Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

CHƯƠNG 1: Ở làng

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

  Tôi là một đứa trẻ người ta nhặt được.
Nhưng cho tới lúc tám tuổi tôi vẫn tưởng rằng tôi có một người mẹ như bao đứa trẻ khác, bởi vì mỗi lúc tôi khóc lại có một người đàn bà nhẹ nhàng ôm siết tôi trong hai cánh tay và ru tôi khiến nước mắt tôi ngừng chảy.
Khi tôi đi ngủ không bao giờ bà không đến ôm hôn tôi và khi gió tháng mười hai làm tuyết dán chặt vào các tấm kính cửa sổ trắng xóa bà nắm lấy hai bàn chân tôi và cứ ngồi sưởi ấm chân tôi trong hai bàn tay bà, vừa hát cho tôi nghe một bài hát mà đến nay tôi còn nhớ lõm bõm vài câu.
Khi tôi chăn bò sữa ở ven đường đầy cỏ hoặc ở những đám cây hoang, lá dại mà gặp một trận mưa giông bất ngờ đổ xuống, thì bà chạy đến đón tôi, bắt tôi núp trong chiếc váy len của bà và túm váy lên che đầu che vai cho tôi cẩn thận.
Mỗi lần tôi gây gổ, cãi nhau với một đứa bạn bà lại bảo tôi kể cho bà nghe những nỗi buồn của tôi để tìm lời an ủi hoặc thừa nhận tôi có lý.
Bằng vào những cái đó và nhiều cái khác nữa như cách bà nói với tôi, nhìn tôi, vuốt ve tôi, mắng tôi một cách trìu mến, tôi tin rằng bà là mẹ tôi.
Tôi được biết bà không phải mẹ đẻ, mà chỉ là mẹ nuôi, như thế này đây:
Làng tôi là làng Sa-va- nông. Nói cho đúng hơn, thì đó là cái làng ở đấy tôi lớn lên, tôi sống thời thơ ấu, chứ tôi làm gì có quê hương, nơi chôn rau cắt rốn, cũng như tôi đã không có cha mẹ gì cả. Làng Sa- va- nông là một trong những làng nghèo nhất ở miền Trung nước Pháp.
Không phải nghèo vì dân làng trây lười, mà chính vì nó ở vào một vùng đất đai cằn cỗi. Đất mặt rất mỏng, muốn gặt hái tốt phải bón phân hoặc cho thêm chất cải tạo đất mà những thứ này ở trong vùng quá hiếm. Vì thế người ta chỉ gặp (hoặc ít ra là ở thời kỳ tôi nói đến) rất ít cánh đồng cày cấy trong khi trông thấy nhiều vùng mênh mông mọc toàn cỏ thạch thảo và cây đậu kim. Hết vùng đất toàn bụi cây lại đến vùng đất truông.
Muốn thấy cây cối xanh tốt thì phải rời bỏ cao nguyên xuống các thung lũng cạnh sông, ở đấy có các cây dẻ cao và những cây sồi vạm vỡ.
Cái nhà tôi sống những năm đầu của tuổi thơ ấu dựng trong một thung lũng như thế, trên bờ con suối nước chảy xiết đổ vào một phụ lưu của sông Loa.
Cho đến lúc tám tuổi tôi không bao giờ trông thấy đàn ông ở trong nhà này, tuy thế má tôi không góa chồng, chồng bà là thợ đẽo đá đi làm ăn ở Paris như phần đông những người thợ khác trong vùng. Ông chưa trở lại quê hương lần nào kể từ khi tôi đến tuổi hiểu biết được những gì xảy ra quanh mình. Chỉ thỉnh thoảng ông mới gửi bạn bè về làng vài mẩu tin.
-  Bà Bác- bơ- ranh này, ông nhà bà khỏe, ông ấy nhờ tôi bảo bà là công việc vẫn chạy tốt và chuyển tiền cho bà đây này. Bà đếm đi chứ!
Chỉ có thế thôi. Chừng ấy tin tức, má Bác- bơ- ranh cũng cho là đủ rồi: ông chồng mạnh khỏe; ông lám ra tiền, kiếm ăn được, còn gì nữa! Ông Bác- bơ ranh ở Paris lâu thế ta đừng tưởng vì ông không thân tình với vợ ông mà ông ở Paris do công việc đòi hỏi. Khi nào già ông sẽ về ở với bà vợ già của ông, và với số tiền ky cóp được họ sẽ tránh được nghèo khổ.
