu tư và phát triển

- Trích lập các quỹ dự phòng tài chính

- Trích lập quỹ khen thưởng

- Trích lập quỹ phúc lợi

- Trích lập các quỹ khác

Sau khi trích lập các quỹ đủ mức quy định nếu còn thừa sẽ được bổ sung vào quỹ đầu tư phát triển hoặc xử lí theo quy định của Bộ Tài chính.

b. Đối với các NHTM cổ phần và NHTM khác

Các NHTM cổ phần và các NHTM không được NSNN cấp vốn thì sau khi trích lập quỹ bổ sung vốn điều lệ, nộp các khoản tiền phạt, tiền bồi thường và bù cho số lỗ năm trước cũng phải trích lập quỹ dự phòng tài chính theo quy định của cơ quan tài chính mới được trích lập quỹ chia lãi cổ phần và các quỹ khác. Số trích lập quỹ chia lãi cổ phần và các quỹ khác sẽ do Hội đồng quản trị quyết định theo Đại hội cổ đông.

2.3.2.2. Kế toán phân phối lợi nhuận và sử dụng các quỹ

a. Kế toán nộp thuế thu nhập doanh nghiệp

- Hàng quý, theo thông báo của cơ quan tài chính các ngân hàng phải tạm ứng để nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Khi tạm ứng nộp thuế, kế toán lập chứng từ chuyển tiền thanh toán với Kho bạc, hạch toán:

Nợ: TK Tạm ứng nộp NSNN

Có: TK thích hợp (Tiền gửi tại NHNN, tiền gửi của Kho bạc...)

- Cuối năm khi xác định được chính thức số thuế phải nộp, kế toán lập chứng từ hạch toán:

Nợ: TK lợi nhuận năm trước

Có: TK thuế thu nhập doanh nghiệp

- Kết chuyển số thuế đã nộp hàng quý và số thuế được miễn giảm để xác định số thuế còn phải nộp hoặc số đã nộp thừa cần thu hồi từ NSNN:

Nợ: TK Thuế thu nhập doanh nghiệp

Có: TK tạm ứng nộp NSNN (số thuế đã nộp)

Có: TK thích hợp (số thuế được miễn giảm)

+ Nếu số thuế nộp còn thiếu thì nộp thêm số chênh lệch còn thiếu:

Nợ: TK thuế TNDN

Có: TK thích hợp (tiền gửi tại NHNN, tiền gửi của Kho bạc...)

+ Nếu số thuế đã nộp thừa thì tất toán tài khoản tạm ứng nộp NSNN chuyển sang theo dõi trên tài khoản chờ NSNN thanh toán số chênh lệch nộp thừa, hạch toán:

Nợ: TK chờ NSNN thanh toán

Có: TK tạm ứng nộp NSNN

Số chênh lệch này sẽ được Ngân sách hoàn trả hoặc sẽ trừ vào số thuế phải nộp năm sau.

b. Kế toán trích lập các quỹ

- Cuối năm căn cứ vào kết quả kinh doanh đã được duyệt quyết toán, ngân hàng xác định số chính thức được trích các quỹ, hội sở chính sẽ hạch toán:

Nợ: TK Lợi nhuận năm trước

Có: TK quỹ thích hợp

- Trong các quỹ đã trích, có những quỹ được quản lý tập trung tại hội sở chính như quỹ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển; có quỹ được giữ lại một phần tại hội sở, số còn lại được phân phối cho các chi nhánh theo kết quả kinh doanh của từng chi nhánh như quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi. Khi hội sở phân phối các quỹ khen thưởng, phúc lợi cho các chi nhánh theo quy định của cơ chế tài chính, kế toán tại hội sở sẽ chuyển tiền cho các chi nhánh và ghi:

Nợ: TK quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi

Có: TK chuyển tiền đi

- Tại các chi nhánh khi nhận được chuyển tiền phân phối lợi nhuận của hội sở chuyển về sẽ hạch toán:

Nợ: TK chuyển tiền đến

Có: TK quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi

c. Kế toán sử dụng các quỹ

Các quỹ ngân hàng mang tính chất là những quỹ chuyên dùng nên phải được quản lý chặt chẽ và sử dụng theo đúng chế độ. Mỗi loại quỹ được sử dụng cho một mục đích nhất định, các ngân hàng không được sử dụng các quỹ để đầu tư ra nước ngoài hoặc sử dụng trái quy định của Nhà nước.

- Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ được sử dụng như nguồn vốn điều lệ của ngân hàng, khi được cơ quản tài chính và NHNN cho phép chuyển sang vốn điều lệ sẽ hạch toán

Nợ: TK Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ

Có: TK Vốn điều lệ

- Quỹ đầu tư phát triển sử dụng cho mục đích đầu tư phát triển nghiệp vụ ngân hàng, khi sử dụng quỹ căn cứ vào số tiền chi cho mục đích phát triển nghiệp vụ ngân hàng, kế toán ghi:

Nợ: TK quỹ đầu tư phát triển

Có: TK thích hợp

- Quỹ dự phòng tài chính sử dụng để bù đắp cho những rủi ro tài chính sau khi đã sử dụng số dự phòng rủi ro trích lập nhưng không đủ bù đắp. Khi sử dụng quỹ để bù đắp rủi ro, kế toán ghi:

Nợ: TK quỹ dự phòng tài chính

Có: TK thích hợp

- Quỹ khen thưởng sử dụng để khen thưởng cho cán bộ CNV, quỹ phúc lợi sử dụng cho sự nghiệp phúc lợi. Nếu sử dụng quỹ phúc lợi để mua sắm tài sản cố định cho mục đích phúc lợi của cán bộ CNV thì phải chuyển số quỹ tương ứng sang tài khoản quỹ phúc lợi đã hình thành tài sản cố định. Khi sử dụng quỹ để chi khen thưởng, phúc lợi, kế toán ghi:

Nợ: TK quỹ khen thưởng (quỹ phúc lợi)

Có: TK thích hợp (tiền mặt, quỹ phúc lợi đã hình thành TSCĐ, ...)

Câu hỏi và bài tập:

1- Phân tích những đặc điểm cơ chế tài chính của NHTM? Tại sao việc xác định kết quả kinh doanh của NHTM lại chỉ được tính vào cuối năm tài chính? Từ đó, nhìn vào số lãi (hoặc lỗ) của một NHTM có thể đánh giá được hiệu quả kinh doanh của NH đó không? Tại sao?

2- Hạch toán doanh thu của NHTM có thể thực hiện theo những phương pháp nào và trường hợp áp dụng cho mỗi phương pháp? Các phương pháp đó dựa trên các chuẩn mực kế toán Việt Nam và quốc tế về doanh thu như thế nào?

3- Dựa vào nội dung và cách phân loại các khoản thu nhập và chi phí đang áp dụng cho ngân hàng Việt Nam, hãy nêu các biện pháp tăng thu nhập, tiết kiệm chi phí mà bạn cho là hợp lý nhất trong điều kiện hiện nay?

4- Bài tập:

Hãy xử lý và hạch toán các nghiệp vụ sau đây tại NHTM Y

(1) Thu lãi cho vay khách hàng A theo phương pháp cộng dồn 3 triệu đồng, thu lãi tiền gửi tại NHNN trực tiếp theo báo có của NHNN 0,5 triệu đồng.

(2) Số lãi cho vay cộng dồn của khách hàng B là 3 triệu đồng, nay số nợ gốc đã chuyển sang quá hạn.

(3) Khách hàng C nộp tiền mặt 12 triệu đồng trả nợ cho ngân hàng, trong đó: số lãi vay quá hạn trước đây đã được trích dự phòng rủi ro là 2 triệu đồng; số nợ quá hạn đã được xử lý từ nguồn dự phòng rủi ro 10 triệu đồng.

(4) Phân bổ số lãi cho thuê tài chính đã hạch toán vào doanh thu chờ phân bổ kỳ này là 2 triệu đồng; thu phí chuyển tiền của khách hàng B từ tiền gửi 1 triệu đồng cùng với số VAT phải nộp 10% tính trên số phí phải thu.

(5) Tính trả khách hàng D số lãi tiền gửi tiết kiệm bằng tiền mặt theo lãi suất không kỳ hạn là 0,2%/tháng. Số tiền gửi tiết kiệm này theo thoả thuận ban đầu là gửi 6 tháng theo lãi suất 0,7%/tháng; nhưng khách hàng mới gửi được 2 tháng 5 ngày đã xin rút ra. Biết rằng số tiền gốc là 50 triệu đồng và NH đã hạch toán lãi cộng dồn được 2 tháng.

(6) Kết chuyển số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ đợt này là 3 triệu đồng, tổng số thuế GTGT đầu ra 22 triệu đồng. Sau đó qua TTBT với Kho bạc để nộp số thuế còn phải nộp cho ngân sách.

(7) NH tính toán xác định số dự phòng rủi ro phải trích quý này là 450 triệu đồng, số dự phòng còn lại là 430 triệu đồng. Đồng thời chi nộp bảo hiểm tiền gửi qua NHNN 15 triệu đồng.

(8) Trong quá trình phá rỡ một nhà làm việc, NH đã chi ra 11 triệu đồng tiền mặt để thuê lao động từ bên ngoài, số phế liệu bán cho khách hàng B là 9 triệu đồng (khách hàng lập UNC trích tiền gửi để trả).

(9) Trưởng phòng kế toán phát hiện và yêu cầu phải điều chỉnh trường hợp đã hạch toán nhầm số thu lãi cho vay Công ty tài chính F vào tài khoản thu lãi tiền gửi là 5 triệu đồng; chi trả lãi tiền gửi cho khách hàng A thừa 0,5 triệu đồng.

(10) Chi khen thưởng cho CBNV 145 triệu đồng (bằng tiền mặt) và chuyển 30 triệu đồng sang quỹ phúc lợi để nâng cấp nhà thi đấu thể thao cho CBNV ngân hàng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top