Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

mật mã tây tạng 8.3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trương Lập nói: “Cẩn thận có mai phục!”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không lo được nhiều thế đâu. Những bậc thang này ít nhất cũng dốc đến bảy mươi lăm độ, nếu bọn chúng ở trên ló đầu ra xạ kích chúng ta, chúng ta cũng có thể bắn trả được chúng như thường.”

Đường Mẫn nói: “Chỉ sợ chúng ném đá xuống thôi.”

Pháp sư Á La nói: “Bậc thang rất rộng, ném đá vẫn có thể tránh được.” Đã đến sát bên dưới bậc thang, pháp sư Á La tung mình nhảy lên trước, rồi quay lại bắn xuống dưới, yểm hộ cho những người ở phía sau.

Bậc thang quả thực hơi dốc, cả bọn dùng cả tay lẫn chân, leo một mạch hai ba chục mét liền, nghe tiếng gầm rú bên dưới, có vẻ như bọn người Lỗ Mặc không đuổi theo nữa. Nhạc Dương ngoảnh đầu lại nhìn, không khỏi buột miệng phía cười. Thì ra bọn người Lỗ Mặc ấy hai chân rất khỏe, có thể dễ dàng leo cây, nhưng lại không sao đứng vững được trên bậc thang đá chật hẹp, đồng thời lớp đá rắn cũng khiến móng vuốt của chúng trượt đi, chỉ leo lên được vài bậc, thân hình đã lắc lư ngã bổ ngửa ra sau, lăn lông lốc mấy vòng liền dưới đất.

Thấy vậy, Nhạc Dương liền nhắc nhở: “Không phải lo bên dưới, bọn chúng không lên được đâu, chỉ cần để ý bên trên là được rồi.” Những người còn lại cũng lần lượt ngoảnh đầu xuống nhìn, vừa khéo trông thấy bọn người Lỗ Mặc đang gắng sức bò lên trên, trông như thể đang leo bám trên mặt băng, kết quả con nào con nấy đều lăn lông lốc xuống, bộ dạng trông tức cười vô cùng.

“Vậy, chúng ta có cần nghĩ chiến thuật gì rồi mới tiếp tục leo lên không? Ít nhất chỗ này còn cách cửa hang trên kia một quãng, bọn người bên trên muốn nổ súng bắn xuống cũng không phải chuyện dễ.” Trương Lập nhìn hơn nghìn bậc thang phía trước, hổn hển thở gấp, nói.

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Ba Tang đang cúi đầu, nói: “Nhưng tôi vẫn thấy hết sức nguy hiểm, không phải ở lối vào di tích trên kia, cũng không phải ở bên dưới. Hình như lại là cảm giác ấy, thật kỳ lạ.”

Nhạc Dương cũng thở dốc, vỗ vỗ vai Trương Lập hỏi: “Một phút anh leo được bao nhiêu tầng nhà?”

Trương Lập đáp: “Hai mươi tầng, sao vậy hả?”

Nhạc Dương nói: “Thông thường một tầng nhà là chín bậc thang, cứ tính là chín bậc đi, thì một phút đại khái có thể leo được hai trăm bậc thang. Vả lại, càng leo cao càng mệt. Chỗ này ít nhất cũng phải hơn nghìn bậc, tính sơ sơ cũng mất chừng mười phút mới lên được đến nơi đó.”

Trương Lập nói: “Phải đấy, leo được lên tới đó thì chúng ta đã sức cùng lực kiệt, nếu kẻ địch đang canh ở trên, thì coi như tiêu đời luôn.”

Nhạc Dương lắc đầu: “Không phải vấn đề đó. Mà bây giờ phải leo lên cho nhanh, bằng không sẽ chết thảm hơn cả bị bọn người Lỗ Mặc dưới kia xơi tái đấy. Nhìn thử lên trời mà xem.”

Trương Lập ngoảnh đầu lại, thấy thấp thoáng trên bầu không có mấy chấm đen mờ mờ đang đảo lượn, thoạt nhìn không to hơn con muỗi là mấy, nhưng chỉ trong giây lát anh đã lập tức hiểu ra, lũ chim khổng lồ! Lũ Cộng mệnh điểu mà Địch ô An Cát Mẫu nói tới!

Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang cũng đã nhìn thấy nguồn gốc của cảm giác nguy hiểm, vội vàng thúc giục mọi người: “Nhanh lên, nhân lúc lũ chim ấy vẫn chưa phát giác ra chúng ta!”

Nhưng mới leo được vài ba bước đã thấy không ổn, đeo trên lưng cái ba lô nặng gần bốn chục ki lô gam, làm sao có thể nhanh chóng leo lên hơn nghìn bậc thang dốc đứng như vậy được. Đã mấy lần Nhạc Dương và Đường Mẫn suýt chút nữa thì mất trọng tâm, ngã lăn xuống dưới như bọn người Lỗ Mặc, may mà có người ở sau đỡ giúp. Trác Mộc Cường Ba thấy không ổn, vội ra lệnh: “Đặt tạm ba lô lên bậc thang, chỉ mang vũ khí nhẹ theo thôi, nhanh lên!”

Nhạc Dương căng thẳng nhìn lên bầu trời, bọn chim khổng lồ vẫn đang quần đảo trên không, dường như chưa phát hiện ra họ.

Đường Mẫn nói: “Nhưng mà, trong ba lô còn có...” Trác Mộc Cường Ba nói: “Không kịp đâu, lên trên đó rồi tính sau.” Nói đoạn, gã liền giúp Đường Mẫn cởi ba lô xuống, đẩy cô leo lên trên.

Tất cả thành viên trong đội đều dùng cả tay lẫn chân, bò theo đúng nghĩa đen của từ đó. Cứ chốc chốc Nhạc Dương lại ngoảnh đầu quan sát, lúc bò lên được nửa đường, anh đã phát hiện ra, ít nhất có hai chấm đen bằng con muỗi đã to hẳn ra, giờ áng chừng phải to bằng con nhặng rồi. “Chúng phát hiện ra rồi, đang bay đến. Nhanh lên!” Nhạc Dương cuống quýt nhắc nhở những người còn lại.

Cả bọn đều dốc hết sức leo bám lên chỗ hang đá, ai nấy đều biết rằng, chỉ có lên trên đó mới còn hy vọng, chứ đang lơ lửng ở giữa dốc thế này, vốn không thể nào chống chọi với lũ chim khổng lồ đó được. Lữ Cánh Nam bị thương ở chân, leo bậc thang thế này cực kỳ tốn sức, Trác Mộc Cường Ba đành ở phía sau cô, dọc đường bò lên, ít nhất cũng phải đỡ hộ cô tới năm sáu lần.

Trong chớp mắt, những cái bóng đảo lượn trên không trung kia đã to bằng con chim sẻ, mà Nhạc Dương ngẩng đầu nhìn lên, những bậc thang thẳng tắp ấy vẫn chưa thấy kết thúc ở đâu, bên cạnh chỉ nghe thấy tiếng thở hổn hển gấp gáp. Đây là lần đầu tiên họ biết được, thì ra leo cầu thang cũng mệt đến thế. Nhạc Dương hít sâu một hơi, dồn thêm sức lực bám bậc thang leo tiếp, bàn tay trượt một cái, khẩu tiểu liên tự động trên tay liền rơi xuống dưới, chỉ nghe tiếng Cường Ba thiếu gia ở phía sau vang lên: “Mặc kệ nó, mau leo lên đi!”

Nhạc Dương ngoảnh đầu lại quan sát, thấy cái bóng kia đã to bằng con chim ưng! Đội trưởng Hồ Dương ở bên cạnh quát lên: “Đừng nhìn nữa! Leo lên đi!”

Sau lưng đã cảm thấy tiếng gió vù vù rồi, lũ chim khổng lồ đáng sợ ở ngay phía trên đầu, bóng đen kia trùm lên phía trên cả bọn. Nhạc Dương thậm chí còn bắt đầu thấy nản lòng, bởi khả năng phán đoán chuẩn xác của anh đã đưa ra kết luận, trước khi lên được cửa hang dẫn vào di tích, chắc chắn họ sẽ bị lũ chim ấy đuổi tới nơi. Nhưng lại leo thêm được một đoạn nữa, sao vẫn không thấy bị tấn công gì cả? Hơn nữa tiếng gió mãnh liệt kia cũng chỉ lướt qua phía trên đầu. Lẽ nào mục tiêu của bọn chim khổng lồ kia không phải bọn họ, mà là lũ người Lỗ Mặc phía dưới kia? Nhạc Dương không kìm được, lại quay đầu nhìn, kỳ lạ thật, hai con chim khổng lồ không tấn công người, cũng không ra tay với bọn người Lỗ Mặc bên dưới, mà như đang tranh cướp gì đó giữa không trung. Vũ khí trang bị của họ ư? Không phải, ba lô còn để ở dưới nữa cơ mà.

Lúc này, Ba Tang leo bên cạnh anh chợt lạnh lùng cất tiếng: “Không cần nhìn nữa, là đạn hấp dẫn. Bò nhanh lên!” Thì ra, Ba Tang đã ném ra một trái đạn hấp dẫn, vào những thời khắc thế này, sự bình tĩnh mới là quan trọng nhất. Viên đạn hấp dẫn nảy tưng tưng lăn xuống các bậc thang, có lẽ đối với lũ chim kia, vật thể vừa phát sáng vừa kêu lên “u... u... u...” ấy là báu vật cũng nên. Hai con chim thậm chí còn lao vào đánh nhau để tranh đoạt quả cầu phát ra ánh sáng.

Nhân lúc bọn chim còn đang tranh chấp ở lưng chừng cầu thang đá, Nhạc Dương lại bò lên được hơn trăm bậc nữa. Ủa? Pháp sư Á La đâu rồi? Chỉ thấy vị pháp sư già đã ở trên cửa hang động thiên nhiên ấy ló đầu ra, nói với những người bên dưới: “Bên trên không có mai phục, mọi người lên cả đi.” Nhạc Dương thầm giật mình kinh hãi, ông ấy lên từ lúc nào vậy?

Khi cả bọn đều lên được hang động thiên nhiên kia mà không gặp gì nguy hiểm, hai con chim đã đánh nhau sứt đầu chảy máu vì quả cầu phát sáng kia, một con thảm bại bỏ chạy, con kia miệng ngậm quả cầu không còn phát sáng nữa, ngẩng đầu nhìn quanh, bộ dạng xem chừng kiêu căng đắc ý lắm.

Cửa hang xập xệ bị một cái xác chim lớn chắn, rõ ràng là một nhóm người khác đã bắn chết nó. Pháp sư Á La nói: “Bên trong không có người, có vẻ chúng đã rút sâu vào bên trong rồi.”

Nhạc Dương đứng chỗ cửa hang, nghiêng người nhìn ra phía ngoài, dọc theo vách đá, khắp nơi đều là những lỗ nhỏ chi chít chằng chịt, trông như một cái tổ ong khổng lồ. Tới khi Trương Lập gọi: “Nhìn cái gì mà nhìn? Còn không mau vào đây đi!” Nhạc Dương mới là người cuối cùng vào hang, trong lòng lấy làm nghi hoặc: “Đây không phải hang động thiên nhiên, mà hình thành do con người phá hoại. Trước đây, phía trên hang động này chắc được xây thành một dạng cung điện lầu các gì đó chăng?”

Bước qua xác con chim khổng lồ, vào bên trong hang. Nhạc Dương nhìn về bên trái, hang động này cứ vươn mãi theo chiều rộng của vách đá, những trụ ánh sáng rọi xuống từ các lỗ hổng bên trên chiếu lên những bệ đá và các bức tượng vỡ vụn, hình thành nên một hành lang dài đầy trụ sáng. Dõi mắt nhìn hồi lâu mà cũng chẳng thấy đâu là tận cùng, chỉ có thể trông thấy những trụ ánh sáng đan chéo vào nhau và đám bụi lơ lửng bên trong cột sáng mà thôi. Bức tường phía sau tượng đá dường như có rất nhiều bích họa, nhưng giờ đều đã tróc hết cả rồi, duy chỉ có chỗ chân tường là còn mấy mảng màu sắc loang lổ.

“Đây là gì thế?” Trương Lập hỏi. Anh kinh ngạc trố mắt ra nhìn, từ những khối đá vụn bị tàn phá này, có thể tưởng tượng được những bức tượng đá năm xưa lớn đến nhường nào. Trương Lập đang đứng trước một cái đầu chim vẫn còn tương đối hoàn hảo, vậy mà chiều cao của anh cũng chỉ đến mép bên dưới của cái mỏ chim mà thôi.

Pháp sư Á La giải thích: “Đây, có lẽ là những vị thần nguyên thủy nhất của Bản giáo cổ đại. Đừng nói là các cậu, ngay cả tôi cũng chưa từng trông thấy những hình tượng này bao giờ. Có điều, Bản giáo truyền thống thờ phụng các thần linh Tam giới, ‘Thần giới trên bầu trời, Tán giới ở giữa, Long giới ở dưới... những bức tượng này chắc là Tán. Tiếc là máy tính để bên dưới kia rồi, không tra được tư liệu.”

Đường Mẫn vừa vào trong hang đã vội kéo Lữ Cánh Nam ra kiểm tra vết thương. Lữ Cánh Nam dựa lưng vào một bức tượng vỡ để Đường Mẫn băng bó, hai người rì rầm nói chuyện gì đó, nét mặt tươi cười. Trác Mộc Cường Ba trông thấy vậy, trong lòng cũng không khỏi mừng thầm.

Dưới đất phủ một lớp bụi dày, để lại vô số vết chân. Nhạc Dương quan sát rồi nói: “Chắc là có năm người, ba người cao trên một mét tám, nhìn vết chân có thể thấy, chúng đã đi sâu vào bên trong khu di tích trước khi chúng ta tới đây, chỉ để lại một tên canh giữ. Tên kia thấy chúng ta, hoặc nghe được tiếng súng, liền chạy đi tụ họp với đồng bọn, vì vậy vết chân của hắn có vẻ rối loạn hơn một chút. Người này cao khoảng một mét sáu lăm đến một mét bảy, chiều cao tương đương với người còn lại. Vết máu dưới đất cho thấy, trong bọn chúng đã có người bị thương, chỉ có điều, bao nhiêu người bị thương, và thương thế ra sao thì không rõ.”

Ba Tang cũng chú ý đến vết máu trên mặt đất, có mấy chỗ máu đọng lại, vẫn chưa khô hẳn. Anh ta bước tới, đưa ngón trỏ ra chấm một chút, đưa lên lưỡi liếm một cái, rồi nhâm nhấm tỉ mỉ như người thử ma túy, cuối cùng mới nhổ cả máu lẫn nước bọt ra. Sau khi thử mấy lần, Ba Tang đưa ra kết luận: “Có máu của bốn người, trong đó có hai người bị thương rất nặng.”

Nhạc Dương chưa bao giờ thấy Ba Tang lộ ra chiêu này, lấy làm ngưỡng mộ, vội tò mò hỏi: “Sao mà biết được thế? Anh Ba Tang, dạy em được không?”

Ba Tang cười gằn một tiếng: “Nếm nhiều máu người chết, tự nhiên sẽ phân biệt được thôi.” Nhạc Dương rùng cả mình, không dám hỏi tiếp nữa.

Lữ Cánh Nam cũng nói: “Chắc Ba Tang nếm ra được sự khác biệt của máu trong động mạch và tĩnh mạch thôi. Vết chân dưới đất cho chúng ta thấy, trong đó có một người bị tập tễnh, một người khác tay bị thương nặng, có thể đã đứt lìa ra rồi, dọc đường hắn đi vẫn có máu nhỏ xuống, vả lại còn là loại trộn lẫn giữa máu trong động mạch và tĩnh mạch.”

Pháp sư Á La bổ sung thêm: “Trọng tâm của hắn hơi nghiêng về bên phải, có lẽ tay bị thương là tay trái.”

Trương Lập hỏi: “Vậy, giờ chúng ta tính sao đây? Tiến vào trong hay ở lại đây?”

Ba Tang gằn giọng nói: “Đương nhiên là tiến vào rồi. Bọn chúng có hai tên bị thương nặng, vũ khí đạn dược cũng tiêu hao gần hết, không nhân lúc này giết luôn chúng đi, chẳng lẽ đợi chúng dưỡng thương xong quay lại cắn chúng ta một miếng sao?” Nói rồi, anh ta trợn tròn mắt nhìn chằm chằm vào Trác Mộc Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba hơi nhíu mày.

Đội trưởng Hồ Dương cũng bày tỏ thái độ: “Đúng, phải nhân lúc này ném đá xuống giếng!”

Đường Mẫn nói: “Nhưng mà, họ đã bị thương nặng rồi, nếu đổi lại là chúng ta, chắc họ cũng buông tha thôi, phải không?”

Trên gương mặt Ba Tang liền lộ ra một nụ cười tàn khốc, anh ta bước đến sát trước mặt Đường Mẫn, gằn giọng nhả ra từng chữ một: “Cô chớ quên rằng, đến cả đồng bọn chúng còn không tha, huống hồ là chúng ta! Cô thử nghĩ xem, nếu bắt được cô, chúng sẽ làm gì?” Nhìn nụ cười tựa bà ngoại sói trong truyện Cô bé quàng khăn đỏ của Ba Tang, Đường Mẫn tái mét mặt, cúi gằm đầu xuống.

Trác Mộc Cường Ba lên tiếng ngăn lại: “Đủ rồi, Ba Tang.” Gã đưa mắt liếc nhìn Lữ Cánh Nam theo thói quen, nhưng Lữ Cánh Nam cũng cúi đầu trầm tư, không biết đang nghĩ gì.

Nhạc Dương chăm chú nhìn vào sâu bên trong hang, nói: “Không rõ sâu bao nhiêu, rất dễ mai phục đấy.” Anh đang đứng bên cạnh một trụ đá cao gấp đôi người, đường kính phải ba người ôm mới trọn vòng, thoạt trông có vẻ như một đoạn cánh tay của pho tượng nào đó.

Ba Tang cất giọng khan khan nói: “Tôi cũng đang lo lắng chuyện này, chúng biết chúng ta đến rồi. Hừ, để xem xem, chúng còn mai phục được kiểu gì nữa.”

Nhìn bộ dạng hăm hở muốn xông vào của Ba Tang và đội trưởng Hồ Dương, lại nghe bên dưới bậc thang không ngừng vang lên những âm thanh như tiếng tù và, Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm giây lát, đoạn nói: “Nếu nghỉ ngơi đủ rồi, thì chúng ta tiến vào trong. Chia làm hai nhóm, giữ khoảng cách hai trăm mét, mọi người phải cẩn thận.”

Nhóm đầu tiên gồm có pháp sư Á La, Nhạc Dương, Trương Lập và đội trưởng Hồ Dương. Pháp sư Á La đi đầu tiên, ông không di động men theo hành lang, mà nhảy nhót giữa những bức tượng bị tàn phá xập xệ. Trác Mộc Cường Ba lấy làm lo lắng, như vậy rất dễ trở thành bia bắn cho kẻ địch, nhưng Lữ Cánh Nam thì hầu như không để ý. Nhạc Dương cũng nhanh chóng chú ý đến phương pháp và quỹ đạo di chuyển kỳ lạ của pháp sư Á La, thoạt nhìn có vẻ như ông nhảy từ chỗ này sang chỗ kia, hơi ngưng lại một chút, rồi tiếp tục tiến lên phía trước, nhưng kỳ thực thân thể pháp sư không hề dừng vận động dù chỉ một giây. Phải khi giương súng lên ngắm về phía pháp sư mới phát hiện, căn bản không thể ngắm đúng vào người ông được.

Chưa đi được bao xa, men theo hành lang trụ ánh sáng ấy qua một đoạn vòng cung, pháp sư Á La bỗng “ồ” lên một tiếng khe khẽ, rồi tăng tốc. Bọn Nhạc Dương, Trương Lập vội chạy theo sau, vừa quành qua chỗ rẽ, liền thấy phía trước lại có một cửa đá, giờ chỉ còn lại hai khung cửa vuông vắn, ánh sáng tràn vào từ phía ngoài cửa. Nhạc Dương đưa mắt quan sát, dấu chân đi ra bên ngoài, sau đó lại trở lại, kế đó lại chuyển sang hướng khác, lẽ nào cánh cửa này không đi được? Anh đi theo pháp sư Á La ra ngoài cửa đá, trước mắt bỗng sáng bừng lên, nơi này lại là một hang động hình bán cầu giống như chỗ lúc nãy họ vừa leo lên, nhưng lớn hơn gấp mấy lần. Nhạc Dương bước ra chỗ mép, dưới chân cũng có các bậc thang dốc đứng, nhưng chỉ còn vài bậc, bên dưới tựa như đã bị rìu sắc đẽo đi nhẵn nhụi, tạo thành một vách đá phẳng cao mấy trăm mét. Nhạc Dương lè lưỡi thầm nhủ, chẳng trách bọn kia lại vòng trở lại. Trương Lập cũng đi theo ra, hỏi: “Chạy mất rồi hả?”

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Chỗ này chắc không xuống được chứ?”

Nhạc Dương gật đầu. Pháp sư Á La đã vòng trở lại, Nhạc Dương vẫn đứng ở mép cửa hang, quan sát những lỗ hổng lớn nhỏ không đều chạy dài về phía bên trái vách đá bên ngoài. “Sao thế? Chưa đi hả?” Trương Lập hỏi.

Nhạc Dương chầm chậm đi theo sau, nói: “Tôi đang nghĩ, chỗ này có lẽ không phải là hang động thiên nhiên, nhưng đã bị con người phá hoại toàn bộ rồi. Bên trên này chắc là có mái chìa ra, có góc cạnh, rất có thể chúng chính là những cung điện, lầu các chúng ta thấy trong Mật quang Bảo giám.”

“Hả!” Trương Lập dừng lại, phát hiện pháp sư Á La đã đi trước một quãng xa rồi, bèn vội vàng chạy theo.

Nhạc Dương nói: “Bọn họ xây dựng giữa lưng chừng vách núi, ở độ cao này, nếu quy mô đủ lớn, chắc là có thể nhìn thấy từ trên mặt biển. Phá hoại cũng sạch sẽ thật đấy!” Anh nhớ lại hang động bên ngoài khung cửa không hề để lại chút dấu vết nào của con người, không khỏi lắc đầu cảm thán.

Lúc này, pháp sư Á La đã dừng lại. Nhạc Dương, Trương Lập và đội trưởng Hồ Dương vội vàng nấp vào một chỗ, hồi lâu sau vẫn không thấy động tĩnh gì, chỉ thấy pháp sư Á La đang đứng bên trên một cái mũi chó có mọc cánh dơi, nhìn chằm chằm xuống mặt đất, chắc là không phải đụng độ với kẻ địch. Nhạc Dương bèn từ chỗ nấp bước ra, pháp sư Á La chậm rãi nói: “Dấu chân, rối loạn mất rồi.”

CHƯƠNG 58:

THÀNH TƯỚC MẪU

Nghe những lời lẽ đầy kích động của Trát Lỗ, bọn Trác Mộc Cường Ba đều thầm kinh hãi. Đúng thế, Đạo quân Ánh sáng bách chiến bách thắng, sao có thể bị một đội quân bình thường đánh bại! Thế nhưng, tại sao họ lại nghiêm khắc khu biệt mình với những cư dân vốn sống ở đây từ trước như thế? Tại sao lại chẳng nể nang gì mà tiêu diệt cả bộ tộc người ta? Lẽ nào đội quân ấy đã không còn chút nhân tính nào, trở thành những kẻ điên cuồng chém giết rồi hay sao?

Oan gia ngõ hẹp

Kẻ đi cuối cùng báo tin kia dường như cũng phát hiện ra những dấu chân rõ rệt trên nền đất, cố ý giẫm thêm mấy vết nữa trên những vết chân vốn có, hoặc di chân xóa đi, nhìn như thể có rất nhiều người đi qua đi lại chỗ này vậy.

Chẳng những vậy, ở phía trước đám dấu chân nhốn nháo nhộn nhạo này, dấu chân vốn của năm người đột nhiên chỉ còn lại một, chính là dấu chân của tên bị tập tễnh.

Trương Lập nói: “Bọn chúng làm loạn các vết chân, chắc muốn khiến chúng ta nghi hoặc đây. Kỳ lạ thật, dấu chân của những tên còn lại sao đều biến mất cả rồi?”

Pháp sư Á La chỉ vào cái chân gãy của một bức tượng đá cách chỗ họ đứng không xa: “Trên kia có hai vết chân, khoảng cách rất lớn.”

Nhạc Dương nói: “Vậy là đã rõ, chúng chưa đi được bao xa, kẻ ở lại canh phòng đã hội họp với bốn tên còn lại ở đây. Có bốn tên nhảy nhót trên các mảnh tượng vỡ giống pháp sư Á La, chỉ có tên bị thọt chân kia là không thể nhảy được, vì vậy mới đi dưới đất. Hãy cẩn thận, kẻ địch có thể ở ngay phía trước đây thôi.”

Như vậy là muốn lần theo vết chân truy đuổi kẻ địch sẽ khó khăn hơn nhiều, không biết liệu đối phương sẽ nấp vào đâu. Đi được chừng bốn năm chục mét nữa, pháp sư Á La lại dừng lại, chăm chú nhìn vào vách tường phía trước. Một đường màu đen, vạch từ trên vách tường kéo xuống mặt đất, rồi lại kéo dài sang phía tường bên kia, hai bên vạch đen ấy có vẽ hai ký hiệu “?”, trông như ký hiệu tiền tệ vậy.

“Đây là...?” Nhạc Dương thì thào hỏi.

“Đây là...” pháp sư Á La ngập ngừng nói, “nếu tôi đoán không lầm, đây có lẽ là Kim Cương tuyến. Màu đen là định, các ký hiệu xung quanh chỉ thân, pháp, ý... À mà thôi, nói một cách đơn giản, trong Bản giáo cổ đại, đường màu đen có các ký hiệu này giống như một lời cảnh báo vậy, nó đại biểu cho sự nguy hiểm, không thể vượt qua.”

“Nhưng mà...” Trương Lập nhìn dấu chân chạy sang phía bên kia vạch màu đen, nói: “Đã được bao xa đâu chứ, có khi nhóm của Cường Ba thiếu gia vẫn còn chưa xuất phát cũng nên.”

Nhạc Dương nói: “Vạch đen này hẳn đã có từ rất lâu rồi! Nét vẽ bằng than chì có thời gian bảo tồn lâu nhất, nhưng mọi người nhìn đi, ở chỗ riềm đã mờ mờ loang lổ rồi. Phía trước cũng không nghe thấy tiếng kêu thảm thiết gì cả, chúng ta cẩn thận hơn một chút chắc là không có vấn đề gì đâu.”

Pháp sư Á La trước tiên khẽ chau mày, rồi đưa mắt nhìn những bệ đá và tượng đá đã bị phá hoại nghiêm trọng, gật đầu nói: “Đi sau lưng tôi.” Bốn người, một đi trước, ba theo sau lần lượt bước qua vạch đen cảnh báo nguy hiểm, bốn người nhóm Trác Mộc Cường Ba phía sau thấy họ vòng qua chỗ ngoặt, cũng bắt đầu đi theo.

Sau khi bước qua vạch cảnh báo, trong không khí lan tỏa một thứ mùi kỳ dị, chẳng hề dễ ngửi chút nào. Cuối cùng, Nhạc Dương không chịu nổi kêu lên: “Mùi gì vậy? Thối quá.” Trương Lập đáp: “Như là mùi chuồng gà ở quê ấy, ừm, chắc là mùi cứt gà.”

Mùi thối càng lúc càng nồng nặc, nhưng dấu chân dưới đất vẫn tiến về phía trước. Nếu kẻ địch muốn giở trò gì, thì trong thông đạo duy nhất này chắc cũng không thể thoát thân nổi. Phía trước sáng bừng lên, thì ra vách tường bên ngoài đã sụp hẳn xuống, hình thành nên một cánh cửa sổ kiểu Pháp khổng lồ, ánh sáng từ bên ngoài chiếu thẳng vào.

Trương Lập bảo Nhạc Dương: “Cậu nói xem, liệu chúng có nhảy thẳng từ trên này xuống dưới kia không?”

Nhạc Dương hỏi ngược lại: “Anh dám không?” Thấy Trương Lập lắc lắc đầu, Nhạc Dương lại nói tiếp: “Tôi nghĩ, bọn chúng cũng không dám đâu.”

Đi được chừng mười phút nữa, dọc đường đã qua hơn chục chỗ cả bức tường sụp xuống như thế, pháp sư Á La nói: “Chú ý, có lối rẽ nhánh.”

Phía trước, vẫn là hành lang dài có vô số cửa sổ trời lớn nhỏ, bên phải, có một hang động sâu không thấy đáy, cao khoảng ngang đầu người. Dấu chân dưới đất vẫn tiến thẳng về phía trước. Họ đứng bên ngoài cửa hang sâu nhỏ kia nhòm thử vào, chỉ thấy một vùng tối tăm mù mịt. Từ các dấu vết để lại, dường như không có người đi vào trong đó, nhưng cũng không ai dám khẳng định chắc chắn. Trương Lập nói: “Giá mà có lựu đạn khói ở đây thì tốt.”

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Chúng ta đi tiếp thôi.” Pháp sư Á La vòng qua chỗ rẽ, đi về phía có ánh sáng, đột nhiên chăm chú nhìn một hồi, đoạn nói: “Không ổn! Phía trước có gì đó!”

Vách tường đá khẽ rung lên, tựa hồ có thứ gì to lớn lắm đang ập tới. Nhạc Dương đang đứng bên cạnh chỗ tường sụt ở vách phía bên ngoài, ngẩng đầu lên nhìn, thấy trên bầu không lại có bóng đen đảo lượn. Mùi phân chim, đường vạch màu đen, trong chớp mắt lập tức được liên kết với nhau. Lúc này, chấn động trên vách đá càng lúc càng rõ ràng hơn. “Không xong rồi, đây là tổ chim!” Nhạc Dương kêu lên. Đội trưởng Hồ Dương và Trương Lập đều ngẩn ra, pháp sư Á La xoay mình lại, đứng giữa ba người họ. Vách đá vẫn tiếp tục rung lên, một vật gì đó rơi ra, có hai miếng dây màu đen, trông như cái đồng hồ đeo tay vậy. Vật đó vốn chẳng xa lạ gì với họ, Cơn Lốc Đen! Hồi ở Đảo Huyền Không tự, chính thứ này đã khiến họ nếm đủ khổ sở rồi.

“Đừng chạy!” “Không kịp nữa rồi!” Hai tiếng quát lần lượt là của đội trưởng Hồ Dương và pháp sư Á La. Thời gian hẹn giờ hiển thị trên đồng hồ vẫn còn hai giây, chỉ thấy hai tay ông vung lên, bàn tay ấn lên người Nhạc Dương và Trương Lập, đồng thời tung ra một cước, cùng lúc hất văng ba người trước mặt mình ra xa, còn bản thân ông cũng mượn lực phản chấn bắn mình về phía con chim khổng lồ đang lao tới.

“Ầm!” một tiếng, quả bom nổ tung, mà không chỉ có một, liền kề sau đó lại liên tiếp vang lên những tiếng nổ lớn như trời long đất lở, vụn đá bắn tung tóe khắp nơi, khói mù mờ mịt khiến người ta tức thở. Khi mở được mắt ra, Nhạc Dương cũng không khỏi kinh hãi đến bần thần cả người. Hành lang họ vừa đi qua đã bị nổ thành mấy đoạn, chỗ anh đang nằm chỉ rộng chưa đến hai mét, thành một trụ đá nhô ra trên vách núi, chẳng may lăn một cái là rơi xuống ngay. Trương Lập đang đeo mình ở bên mép vực, khó nhọc bò lên, Nhạc Dương vội vươn ra giúp Trương Lập một tay. Đội trưởng Hồ Dương bị pháp sư Á La đá sang một đoạn gãy khác, cách Nhạc Dương và Trương Lập chừng mười lăm mét, hình như là bị xung lực của vụ nổ tác động nên mới bay xa như vậy. Có vẻ như chân anh còn bị đè bên dưới một bức tượng đá. Còn pháp sư Á La ở phía bên kia đâu? Nhạc Dương không thấy, hình như ông đã biến mất ở chỗ rẽ ngoặt đằng trước rồi.

“Đội trưởng Hồ Dương! Anh không sao chứ?” Nhạc Dương lớn tiếng hỏi.

Đội trưởng Hồ Dương nghiến răng, rút chân ra khỏi bức tượng đá, trả lời Nhạc Dương: “Tôi không sao, các cậu mới phải cẩn thận đấy, bên dưới sắp sụt xuống rồi!”

Nhạc Dương vội cúi xuống nhìn, chỗ anh và Trương Lập đứng đã thấy có đá vụn tróc xuống, xem chừng có thể sụp đổ bất cứ lúc nào. Nhưng phía trước cách những sáu bảy mét, phía sau còn sụt đến một hai chục mét, làm sao mà nhảy qua được. Vách đá cũng bị nổ cho vụn bét ra, căn bản không thể nào leo bám lên được. Chẳng lẽ bị vây khốn ở đây? Anh nhìn sang Trương Lập hỏi: “Tính sao giờ?” Trương Lập vung mạnh cổ tay, dây móc bị kẹt trong ổ quay không bắn ra được, anh liền bực tức gắt lên: “Dây móc bị chấn động, hỏng rồi, không dùng được.”

Nhạc Dương quay người lại nói: “Sẽ sập đấy, chúng ta phải nghĩ cách. Nhìn kia kìa, kia kìa! Cái hang nhỏ ấy! Chúng ta có thể nhảy qua đó được!”

Trương Lập đứng ở mép vách đá do dự mãi vẫn chưa nhảy, lại kéo tay Nhạc Dương nói: “Cậu biết tôi mắc bệnh sợ độ cao mà. Làm sao nhảy được đây?”

Nhạc Dương nói: “Đã đến lúc này rồi anh đừng có mà nói đùa nữa, lúc ở Đảo Huyền Không tự nhảy thế nào thì giờ nhảy thế ấy.” Nói xong, anh liền hít sâu một hơi, nhảy bật lên, rồi vững vàng hạ xuống chỗ cửa hang tối om om kia. Nhưng lúc quay người lại, thì chẳng thấy Trương Lập đâu, anh bèn ngó đầu ra cửa hang, lớn tiếng gọi: “Mau nhảy qua đây đi! Anh còn đợi cái gì nữa?”

Trương Lập vẫn dáo dác ngó xuống bên dưới. Hồi ở Đảo Huyền Không tự, bên dưới tối om đen kịt, không nhìn thấy gì, lấy hết dũng khí nhảy một cái là qua luôn, nhưng ở chỗ này lại nhìn thấy rõ mồn một, vách đá dựng đứng phẳng lì như vừa bị một lưỡi rìu đẽo gọt, bên dưới là những ngọn cây xanh ngắt như từng mũi cọc nhọn chĩa lên tua tủa, cao quá đi mất!

Phần gốc chỗ đoạn nhô ra nơi anh đứng đã có khe nứt, cả khối nham thạch nhô ra ấy có thể đổ sập xuống bất cứ lúc nào. Nhạc Dương cuống cuồng kêu lên: “Đồ ngốc, nhảy đi!” Trương Lập ngần ngừ, lùi lại một bước, rồi cũng chạy lấy đà như ai, nhưng đến sát mép giậm chân nhảy lại không dồn lực xuống, mà lao bổ vào giữa khoảng không! “Đồ ngốc!” Nhạc Dương mắng một tiếng, rồi giơ báng súng ra. Trương Lập vội bắt lấy, cả người đập thẳng vào vách đá, Nhạc Dương phải vất vả lắm mới kéo được anh vào trong hang động. Phía bên kia, đội trưởng Hồ Dương cũng loạng choạng đứng lên, nói với hai người: “Cứ ở yên đó, tôi đi gọi bọn Cường Ba thiếu gia!”

Nhạc Dương nói với lại: “Anh cũng cẩn thận đấy, đội trưởng Hồ!” Trở vào trong hang, nhìn Trương Lập đang ngồi rũ ra dưới đất, anh bèn hỏi: “Tôi bảo này, sao mà anh lại sợ độ cao được chứ?”

Trương Lập lắc đầu: “Không biết, hồi đi lính đã bao giờ bị thế đâu. Nhưng mà hồi đấy hình như cũng chưa phải tác chiến trên cao lần nào cả. Có lẽ tại nhà cửa ở quê tôi đều thấp tè tè cũng nên. À, phải rồi, giờ chúng ta tính sao đây, cứ đợi ở đây à?”

Nhạc Dương đưa mắt nhìn vào sâu trong hang, rồi lại liếc Trương Lập, mỉm cười hỏi: “Vào trong... xem thử nhé?”

Cái hang nhỏ này không sâu lắm, nhưng rẽ qua một khúc quanh, thì ánh sáng liền bị chặn lại, tối om như mực. Nhạc Dương đi phía trước, được một bước lại dừng lại, cẩn thận đưa chân dò dẫm mặt đất, chỉ sợ bước hụt vào khoảng không, hoặc giẫm phải cạm bẫy gì. Trương Lập đặt một tay sau lưng Nhạc Dương, để đảm bảo khoảng cách giữa hai người.

“Nhanh hơn một chút được không vậy?”

“Tối thui lui thế này, chẳng nhìn thấy gì cả, nhanh làm sao được?”

“Sao không bật đèn lên?” Trên súng tiểu liên tự động của họ đều có gắn đèn pin. “Đồ ngốc, nếu bên trong có kẻ địch, thế chẳng phải chúng ta đã bị lộ rồi à?”

“Suỵt, có ánh sáng!”

“Ồ...”

Hình như họ đã đi ra khỏi cái ngách nhỏ ấy, phía trước là một gian sảnh lớn, hoặc có lẽ giống một cái kho hơn, bên trong chất đầy một đống những thứ vàng óng. Những cột ánh sáng nhỏ hơn phía bên ngoài từ bốn phương tám hướng chiếu vào, giao nhau chằng chịt, hệt như ánh nắng chiếu qua cái rổ vậy.

“Oa! Giàu to rồi!” Hai người bị sắc vàng lóa mắt phía trước thu hút. Cả một đống to tướng, chất lên như một ngọn núi nhỏ vậy, ít nhất phải cao tầm mười mét. Những cột sáng nhỏ ấy chiếu lên trên, lập tức phản xạ ra một loại ánh sáng khiến người ta không sao kháng cự lại nổi... ánh vàng! Ngoài một đống lớn ở giữa, xung quanh còn có vô số tượng vàng, tuy đều bị tàn phá, nhưng vẫn rực rỡ chói ngời, ánh sáng lóa mắt, dù có xấu xí khó coi đến mấy thì cũng chẳng ai là không thích cả.

Tiếng nổ vừa vang lên, liền có bốn người bò lên từ một chỗ vách đá đổ sập, chính là Tây Mễ, Max, Ivan và Hồ Tử. “Bám đuôi chúng ta à, được lắm! Nếu không nổ chết, thì cho chúng chơi với bọn chim kia.” Tây Mễ cười gằn.

“Khổ thân thằng Lôi Ba.” Hồ Tử nói.

Tây Mễ cười khẩy: “Mày biết nhược điểm của thằng ấy mà, không kìm được lòng với những thứ lấp lánh phát quang, để cho nó ở trong ấy với những thứ đó cũng tốt.” Y đột nhiên vung tay, hạ thấp giọng khẽ quát: “Nấp mau, vẫn còn người!”

Bọn Trác Mộc Cường Ba chạy rất gấp gáp, vừa nghe thấy tiếng nổ liền tức thì guồng chân chạy, tuy họ đã dự phòng trước kẻ địch sẽ chạy thoát thân bằng lối rẽ, nhưng cũng không thể ngờ chúng lại cho nổ sập cả vách đá, thế này thì thực sự là quá tàn độc!