Một buổi chiều tháng mười một, một người đàn ông dừng lại trước hàng rào nhà chúng tôi và hỏi tôi có phải đây là nhà bà Bác- bơ- ranh không.
Tôi mời ông ta vào. Ông đẩy cửa làm cho sợi dây buộc kêu cót két, và chậm rãi bước qua sân
Tôi chưa nhìn thấy ai lấm bùn bê bết đến thế. Những mảng bùn, mảng còn ướt, mảng đã khô phủ từ chân lên đến đầu ông khiến người ta hiểu ngay ông đã đi trên những con đường rất xấu trong thời gian khá dài. Nghe tiếng chúng tôi má Bác- bơ- ranh chạy ra. Khi khách bước qua bậc cửa thì má cũng vừa tới. Khách nói:
- Tôi mang tin từ Paris về đây!
Đó là những lời giản dị tai chúng tôi nghe đã quen. Nhưng mà cái giọng nói lần này không giống như những khi người khách nói: " Bác giai bình yên. Công việc làm ăn tốt". Má Bác- bơ- ranh chập hai tay vào nhau, kêu:
- Ôi trời ơi! Chắc có tai họa gì xảy đến cho ông Giê- rôm nhà tôi rồi!
- Vâng, quả có thế. Nhưng bà cũng không nên quá hoảng hốt! Ông nhà  bị thương, đúng đấy, nhưng không chết. Có điều chắc sẽ bị què. Hiện giờ ông ấy đang nằm bệnh viện. Tôi nằm cạnh giường ông ấy nên khi ra viện ông ấy nhờ tôi qua nhà nhắn giùm. Tôi không ở lại được đây lâu vì còn ba dặm đường nữa phải đi mà trời sắp tối rồi
Má Bác- bơ- ranh muốn biết kỹ hơn nên mời ông ta ở lại ăn tối. Má bảo đường xấu và nghe nói trong rừng có chó sói, chi bằng để sáng mai hãy đi.
Ông ngồi xuống trong góc lò sưởi vừa ăn vừa kể cho chúng tôi nghe tai nạn đã xảy ra thế nào: ông Bác- bơ- ranh bị giàn giáo đổ đè bẹp nửa người và vì không chứng minh được tại sao ông cần phải đứng ở nơi xảy ra tai nạn nên nhà thầu không chịu bồi thường một đồng nào.
- Thật không may cho ông Bác- bơ- ranh, tội nghiệp ông ấy! Thật không may! Có những tên láu cá, nhân cơ hội tương tự đã vớ được một khoản lợi. Còn ông nhà thì chẳng được gì sất!
Ông khách vừa hơ đôi ống quần cứng cộp bùn khô vừa luôn mồm nhắc lại mấy tiếng "thật không may" với một vẻ thương cảm chân thành. Sự xuýt xoa của ông chứng tỏ ông sẵn lòng chịu tàn tật để vớ được một món lợi. Ông kết thúc câu chuyện:
- Tuy nhiên tôi khuyên ông ấy kiện tay thầu khoán.
- Kiện tụng thì tốn kém chết đi!
- Tốn đấy nhưng được kiện thì cũng bõ chứ!
Má Barberin định đi Paris, nhưng chuyện đó đâu có phải dễ, đường xá xa xôi tốn kém quá
Sáng sớm hôm sau chúng tôi xuống làng hỏi ý kiến cha sứ. Cha sứ chưa muốn để cho má đi, trước khi biết chắc đi như thế có giúp ích gì được cho chồng không. Cha viết thư cho ông giáo sĩ ở bệnh viện nơi ông Bác- bơ- ranh đang nằm điều trị. Vài hôm sau nhận được trả lời nói rằng má Bác- bơ- ranh không cần lên Paris chỉ cần gửi một món tiền lên cho chồng thôi để ông đi kiện nhà thầu.
Ngày lại ngày, tuần lại tuần cứ thế trôi qua, nhiều thư gửi về, thư nào cũng yêu cầu gửi tiền thêm, lá thư cuối cùng nói rằng nếu không có tiền thì bán con bò sữa đi mà gửi.
