Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

11

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

 

Câu 11: Phân tích nguyên nhân ra đời và bản chất của CNTB độc quyền?

a. Nguyên nhân ra đời chủ nghĩa tư bản độc quyền

            Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do những nguyên nhân chủ yếu sau:

            - Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn.

            - Vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện như lò luyện kim mới Betsơme, Máctanh, Tômát,... đã tạo ra sản lượng lớn gang thép với chất lượng cao: phát hiện ra hoá chất mới như: axit sunphuaric (H2SO4), thuốc nhuộm...; máy móc mới ra đời: động cơ điezen, máy phát điện, máy tiện, máy phay..; phát triển những phương tiện vận tải mới: xe hơi, tàu thuỷ, xe điện, máy bay,... và đặc biệt là đường sắt. Những thành tựu khoa học kỹ thuật này, một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới đòi hỏi xí nghiệp phải có quy mô lớn; mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích luỹ tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn.

            - Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích luỹ... ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.

            - Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô tích luỹ để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay gắt làm cho các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát tài, làm giàu với số tư bản tập trung và quy mô xí nghiệp ngày càng to lớn.

             - Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ  thế giới tư bản chủ nghĩa làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng quá trình tích tụ và tập trung tư bản.

             - Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền để cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.

b. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền

Chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do phát triển đến độ nhất định thì xuất hiện các tổ chức độc quyền. Lúc đầu tư bản độc quyền chỉ có trong một số ngành, một số lĩnh vực của nền kinh tế. Hơn nữa, sức mạnh kinh tế của các tổ chức độc quyền cũng chưa thật lớn. Tuy nhiên, sau này, sức mạnh của các tổ chức độc quyền đã được nhân lên nhanh chóng và từng bước chiếm địa vị chi phối trong toàn bộ nền kinh tế. Chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn phát triển mới - Chủ nghĩa tư bản độc quyền.

Xét về bản chất, chủ nghĩa tư bản độc quyền là một nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản.

Chủ nghĩa tư bản độc quyền là chủ nghĩa tư bản trong đó ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế tồn tại các tổ chức tư bản độc quyền và chúng chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Về mặt kinh tế là sự thống trị của các tổ chức độc quyền, về mặt chính trị là chủ nghĩa đế quốc hiếu chiến, xâm lược.

Bản chất của CNTB độc quyền còn được biểu hiện ở các đặc điểm sau :

Trên cơ sở phân tích những hiện tượng mới trong nền kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa phát triển cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX,V.I.Lênin khái quát 5 đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền như sau:

Thứ nhất, Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền.

Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc trưng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.

Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào trong tay phần lớn (thậm chí toàn bộ) việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hoá nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao.

Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hoá, các liên minh độc quyền hình thành theo liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, dưới những hình thức cácten, xanhđica, tơrớt.

Về sau, theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau hình thành nên các côngxoocxiom, côngơlômêrat.

Thứ hai, Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính.

Tư bản tài chính là sự thâm nhập và dung hợp vào nhau giữa tư bản độc quyền trong ngân hàng và tư bản độc quyền trong công nghiệp.

Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền chi phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư bản gọi là bọn đầu sỏ tài chính. Bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông  qua chế độ tham dự và chế độ đại diện. Bởi vậy, với một số tư bản nhất định, một đầu sỏ tài chính có thể chi phối được những lĩnh vực sản xuất rất lớn. Trên cơ sở thống trị về kinh tế, bọn đầu sỏ tài chính thống trị cả về chính trị và các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội ở các nước tư bản.

Thứ ba, Xuất khẩu tư bản

 Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài ( đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản.

 Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX; xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu đối với nhiều nước tư bản độc quyền.

* Xét về hình thức: xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới 2 hình thức chủ yếu là xuất khẩu tư bản trực tiếp và xuất khẩu tư bản gián tiếp.

+ Xuất khẩu tư bản trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư, biến nó thành một chi nhánh của Công ty mẹ ở chính quốc. Các xí nghiệp mới hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương hoặc đa phương, nhưng có những xí nghiệp toàn bộ vốn là của nước ngoài.

+ Xuất khẩu tư bản gián tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản dưới dạng cho vay thu lãi. Đó là hình thức xuất khẩu tư bản cho vay.

* Xét về chủ sở hữu tư bản, có thể phân chia xuất khẩu tư bản thành xuất khẩu tư bản Nhà nước và xuất khẩu tư bản tư nhân.