Trác Mộc Cường Ba xông lên trước tiên, đang chạy, gã chợt thấy cảnh giác, liền lăn ngay xuống đất, đồng thời nghe thấy Ba Tang kêu lên: “Có mai phục!” Hai viên đạn sướt qua vai, chỉ thấy nhói lên cảm giác bỏng rát, sau đó mới nghe tiếng súng. Chỉ chậm một bước thôi, viên đạn ấy rất có thể đã xuyên qua lồng ngực gã rồi. Gã vừa ngã người ra, tiếng súng đã vang lên tới tấp. Ba Tang, Lữ Cánh Nam, và Đường Mẫn đều nấp phía sau các bức tượng đá, kẻ địch dường như cũng đang ẩn mình đằng sau mấy bức tượng phía đối diện.

Bốn người đi trước không rõ sinh tử thế nào, lòng Trác Mộc Cường Ba như có lửa đốt, nhưng mấy tên chặn phía trước kia cũng cực khó đối phó. Kỹ thuật bắn súng của chúng đều rất chuẩn xác, chỉ hơi nhúc nhích một chút thôi, là lập tức lia tới một loạt đạn ngay. Tính sao bây giờ? Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại tìm sự trợ giúp, chỉ thấy Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam đều nấp sau bức tượng bên trái, còn Ba Tang thì không thấy đâu. Lữ Cánh Nam khe khẽ lắc đầu, ra hiệu bảo gã chớ nên vọng động. Cần phải nghĩ ngay một phương án tác chiến, nhanh chóng giải quyết tên địch cản đường, các tính toán chạy qua với tốc độ chóng mặt trong đầu Trác Mộc Cường Ba.

“Cạch cạch cạch”. Một quả cầu hấp dẫn ném ra, bắt đầu kêu lên “ong ong ong...” “Tạch tạch...” mấy tiếng súng vang lên, bắn nó vỡ tung. Tây Mễ rút ổ đạn ra, lắp một băng mới, nói với Hồ Tử ở đằng trước: “Còn chơi trò này nữa, tưởng bọn ta là khỉ chắc.”

Trác Mộc Cường Ba liếc thấy ánh mắt nghi hoặc của Lữ Cánh Nam, tựa như đang hỏi gã định làm gì. Gã cũng chẳng nghĩ ngợi được nhiều nữa. Đạn bắn từ ba hướng khác nhau tới, bên trái phía trước khoảng năm chục mét có một người, chính diện tầm bốn chục mét có một người khác, xa hơn chỗ vách đá bên ngoài bị sụt có hai người nữa lộ cái bóng hắt ra. Kẻ địch nấp rất khéo, vừa có thể nhìn thấy lối đi duy nhất qua khe hẹp giữa những mảnh vỡ của các pho tượng, cả người lại khuất hoàn toàn sau lưng tượng đá. Trong khi gã chỉ cần đặt một chân ra khỏi chỗ nấp là lập tức ăn đạn ngay. Súng bắn không tới được chỗ đó, trừ phi ném lựu đạn đúng vào chỗ chúng ẩn nấp, bằng không cũng không làm gì được đối phương. Nhưng ở góc của gã, khe hở lớn nhất để quăng lựu đạn vào cũng chưa đến mười xăng ti mét. Cách xa đến năm chục mét mà muốn ném lựu đạn vào cái lỗ chỉ nhỏ bằng nắm tay, sợ rằng trên đời này chẳng ai có thể làm được. Lẽ nào không có sơ hở nào hay sao?

“Bình tĩnh, bình tĩnh nào.” Trác Mộc Cường Ba tự nhủ, rồi tập trung phân tích lại tình thế. Nếu xông thẳng qua thì sao nhỉ? Phía trước bên trái có ba người, trước sau hô ứng, dù xông ra được phía trước cũng không thể nào an toàn rút lui được; chính diện chỉ có một người, hơn nữa còn ở gần nhất, nhưng hắn cũng ẩn nấp khéo léo nhất, giữa ba cái đôn đá liền sát nhau cao khoảng hai mét, trên đầu có một trụ đá bắc ngang, hình thành nên một cái khám thờ hình chữ “Môn” (

); nấp trong đó, cũng bằng như nấp trong lô cốt vậy. Cái “khám thờ” ấy mở ra phía sau, nếu phối hợp với mấy tên đồng bọn nấp phía bên trái, sơ hở duy nhất của hắn có lẽ là khung cửa. Vì trụ đá bên trên và đôn đá phía dưới không hoàn toàn khớp nhau, nên phía trên của lô cốt ấy có lỗ hở, Trác Mộc Cường Ba có thể nhìn thấy bóng sáng lấp lóa biến đổi bên trong. Gã thầm tính toán, thấy có thể ném lựu đạn vào đó. Nếu từ phía trên ném lựu đạn vào trong, khi phát nổ thì sóng xung kích cũng không ảnh hưởng đến gã, ngược lại mấy tên đồng bọn kia sẽ bị gây nhiễu. Vấn đề lúc này là làm sao xông được tới phía trước đó? Làm sao có thể leo lên đỉnh lô cốt? Trong cả quá trình ấy, làm sao để mình không bị trúng đạn?

Lúc này, Trác Mộc Cường Ba chợt nhớ đến pháp sư Á La. Phải rồi, phương thức di động của pháp sư!

Không được, mình không làm được. Vậy thì phải dùng cách nào đối phương không thể ngờ tới... Đúng rồi, dùng cách đó! Đôn đá cao khoảng một mét tám, tương đương với chiều cao của mình, có thể nhảy được cao chừng ấy không nhỉ? Xem ra đành phải đánh liều một phen! Tính toán xong xuôi, Trác Mộc Cường Ba liền đặt khẩu tiểu liên tự động xuống đất, chỉnh lại vị trí đôi tiểu liên mini Steyr hai bên nách sao cho dễ rút ra nhất, kế đó lấy ra hai quả đạn hấp dẫn, tay phải cầm một quả lựu đạn. Trước ánh mắt kinh ngạc của Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn, gã nở một nụ cười đầy tự tin, vung tay ném ra quả đạn hấp dẫn đầu tiên, vẽ một đường cong tuyệt đẹp trên không trung.

Cùng lúc đó, Trác Mộc Cường Ba từ chỗ nấp chạy ra, nhưng gã không chạy giữa đường, mà men theo vách hang bên trong, thân người nghiêng đi, bám theo vách tường chạy lên cao, sử dụng kỹ thuật chạy trên tường đã tập luyện không biết bao nhiêu lần. Mượn đà lao của cơ thể, có thể men theo tường lên cao ba bốn mét, rồi chạy thêm được bảy tám bước dọc theo chiều ngang bức tường nữa.

Tây Mễ quả nhiên không ngờ Trác Mộc Cường Ba sẽ xông qua bằng cách này, đến khi y phát hiện ra, Trác Mộc Cường Ba đã vòng qua được chướng ngại vật, chạy thêm chừng hai chục mét nữa rồi. Cùng lúc ấy, quả đạn hấp dẫn thứ hai cũng được gã ném ra. Tây Mễ chưa kịp đoán ra ý đồ của Trác Mộc Cường Ba, lại vẫn phải liếc mắt xem đối phương ném ra đạn hấp dẫn hay thứ gì khác. Lợi dụng khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, Trác Mộc Cường Ba đã xông thêm được mười mét nữa, chỉ còn cách chỗ Ivan ẩn nấp vài mét. Bấy giờ Tây Mễ mới sực hiểu ra Trác Mộc Cường Ba định làm gì, còn sự chú ý của Ivan đều đã đặt cả lên chỗ quả đạn hấp dẫn, gã lại còn đang giương súng lên định bắn vào quả cầu phát sáng ấy nữa.

“Ivan, hắn ở trên đầu mày!” Tây Mễ vội quay họng súng, đồng thời quát lên nhắc nhở Ivan. Song, Trác Mộc Cường Ba đã dồn hết sức lực bật mạnh, cả người bốc lên tại chỗ, nhảy một cái lên đỉnh cái đôn đá cao gần hai mét, cánh tay vươn ra, tương luôn quả lựu đạn vào trong “lô cốt”. Đây là khoảnh khắc duy nhất gã dừng lại, tiếc rằng họng súng của Tây Mễ vẫn chưa kịp dịch chuyển tới.

Trong khoảnh khắc đó, Ivan vừa bắn vỡ quả đạn hấp dẫn, bên tai nghe thấy tiếng quát của Tây Mễ, não bộ vẫn đang phân tích hàm nghĩa của câu nói ấy; họng súng của Tây Mễ dịch chuyển, đang cố gắng đuổi theo bóng Trác Mộc Cường Ba, Trác Mộc Cường Ba đã bỏ lựu đạn vào chỗ Ivan ẩn nấp, liền ngả người về phía sau, hai chân dồn sức đạp mạnh, thân thể bắn ngược lại như mũi tên rời dây cung.

“Ầm!” ánh lửa lóe lên, khói bụi bắn tung tóe, đạn sướt qua bên tóc mai Trác Mộc Cường Ba. Gã lộn một vòng rồi hạ xuống, lúc lơ lửng trên không hai tay đã rút ra đôi tiểu liên mini Steyr, bắn tới tấp vào kẻ địch trong đám bụi mùi, đồng thời lợi dụng làn khói ấy che chắn, lao bổ về phía bên trái. Lữ Cánh Nam và Ba Tang cũng lần lượt phối hợp yểm hộ cho gã. Không còn cản trở nào, Trác Mộc Cường Ba lại phi lên vách đá bằng một động tác cực kỳ đẹp mắt, hai tay cầm súng chạy như bay trên tường, khi thân thể song song với mặt đất, gã đột nhiên xoay một vòng ba trăm sáu mươi độ, động tác tuyệt mỹ như vận động viên trượt băng đảo mình trên không. Thân thể đang xoay, hai họng súng đã liên tiếp nhả đạn, bắn trúng Hồ Tử vẫn đang ngẩn ra trước vụ nổ. Vừa hạ xuống góc tường, hai tay đã một trước một sau, cùng lúc khai hỏa, vừa khiến kẻ địch phía trước không thể phản kích, đồng thời cũng đảm bảo tên ở sau lưng hoàn toàn không còn cơ hội sống sót. Liền ngay sau đó, hai khẩu súng chĩa ra phía trước, người bổ nhào sang bên phải, thân thể xoay chuyển trên không trung, họng súng nhả đạn không ngừng, hoàn toàn phong tỏa không cho kẻ địch nhô đầu ra.

Lúc Tây Mễ phát hiện Trác Mộc Cường Ba xông ra từ làn khói bụi, vừa khéo trông thấy gã làm động tác xoay mình ba trăm sáu mươi độ trên tường, đồng thời nổ súng xạ kích, trong chớp mắt, Hồ Tử đã trúng đạn ngã xuống; y đang định giương súng ngắm bắn, một loạt đạn đã quét về phía mình. Đối phương đang biểu diễn nghệ thuật chắc? Bắn súng cũng có thể nhịp nhàng như nước chảy mây trôi, phiêu hốt bất định như đang khiêu vũ thế hay sao? Tây Mễ chợt có cảm giác, mấy chục năm cầm súng của mình đều thật uổng phí. Hóa ra, bắn súng cũng có thể trở thành một thứ nghệ thuật, cũng có thể khiến người ta nảy sinh ra thứ ảo giác gần như hoàn mỹ ấy. Quỹ đạo xoay chuyển họng súng ấy, kiểu vừa xạ kích vừa đảo người xoay chuyển ấy, liệu y có tránh được không? Thấy đối phương đã áp sát tới, y không do dự thêm giây nào nữa, nhảy thẳng xuống lỗ hổng trên vách tường.

Không chỉ kẻ địch chấn động vì kinh ngạc, cả bọn Ba Tang cũng đều chấn kinh như thế. Tính toán chuẩn xác, thời gian không sai một giây, đến cả màn khói bụi mù mịt sau vụ nổ cũng đều được tính kỹ càng, sau cùng, điều khiến họ thấy không thể tin nổi chính là những động tác ấy, một loạt động tác liền mạch liên tiếp, thậm chí có thể nói là hoàn mỹ không một khuyết điểm nào.

Mái tóc đen phất phơ, mắt tóe lên ánh lửa, đạn bay vù vù, mang đi hơi ấm trong không khí, những động tác liền lạc như áo trời ấy khiến Lữ Cánh Nam cũng không khỏi biến sắc. Nếu không phải lúc này, nếu không phải ở nơi này, cô gần như đã tưởng rằng mình đang xem một màn biểu diễn thể dục nhịp điệu. Mỗi bước đều được biên đạo từ trước, tựa như đã tập luyện cả trăm cả vạn lần, mỗi động tác đều biểu hiện được sức mạnh và vẻ đẹp của cơ thể, điểm khác biệt duy nhất là, vận động viên biểu diễn ấy hai tay hai súng, khi xoay chuyển trên không còn nhả đạn bắn vào kẻ địch. Cô lẩm bẩm: “Mình có dạy cho anh ta thứ này đâu chứ!”

Ba Tang vừa nhìn động tác của Trác Mộc Cường Ba liền tức thì hiểu ra, Cường Ba thiếu gia đã kết hợp động tác của đám thanh niên chạy Parkour người Nga và đôi súng trên tay một cách hoàn mỹ, chỉ có điều, thật khó mà tin nổi là gã lại có thể thực hiện một cách thuần thục nhuần nhuyễn đến thế, có... đây có phải là năng lực bộc phát không? Xem ra, có những lúc, Cường Ba thiếu gia sẽ đột nhiên trở nên cực kỳ cao thâm khó dò...

Thực lực của Max

Trác Mộc Cường Ba nhìn chỗ Tây Mễ nhảy xuống, thầm kinh hãi: “Cao như vậy mà cũng dám nhảy sao!” Gã dừng lại, cẩn thận quan sát chỗ Tây Mễ nấp, vẫn còn một tên nữa!

Lữ Cánh Nam, Đường Mẫn và Ba Tang đều xông lên, vây tên cuối cùng lại. Đường Mẫn không nói tiếng nào, chỉ bần thần nhìn Trác Mộc Cường Ba chăm chăm. Trong khoảnh khắc lúc gã xông ra đó, cô gần như đã không nén được muốn hét lên, nhưng những chuyện diễn ra tiếp sau đó khiến cô có cảm giác như mình đang nằm mơ, bóng dáng thân quen ấy làm cô kích động đến độ chỉ muốn bật khóc lên. Ba Tang thì lại để ý đến cái bóng vừa nhảy xuống, tại sao... cảm giác quen thuộc đó là thế nào vậy?

“Cạch cạch!” m thanh làm kinh động mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba. Gã vội xoay người ôm lấy Đường Mẫn lăn sang một bên, kế đó mới phát hiện có người ở phía sau tượng đá ném khẩu súng ra, rồi đến hai cánh tay run lẩy bẩy giơ lên cao, một giọng tiếng Trung ngọng nghịu lơ lớ cất lên: “Đừng... đừng bắn... đầu... đầu hàng, đầu hàng rồi!” Ngữ điệu ấy, cũng run lên bần bật như muốn khóc.

Trác Mộc Cường Ba hạ nòng súng xuống, quát lên: “Cút ra đây!”

Chỉ thấy Max loạng choạng bước ra từ chỗ nấp, hai chân mềm ra như bún, có vẻ như một chân đã trúng đạn, máu tuôn ra như suối, mới được vài bước đã ngã ập xuống đất. Y lại rướn bò lên mấy bước nữa, đến trước mặt Trác Mộc Cường Ba, hai tay ôm chặt sau gáy, mông chổng lên cao, toàn thân đều run bần bật như cầy sấy. “Đừng giết tôi.” Giọng nói ấy đủ khiến người ta nghe mà nổi hết cả da gà. Max khóc lóc cầu xin: “Đừng giết tôi mà... tôi trên còn có mẹ già khóc đòi ăn, dưới có còn con trẻ tám mươi tuổi...”

Dường như Max cũng ý thức được nói vậy rất không thuận miệng. Giọng y vốn đã nghe mai mái eo éo, giờ lại thêm cả tiếng khóc lóc ỉ ôi, càng toát lên một vẻ quái dị khó tả, khiến Đường Mẫn không sao nén được, bật cười thành tiếng “hích hích”.

Trác Mộc Cường Ba thấy đối phương là một tên tóc vàng mắt xanh, bèn hỏi Lữ Cánh Nam: “Người này, không phải trong đảng Hồ Lang à?”

Lữ Cánh Nam nhận ra y, gật đầu đáp: “Hắn tên là Max, có thể coi là quản gia của Merkin cũng không sai.”

Max miễn cưỡng hiểu được Lữ Cánh Nam nhận ra mình, lại nhìn thấy hy vọng cầu sinh, vội vàng xun xoe cười với cô: “Vâng, vâng, tôi... tôi bị ép mà...” Y vốn đang nước mắt đầm đìa, giờ lại gượng nhếch hai khóe miệng lên, bộ dạng thành ra phía trên nước mắt lưng tròng, phía dưới lại miệng cười toe toét, một gương mặt chia ra làm hai nửa. Vừa nói, Max lại vừa đập đầu lạy Trác Mộc Cường Ba như tế sao. Trông dáng vẻ ấy, nếu Trác Mộc Cường Ba lên tiếng, có khi y còn sẵn sàng liếm gót giày cho gã cũng nên.

Trác Mộc Cường Ba lộ vẻ chán ghét, nói với những người phía sau: “Mọi người để ý hắn, xem có hỏi được gì không, tôi đi xem bọn Nhạc Dương thế nào rồi!” Dứt lời, liền không cho Max cơ hội lấy lòng, sải chân bước đi luôn. Max khóc ròng, ngước đôi mắt đầm đìa nhìn ba người còn lại, lập tức khóa chặt mục tiêu, vừa xun xoe lấy lòng, vừa tỏ ra hết sức đáng thương với Lữ Cánh Nam.

Dọc đường, Trác Mộc Cường Ba gặp đội trưởng Hồ Dương. Hồ Dương bèn thuật lại mọi chuyện xảy ra với họ. Trác Mộc Cường Ba thấy vết thương trên đùi đội trưởng Hồ Dương, bèn nói: “Anh quay lại để Mẫn Mẫn xử lý vết thương trước đi, có cần tôi đỡ không?” Đội trưởng Hồ Dương lắc đầu bảo không, đòi đưa Trác Mộc Cường Ba đi tìm bọn Trương Lập. Trác Mộc Cường Ba nói mãi mới khuyên được đội trưởng Hồ Dương quay lại chữa trị, rồi tiếp tục chạy về phía trước.

Nhạc Dương và Trương Lập hưng phấn bò lên bò xuống trên núi vàng trong hang động, lúc ngừng lại để nghỉ lấy hơi, Nhạc Dương bỗng kinh ngạc phát hiện ra có một người bị vùi trong đống vàng, chỉ có đôi chân là lộ ra ngoài, thỉnh thoảng lại giật giật một cái, máu chảy lênh láng đầy ra đất, xem ra chắc không sống nổi rồi. Hai người đoán rằng, đây là một tên định mai phục trong hang này, nhưng chấn động của vụ nổ ngược lại đã chôn luôn hắn ở đây.

Hai người bèn hợp sức lại nhấc các khối vàng ra, Nhạc Dương nhận diện được, người này chính là gã tên Lôi Ba luôn ở bên cạnh Tây Mễ, trước đây anh từng đọc qua tài liệu về nhóm người này. Nhạc Dương đang nghĩ ngợi, bỗng Lôi Ba vươn tay bám chặt vào ống quần, chỉ kêu lên được một tiếng: “Vàng!” rồi ngoẹo đầu, tắt thở.

Nhạc Dương vẫn chưa hết sợ, đưa tay vuốt vuốt lên ngực, đột nhiên lại nghe thấy có người ở phía ngoài cửa hang hỏi: “Ai ở trong đó vậy?” Hai người lại được một phen bở vía, nhưng rồi lập tức nhận ra, đó là giọng của pháp sư Á La.

“Pháp sư, pháp sư Á La!” Nhạc Dương và Trương Lập kêu lên. Pháp sư Á La nhún nhảy mấy cái, đã đến trước mặt hai người.

“Pháp sư, ông qua đây bằng cách nào vậy?” Nhạc Dương không sao hiểu nổi. Lúc nãy, họ cách cửa hang này chỉ chưa đầy hai mét, còn pháp sư Á La ở phía bên kia của đoạn đứt gãy, cách cửa hang ít nhất cũng phải hơn chục mét, dù ông có chạy trên tường cũng không thể nào đi xa thế được. Thông thường, cự ly giới hạn của chiêu chạy bộ trên tường này chỉ khoảng bảy mét.

Quần áo pháp sư trông nhàu nhĩ rách bươm, ông gật đầu bảo với Nhạc Dương: “Cậu suy đoán không sai, bên đó quả nhiên là tổ chim, bọn chim khổng lồ ấy nuôi chim non ở đây. Tôi đã giết chết ba con, khó khăn lắm mới thoát ra được.”

“Á!” Nhạc Dương và Trương Lập đều ngây ra, phản ứng hệt như lúc Trác Mộc Cường Ba lần đầu tiên nghe Lữ Cánh Nam nói đã giết con trăn khổng lồ ở rừng Nam Mỹ vậy. Lũ chim ấy đâu phải loại chỉ dùng từ “to lớn” là hình dung được, vậy mà pháp sư lại bảo đã giết chết ba con rồi! Giờ nghĩ lại, chuyện pháp sư Á La đến được hang động này cũng chẳng to tát gì cho lắm. Bọn chim khổng lồ kia mà ông còn bảo giết là giết luôn, thử hỏi còn chuyện gì không làm được nữa đây?

Trương Lập cười khổ gật đầu, đằng nào cũng chỉ cần biết pháp sư Á La rất mạnh, mình tuyệt đối không phải là đối thủ của ông là được rồi. Anh chỉ vào núi vàng, cười cười với pháp sư Á La: “Pháp sư, bọn cháu phát hiện một kho vàng này. Nhiều lắm, toàn bộ ở đây đều là vàng cả đó!”

Pháp sư Á La nhìn hai người với ánh mắt kỳ lạ, rồi nói ra một câu khiến cả Trương Lập và Nhạc Dương suýt chút nữa thì ngất xỉu. Chỉ nghe ông chậm rãi nói: “Đây là đồng.”

“Cái... cái gì? Sao lại là đồng được? Đồng... đồng... đồng làm gì có màu sắc đẹp thế này? Ông có thấy chúng phát sáng không? Pháp sư, ông nhìn kỹ hơn được không ạ!” Trương Lập vẫn còn mang theo một tia hy vọng.

“Pháp sư, chỗ này, ít nhất cũng phải mấy trăm năm rồi chứ? Nếu là đồng thì làm sao giữ được hoàn hảo vậy được? Đây vẫn còn sáng bóng như mới mà!” Nhạc Dương cũng cuống quýt nói.

Pháp sư Á La nở một nụ cười điềm đạm, nói: “Thứ này, có thể nói là một loại bí pháp cổ xưa, các cậu gọi là hợp kim đồng cũng được. Giải thích thế nào nhỉ, giống như là kỹ thuật mạ kiếm đồng thời Chiến Quốc vậy, đây là một phương pháp dùng để bảo đảm đồng không bị ô xy hóa. Trong các sách vở của Mật giáo cũng có ghi chép, chỉ là phương pháp luyện chế đã bị thất truyền rồi mà thôi.”

Trương Lập và Nhạc Dương bị shock khá nặng, những tưởng phát hiện được kho báu rồi, kết quả lại chưng hửng một phen. Pháp sư Á La cầm một cây gậy trông giống như bằng vàng lên, hỏi Nhạc Dương: “Nếu bằng vàng thật, cậu cho rằng tôi có thể nhấc lên thế này không?”

Nhạc Dương sau khi lấy lại bình tĩnh đã nghĩ kỹ lại, đúng vậy, nếu là vàng thật, cây gậy đó ít nhất cũng tầm mấy trăm cân, sức một người không thể nào nhấc lên nổi. Anh chàng xìu hẳn xuống.

“Ủa?” Pháp sư Á La cầm cây gậy đồng, đưa mắt nhìn Lôi Ba đã nằm đờ dưới đất, hỏi Nhạc Dương: “Người này lợi hại lắm à?”

“Không biết nữa, lúc chúng cháu vào hắn đã bị đè chết ở đây rồi.” Trương Lập đáp.

Pháp sư Á La gật đầu như thể vừa giải đáp được khúc mắc trong lòng: “Vậy thì không phải hắn. Nếu hắn lợi hại thế thật, hai người các cậu chắc không thể đứng ở đây rồi.”

“Hả? Pháp sư, ý của ông là...?” Nhạc Dương nhạy bén hỏi ngay.

Pháp sư Á La đảo mắt một vòng quanh hang động hình bán cầu, nói với hai người: “Chỗ này, trước khi các cậu đến, đã xảy ra một trận ác đấu.” Ông đưa mắt nhìn khắp bốn phía, rồi lại tiếp lời: “Các bức tượng đồng này có lẽ đã bị phá hoại từ rất lâu rồi, có điều, trận đấu đó đã phá hoại chúng triệt để hơn nữa. Các cậu nên cảm thấy mình may mắn, vì trước mặt họ, sợ rằng hai cậu thậm chí còn chẳng có cơ hội đánh trả đâu!” Pháp sư Á La chăm chú nhìn cây gậy bằng đồng trong tay, thầm nhủ: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Phải chăng là để tranh đoạt vàng? Không, không thể nào, với thân thủ của những người ấy, chắc sẽ không động lòng vì vàng bạc nữa. Vả lại, họ cũng không thể nào không phân biệt được những thứ này rốt cuộc là đồng hay là vàng.”

Nhạc Dương và Trương Lập ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu pháp sư Á La đang nói gì. Cái gì mà ác đấu, sao đến cả cơ hội đánh trả cũng không có nữa? Pháp sư thấy hai người lộ vẻ nghi hoặc, liền đưa cây gậy đồng ngắn trong tay cho Nhạc Dương: “Cậu xem đi, có thấy gì không?”

Pháp sư Á La chỉ cho Nhạc Dương xem năm chỗ hõm nhỏ trên thân cây gậy, to nhỏ khác nhau, khoảng cách vừa khéo như một bàn tay. “A...” Nhạc Dương sửng sốt áp bàn tay mình vào đó, bàn tay người kia lớn hơn bàn tay anh rất nhiều. Có thể tưởng tượng được, bàn tay ấy mà nắm thành nắm đấm sẽ lớn chừng nào. Vả lại, cây gậy này bằng đồng chứ đâu phải đồ chơi, cần sức lực lớn thế nào mới để lại dấu vết rõ như vậy trên đó được? “Đây... không thể nào chứ, đây là đồng cơ mà! Lẽ nào pháp sư cũng làm được?” Nhạc Dương kinh hãi kêu lên.

Pháp sư Á La lắc đầu nói: “Tuy tôi không thể, nhưng tôi biết có người làm được, sức người đích thực là có thể làm được việc đó.” Pháp sư Á La tự đánh giá, Đại lực ưng trảo công của mình chỉ có thể bóp vỡ những vật cứng như gạch đá, nhưng muốn để lại vết tích rõ rệt như vậy trên hợp kim đồng thì vẫn còn kém một bậc.

Pháp sư Á La đặt cây gậy đồng xuống, quay qua lần tìm trong hang động, thử tìm kiếm các dấu vết trên những pho tượng đồng vẫn chưa bị phá hủy hoàn toàn, chốc chốc lại dừng lại nghĩ ngợi, tựa hồ đang mường tượng ra trận đấu từng diễn ra ở nơi đây. Pháp sư Á La quan sát càng lâu, hai hàng lông mày càng nhíu chặt lại, dường như gặp phải một vấn đề cực kỳ khó khăn. Nhạc Dương và Trương Lập thấy thế liền nhổm dậy, đi theo sau pháp sư quan sát những dấu vết lúc nãy mình không để ý đến. Họ thấy những vệt lõm hình nắm đấm trên tượng đồng, và cả những vết chém rất mảnh, thoạt nhìn trông như vết nứt tự nhiên, nhưng quan sát kỹ sẽ nhận ra, đó là do một loại vũ khí cực kỳ sắc bén để lại. Nhạc Dương giật một sợi tóc luồn vào khe nứt, thấy rất sâu, mà bề mặt lại hết sức nhẵn nhụi, không hiểu là do loại vũ khí nào gây ra nữa?

Pháp sư Á La nói không sai, càng lúc Nhạc Dương và Trương Lập càng phát hiện thêm nhiều dấu vết đánh đấm, tuy không biết cuộc chiến xảy ra từ bao giờ, nhưng nhìn những dấu tích dể lại có thể thấy, đó là một trận ác đấu vô cùng kịch liệt, khó mà hình dung cho nổi.

Pháp sư Á La ban đầu chỉ là lấy làm kỳ lạ, càng về sau càng thấy kinh hãi, ông thầm nhủ: “Thực lực của những người này, e rằng đã chẳng kém gì các vị trưởng lão trong Trưởng lão viện rồi. Những kẻ đáng sợ ấy là người Qua Ba ư? Hay là người nào khác?”

“Trận đấu này, chắc là xảy ra vài năm trước, hơn nữa, những người này, từ bên ngoài tới đây.” Phía bên kia, Nhạc Dương đã rút ra kết luận, chứng cứ ủng hộ kết luận này của anh là một đồng xu. Đồng xu ấy bị kẹt trong một bức tượng đồng, vì va chạm với bức tượng, nên đã biến từ hình tròn thành hình bầu dục. Họ đều không đọc được chữ khắc trên đó, nhưng số 1985 thì được khắc rất rõ ràng. Nếu phát hiện ra đồng xu này trước khi pháp sư Á La tới đây, chắc chắn Nhạc Dương sẽ cho rằng đó là do một loại vũ khí chuyên bắn đồng xu thay cho đạn gây ra. Nhưng xem tình hình hiện tại, rất có khả năng đồng xu này là do người nào đó dùng lực cổ tay trực tiếp ném ra. Trương Lập hiểu rất rõ vậy nghĩa là như thế nào. Tuy lính đặc chủng bọn họ cũng có thể ném phi tiêu xuyên qua tấm kính, nhưng dù sao đó cũng là vật sắc nhọn, còn muốn ném đồng xu tròn va chạm mạnh đến độ méo cả đi, vậy thì lực tay phải lớn đến chừng nào mới đủ! Nếu không phải trước đó pháp sư Á La đã có lời, anh hẳn đã cho rằng đây tuyệt đối không phải hành vi của con người.

Pháp sư Á La xoay xoay đồng xu giữa các ngón tay, đột nhiên thốt lên: “Đi!” Cổ tay ông lắc nhẹ, chỉ nghe “đinh” một tiếng, đồng xu đã va chạm với tượng đồng, phát ra một âm thanh giòn tan. Nhạc Dương vội lại chỗ phát ra âm thanh quan sát, chỉ thấy đồng xu đã làm hõm một vệt mỏng trên bức tượng đồng, nhưng bản thân nó thì không bị biến hình, mà rơi xuống đất. Pháp sư Á La kiểm nghiệm lại suy đoán của mình, thầm nhủ, “Quả nhiên, với công lực hiện tại, ta chỉ làm được đến vậy mà thôi. Người bên ngoài, không ngờ lại là người bên ngoài! Ở thế giới ngoài kia đã xuất hiện kẻ mạnh như vậy từ bao giờ? Thật đáng sợ, sau này trở về nhất định phải báo với các trưởng lão trong Trưởng lão viện mới được.”

“Nhạc Dương! Trương Lập! Pháp sư Á La!” Lúc này, bên ngoài cửa động chợt vang lên tiếng hô hoán của Trác Mộc Cường Ba. Nhạc Dương và Trương Lập vội chạy ra ngoài, miệng đáp vang: “Cường Ba thiếu gia, chúng tôi ở đây, chúng tôi không sao. Pháp sư Á La cũng ở đây này! Chúng tôi ở bên này này!”

Có tiếng Lữ Cánh Nam cất lên: “Không có dây thừng, họ không qua được đâu.” Thì ra, sau khi đội trưởng Hồ Dương trở lại, Lữ Cánh Nam thấy đã có ba người canh phòng Max, mà tên này dường như cũng bị thương khá nặng rồi, vì vậy cũng đi theo Trác Mộc Cường Ba qua đây. Trác Mộc Cường Ba vỗ vỗ đầu, đúng là cuống quá thì rối, dây thừng lại để trong ba lô bên dưới bậc thang, gã liền bảo bọn Nhạc Dương chịu khó đợi mình và Lữ Cánh Nam quay trở lại lấy dây thừng.

Đường Mẫn nói với đội trưởng Hồ Dương: “Hình như gãy xương ống chân rồi, đợi lát nữa phải nẹp vào cho anh mới được.”

Ba Tang nhìn chằm chằm vào Max, họng súng cũng luôn chĩa về phía y. Tên Max này thoạt trông có vẻ như đang cúi đầu bất động, nhưng thực ra cặp mắt vẫn đảo không ngừng, lúc này thấy Đường Mẫn đã kiểm tra sơ qua vết thương của đội trưởng Hồ Dương, liền vội dè dặt nhích lên, gương mặt già đanh rặn ra một nụ cười hết sức khó coi, nói bằng thứ tiếng Trung ngọng líu ngọng lô: “Chị ơi, có thể giúp tôi với không, tôi... tôi... tôi sắp không xong rồi, máu... máu cứ chảy mãi... chị ơi, chị xinh đẹp ơi...” Nước mắt nước mũi Max chảy đầm đìa. Nếu không phải tự biết mình không được dễ thương cho lắm, có khi y đã lao đến ôm chân Mẫn Mẫn, lớn tiếng kêu gào gọi cô bằng mẹ rồi cũng nên.

Đường Mẫn thoáng đỏ mặt, bị một gã đàn ông đã ba bốn chục tuổi gọi bằng chị, ít nhiều cũng có cảm giác kỳ kỳ. Cô liếc nhìn Max, quả nhiên, máu vẫn rỉ ra không ngừng, cả một bên ống quần đã hoàn toàn bị nhuộm đỏ ối, trông bộ dạng hắn lại cũng hết sức đáng thương. Đường Mẫn thầm thấy bất nhẫn, liền quay sang nhìn Ba Tang hội ý. Ba Tang đanh mặt lại lắc lắc đầu, ý muốn nói, cứ mặc xác hắn. Max ngước đôi mắt đẫm lệ lên nhìn chằm chằm vào mặt Đường Mẫn, thi thoảng lại cúi xuống nhìn cái đùi bị thương của mình, tuy không nói gì nữa, nhưng bộ dạng ấy rõ ràng đang tỏ ý: không ngờ các người cũng thế, đành chấp nhận số phận vậy thôi.

Cuối cùng, Đường Mẫn nói: “Qua đây xem nào.” Max ngoảnh đầu sang một bên, trông chẳng khác nào một đứa con trai vừa bị oan ức, vừa khéo cũng để Đường Mẫn trông thấy hàng nước mắt đeo trên má mình. Đường Mẫn nói: “Chỉ cần anh không làm loạn thì không có chuyện gì đâu. Nào, qua đây tôi xem cho.”

Ba Tang hơi chau mày, tuy nòng súng của anh ta vẫn hướng về phía Max, nhưng khoảng cách giữa Đường Mẫn và tên đó quá gần. Anh ta thầm tính toán, như vậy đạn xuyên qua nội tạng đối phương, hẳn sẽ làm Đường Mẫn bị thương. Còn nếu bắn vào đầu? Ở khoảng cách gần như vậy, liệu đạn có xuyên qua được xương sọ không nhỉ?

Đường Mẫn đang chuẩn bị vén ống quần Max lên để kiểm tra vết thương, đột nhiên nghi hoặc hỏi: “Máu của anh sao lạnh vậy?” Nếu là máu tràn ra từ vết thương hở, sao lại lạnh buốt thế này được? Đúng lúc đó, cô liền trông thấy trong đôi mắt đáng thương đó bỗng lộ ra một tia hung hãn. Đường Mẫn còn chưa kịp kêu lên, Max đã chụp lấy cổ tay cô. Đường Mẫn vội giở ngay thủ pháp Cầm nã thủ lật cổ tay chụp ngược lại đối phương, không ngờ cổ tay Max cũng lại lật thêm lần nữa, bóp chặt tay Đường Mẫn. Đồng thời, thân hình cao lớn đó cũng vòng qua phía sau cô một cách linh hoạt dị thường. Cái chân bị thương kia, giờ như chẳng hề bị thương chút nào cả vậy.

Toàn bộ quá trình chỉ diễn ra trong một cái chớp mắt, Ba Tang và đội trưởng Hồ Dương đều ở ngay bên cạnh, song cũng không kịp ra tay ngăn lại, chỉ thấy Đường Mẫn đặt tay lên vết thương của Max nói một câu, kế đó y đã áp người vào phía sau cô, một tay tóm chặt hai cổ tay Đường Mẫn, tay kia lăm lăm một miếng đá nhọn hình mũi giáo, đầu nhọn chỉ còn cách mắt Đường Mẫn chưa đầy một cen ti mét.

“Đừng... đừng kích động.” Max cảnh cáo đội trưởng Hồ Dương và Ba Tang. “Tao cũng không muốn cô gái xinh đẹp này bị thương chút nào cả, lùi lại, lùi lại hết! Mày, ném súng qua đây!”

Bàn tay cầm súng của Ba Tang không hề nhúc nhích, ngược lại còn gằn giọng nói: “Mày thử nhúc nhích xem nào.” Đồng thời, ngón tay anh ta đã chầm chậm dồn lực, cò súng phát ra âm thanh khe khẽ. Đội trưởng Hồ Dương vội kêu lên: “Đừng làm bừa, Ba Tang!”

Max cũng không ngờ trong nhóm đối phương lại có người như thế, vội nấp đầu ra phía sau Đường Mẫn. Đúng lúc này, Đường Mẫn đột nhiên vung chân hất về phía sau, đá vào chỗ yếu hại của kẻ địch. Nhưng Max đã có đề phòng từ trước, hai đùi kẹp lại, giữ cứng chân cô. Thấy cô gái này cũng không phải hạng vừa, y lập tức buông tay kia ra, hơi ngửa người về sau một chút, chặt thẳng vào động mạch trên cổ cô. Đường Mẫn tức thì ngất xỉu tại chỗ. Max lại áp người lên, lần này một tay xốc dưới nách Đường Mẫn để giữ cô ở tư thế đứng, tay kia vẫn cầm miếng đá nhọn hoắt chĩa vào mắt cô.

Ba Tang thầm kinh hãi, thủ pháp ấy sao mà quen thuộc vậy. Họ đều đã được huấn luyện như thế. Từ động tác của kẻ địch có thể phán đoán, tên Max này chắc chắn là lính đặc chủng chuyên nghiệp. Vừa nãy họ đã hoàn toàn bị bộ dạng đáng thương của hắn lừa gạt, vẻ ngoài yếu ớt như sắp hết hơi chỉ là giả bộ, vết thương đầm đìa máu kia chẳng lẽ cũng là dùng máu dự trữ để ngụy trang? Xem ra cả viên đá nhọn kia cũng nằm trong tính toán của đối phương rồi, thật không ngờ lại phạm phải sai lầm như thế!

Max kéo Đường Mẫn giật lùi từng bước một, Ba Tang cũng không ngừng ép tới, gây áp lực về tâm lý cho kẻ địch. Anh ta không lo lắng nhiều cho an nguy của Đường Mẫn giống đội trưởng Hồ Dương, chỉ cần Max lộ ra một chút sơ hở, họng súng trên tay Ba Tang sẽ nhả đạn không chút nể nang gì. Trước khi xuất phát, mỗi chiến sĩ đều phải chuẩn bị để chết, tuyệt đối không thể chịu sự uy hiếp của kẻ địch, cần phải dùng máu và sắt, bất chấp mọi giá để hoàn thành sứ mệnh, đây chính là những gì anh ta được huấn luyện. Cho dù cha mẹ vợ con của mình bị trói ở ngay trước mặt, anh ta cũng quyết không bao giờ chấp nhận thỏa hiệp với kẻ thù.