Chỉ những người đã sống ở thôn quê mới hiểu được cảnh khốn quẫn đau thương trong ba chữ "Bán con bò". Đối với nhà sinh vật họ, bò là một con vật thuộc loài nhai lại. Dưới con mắt của nhà du ngoạn, nó là con vật làm cho phong cảnh tăng thêm vẻ đẹp khi trên thảm cỏ xanh nó ngẩng cái mõm đen nhánh đẫm hơi sương của nó lên. Với trẻ em thành thị, nó là nguồn cung cấp cà- phê sữa và pho- mát đánh kem. Nhưng đối với người nông dân, nó còn quý báu hơn nhiều. Thực tế dù nghèo túng đến mấy, gia đình đông đến mấy người nông dân vẫn vững tâm không lo đói nếu nhà có một con bò sữa. Chỉ cần một cái thừng hay một sợi dây quấn trên sừng thôi cũng đủ để cho một em bé chăn dắt nó ăn dọc các con đường phủ đầy cỏ, ở những nơi không thuộc về ai. Và thế là chiều đến, cả nhà có bơ nấu súp, có sữa để ăn với khoai tây. Bố mẹ con cái, lón nhỏ đều sống nhờ vào con bò sữa.
Má Bác- bơ- ranh và tôi đã nhờ con bò cái của chúng tôi mà sống no đủ, cho tới tận lúc ấy tôi hầu như có bao giờ ăn thịt đâu.  Không những nó là vú nuôi của chúng tôi, nó còn là bầu bạn, là chỗ thân tình.
Thật vậy, đừng tưởng bò là con vật ngu ngốc. Trái lại, nó rất thông minh, nó có những đức tính mà biết cách rèn luyện thì nó còn phát triển nhiều. Chúng tôi vỗ về nó, nói chuyện với nó và nó hiểu chúng tôi. Về phần nó, vớ đôi mắt to, tròn, hiền dịu, nó biết cách làm cho chúng tôi hiểu nó muốn gì, nó cảm thấy thế nào. Nói tóm lạo, chúng tôi rất yêu thuơng nó và nó cũng yêu thương chúng tôi.
Ấy thế mà phải lìa bỏ nó đi đấy! Vì rằng chỉ có cách "bán con bò sữa" đi mới khiến cho ông Bác- bơ- ranh thỏa dạ
Một ông lái đến nhà chúng tôi, sau khi xem đi xem lại Rút- xét và nhắc đi nhắc lại hàng trăm lần là con bò này không thích hợp với ông, không bán lại được cho ai, không có sữa, cuối cùng mới nói là bằng lòng mua nhưng chỉ là vì lòng tốt muốn giúp má Bác- bơ- ranh mà thôi.
Tội nghiệp con Rút xét. Hình như nó hiểu cả nên nó nhất định không chịu ra khỏi chuồng và kêu rống lên. Bác lái đưa chiếc roi da quấn ở cổ bác cho tôi và bảo:
- Này chú bé, luồn ra phía sau mà đuổi nó ra.
- Ấy chớ, cái đó không được.
Má Bác- bơ- ranh nói thế rồi cầm lấy chiếc dây dắt và dịu dàng dỗ nó: "Nào cô gái, đi đây, đi đây nào! Thế là con Rút- xét nghe theo không chống lại nữa. Ra tới đường cái người lái buộc nó đằng sau chiếc xe. Nó đành phải líu ríu bước theo con ngựa. Chúng tôi trở vào nhà rồi, nhưng mãi một lúc lâu vẫn còn nghe thấy tiếng nó rống.
Thế là hết sữa, hết bơ. Buổi sáng một mẩu bánh mì suông, buổi chiều khoai tây chấm với muối.
Sau đó không bao lâu đến ngày thứ ba ngả mặn sau tuần chay (1). Năm ngoái vào ngày này má Barberin đã làm cho tôi một bữa tiệc có bánh xèo, bánh tẩm bột rán, tôi ăn nhiều đến nỗi má rất sung sướng.
Nhưng lúc ấy chúng tôi còn Rút- xét nên có sữa để nhào bột và có bơ để rán. Bây giờ không còn con Rút- xét thì cũng chẳng có sữa, chẳng có bơ, chẳng co ngày thứ ba ngả mặn nữa rồi! Tôi buồn rầu nghĩ bụng thế. Tuy nhiên má Bác bơ- ranh đã làm tôi ngạc nhiên. Xưa nay má vốn không quen vay mượn, nhưng lần nay má cũng cố xin hàng xóm nhà này một chén sữa, nhà kia một miếng bơ. Vì thế đến trưa về tôi thấy má đang đổ bột vào một chiếc nồi đất lớn.
-  Ơ này, bột mì!- Tôi vừa nói vừa bước lại gần. Má mỉm cười trả lời
- Phải rồi, đúng là bột mì đấy, Rê- mi ạ! Bột mì trắng hảo hạng. Này con xem, mùi thơm phức!