+ Xuất khẩu tư bản Nhà nước là hình thức xuất khẩu do Nhà nước tư sản thực hiện bằng nguồn vốn từ ngân quỹ của mình, tiền của các tổ chức độc quyền dể đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản; hoặc viện trợ có hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị và quân sự.

+ Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu do tư bản tư nhân thực hiện bằng cách đưa tư bản ra nước ngoài để trực tiếp kinh doanh. Hình thức này có đặc điểm cơ bản là nó thường được đầu tư vào những ngành kinh tế có lợi nhuận độc quyền cao....

Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị, bóc lột, nô dịch của tư bản tài chính trên phạm vi toàn thế giới.

Thứ tư, Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các liên minh độc quyền quốc tế.

 Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên cả về quy mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh tế ( phân chia lĩnh vực đầu tư tư bản, nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ ...) giữa các tập đoàn tư bản độc quyền từ đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế.

Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ thị trường trong nước luôn luôn gắn với thị trường ngoài nước. Đặc biệt trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, thị trường ngoài nước còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đế quốc. Một mặt, do lực lượng sản xuất phát triển cao đòi hỏi ngày càng phải có nhiều nguồn nguyên liệu và nơi tiêu thụ; mặt khác do thèm khát lợi nhuận siêu ngạch thúc đẩy tư bản độc quyền tăng cường bành trướng ra nước ngoài.

Thứ năm. Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc

 V.I. Lênin đã chỉ rõ: " Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao, nguyên liệu càng thiếu thốn, sự cạnh tranh càng gay gắt và việc tìm kiếm các nguồn nguyên liệu trên toàn thế giới càng ráo riết thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc địa càng quyết liệt hơn".

Sự phân chia lãnh thổ và phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh đòi chia lại thế giới đã chia. Đó là nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914 - 1918 và lần thứ hai 1939 - 1945.

Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc có liên quan chặt chẽ với nhau, nói lên bản chất của chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế là sự thống trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền; về mặt chính trị là sự hiếu chiến, xâm lược nước ngoài, là hệ thống  thuộc địa nảy sinh từ yêu cầu kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền.

 

    c) Biểu hiện của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư qua 2 giai đoạn phát triển của CNTB

-  Biểu hiện sự hoạt động của quy luật giá trị:

            Chủ nghĩa tư bản phát triển qua 2 giai đoạn: giai đoạn chủ nghĩa tư bản tư do chính trị và giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, cho nên quy luật giá trị có sự biểu hiện khác nhau trong từng giai đoạn đó

            + Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, giá cả lên xuống xung quanh giá cả sản xuất, tức là giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất, song không thoat ly khỏi quy luật giá trị. Bởi vì, tổng số giá cả sản xuất vẫn bằng tổng số giá trị hàng hoá. Giá cả sản xuất bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi nhuận bình quân.

            + Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá cả độc quyền; giá cả độc quyền thấp khi mua, cao khi bán. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa quy luật giá trị không còn hoạt động. Về thực chất, giá cả độc quyền vẫn không thoát ly và không phủ định cơ sở của nó là giá trị. Các tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền chẳng qua là nhằm chiếm đoạt một phần giá trị và giá trị thặng dư của những người khác. Nếu xem xét trong toàn bộ hệ thống kinh tế tư bản thì tổng số giá cả vẫn bằng tổng số giá trị. Như vậy, nếu như trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất, thì trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền.

- Biểu hiện sự hoạt động của quy luật giá trị thặng dư.

+ Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, quy luật giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân.

+ Bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các tổ chức độc quyền thao túng nền kinh tế bằng giá cả độc quyền và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Do đó, quy luật lợi nhuận độc quyền cao chỉ là hình thức biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao là lao động không công của công nhân ở các xí nghiệp độc quyền; một phần lao động không công của công nhân ở các xí nghiệp không độc quyền; một phần giá trị thặng dư của các nhà tư bản vừa và nhỏ bị mất đi do thua thiệt trong cạnh tranh; lao động thặng dư và đôi khi cả một phần lao động tất yếu của những người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản và các nước thuộc địa, phụ thuộc. Như vậy, sự biểu hiện của quy luật giá trị thăng dư trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa thành quy luật lợi nhuận độc quyền cao chỉ là sự phản ánh quan hệ thống trị và bóc lột tư bản độc quyền trong tất cả các ngành kinh tế của xã hội tư bản và trên toàn thế giới.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top