Max cũng đang thầm toát mồ hôi lạnh. Không nhận người thân, tàn bạo vô tình, những kẻ như vậy mới thực sự là kẻ địch đáng sợ nhất. Y bắt đầu thấy hối hận vì không tìm hiểu kỹ hơn về đám người này từ chỗ ông chủ của mình, có điều cũng còn may, gã râu ria xồm xoàm bị thương kia dường như căng thẳng hơn tên cầm súng này nhiều. “Mày, ngăn hắn lại!” Max nấp sau lưng Đường Mẫn ra lệnh cho đội trưởng Hồ Dương. Lúc này, Max đã giật lùi đến chỗ lối vào ban đầu, y đưa mắt nhìn hoàn cảnh xung quanh, thấy nếu lùi xuống các bậc thang thì hơi quá mạo hiểm, nhưng nếu không đi ngay, gã lùn kia chắc chắn sẽ không buông tha cho mình. Đúng khoảnh khắc đó, ánh mắt Max quét phải một vật trông như bằng đá hình bán nguyệt, vừa đủ để mình che chắn phía trên, trong đầu liền lóe lên một khả năng đào tẩu.

Bấy giờ, Đường Mẫn đã có dấu hiệu tỉnh dần. Max tính toán lại mọi việc một lần cuối, rồi lấy đầu nhọn của miếng đá chọc khẽ làm Đường Mẫn tỉnh hẳn, đẩy mạnh cô về phía Ba Tang, rồi ném luôn cục đá nhọn ra chỗ đội trưởng Hồ Dương. Đường Mẫn lao ập tới, Ba Tang thầm kinh hãi, ít nhất trong lúc này đối phương vẫn còn sáng suốt từ bỏ con tin; Đường Mẫn tỉnh lại lúc ngã dựa vào người Ba Tang, khiến anh ta lại bị phân tán; kế đó đội trưởng Hồ Dương bị viên đá ném vào, sự chú ý của Ba Tang lại bị phân tán thêm lần nữa. Tuy chỉ có hai ba giây, nhưng vậy cũng là quá đủ cho Max. Y chỉ mất một khoảnh khắc để đẩy Đường Mẫn và ném viên đá đi, kế đó liền tung chân đá vật trông như cái khiên hình bán nguyệt kia xuống bậc thang, cả người bổ nhào lên đó. Khi Ba Tang đưa mắt qua, Max đã nằm sấp trên cái khiên đá ấy lướt xuống bậc thang như một vận động viên lướt sóng rồi.

Ba Tang không thể hất văng luôn Đường Mẫn ra, sau khi đặt được cô xuống đất, chạy ra chỗ bậc thang thì Max đã trượt đi được hơn trăm mét. Ba Tang nổ súng, nhưng tiếc là không thể ngắm bắn chuẩn xác được nữa. Max mặc áo chống đạn, ngoài ra còn giơ một tảng đá chắn phía trên đầu, nghe thấy một tràng tiếng súng, liền vẫy vẫy một cánh tay, ra hiệu tạm biệt với Ba Tang. Ba Tang đã bắn hết đạn, cũng không làm gì được tên địch đã thoát đi một quãng xa, chỉ phẫn nộ vung vẩy khẩu súng trên tay, đồng thời cũng sực hiểu ra rằng, từ đầu chí cuối, anh ta đều đánh giá quá thấp khả năng thực sự của gã tóc vàng mắt xanh ấy.

Lúc này, Trác Mộc Cường Ba và Lữ Cánh Nam vừa chạy tới, nghe thấy tiếng súng, đã biết có chuyện không ổn, kế đó lại thấy Ba Tang đứng ở chỗ bậc thang nổ súng và Đường Mẫn, đội trưởng Hồ Dương đang nằm dưới đất.

“Anh Cường Ba... em...” Đường Mẫn từ từ tỉnh hẳn, trông thấy Trác Mộc Cường Ba, khóe mắt đỏ lựng lên. Trác Mộc Cường Ba liền ôm cô vào lòng, vuốt tóc an ủi: “Được rồi, không sao là tốt rồi.”

Lữ Cánh Nam bước ra chỗ bậc thang, chỉ thấy bóng Max đã trở nên hết sức mơ hồ, bèn hỏi Ba Tang: “Đó chính là tên bị thương lúc nãy à?” Ba Tang gật đầu. Lữ Cánh Nam lấy làm ngạc nhiên hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì?” Cô cũng không hiểu nổi, ba người vậy mà lại để một tên địch đã bị thương, tay không vũ khí chạy thoát.

Trác Mộc Cường Ba cũng đã đến chỗ bậc thang, ngước mắt nhìn lên, thấy trời sắp tối tới nơi, cũng không còn bóng dáng lũ chim khổng lồ đảo lượn trên không nữa, bèn nói: “Mang ba lô lên trước, cứu bọn Trương Lập ra rồi tính sau.”

Trác Mộc Cường Ba, Ba Tang, Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn đi xuống, mới phát hiện đã mất hai cái ba lô, không biết là bị tên Max kia lấy, hay bị lũ chim quắp đi mất. Bên dưới đã không còn tiếng kêu của bọn người Lỗ Mặc, tên Max hẳn đã chạy xa rồi. Bốn người bèn mang luôn cả sáu cái ba lô lên, Đường Mẫn lập tức xử lý vết thương cho đội trưởng Hồ Dương, còn Trác Mộc Cường Ba thì mang dây thừng cho Nhạc Dương, Trương Lập ra khỏi hang động, chuẩn bị nghỉ đêm lại luôn phía trên này.

Nghe Ba Tang kể lại chuyện Max chạy thoát, Lữ Cánh Nam thở dài nói: “Chúng ta khinh địch quá.” Trác Mộc Cường Ba cũng thầm lắc đầu, nếu không phải chính miệng Ba Tang và đội trưởng Hồ Dương chứng thực, gã không thể nào tin được, một kẻ như thế, vừa lắc mình một cái đột nhiên biến thành con người hoàn toàn khác. Còn cuộc chiến thần bí mà bọn Nhạc Dương kể, thì hoàn toàn nằm ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Đồng tiền xu đó, sau khi tìm trong máy tính, phát hiện là của nước I, giờ vẫn còn lưu hành trên thị trường. Lẽ nào nước I lại có cao thủ như vậy? Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam đều rất lo lắng, không hiểu những kẻ đáng sợ ấy đã tìm được Bạc Ba La thần miếu hay chưa? Nếu những cao thủ ấy vẫn còn đang ở nơi này, vậy bọn họ làm sao ứng phó nổi? Những người ấy tuyệt đối không phải hạng đối thủ đơn giản như Merkin. Đồng thời, Trác Mộc Cường Ba cũng rất lo lắng, có phải sau khi Đường Thọ phát hiện ra Tử kỳ lân đám người đó mới đến đây? Liệu Tử kỳ lân đã bị họ dẫn đi hay chưa? Đêm hôm đó, mọi người đều ngủ không ngon.

Quách Nhật Niệm Thanh

Sáng sớm hôm sau, khi chắc chắn người Lỗ Mặc đã bỏ đi, họ liền rời khỏi khu di tích, tiếp tục tiến về Tước Mẫu. Lần này, không còn gặp bọn chúng kết thành từng đàn lớn nữa, có một vài con lẻ tẻ thì cũng nhanh chóng lẩn bay lẩn biến mất. Trác Mộc Cường Ba không khỏi nhớ lại cảm giác kỳ dị hôm qua, lẽ nào bọn chúng bị thứ gì đó sai khiến nên mới tấn công họ hay sao?

Theo lời Địch ô An Cát Mẫu, chỗ di tích của người Mục ấy nằm giữa thôn Công Nhật Lạp và Tước Mẫu, vậy nghĩa là chỉ cần nửa ngày đã có thể đến Tước Mẫu rồi. Nhưng bôn ba cả nửa ngày trời vẫn chẳng thấy bóng dáng Tước Mẫu đâu, phía trước càng lúc càng nhiều khe suối, nước chảy tràn lan, đường đi nhầy nhụa bùn lầy, khiến họ buộc lòng phải rời xa vách đá, vòng vào trong rừng. Đi vòng vèo trong rừng một lúc, bỗng phát hiện ra đã mất phương hướng, họ bèn dùng dây đỏ đánh dấu lại, thử đi thử lại một hồi lâu, cuối cùng cũng ra khỏi được khoảng rừng như mê cung ấy. Vừa ra khỏi rừng, cả bọn đã ngẩn người ngạc nhiên, phía trước có đến vài chục người xếp thành đội ngũ chỉnh tề, cung kính chờ đợi họ!

Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba ngây ra mất một lúc, nhất thời không biết là địch hay là bạn. Mấy chục người này ai nấy đều vai lớn eo rộng, phần thân trên để trần vạm vỡ như vận động viên thể hình. Đặc biệt là người trông có vẻ như là đội trưởng kia, cơ hồ cao ngang với Trác Mộc Cường Ba, nhưng vai còn rộng hơn vai gã, cánh tay cũng lớn hơn tay gã. Những người này, thoạt nhìn đã biết đều là các chiến sĩ dũng mãnh. Nhưng họ lại đang cung kính đứng thành một hàng, không cầm vũ khí, có vẻ như không có địch ý.

“Các vị là ai?” Trác Mộc Cường Ba bước lên hỏi.

“À, à, các vị khách tôn quý, cuối cùng cũng đợi được các vị rồi.” Giọng nói cất lên trả lời gã nghe eo éo chói tai, nhưng lại cố ý làm ra vẻ khàn khàn, nếu là giọng nữ thì còn lý giải được, nhưng đây lại là giọng nam. Bất thình lình nghe thấy giọng nói ấy, đến cả người giỏi chịu đựng áp lực tâm lý như Trác Mộc Cường Ba cũng không khỏi rùng mình.

Người vừa lên tiếng không phải võ sĩ, mà giữa đám võ sĩ ấy bỗng có một bóng người lách ra, cao chưa đến mét rưỡi, đại khái chỉ cao hơn Đa Cát một chút, đầu cạo trọc bóng lộn như cái bóng đèn, chứng tỏ thân phận của y cũng là một vị Địch ô. Có lẽ y vẫn luôn đứng trước đám võ sĩ kia, chỉ có điều thân hình quá thấp lùn nhỏ bé, nên chẳng ai chú ý đến sự tồn tại của y cả. Gã lùn đầu trọc này làm bộ làm tịch khom người một cái, rồi lại cất cái giọng khiến người ta nghe mà rởn cả gai ốc, tóc gáy dựng ngược ấy lên: “Cuối cùng cũng đợi được các vị rồi. Các vị là người Giáp Mễ, đúng không.” Ánh mắt của gã lùn trọc đầu lướt qua trên trang phục và ba lô của bọn Trác Mộc Cường Ba, hiển nhiên cũng không chắc chắn lắm. Có điều, dường như y cũng đã nhanh chóng xác nhận được, miệng cười toe toét ngẩng đầu lên, bộ dạng thân thiết ấy khiến Nhạc Dương và Trương Lập lấy làm thích thú, cảm giác như mình là khách quý được tiếp đón ở khách sạn năm sao vậy. Nhưng bọn Trác Mộc Cường Ba thì lại hết sức đề phòng với kiểu cười ấy, bởi vừa mới chiều hôm qua thôi, họ đã gặp nụ cười ấy ở một kẻ tên là Max.

“Phải rồi, chúng tôi là người Giáp Mễ. Sao ông biết?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Gã lùn trọc đầu ấy tiếp tục cười cười nói: “A ha, ta nói rồi mà, nghe tin các vị sắp đến, ta đặc biệt phụng lệnh quốc vương đến đây chờ đón.” Giọng nói cố làm bộ làm tịch ấy đầy vẻ nịnh bợ, cộng với ngữ điệu eo éo quái đản, nửa âm nửa dương, khiến người ta không khỏi nhớ đến những nhân vật nam luôn tin rằng mình là đàn bà trong phim. Đường Mẫn bất giác thầm nghĩ, lẽ nào đây chính là Địch ô đại nhân của Tước Mẫu? Thế này thì đáng sợ quá. Còn bọn Trác Mộc Cường Ba thì đoán rằng, chắc là có dân làng nào đến Tước Mẫu trước, mang theo tin tức về họ đến đây. Duy chỉ có Nhạc Dương cảm thấy, gã lùn này nói năng dường như rất hàm hồ, không nói là ai báo tin, mà cũng chẳng nói là biết tin lúc nào. Đồng thời, anh cũng chú ý đến mắt trái của đối phương, tròng đen đã bị một màu xám đục thay thế, con mắt trái đó là đồ giả! Có điều, nụ cười xun xoe kia đã che giấu đi khuyết điểm nhỏ này, nếu giọng nói của y không cố tình làm điệu làm bộ như thế, có khi Nhạc Dương cũng chỉ lướt qua mà không để ý cho lắm.

Gã lùn vỗ vỗ lên cái đầu trọc lốc của mình, lại nói tiếp: “À, quên mất chưa tự giới thiệu, ta tên là Quách Nhật Niệm Thanh, vị này là Thâm Tô, đội trưởng đội hộ vệ cung đình. Xin mời theo chúng ta, các vị khách tôn quý, đại vương của chúng ta sẽ tiếp đón các vị bằng nghi lễ long trọng nhất.”

Bọn Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, họ đang định đến Tước Mẫu, giờ có người dẫn đường tất nhiên là chẳng còn gì hơn. Lữ Cánh Nam lẳng lặng ra hiệu ngầm với Ba Tang và Trương Lập, bảo họ cảnh giác, hai người cũng làm ám hiệu hồi đáp. Hai bên giới thiệu qua loa, đôi mắt sắc bén của Quách Nhật Niệm Thanh đã nhanh chóng phán đoán được ai là người đứng đầu đội ngũ này, vậy là Trác Mộc Cường Ba liền trở thành Cường Ba đại nhân của y.

Quách Nhật Niệm Thanh khom người làm tư thế mời giống như một nhân viên tiếp tân chuyên nghiệp, thân thể lùn tịt cộng với tư thế vụng về ấy khiến y trông như một con gấu Koala vậy, đến Đường Mẫn cũng không khỏi nảy sinh một chút hảo cảm.

“À à à!” Quách Nhật Niệm Thanh làm bộ như vừa trông thấy ba lô trên lưng bọn Trác Mộc Cường Ba, vội vỗ mạnh vào trán mình nói: “Hãy để đám thuộc hạ này mang giúp các vị những thứ nặng nề ấy. Tuy bọn chúng rất ngu, chẳng làm được việc gì ra hồn, nhưng được chút sức khỏe vẫn còn dùng được. Có thể ra sức cho các vị khách tôn quý, sẽ là niềm vinh hạnh cả đời của chúng.”

“Việc này, không cần đâu.” Trong một thoáng, Trác Mộc Cường Ba và Lữ Cánh Nam đã trao đổi ánh mắt.

“Không, không, sao có thể được? Đây là việc của bọn người dưới mà. Vả lại, vị này chân bị thương rồi, vậy mà cũng không cần chúng tôi giúp sao? Nếu để quốc vương thấy chúng tôi tiếp đón sơ sót như thế, chúng tôi, chúng tôi thật không biết phải làm sao nữa.” Quách Nhật Niệm Thanh rối rít thanh minh, bộ dạng cuống cuồng, như thể sẽ bị quốc vương trừng phạt cho sống không bằng chết vậy.

“Phải đấy, Cường Ba thiếu gia, cứ giao cho họ cầm đi, không thì họ chẳng biết ăn nói thế nào mất.” Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại, thấy Trương Lập và Nhạc Dương đã không chờ được mau chóng cởi những chiếc ba lô nặng nề xuống giao cho đám võ sĩ kia giữ hộ rồi, giờ lại còn quay qua nói giúp cho Quách Nhật Niệm Thanh. Nhạc Dương vừa thấy Trác Mộc Cường Ba liếc về phía mình, liền đắc ý cúi xuống nhìn khẩu súng trên tay, ý chừng muốn nói, vũ khí vẫn ở trong tay chúng ta, kiếm mấy người vác ba lô cho cũng chẳng có gì là không được. Nhìn bộ dạng hì hì hà hà của anh, chắc chắn là đã muốn bỏ bớt gánh nặng này đi từ lâu rồi.

Cuối cùng, ba lô đều giao cả cho đám võ sĩ khiêng vác, họ chỉ mang theo một vài món vũ khí phòng thân, đi theo phía sau. Trong lúc trò chuyện, mới biết Quách Nhật Niệm Thanh vẫn chưa phải là Địch ô, mà chỉ là đồ đệ của Địch ô đại nhân, nhưng bọn võ sĩ như Thâm Tô vẫn gọi y là đại nhân. Bọn Trác Mộc Cường Ba đều không ngờ một đồ đệ của Địch ô mà địa vị cũng cao như vậy. Lúc họ hỏi về tình hình ở Tước Mẫu, Quách Nhật Niệm Thanh nhất nhất đều trả lời rất tận tình. Tuy nhiên, có lẽ vì nụ cười và giọng nói của y, Trác Mộc Cường Ba cứ có cảm giác y trả lời không được đầy đủ sự thực cho lắm, bèn quay qua nói chuyện với Thâm Tô. Đối với vị đội trưởng đội hộ vệ cung đình còn cao to hơn cả mình này, Trác Mộc Cường Ba ngược lại còn thấy có nhiều thiện cảm hơn, nhưng tay Thâm Tô này chỉ hỏi một câu đáp một câu, gương mặt từ đầu chí cuối đều không lộ ra chút cảm xúc gì. Còn Quách Nhật Niệm Thanh, trên mặt lúc nào cũng nở nụ cười tiêu chuẩn đó, tựa hồ đã được rèn luyện đặc biệt rồi vậy. Y lượn lờ giữa cả bọn, cung kính trả lời mọi câu hỏi, lúc cặp chân vừa to vừa ngắn của y chuyển động, trông toát lên một vẻ hài hước khôn tả, thường thường khiến mọi người phải bật cười. Khi bọn Trác Mộc Cường Ba đề nghị được gặp Địch ô đại nhân, Quách Nhật Niệm Thanh chẳng cần nghĩ ngợi gì đã đáp ứng ngay, điều này lại khiến Trác Mộc Cường Ba thầm sinh nghi, nhưng không nói ra được rốt cuộc là khả nghi ở điểm nào. Gã chợt thấy rất nhớ giáo sư Phương Tân, giá mà có thầy giáo gã ở đây...

Đi qua trận địa cạm bẫy trong rừng, vượt qua ngọn đồi nhỏ chắn ngang phía trước, sự chuyển biến to lớn của không gian khiến người ta kinh ngạc đến không thốt nổi thành lời. Bầu trời u ám của rừng rậm bỗng sáng rỡ lên, phía trước là một cái hồ lớn trải ra mênh mông bát ngát, đây là cái hồ lớn nhất họ từng thấy ở Shangri-la này, so với nó, cái hồ nơi Trương Lập và Mã Cát gặp nhau chỉ có thể tính là cái bồn rửa mặt cỡ đại là cùng. Ngay phía trên hồ là một dải thác nước, đúng thế, một dải, chứ không phải một thác nước đơn lẻ. Bọn Trác Mộc Cường Ba từng thấy rất nhiều thác nước, ở châu Mỹ đã từng vượt thác dạng bậc thang hình vành khuyên, ở Mặc Thoát có thấy thác nước giữa khe núi, còn cả thác nước dạng chùm trên dòng U Minh hà, nhưng nếu nói về hùng vĩ tráng lệ, thì không đâu so được với thác nước ở trước mắt này. Nhìn từ gần ra xa, thác nước trắng xóa liền thành một dải với hồ nước, bọt nước cuộn lên thành sóng như muôn ngàn đụn tuyết, hơi mù bắn tóe bốc ra cả mấy trăm mét, che mờ mặt hồ, phảng phất như thể cả nửa hồ nước đang sôi lên sùng sục. Đó đã không còn là một dải lụa trắng giữa trời xanh, cũng không phải ngọc long đang lượn giữa từng không, mà là muôn ngàn muôn vạn ngôi sao băng trắng xóa sầm sập đổ xuống chỗ hổng giữa trời và đất. Nhìn bằng mắt thường, cả đường chân trời, không đâu là không bị quân đoàn sắc trắng sầm sập như tuyết lở ấy thay thế.

Điều khiến người ta kinh ngạc nhất là, đứng bên bờ hồ rõ ràng cảm thấy mặt đất khẽ rung lên, hơi ẩm vấn vít quanh mình, nhưng lại không nghe thấy tiếng “ầm ầm” vang động, âm thanh ấy men theo mặt hồ phiêu đãng ra tận xa tít tắp, cảm giác như một khúc nhạc giao hưởng thời viễn cổ, du dương dìu dặt.

Theo Quách Nhật Niệm Thanh giới thiệu, tầng bình đài thứ hai của Thánh vực bị hồ nước thiên nhiên này chia làm hai phần, phía bên này là vương quốc Langbu, phía bên kia là vương quốc Yaca, thác nước hùng vĩ như một kỳ tích của tạo hóa này được gọi là Màn Trời Màu Bạc, kỳ quan duy nhất trong Thánh vực Tứ đại kỳ quan ở tầng bình đài thứ hai này. Còn hồ nước lớn bên dưới gọi là Nặc Nhật Lang Thố, tức biển Sinh Mệnh.

Khi mọi người đều kinh ngạc trầm trồ trước kỳ quan của thiên nhiên, Lữ Cánh Nam vẫn cảnh giác cao độ. Cô hiểu rất rõ, những cảnh đẹp dễ khiến người ta có cảm giác quên mất mình đang ở nơi đâu, thông thường cũng là hoàn cảnh thích hợp nhất để phát động tấn công. Có điều, đám võ sĩ kia đều đứng yên như cọc gỗ đóng xuống đất, trên mặt Quách Nhật Niệm Thanh vẫn đeo một nụ cười hòa nhã, không có dấu hiệu gì bất ổn cả. Lữ Cánh Nam bất giác thầm nhủ, lẽ nào mình đã quá đa nghi rồi?

Tước Mẫu được xây dựng phía sau thác nước, nhìn kiểu tạo hình của các hang đá, thì chắc là kiến trúc cùng thời kỳ với di tích của dân tộc Mục mà bọn Trác Mộc Cường Ba đã nghỉ lại đêm qua, chỉ có điều bên ngoài không có vách tường, mà thay bằng những mũi giáo dài nhọn hoắt đâm tua tủa, nhìn như thể vách núi há ngoác miệng ra, với hàm răng sắc nhọn. Cái miệng đó vươn mãi về phía sau, không biết có nối liền với những tổ chim kia không. Phía trước thì chui vào đằng sau thác nước, không biết đâu mới là tận cùng. Có mấy cầu thang hơn nghìn bậc phân bố rải rác trên vách đá, nhưng họ không đi lối cầu thang, mà dùng ròng rọc thả giỏ tre xuống kéo lên. Nhìn những cầu thang đá ngoằn ngoèo không có lan can ấy, Nhạc Dương không kìm được buột miệng nói: “Nơi này đúng là thành lũy dễ thủ khó công, chỉ có điều lên xuống ra vào cũng thực quá phiền phức.”

Quách Nhật Niệm Thanh cười cười đáp: “Tại sao phải lên xuống ra vào chứ? Chẳng qua để nghênh đón các vị khách tôn quý, chúng tôi mới cố tình xuống đó thôi. Bằng không thường ngày, trừ các binh sĩ đi huấn luyện, hoặc các thương nhân lai vãng, những người khác đâu cần phải lên xuống làm gì chứ.”

Nhạc Dương lấy làm ngạc nhiên hỏi: “Không lên xuống thì ăn gì?”

Quách Nhật Niệm Thanh mỉm cười: “Bên trên rất rộng, chúng tôi có thể tự cấp tự túc.”

Giỏ treo được từ từ kéo lên, Nhạc Dương nhanh chóng chú ý thấy, chỗ buộc dây thừng ở chính giữa giỏ treo không trực tiếp treo vào, mà thông qua một bộ ròng rọc, đầu bên kia sợi thừng, cũng được nối với một bộ ròng rọc khác. Khoảng cách giữa hai bộ ròng rọc này khoảng mười lăm mét, như vậy tính ra, từ mặt đất lên đến Tước Mẫu, áng chừng có khoảng hai ba chục bộ ròng rọc như vậy. Đây rõ ràng lại là một kỳ tích do người Qua Ba sáng tạo ra, vừa giải quyết được vấn đề độ dài của dây thừng, lại giải quyết được cả vấn đề tải trọng cho giỏ treo. Về vấn đề này, họ đã nhận được đáp án khẳng định từ Thâm Tô. Tương truyền rằng, loại giỏ treo này đúng là kỳ tích của người Qua Ba, nhưng đến ngày nay, người Tước Mẫu đã học được cách chế tạo loại giỏ này và tiến hành cải tạo, cái giỏ lớn nhất có thể tải được tới năm mươi con bò. Quách Nhật Niệm Thanh ngấm ngầm lườm Thâm Tô một cái, tựa như đang trách anh ta không nên nói chuyện bí mật ấy cho người ngoài. Nhạc Dương nhạy bén phát giác ra nét mặt đó, đồng thời cũng để ý thấy, tuy Quách Nhật Niệm Thanh lúc nào cũng toe toét miệng cười, nhưng nói câu nào cũng đều quan sát rất tỉ mỉ phản ứng của họ.

Thấy vậy, anh không khỏi thầm nhủ: “Hừm, thái độ dè dặt này, có phải là sợ đắc tội với chúng ta, hay là còn ý đồ nào khác nhỉ? Nhưng, chúng ta vừa mới đến đây, lẽ nào đêm hôm qua kẻ địch đã đến rồi? Không, chúng ta đã đi con đường gần nhất rồi, hơn nữa còn đuổi kịp mấy tên đi cùng tuyến đường với mình. Nếu còn những tên khác, thì chẳng có bản đồ, lại còn bị người Lỗ Mặc truy kích, thể lực cũng không bằng được chúng ta, tỉ lệ chúng có thể đến đây trước chúng ta gần như bằng không; mà dẫu cho chúng có đến đây trước chúng ta, thì cũng chỉ khiến người Tước Mẫu thêm cảnh giác, chúng có biết nói tiếng bản địa hay không cũng còn chưa xác định được nữa là... nếu vậy thì đám người Tước Mẫu này sẽ không hoan nghênh chúng ta như vậy. Nếu như...” Nhạc Dương loại trừ hết mọi khả năng, cuối cùng đưa ra kết luận: “Tên Quách Nhật Niệm Thanh này là một nhà ngoại giao rất giỏi, có lẽ còn là thân tín bên cạnh quốc vương, rất giỏi quan sát lời ăn tiếng nói của kẻ khác, song cũng không có ác ý gì. Nơi này cũng sơn thanh thủy tú, không biết có cô Mã Cát nào đang đợi mình nhỉ? Hì hì...”

Trong lúc trò chuyện, giỏ treo đã dần lên đến đỉnh, bọn Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc nhận ra, khe nứt nơi xây thành Tước Mẫu nhìn bên dưới thì không lớn lắm, lên tới đây mới phát hiện, chiều cao khe nứt này áng chừng khoảng bảy mươi mét, độ sâu e rằng phải tính bằng ki lô mét, ít nhất cũng phải trên mười nghìn mét, chiều rộng trải về hai phía lại càng không thể đo đếm. Trác Mộc Cường Ba đột nhiên hiểu ra, thì ra những khe nứt này không phải do bàn tay con người tạo ra, mà do vách đá trên tầng bình đài thứ ba chịu lực không đều, gây ra sự đứt gãy, từ đó hình thành một bình đài nhỏ nằm giữa hai tầng, cả thành Tước Mẫu tọa lạc trên tầng bình đài nhỏ này.

Có thể gọi nơi này là tòa thành của những kỳ tích, khắp nơi đều là di tích văn minh cổ của người Qua Ba lưu lại. Hàng giáo nhọn chĩa lên trời ở chỗ rìa mép bình đài, nhìn từ dưới lên thì chẳng khác nào những mũi giáo bình thường, nhưng lên phía trên này mới thấy, mỗi cây đường kính đều lên đến cả mét, tua tủa vươn lên những độ cao khác nhau, cây dài nhất chắc khoảng hơn sáu chục mét, ngắn nhất cũng bốn năm chục mét, có lẽ là dùng để phòng ngự lũ chim khổng lồ kia tấn công. Để đảm bảo những cây giáo khổng lồ này được cố định ở đó, phần chôn trong vách đá ít nhất cũng phải dài ngang với phần lộ ra bên ngoài. Nhìn những khối kim loại khổng lồ ấy, họ bỗng nhớ lại những trụ đồng trong Đảo Huyền Không tự, có trời mới biết người ta đã đúc nên những cây cột khổng lồ đó như thế nào. Bên ngoài mũi giáo vẫn sáng bóng như mới, phát ra những tia sáng vàng nhạt, thật khó mà tin nổi, chúng đã đứng ở đây suốt cả nghìn năm rồi. Hợp kim đồng, đúng là một thứ kỹ thuật thần kỳ.

Ở trên đỉnh khe nứt, còn có thể trông thấy rất nhiều vật hình tròn, giống như những cái gương lớn. Những vật hình tròn này hắt ánh sáng từ bên ngoài vào những ngóc ngách bên trong khe nứt, làm cả bình đài gần như luôn giữ được độ sáng như nhau. Theo lời Thâm Tô, hồi trước những tấm tròn đó còn nhiều hơn, nhưng vì một số bị rơi xuống, không đặt trở lại được, mà cũng chẳng ai biết những người Qua Ba kia đã đặt chúng lên như thế nào cả. Ngoài các tấm gương tròn, phía trên đỉnh còn phủ chi chít những vật hình ống, dùng ống nhòm quan sát kỹ, thì ra không phải đường ống gì, mà là loại thực vật quấn chặt vào tất cả mọi thứ họ từng gặp trong Đảo Huyền Không tự, có điều ở đây chúng được dùng vào mục đích khác. Thứ thực vật này, một đầu vươn ra ngoài khe nứt, bám theo vách đá bò lên, chắc là vươn thẳng vào trong thác nước, nhờ đặc tính sinh học kỳ lạ của chúng mà hút nước ở thác vào thành Tước Mẫu, rồi thông qua hệ thống ống dẫn đục đẽo vào vách đá, đưa nước đến từng nhà một.

Đến gần mép bình đài nhỏ, họ đã thấy các binh sĩ đang chuyển động bánh xe đưa giỏ treo lên. Thật không ngờ, cả một đoàn năm chục người mà chỉ cần hai binh sĩ. Giỏ treo dần dần lên cao hơn mép bình đài, Tước Mẫu, đô thành của vương quốc Langbu cũng dần dần hiện ra trước mắt họ.

Nhìn đồng cỏ rộng mênh mông xuất hiện, cả bọn Trác Mộc Cường Ba cơ hồ không dám tin vào mắt mình, thì ra đây chính là Tước Mẫu, chẳng trách Địch ô đại nhân ở thôn Công Nhật Lạp lại bảo với họ, đó là nơi không có rừng, hết sức thoáng đãng sáng sủa, hơn nữa lại không sợ Cộng mệnh điểu tấn công. Nơi này hoàn toàn khác với chỗ di tích của người Mục, đồng cỏ bát ngát tựa như phủ lên một tấm thảm màu xanh lục, vô số bò dê ung dung gặm cỏ, xa xa là những thửa ruộng trồng trọt, chủ yếu là trồng ngô và lúa mì Thanh Khoa, ngoài ra còn có rau xanh, củ quả, được phân thành từng khu vực trồng trọt, quy hoạch rất ngay ngắn thẳng hàng. Nhìn sang bên trái không thấy tận cùng, sang bên phải cũng không thấy tận cùng, nơi này hoàn toàn là một không gian độc lập hẳn với rừng già bên dưới.

Đội trưởng Hồ Dương lập tức nhớ đến Machu picchu của người Inca và khu công viên quốc gia Mesa Verde ở Mỹ, thành Tước Mẫu này gần như là sự tổng hợp của hai kỳ quan ấy. Nhìn ra ngoài, nhìn xuống dưới, thành Tước Mẫu này trăm phần trăm có thể coi là nơi cao nhất mà họ thấy ở tầng bình đài thứ hai này. Những gò đồi trập trùng nhấp nhô, một dải màu xanh vươn ra xa tít tắp, chỉ cần đứng trên tòa vương thành này đã đủ trải nghiệm cảm giác cúi nhìn cả thiên hạ rồi; nhìn vào trong, nhìn lên trên, cả tòa thành xây dựa vào núi, đục đá làm nhà, tầng tầng lớp lớp, cao dần lên như ruộng bậc thang. Ruộng vườn và nhà cửa được xây thành từng vòng xen kẽ, vươn đến tận bên dưới vách đá của tầng bình đài thứ ba. Ngoảnh nhìn sang phía trái, liền trông thấy biển Sinh Mệnh cuồn cuộn bọt sóng trắng xóa vỗ bờ, lũ chim đảo lộn giữa tầng không, một tấm màn bạc từ trời cao chảy xuống, vài cầu vồng ẩn ẩn hiện hiện phía sau thác nước, bắc ngang qua bầu không của vương thành; phóng mắt nhìn sang bên phải là cả một khoảng rừng xanh ngút ngàn, rặng núi xa xa trập trùng, trong rừng thảng hoặc vang lên tiếng gió vi vu, làm cây lá dập dềnh như sóng, hòa với tiếng nước vỗ bờ biển, tạo nên một bản giao hưởng mỹ diệu tuyệt trần.

Nếu mới rồi ở bên bờ biển Sinh Mệnh, khung cảnh tráng lệ hùng vĩ mang cho họ cảm giác chấn động đến tận sâu thẳm tâm linh, vậy thì lúc này khi đứng trên vương thành Tước Mẫu, họ lại được hưởng thụ một vẻ đẹp bình lặng, hiền hòa, trời đất êm ả, gió thổi du dương, một vẻ đẹp có thể khiến tâm hồn người ta trở nên thanh khiết. Vách đá từ thuở hằng cổ hồng hoang, mặt nước mênh mông cuộn sóng, ngàn vạn năm đã ngưng tụ thành một thứ thiền ý. Con người ở giữa khung cảnh ấy, tâm theo gió, ý theo sóng, đứng trên tuyệt đỉnh, cảm giác mình là bậc cường giả đang cúi nhìn chúng sinh bất giác trào dâng lên trong tâm khảm, mỗi người tựa hồ đều hóa thành một ngọn núi, đắm chìm trong sự thanh bình tĩnh lặng, để mặc cho y phục tung bay trong gió.

Đúng lúc ấy, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang chợt giật mình cảnh giác. Trác Mộc Cường Ba khẽ kêu lên: “Cẩn thận!” Ba Tang thì đã nghiêng mình sang một bên, né tránh đòn tấn công từ phía sau, đồng thời quát hỏi: “Làm gì vậy?”

Cũng trong khoảnh khắc Trác Mộc Cường Ba cất tiếng ấy, Lữ Cánh Nam đã kịp thời né sang một bên, nhưng bọn Trương Lập, Nhạc Dương thì không phản ứng nhanh được như vậy. Đội trưởng Hồ Dương bị thương ở chân, lại càng không cần nói, Trương Lập vẫn đang đắm chìm trong cảnh sắc tuyệt mỹ của Tước Mẫu, đột nhiên cảm thấy phía sau có tiếng gió, ý nghĩ né tránh vừa lóe lên trong đầu thì đã bị võ sĩ phía sau ghìm chặt. Nhạc Dương lăn người xuống đất, bị bốn năm tên võ sĩ vạm vỡ nhảy bổ lên, cũng nhanh chóng bị khống chế. Đường Mẫn nghiêng người lách sang một phía, vừa khéo lại đụng trúng vào lòng một tên khác, chưa kịp vận sức, đã bị đối phương giữ chặt hai tay, không nhúc nhích nổi. Ba Tang lập tức rút súng ra, nhưng lại bị Trác Mộc Cường Ba chặn nòng súng lại. Chỉ thấy đám võ sĩ kia đã đẩy Trương Lập, Nhạc Dương, đội trưởng Hồ Dương ra phía trước mình, Đường Mẫn cũng bị Thâm Tô khóa ngoặt tay ra phía sau, nhấc lên như nhấc một con gà con, hàm răng nghiến chặt lại, gượng không phát ra tiếng kêu.

Lữ Cánh Nam cũng đã rút súng ra, đang đối mặt với ba tên vạm vỡ, cả ba đều không dám áp sát quá, nhưng cũng không tản ra, hai bên cứ gầm ghè nhau như thế; pháp sư Á La thì đã biến mất trong lúc hỗn loạn, dưới đất có bốn tên võ sĩ nằm hôn mê bất tỉnh, trong thành Tước Mẫu có tiếng quát tháo ầm ĩ, đằng xa vẳng lại tiếng hò hét đuổi bắt.

“Đứng yên!” Nụ cười trên mặt Quách Nhật Niệm Thanh bỗng biến đổi, trở nên lạnh lùng dữ tợn, chỉ vào khẩu súng Ba Tang đang cầm trên tay: “Đặt vũ khí trong tay các ngươi xuống! Bọn ta biết, vũ khí đó rất lợi hại, nhưng, các ngươi muốn đẩy bạn bè mình vào chỗ chết trước sao?”

Y ngầm ra ám hiệu, Trương Lập, Nhạc Dương, đội trưởng Hồ Dương liền bị đẩy ra phía trước, Đường Mẫn cũng bị Thâm Tô nhấc lên cho lơ lửng bên ngoài giỏ treo, chỉ cần y buông tay, cô sẽ lập tức rơi xuống từ độ cao mấy trăm mét. Lữ Cánh Nam không khỏi ngấm ngầm kinh hãi, xem ra, chỉ từ cách đối thoại và cử chỉ của họ, đối phương đã nhận rõ quan hệ của từng người thế nào. Đồng thời, chúng không hề nôn nóng động thủ, mà để họ lơ là cảnh giác, đây là một âm mưu đã được tính toán hết sức công phu cẩn mật, lẽ nào tất cả đều do gã lùn này đạo diễn? Kẻ này thật quá giảo hoạt...

Trác Mộc Cường Ba lớn tiếng quát hỏi: “Tại sao? Tại sao lại làm như vậy?”

Nhà ngục Tước Mẫu

“Hả... tại sao?” Quách Nhật Niệm Thanh cười gằn: “Bọn người Giáp Mễ các ngươi đã làm Địch ô đại nhân của chúng ta trọng thương, còn ra vẻ vô tội nữa. Chúng ta đợi các ngươi lâu lắm rồi, đừng hòng tên nào thoát được!” Y đưa mắt nhìn về phía hướng pháp sư Á La bỏ chạy, lẩm bẩm nói: “Không ngờ lão già đó mới là kẻ lợi hại nhất, ta nhìn lầm mất rồi.”

“Làm... Địch ô đại nhân trọng thương?” Trác Mộc Cường Ba hiểu ra, đã có người tới trước khi họ đến Tước Mẫu, hơn nữa còn khiến Địch ô đại nhân ở đây bị thương. Thế nhưng, đối thủ cũng vừa hôm qua mới đuổi kịp họ, vậy thì những người đó là ai? Ai đã đến đây trước họ, còn khiến Địch ô đại nhân trọng thương nữa?

Nhạc Dương tuy đã bị bắt, nhưng lại là người đầu tiên có phản ứng, lập tức than thầm trong bụng: “Tính sót rồi! Lúc nhảy dù, trong đám người kia nhất định đã có kẻ bị gió thổi tạt về phía trước. Bọn chúng từ trên cao trực tiếp nhảy xuống, khả năng có người rơi xuống phía trước chúng ta cũng không phải là không có, thật không ngờ mình lại bỏ sót mất.”

“Đừng lãng phí thời gian nữa! Ném hết những thứ trong tay các ngươi xuống, đừng hòng giở trò, nhanh lên!” Quách Nhật Niệm Thanh bất ngờ nghiến răng rít lên, âm thanh đột nhiên cao vút đâm vào màng nhĩ, khiến người ta không khỏi giật thót mình. Lữ Cánh Nam thầm nhủ: “Đột nhiên đổi giọng uy hiếp kẻ địch... tâm lý chiến! Y đúc rút ra từ trong thực chiến sao? Kẻ tự xưng là đồ đệ của Địch ô đại nhân này, rốt cuộc có vai trò gì trong thành Tước Mẫu?”