Tôi không có han hỏi má lấy bột ra làm gì. Chính vì tôi nóng lòng muốn biết quá nên tôi lại càng không dám hỏi. Vả lại tôi định giả vờ như không biết hôm nay là ngày thứ ba ăn mặn để khỏi tủi lòng mad. Má nhìn tôi, hỏi:
- Người ta dùng bột mì làm gì nao?
- Làm bánh mì.
- Gì nữa?
- Quấy bột.
- Gì nữa nào?
- Chà... con cũng không biết nữa.
- Có, con biết đấy. Nhưng con là một đứa bé ngoan nên con không nói ra đấy thôi. Con biết hôm nay là ngày thứ ba ăn mặn, tức là ngày của bánh xèo và bánh rán. Nhưng con thấy nhà không có sữa, có bơ nên con không nỡ nhắc đến có phải không con?
- Ôi, má ơi!
- Má đã thu xếp sao cho ngày thứ ba ăn mặn đối với con không đến nỗi tệ quá. Nhìn vào thùng gỗ kia xem nào?
Tôi hăng hái nhấc nắp thùng lên, thấy ở trong có sữa, bơ và ba quả táo.
- Đưa trứng cho má. - Má nói. - Trong khi má đập trứng con gọt táo nhé.
Tôi cắt táo ra từng khoanh. Má đập trứng vào bột và đánh lên. Thỉnh thoảng lại đổ vào một thìa sữa. Khi bột đã nhào xong má Bác- bơ-ranh đặt chiếc nồi lên trên tro nóng, thế là chỉ còn đợi đến chiều nữa thôi vì vào bữa tối chúng tôi mới ăn bánh xèo và bánh rán.
Thú thật, cái ngày hôm đó, tôi thấy nó dài làn sao và đã đôi ba lần tôi chạy đến nhấc chiếc khăn phủ trên nồi bột để dòm thử. Má bảo:
- Con làm thế lạnh bột mất, rồi nó không dậy men tốt đâu!
Nhưng bột dậy rất tốt. Trên mặt bột. Có những bong bóng phồng lên, vỡ lỗ chỗ. Từ cái nồi bột lên men ấy tỏa ra một mùi trứng và sữa ngon lành. Má bảo:
- Con bẻ cho má một mớ củi vụn. Phải đốt lửa cho đượm, đừng có khó
Rồi má thắp nến lên:
- Con cho thêm củi vào lò đi- Má Barberin bảo tôi.
Không cần má phải nhắc tôi đến lần thứ hai. Chẳng mấy chốc ngọn lửa đùng đùng bốc lên ống khói, ánh sáng chập chờn của nó tỏa khắp gian phòng. Má Bác- bơ- ranh nhấc chiếc chảo rán treo trên tường xuống để nó lên trên ngọn lửa.
- Đưa má bơ nào.
Má cắt ít bơ bằng đầu con dao bỏ vào chảo. Bơ chảy ra, reo xèo xèo. Ôi! Cái mùi thơm làm ta thèm nhỏ dãi, cái mùi thơm vì đã vắng lâu ngày nên càng kích thích miệng lưỡi ta! Ôi! Khúc nhạc vui vẻ của chảo bơ liu riu tí tách trên lò.
Tuy nhiên dù tập trung chú ý đến mấy đi nữa tôi vẫn nghe như có bước chân ngoài sân. Ai có thể đến vào giờ này nhỉ? Hẳn lại là một bà hàng xóm sang xin lửa đây.
Tôi không thèm chú ý, vì má Bác- bơ- ranh vừa vục môi vào nồi đất, múc đổ vào lòng chảo một mẻ bột trắng tinh. Quả không phải lúc nghĩ vớ vẩn đến chuyện khác!
Nhưng chính vào bấy giờ thì có tiếng gậy lạch cạch trên bục cửa, rồi cửa thình lình mở toang. Không ngoảnh cổ ra, má Bác- bơ- ranh hỏi:
- Ai đấy?
Một người đàn ông bước vào, nhờ ánh sáng ngọn lửa tôi thấy ông ta mặc một chiếc áo bờ-lu trắng tay chống một chiếc gậy to.
-  Ở đây đang làm tiệc đấy à? Cứ tự nhiên- Ông ta nói bằng một giọng thô lỗ.
- A! Trời ơi! - Má Bác- bơ- ranh kêu lên, đặt mạnh chiếc chảo xuống đất.
Rồi cầm lấy cánh tay tôi bà đẩy tôi về phía người đàn ông đang dừng lại trên ngưỡng cửa:
- Đây là cha con.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top