Quách Nhật Niệm Thanh không cho họ thời gian suy nghĩ, chỉ thấy hắn giơ ngón tay ra, chầm chậm chỉ về phía Trương Lập, mấy tên võ sĩ đang giữ chặt anh liền bất ngờ nhấc bổng Trương Lập lên, chuẩn bị ném xuống bên dưới. “Gượm đã...” Trác Mộc Cường Ba vội ra hiệu cho Ba Tang ném súng đi. Lữ Cánh Nam cũng đặt súng xuống, cô lẳng lặng rút băng đạn ra, đặt súng ở vị trí có thể kịp thời cầm lên khi có cơ hội. Lúc này mới nghe Trác Mộc Cường Ba nói: “Đừng làm vậy. Các vị lầm rồi, chúng tôi và những kẻ các vị đã gặp tuyệt đối không phải đồng bọn. Làm ơn tin chúng tôi, làm rõ mọi việc trước đã.”

Ba Tang nhìn tên lùn đó với ánh mắt khinh miệt, anh ta hiểu rõ, tên Quách Nhật Niệm Thanh này chỉ muốn đánh cược một phen, để xem quan hệ giữa bọn họ rốt cuộc là thế nào, dù họ có không buông súng, Quách Nhật Niệm Thanh hẳn cũng không dám dễ dàng ném Trương Lập xuống. Thật đáng tiếc, lại để đối phương giành phần thắng trong canh bạc này, bởi bất luận thế nào, Cường Ba thiếu gia cũng không thể giở bộ mặt lạnh lùng tàn khốc ra được.

Trương Lập bị nâng lơ lửng giữa không trung, cúi nhìn xuống dưới, quả tim như sắp nhảy ra khỏi lồng ngực.

“Không phải đồng bọn? Ha ha, cái túi trên lưng các người giống hệt của chúng, vũ khí cũng chẳng khác gì, chúng ta làm sao tin được?” Quách Nhật Niệm Thanh chỉ mấy khẩu súng dưới đất, phái ra một người nhặt hết lên.

Câu nói này của Quách Nhật Niệm Thanh càng khiến Trác Mộc Cường Ba thêm nghi hoặc. Chỉ có Nhạc Dương là chứng thực được suy đoán của mình, quay sang cười khổ với Trác Mộc Cường Ba, thầm nhủ: “Thật ngại quá, Cường Ba thiếu gia, tôi tính sót mất rồi.”

“Ông phải tin chúng tôi, chúng tôi không có ác ý gì cả, người dân làng Công Nhật Lạp có thể làm chứng, chúng tôi chỉ đi qua đây, chưa bao giờ có ý nghĩ sẽ làm hại bất cứ ai. Còn một đám người nữa, chúng cũng có trang bị hệt như chúng tôi, đó mới là những tên ác đồ giết người như ngóe, đi khắp nơi cướp bóc.” Tuy không hiểu nội tình thế nào, nhưng Trác Mộc Cường Ba vẫn nói sự thực.

Thâm Tô kéo Đường Mẫn vào trong giỏ treo, hỏi: “Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân, giờ tính sao?”

Quách Nhật Niệm Thanh đảo tròng mắt một vòng, nói: “Dẫn chúng đi, tách ra giam giữ. Bắt được lão già kia rồi tính sau.”

Không ngờ còn chưa gặp được quốc vương và Địch ô đại nhân đã bị đưa thẳng vào nhà lao. Chỗ này ẩm ướt tối tăm, nằm giữa khe đá, không thấy mặt trời, mùi ẩm mốc và máu tanh nồng nặc trong không khí, khiến người không khỏi đầu váng mắt hoa, chỉ muốn nôn ọe. Cây đuốc trên tay đám võ sĩ áp giải họ chỉ có thể chiếu sáng được khoảng năm sáu mét phía trước, trong bóng tối xung quanh dường như có động vật phát ra những tiếng “sột sột soạt soạt”, nước nhỏ xuống nền đá vang lên “tí tách tí tách”, lại bị tiếng vọng trong hang khuếch đại lên, nghe váng cả óc.

Hang đá được đục đẽo thành những gian nhà lao khác nhau, ngăn cách bằng chấn song gỗ. Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn ở gian ngoài cùng, hai gian giữa là đội trưởng Hồ Dương và Trương Lập, Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương, gian cuối cùng là Ba Tang và một người khác nữa.

“Cứ ngoan ngoãn mà đợi ở đây đi, Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân sẽ làm rõ mọi chuyện. Đừng mơ chạy thoát, nếu bị phát hiện, sẽ ném các ngươi vào hố bọ cạp đó!” Trước khi bỏ đi, tên lính còn ném lại một câu như thế.

Ngọn đuốc vừa bị mang đi, nhà lao liền trở lại tối đen như mực, xung quanh cũng còn không nhìn thấy được, đừng nói đến chuyện chạy trốn.

“Mọi người đều không sao chứ?” chỉ nghe giọng Trác Mộc Cường Ba cất lên trong bóng tối.

Trương Lập xoa xoa ngực nói: “Cũng còn may. Nhạc Dương, cậu không bị thương chứ? Bị bốn năm tên to vâm như thế đè lên cơ mà.”

“Tôi còn khỏe hơn anh ấy.” Nhạc Dương đáp. “Mẫn Mẫn, cô không sao chứ?”

“Cô ấy ở đây, khỏe lắm.” Lữ Cánh Nam đáp thay.

“Ưm, em không sao.” Mẫn Mẫn nói: “Vết thương ở chân đội trưởng Hồ Dương vẫn ổn chứ?”

“Ừm,” đội trưởng Hồ Dương đáp một tiếng.

Không ngờ lại gặp phải chuyện thế này, xem ra đãi ngộ đặc biệt ở thôn Công Nhật Lạp đã khiến cả bọn đều lơ là cảnh giác, nói cho cùng vẫn là do thiếu kinh nghiệm.

“Rốt cuộc là chuyện gì vậy? Những kẻ có ba lô và trang bị giống chúng ta, không thể nào đến đây trước được chứ nhỉ?”

“Là lúc chúng nhảy dù xuống...” Nhạc Dương nói ra suy luận và kết quả quan sát của mình. Lữ Cánh Nam tức giận trách: “Sao cậu không nói sớm ra?” Nhạc Dương chỉ biết cười khan: “Hì hì... việc này, tôi quên mất...”

“Cái gã lùn tên Quách Nhật Niệm Thanh cũng không đơn giản, rốt cuộc hắn là người như thế nào vậy?” Đội trưởng Hồ Dương chợt lên tiếng hỏi. Những người khác cũng chìm vào trầm tư, phải rồi, từ cách xưng hô tôn kính của đám binh sĩ với Quách Nhật Niệm Thanh, xem ra uy vọng của y trong mắt các binh sĩ không hề thấp, tuyệt đối không đơn giản chỉ là một học trò tầm thường của Địch ô đại nhân.

Nhạc Dương bám vào hàng chấn song đi một vòng, rồi ước đoán: “Mỗi gian nhà lao rộng đến tám mét vuông, cần gì phải chia chúng ta ra nhỉ?”

Lữ Cánh Nam nói: “Để đề phòng chạy trốn chứ còn gì, dựa trên sự chênh lệch về năng lực của tù binh mà đưa ra điều chỉnh. Dù mở được cửa gian nào, Cường Ba thiếu gia và Mẫn Mẫn cũng không thể bỏ nhau lại mà chạy trốn, Nhạc Dương và Trương Lập cũng vậy, đội trưởng Hồ Dương bị thương ở chân càng không cần phải nói. Còn nếu Ba Tang muốn bỏ lại chúng ta chạy trốn, thì anh ấy lại chỉ có một mình, khả năng thoát khỏi chỗ giam cầm rất thấp. Mà người hiểu biết về các chốt bẫy cơ quan như Trương Lập, lại bị nhốt chung với đội trưởng Hồ Dương bị thương, nên cũng coi như chỉ có một người. Vậy là, trừ phi toàn bộ các cánh cửa đều được mở ra, bằng không chúng ta chẳng ai có thể thoát được. Như vậy, họ sẽ có đủ thời gian vây chặt chúng ta lại. Tôi thật hy vọng đây chỉ là một sự trùng hợp, nhưng rất rõ ràng, đối phương chỉ quan sát trong thời gian rất ngắn, đã phán đoán ra được quan hệ giữa chúng ta, cùng đặc điểm tính cách cũng như năng lực hành vi của mỗi người. Con người tên Quách Nhật Niệm Thanh, là một đối thủ rất đáng sợ. Nếu không thể chứng minh được sự thanh bạch, sợ rằng trong thời gian ngắn chúng ta cũng khó mà rời khỏi nơi đây lắm.”

Nhạc Dương thốt lên: “Lợi hại thật!”

Trương Lập đã lần mò được khóa sắt trên cửa, khẽ nói: “Hình như cũng không khó mở lắm.”

Đội trưởng Hồ Dương nghe thấy tiếng khóa sắt xủng xoẻng, liền nhắc nhở Trương Lập: “Cẩn thận chút, sợ là có cạm bẫy.” Anh vừa dứt lời, Trương Lập liền cảm thấy như có con sâu nhỏ từ xích sắt bò lên cánh tay mình, liền đờ người ra đó, không dám nhúc nhích, mãi đến khi con sâu kia bò qua mu bàn tay, mới dám rụt về, bổ sung thêm: “Nhưng cũng không phải dễ.” Đội trưởng Hồ Dương nói: “Chạm phải cái gì vậy?” Trương Lập gãi gãi đầu: “Hình như là sâu bọ gì đấy.”

Đường Mẫn thỏ thẻ nói: “Không biết pháp sư Á La thế nào rồi?”

Trương Lập đáp: “Pháp sư rất lợi hại, chắc không có vấn đề gì đâu. Nếu pháp sư bắt sống được quốc vương Tước Mẫu đến đổi lấy tự do cho chúng ta thì tốt quá, ha ha.”

Nhạc Dương “phì” một tiếng nói: “Đồ ngốc, anh không thấy pháp sư đánh ngã bốn tên võ sĩ liền bỏ chạy sao? Dựa vào vũ lực không thể giải quyết vấn đề được đâu, huống hồ pháp sư Á La lại càng không bao giờ dùng cách đó.”

“Tại sao chứ?” Trương Lập không hiểu, đối với anh, dùng quốc vương Tước Mẫu đổi lấy tự do cho họ là điều hết sức hợp lý.

“Đúng là đồ ngốc, đầu óc chẳng dùng để suy nghĩ gì cả. Nhưng mà tứ chi anh cũng phát triển gì lắm đâu nhỉ, sao đầu óc lại đơn giản thế?” Nhạc Dương châm chọc.

Trương Lập nổi giận gắt gỏng: “Cậu... cái thằng này! Nếu không phải đầu cậu chỉ nghĩ đến đàn bà, chúng ta cũng chẳng rơi vào thế bị động như thế này!”

Lữ Cánh Nam nói: “Cậu quên mục đích của chuyến đi này rồi hả, Trương Lập? Nếu Địch ô đại nhân ở đây là người duy nhất có thể giải trừ cổ độc cho Cường Ba thiếu gia, sao chúng ta có thể tùy tiện trở mặt với người Tước Mẫu được?”

“Bằng không thì chúng ta cũng chẳng cần thỏa hiệp, nổ súng luôn lúc ở trên giỏ treo, cũng có thể tiêu diệt cả đám người đó rồi.” Ba Tang lạnh lùng buông ra một câu.

Nhạc Dương nói: “Đấy đấy, anh Ba Tang còn bình tĩnh hơn cả anh nữa.” Trương Lập giờ mới hiểu thì ra quan hệ còn sâu xa đến thế.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Không sao đâu, có lẽ pháp sư đã đi tìm Địch ô đại nhân ở thôn Công Nhật Lạp đến làm chứng cho chúng ta.”

“Ôi chà!” Trong bóng tối, Nhạc Dương đụng phải thứ gì đó, bất giác kêu lên một tiếng.

“Đụng phải cái gì đấy?” “Cái thằng tứ chi phát triển đó, lại va phải cái gì rồi?”

Nhạc Dương lần mò dưới đất, đoạn nói: “Đây là.. là một khúc gỗ, đặt ở đây làm gì nhỉ? Ghế ngồi chắc?”

Trác Mộc Cường Ba cũng đưa tay rờ thử: “Là một loại hình cụ. Cậu có sờ thấy một cái lỗ to bằng nắm tay không, người ta kẹp chân phạm nhân vào đó, giống như cái cùm vậy. Mỗi cái này có thể kẹp được chừng mười mấy phạm nhân, người bị khóa vào đây đứng không được, ngồi không xong, càng chẳng thể nằm, cực kỳ khổ sở.”

Nhạc Dương le le lưỡi, nói: “Vậy tính ra, đãi ngộ của chúng ta cũng vẫn còn khá nhỉ.”

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Tại sao cả một nhà lao lớn thế này, mà chẳng thấy có phạm nhân nào nhỉ?”

Đội trưởng Hồ Dương vừa lên tiếng, họ mới phát giác hình như đúng là thế. Dọc đường tới đây, đi mất gần chục phút, theo lý mà nói thì nhà lao này không hề nhỏ, nhưng chẳng hề nghe thấy tiếng ai kêu gào, các phòng giam đều trống không, dường như chỉ có mấy người bọn họ thôi vậy.

Trác Mộc Cường Ba hướng sang phòng bên cạnh gọi: “Ba Tang, người ở chung phòng với anh còn sống hay đã chết? Thử hỏi bằng tiếng của họ xem sao.”

Nhạc Dương lẩm bẩm: “Không phải là tay trong được cài cắm từ trước đấy chứ?”

Ba Tang gọi mấy tiếng, mới có người cất giọng khan khan trả lời: “Ai đánh thức ta dậy thế? Tối tăm thế này cũng không để yên một chút được à?” Giọng nói lên bổng xuống trầm, như người đang ngâm thơ vậy.

Giọng Ba Tang không được dễ nghe như vậy, phát âm rất gượng gạo lắp bắp: “Tại sao anh bị giam ở đây? Chỗ này không còn người nào khác à?”

“Hả?” người kia dường như vừa phát hiện trong nhà lao có thêm mấy người nữa, kích động thốt lên: “Trong bóng tối mịt mùng kia, lẽ nào là đồng bào nơi cố thổ? Các người đã vượt qua biển Sinh Mệnh đến nơi đây sao?” Anh ta vừa nhúc nhích một chút, xích sắt liền kêu lên loẻng xoẻng.

“Băng qua biển Sinh Mệnh?” Ba Tang nghe không hiểu lắm. Trác Mộc Cường Ba ở gian bên cạnh đã lập tức hỏi: “Anh là người Yaca à?”

“Yaca, cái tên thật quen thuộc biết bao, đã bao lâu rồi ta chưa nghe thấy? Một năm, hai năm, hay là ba năm...”

Nói chuyện một lúc, họ tìm hiểu được, người này tên là Giang Dũng Trát Lỗ, ba năm trước đã đại diện cho vương quốc Yaca đến Tước Mẫu đàm phán, chỉ vì phạm phải một sai lầm không thể tha thứ, nên mới bị giam lại nơi đây, từ đó mất liên lạc với tổ quốc. Còn việc đó là tội lỗi gì, thì hỏi thế nào anh ta cũng không chịu nói, chỉ một mực tự trách, bảo mình đã làm tổn hại đến một người cực kỳ tôn quý. Sai lầm ấy, dẫu có mất đi mười cái mạng, anh ta cũng không thể đền bù được.

Từ Trát Lỗ, họ còn biết được gã lùn trông hết sức tầm thường Quách Nhật Niệm Thanh kia không ngờ lại là đại tướng quân nổi tiếng nhất vương quốc Langbu, trong cuộc đại chiến với Yaca, y đã nhiều lần lập được chiến công hiển hách. Con mắt giả đó của y là bị tên bắn phải trên chiến trường, sau khi trúng tên, y vẫn còn cưỡi trên lưng ngựa, mũi tên vẫn găm trong mắt, vung đao chém bay đầu một vị danh tướng của Yaca, đồng thời đột phá vòng vây đào tẩu. Lúc đó, Yaca đã đánh qua biển Sinh Mệnh, đồng thời phong tỏa tất cả đường về Tước Mẫu. Ai nấy đều tưởng rằng, không có đại Địch ô trị liệu, Quách Nhật Niệm Thanh chắc chắn sẽ không thể sống nổi, chẳng ngờ, không biết y được ai chữa trị cho, lại sống khỏe mạnh trở về, còn dẫn quân giải nguy cho Tước Mẫu.

Ba năm trước, hai vương quốc ký hiệp nghị đình chiến, cũng là do vị danh tướng này xúc tiến, các binh sĩ đều tôn xưng y là chiến thần, xưa nay chỉ biết tôn trọng và sùng kính, chưa từng có ai dám châm chọc chiều cao và tướng mạo của y cả.

Nghe câu chuyện của Trát Lỗ, Lữ Cánh Nam cuối cùng đã hiểu ra, chẳng trách tên Quách Nhật Niệm Thanh có thể vừa nhìn đã suy đoán được quan hệ và đặc điểm của mọi người trong bọn họ, lại am hiểu chiến thuật tâm lý, có thể âm thầm chỉ huy và điều động hơn ba chục binh sĩ phối hợp tác chiến. Tất cả những điều đó, đều phải đem cả sinh mạng ra đánh đổi trên chiến trường mới có được, thật nực cười là từ đầu chí cuối họ vẫn luôn nghĩ người ta chỉ là một tên hề vớ vẩn.

Đội trưởng Hồ Dương nhắc lại câu hỏi, sao trong nhà ngục này lại không có tù phạm nào khác. Giang Dũng Trát Lỗ nghe xong phá lên cười ha hả, đáp bằng giọng nói đặc biệt của mình: “Các người tưởng đây là nơi nào? Nhất định phải chật ních người sao? Đây vốn là nơi để giam giữ nô lệ và tù binh chiến tranh, đàn ông hầu hết đều đã tử trận, sau hiệp nghị ba năm trước, hai bên cũng đều trả hết tù binh, chỗ này mà có người mới là lạ đấy.”

Đường Mẫn hỏi: “Tại sao hai nước lại đánh nhau vậy?” Từ lúc ở thôn Công Nhật Lạp, họ đã muốn làm rõ nguyên nhân của cuộc chiến tranh sáu năm về trước, rốt cuộc nó có quan hệ gì với việc thôn Công Bố bị tiêu diệt? Chỉ có điều, trận chiến đó không lan đến thôn Công Nhật Lạp, về sau lại đánh sang tận Yaca, Địch ô An Cát Mẫu và Mã Cát đều không biết rõ cho lắm. Người tên Trát Lỗ này đã là sứ giả được phái đến ký kết hiệp định đình chiến, chắc chắn phải biết được điều gì đó.

“Ha ha ha...” Tiếng cười của Giang Dũng Trát Lỗ nghe sao mà thê thảm, “đúng vậy, tại sao phải đánh nhau chứ! Giữa người với người, tại sao cứ phải có chiến tranh bạo loạn? Thời viễn cổ, là để tranh đoạt thức ăn, tranh đoạt không gian sinh tồn; thời bộ lạc, là để tranh cướp nô lệ, tranh cướp đàn bà, đất đai; đến khi lập quốc, chiến tranh nổ ra chỉ do sở thích của người có quyền lực tối cao mà thôi, có thể vì một người đàn bà, một tấm Thangka, một món bảo vật hay một thứ gì đó chẳng hề đáng giá. Lịch sử của loài người, chẳng phải nhờ có chiến tranh nên mới tiến lên phía trước hay sao? Dù có trải thêm mấy nghìn năm nữa, con người rồi vẫn sẽ tương tàn để tranh đoạt cơ hội sinh tồn. Ở nơi ta sống kia...”

Cùng giọng kể trầm bổng như đọc thơ của Giang Dũng Trát Lỗ, bọn Trác Mộc Cường Ba dần dần có nhận thức mới về hai vương quốc Langbu và Yaca. Vương quốc Yaca chủ yếu là các dân tộc có truyền thống du mục, sống trên thảo nguyên, chia thành các bộ lạc, mỗi năm lại thiên di một lần. Còn vương quốc Langbu chủ yếu làm nghề nông, phân thành các thôn làng định cư. Sự khác biệt giữa hai vương quốc là do vị trí địa lý và điều kiện khí hậu quyết định. Trước khi nổ ra chiến tranh, mỗi mùa đều có thương nhân chuyên qua lại giữa biển Sinh Mệnh, lấy thịt của Yaca đổi lấy lương thực của Langbu, các chế phẩm từ da và lông của Yaca đổi lấy hàng dệt của Langbu, thảm lông đổi lấy tơ lụa, còn các tài nguyên khác thì mỗi bên đều có ưu thế riêng, như Yaca nhiều muối, Langbu nhiều gỗ, Yaca có đất sét...

Còn về trận chiến ấy, đúng như Mã Cát đã nói, có thể coi như một sự kéo dài của trận chiến mười tám năm trước. Mười tám năm trước, bộ lạc Cách Hùng ở Yaca đột nhiên bị người Thượng Qua Ba tiêu diệt, nguyên nhân không rõ tại sao. Nhưng thời đó, bộ lạc Cách Hùng là bộ lạc lớn thứ ba Yaca. Vì từ trước đó, hai vương quốc đã luôn có tranh chấp, chiến tranh liên miên, thù oán vốn sâu đậm, phía Langbu vừa thấy có cơ hội, bèn phát động chiến tranh tấn công Yaca để cướp đoạt của cải. Chẳng ngờ, dân Yaca ai ai cũng hung hãn dũng mãnh, chiến đấu cực kỳ ngoan cường, tuy đã tổn thất một bộ lạc lớn, nhưng vương quốc Langbu cũng không thể chiến thắng. Vì vậy, cuộc chiến mười tám năm trước tuy do vương quốc Langbu khởi đầu, nhưng rốt cuộc lại bị đại quân Yaca kéo rốc qua biển Sinh Mệnh, cướp sạch tài nguyên mang về.

Sáu năm trước, có một trận thiên tai, nhiệt độ trên tầng bình đài thứ ba đột ngột sụt giảm, tuyết đọng không tan, cái lạnh xâm chiếm thảo nguyên, khiến gia súc của các bộ lạc Yaca đều bị chết cóng chết đói, còn tình hình phía Langbu thì dễ chịu hơn nhiều. Thêm nữa, sau trận chiến mười tám năm trước, quân lực của vương quốc Langbu đã suy yếu, khiến các trưởng lão của Yaca lại hướng ánh mắt về đây, không biết phía quân đội đã tìm được cớ gì, mà Yaca tuyên chiến với Langbu. Nhưng chẳng ai có thể ngờ được, lần này, Langbu lại xuất hiện một tên Quách Nhật Niệm Thanh, gã lùn tướng mạo tầm thường ấy được người Langbu ca ngợi là chiến thần. Quân lực của Langbu không hề được tăng cường, hoàn toàn đều dựa vào những kế sách khéo léo của Quách Nhật Niệm Thanh mới đánh ngang tay được với đại quân Yaca. Hai bên giằng co bên hai bờ biển Sinh Mệnh, chiến tranh kéo dài suốt ba năm trời. Sau ba năm, những người tử trận, chết đói, chết bệnh gần như đã chiếm nửa số dân hai nước, đa phần lại đều là thanh niên trai tráng, hai bên đều đã sức cùng lực kiệt, vậy nên mới buộc phải tuyên bố đình chiến.

“Lại là người Thượng Qua Ba! Sao lại vậy nhỉ? Người Thượng Qua Ba lẽ nào thường tiêu diệt cả bộ tộc của người ta mà chẳng có lý do gì hay sao? Chẳng lẽ các người không biết phản kháng lại họ à?” Nhạc Dương nghe mà cảm thấy vô cùng phẫn nộ.

“Phản kháng?” Giang Dũng Trát Lỗ cười khổ: “Nói thì dễ lắm! Trong lịch sử không phải chưa từng xuất hiện chuyện phản kháng, nhưng chưa có lần nào thành công cả. Vào thời ông nội của ta, đã từng bùng nổ một cuộc phản kháng quy mô lớn nhất. Hai vương quốc Yaca và Langbu liên hợp lại được gần năm vạn tinh binh, định lật đổ sự thống trị của người Thượng Qua Ba, các binh sĩ xuất phát từ Côn Ba Thác, rầm rộ tiến lên tầng bình đài thứ ba, kết quả, họ không trở về nữa, một người cũng không. Nghe nói, ba ngày sau, dân cư ở hai bờ biển Sinh Mệnh phát hiện, thác nước màu bạc kia đã biến thành sắc đỏ, ba tháng sau, biển Sinh Mệnh biến thành biển máu, liên tục có những mảnh xác của binh lính hai nước nổi lên dập dềnh giữa biển máu ấy. Ngay trong đêm đó, mười mấy bộ tộc xuất binh nhiều nhất đều bị tiêu diệt toàn bộ, chỉ trong một đêm ngắn ngủi, họ đã vĩnh viễn biến mất trên bản đồ. Không ai phát hiện ra dấu vết của người Qua Ba, nhưng nhìn những xác chết ấy, có thể nhận ra khi đó họ thậm chí còn chưa kịp phản kháng lại đã tắt hơi rồi. Không ai biết người Thượng Qua Ba đã làm như thế nào, dường như họ đã biết trước tất cả, đồng thời có thể tùy ý qua lại giữa ba tầng bình đài như không. Phản kháng? Chẳng bộ tộc nào muốn bị tiêu diệt toàn bộ chỉ trong một đêm cả? Người Thượng Qua Ba là những kẻ không thể phản kháng được!”

Nghe những lời lẽ đầy kích động của Trát Lỗ, bọn Trác Mộc Cường Ba đều thầm kinh hãi. Đúng thế, Đạo quân Ánh sáng bách chiến bách thắng, sao có thể bị một đội quân bình thường đánh bại! Thế nhưng, tại sao họ lại nghiêm khắc khu biệt mình với những cư dân vốn sống ở đây từ trước như thế? Tại sao lại chẳng nể nang gì mà tiêu diệt cả bộ tộc người ta? Lẽ nào đội quân ấy đã không còn chút nhân tính nào, trở thành những kẻ điên cuồng chém giết rồi hay sao? Đáng sợ hơn nữa là, trong một đêm họ có thể tiêu diệt mười mấy bộ tộc cách nhau mấy chục thậm chí là cả trăm ki lô mét, đồng thời triệt thoái về tầng bình đài thứ ba mà không để lại dấu vết gì. Cách giải thích duy nhất là, những người Qua Ba đó có thể trực tiếp lên xuống giữa ba tầng bình đài, nhưng sao mà làm như vậy được? Bọn Trác Mộc Cường Ba dùng những thiết bị hiện đại nhất, cũng còn không thể thực hiện được cơ mà?

Giao dịch

Ba ngày sau đó đều bình an vô sự, tay Quách Nhật Niệm Thanh kia thậm chí còn chẳng buồn thẩm vấn, chẳng rõ y đã đi đâu.

Ngày thứ ba, Quách Nhật Niệm Thanh mới dẫn theo một đội hộ vệ đến nhà lao. Đám hộ vệ đứng xếp thành một hàng ngang trước bốn phòng giam, ánh đuốc chiếu sáng bừng cả khu nhà lao tăm tối.

Dưới ánh lửa, lần đầu tiên Ba Tang nhìn rõ tướng mạo Giang Dũng Trát Lỗ. Người này rất gầy, râu ria bờm xờm che kín cả nửa gương mặt, đôi mắt hõm sâu, vì cả mấy năm liền không thấy ánh mặt trời, sắc da anh ta trắng ởn ra như bị ngâm nước. Trên người Trát Lỗ còn phải đeo thêm cùm tay cùm chân, anh ta xòe hai tay về phía Ba Tang với vẻ cam chịu, ý rằng mình đã phạm phải sai lầm không thể tha thứ.

Quách Nhật Niệm Thanh quét ánh mắt nhìn đám người trong phòng giam, đột nhiên quát lớn: “Trương Lập!”

Trương Lập đang ngủ ngon lành. Đội trưởng Hồ Dương ngước mắt lên nhìn Quách Nhật Niệm Thanh, chỉ thấy ánh mắt y sao mà hung hãn dữ tợn, toát lên một nỗi hận sâu cay, tựa hồ muốn lao đến cắn người vậy. Anh cũng không biết Trương Lập đã đắc tội gì với vị Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân này, chỉ thầm nhủ: “Lẽ nào hôm đó Trương Lập chạm vào xích sắt đã bị phát hiện rồi? Thế này hình như quá lợi hại thì phải?”

Quách Nhật Niệm Thanh hằn học trừng mắt lên nhìn đội trưởng Hồ Dương thêm một lượt nữa, gật đầu nói: “Tốt lắm! Tốt lắm!” Đoạn, y lại đến trước cửa phòng giam Trác Mộc Cường Ba, lần này không hỏi han gì hết, mà trực tiếp nói với gã: “Nói đi, các người đến Tước Mẫu của chúng ta, rốt cuộc là có mục đích gì?”

Trác Mộc Cường Ba nghĩ thầm: “Bắt đầu thẩm vấn rồi đấy à?” Gã bèn đáp: “Vì tôi trúng phải Đại Thanh Liên cổ, đến Tước Mẫu, là muốn tìm Thứ Kiệt Đại Địch ô, nhờ ngài hóa giải cổ độc trên người.”

“Hử?” Quách Nhật Niệm Thanh đón lấy cây đuốc trong tay một tên hộ vệ, đưa vào trong hàng chấn song gỗ để nhìn rõ hơn. Quả nhiên, ở hốc mũi và miệng Trác Mộc Cường Ba có những vệt màu xanh nhàn nhạt, chỉ là bị râu ria che mất, không nhìn kỹ thì không thể nhận ra được. Quách Nhật Niệm Thanh bỏ đuốc ra, nghĩ ngợi giây lát, rồi đánh mắt ra hiệu với tên hộ vệ. Tên hộ vệ liền bước đến mở khóa. Trương Lập trong lúc mơ mơ màng màng vẫn để ý thấy, lúc mở khóa, tên hộ vệ dùng một thủ pháp kỳ quái gõ lên cái khóa mấy chục cái trước, trong lỗ khóa liền có một con rết màu đỏ, dài chừng ngón tay bò ra. Anh bất giác nhớ lại, đây rất có thể chính là thứ đã bò qua tay mình trong bóng tối, lòng thầm kinh hãi, lập tức trở nên hoàn toàn tỉnh táo.

Tên hộ vệ mở hết các cửa nhà giam, Quách Nhật Niệm Thanh lại nói: “Ra ngoài hết đi, đại vương của ta muốn gặp các vị.” Bọn Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn nhau, xem ra không giống thẩm vấn cho lắm, quá nửa là pháp sư Á La đã làm gì đó, khiến Tước Mẫu vương thay đổi thái độ với bọn họ.

Thâm Tô dẫn đội hộ vệ đi phía trước, còn Quách Nhật Niệm Thanh thì đi chung với đám người bọn Trác Mộc Cường Ba. Mới đi được một đoạn, liền nghe Quách Nhật Niệm Thanh hắng giọng lên tiếng trước: “Về chuyện hôm trước, là do chúng ta chưa điều tra rõ ràng, hy vọng các vị đừng để trong lòng.” Giọng y rất thấp, tựa như nói với Trác Mộc Cường Ba, lại giống như tự lẩm bẩm nói với chính mình.

Trác Mộc Cường Ba nhìn người đàn ông chỉ cao đến ngang ngực mình ấy, thầm nhủ: “Đây là xin lỗi ư? Lẽ nào pháp sư Á La đã chứng minh được chúng ta vô tội? Không, chỉ như vậy thì vẫn chưa đủ, nhất định là còn chuyện gì đó khác, bằng không quốc vương ở đây cũng không để vị đại tướng quân này đích thân đến xin lỗi như vậy.” Có điều gã cũng là người rộng lượng, vả lại mấy ngày nay Quách Nhật Niệm Thanh cũng không làm khó gì bọn họ, nên cũng bỏ qua cho xong. Trác Mộc Cường Ba nửa đùa nửa thật nói: “Thật không ngờ, người đón tiếp chúng tôi ngày hôm đó lại là đại tướng quân của Tước Mẫu, vậy mà bọn tôi chẳng nhìn ra được. Đúng là thâm tàng bất lộ, Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân.”

Quách Nhật Niệm Thanh nghe ra được ngữ khí của Trác Mộc Cường Ba, thở phào một tiếng nói: “Tên Giang Dũng Trát Lỗ đó, lẽ ra phải khiến hắn không nói được nữa mới đúng.”

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Người tên Trát Lỗ đó rốt cuộc đã phạm phải tội gì? Bị giam cầm ba năm rồi!”

Quách Nhật Niệm Thanh đáp: “Các vị sẽ nhanh chóng biết thôi, hắn phạm phải một sai lầm không thể tha thứ được!” Nói đoạn, y liền chuyển qua chủ đề khác: “Đồ đạc của các vị, lát nữa ta sẽ trả lại. Những vũ khí đó khá lắm, để hỏa dược cháy bùng lên trong không gian chật hẹp, đẩy viên đạn sắt bắn về một hướng cố định nào đó, hòng va chạm mạnh vào mục tiêu. Kỹ thuật đúc đồng và sắt đạt tới trình độ rất cao, trước đây chúng ta chưa từng thấy vật nào như vậy cả.”

Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: “Chẳng trách tên Quách Nhật Niệm Thanh ba ngày qua không để ý tới chúng ta, thì ra là nghiên cứu các loại vũ khí đó. Gã này cũng thông minh thật.” Gã liền tỏ vẻ kinh ngạc nói: “Sao ông biết? Không phải các ông...”

Trên gương mặt Quách Nhật Niệm Thanh lại nở ra nụ cười quen thuộc ấy: “Người Giáp Mễ, các vị cũng coi thường chúng ta quá rồi đó. Theo các ghi chép lịch sử của Tước Mẫu chúng ta, hơn một nghìn năm trước khi người Qua Ba tới đây, họ đã mang theo các kiến thức về hỏa dược rồi. Mấy chục năm gần đây, Tước Mẫu chúng ta cũng thu thập được rất nhiều vũ khí tương tự như vậy, mới đầu chúng ta cũng không biết dùng để làm gì, nhưng rồi cũng nhanh chóng tìm hiểu được. Vũ khí của các vị rất tốt, cả về sức mạnh và tốc độ đều ưu việt hơn những loại chúng ta tìm được trước đây rất nhiều. Tiến bộ hơn cả là, vũ khí của các vị sau khi phát xạ, không cần dùng tay kéo chốt lại, mà có thể bắn liên tiếp được. Còn một loại vũ khí nữa, nhồi một lượng lớn thuốc nổ vào một vật chứa, sau khi đốt cháy có thể phá hoại một phạm vi nhất định xung quanh nó, ừm, cũng gần bằng vũ khí của người Thượng Qua Ba rồi đấy.”

“Ông... ông nói gì?” Trác Mộc Cường Ba giật bắn mình kinh ngạc. Nghe cách nói của Quách Nhật Niệm Thanh, vũ khí của bọn họ vẫn chưa bằng được vũ khí người Qua Ba sử dụng từ hơn nghìn năm trước, làm sao có thể như thế được!

Quách Nhật Niệm Thanh nói: “Đúng vậy, trong truyền thuyết của bọn ta, người Qua Ba còn có những vũ khí lợi hại hơn nhiều, chẳng hạn như có một loại gọi là ‘tiễn cơ’, cũng có thể phát xạ liên tục, nhưng uy lực hơn xa vũ khí của các vị. Nó có thể bắn chiến tượng khoác giáp thành từng mảnh vụn, vũ khí của các vị làm được không?”

“Ồ.” Trác Mộc Cường Ba thấy yên tâm phần nào. Có vẻ như Quách Nhật Niệm Thanh đang nói đến những truyền thuyết kiểu như “bảy loại vũ khí truyền kỳ” của Shangri-la gì gì đó, thông thường đều có những phần được thần thoại hóa và khoa trương.

Thâm Tô dẫn bọn họ tới vương cung của vương quốc Langbu. Cũng khoét vách đá làm hang, xây phòng, chỉ khác là mở rộng hơn một chút mà thôi, nhưng so với những kỳ tích của người Qua Ba để lại kia thì chẳng toát lên chút khí phái huy hoàng gì cả. Thâm Tô chỉ đưa họ đến cửa, một tên binh sĩ khác liền chạy vào thông báo, còn Quách Nhật Niệm Thanh cười cười đứng trước cửa vương cung. Cánh cửa đó là một hình thang khoét vào vách đá, không có khung, không có giằng, cũng không có hình điêu khắc trang trí, mà chỉ có dấu vết đã được mài giũa. Có vẻ như các hình trang trí trước đây đã bị bóc đi theo yêu cầu của người Qua Ba rồi.

Lúc này, binh sĩ vào thông báo đã trở ra, nói rằng bọn họ có thể vào trong.

“Xin mời, các vị khách tôn quý.” Nụ cười trên gương mặt Quách Nhật Niệm Thanh không hề thay đổi, tựa như đã được đúc ra vậy.

Vương cung của vương quốc Langbu so với chữ “cung” thì còn kém rất xa, con đường đá dẫn vào bên trong vừa nhỏ vừa chật hẹp, hai người sánh vai là đã phải chen chúc, cũng chẳng có cái khí thế hai bước một trạm canh, ba bước một trạm gác. Trước tiên là đi men theo vách núi, sau đó rẽ ngoặt vào bên trong, không gian bắt đầu hơi tối đi, hai bên đường có những gian thạch thất nhỏ, thoạt trông đều không lớn hơn mười mét vuông. Họ đi tới trước một gian buồng đá lớn hơn một chút, nhìn có vẻ như là phòng làm việc của quốc vương, bước vào trong thì gần như thất vọng toàn tập. Đây chẳng qua chỉ là một gian phòng khách rộng hơn hai chục mét vuông tí xíu. Một cột sáng đường kính khoảng một mét từ trên chiếu xuống, làm gian phòng này sáng hơn bên ngoài một chút, Nhạc Dương ngẩng đầu lên quan sát, thấy trụ ánh sáng này là do vật thể hình tròn phía trên đỉnh vách đá phản xạ hắt xuống.

Phía sau trụ sáng có một người đàn ông ngồi xếp bằng, quả nhiên pháp sư Á La đang ngồi bên phải ông ta, còn Địch ô An Cát Mẫu thì ngồi bên trái. Thấy bọn Trác Mộc Cường Ba đi vào, pháp sư Á La và Địch ô An Cát Mẫu đều mỉm cười gật đầu chào hỏi.

Quách Nhật Niệm Thanh khom mình hành lễ với người đàn ông kia, đoạn nói: “Đại vương, đã đưa các vị khách đến.” Rồi lại quay sang nói với bọn Trác Mộc Cường Ba: “Gặp đại vương của ta, cớ sao không quỳ xuống?”

“Ừm,” người đàn ông phía sau trụ sáng cất tiếng, “khách quý từ xa đến, không quen phong tục của chúng ta ở đây, không cần phải quỳ... Tại sao lại tiếp đón chậm trễ thế? Mau mời khách quý ngồi đi.”

Quách Nhật Niệm Thanh lại liếc mắt nhìn bọn họ một cái, cười nói: “Xin mời.”

Trác Mộc Cường Ba ngồi xuống phía dưới pháp sư Á La, cách vị đại vương của Tước Mẫu ngồi sau trụ ánh sáng tương đối gần, có thể thấy Tước Mẫu vương thân hình hơi mập, lưng hơi còng, râu tóc đều đã bạc trắng, xem ra tuổi tác cũng khá cao rồi.

Tước Mẫu vương lại cất tiếng: “Nghe nói các vị khách từ bên ngoài đến, hai vị nữ Bồ Tát lại là hóa thân của Triết Kim Mã và Nhân Nãi Công Tái Mã(1), hôm nay được gặp, thực sự là vô cùng hân hạnh.”

Sau đó vị quốc vương ấy lại nói một tràng những lời khách sáo, đa phần là xưng tụng bọn họ, đồng thời khéo léo bày tỏ ý xin lỗi. Bọn Trác Mộc Cường Ba thấy được nể nang chiều chuộng quá, lại ngấm ngầm kinh hãi, thật không hiểu pháp sư Á La và Địch ô An Cát Mẫu đã nói gì với Tước Mẫu vương, tại sao thái độ của ông ta lại thay đổi hoàn toàn như thế?

Sau khi nói xong những lời mang tính lễ tiết, Tước Mẫu vương liền đi vào chủ đề chính: “Nghe nói các vị khách tôn quý đây có tài của Lục Độ Mẫu, mang theo vô số linh đơn diệu dược, có thể khởi tử hồi sinh, đã mang đến tin phúc lành cho dân chúng vương quốc Langbu chúng ta, thậm chí còn chữa khỏi được cho người trúng cổ độc.”

Lữ Cánh Nam ngập ngừng lên tiếng: “Thực ra chúng tôi chỉ...”

Tước Mẫu vương lại ngắt lời cô: “Thực không dám giấu gì, bản vương có một chuyện muốn nhờ vả, con gái ta...” Tước Mẫu vương chầm chậm kể lại đầu đuôi sự tình. Thì ra vị quốc vương này không có nhiều con cái, từng có một đứa con trai, nhưng đã chết yểu từ rất lâu rồi; đến năm năm mươi tuổi mới được một công chúa, coi như hòn ngọc trên tay, nhưng thật đáng tiếc, ba năm trước không hiểu vì sao vị công chúa ấy lại trúng phải Hắc cổ. Theo lời Thứ Kiệt Đại Địch ô, người trúng phải loại cổ độc này toàn thân sẽ thấy vô cùng ngứa ngáy, sau đó da dẻ sẽ mẩn lên những cục u, rồi dần dần mất đi thị lực, giờ đây công chúa đã gần như không nhìn thấy gì nữa rồi.

Bấy giờ cả bọn mới hiểu ra, chẳng trách vị quốc vương già này lại khách sáo với họ như thế, thì ra công chúa cũng trúng phải cổ độc. Nhưng rồi họ cũng lấy làm khó xử, cổ độc ở nơi này có hàng trăm loại khác nhau, họ cũng không chắc có thể chữa được cho công chúa hay không, vì vậy chuyện này cũng không tiện nhận lời ngay được. Có điều, dường như Tước Mẫu vương rất có lòng tin ở họ, lại nói thêm rất nhiều lời đẹp đẽ tán dương. Trác Mộc Cường Ba thầm nghi hoặc, vừa nãy Quách Nhật Niệm Thanh có nói với gã, người tên Trát Lỗ ấy đã phạm phải sai lầm không thể tha thứ, lại còn bảo một chốc nữa gã sẽ biết ngay, lẽ nào, Hắc cổ mà vị công chúa kia trúng phải, lại có liên quan đến Trát Lỗ hay sao?

“Vậy còn Thứ Kiệt đại nhân? Cả Thứ Kiệt đại nhân cũng không có cách trị liệu cho công chúa sao?” Nhạc Dương hỏi.

“À...” Tước Mẫu vương phát ra một tiếng thở dài. Quách Nhật Niệm Thanh đứng cạnh bèn giải thích: “Không phải thứ cổ độc nào Thứ Kiệt đại nhân cũng giải được. Vì thuật dùng cổ độc của các Địch ô chỉ được truyền miệng từ đời này sang đời khác, nên có rất nhiều loại cổ độc đã thất truyền, như loại Vạn Xà Thực Tâm cổ mà các vị khách tôn quý đã chữa trị được đó, Thứ Kiệt đại nhân cũng không có cách nào giải trừ được.”

Đường Mẫn nói: “Chúng tôi cũng không chắc chắn lắm. Như vậy đi, để chúng tôi xem bệnh tình của công chúa trước đã. Ngoài ra, chúng ta cũng muốn gặp Thứ Kiệt đại nhân nữa.”

“Việc này...” Quách Nhật Niệm Thanh chau mày nói: “Thực không dám giấu các vị, gặp công chúa thì không vấn đề gì, nhưng Thứ Kiệt đại nhân vừa bị trọng thương, giờ đang trong thời gian tĩnh dưỡng, không biết ngài có chịu gặp các vị không nữa. Đến cả Địch ô An Cát Mẫu cũng không được Thứ Kiệt đại nhân cho vời nữa đó.”

Đường Mẫn liền nói: “Không sao cả, vết thương của Thứ Kiệt đại nhân, biết đâu chúng tôi có thể chữa trị cũng không chừng.”

“A, vậy sao? Vậy thì tốt quá.” Không hiểu tại sao, lúc nói vậy, vẻ mặt Quách Nhật Niệm Thanh bỗng lộ ra vẻ vô cùng hân hoan.

Sau khi gặp mặt quốc vương, Quách Nhật Niệm Thanh trả lại cho họ ba lô và một phần vũ khí, nhưng các loại vũ khí có lực phá hoại lớn thì không được giao lại, chẳng hạn như lựu đạn, mìn tay, lựu đạn sáng, ống phóng hỏa tiễn xách tay... Quách Nhật Niệm Thanh nói, hy vọng bọn họ có thể hiểu cho y. Bọn Trác Mộc Cường Ba cũng hiểu được dụng ý của đối phương, nên cũng không nói gì nữa. Sau đó, họ được dẫn đến nơi Thứ Kiệt Đại Địch ô trú ngụ. Nơi này được đẽo ra một cái cửa hình tam giác trên to dưới nhỏ, đường vào vừa dài hẹp, vừa âm u. Trương Lập ngước mắt lên nhìn, thấy trên đỉnh đầu cũng có kính tròn hắt ánh sáng vào, chỉ là bên trong thông đạo lại chẳng thấy có chút ánh sáng nảo cả. Lấy thân phận là đồ đệ duy nhất của Thứ Kiệt đại nhân, Quách Nhật Niệm Thanh bảo bọn họ đợi bên ngoài một chút để mình vào trước thông báo. Không lâu sau, y trở ra nói: “Địch ô đại nhân chỉ đồng ý gặp mặt Trác Mộc Cường Ba và hai vị nữ khách, để không làm phiền đại nhân nghỉ ngơi, hy vọng ba vị có thể lần lượt đi vào. Những vị khác, thật xin lỗi, mời các vị theo Thâm Tô đi nghỉ ngơi, đại vương của chúng ta đã chuẩn bị cho các vị một bữa tối thịnh soạn rồi.”

Trác Mộc Cường Ba là người đầu tiên theo Quách Nhật Niệm Thanh bước vào thông đạo, vừa qua chỗ rẽ, nơi này liền trở nên tối om như mực, ánh sáng bị chặn hết ở bên ngoài. Quách Nhật Niệm Thanh đưa bàn tay nhỏ mập mạp ngắn ngủn của mình ra, nắm lấy tay Trác Mộc Cường Ba nói: “Theo sát ta, không được chạm vào hai bên và trên đỉnh đầu, chỗ đó có sâu tường, nguy hiểm lắm.”

“Sâu tường?” Trác Mộc Cường Ba lần đầu tiên nghe thấy danh từ này.

Quách Nhật Niệm Thanh đáp: “Ừm, phải biết rằng, nơi cư trú của Địch ô đại nhân, dù không có hộ vệ thì người thường cũng không thể dễ dàng tiến vào trong được.”

Không biết đã rẽ ngoặt mấy lần, phía trước mới xuất hiện một tia sáng mờ mờ. Nhờ chút ánh sáng yếu ớt đó, Trác Mộc Cường Ba mới nhìn rõ sâu tường mà Quách Nhật Niệm Thanh nói là thứ gì. Trên đầu có lưới, vô số dơi treo ngược mình, thi thoảng có con giật mình tỉnh giấc, liền tung cánh bay là là trên không trung như một mảnh giấy đen; nhưng hai bức tường hai bên mới thực sự khiến người ta phải nổi da gà, vô số loài sâu bọ mà Trác Mộc Cường Ba không biết tên bị ghim chặt, bụng ưỡn ra ngoài, chi chít chằng chịt không để hở một chút không gian nhỏ bé nào.

Lũ sâu bọ ấy có con bốn chân, có con sáu chân, có con tám chân, toàn bộ đều vẫn còn sống, gió khẽ thổi qua liền quẫy động những cái chân ấy thật nhanh, giãy giụa quằn quại, khiến cả bức tường như sống dậy. Nhìn màu sắc lốm đốm loang lổ trên cơ thể bọn sâu bọ ấy, không cần nghĩ cũng biết, nếu bị chúng cào cho một nhát, hoặc cắn cho một cái, hậu quả sẽ như thế nào.

Vào trong phòng, lập tức có thể ngửi thấy mùi thuốc bắc nồng nặc, trên tường đóng đầy giá gỗ, trên giá đặt đủ các loại chai lọ lớn nhỏ khác nhau. Trên tường, trên mặt bàn, thậm chí cả dưới sàn, đều vẽ đầy những ký hiệu thần bí cổ quái, nhìn qua cột ánh sáng, có thể thấy không khí trong phòng bốc lên thành từng cụm từng cụm, bay lững lờ, có cụm màu xanh, có cụm màu tím, màu lam. Trác Mộc Cường Ba không khỏi thầm ngờ vực, không biết liệu có phải ở nơi này càng lâu, tuổi thọ sẽ càng rút ngắn đi hay không.

Đại Địch ô Thứ Kiệt nằm trên giường, trên người đắp hờ một cái chăn bện bằng lông bò Yach màu đen, tuổi tác có vẻ còn lớn hơn cả quốc vương, gương mặt không có chút thịt nào, nếu không phải trên đó vẽ đầy những ký hiệu màu đen, thoạt nhìn còn tưởng ông là một cái xác khô quắt queo. Ông vẫy tay với Trác Mộc Cường Ba gọi: “Lại gần đây, để ta nhìn cho rõ.”

Không hiểu vì sao, nhìn thấy bàn tay xương xẩu, cùng gương mặt vẽ đầy những totem khó hiểu, đôi mắt hõm sâu phát ra những tia mờ mờ trong bóng tối của Đại Địch ô Thứ Kiệt, Trác Mộc Cường Ba bỗng cảm thấy hơi căng thẳng. Đó không phải là cảm giác khi nguy cơ ập đến, mà giống như, cảm giác lúc đối diện với cha gã. Gã bước đến bên dưới cột ánh sáng, rồi không thể nào lại gần thêm được nữa. Trác Mộc Cường Ba không sao hiểu nổi, tại sao nhìn vị Đại Địch ô dung mạo trông có vẻ thật tà ác này, gã lại có cảm giác căng thẳng và bức bách như đang đối mặt với cha mình như thế.

Đại Địch ô Thứ Kiệt nheo mắt nhìn gã một hồi rất lâu, rồi gật đầu nói: “Tên là Cường Ba, phải không? Ừm, đây là Đại Thanh Liên cổ, thời trẻ ta có dùng qua một lần, đối với đứa trẻ ấy, thật quá tàn khốc. Tuy hắn đã phạm phải tội lỗi đáng chết, nhưng dùng Đại Thanh Liên cổ thực sự vẫn quá...”

Trác Mộc Cường Ba khẽ hỏi: “Vậy, Địch ô đại nhân có thể giải trừ được không?” Gã thầm nhủ, có lẽ vì lý do này mà mình thấy căng thẳng cũng nên.

Đại Địch ô Thứ Kiệt gật đầu: “Ừm, dùng Tằm Diên có thể giải được...”

“Nhưng mà...” Quách Nhật Niệm Thanh vừa nghe đã hơi cuống lên, “Thứ Kiệt đại nhân, chúng ta chỉ còn một bình Tằm Diên cuối cùng thôi, cả đại vương cũng không nỡ...”

Đại Địch ô Thứ Kiệt xua xua tay, ngoảnh mặt về phía Trác Mộc Cường Ba nói: “Ngươi cũng nghe thấy rồi đó, đứa nhỏ đáng thương. Nếu sáu bảy chục năm trước ngươi đến đây, muốn giải Đại Thanh Liên cổ vốn chẳng phải chuyện gì khó khăn. Có điều, giờ đây Tằm Diên dùng để giải độc chỉ còn lại một lần sử dụng duy nhất. Đối với đại vương của chúng ta, đó là thứ vô cùng trân quý, nếu cho cậu, đại vương sẽ không thể dùng nó để kéo dài tuổi thọ nữa, cậu có hiểu ý của ta không? Cường Ba?”

Trác Mộc Cường Ba vừa thoạt nghe đã lập tức hiểu, thứ gọi là Tằm Diên kia, xem ra không chỉ dùng để giải trừ Đại Thanh Liên cổ, mà còn là một thứ thuốc đại bổ có công dụng như linh đơn diệu dược gì đó. Chẳng có vị quốc vương nào lại không muốn được trường thọ cả, gã muốn dùng thứ đó để giải độc, thực chẳng khác nào đang tranh giành tuổi thọ với Tước Mẫu vương. Nhưng, sáu bảy chục năm trước lại chẳng phải chuyện khó khăn gì, vậy nghĩa là sao? Trác Mộc Cường Ba thầm thấy tức cười: “Sáu bảy chục năm trước? Lúc ấy tôi vẫn còn chưa biết mình ở đâu nữa kia.” Gã bèn hỏi: “Ý của Địch ô đại nhân, là bảo tôi từ bỏ ư?”

Đại Địch ô Thứ Kiệt lắc đầu nói: “Không phải, ý của ta là, nếu các ngươi có thể khiến công chúa mà đại vương coi như châu báu nhìn thấy ánh sáng trở lại, đại vương hẳn sẽ rất vui lòng dùng thứ có thể kéo dài tuổi thọ cho mình để giải độc cho ngươi.”

“Nhưng chúng tôi đều chưa gặp công chúa, tôi không dám chắc có thể giúp công chúa hồi phục được hay không nữa.” Trác Mộc Cường Ba cảm thấy đề nghị này hết sức đột ngột, gã cũng không ngờ vị Địch ô đại nhân này lại đưa ra phương thức trao đổi như thế.

“Chỉ cần các ngươi tận tâm tận lực, đại vương ta sẽ tự biết phán đoán.” Đại Địch ô Thứ Kiệt hơi nghển đầu về phía trước, đến một góc khuất chỉ có Trác Mộc Cường Ba trông thấy, bỗng lộ ra ánh mắt hết sức cổ quái. Quách Nhật Niệm Thanh đứng sau lưng Trác Mộc Cường Ba cũng âm thầm lộ vẻ trầm ngâm suy nghĩ gì đó.

_________

Chú thích:

1. Tương truyền Độ Mẫu (Bồ Tát) có hai mươi mốt hóa thân, Triết Kim Mã và Nhân Nãi Công Tái Mã là tên của hai trong hai mươi mốt hóa thân đó.

CHƯƠNG 59:

VƯƠNG QUỐC YACA THẦN BÍ

Trát Lỗ nói: “Ông nói đến Đại Địch ô Khước Ca Ba Nhiệt ư? Ông ta... là một người vô cùng thần bí, lều của ông ta luôn luôn ở sát bên cạnh lều của đại vương. Phần chóp lều trang trí bằng đuôi bò đen; vô số đầu người khô đét dựng phía bên trên, làm thành nóc lều; dùng ruột người vẫn còn đẫm máu làm dây thừng buộc lều; dùng xương người chết cắm xuống đất thay cho cọc gỗ. Khiến người ta thoạt nhìn, đã thấy lạnh hết cả người.”

Tinh linh tuyết

Từ trong phòng đi ra, Trác Mộc Cường Ba hỏi Quách Nhật Niệm Thanh: “Sáu bảy chục năm trước từng xảy ra chuyện gì vậy?”

Quách Nhật Niệm Thanh gượng cười đáp: “Sáu bảy chục năm trước? E hèm, nghe nói vào thời kỳ đó, cả hai vương quốc đều trở nên lớn mạnh, lớn mạnh đến mức không biết trời cao đất dày là gì nữa, vọng tưởng phản kháng lại người Thượng Qua Ba, xuất binh đánh lên tầng bình đài thứ ba, kết quả khiến toàn quân bị tiêu diệt, lại còn kéo theo cả sự báo thù của người Qua Ba nữa, mười mấy bộ lạc và thôn làng bị tiêu diệt toàn bộ, trong đó có ba thôn làng là nơi duy nhất biết nuôi dưỡng Tằm Diên của cả vương quốc, sau khi họ bị tiêu diệt, Tằm Diên càng ngày càng ít hơn, đến giờ, thì gần như là tuyệt chủng rồi.”

Trác Mộc Cường Ba lập tức liên hệ với sự kiện phản kháng mà Trát Lỗ kể lúc ở trong nhà lao, xem ra là cùng một việc. Gã lại hỏi: “Tằm Diên là gì vậy?”

Quách Nhật Niệm Thanh nghĩ ngợi giây lát, đoạn trả lời: “Một loại sâu, gọi là nhộng thì đúng hơn, thực ra ta cũng chưa từng thấy thứ đó sử dụng như thế nào cả.”

Bước ra khỏi thông đạo, Quách Nhật Niệm Thanh lại dẫn Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam đi vào trong. Trác Mộc Cường Ba nhắc nhở: “Tuyệt đối không được chạm vào vách tường, tốt nhất là đừng nhìn, đặc biệt là Mẫn Mẫn.” Sau đó gã liền đi theo một tên hộ vệ tới một gian đại sảnh khác. Pháp sư Á La và những người khác đều đợi ở đó, mọi người đang nói chuyện vui vẻ, chỉ không thấy đội trưởng Hồ Dương đâu.

“Đội trưởng Hồ Dương đâu rồi?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Nhạc Dương lập tức đáp: “Ừm, được đưa đi chữa trị rồi. Lúc ở trong nhà giam, vết thương ở chân đội trưởng Hồ Dương có vẻ như bị nhiễm trùng.” Lần bị giam giữ này, vết thương của Lữ Cánh Nam đã khỏi, nhưng đội trưởng Hồ Dương lại trở bệnh nặng hơn.

Địch ô An Cát Mẫu lên tiếng: “Cứ yên tâm, loại vết thương này chúng tôi xử lý rất tốt.”

Thì ra đúng như Lữ Cánh Nam suy đoán, hôm đó sau khi thoát khỏi giỏ treo, pháp sư Á La chạy một vòng quanh thành Tước Mẫu, thoát khỏi bọn lính truy đuổi rồi trở lại thôn Công Nhật Lạp, đồng thời mời Địch ô An Cát Mẫu đến làm chứng cho bọn Trác Mộc Cường Ba, thêm nữa cũng có mấy dân làng đến Tước Mẫu, chuyện Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam trị được cho người trúng cổ độc liền lan truyền khắp thành. Lần này, Tước Mẫu vương vội vàng sai Quách Nhật Niệm Thanh đến nhà lao mời các vị khách tôn quý ra, tự nhiên cũng là hy vọng họ có thể trị được loại cổ độc mà con gái mình trúng phải. Trác Mộc Cường Ba cũng kể lại cuộc gặp gỡ với Đại Địch ô Thứ Kiệt, Trương Lập trầm ngâm: “Nói vậy là, nếu chúng ta không chữa được bệnh cho công chúa, Cường Ba thiếu gia chẳng phải là...”

Địch ô An Cát Mẫu cũng nói: “Nếu là Tằm Diên thì đúng là phiền phức lắm, nghe nói chúng đã tuyệt tích từ lâu lắm rồi, không ngờ trong vương cung vẫn còn lưu giữ.”

Trương Lập tò mò nói: “Tằm Diên rốt cuộc là cái gì vậy? Địch ô đại nhân.”

Nhạc Dương chợt thốt lên: “Đúng rồi, tôi nhớ pháp sư Tháp Tây từng nói, muốn giải trừ cổ độc trên người Cường Ba thiếu gia, cần đến một loại sinh vật khác, đã tuyệt tích lâu rồi, lẽ nào chính là thứ Tằm Diên này?”

Pháp sư Á La lắc đầu nói: “Không biết, tôi cũng chưa từng thấy. Nếu có pháp sư Tháp Tây ở đây thì tốt quá, hình như ông ấy từng tình cờ nhìn thấy hình vẽ của loại sinh vật ấy trong thư tịch cổ.”

Địch ô An Cát Mẫu nói: “Truyền thuyết kể rằng, Tằm Diên là do linh hồn của những đứa trẻ chết yểu hóa thành, vì vẫn chưa báo đáp được công lao nuôi nấng của người mẹ, nên chúng không nỡ ra đi, mà chọn lựa sáu mươi năm ẩn mình trong bóng tối tĩnh mịch, chỉ để đổi lấy một ngày sáng bừng lên, dùng tiếng ca bày tỏ lòng cảm ân. Dù là ấu trùng hay đã trưởng thành, thân thể Tằm Diên đều tuyền một màu trắng trong suốt, tựa như ngọc thạch vậy, tối đến sẽ phát ra ánh sáng màu trắng sữa, là một loại côn trùng rất đẹp!”

“A! Tinh linh tuyết!” Trương Lập khe khẽ kêu lên một tiếng, bỗng nhớ lại đêm trước lúc chia tay. Lần này Mã Cát phải chăm sóc những bệnh nhân trúng phải cổ độc, không đến được đây, Trương Lập càng lúc càng thấy nhớ cô hơn.

Địch ô An Cát Mẫu gật đầu nói: “Ừm, đúng thế, vì thân thể chúng trắng như tuyết, nên cũng có người nói đó là những tinh linh do bông tuyết hóa thành. Thuở trước có rất nhiều truyền thuyết về Tằm Diên, nhưng đa phần đều là những câu chuyện bi thương. Tôi cũng chỉ nghe nói, đó là một loại côn trùng nhỏ rất kỳ lạ, tương truyền, trứng của chúng chôn dưới đất hai mươi năm sau mới nở, ấu trùng cũng ẩn mình dưới lòng đất hai mươi năm mới kết thành nhộng, nhộng lại mất thêm hai mươi năm nữa mới biến thể lần thứ hai, sau đó chui lên mặt đất. Dưới ánh mặt trời, chúng chỉ sống được duy nhất một ngày, trong ngày hôm đó, chúng sẽ bay lượn, hát ca, giao phối, đẻ trứng, rồi chết đi. Nghe những người già kể lại, khúc hợp xướng của Tằm Diên là thứ âm nhạc mỹ diệu nhất trên thế gian này, tiếng ca của chúng làm trong sạch linh hồn con người, xua tan mệt mỏi, mang đến niềm vui. Chúng thường xuất hiện vào những lúc mùa màng bội thu, ở phía Đông thôn làng của chúng tôi, các vị chắc đã đi qua một cái hồ nhỏ, thuở trước đó là nơi chúng thích tụ tập quần cư. Thời đó, sau một năm cấy cày vất vả, thu hoạch mùa màng xong xuôi, mọi người thường tụ tập ở nơi có nhiều Tằm Diên nhất, pha một bình trà nóng, ngồi dưới gốc ngô đồng đón cơn gió mát, lặng yên lắng nghe khúc hoan ca cuối cùng của chúng. Bọn chúng thường vừa hát ca, vừa bay lượn quần nhau trên không trung, giao phối xong, con đực sẽ chết ngay, tiếng ca tức thì im bặt, khi dư âm vẫn còn văng vẳng trong không gian, thân thể chúng lả tả rơi xuống tựa những đóa hoa tuyết bay giăng giăng. Còn con cái sẽ thực hiện nốt sứ mệnh cuối cùng, bay đến nơi chúng đã rời khỏi mặt đất, đẻ trứng vào cái hang nhỏ mà chính chúng đã bò ra. Cũng ngày này sáu mươi năm sau, sinh mệnh sẽ được luân hồi một lần nữa. Khi ấy, mọi người lại mang theo niềm vui của một vụ mùa bội thu, tắm mình trong những đóa hoa tuyết cuối thu, ai về nhà nấy. Nếu năm đó Tằm Diên nhiều, năm sau nhất định cũng sẽ được mùa. Lại có truyền thuyết kể rằng, người nào được nghe Tằm Diên hát, cả đời đều sẽ được hạnh phúc.”

Địch ô An Cát Mẫu thở dài: “Tiếc rằng, giờ đây lũ trẻ gần như không còn thấy Tằm Diên nữa rồi.”

Nhạc Dương nói: “Nghe vậy thì hình như Tằm Diên là sinh vật hoang dã, sao lại tuyệt chủng được?”

Địch ô An Cát Mẫu ngần ngừ nói: “Việc này, nói ra thì thật hổ thẹn, không biết từ bao giờ, có một vị Đại Địch ô đã phát hiện ra, ấu trùng của Tằm Diên có thể trừ độc, sau khi ăn vào thân thể sẽ thêm khang kiện, đầu óc sáng suốt. Hơn nữa mùi vị của chúng rất thanh mát, ngọt mà không ngấy, vì vậy chúng liền trở thành món ăn ưa thích nhất của đại vương và các quý tộc, thậm chí còn thay cả thịt trâu bò trở thành món chính trên bàn ăn. Trải qua nhiều đời cố gắng, cuối cùng người ta đã phát hiện ra phương pháp thu hoạch được lượng lớn ấu trùng Tằm Diên, biết cách tìm kiếm những cái hang nơi Tằm Diên đẻ trứng, nên Tằm Diên hoang dã dần dần biến mất. Có điều, cũng may là có mấy bộ tộc đã phát triển được một phương pháp nuôi dưỡng Tằm Diên nhân tạo, từ việc chọn đất, đào lỗ, cấy nhộng, nuôi nhộng, đã hình thành nên một quy mô tương đối lớn, chỉ có điều vẫn không thể nào rút ngắn được thời gian sinh sản của chúng. Có điều, khoảng sáu bảy mươi năm về trước, đã xảy ra một sự kiện khủng khiếp...”

Trác Mộc Cường Ba cười khổ: “Tôi biết rồi, khoảng sáu bảy mươi năm trước, hai vương quốc lớn hợp nhau chống lại người Thượng Qua Ba, kết quả là toàn quân bị tiêu diệt, lại còn khiến người Qua Ba ngay đêm hôm ấy xuất binh tiêu diệt mấy bộ tộc có nhiều người tham gia nhất, hơn nữa mấy bộ tộc đó vừa khéo lại chính là những người duy nhất biết nuôi dưỡng Tằm Diên, vì vậy, phương pháp nuôi Tằm Diên nhân tạo cũng thất truyền rồi, có phải vậy không? Địch ô đại nhân?”

Địch ô An Cát Mẫu giải thích: “Theo tôi được biết, sự thực đúng là như thế. Trước đây, các vị đại vương và quý tộc ăn Tằm Diên có thể sống đến hơn chín mươi tuổi, dù là người sắp chết, ăn được một bát cháo Tằm Diên cũng có thể sống thêm dăm ba ngày nữa. Từ khi những bí mật đó bị phát hiện, tất cả đều diễn ra một cách hết sức tự nhiên. Đến giờ, cũng không thể nói là Tằm Diên đã tuyệt chủng, ở những nơi hoang vu, thỉnh thoảng cũng vẫn nghe thấy tiếng kêu cô lẻ của chúng, chỉ có điều, không còn cảnh cả bầy Tằm Diên lớn hợp xướng nữa, mà chỉ có những con đực một mình hát vang, không sao gọi được lũ Tằm Diên cái đến giao phối đẻ trứng, đành từ từ chết đi...”

Sáu mươi năm ẩn mình trong bóng tối, chỉ để đổi lấy một ngày được hoan ca dưới ánh mặt trời, một quyền lợi nhỏ nhoi như vậy mà cũng bị tước đoạt mất hay sao? Nhạc Dương chợt cảm thấy, những người Shangri-la này thật đáng ghét, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, lẽ nào mình chưa từng làm những chuyện tương tự? Có tư cách gì mà bình phẩm người khác đâu chứ...

“Ủa, mọi người sao vậy?” Lúc này, Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn vừa trở lại, thấy mọi người trong phòng đều chìm trong im lặng, gương mặt rầu rĩ, còn tưởng đã có chuyện gì xảy ra nữa.

“Không có gì.” Trác Mộc Cường Ba bước về phía Đường Mẫn: “Địch ô đại nhân vừa kể một câu chuyện thương tâm thôi.”

Đường Mẫn ngước mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói: “Lát nữa kể cho em nghe với.”

Lữ Cánh Nam nói: “Chúng tôi chỉ đến xem mọi người ở đâu thôi, giờ còn phải đi gặp công chúa đã.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Thương thế của Đại Địch ô Thứ Kiệt thế nào?”

Lữ Cánh Nam nói: “Có một chỗ bị đạn bắn xuyên qua, còn mấy chỗ khác đều chỉ sướt sát, tự họ đã xử lý rất tốt rồi, tôi thấy, chỉ vài ngày nữa là Thứ Kiệt đại nhân có thể xuống giường đi lại bình thường. Ừm, chuyện kia, việc của anh ấy, Thứ Kiệt đại nhân cũng nói với chúng tôi, chúng tôi biết phải làm sao rồi.”

Trác Mộc Cường Ba muốn nói vài câu cảm kích hoặc bày tỏ sự thân thiện, nhưng nhìn Lữ Cánh Nam, lại không sao thốt nổi thành lời, chỉ đành ngượng ngập nửa như cười nửa như không, cuối cùng, lại ngoảnh đầu lại nói với Đường Mẫn: “Em không sợ chứ?”

Đường Mẫn lắc đầu nói: “Đâu có đâu, tuy Thứ Kiệt đại nhân tướng mạo hơi hung ác một chút, nhưng thực ra tâm địa lại rất thiện lương. Nếu ông ấy có thể dùng Tằm Diên được, có lẽ đã trị liệu cổ độc cho anh luôn rồi.”

Lúc này Quách Nhật Niệm Thanh đã xuất hiện ngoài cửa, nói với Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn: “Hai vị, xin mời theo ta.”

Đường Mẫn lại ngước nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói: “Yên tâm đi, bọn em sẽ có cách mà.” Trác Mộc Cường Ba gật đầu, miễn cưỡng nở một nụ cười.

Vốn là, thân thể ngọc ngà của công chúa không thể tùy tiện cho người ngoài kiểm tra, nhưng Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam là hai vị Lục Độ Mẫu, đương nhiên không thể xét theo lẽ thường. Tẩm cung của công chúa được chiếu sáng bằng sáu bảy cột ánh sáng đường kính khoảng một mét, rất sáng sủa. Công chúa A Cát Lập Mẫu quỳ trên tấm thảm da dê, an tường, đoan trang, toát lên một vẻ trầm ổn không hợp với tuổi tác của cô cho lắm.

“Ta có thể tin các người không?” Đây là câu đầu tiên công chúa thốt ra. Sau khi biết những người này đến thăm bệnh cho mình, công chúa hết sức hợp tác, cả một số hành vi tương đối kích thích cô cũng cố gắng chịu đựng, có thể nhận thấy, niềm khát khao với ánh sáng của vị công chúa này đã vượt lên tất cả. Công chúa hết sức gầy gò, sắc mặt trắng bệch bệnh tật. Những chỗ như môi, đầu ngón tay đều không còn sắc máu, xem tình hình nếu không trị liệu, sợ rằng không chỉ còn là vấn đề mất đi thị lực, thân thể cô thực sự là quá gầy gò.

Theo lời kể của Quách Nhật Niệm Thanh, nguyên do chính là bởi người tên Trát Lỗ kia. Ba năm trước, y là một tên văn thư ghi chép trong đoàn sứ giả của vương quốc Yaca đến hòa đàm. Vốn tưởng rằng y chỉ sinh lòng ngưỡng mộ si mê với công chúa sau lần tình cờ gặp gỡ, lại nghĩ đến việc hai nước đang tiến hành hòa đàm, nên đã không bắt y vì tội lén lút đến vườn hoa của công chúa lớn tiếng đọc thơ tình, mà chỉ cảnh cáo đuổi đi. Không ngờ, tên Giang Dũng Trát Lỗ đó lại tiếp cận công chúa với mục đích xấu xa, không lâu sau đó, thân thể công chúa bắt đầu biến đổi, sau khi kiểm tra, Đại Địch ô Thứ Kiệt đã đoán định, đó là do Hắc cổ gây ra. Quả nhiên, thị lực của công chúa bắt đầu giảm sút, đến giờ thì đã gần như hoàn toàn không nhìn thấy gì nữa.

Trát Lỗ chỉ là một tên văn thư quèn, theo lý thì y không thể dùng cổ độc được, Quách Nhật Niệm Thanh suy đoán, là Đại Địch ô của vương quốc Yaca, Khước Ba Ca Nhiệt đã thi triển cổ độc lên người Trát Lỗ, khiến y trở thành kẻ mang mầm độc, khi Trát Lỗ tiếp cận với công chúa, cổ độc liền chạy sang, khiến công chúa trúng độc. Nhưng sau đó, Khước Ca Ba Nhiệt nói gì cũng không chịu thừa nhận chuyện này liên can đến mình, lại còn lớn tiếng tuyên bố mình chưa bao giờ tiếp xúc với Hắc cổ, cũng không biết cách giải trừ. Giang Dũng Trát Lỗ cũng một mực nói mình hoàn toàn không hề hay biết. Quan hệ hai nước suýt chút nữa đã lại rơi vào thế căng thẳng, Quách Nhật Niệm Thanh phải tốn rất nhiều công sức mới duy trì được cục diện ngày hôm nay. Trát Lỗ bị giam giữ vô thời hạn trong nhà ngục của vương quốc Langbu, Đại Địch ô của hai nước cùng hợp lực nghĩ cách vãn hồi thị lực cho công chúa, nhưng cho đến giờ vẫn chưa tìm được cách nào phù hợp.

Ở chỗ Đại Địch ô Thứ Kiệt, Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn đã tìm hiểu sơ bộ về sự biến hóa của bệnh tình của công chúa, song vẫn còn một số chi tiết cần công chúa kiểm chứng lại, công chúa đều nhất nhất trả lời đầy đủ. Lúc mới bắt đầu, công chúa từng có triệu chứng da dẻ toàn thân ngứa ngáy khó chịu, điểm này hết sức quan trọng, vì Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam đều biết rằng, đây là phản ứng điển hình của cơ chế phòng vệ trong cơ thể người khi có sinh vật dị thể xâm nhập, y học gọi là phản ứng dị ứng. Sau đó, công chúa bắt đầu gầy rộc đi, chứng tỏ chất dinh dưỡng trong cơ thể cô đã bị ký sinh vật hấp thu mất, nên thiếu dinh dưỡng để duy trì cơ thể. Khoảng một năm trước, công chúa phát hiện ra dưới da mình có mấy chỗ gồ lên, ấn vào thấy đau, lại có thể di chuyển, sau đó lại nhận thấy, dưới da khắp chỗ nào cũng có những khối u lớn thì bằng hạt lạc, nhỏ thì bằng hạt gạo, lại còn sờ thấy một vài vật dài dài như sợi dây. Nghe ả nữ tỳ nói, từ đó, nước tiểu của công chúa cũng bắt đầu có màu trắng như nước gạo.

Sau khi lần lượt kiểm chứng các dấu hiệu bệnh trạng, Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn đã xác nhận, công chúa mắc phải một loại bệnh do ký sinh trùng gây ra. Trứng của ký sinh trùng sau khi xâm nhập vào cơ thể thông qua các loài vật truyền nhiễm như ruồi nhặng, sẽ khiến da dẻ ngứa ngáy, tróc lở, sau đó chúng sẽ sinh sôi nảy nở bên trong cơ thể, hấp thu chất dinh dưỡng, rồi xác ký sinh trùng chết vẫn ở lại trong cơ thể, tạo thành hạch. Ngoài ra, một số ký sinh trùng xâm nhập được vào mạch bạch huyết, gây mưng mủ và làm tắc nghẽn mạch bạch huyết, tạo ra những vật hình dạng như sợi dây dưới biểu bì, và nước tiểu màu trắng sữa.

Sau khi đưa ra kết luận này, hai cô đều thầm thở phào, vì xét cho cùng, đối với y học hiện đại, bệnh do ký sinh trùng gây ra cũng là loại tương đối dễ trị, nếu công chúa bị biến đổi gien gì đó, thì họ đúng là chỉ còn nước bó tay. Ngoài ra, công chúa còn bị viêm giác mạc rất nặng, nếu không kịp thời trị liệu, giác mạc bị thủng thì muốn khôi phục được thị lực e rằng sẽ khó lại càng thêm khó.

Song họ vẫn cần kiểm tra thêm để làm rõ nguyên nhân ký sinh trùng khiến công chúa bị mù, trước tiên cần phải xác định được chủng loại ký sinh trùng. Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam phân tích, nếu là ký sinh trùng loại lớn, thì đã bị phát hiện từ trước rồi, nhưng loại kỳ sinh trùng này lại rất nhỏ. Nếu là ấu trùng Micromaria hay Streptocerca đã tương đối khó khăn, còn có khả năng là ấu trùng Sparganum xâm nhập đại não, vậy thì càng khó xử lý hơn.

Tuy Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam không phải chuyên gia y tế, nhưng may là họ còn có chiếc máy tính của giáo sư Phương Tân. Sau khi nhập các triệu chứng thu thập được vào hệ thống, đặt lệnh tìm kiếm những chứng bệnh đã được biết đến, cuối cùng hệ thống đưa ra hơn mười loại bệnh khác nhau. Khi thấy một chứng bệnh trên màn hình, hai người gần như cùng lúc thốt lên: “Bệnh mù sông(1)!”

Họ vội vàng quay lại đối chiếu với bệnh tình của công chúa, cuối cùng xác nhận, công chúa mắc phải bệnh mù sông hoặc một loại bệnh ký sinh trùng rất gần với bệnh này. Đây là một loại bệnh dịch được phát hiện lần đầu tiên ở châu Phi, đồng thời từng hoành hành ở châu lục này, khiến cho mỗi năm có khoảng gần ba trăm nghìn người châu Phi mất đi ánh sáng!

Tư liệu cho thấy: bệnh mù sông, hay còn gọi là bệnh Onchocerciasis, phổ biến ở các khu vực nhiệt đới, thường gặp nhất là ở châu Phi và Nam Mỹ, do loài nhặng đen hoặc muỗi vằn truyền nhiễm. Nhặng đen này thường sinh đẻ ở những dòng sông nhỏ nước chảy xiết, vì vậy mới gọi là bệnh mù sông. Ấu trùng của loài trùng xoắn Onchocerca tồn tại trong da người, đi vào cơ thể nhặng đen khi chúng hút máu, đồng thời phát dục trở thành ấu trùng gây bệnh trong đó, rồi lại truyền cho những vật chủ khác khi lũ nhặng đen hút máu. Ấu trùng trưởng thành trong một năm, đồng thời hình thành nên các hạch dưới da, đường kính từ vài mi li mét đến một xăng ti mét. Ký sinh trùng bên trong hạch có thể dài đến một mét, cuộn xoắn lại thành hình cầu, con cái có thể sống trong những hạch sâu bên dưới da khoảng mười lăm năm. Con đực di chuyển giữa các hạch, đồng thời định kỳ thụ tinh cho các con cái. Mỗi ngày chúng có thể sinh sản vài triệu ấu trùng, những ấu trùng này chủ yếu dịch chuyển bên dưới biểu bì và xâm phạm đến mắt.

Điều khiến họ lo lắng là, trước mắt vẫn chưa có thứ thuốc đặc hiệu nào có thể đối phó với loại ký sinh trùng này, phương pháp duy nhất đạt được hiệu quả chính là tiến hành phẫu thuật loại bỏ các hạch dưới da, đồng thời phối hợp với các loại thuốc khác.

Đường Mẫn nắm cánh tay gầy như que củi của công chúa, lần rờ lên phía trên, thấy toàn là các khối u và những tuyến bạch huyết bị tắc nghẽn, vừa nghĩ đến chuyện mỗi khối hạch ấy có khả năng là một con ký sinh trùng dài cả mét, cảm thấy toàn thân ớn lạnh. Lữ Cánh Nam cũng nắm cánh tay còn lại của công chúa, cất tiếng hỏi: “Tính sao?”

Đường Mẫn ngẩn người, rồi lập tức hiểu ra, lắc đầu nói: “Phẫu thuật ngoại khoa, tôi không làm được đâu.”

“Tại sao?”

“Chị biết rồi mà, tôi chỉ có thể làm trợ thủ, chưa bao giờ cầm dao mổ, hơn nữa, những dụng cụ phẫu thuật đó của chúng ta cũng không hoàn toàn thích hợp sử dụng trong trường hợp này, dù có thể loại bỏ được những khối hạch dưới da, nhưng còn ở sâu hơn thì sao, bên trong các khớp xương và trong nội tạng nữa, chúng ta không thể làm được đâu!”

“Nói vậy thì, chúng ta chỉ có thể tạm thời khống chế bệnh viêm giác mạc thôi. Có điều, Mẫn Mẫn này, cô nói xem tại sao công chúa mắc bệnh mù sông mà những người xung quanh cô ấy lại không bị truyền nhiễm nhỉ?”

“Tôi nghĩ, là do không có vật truyền nhiễm, loài nhặng đen đó không thích hợp sống trong môi trường ở nơi này, chắc là có người cố ý lợi dụng...”

“Tức là, chúng ta có thể cho rằng đây là một hành vi được mưu tính từ trước...”

Công chúa Lạp Mẫu nghe hai người họ thay đổi cách nói chuyện, bèn mỉm cười nói: “Hai vị, vẫn không được phải không? Không sao đâu, Lạp Mẫu từ lâu đã chấp nhận sự thực này, có lẽ, tại vì phụ vương ăn quá nhiều Tằm Diên, nên trời cao mới trừng phạt người thế này!”

“Không, Lạp Mẫu, không phải vậy đâu, chúng tôi cần kiểm tra lại một chút nữa.” Đường Mẫn vội trả lời.

“Thật không? Tôi có thể tin cậy các vị được không?”

“Yên tâm, chúng tôi nhất định sẽ cố gắng hết sức.”

___________

Chú thích:

1. River Blindness.

Bệnh mù sông

Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam vừa tiếp tục kiểm tra cơ thể cho Lạp Mẫu, vừa nói chuyện với cô để phân tán sự chú ý. Trong lúc trò chuyện, họ nhận thấy vị công chúa này ở trong thâm cung đã lâu, gần như hoàn toàn không hề hay biết những chuyện xảy ra ngoài cung, càng không cần phải nói đến những chuyện ở thế giới bên ngoài, cô chỉ biết một vài truyền thuyết và chuyện kể xa xưa, chắc cũng là nghe từ các cung nữ trong lúc nhàn rỗi. Khi công chúa nghe nói Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn ở nhà lao ra, liền lập tức hỏi thăm về Trát Lỗ.

Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam lấy làm kỳ quái, người tên Trát Lỗ đó chẳng phải chính là nguyên hung khiến công chúa mất đi ánh sáng hay sao? Công chúa Lạp Mẫu lắc đầu nói: “Không, Trát Lỗ vô tội, tôi tin anh ta không làm thế, mà chỉ muốn tặng cho tôi những vần thơ đẹp thôi. Sở dĩ tôi bị thế này, nhất định là do phụ vương ăn quá nhiều Tằm Diên, tôi chỉ là kẻ gánh chịu lời nguyền thay cho người mà thôi.” Hàng lông mi dài của cô cụp xuống, rồi cô khẽ cất tiếng thở dài: “Chắc hẳn Trát Lỗ đã chịu nhiều khổ sở rồi.”

Đường Mẫn không nén được thầm nhủ: “Cô bé đáng thương, vì không nhẫn tâm tổn thương bất cứ ai, mà một mực tin rằng mình bị nguyền rủa ư? Có lẽ làm vậy cũng khiến cô ấy thấy dễ chịu hơn phần nào chăng?”

Họ nhanh chóng bắt chuyện được với công chúa. Công chúa Lạp Mẫu hỏi thăm về Trát Lỗ, rồi cứ nhắc đi nhắc lại những lời kiểu như “phụ vương tuổi tác đã cao, mà mình thì mắt có bệnh nên không thể chăm sóc cho người, thực sự rất áy náy...”. Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam thay nhau nhẹ nhàng khuyên nhủ, để cô yên tâm, tâm lý cũng thoải mái phần nào. Nhưng kết quả kiểm tra lại khiến họ vô cùng bất an, vì kết quả siêu âm màu 3D đúng như Đường Mẫn dự đoán, công chúa không chỉ có hạch dưới da, mà trong các cơ quan nội tạng cũng có. Tệ hại nhất là, trong xương sọ của cô cũng có một chỗ kết hạch, đè lên dây thần kinh thị lực, đó mới chính là nguyên nhân thực sự khiến thị lực của công chúa sút giảm.

Kết quả này khiến họ nhất thời cũng chưa nghĩ ra được cách nào khả thi. Nếu chỉ có hạch ở dưới da, họ còn có thể mạo hiểm thử một phen, nhưng phẫu thuật mở hộp sọ đâu phải chuyện người chưa từng cầm đến dao phẫu thuật có thể dễ dàng thử nghiệm! Có điều, công chúa Lạp Mẫu lại tỏ ra rất lạc quan thoải mái, nói chuyện với Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn một hồi, ngược lại còn an ủi họ: “Không sao đâu, tôi đã ốm yếu thế này từ lâu rồi, hai người tận tâm thăm bệnh cho tôi như thế, tôi cảm kích còn chẳng kịp nữa là. Thực ra, trước khi mọi người đến đây, phụ vương đã báo cho tôi một tin tốt lành rồi. Vương quốc Yaca đã thay một vị Đại Địch ô mới, vị tân nhiệm Đại Địch ô đó nghe nói còn lợi hại hơn Khước Ca Ba Nhiệt trước đây cả chục lần, sứ giả cũng phái đi rồi. Hai chị đã nói, bệnh này có thể trị được, vậy thì, tôi nghĩ, nhất định là sẽ chữa được thôi.”

“Đại Địch ô mới?” Lữ Cánh Nam hỏi: “Chuyện xảy ra lúc nào vậy?”

Công chúa Lạp Mẫu đáp: “Phụ vương cũng mới biết tin này mấy ngày trước thôi, thấy bảo rằng vị Đại Địch ô mới đó từ tầng bình đài thứ ba xuống đây khoảng hơn một tháng trước, mọi người đều đang suy đoán, biết đâu ông ta và người Thượng Qua Ba lại có quan hệ gì cũng nên.” Nói tới đây, cô khẽ gật gật đầu: “Vì vậy, mọi người không cần lo lắng cho bệnh tình của tôi đâu, còn việc của Cường Ba thiếu gia, tôi sẽ giúp các vị thỉnh cầu phụ vương. Phụ vương không phải là người ngoan cố, tôi nghĩ, chắc người cũng không gạt bỏ lời thỉnh cầu của con gái mình đâu.”

Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam lẳng lặng nhìn nhau, với tình hình trước mắt, e rằng cũng chỉ còn cách đó mà thôi. Công chúa Lạp Mẫu lại nói: “Đợi khi nào mắt tôi khỏi hẳn, nhất định phải xem mặt vị Cường Ba thiếu gia đó mới được. Chắc hẳn người đó cao lớn anh tuấn lắm, nên hai chị mới quan tâm lo lắng đến thế, phải không?”

Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam đều không hẹn mà cùng ngoảnh đi né tránh ánh mắt của đối phương.

Họ kiểm tra cho công chúa hơn một tiếng đồng hồ rồi mới rời khỏi tẩm cung của cô. Vừa thấy Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam ủ rũ bước ra, Quách Nhật Niệm Thanh lập tức nở một nụ cười nhiệt tình niềm nở, ân cần hỏi han: “Sao rồi? Có cách gì không?”

Đường Mẫn lấy làm áy náy trả lời: “Chúng tôi biết công chúa mắc phải bệnh gì, cũng biết cách trị liệu thế nào, nhưng lại không thể chữa trị được.”

Nghe Đường Mẫn trả lời như thế, gương mặt Quách Nhật Niệm Thanh liền lộ vẻ vừa kinh ngạc lại vừa sợ hãi, vừa mừng lại vừa lo, thần tình vô cùng phức tạp: “Vậy... vậy nghĩa là sao? Các vị biết công chúa mắc bệnh gì, cũng biết cách trị liệu, nhưng lại không thể chữa trị được?”

Đường Mẫn phải rất cố gắng mới giải thích cho Quách Nhật Niệm Thanh hiểu được, họ không có công cụ và kỹ thuật để chữa trị cho công chúa, mà chỉ có đáp án trên lý thuyết. Quách Nhật Niệm Thanh trầm ngâm nghĩ ngợi một lúc, rồi nói với hai người: “Ta biết các vị cần gì rồi, xin mời đi theo ta.”

Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam ngờ vực đi theo Quách Nhật Niệm Thanh, đến một gian phòng đá khác. Y lấy ra một cái túi da bò được buộc hết sức cẩn thận, bên trong đựng đầy các loại công cụ kỳ hình quái trạng. Những thứ ấy, đa phần đều được làm bằng bạc hoặc hợp kim đồng, nhiều món có lưỡi dao rất sắc bén, lại có món cong cong như móc câu, hoặc hình dạng như gọng kìm, kéo, cờ lê, cưa, lưỡi rìu...

“Đây là gì vậy?” Nhìn những công cụ kỳ dị mà vô cùng sắc bén hình chữ “công(1)”, hình chữ “T”, hình chữ “Thổ(2)”, Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam đều bối rối. Ấn tượng đầu tiên của họ khi tiếp xúc với những thứ này là phỏng đoán đây có lẽ là các thứ hình cụ khiến người ta đau đớn, dùng trong lúc tra khảo, thẩm vấn.

“Công cụ... thứ mà các vị cần, chính là những công cụ có thể cắt da, thịt, xương...” Quách Nhật Niệm Thanh lại giải thích một hồi, Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam mới dần dần hiểu ra. Quách Nhật Niệm Thanh hy vọng họ có thể dùng những thứ hình dạng kỳ quái trông tựa như hình cụ tra tấn này để phẫu thuật cho công chúa Lạp Mẫu.

“Không, không, không, không thể được, thứ này làm sao có thể dùng để phẫu thuật? Không được, không được!” Đường Mẫn vội vàng xua tay rối rít, lại mất công giải thích thêm một lượt nữa.

Cuối cùng Quách Nhật Niệm Thanh cũng hiểu ra, Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam thậm chí còn chưa từng thấy những công cụ phẫu thuật ấy bao giờ, nói gì đến việc sử dụng chúng. Y thở dài nói: “Thật không ngờ, các vị cũng giống như Thứ Kiệt đại nhân, lẽ nào đây là ý trời?”

Đường Mẫn nghe vậy bèn hỏi: “Ý ông là sao?”

Quách Nhật Niệm Thanh bèn giải thích, thì ra, sau khi kiểm tra thân thể cho công chúa, Đại Địch ô Thứ Kiệt cũng nói cần phải loại trừ những khối hạch ấy, nhưng lại không biết làm thế nào. Những công cụ này là do sư phụ của sư phụ của sư phụ... của Thứ Kiệt đại nhân truyền lại, cách dùng đã thất truyền từ lâu lắm rồi. Cuối cùng, Đại Địch ô Thứ Kiệt chỉ đành kê cho công chúa một vài thứ thuốc, bảo rằng có thể làm chậm sự suy yếu của thị lực, nhưng không thể chữa tận gốc được.

“Lẽ nào, thật sự không còn cách gì sao?” Vẻ mặt của Quách Nhật Niệm Thanh khiến người ta không thể nhận ra y đang mừng rỡ hay ưu tư, hoặc có lẽ là cả hai cũng nên.

Lữ Cánh Nam nói: “Trong các loại thuốc chúng tôi mang theo, giờ chỉ có thuốc chữa viêm giác mạc, và thuốc trừ ký sinh trùng tác dụng trên diện rộng, loại thứ nhất không thể giải quyết tận gốc vấn đề, loại thứ hai lại chẳng hiệu quả gì với bệnh tình của công chúa cả. Thật xin lỗi, chúng tôi đã cố gắng hết sức rồi.”

Quách Nhật Niệm Thanh thở dài một tiếng: “Ừm, vậy được rồi, ta sẽ thông báo mọi việc lại với đại vương, có thể làm bệnh tình công chúa thuyên giảm phần nào cũng là tốt lắm rồi. Giờ chỉ còn biết chờ xem đoàn sứ giả đi Yaca kia có mang về tin tốt lành gì không, biết đâu đại vương cao hứng lên, lại đồng ý trị liệu cho Trác Mộc Cường Ba thì sao.”

Đường Mẫn nói: “Phải rồi, Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân, chúng tôi hoàn toàn không biết gì về chuyện đoàn sứ giả, nếu đã phái người đến Yaca mời Đại Địch ô của họ đến, vậy tại sao còn nhất định muốn chúng tôi thăm bệnh cho công chúa làm gì nữa?”

Quách Nhật Niệm Thanh đáp: “Dù chỉ có một tia hy vọng, đại vương của chúng ta cũng tuyệt đối không bỏ qua. Sau khi biết được tin vương quốc Yaca có Đại Địch ô mới, ngay đêm hôm đó đoàn sứ giả đã xuất phát lên đường rồi, từ đây có thể thấy đại vương lo lắng cho bệnh tình công chúa đến nhường nào.”

Quách Nhật Niệm Thanh dẫn hai người đến vương cung, Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam lại giải thích về bệnh tình của công chúa với Tước Mẫu vương, nhìn bộ dạng lo lắng như có lửa đốt trong lòng của vị quốc vương già, Đường Mẫn không khỏi bồi hồi thương cảm. Cuối cùng, cô nói: “Thuốc của chúng tôi cũng có ích cho bệnh viêm giác mạc mãn tính của công chúa, chỉ cần nhỏ thuốc đúng giờ như chúng tôi đã căn dặn, nói không chừng, bệnh mắt của công chúa nay mai sẽ thuyên giảm phần nào.”

Tước Mẫu vương nãy giờ vẫn chau mày nhăn mặt, nghe thấy lời này của cô, hai mắt liền sáng rỡ, vui mừng nói: “Hay lắm, nếu các vị thực sự khiến bệnh tình của con gái ta khởi sắc, bản vương cũng sẽ dốc hết sức cứu trị cho người dẫn đầu Trác Mộc Cường Ba của các vị, quyết chẳng nuốt lời.”

Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam cũng hết sức hân hoan, cả hai đều không sao cầm lòng được, đôi bàn tay nắm chặt lấy nhau. Cuối cùng, cũng thấy được một tia hy vọng rồi. Lúc hai người vẫn còn đang hoan hỉ, Tước Mẫu vương và Quách Nhật Niệm Thanh dường như đã trao đổi gì đó, sắc mặt vị quốc vương hơi biến đổi, tiếp đó liền cất tiếng hỏi: “Ừm... bản vương có thể tin các vị được không?”

Đường Mẫn nói: “Đại vương yên tâm, ngày mai ngài có thể tự mình đi hỏi xem công chúa thấy thế nào?”

Tước Mẫu vương gật đầu nói: “Ừm, vậy các vị có thể lui được rồi. Quách Nhật Niệm Thanh tướng quân, ngươi ở lại đây.”

Trên đường, Lữ Cánh Nam hỏi Đường Mẫn: “Có cảm thấy công chúa Lạp mẫu và Tước Mẫu vương có gì đó không ổn không?”

“Hả? Có gì đâu?”

“Tôi cảm thấy, A Cát Lạp Mẫu dường như muốn ám thị cho chúng ta điều gì đó. Cô ấy nhiều lần nhắc đến việc cha mình tuổi tác đã cao, lại hỏi đi hỏi lại xem chúng ta có đáng tin cậy không, cảm giác như thể có lời gì đó vẫn chưa nói ra vậy.”

“Chị đa nghi quá rồi, giáo quan. Đối với công chúa, chúng ta chỉ là người ngoài mà thôi, cô ấy quanh năm ở chốn thâm cung, tự nhiên là phải thận trọng hơn rồi. Vừa nãy, Tước Mẫu vương cũng nói những lời y như vậy, lẽ nào ông ta cũng có chuyện không dám nói với chúng ta hay sao?”

“Có lẽ là tôi hơi lo lắng quá thật.”

Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam trở về phòng nghỉ, đội trưởng Hồ Dương cũng đã quay về đây, vết thương ở chân đã được xử lý ổn thỏa và băng bó lại. Sau khi kiểm tra, Đường Mẫn phát hiện, trình độ y học của những người Tước Mẫu này không hề thấp hơn họ.

“Bệnh mù sông, thật sự khó chữa vậy sao?” Nghe Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn tả bệnh tình của công chúa Lạp Mẫu, Nhạc Dương ngửa đầu ra sau, dựa vào tường.

Đường Mẫn nói: “Cần phải làm phẫu thuật, khối hạch đè lên dây thần kinh thị giác vẫn còn ở trong giai đoạn phát triển, một khi dây thần kinh bị đứt hẳn, thì sẽ không bao giờ hồi phục được thị lực nữa. Đáng tiếc là nơi này hoàn toàn không đủ điều kiện để thực hiện phẫu thuật. Muốn tiến hành phẫu thuật mở hộp sọ, thì phải bệnh viện cao cấp đầu ngành mới triển khai được.”

Pháp sư Á La lại hỏi: “Có tin gì mới về đoàn sứ giả và vị Đại Địch ô mới của vương quốc Yaca không?”

Lữ Cánh Nam lắc đầu nói: “Có vẻ như bọn họ mới được tin vài hôm trước, cũng không có nhiều thông tin lắm. Xem ra, thái độ của Tước Mẫu vương rốt cuộc thế nào, phải đợi đến ngày mai mới có kết quả rồi.”

“Tại sao?” Trương Lập thắc mắc.

Đường Mẫn giải thích: “Chúng tôi đã kê cho công chúa thuốc chuyên trị viêm giác mạc cấp và mãn tính, hiệu quả trong thời gian ngắn rất rõ rệt, chỉ cần công chúa nhỏ thuốc đúng giờ, ngày mai sẽ thấy hiệu quả ngay.”

Sáng sớm hôm sau, Tước Mẫu vương cho mời họ đến dùng bữa sáng, khiến ai nấy đều mừng ra mặt. Điều này chứng tỏ thuốc nhỏ mắt đã có hiệu quả, thái độ của Tước Mẫu vương đang từng bước chuyển biến, cổ độc trong người Trác Mộc Cường Ba đã có hy vọng giải trừ.

Trong phòng ăn, Tước Mẫu vương ngồi chính giữa, cứ nheo mắt cười nhìn bọn họ. Công chúa được cung nữ đỡ vào ngồi bên cạnh, trên bàn bày đủ các loại thức ăn hết sức phong phú. Đối với đám người đang thường xuyên phải ăn thực phẩm nén qua ngày như họ, đây đích thực là bữa sáng thịnh soạn nhất trong cả quãng thời gian dài gần đây.

“Mời dùng, xin đừng khách khí, đây chỉ là một chút để bày tỏ lòng cảm kích của ta với các vị.” Tước Mẫu vương mỉm cười: “Sáng sớm hôm nay, con gái ta nói, mắt nó cảm thấy rất dễ chịu, tựa hồ đã lờ mờ thấy được các thứ. Linh dược của các vị quả nhiên rất hiệu quả, bản vương thực sự vô cùng cảm kích.”

Trong bữa ăn, Tước Mẫu vương lại không tiếc lời tán dương bọn họ, nào là pháp sư Á La đạo hạnh cao thâm, đội trưởng Hồ Dương nhìn xa trông rộng, Nhạc Dương, Trương Lập anh tuấn phi phàm, Trác Mộc Cường Ba, Ba Tang trưởng thành mà hấp dẫn, Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam thì càng không cần phải nhắc, những lời dạng như tiên nữ hạ phàm, thiên tiên giáng thế cứ tuôn ra ào ạt, nhưng chỉ tuyệt nhiên không nhắc đến chuyện Tằm Diên mà thôi.

Thấy bữa tiệc sắp tàn, Đường Mẫn cuối cùng cũng không nén được, cất tiếng hỏi: “À, đại vương tôn kính, xin hỏi, ngài... ngài có thể giúp Cường Ba, cổ độc trong mình anh ấy...”

“À... cổ? Các vị khách tôn quý cũng nghe nói đến chiến cổ của chúng ta sao? Đó là một thứ vũ khí lợi hại trên chiến trường đấy...”

“Đại vương tôn kính, cô ấy không nói đến chiến cổ, mà là cổ độc trên người Trác Mộc Cường Ba, đội trưởng của chúng tôi, Thứ Kiệt đại nhân nói cần phải dùng đến Tằm Diên mà chỉ quý quốc mới sở hữu để trị liệu, ngài đã nhận lời chúng tôi, chỉ cần chúng tôi giúp chữa cho mắt công chúa, ngài sẽ giúp chúng tôi trị bệnh cho Cường Ba thiếu gia. Bệnh tình của công chúa, chúng tôi đã tận hết sức lực rồi. Còn về bệnh của Cường Ba thiếu gia, không biết đại vương chuẩn bị giúp chúng tôi thế nào. Chúng tôi cần một câu trả lời của ngài.” Thấy vị Tước Mẫu vương này thực sự quá đáng ghét, Lữ Cánh Nam cũng không muốn giả bộ khách khí với lão nữa, nói thẳng ra luôn.

“Phụ vương!” Cả công chúa Lạp Mẫu cũng thoáng lộ sắc giận, ngước mặt về phía Tước Mẫu vương.

“À... à..., chuyện này... chậc chậc, các vị thấy cái tai này của ta tệ chưa, già rồi mà, già rồi!” Tước Mẫu vương cười gượng gạo nói: “Chuyện là thế này, các vị khách tôn quý, xin các vị nghe ta nói đã...”

Đúng lúc này, một tên lính chạy vào thông báo có Quách Nhật Niệm Thanh xin gặp. Tước Mẫu vương giận dữ quát: “Y không biết ta đang dùng cơm với các vị khách tôn quý hả? Lúc này thì có chuyện gì chứ?”

Tên lính vội nhỏ giọng đáp: “Việc liên quan đến đoàn sứ giả.”

“Ồ!” Tước Mẫu vương đứng lên nói: “Cho y vào đây.”

Quách Nhật Niệm Thanh rảo chân bước nhanh vào, ghé miệng sát tai Tước Mẫu vương thì thầm mấy câu gì đó, đoạn liếc mắt sang phía bọn Trác Mộc Cường Ba. Tước Mẫu vương hơi nhíu mày, cũng len lén nhìn về phía Trác Mộc Cường Ba, ánh mắt lộ vẻ bất an, làm cả bọn đều không khỏi ngấm ngầm hoang mang. Lẽ nào đã xảy ra biến cố gì? Nhưng, đoàn sứ giả kia thì liên quan gì đến họ đâu chứ?

Quả nhiên, Tước Mẫu vương nghe Quách Nhật Niệm Thanh thầm thì một hồi, liền bất an đan hai tay vào nhau, nhăn nhó nói: “Các vị khách tôn quý, ta, ta thực không biết nên nói thế nào nữa. Đoàn sứ giả ta phái đi Yaca vừa mới trở về, họ mang theo một tin tức... ừm, Đại Địch ô mới của họ đã đồng ý trị bệnh cho con gái ta, nhưng mà, điều kiện của ông ta, chính là... Tằm Diên!”

“Hả!” “Cái gì?” Nhạc Dương và Trương Lập gần như cùng lúc nhảy dựng lên. “Lẽ nào các người muốn trở mặt?” “Thế này là thế nào?” Cả hai đồng thời tức giận chất vấn.

Quách Nhật Niệm Thanh vội dùng giọng điệu độc đáo chỉ riêng mình y mới có khuyên can: “Các vị khách tôn quý, xin bớt giận, bớt giận. Tin tức này, chúng ta cũng vừa mới nhận được thôi mà.”

Tước Mẫu vương xòe hai tay ra, làm bộ bất lực nói: “Các vị khách tôn quý, đây cũng là chuyện vạn bất đắc dĩ, các vị thấy đó, việc này...”

Công chúa Lạp Mẫu biết sự việc có liên quan đến mình, cũng chỉ biết im lặng, Tước Mẫu vương liền sai cung nữ đưa cô trở về.

Đội trưởng Hồ Dương thầm nhủ: “Lại có chuyện trùng hợp vậy sao? Lẽ nào đây chỉ là một vở kịch được sắp sẵn từ trước? Không giống lắm...”

“Làm gì có chuyện trùng hợp như vậy chứ! Chúng tôi không đến, chẳng ai cần đến cái thứ Tằm Diên gì đó cả, chúng tôi vừa xuất hiện, ai ai cũng muốn tranh muốn cướp là sao!” Nhạc Dương không nhịn nổi, nói trắng ra. Nói ra xong, anh mới thấy pháp sư Á La đang trừng mắt lên nhìn mình.

Quả nhiên, sắc mặt Tước Mẫu vương và Quách Nhật Niệm Thanh đều không được dễ coi cho lắm. Một lúc sau, Quách Nhật Niệm Thanh mới phản ứng, giọng nói nam không ra nam, nữ chẳng ra nữ ấy du dương cất lên: “Ôi chao ôi, các vị khách tôn quý, các vị hiểu lầm rồi. Sự thực là, Tằm Diên có thể trị được bách bệnh, kéo dài tuổi thọ, người ở hai vương quốc chúng ta ai mà chẳng biết, cũng có ai không muốn sở hữu nó đâu chứ? Chỉ là đám người Yaca ấy không có cơ hội mà thôi. Vị Đại Địch ô mới kia hiển nhiên cũng biết đó là đồ tốt, cũng biết đại vương của chúng ta cực kỳ yêu thương công chúa, vì vậy đòi hỏi chúng ta thứ ấy cũng là chuyện hết sức bình thường thôi.”

“Nhưng... chúng tôi đến trước mà...”

“Nhưng các vị cũng không thể khiến công chúa hoàn toàn bình phục mà!”

“Ông... các người...” Hai bên bắt đầu rơi cục diện bế tắc.

Đường Mẫn khẽ nắm lấy tay Trác Mộc Cường Ba, lo lắng đến độ sắp rơi nước mắt. Trác Mộc Cường Ba mỉm cười an ủi cô: “Số phận thích trêu cợt con người, chúng ta cứ coi như chưa từng xảy ra chuyện này là được rồi.”

Ba Tang lẳng lặng hỏi: “Giết sạch bọn chúng, cướp đồ về?”

Trác Mộc Cường Ba vội lắc đầu.

“Vị Đại Địch ô của Yaca kia có dám đảm bảo sẽ chữa được mắt cho công chúa không? Chắc là không chứ, thậm chí ông ta còn chưa gặp mặt công chúa bao giờ cơ mà.” Đội trưởng Hồ Dương gãi đúng vào chỗ ngứa, chỉ ra điểm mấu chốt của vấn đề.

“Phải đó, nếu ông ta chỉ muốn gạt lấy Tằm Diên của các vị thì sao?” Nhạc Dương vội vàng hùa theo.

Tước Mẫu vương xoa xoa lên những nếp nhăn trên trán: “Việc này, cũng chẳng còn cách nào khác. Vì đứa con gái này, ta đành phải thử thôi, chỉ cần còn một tia hy vọng, ta chẳng tiếc bất cứ bảo vật nào cả.” Những lời này nghe như chém đinh chặt sắt, tựa hồ vị Tước Mẫu vương lúc nãy vẫn còn lắp ba lắp bắp khi nhắc đến Tằm Diên đã hoàn toàn biến thành một con người khác rồi vậy.

Quách Nhật Niệm Thanh đứng bên cũng nói: “Vì vị Đại Địch ô đó bị thương nặng ở chân, không thể đi lại được, nên chúng ta phải đưa công chúa tới đó trước, sau đó cùng họ thành lập minh ước thần thánh, trước khi Đại Địch ô của họ chữa khỏi bệnh cho công chúa, thì không thể nào có được Tằm Diên.”

Trương Lập “hừ” khẽ một tiếng, thầm nhủ, minh ước thần thánh cái quái gì chứ, nếu Yaca có đủ thực lực quân sự, minh ước gì cũng chẳng có tác dụng. Nếu người Yaca mang công chúa ra uy hiếp các người, ông có dám không lấy Tằm Diên ra đổi người hay không?

Lúc này, pháp sư Á La chợt lên tiếng hỏi: “Vị Đại Địch ô mới của vương quốc Yaca đó tên là gì?”

Quách Nhật Niệm Thanh lắc đầu nói: “Ừm, chuyện này thì không rõ lắm, người Yaca đều gọi ông ta là Qua Ba Đại Địch ô, vì nghe nói ông ta từ tầng bình đài thứ ba xuống đây.”

_________

Chú thích:

1.

2.

Điều kiện của Tước Mẫu vương

Pháp sư Á La lại hỏi tiếp: “Các vị có biết tân nhiệm Đại Địch ô đến Yaca vào khoảng thời gian nào không? Tương đối chính xác một chút.”

Quách Nhật Niệm Thanh chau mày nói: “Chúng ta cũng chỉ nghe nói, vị Qua Ba Đại Địch ô ấy đến vương trướng của Yaca khoảng một tháng trước, hiện giờ họ đang đóng trại ở Nhật Mã Ca Tùng. Trước đấy, hình như là ở Á Nhật, dân du mục đã phát hiện ra ông ta, khi đó, vị Đại Địch ô ấy bị thương rất nặng, ông ta tự xưng là người từ tầng bình đài thứ ba xuống.”

Pháp sư Á La trầm ngâm, tựa hồ đang suy nghĩ gì đó. Tước Mẫu vương tỏ vẻ quan tâm, cất tiếng giải thích: “Không phải ta không muốn dùng Tằm Diên để cứu tính mạng Trác Mộc Cường Ba, chỉ là thực sự không ngờ lại xảy ra chuyện ngoài ý muốn như vậy, bản vương... ài...” Ông ta thở hắt ra một tiếng não nề.

Con mắt duy nhất của Quách Nhật Niệm Thanh đảo quanh một vòng, chợt cất giọng chua loét nói: “Tằm Diên chỉ có một chút vậy thôi, muốn chia ra chắc chắn là không đủ dùng, trừ phi...”

“Trừ phi thế nào?”

“Trừ phi các vị tự đi gặp Qua Ba Đại Địch ô thương lượng, thử coi ông ta có chịu nhường hay không.” Quách Nhật Niệm Thanh cố gắng giấu nụ cười đang thấp thoáng ẩn hiện trên khóe môi.

“Thật là rắm chó! Chúng tôi làm sao đi thương lượng với Đại Địch ô của vương quốc Yaca được?” đội trưởng Hồ Dương tức tối quát lên.

Lúc này, pháp sư Á La đã đứng lên, khom mình nói: “Đại vương tôn quý, nếu như, chúng tôi có thể mời và thuyết phục vị tân nhiệm Đại Địch ô kia từ Yaca tới đây, không hiểu ngài có đồng ý dùng Tằm Diên trị bệnh cho người đứng đầu của chúng tôi không?”

“Hả?” Tước Mẫu vương kinh ngạc bước lại gần pháp sư, tựa hồ không dám tin pháp sư Á La lại dám chấp nhận đề nghị của Quách Nhật Niệm Thanh. Ông ta kích đột lắp bắp: “Ngài... ngài... nói là, có thể mời Qua Ba Đại Địch ô tới đây, mời tới đây ư?” Tước Mẫu vương đương nhiên cũng không yên tâm để con gái mình đi Yaca, sau chiến tranh, quan hệ hai nước vốn đã chẳng tốt đẹp gì. Nhưng nếu có thể mời vị Đại Địch ô kia tới đây, vậy thì tình hình sẽ hoàn toàn khác.

Những người khác cũng đều kinh ngạc mắt tròn mắt dẹt nhìn pháp sư Á La, rất hiển nhiên, đó chỉ là một câu nói châm biếm bọn họ của Quách Nhật Niệm Thanh, lẽ nào pháp sư Á La lại coi là thật? Nụ cười âm hiểm trên gương mặt Quách Nhật Niệm Thanh cũng đã biến mất, thay vào đó là vẻ ngờ vực khó hiểu.

“Đúng vậy, chúng tôi sẵn sàng thử một phen.” Pháp sư Á La bình tĩnh nói: “Chỉ không biết, đại vương có vui lòng thành lập minh ước thần thánh hay không?”

“Pháp... pháp sư?” “Pháp sư Á La?”

Tước Mẫu vương cũng ngây người ra, không dám tin vào tai mình nữa, ông ta nhìn pháp sư Á La một hồi thật lâu mới hạ quyết tâm, nghiến răng nói: “Được, nếu các vị thực sự có thể mời Đại Địch ô của Yaca tới đây thăm bệnh cho công chúa của bản vương, mà vị Qua Ba Đại Địch ô đó lại không đòi Tằm Diên làm thù lao, vậy thì số Tằm Diên đó đương nhiên sẽ được dùng để trị bệnh cho Trác Mộc Cường Ba. Bản vương sẵn lòng lập minh ước thần thánh với các vị!” Nói đoạn, ông ta vươn một cánh tay ra. Pháp sư Á La cũng đưa tay ra.

Đúng lúc đó, Quách Nhật Niệm Thanh chợt cất giọng the thé rít lên: “Gượm đã.” Y bước tới đứng giữa Tước Mẫu vương và pháp sư Á La, thì thầm vài câu bên tai Tước Mẫu vương. Sắc mặt vị quốc vương già nua biến đổi mấy lượt, chốc chốc lại gật gù ra vẻ hiểu ý, sau đó liền ngẩng đầu lên hỏi pháp sư Á La: “Các vị là người ngoài đến đây, sao ta có thể tin các vị sẽ tuân thủ minh ước thần thánh chứ? Nếu vị Đại Địch ô của Yaca kia có cách nào khác trị bệnh cho Trác Mộc Cường Ba thì sao? Nếu các vị không mời được Qua Ba Đại Địch ô, ngược lại còn đắc tội với ông ấy, khiến ông ấy không đồng ý thăm bệnh cho con gái ta nữa thì sao?? Ừm... những yếu tố chưa xác định quá nhiều, bản vương không thể dễ dàng tin các vị như vậy được.”

Gặp phải biến cố quá bất ngờ, pháp sư Á La không ngờ cũng hơi mất kiểm soát, ít nhất là trong mắt ông cũng thoáng lộ ra sát khí xưa nay chưa từng có bao giờ. Quách Nhật Niệm Thanh đột nhiên cảm thấy đỉnh đầu lạnh buốt mà chẳng hiểu vì sao. Nhưng chỉ trong thoáng chốc, pháp sư Á La đã khắc chế được bản thân, chỉ chậm rãi hỏi: “Vậy thì, chúng ta phải làm sao mới khiến ngài tin tưởng đây?”

Tước Mẫu vương không trả lời, mà chỉ liếc sang phía Quách Nhật Niệm Thanh. Quách Nhật Niệm Thanh lại lấy tay che miệng thì thầm vào tai vị quốc vương kia một hồi. Cuối cùng, Tước Mẫu vương gật đầu nói: “Ừm, chúng ta có thể thành lập minh ước thần thánh, nhưng các vị không thể đi hết, mà phải để lại con tin, đồng thời đưa Qua Ba Đại Địch ô về đây trong thời gian hạn định. Bằng không, con tin của các vị sẽ trở thành cống phẩm tạ tội bất kính với trời, các vị thấy sao?”

“Điều kiện như vậy hình như quá hà khắc thì phải! Nếu thời gian hạn định của các vị ngắn quá thì sao? Nếu Đại Địch ô thực sự có lý do không thể rời khỏi Yaca thì sao? Như vậy cũng coi là chúng tôi đã làm trái minh ước ư?” Lữ Cánh Nam không chút khoan nhượng chỉ trích.

“Vấn đề này...” Tước Mẫu vương nghĩ ngợi giây lát, đoạn nói: “Các vị cứ yên tâm, thời gian bản vương đưa ra nhất định sẽ hợp tình hợp lý. Nếu Qua Ba Đại Địch ô thực sự không thể rời khỏi Yaca... Ừm, nếu thực sự không thể, như vậy đi, chỉ cần các vị trở về trong thời gian hạn định, đồng thời mang theo tín vật hoặc nhân chứng chứng tỏ Qua Ba Đại Địch ô không thể tới đây, thì cũng coi như không làm trái minh ước, vậy được không?”

Thấy Tước Mẫu vương đã chịu nhượng bộ, Lữ Cánh Nam nghĩ ngợi giây lát, rồi quay sang nhìn pháp sư Á La.

Nhạc Dương và Trương Lập cũng tranh nhau hỏi pháp sư: “Pháp sư à, vậy có được không thế? Có phải hơi mạo hiểm quá không? Chúng ta thậm chí còn chẳng biết cái Nhật Mã... Ca Tùng kia ở chỗ nào cơ mà?”

“Phải đấy phải đấy, hơn nữa điều kiện của con rùa già này rõ ràng là rất bất lợi cho chúng ta. Nếu chúng ta không thể trở về đúng hạn, lão sẽ khai đao với con tin đấy!”

“Tôi không đồng ý.”

Pháp sư Á La nghe tiếng mà giật mình, ngạc nhiên nhìn Trác Mộc Cường Ba, chỉ nghe gã kiên quyết nói: “Tôi không thể để bất cứ ai ở lại đây làm con tin. Sống chết có số, tôi không muốn gượng ép. Thử hỏi, tôi làm sao có thể dùng tính mạng của bất cứ ai trong nhóm để mạo hiểm được chứ?”

Pháp sư Á La điềm đạm nói: “Nhưng đây là cơ hội duy nhất của chúng ta, ngoài ra không còn cách nào khác nữa. Nếu tôi nói, tôi chắc chắn đến chín mươi phần trăm là chúng ta làm được, thì cậu cũng không muốn đánh cược một phen sao?”

Nhạc Dương ngạc nhiên thốt: “Hả? Chín mươi phần trăm? Pháp sư Á La, ông...”

Đường Mẫn chợt bảo Trác Mộc Cường Ba: “Anh Cường Ba, có lẽ đây là cơ hội cuối cùng của chúng ta rồi, đã đến lúc này, sao anh có thể bỏ cuộc chứ? Nếu như... nếu như anh thực sự... vậy em biết phải làm sao đây? Em biết phải làm sao đây!” Cô thút thít khóc nấc lên. Trác Mộc Cường Ba vuốt ve mái tóc Đường Mẫn, chợt thấy tim mình nhói đau.

Pháp sư Á La nói: “Làm gì có người nào không trân trọng tính mạng của mình chứ? Có tính mạng nào không phải của phụ mẫu, của trời đất ban cho đâu? Quyết định như vậy phải chăng là hơi quá lỗ mãng? Đừng để vẻ bề ngoài của sự vật lường gạt, cũng đừng đưa ra phán đoán vì xung động nhất thời, đối với một tập thể, ý kiến của mọi người mới là quan trọng nhất.”

Trương Lập nói: “Phải đấy, Cường Ba thiếu gia, chúng ta vất vả đi xa như vậy, một trong những mục đích chẳng phải chính là trị bệnh cho anh sao? Nếu là tôi, tôi cũng sẽ đánh cược một phen.”

Nhạc Dương gật đầu tán thành: “Nếu pháp sư đã chắc đến chín mươi phần trăm, tôi cũng đồng ý.”

Lữ Cánh Nam nói: “Chúng ta nên thử xem sao.”

Mẫn Mẫn ngước cặp mắt đẫm lệ lên nhìn Trác Mộc Cường Ba. Ba Tang cũng nói: “Nếu không phải vì anh, tôi cũng chẳng cần đến nơi này làm gì.”

Lòng Trác Mộc Cường Ba ngổn ngang trăm mối tơ vò, nhìn những người đồng đội bên cạnh mình, lại nhớ đến những người đã bị chôn vùi trong bóng đêm vô tận, gã chợt thấy mình thật tội lỗi. Có thể nói, tất cả bọn họ đều chết vì bản thân gã. Những lời hứa trước lúc lên đường ấy, không ngờ gã lại chẳng thể nào thực hiện!

Lúc này, đội trưởng Hồ Dương chợt cất tiếng, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Mọi người đi đi, tôi ở lại đây!”

Trác Mộc Cường Ba giật nảy mình, thất thanh thốt lên: “Đội trưởng Hồ Dương!”

Đội trưởng Hồ Dương bật cười nói: “Không cần phải khoa trương thế đâu, cứ làm như sinh ly tử biệt không bằng, chẳng qua chỉ là tách ra vài ba ngày thôi. Chân tôi bị thương, vừa khéo cần mấy ngày nghỉ ngơi cho lại sức, tranh thủ lười một chút, ha ha...”

Trác Mộc Cường Ba lặng im đứng trước mặt đội trưởng Hồ Dương, không biết nên nói gì cho phải. Hồ Dương vỗ nhẹ lên vai gã, mỉm cười nói: “Đừng quên, cậu đã hứa là sẽ dẫn mọi người đến nơi đó, và còn đưa tất cả an toàn trở về nữa. Nếu cậu ngã xuống thì làm sao hoàn thành được lời hứa ấy chứ? Giáo sư Phương Tân chỉ có một học sinh tốt như cậu, chẳng may cậu có mệnh hệ gì ở đây, lúc trở về ông ấy lại chẳng tìm tôi liều mạng ấy chứ?”

“Nhưng anh...”

“Yên tâm đi, cậu quên à, mạng tôi lớn lắm, tôi là Hồ Dương cơ mà, ha ha ha!”

Trác Mộc Cường Ba đảo ánh mắt nhìn lại một lượt gương mặt của mọi người, cảnh tượng ấy như đưa gã trở lại lúc đang nằm trong phòng bệnh, từng nét mặt cố chấp mà vẫn tươi cười, thân thuộc đến độ khiến trái tim gã phải run lên. Mỗi câu nói của mọi người lúc ấy, đến giờ gã vẫn còn nhớ rõ như in.

“Cường Ba thiếu gia, anh từng nói, chưa bao giờ anh bỏ cuộc cả. Trong thời khắc nguy hiểm nhất, anh đã không bỏ tôi, đồng thời khiến tôi tin tưởng rằng, anh sẽ không bỏ rơi bất cứ một người nào. Vì vậy, xin anh, đừng bỏ rơi chính mình nhé!”

“Cường Ba thiếu gia, anh lúc nào cũng giúp chúng tôi mang gánh nặng. Nhưng đừng quên chúng ta là một nhóm: khó khăn lớn đến mấy, nếu anh không gánh nổi, chúng ta sẽ cùng gánh vác.”

Hai mắt gã mờ đi, giữa hình bóng bạn bè, một hình ảnh rõ nét hiện lên. Một đôi mắt to tròn biết nói, gương mặt thanh tú không chút tì vết, nụ cười dịu dàng, giọng nói sao mà thành khẩn: “Anh ơi, đừng bỏ cuộc nhé!”

“Được, anh hứa, anh sẽ không bỏ cuộc...”

“Tốt quá! Cường Ba thiếu gia đồng ý rồi!” Nhạc Dương reo lên, làm Trác Mộc Cường Ba giật mình sực tỉnh khỏi cơn mộng mị.

Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc lẩm bẩm: “Tôi, tôi đã nói gì vậy?”

Nhạc Dương nói: “Cường Ba thiếu gia, anh vừa hứa với chúng tôi, bảo là sẽ không bỏ cuộc, lẽ nào anh không ý thức được?”

Trác Mộc Cường Ba nhìn Mẫn Mẫn, gương mặt rạng rỡ vẫn còn lăn dài những giọt nước mắt ấy tựa đóa hoa lê sau cơn mưa. Gã thầm nói với một người con gái khác trong lòng: “Cám ơn em, em gái.”

Pháp sư Á La kết luận: “Vậy thì, cứ quyết định thế đi.” Nói đoạn, ông quay sang bảo Tước Mẫu vương: “Chúng tôi đồng ý điều kiện của ngài, hãy lập minh ước đi.”

Tước Mẫu vương liếc nhìn Quách Nhật Niệm Thanh một cái, rồi do dự chìa tay ra. Pháp sư Á La nắm lấy cổ tay Trác Mộc Cường Ba, để gã đập tay lập lời thề với Tước Mẫu vương.

Sau khi thề hẹn,Quách Nhật Niệm Thanh đứng bên cạnh mới cất giọng âm hiểm hỏi: “Các vị, để lại ai làm con tin vậy?”

Đội trưởng Hồ Dương ưỡn ngực bước ra nói: “Tôi sẽ ở lại làm con tin của các người.”

Quách Nhật Niệm Thanh khẽ chau mày, lại thấp giọng “xì xà xì xồ” một chập bên tai Tước Mẫu vương. Vị quốc vương già gật gật đầu, sau đó nói: “Vậy không được, một người không được.”

“Cái gì? Các người đừng có được voi đòi tiên đấy nhé!”

Tước Mẫu vương chìa hai ngón tay ra, nói: “Ít nhất phải để lại hai người làm con tin.”

Con mắt độc nhất của Quách Nhật Niệm Thanh nhìn chằm chằm vào Đường Mẫn không chớp. Mẫn Mẫn thầm giật thót mình, lập tức hiểu ra, bọn họ cần một người có vị trí quan trọng trong lòng Trác Mộc Cường Ba, một người khiến Trác Mộc Cường Ba nhất định phải quay lại. Với sự tinh minh của Quách Nhật Niệm Thanh, những người khác đều chưa đủ sức nặng, rõ ràng là y muốn cô ở lại. Lúc Nhạc Dương và Trương Lập còn đang cãi vã ầm ĩ, Đường Mẫn lấy hết can đảm ra nói: “Em cũng ở lại.”

“Mẫn Mẫn,” Trác Mộc Cường Ba chộp lấy hai vai cô lay mạnh, “em nói gì vậy?’

Đường Mẫn nhoẻn miệng cười điềm đạm: “Em cũng ở lại.” Bàn tay cô khẽ lướt qua mái tóc Trác Mộc Cường Ba, dịu dàng nói: “Vết thương ở chân đội trưởng Hồ Dương vẫn chưa khỏi hẳn, anh ấy cần người chăm sóc, vả lại tiếng Tạng cổ của anh ấy cũng không được tốt cho lắm. Hơn nữa, nếu em ở lại, anh sẽ có thể quay trở về sớm hơn, có phải không?”

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại nhìn, vừa khéo trông thấy nụ cười lạnh lẽo nở trên môi Quách Nhật Niệm Thanh. Gã liền hiểu ra ngay tức thì, giữ Mẫn Mẫn lại để kiềm chế mình, đó mới là ý đồ thực sự của tên Quách Nhật Niệm Thanh kia. Y hiểu rất rõ quan hệ giữa bọn họ, vì vậy, có đổi lại người nào khác, chắc chắn y cũng không chấp nhận. Hơn thế, Mẫn Mẫn nói không sai, nếu cô ở lại chăm sóc đội trưởng Hồ Dương, tốc độ của họ sẽ tăng lên đáng kể. Tuy rằng, Mẫn Mẫn chưa lần nào rớt khỏi đội ngũ, nhưng dù sao thì thể lực của cô cũng là người kém nhất trong cả nhóm.

Chỉ là Trác Mộc Cường Ba không thể ngờ, lần này Mẫn Mẫn lại chủ động đưa ra đề nghị đó. Trước đây, chuyện như vậy tuyệt đối không thể có. Xem ra, Mẫn Mẫn đã không còn là cô bé con mới xa gã ba bốn ngày đã buồn đến mức khóc sưng cả mắt lên nữa rồi. Giờ đây, cô đã trưởng thành, trở thành một người đàn bà hiểu được thế nào là tình yêu thực sự.

Gã ngắm nhìn gương mặt thanh tú, đôi mắt to, sáng long lanh ấy, tựa hồ như nghe thấy tiếng em gái đang cổ vũ mình: “Anh trai, anh phải cố lên nhé!” Hai người bốn mắt nhìn nhau, thâm tình dạt dào vô hạn.

Trương Lập nhìn xoáy vào mặt Tước Mẫu vương, lạnh lùng hỏi: “Như vậy đã hài lòng chưa?”

Tước Mẫu vương ngoẹo đầu nhìn Quách Nhật Niệm Thanh. Tên lùn trọc đầu ấy không ngờ lại tiếp tục áp miệng vào tai Tước Mẫu vương xầm xà xầm xì một hồi lâu. Tước Mẫu vương vừa nghe vừa gật đầu lia lịa như con gà say rượu. Ba Tang nắm chặt bàn tay, phát ra những tiếng răng rắc, nếu có vũ khí bên mình, e rằng anh ta đã nổ súng từ lâu rồi.

Quách Nhật Niệm Thanh nói xong, lại lùi sang một bên, như thể chuyện này chẳng hề liên can gì đến y vậy. Tước Mẫu vương hắng giọng một cái, rồi nói: “Còn một việc nữa, vì đoàn sứ giả của chúng ta đã đàm phán với Qua Ba Đại Địch ô rồi, nếu giờ lại đi nữa, thì sẽ phải cho họ một lời giải thích thỏa đáng. Ngoài ra, nếu chỉ phái một tên tùy tùng chỉ đường cho các vị, thì lại tỏ ra không được tôn trọng vương quốc Yaca cho lắm. Vì vậy, lần này, người của chúng ta sẽ không đi theo các vị.”

“Ông nói cái gì? Chúng tôi thậm chí còn chẳng biết đường, làm sao mà đi được chứ?” Nhạc Dương vừa nghe, đã cao giọng làm ầm lên.

Tước Mẫu vương hờ hững nói: “Bản vương chỉ nói người Tước Mẫu chúng ta không theo các vị đi, chứ đâu có nói không chỉ đường. Sẽ có một người thông thuộc hoàn cảnh và địa hình ở Yaca chỉ dẫn cho các vị đến cầu kiến Qua Ba Đại Địch ô, y chính là Giang Dũng Trát Lỗ từng ở chung nhà lao với các vị. Y đã bị nhốt ở đó ba năm rồi, giữ lại cũng chẳng ích gì, bản vương sẽ đặc xá, cho y trở về cố thổ. Vì vậy, sự kiện lần này sẽ là việc cá nhân giữa các vị với Qua Ba Đại Địch ô, không hề liên quan đến quan hệ của hai vương quốc Yaca và Langbu, các vị có hiểu không?”

Nhạc Dương cười gằn nói: “Thì ra là vậy, tiện quá nhỉ.”

Pháp sư Á La gật đầu với Trác Mộc Cường Ba: “Có thể chấp nhận.”

Tước Mẫu vương lại quay qua nhìn Quách Nhật Niệm Thanh, chỉ thấy y khẽ gật đầu. Bấy giờ, Tước Mẫu vương mới nói bằng giọng của kẻ chiến thắng: “Tốt rồi, vậy cứ theo thỏa thuận đó mà làm. Đoàn sứ giả của bản vương phái đi, từ lúc xuất phát đến khi trở về, trước sau tốn mất ba ngày thời gian, vì các vị còn phải đi thuyết phục Qua Ba Đại Địch ô, bản vương cho thêm một ngày nữa, vậy chắc cũng đủ dùng rồi. Còn về con tin, hai vị đây là được rồi, con gái bản vương, còn phải nhờ cô nương chăm sóc nhiều nữa.”

Trở về phòng nghỉ, Nhạc Dương và Trương Lập vẫn hết sức bất bình. Nhạc Dương tức tối nói: “Chuyện đang tốt đẹp, bị hắn nói cho mấy câu liền thành ra như vậy, tức chết đi được! Cả cái lão Tước Mẫu vương kia nữa, trở mặt như trở bàn tay vậy, mà còn chẳng có chủ ý, làm đại vương cái nỗi gì chứ!”

Địch ô An Cát Mẫu đành lên tiếng giảng hòa: “Được rồi, được rồi, Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân là thần bảo vệ của vương quốc Langbu chúng tôi, không thể chỉ vì ông ấy dùng kế bắt các vị, giam giữ mấy ngày mà các vị đã coi ông ta là một tên tiểu nhân gian trá bỉ ổi được.”

“Không,” đội trưởng Hồ Dương nói: “Tên Quách Nhật Niệm Thanh không hề đơn giản. Tuy nhìn bề ngoài mỗi lần vạch mưu tính kế của y đều vì lợi ích của Tước Mẫu vương, nhưng tôi luôn cảm thấy y có tâm địa khác. Ít nhất là y khiến tôi có cảm giác, mọi điều y làm đều là cố ý nhằm vào chúng ta cả.”

“Nhưng chẳng có lý do gì cả! Chúng ta đã chứng minh mình không phải đồng bọn của những kẻ đã khiến Đại Địch ô Thứ Kiệt bị thương rồi, hơn nữa cũng không có thù cũ hận mới gì với tên Quách Nhật Niệm Thanh, y cũng không thể nào vừa nhìn thấy chúng ta đã ghét mặt rồi đúng không? Lẽ nào, vì lần đầu tiên gặp mặt chúng ta đã cười nhạo thể hình của y, nên y ôm hận trong lòng? Không thể nào chứ, hôm đó chúng ta cũng có cố ý giễu cợt gì y đâu!” Vừa nhắc đến vấn đề và những gì khó hiểu, Nhạc Dương liền bắt đầu suy nghĩ một cách nghiêm túc.

Địch ô An Cát Mẫu cười nói: “Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân không như các vị tưởng tượng đâu. Ông ấy giỏi dùng mưu lược, bách chiến bách thắng. Có thể đạt được hiệp nghị với vương quốc Yaca, mang lại hòa bình ngày hôm nay, công lao của ông ấy là lớn nhất. Khí độ và lòng dạ của Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân không thể nào lại hẹp hòi như vậy được.”

Trương Lập không phục nói: “Vậy tại sao y cứ nhằm vào chúng ta vậy? Lại còn suốt ngày gây chuyện rắc rối cho chúng ta nữa.”

“Cũng không thể nói là nhằm vào các vị!” Địch ô An Cát Mẫu nói: “Đúng như đội trưởng Hồ Dương vừa mới nói, mọi điều Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân làm đều là vì lợi ích của Tước Mẫu. Ông ấy mới biết các vị được vài ba ngày, chưa hiểu gì về nhau, nhưng vũ khí của các vị lại khiến ông ấy không thể không cảnh giác. Nếu như các vị muốn giúp đỡ Yaca, vậy chẳng phải sẽ trở thành uy hiếp cực lớn cho vương quốc Langbu chúng tôi hay sao?”

Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và Nhạc Dương cùng lúc hiểu ra, cả mấy người họ đều không nghĩ đến mặt này, tuy họ chỉ có các loại vũ khí thông thường, nhưng đúng như Ba Tang nói, chỉ cần đủ đạn dược, giết sạch người ở đây cũng không phải là chuyện bất khả thi. Chẳng qua họ chưa hề nghĩ đến việc này mà thôi. Nhưng cứ hễ nghĩ đến tướng mạo và giọng điệu của Quách Nhật Niệm Thanh, là lại càng thấy y đáng ghét!

Đi sứ Yaca

Lữ Cánh Nam nói: “Không thể xem thường gã Quách Nhật Niệm Thanh này được, y là người rất am hiểu tâm lý học. Khi chúng ta đàm phán với Tước Mẫu vương, y vẫn luôn quan sát nét mặt và động tác của từng người một trong chúng ta. Kỳ thực, y rất giống một người bán hàng rong bên vỉa hè, nếu chúng ta càng tỏ ra cần món hàng đó, giá y đặt ra sẽ càng cao. Qua lại với hạng người này cần phải vô cùng cẩn thận, sẽ rất khó lòng mà chiếm được lợi ích từ y, nhưng lại rất dễ rơi vào bẫy. Thậm chí, y còn có thể dựa vào vẻ mặt và động tác của chúng ta, để phân tích ra tính cách, thói quen và nhược điểm của từng người nữa đó.”

Nhạc Dương ngần ngừ: “Nói vậy là, tôi và Trương Lập càng lớn tiếng, ngược lại càng lộ ra nhược điểm rồi?” Lữ Cánh Nam chỉ hờ hững mỉm cười. Nhạc Dương lấy làm hổ thẹn liếc mắt sang nhìn Trương Lập.

Ba Tang cất giọng khan khan nói: “Dù hắn có nhiều trò đến mấy, chỉ cần một viên đạn là cũng giải quyết xong xuôi.”

Pháp sư Á La chậm rãi nói: “Thực ra, từ đầu đến giờ, chúng ta vẫn luôn coi thường vị Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân này, vì vậy nên mới mấy lần bị y cho rơi vào thế yếu mà chẳng biết kêu ai. Mỗi lần xuất kích, y đều có thể đánh đúng vào chỗ yếu nhất của chúng ta, làm cho chúng ta không thể không phòng bị, đồng thời cũng có cảm giác không sao chống đỡ nổi. Nếu chúng ta có thể đứng ở lập trường của Quách Nhật Niệm Thanh suy tính vấn đề sớm hơn một chút, có lẽ sẽ không thành ra cục diện như ngày hôm nay rồi. Quách Nhật Niệm Thanh, Quách Nhật Niệm Thanh, bản thân đó đã là một cái tên đáng sợ rồi, chỉ tiếc là chúng ta chỉ được nếm mùi âm mưu thủ đoạn của y, chứ chưa được thấy kiến thức và phong thái đại tướng của con người ấy.”

Nhạc Dương chợt hỏi: “À, phải rồi, pháp sư, minh ước thần thánh là như thế nào vậy? Chỉ vỗ tay một cái vậy là xong rồi à?”

Pháp sư Á La lắc đầu đáp: “Đó chỉ là nghi lễ khởi đầu, giống như nghi thức đính hôn vậy, ngày mai mới chính thức kết minh ước, lập đàn làm lễ, dâng tế phẩm, bẩm báo với trời cao lời thề mà hai bên đã ước định. Một khi đã bẩm báo với chư thần trên trời, thì cũng như người ngày nay đã ký hợp đồng rồi vậy, kẻ nào vi phạm, sau khi chết linh hồn sẽ bị đày xuống địa ngục, mãi mãi chịu giày vò khổ sở.”

“A! Vậy thì cái minh ước này chẳng phải rất hàm hồ hay sao?” Nhạc Dương ngạc nhiên hỏi.

Pháp sư Á La cười, điềm đạm nói: “Đây là cách làm thời cổ. Có thể nói, đối với những người tôn thờ thần thánh, minh ước này còn hữu hiệu hơn sự ước thúc của pháp luật nhiều.”

Ngày hôm sau, họ được đám vệ binh dẫn đến đàn tế của thành Tước Mẫu. Trác Mộc Cường Ba thoáng ngẩn người trong giây lát, đàn tế này thực sự quá giống với một đàn tế trong ký ức của gã. Vô số tảng đá lớn được sắp xếp thành những hình tròn đồng tâm, chính giữa đàn tế là đài cao ba tầng hình tròn giống như Thiên Đàn ở Bắc Kinh, chỉ là bệ đá ở chính giữa đàn tế được thay bằng một trụ đá cao ngất. Giờ đây, xung quanh trụ đá đã bày kín các cống phẩm dùng để tế lễ, Đại Địch ô Thứ Kiệt cũng chống gậy bận rộn sắp xếp mọi việc trên đàn tế. Tước Mẫu vương đã đợi sẵn bên trên, những người khác thì đứng trong vòng tròn đồng tâm phía dưới.

Quách Nhật Niệm Thanh cũng dẫn theo một nhóm người sắp xếp công việc dưới đàn tế, bận tới bận lui, thấy bọn Trác Mộc Cường Ba đi tới, y liền dặn dò thủ hạ mấy câu, rồi bước lại đón tiếp. Quách Nhật Niệm Thanh ngước mắt lên nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói: “Các vị đã quyết định chưa? Nếu giờ muốn hối hận thì vẫn còn kịp đấy.”

Trác Mộc Cường Ba bình tĩnh nhìn thẳng vào Quách Nhật Niệm Thanh, chợt thấy thấp thoáng bóng dáng của Đa Cát. Là đối thủ, Quách Nhật Niệm Thanh là loại mà gã ghét nhất; là bạn bè, Đa Cát Điệt Bất lại là dạng người mà gã thích quen biết nhất. Cùng là con người, mà sự khác biệt lại lớn đến vậy sao?

Giờ lành đã đến, pháp sư Á La dặn dò vài câu, rồi để Trác Mộc Cường Ba tự mình ký kết minh ước thần thánh. Sau đó, Đại Địch ô Thứ Kiệt tiến hành một loạt những nghi thức phức tạp, mời đến đủ các vị thần linh trên trời. Trước họa tượng của chư thần, Trác Mộc Cường Ba và Tước Mẫu vương cùng lớn tiếng đọc lên ước định, uống một bát rượu lớn, đập vỡ bát kết minh, lấy đại đao cắt ra một mảng thịt lớn, những người bên ngoài tế đàn bắt đầu nhảy múa hát ca, coi như minh ước đã được thành lập.

Hôm sau, khi bầu trời Thánh vực bắt đầu ánh lên những tia sáng màu sắc rực rỡ, bọn Trác Mộc Cường Ba đứng trên giỏ treo. Đội trưởng Hồ Dương, Mẫn Mẫn và Địch ô An Cát Mẫu đều đứng phía bên ngoài, Quách Nhật Niệm Thanh dẫn theo một đám quân lính canh chừng bọn họ. Những lời cần nói đều đã nói hết từ tối hôm trước, hôm nay, Mẫn Mẫn chỉ kiên cường mỉm cười. Kỳ thực, trên gương mặt mỗi người đều gượng nở ra nụ cười khích lệ. Họ đã cùng trải qua biết bao hiểm nguy sinh tử, giờ đây trong đội lại có hai người phải tạm thời chia tay, ở lại một nơi xa lạ, ngày ngày không biết chuyện gì đang chờ đợi mình phía trước. Vì vậy, họ đều thầm chúc phúc cho nhau, hai mắt nhìn thẳng, ánh mắt giao nhau, lộ ra những cảm xúc phức tạp. Sau đó, rong rọc từ từ quay, giỏ treo bắt đầu hạ xuống. Ánh mắt hai nhóm người trước sau vẫn xoắn chặt lấy nhau.

Sau khi giỏ treo hạ xuống được hơn chục mét, Nhạc Dương đột nhiên phát hiện trong mắt Quách Nhật Niệm Thanh thoáng lộ sát khí nặng nề. Không thể lầm được, đó là chắc chắn là sát khí. Nhạc Dương biết, trên thế gian này có thể có tình yêu vô duyên vô cớ, nhưng rất khó có nỗi hận vô cớ vô duyên, hơn nữa, còn là nỗi thù hận khắc cốt ghi xương kia nữa. Anh thầm nhủ: “Rốt cuộc là chuyện gì vậy? Ánh mắt đó là như thế nào? Trước khi đến Tước Mẫu, chúng ta chưa hề gặp mặt tên Quách Nhật Niệm Thanh đó, mà Quách Nhật Niệm Thanh cũng không thể nào là đồng bọn của Merkin được, y có lý do gì để thù hận chúng ta đâu?”

Cho tới khi bóng bọn Trác Mộc Cường Ba khuất hẳn khỏi tầm nhìn, Quách Nhật Niệm Thanh mới gọi một tên thủ hạ đến dặn dò vài câu. Tên thủ hạ nhận lệnh chạy đi, mấy chục phút sau, một con chim câu bay vút lên trời cao, hướng về phía thác nước.

Quách Nhật Niệm Thanh phái một đội hộ vệ đi theo hộ tống bọn Trác Mộc Cường Ba, người đứng đầu tên là Nha Châu, chính là một trong các dũng sĩ đã nghênh tiếp bọn họ hôm trước. Trên đường, Nha Châu nói với bọn Trác Mộc Cường Ba, không thể trực tiếp băng qua biển Sinh Mệnh từ chỗ rìa vách đá được, như vậy sẽ bị những xoáy nước khổng lồ nhấn chìm hết thuyền bè, nếu đi gần mép bình đài quá, lại có nguy cơ bị sóng đánh văng xuống tầng bên dưới. Vì vậy, họ phải mất một ngày đi vòng qua hồ nước lớn đó, đến một nơi tên là Thác Nhật, ở đó chỉ cần nửa ngày là sang được bờ bên kia. Theo như Nha Châu miêu tả, biển Sinh Mệnh hình dáng như cái hồ lô, còn Thác Nhật chính là chỗ thắt nút của cái hồ lô đó, nếu Yaca và Langbu muốn động binh với nhau, nhất thiết phải vượt biển ở nơi này. Vì vậy Langbu dồn trọng binh về trấn thủ ở Thác Nhật, còn Yaca cũng dựng thành Nhật Mã Ca Tùng ở phía bờ bên kia.

Giang Dũng Trát Lỗ cuối cùng cũng được rời khỏi gian nhà lao tối tăm đã giam cầm anh ta suốt ba năm trời, nhưng trên gương mặt hoàn toàn không có vẻ gì là mừng vui. Nhạc Dương thấy anh ta như đang nặng trĩu một bầu tâm sự, bèn hỏi nguyên nhân, có điều Trát Lỗ chỉ ấp a ấp úng không trả lời. Thấy đối phương có điều khó nói, Nhạc Dương bèn chuyển sang chuyện khác, hỏi chức vụ của Trát Lỗ ở Yaca là gì, bấy giờ Trát Lỗ mới đắc ý trả lời: “Phải biết là, những văn sư quốc sự như chúng ta, nhất định phải có tài văn, không chỉ viết chữ đẹp, mà còn cần phải biết sáng tác những vần thơ đẹp đẽ. Dù là tướng mạo hình thể, cũng phải trải qua lựa chọn nghiêm khắc...”

Trát Lỗ còn chưa nói dứt, đã nghe Nha Châu ngắt lời: “Thôi đi, mấy tên được gọi là văn thư các ngươi, ở Yaca làm quái gì có địa vị. Dân tộc trên lưng ngựa các ngươi chỉ nói chuyện đao ai nhanh hơn, thuật cưỡi ngựa của ai giỏi hơn, những người đàn ông uống rượu mạnh, có võ công cao cường mới là dũng sĩ được người người tôn trọng. Hạng người chỉ biết trốn trong trướng viết sơn ca như ngươi, căn bản chẳng có cô nương nào chịu gả cho. Nếu chẳng có chuyện đi sứ sang vương quốc Langbu chúng ta, thì đám người tay chân yếu ớt như các người vốn chẳng có lý do gì để mà tồn tại cả!” Nghe những lời cay nghiệt tức tối của Nha Châu, rõ ràng là y cực kỳ căm ghét kẻ đã làm hại công chúa của mình.

Trát Lỗ bị Nha Châu mỉa mai cho một chặp, không nói được nên lời, chỉ cúi gằm mặt xuống lúng búng gì mà mình là văn thư được vương thân đề bạt, là người xuất sắc nhất so với những kẻ đồng trang lứa, nhưng âm lượng quá nhỏ, rõ ràng là chẳng có lý lẽ gì vặc lại được đối phương. Trác Mộc Cường Ba bèn an ủi: “Chớ nên đau lòng, những vần thơ đẹp đẽ của anh sẽ được người đời ghi nhớ và lưu truyền, đó lẽ nào lại chẳng phải một sự việc rất vĩ đại hay sao?”

Nhạc Dương nghe mà không khỏi giật mình, Nha Châu nói không sai, Yaca là vương quốc theo chế độ tù trưởng, do vô số bộ lạc du mục hợp lại mà thành, vậy thì hẳn là rất giống với đế chế Mông Cổ mà bọn họ đã quá quen thuộc. Bọn họ chỉ sùng bái những dũng sĩ có thể chinh chiến trên lưng ngựa, hạng người như Trát Lỗ chỉ là loại tiểu tốt bị người ta coi khinh. Nếu đại vương của Yaca thực sự coi trọng anh ta, thì cũng đã chẳng để mặc anh ta bị nhốt trong nhà lao ở Langbu suốt mấy năm trời như thế. Vậy thì, cần phải cân nhắc lại việc Trát Lỗ khiến công chúa Lạp Mẫu bị mù rồi. Một con tốt có thể tùy ý bỏ rơi hoặc tiêu diệt như anh ta, liệu có thể đảm nhận trọng trách lớn đến thế không? Vậy thì toàn bộ sự việc liên quan đến công chúa này, sợ rằng không đơn giản như họ vẫn hằng tưởng tượng. Tại sao lại làm cho công chúa bị mù? Kẻ nào mới là người được lợi nhiều nhất? Những dòng suy nghĩ chuyển động nhanh chóng trong đầu Nhạc Dương, chỉ là có một số vấn đề không tiện nói ra trước mặt Nha Châu, anh ngầm ghi nhớ lại, định khi nào tới Thác Nhật, lên thuyền xong mới hỏi Trát Lỗ.

Phần giáp ranh với biển Sinh Mệnh là một vùng đầm lầy, bùn đất và nước biển giao hội với nhau ở đây. Khác hẳn với khu rừng đá trơ trọi kia, nơi này là cả một vùng trời khác, đất đai màu mỡ làm cây cối ở nơi này hết sức to lớn rậm rạp, sức sống hừng hực đó như thể muốn bật tung khỏi vùng đất bùn, bay vút lên trời cao. Để thích ứng với kết cấu đất yếu, rễ cây ở đây đều rất to khỏe, có khi rễ vươn ra từ thân cây, lại có lúc rễ rủ từ trên cành xuống, hệ thống rễ cây phát triển chằng chịt đó như vòi bạch tuộc bám chặt lấy đất bùn, làm cho thân cây to lớn có thể tiếp tục sinh trưởng. Những cây đước, cây vẹt ở đây cao chừng năm chục mét, tán lá sum suê xòe rộng trên diện tích cả trăm mét vuông, rễ cây lại càng chia thành trăm ngàn nhánh nhỏ, một cây mà trông đã như rừng, cảnh tượng thiên nhiên hết sức tráng lệ.

Trong đầm lầy không có đủ dưỡng khí, vì vậy vô số rễ cây đước đã đâm xuống đầm lầy lại ló đầu lên như những đọt măng tre, tựa hồ một thân cây mới đang vươn lên, có rễ cây còn cao gần bằng nửa thân cây, mở ra vô số lỗ hô hấp, tham lam hút oxy trong không khí.

Kẻ thù của Nhạc Dương

Đi vòng quanh biển Sinh Mệnh hơn nửa ngày, cảnh đẹp trước mắt không ngừng biến đổi, bờ biển Sinh Mệnh không có bãi cát, mà toàn là nham thạch rắn. Nhưng nham thạch ở đây khác với những nơi khác, phóng mắt nhìn ra xa, bề mặt cả vùng đều được nước rửa sạch, mài phẳng lỳ, cứ cách vài mét lại có một rãnh vừa sâu vừa hẹp, vươn thẳng ra xa tít tắp. Ngang cũng có, dọc cũng có, bề mặt phẳng lỳ tựa như bị búa trời chém xuống tạo thành những đường vạch đều đặn, ngang dọc cắt nhau, người đi ở giữa như đang bước trên một bàn cờ khổng lồ của trời đất. Trong bàn cờ ấy, vô số tảng nham thạch nhô lên cao ngất sừng sững bên bờ biển, càng giống những quân cờ hình dáng khác nhau, kỳ quái vô cùng, có tảng trông như cây nấm, có tảng lại như con nai, như đầu người, như cây cối, như con chim... mỗi tảng đá đều là một quân cờ, mỗi quân cờ lại khác nhau, toàn bộ được đúc tạc bởi bàn tay thần kỳ của tự nhiên, hoàn toàn không có chút dấu vết mài giũa của con người. Giữa những trụ đá cũng có những hố nhỏ, trong hố có nước đọng, thậm chí còn thấy cả cá bơi. Nha Châu nói, những cái hố này trông không lớn lắm, nhưng thực ra sâu vô cùng, nhiều hố còn thông thẳng đến biển Sinh Mệnh, những lúc triều dâng, chúng sẽ phun trào lên như suối nước nóng. Xem ra, hồ nước khổng lồ được người ở đây gọi là biển Sinh Mệnh này, có lẽ là kết quả của dòng thác không ngừng chảy ngàn vạn năm và núi đá đỏ. Nước, và gió, đã tạo nên một kỳ quan của thiên nhiên.

Thác Nhật đã mỗi lúc một gần hơn, Nhạc Dương không nén nổi tò mò nữa, liền hỏi pháp sư Á La: “Pháp sư, tại sao ông có vẻ chắc chắn vậy?”

Pháp sư Á La mỉm cười nói: “Phải biết rằng, mời cũng có cách dùng văn và dùng võ.”

Ba Tang lấy khẩu súng lục ra mân mê khe khẽ, thầm nhủ: “Quả nhiên đúng như mình nghĩ.”

Nhạc Dương liếc sang phía Nha Châu, thầm biết pháp sư Á La nói vậy là để cho y nghe.

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Thác Nhật còn xa không?”

Nha Châu đáp: “Không xa, ở ngay trước mặt thôi, tảng đá lớn kia chính là cột mốc đánh dấu của Thác Nhật.”

Vừa đi được mấy bước, liền nghe trong rừng cây đước cạnh đó vẳng ra tiếng gào thét rợn người, Trác Mộc Cường Ba vội hỏi: “Chuyện gì vậy?”

Nha Châp đáp: “Nhất định là có người giẫm phải bẫy rồi, cạm bẫy chung quanh Thác Nhật đều được thiết kế dựa trên hình vẽ của người Thượng Qua Ba để lại. Chúng ta lại đó xem sao.”

Nhạc Dương thầm nhủ: “Kẻ giẫm phải bẫy chắc chắn là người không quen thuộc địa hình nơi này, vậy nhất định là bọn người kia rồi!”

Trương Lập cũng thầm nghĩ: “Cơ quan cạm bẫy của người Qua Ba để lại, cũng đáng đi xem lắm.”

Chạy được vài chục bước, lại nghe thấy một tiếng gầm khủng khiếp, giống như của một con mãnh thú đang chờ chết, âm thanh truyền khắp cả rừng đước, làm thú chạy chim bay tứ tán. Nha Châu đưa tay ra, nói: “Dừng lại!”

Nhìn vẻ mặt nghiêm túc của y, Nhạc Dương vội hỏi: “Sao thế?”

Nha Châu rút ở sau lưng ra một cuộn da dê, nói: “Chúng ta đã tiến vào trận địa cơ quan rồi, chạy nhanh quá sẽ giẫm phải cạm bẫy đó.”

Trương Lập đứng sau lưng Nha Châu liếc mắt nhìn tấm bản đồ bố trí cạm bẫy, chỉ thấy hai bên con đường ngoằn ngoèo quanh co toàn các chấm đỏ, cả tấm bản đồ nhìn chi chít như một bãi mìn khổng lồ. Trương Lập kinh hãi nói: “Cái gì vậy? Nhiều cạm bẫy thế cơ à?”

Nha Châu chỉ vào những bộ rễ cây vươn lên khỏi đầm lầy, nói: “Đây không phải là cây non, mà là rễ của cây lớn, chúng đâm xuống đầm lầy, rồi lại chổng ngược lên, cành cây và thân rễ cực kỳ dẻo dai đàn hồi. Người Thượng Qua Ba dạy chúng tôi kéo những cành cây đước đó xuống hầm, dây buộc và đinh cố định đều ở bên dưới mặt bùn, trải qua một khoảng thời gian, dây thừng và đinh gỗ đều mục nát đi, nhưng cành cây không hề bị ảnh hưởng, vẫn sinh trưởng rất tốt bên dưới đầm lầy. Giờ đây, những dây thừng và đinh gỗ mủn ra đó đều trở nên cực kỳ không ổn định, chỉ hơi bất cẩn giẫm phải, sẽ thành ra thế này...”

Nói đoạn, Nha Châu cúi người chọc tay xuống bùn, bẻ một đoạn rễ cây, rồi tùy tiện ném vào một chỗ cách đấy chừng mười mét. Rễ cây đước cắm vào bùn lầy, “ủm ủm” lên hai cái bong bóng, chìm xuống. Cả bọn Trác Mộc Cường Ba đều nín thở chăm chú, đợi chừng ba mươi giây mà không có phản ứng gì, Trương Lập và Nhạc Dương ngoảnh đầu lại nhìn Nha Châu dò hỏi. Chỉ thấy Nha Châu giơ bàn tay phải lên, nói: “Đợi thêm chút nữa!”

Gần một phút sau, mới nghe thấy tiếng “soạt...”, trong đầm lầy bắt đầu xuất hiện biến hóa. Thoạt đầu giống như có rắn ngoằn ngoèo bò bên dưới làn nước, kế đó mặt bùn cuồn cuộn lên, như thể vô số con cá đang quẫy lộn, tiếp đó là tiếng cành cây đứt gãy “rắc rắc”, từng bộ rễ cây đước bỗng đột nhiên rời khỏi đầm bùn, bắn vọt lên trời như những thanh kiếm sắc. Cây cối như biến thành tinh, từng cành từng cành cây quẫy động như lũ rắn, nước bùn tóe lên như mưa rào. Bọn Trác Mộc Cường Ba đều thầm kinh hãi trước cảnh tượng đang diễn ra trước mắt, nhìn những cành cây bay rào rào như châu chấu ấy, liệu bản thân dám chắc mấy phần rằng mình né tránh được?

Đợi cho trận địa cạm bẫy hoàn toàn dừng lại, bọn Trác Mộc Cường Ba mới kinh hãi nhận ra, khoảng rừng đước phía trước mặt đã xảy ra những biến đổi khó tin, hình dạng, tuyến đường hầu như đã thay đổi, bùn nước vẫn đang rơi xuống lõm bõm, nhắc nhở họ về sự đáng sợ của nơi này. Nha Châu cất tấm bản đồ đi, nói: “Được rồi, giờ con đường này đã tạm thời an toàn, chúng ta đi thôi.”

Trong rừng cây lạnh lẽo u ám ấy, họ nhìn thấy Đạt Kiệt nằm thoi thóp thở. Hắn đang dựa lưng vào một cây đước lớn, toàn thân ướt đẫm bùn lỏng nhão nhoẹt, hai tay yếu ớt duỗi dọc theo bên đùi, lỗ hổng to tướng trên vai trái đã ngừng chảy máu, xương trắng và cơ bắp cuốn chặt vào nhau, máu và bùn hòa trộn lẫn lộn. Những người nhìn thấy cảnh tượng ấy, đều không ai dám tin rằng con người đó vẫn còn sống.

Cơ thịt dưới mắt Nhạc Dương giật giật liên hồi, tuy người đó đầu tóc rũ rượi, bùn đất che kín mặt mũi, nhưng ánh mắt hung hãn dưới mớ tóc lập tức khiến anh nhớ đến một người. Còn ánh mắt Đạt Kiệt cũng dừng lại trên gương mặt Nhạc Dương giây lát, rồi nhanh chóng lộ ra vẻ khinh miệt.

“Là Đạt Kiệt!” người đầu tiên kêu lên lại là Trương Lập. Không phải Nhạc Dương không nhận ra, mà chỉ là nhất thời không dám tin mình lại có thể gặp lại hắn ở nơi này, không ngờ hắn lại bị thương nặng thế, đúng là trời cao có mắt!

“Trần Văn Kiệt!” Hai mắt Nhạc Dương đỏ lựng lên, lạnh lùng gằn giọng.

“À, Nhạc Dương hả.” Trần Văn Kiệt cúi đầu, cười lạnh.

Chuyện của Nhạc Dương và Trần Văn Kiệt, cả bọn Trác Mộc Cường Ba đều đã biết sơ sơ, nên không ai lên tiếng, lặng lẽ chờ Nhạc Dương tự mình giải quyết.

“Mày không thể ngờ sẽ có kết cục này phải không?” Nhạc Dương bước lên phía trước.

“Vậy sao?” Trần Văn Kiệt ngẩng đầu lên, chỉ thấy đầu tóc y rũ rượi, mặt mũi đầy máu và bùn, khóe miệng nhếch lên, đôi mắt lóe ánh hung quang dữ tợn, chẳng hề có vẻ gì là hối hận, mà chỉ thấy đầy ngông cuồng, hưng phấn. Giọng y cất lên đầy dẫn dụ: “Giết tao đi!”

Nhạc Dương vốn đã giương súng lên, thấy bộ dạng đó của Trần Văn Kiệt, bỗng ngẩn người ra, lắc lắc đầu, hạ súng xuống, nói: “Không!”

Trần Văn Kiệt khó nhọc giơ tay lên, ngón tay tạo thành hình khẩu súng, chỉ vào đầu mình, nói: “Bắn vào đây này, đạn xuyên vào trong, giống như bắn vỡ toang quả dưa hấu, màu đỏ, màu trắng, màu đen, màu gì cũng có, ha... ha ha... bắn đi, bắn đi! Thằng nhát cáy! Khụ, khụ... mày, mày chỉ biết lén lút tố cáo người ta thôi sao? Hừ, tao quên mất mày là tên nội gián xuất sắc nhất, bây giờ mày cũng là nội gián phải không?”

Trần Văn Kiệt vừa nói, vừa quan sát phản ứng của những người đứng sau lưng Nhạc Dương, tuy tất cả đều im lặng, nhưng hắn nhìn ra được, câu nói ấy đã có tác dụng.

Nhạc Dương bình tĩnh, quay người lại, tựa hồ mới buông bỏ được gánh nặng trong lòng, thở hắt ra một tiếng nói: “Chúng ta đi thôi.”

Trương Lập bối rối hỏi: “Cậu không trả thù à?”

Nhạc Dương nói: “Tôi nghĩ, cô chú tôi cũng chẳng mong đợi tôi nổ súng vào một kẻ đã hoàn toàn chẳng còn sức phản kháng! Dù hắn tội ác ngập đầu đi chăng nữa. Họ thường nói với tôi, đừng làm những chuyện phạm pháp, đừng đi con đường không thể quay đầu. Làm chuyện bất nghĩa sẽ bị quả báo, thôi thì để hắn tự sinh tự diệt ở đây đi.”

Đôi mắt cuồng loạn của Trần Văn Kiệt cuối cùng cũng lộ ra vẻ sợ hãi, hắn giận dữ quát chửi: “Thằng nhát gan, đồ hèn, giết tao đi!” Không hiểu lấy sức lực đâu ra, hắn đột nhiên nhảy chồm lên khỏi đám đất bùn, bổ nhào về phía Nhạc Dương!

“Tạch!” “Tạch tạch!”

Nhạc Dương đang quay đầu trở lại, nhưng những người khác đều cực kỳ cảnh giác, chỉ sợ anh xảy ra chuyện, đạn từ họng súng của Ba Tang, Trương Lập, Lữ Cánh Nam trước sau lần lượt bắn trúng Trần Văn Kiệt. Trần Văn Kiệt gục xuống bùn đất, khó nhọc ngẩng đầu lên, nhưng đôi mắt vẫn cực kỳ hung hãn, bộ dạng nghiến răng nghiến lợi như thể muốn lao vào cắn xé Nhạc Dương. Hắn lẩm bẩm gì đó, nhưng giọng mỗi lúc một yếu hơn.

“Cẩn thận!” Ba Tang chợt cảm nhận được mùi nguy hiểm.

“Tất cả chúng mày... chết chung với tao đi!” Trần Văn Kiệt bật cười điên loạn một tiếng cuối cùng, rồi tắt thở.

Nhưng Ba Tang lại phát hiện, cảm giác nguy hiểm kia vẫn chưa biến mất, ngược lại còn trở nên nặng nề hơn, tại sao vậy chứ? Đột nhiên, anh ta phát hiện trên áo chống đạn của Trần Văn Kiệt, bùn đất hình như bọc quanh một vật hình tròn gồ lên, trông giống một đồng xu!

“Nằm xuống! Cơn Lốc Đen!” Cùng với tiếng hét, Ba Tang bổ lên phía trước ôm lấy Nhạc Dương, rồi húc ngã Trương Lập, lăn một vòng dưới đất. Lữ Cánh Nam và Trác Mộc Cường Ba cũng kịp thời phản ứng, còn pháp sư Á La thì đã lộn nhào một vòng, kéo Nha Châu và Trát Lỗ nằm xuống, nhưng mấy tên hộ vệ khác thì vẫn đứng ngây ngây ra đó.

“Ầm!” một tiếng nổ kinh thiên động địa vang lên, Nha Châu cứ ngỡ rằng tầng bình đài thứ hai đã sụp đổ đến nơi. Lúc y ngẩng đầu lên, chỉ thấy rừng đước vốn lạnh lẽo ẩm thấp, giờ bỗng ngập tràn những luồng nhiệt nóng rát, khoảng rừng có mấy cây lớn phía trước giờ đã trống huếch trống hoác, chỉ còn lại những gốc cây cụt lủn, đám hộ vệ đứng gần nhất đều cháy đen kịt, những người khác thì bị hất văng ra xa, đang vất vả bò dậy. Đằng xa vẳng lại tiếng cành cây “vù vù vù”, tựa như những cạm bẫy khác cũng bị ảnh hưởng của vụ nổ làm cho phát động rồi.

Nhạc Dương lật người bò dậy, Trần Văn Kiệt đã biến mất khỏi thế gian, những dấu vết màu máu lốm đốm trên người anh có lẽ là do hắn để lại. Trần Văn Kiệt đã trở thành một đống thịt vụn, giống như hắn đã từng xẻ tung thi thể của những người khác. “Nếu tao hóa thành tro, mày tuyệt đối không thể nhận ra được!” Tiếng cười điên cuồng đáng sợ của Trần Văn Kiệt phảng phất như vẫn còn văng vẳng bên tai, những xác chết đen kịt xung quanh, những mảnh thịt bắn tung tóe khiến Nhạc Dương như quay ngược thời gian trở lại quá khứ, từng cảnh tượng lại tái hiện trước mắt. Nhạc Dương không sao kiềm chế nổi, ôm ngực, há miệng “ọe” ra một bãi lớn.

Trương Lập bước đến an ủi: “Được rồi, qua hết rồi, cơn ác mộng ấy sau này sẽ không xuất hiện nữa.”

Nhạc Dương thương tâm ngẩng đầu lên: “Anh có thấy không? Anh có thấy không? Trong mắt hắn, trong mắt hắn không hề có vẻ hối hận, hắn không hề nghĩ mình đã sai trái. Tại sao lại như thế? Tại sao lại như thế!”

Trương Lập tắc tị không nói được gì, Lữ Cánh Nam đứng cạnh đó cất tiếng: “Sự thực là, trên đời này có những kẻ sau khi phạm sai lầm lần đầu tiên, giới hạn về đạo đức và luân lý của họ sẽ hoàn toàn sụp đổ, họ không còn quan niệm đúng sai thị phi gì nữa, mọi thứ nhân tính, lương tri thảy đều bị vứt bỏ đi hết, hành vi sẽ không tuân theo lý lẽ thông thường, thủ đoạn cực đoan tàn nhẫn. Bọn họ thù hận những người bình thường, đồng thời cũng không thể nào sống trong xã hội của người bình thường nữa. Có điều, cuộc sống những tên tội phạm hung ác cùng cực này thực ra chẳng khác nào lũ chuột qua đường, cuối cùng không bao giờ có được kết cục tốt đẹp.”

Nha Châu và những hộ vệ khác đang dìu đỡ lẫn nhau, y nghiêng tai nghe ngóng tiếng động từ đằng xa vọng đến, rồi nói với bọn Trác Mộc Cường Ba: “Vụ nổ vừa nãy đã làm trận địa cơ quan trở nên cực kỳ bất ổn, chúng ta phải lập tức rời khỏi nơi này, đến được Thác Nhật thì mới an toàn. Đi thôi, theo chúng tôi.”

Trát Lỗ bi phẫn nói: “Vậy, vậy còn những người khác thì sao?” Anh ta chỉ vào những hộ vệ đã chết và bị thương nặng không thể cử động.

“Những người khác? Rừng cây này chính là nơi an nghỉ của họ.” Nha Châu lạnh lùng trả lời. Chỉ thấy thi thể người chết và cả những người đang sống nhưng không còn khả năng hành động từ từ chìm xuống, đầm lầy tựa như một sinh vật nhu động khổng lồ, chầm chậm nuốt chửng lấy tất cả.

Khi bọn họ đến Thác Nhật, trời đã ngả về hoàng hôn, dải mây nhiều màu kia lại càng rực rỡ.

Thác Nhật là một cứ điểm quan trọng bên bờ biển Sinh Mệnh, đứng sừng sững trên một bãi trống mênh mông. Bãi đá này cao hơn mặt nước chừng hai mươi mét, phía dưới có vô số đá ngầm, sóng biển cuồn cuộn dâng cao, những tháp canh vươn lên như những gã khổng lồ thời thượng cổ, nai nịt khôi giáp chỉnh tề đứng nhìn mặt biển xa xa. Nơi này phòng bị hết sức thâm nghiêm, các võ sĩ mặc giáp chia thành các nhóm nhỏ đi lại tuần tra. Nha Châu nói với Trác Mộc Cường Ba, những kẻ đã đả thương Đại Địch ô của bọn họ từng chạy đến đây cướp một con thuyền đi sang Yaca, vì vậy giờ càng phải tăng cường giới bị hơn.

Nha Châu giới thiệu bọn Trác Mộc Cường Ba với người phụ trách phòng thủ ở Thác Nhật, rồi bảo gã: “Nhiệm vụ của ta đã hoàn thành, đêm nay sẽ dẫn người trở về. Các vị ở đây nghỉ ngơi một đêm, bọn họ chuẩn bị thuyền, Trát Lỗ sẽ dẫn đường. Nếu sáng sớm mai lên thuyền, tới trưa là có thể đến Nhật Mã Ca Tùng.” Trác Mộc Cường Ba nghe xong, liền nói mấy lời khách sáo, tỏ ý cảm ơn.

Gặp lại Ngưu Nhị Oa

Ngày hôm sau, trời trong gió nhẹ, bọn Trác Mộc Cường Ba lên một con thuyền gỗ không hề có khắc ký hiệu gì, do hai con thuyền của Langbu dẫn đường, rời cảng đá ngầm của Thác Nhật, bắt đầu tiến về vương quốc Yaca.

Con đường thủy ra khỏi Thác Nhật là một dải dung nham, qua thời gian năm tháng, đã bị trời đất cắt thành một khe nước rộng rãi thoáng đạt, dưới đáy nhô lên vô số măng đá nhọn hoắt, ẩn hiện dưới nước, chỉ hơi bất cẩn một chút, thuyền sẽ mắc cạn hoặc bị thủng đáy ngay.

Có hai con thuyền đi trước dẫn đường, con thuyền nhỏ bọn Trác Mộc Cường Ba ngồi đương nhiên là bình an vô sự, chỉ là càng tiến lên phía trước, rãnh nước càng sâu, vách đá hai bên càng cao, cảnh trí rất giống với vách đá sừng sững chắn hai bên bờ ở Trường Giang Tam Hiệp. Vách đá màu vàng đỏ dần dần cao lên, con đường thủy lộ vốn rộng mấy chục mét dần thu hẹp lại, lộ ra một đường chân trời. Núi non trùng điệp nguy nga, khí thế ngất ngưởng, không khỏi khiến người ta sinh lòng e sợ, tựa như vách đá hai bên bất cứ lúc nào cũng có thể khép chặt lại, chôn vùi con thuyền nhỏ của họ.

Đi tiếp về phía trước, phong cảnh lại biến đổi, thủy đạo dần rộng ra, hai bên vách đá xuất hiện vô số khán thờ lớn nhỏ khác nhau có các pho tượng Phật giáo, Bản giáo tạo hình kỳ dị, sừng sững hai bên bờ, thoạt nhìn như thể đang hơi cúi đầu quan sát ba con thuyền nhỏ đi qua bên dưới. Những pho tượng ấy đều cao to dị thường, vững chãi kiên cố như vách đá núi lửa nơi đây, chẳng rõ đã đứng ở đó được mấy nghìn năm, rất nhiều pho tượng cả pháp sư Á La cũng không rõ nguồn gốc thế nào.

Càng đi về phía trước, vách đá càng cao, những bức tượng điêu khắc trên đó cũng càng lớn hơn. Đột nhiên, phía trước xuất hiện hai pho tượng cao lớn nhất, một đứng, một ngồi, đo bằng mắt ít nhất cũng phải trên năm chục mét. Tượng đứng có ba mắt hai cánh tay, chân đạp ra, tướng mạo phẫn nộ, trên mũ có chày xương, đầu lâu xâu lại làm chuỗi đeo cổ, tay trái cầm một cái bát hình xương sọ đặt trước ngực, tay phải gập lại, cầm kiếm chỉ lên trời cao, chân giẫm lên một người đàn ông nằm nghiêng, xung quanh có tầm chục pho tượng nhỏ với các tư thế khác nhau, ngồi có, quỳ có, ngồi nghiêng có, ngồi kiết già có; pho tượng ngồi xếp bằng có ba mắt tám mặt, mười tám cánh tay, búi tóc buộc một nắm đầu người, mũ có chùm hoa, cổ đeo chuỗi đầu lâu, hai tay phía trước dâng bát hình xương sọ người; mười sáu cánh tay còn lại cầm các loại pháp khí khác nhau, bên cạnh cũng có bảy tám pho tượng nhỏ cao chừng mười mét, pho thì đứng hai chân, pho thì đứng một chân, pho thì nhảy múa...

Càng đến gần, trông hai pho tượng càng cao lớn, không giận mà tự toát lên vẻ uy phong, khí thế như nuốt cả núi non trời biển, lại như tọa trấn giang sơn, chế ngự vạn vật. Thuyền đi qua dưới chân tượng đá, thật đúng như hạt cát giữa sa mạc, làm ai nấy đều không khỏi sinh lòng hổ thẹn. Vừa đi qua hai pho tượng khổng lồ này, phía trước chợt mở ra mênh mang, trời biển nối liền thành một, thì ra đã ra khỏi khu vực vách đá, xung quanh chỉ còn lại biển rộng trời cao.

Thuyền của Langbu đưa họ ra khỏi bãi đá ngầm, liền quay đầu trở lại. Thấy thuyền của Langbu đi xa rồi, Nhạc Dương mới nôn nóng hỏi: “Pháp sư, họ đều đi cả rồi, giờ đã có thể nói, rốt cuộc là chúng ta phải làm gì bây giờ?”

Pháp sư Á La đưa mắt nhìn Trát Lỗ, rồi mỉm cười nói: “Thực ra, tôi cũng chỉ đánh liều một phen thôi, không chắc chắn như mọi người vẫn tưởng tượng đâu.”

“Hả?” Nhạc Dương kinh ngạc kêu lên một tiếng. Nhưng Trác Mộc Cường Ba lại rất bình tĩnh, dường như đã đoán trước được điều này.

Pháp sư Á La mặc cho Nhạc Dương kinh ngạc, lại quay sang hỏi Trát Lỗ: “Trát Lỗ, Đại Địch ô trước đây của Yaca là người như thế nào?”

Trát Lỗ nói: “Ông nói đến Đại Địch ô Khước Ca Ba Nhiệt ư? Ông ta... là một người vô cùng thần bí, lều của ông ta luôn luôn ở sát bên cạnh lều của đại vương. Phần chóp lều trang trí bằng đuôi bò đen; vô số đầu người khô đét dựng phía bên trên, làm thành nóc lều; dùng ruột người vẫn còn đẫm máu làm dây thừng buộc lều; dùng xương người chết cắm xuống đất thay cho cọc gỗ. Khiến người ta thoạt nhìn, đã thấy lạnh hết cả sống lưng.”

Pháp sư Á La hơi nhíu mày, Nhạc Dương vội thấp giọng hỏi: “Pháp sư nghe ra được điều gì à?”

Pháp sư Á La gật đầu đáp: “Lều của một Chú thuật sư điển hình.”

Trát Lỗ lại tiếp tục nói: “Đại Địch ô có những thanh đao bạc sáng loáng, trong chớp mắt có thể biến bò dê thành xương trắng...”

Pháp sư Á La lại thấp giọng nói: “Thuật giải phẫu.”

Trát Lỗ nói: “Ông ta có thể gọi gió hô mưa, cũng có thể khiến nước hồ khô cạn, núi cao chấn động...”

Pháp sư Á La thấp giọng thì thào: “Thiên khí chú sư.”

“Khi phẫn nộ, ông ta có thể gọi thần điểu trên trời xuống, giúp ông ta giáng phục kẻ địch, cũng có thể sai khiến lũ ngựa hoang chỉ đường, chở ông ta tiến về phía trước...”

“Thao thú sư.”

“Ông ta còn biết biến hình, có người từng thấy Đại Địch ô biến thành bò hoặc ngựa, có lúc còn thấy ông ta hóa thành một đạo cầu vồng, trong chớp mắt đã từ phương Bắc xa xôi bay đến trướng của đại vương...”

“Ảo thuật sư!”

“Ông ấy có thể hiểu tiếng của chim chóc và các loài sâu bọ, có thể sai bọn chuột ban đêm đến doanh trại địch nghe ngóng tình hình...”

Trát Lỗ cứ nói một câu, pháp sư Á La ở bên cạnh lại lẩm bẩm thốt lên một danh từ. Đến khi Trát Lỗ nói xong, hai hàng lông mày của pháp sư Á La đã nhíu chặt lại.

Cuối cùng, Trát Lỗ mới đắc ý hỏi: “Đại Địch ô của chúng ta có lợi hại không?”

Pháp sư Á La trầm tư suy nghĩ, dường như không hề nghe thấy câu hỏi của anh ta. Nhạc Dương cũng thắc mắc: “Pháp sư, vừa nãy ông lẩm bẩm gì thế ạ?”

Pháp sư Á La nói: “Đó là một số chức nghiệp cổ xưa, cổ xưa đến mức ngày nay người ta đã quên mất sự tồn tại của họ, mỗi chức nghiệp, đều đại diện cho những bản lĩnh khác nhau của vị Đại Địch ô đó.”

Nhạc Dương vội hỏi: “Vậy, vậy vị Đại Địch ô tên Khước Ba gì gì đó hẳn là lợi hại lắm?”

Pháp sư Á La gật đầu: “Cực kỳ lợi hại.”

“Vậy pháp sư có thể thắng ông ta được không?”

Pháp sư Á La lắc đầu.

Nhạc Dương không khỏi rợn cả người. Nếu vị Đại Địch ô tên Khước Ba Ca Nhiệt kia đã lợi hại như thế, vậy thì, làm sao họ đối phó nổi với người đã đánh bại ông ta để giành vị trí Đại Địch ô? Xem ra, pháp sư Á La có dùng văn hay dùng võ cũng đều khó có kết quả. Phải dùng mưu kế sao? Phải dùng mưu kế gì đây? Pháp sư nói là đánh liều một phen, rốt cuộc là ông ấy muốn liều cái gì?

Từ đoạn thắt eo hồ lô, vượt qua biển Sinh Mệnh cuồn cuộn mênh mông, chỉ thấy bờ biển đầy những tảng quái thạch lởm chởm, vách đá cao trăm thước, cũng là một nơi cực kỳ hiểm yếu, nhưng không thấy có binh lính canh phòng gì cả. Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên hỏi: “Phía trên kia là Nhật Mã Ca Tùng rồi đúng không? Sao không có binh sĩ phòng thủ gì vậy?”

Trát Lỗ lắc đầu đáp: “Không, lên bờ rồi phải đi thêm một đoạn đường nữa mới đến được Nhật Mã Ca Tùng, cũng không xa lắm. Tại sao lại không cần binh sĩ phòng thủ à? Ha ha, không phải Trát Lỗ ta tự khoa trương đâu, nhưng xưa nay chỉ có Yaca chúng ta đánh sang Langbu, chứ chẳng bao giờ có chuyện quân Langbu vượt biển sang đánh Yaca cả. Binh sĩ Yaca chúng ta là dũng mãnh nhất đó.”

Nhạc Dương gật đầu nói: “Phải rồi, Yaca là vương quốc theo chế độ liên minh các bộ tộc du mục, không có cứ điểm cố định. Quân Langbu vượt biển sang đây, một là không tìm được mục tiêu tấn công, hai là rất dễ bị rơi vào một cuộc chiến tranh du kích trên thảo nguyên, sẽ rất bị động.”

Lữ Cánh Nam bổ sung thêm: “Không sai. Hơn nữa, Langbu đủ ăn đủ mặc, đời sống sung túc, còn dân du mục trên thảo nguyên lại bị các nhân tố tự nhiên ức chế nhiều hơn, vì vậy, sự phân chia thành hai phe phòng ngự và tấn công càng thêm rõ rệt.”

Sau khi lên bờ, phóng mắt nhìn qua, cũng chỉ thấy một vùng rừng rậm cây cối chen chúc, không đi xuyên qua khoảng rừng này thì khó mà nhìn được ra phía xa. Trương Lập nói: “Cũng chẳng khác gì ở Langbu mà.”

Trát Lỗ lắc đầu: “Cứ đi rồi ngươi sẽ phát hiện, khác biệt rất lớn đấy.”

Lữ Cánh Nam hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Anh có để ý bờ biển ở hai bên không?”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Ừm, bờ biển ở Yaca cao hơn bên phía Thác Nhật kia một chút.”

Lữ Cánh Nam lại nhìn sang chỗ Ba Tang. Ba Tang hơi miễn cưỡng nói: “Mặt phẳng là bất biến, vậy có nghĩa là địa thế bên bờ biển phía Yaca này cao hơn Thác Nhật, có khả năng là địa hình tầng bình đài thứ hai này cao dần từ Tây sang Đông, càng đến gần khu vực cao hơn mực nước biển, phương thức sinh trưởng và chủng loại thực vật sẽ càng thay đổi.”

Nhạc Dương nói: “Ồ, chẳng trách, vậy tức là, đi tới tận cùng phía Đông, tức là đến chỗ cao nhất của tầng bình đài thứ hai, cũng là nơi gần tầng thứ ba nhất, có thể leo lên từ chỗ đó.”

Lữ Cánh Nam nghe các học viên bàn luận, hài lòng gật đầu.

Năm phút sau, Nhạc Dương lại hỏi: “Trát Lỗ, rốt cuộc là còn bao xa nữa? Không phải anh vừa nói đi một lúc là tới rồi sao?”

Trát Lỗ đáp: “Ở ngay phía trước kia kìa, có thấy chỗ gồ lên hình tròn trên vách đá kia không? Sau khi lên bờ đi về phía nó chừng một nghìn bước là đến Nhật Mã Ca Tùng rồi.”

Nhạc Dương ngẩng đầu lên quan sát, trên vách đá có một vết bớt đỏ lớn hình thành tự nhiên, nhưng nếu đếm một nghìn bước là tới nơi, vậy thì họ phải đến rất gần rồi mới đúng. Anh lại thắc mắc: “Nhưng phía trước có cái gì đâu? Anh có nhớ nhầm không đấy?”

Trát Lỗ lắc đầu: “Không thể nào, tuy rằng ba năm nay ta chưa trở về, nhưng chuyện này làm sao mà nhầm được chứ?”

Trương Lập nói: “Hay là bộ lạc của các anh đã chọn nơi khác hạ trại rồi?”

Trát Lỗ cương quyết nói: “Làm sao có chuyện đó được? Nhật Mã Ca Tùng ở bên dưới tiêu ký màu đỏ, nghìn năm nay vẫn không thay đổi.”

“Đến rồi, chính là chỗ này!” Trát Lỗ dẫn mọi người đi xuyên qua rừng cây rậm rạp, phía trước liền xuất hiện một vùng đất trống, rộng bằng mấy chục cái sân bóng đá. Bốn phía đều là rừng cây, nhưng ở đây lại có một bãi cỏ mênh mông, một con sông nhỏ chảy từ trong rừng qua, cuối cùng đổ về phía biển Sinh Mệnh. Chỉ có điều, trước mắt họ chỉ là một vùng đất trống mà thôi, không có một căn lều căn trướng nào. Đứng trên bãi cỏ xanh ngút mắt ấy, Nhạc Dương xòe hai tay ra, hít thở mấy hơi, rồi quay lại hỏi: “Thế này là thế nào? Người đâu cả rồi?”

Trát Lỗ cuống lên đáp: “Ta... ta không biết! Sao lại thế được? Sao lại không có người chứ?”

Pháp sư Á La đến bên cạnh Trác Mộc Cường Ba, nói: “Họ đi rồi.”

Trác Mộc Cường Ba thoáng động tâm, liền quan sát lại khoảng đất trống ấy một lượt nữa, nơi này có rất nhiều phân bò dê, còn cả vết bánh xe được che đậy sơ sài. Gã lục lại những tri thức mình đã học được, đoạn lấy một cây gậy gỗ lật cục phân bò lên, nói: “Phân bò vẫn còn khá mềm, chắc họ chưa đi được bao lâu, có lẽ là chỉ mới hôm qua thôi!”

Nghe Trác Mộc Cường Ba nhắc nhở, bọn Nhạc Dương cũng lần lượt có phát hiện. Trương Lập nói: “Vết xe được che đậy rất sơ sài vội vã, vết tích để lại rất rối loạn, hơi có cảm giác như cố ý làm mê hoặc truy binh, nhưng cuối cùng vẫn đi về phía Tây.”

Nhạc Dương cũng nói: “Dựa trên sự phân bố các cọc gỗ và tro tàn, nơi này từng có khoảng... ba trăm lều, kích cỡ có thể chứa khoảng mười người, chắc là đội hộ vệ của đại vương, tầm ba nghìn người, chủ yếu là kỵ binh, số lượng bò dê không nhiều, ngoài ra còn có mấy chục lều cỡ lớn, hẳn là lều của vua rồi, tổng số đại khái khoảng năm nghìn người, không có dấu vết của người già và trẻ con.”

Trát Lỗ nói: “Không, không phải, lều trướng của chúng ta lớn lắm, đúng tiêu chuẩn thì là một lều hai mươi đến ba mươi người.”

Lữ Cánh Nam nói: “Vậy thì đội hộ vệ có khoảng năm đến bảy nghìn người.”

Trát Lỗ gật gật đầu: “Đúng thế, đội hộ vệ của đại vương thông thường có khoảng bảy nghìn người, cộng với phi tử và nữ bộc, tổng cộng là một vạn người.”

Ba Tang nói: “Người đông như vậy, chắc chắn không thể đi nhanh được, chúng ta có thể bắt kịp họ.”

Trát Lỗ nói: “Nhưng họ có xe bò, chúng ta chỉ có hai chân thôi.”

Trác Mộc Cường Ba kéo vai Trát Lỗ lại nói: “Anh cứ chỉ đường đi, chúng ta nhất định sẽ đuổi kịp họ.”

Trong rừng, có mấy căn lều bằng vải bạt pha nylon nhuộm màu ngụy trang dựng trên một khoảng đất trống, radar tìm kiếm lặng lẽ chuyển động, thiết bị báo động dùng những điểm sáng đỏ đánh dấu vị trí bãi mìn, thiết bị giám sát sự sống liên tục đo hàm lượng khí Co2 trong phạm vi năm trăm mét vuông xung quanh, chốc chốc lại có thuốc sát trùng tự động phun, phát ra những âm thanh “xẹt xẹt”. Không thể tin được nơi này lại là rừng rậm nguyên sinh, thoạt nhìn qua, còn tưởng đã đến chỗ một doanh trại quân đội được ngụy trang hoàn hảo. Sự thực là, trong doanh trại này, chỉ có một người, y vừa là sĩ quan chỉ huy, lại đồng thời cũng là binh sĩ.

Y nằm trên tán cây, ôm trong lòng khẩu súng ưa thích nhất, cẩn thận lau từng li từng tí. Đã có một thời, y chỉ là một tên thợ săn tầm thường, cùng với anh trai gia nhập vào đảng săn trộm ấy. Trong đám săn trộm đó, hai anh em nhà y chỉ là chân sai vặt, chỉ gì làm nấy, vừa không hung tàn, cũng không có bản lĩnh gì đặc biệt. Bọn y vốn dự tính, làm cái nghề ấy dăm ba năm, kiếm chút vốn liếng rồi về quê mua ả đàn bà làm vợ, vài con trâu làm ruộng, chẳng ngờ số phận khó lường, anh trai y lại bị một gã tên Trác Mộc Cường Ba giết chết! Mỗi lần nhớ đến chuyện này, cặp mắt y lại ánh lên ngọn lửa hận thù rừng rực. Giờ đây, sau khi được Merkin dày công huấn luyện bồi dưỡng, y đã không còn là kẻ kém cỏi lỗ mãng ngày xưa nữa rồi, y hoàn toàn tự tin có thể hạ gục Trác Mộc Cường Ba với khẩu súng này.

Không sai, y chính là Ngưu Nhị Oa, tên ăn trộm từng đụng độ với bọn Trác Mộc Cường Ba ở Khả Khả Tây Lý, về sau được Merkin đưa đến doanh trại huấn luyện bộ đội đặc chủng hải lục không quân rèn giũa. Lần này y cũng gia nhập vào đội tiên phong nhảy dù, chỉ là, vừa lên đỉnh núi đã gặp phải cuồng phong, bảy người cùng bị gió thổi hất văng đi với y đều đã chết cả rồi.

Tám chiếc hòm sắt lớn gắn liền nhau đặt bên dưới gốc cây, Ngưu Nhị Oa đến nơi này, không có lý do gì khác, mà chính là vì tám cái hòm ấy. Lúc nhảy dù y đã phát hiện, có tám cái hòm bị gió thổi bay về phía Bắc, dựa theo chỉ dẫn trên thiết bị định vị, y đã tìm được hòm sắt, dựng một doanh trại ở gần đó, doanh trại của một mình y. Phải rồi, còn một người nữa, người đã điều trị cổ độc cho y, hiện vẫn đang giúp y tiếp tục trị liệu thương thế.

“Cách!” Ngưu Nhị Oa đột nhiên lộn người móc ngược vào cành cây, hai tay cầm chắc khẩu súng bắn tỉa M110, ngắm về phía có tiếng động trong rừng, “Đừng, đừng nổ súng, là ta đây.” Khước Ca Ba Nhiệt khoác áo da bò màu đen từ trong bụi cây um tùm bước ra. Hai chân Ngưu Nhị Oa thả lỏng, nhảy trên cây xuống, hỏi: “Sao rồi?”

Khước Ca Ba Nhiệt đáp: “Lều của đại vương đã rời khỏi Nhật Mã Ca Tùng, giờ có lẽ đang trên đường đi Gia Quỳnh, ngươi có chắc chắn đối phó được hắn không đấy?”

Ngưu Nhị Oa lắc lắc khẩu súng trong tay, nói: “Đừng coi thường thứ này của ta. Á...” Ngưu Nhị Oa đang nói, bỗng đùi non hơi giật giật, y bèn bảo Khước Ba Ca Nhiệt: “Kỹ thuật của ngươi không bằng lão già ở Langbu kia, lâu như vậy rồi mà vẫn chưa khỏi.”

Khước Ba đáp: “Ta bị thiếu mấy thứ thảo dược, bằng không vết thương của ngươi đã khỏi lâu rồi.”

Thì ra, Ngưu Nhị Oa chính là tên người Giáp Mễ bị thương được Đại Địch ô của Tước Mẫu cứu về. Lúc nhảy dù xuống, y bị gió lớn cuốn bay đến gần Tước Mẫu, bị thương rất nặng, rồi được Đại Địch ô Thứ Kiệt cứu mạng, sau đó lại bắn bị thương Thứ Kiệt, cướp một con thuyền ở Thác Nhật, chạy đến Yaca. Trong rừng rậm ở Yaca, y tình cờ gặp được Khước Ba Ca Nhiệt vừa bị Qua Ba Đại Địch ô đánh bại buộc phải rời khỏi vương trướng. Khước Ba vẫn một mực luẩn quẩn ở vùng xung quanh, chờ cơ hội báo thù. Khi Ngưu Nhị Oa biểu diễn uy lực của vũ khí hiện đại cho y xem, y liền cho rằng đây là cơ hội tốt để phục thù, bèn chủ động trị liệu thương thế cho Ngưu Nhị Oa, hy vọng Ngưu Nhị Oa giúp mình trả thù. Ngưu Nhị Oa vốn cho rằng y chỉ là một gã thổ dân, không hề ý thức được người ở bên cạnh mình nguy hiểm đến mức nào, liền hàm hồ nhận lời ngay, y cũng không biết nói tiếng Tạng cổ, nhưng Khước Ba lại có trí nhớ kinh người, chỉ trong thời gian ngắn đã có thể dùng tiếng Hán hiện đại biểu đạt ý đồ của mình. Hai người đã ở trong khu rừng này chờ đợi một thời gian, nhưng vị Qua Ba Đại Địch ô kia hiếm khi xuất hiện, rất khó tìm cơ hội ra tay. Bọn họ vẫn đợi mãi ở gần Nhật Mã Ca Tùng, giờ đây vương trướng bắt đầu di chuyển, Khước Ba cho rằng cơ hội đã đến, nên mới đến bàn bạc cùng Ngưu Nhị Oa.

Hai người nằm phục trên một tảng nham thạch khuất sâu trong rừng, từ trên cao nhìn xuống, Ngưu Nhị Oa hỏi: “Bọn họ nhất định sẽ đi qua đây chứ?”

Khước Ba đáp: “Ừm, chắc là không thể sai được, muốn đến Gia Quỳnh, nhất định phải đi qua chỗ này. Đến lúc ấy ta sẽ chặn đường của vương trướng, bọn hộ vệ ấy đều là thủ hạ của ta ngày trước, bọn chúng chắc sẽ không làm gì ta đâu. Sau đó ta sẽ khiêu chiến lão già kia, dụ cho lão xuất hiện, khi đó ngươi chỉ cần ngắm đúng đầu lão ta mà nổ súng là được rồi.”

Ngưu Nhị Oa nói: “Phải rồi, ta nhớ ngươi từng nói, phải đợi thêm một hai tháng nữa mới chuyển đi cơ mà? Sao lại đi sớm hơn vậy?”

Khước Ba đáp: “Thân tín của ta cho biết, là bởi phía Langbu có một đám người Giáp Mễ muốn đến tìm lão già kia, hình như muốn mời lão đến Langbu làm gì đó. Theo thỏa thuận của hai bên, không thể cho đám người ấy gặp mặt lão già kia, vì vậy mới chuyển đi sớm hơn dự kiến.”

Ngưu Nhị Oa nói: “Người Giáp Mễ? Ý ngươi là...”

Khước Ba nói: “Ừm, nghe nói, trang bị vũ khí thì cũng giống như ngươi, nhưng bọn họ nói không phải cùng một bọn với ngươi.”

“Hả?” Ngưu Nhị Oa hai mắt sáng lóe, vội hỏi: “Bọn chúng có bao nhiêu người? Có biết chúng tên là gì không?”

Khước Ba đáp: “Hình như có sáu người, kẻ dẫn đầu tên là Trác Mộc Cường Ba... Này, ngươi đi đâu đấy? Chỗ này mới là con đường đoàn người của đại vương nhất định sẽ đi qua cơ mà!” Lời y còn chưa dứt, đã thấy Ngưu Nhị Oa xách súng chạy về phía Nhật Mã Ca Tùng. “Yên tâm, ta sẽ giúp ngươi đối phó với lão già ấy, nhưng trước tiên phải đi giết kẻ thù của ta trước đã...” Ngưu Nhị Oa từ đằng xa nói với lại.

CHƯƠNG 60:

MẬT TU GIẢ TÌM ĐƯỜNG TRỞ VỀ

Pháp sư Á La nói: “Bởi những Mật tu giả giống như pháp sư Tháp Tây, thể năng cũng tương đương với Phật tính, tu vi càng cao lại càng nhân từ hòa ái. Nếu gặp phải lũ hổ báo hay chim ưng đói khát, họ thà cắt thịt mình cho chúng ăn chứ cũng không chịu ra tay đại khai sát giới. Thực ra trong mắt những bậc đại sư ấy, những người như tôi, chẳng có được chút Phật tính nào. Vì vậy chúng tôi được huấn luyện như những võ tăng, còn bọn họ, thực ra là đang tìm con đường trở về.”

Kẻ bắn lén

Ngưu Nhị Oa chạy như điên trong rừng, trong lòng thầm hét vang: “Thật không ngờ, cơ hội cuối cùng đã tới rồi! Anh à, em có thể báo thù cho anh được rồi! Trác Mộc Cường Ba, lần này mày phải chết!” Từ nhỏ đến lớn, dù đánh nhau hay đi ăn trộm ăn cắp, lúc nào y cũng có anh trai ở bên, lang bạt kỳ hồ khắp chốn đó đây. Anh trai là chỗ dựa dẫm nửa đời của y, hai anh em luôn cùng quẩn quanh qua lại trên lằn ranh sinh tử, bởi thế, gã Trác Mộc Cường Ba đã sát hại anh trai y, nhất định phải chết! Còn chuyện anh em nhà y làm toàn việc phạm pháp, giết vô số người, Ngưu Nhị Oa hoàn toàn không để tâm đến, logic của y hết sức đơn giản, bọn y làm như vậy, chỉ là để sinh tồn. Chỉ cần vì sinh tồn, dù có làm những chuyện gì thì cũng đều hợp lý cả! Kẻ nào chặn đường y đều phải chết, kẻ nào kéo chân bọn y cũng đều phải chết, nhưng anh trai y thì không thể chết! Chỉ có anh trai y là không thể chết! Trác Mộc Cường Ba! Trác Mộc Cường Ba...

“Oa, đừng có nhanh vậy chứ, đừng có nhanh vậy chứ!” Trát Lỗ ôm chặt lấy một bên chân của Trác Mộc Cường Ba lớn tiếng kêu toáng lên. Đối với người chưa từng tiếp xúc với dây móc, cảm giác đu người lao đi vun vút như thế tuyệt đối không chỉ là kích động, mà phải nói là khủng khiếp mới đúng. Bọn Trác Mộc Cường Ba lợi dụng hoàn cảnh trong rừng, lật cổ tay, vung dây móc ra, rồi tung mình đu lên như diễn viên đu bay trong đoàn xiếc đu từ cái đu này sang cái đu khác. Giờ đây họ đã quá quen thuộc với tính năng của loại thiết bị bắn dây móc này, chỉ khổ thân Trát Lỗ, vừa nhìn thấy phía trước sắp đập vào một thân cây to tướng, liền sợ đến hết hồn, không dám mở mắt ra, nói gì đến chỉ đường chỉ lối cho ai. Vậy mà trong lúc đu bay với tốc độ cao như thế, Nhạc Dương vẫn có thể nhận rõ được hướng xe chạy.

Nhạc Dương nhẹ nhàng hạ xuống đất, nói với những người phía sau: “Đến đây thì vết xe chia làm hai, chúng ta đi lối nào đây?”

Bọn Trác Mộc Cường Ba cũng lần lượt hạ xuống, gã nói với Nhạc Dương: “Kiểm tra xem con đường nào có dấu vết của xe lớn và đa số kỵ binh đi qua.” Kế đó, gã lại quay sang hỏi Trát Lỗ: “Hai con đường này thông tới đâu?” Trát Lỗ vẫn sợ đến nỗi chẳng dám thở mạnh, đang đần thối cả mặt ra.

Nhạc Dương cẩn thận kiểm tra lại một lượt, đoạn nói: “Lều của quốc vương đi phía trái.”

“Đó, đó là đường đi Gia Quỳnh.” Cuối cùng Trát Lỗ cũng định thần lại được.

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Đại Địch ô và quốc vương của các người có bao giờ tách nhau ra không?”

“Không đâu, sự an toàn của đại vương ít nhất có một nửa là do Đại Địch ô phụ trách, tất cả đám binh lính hộ vệ cộng lại cũng không thể bằng một Đại Địch ô.” Trát Lỗ khẳng định.

“Nhưng nếu bọn họ cố ý không ngồi trên xe lớn chở trướng của quốc vương, mà chuyển sang ngồi xe nhỏ... nhưng, hư mà thực, thực mà hư, cũng có khả năng họ không đổi xe...” Trương Lập nói.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top