Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

Phân tích bài thơ Đồng chí

Bài làm 1

Đồng chí là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nông dân mặc áo lính trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ được viết vào đầu xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947. Nó đã đi qua một hành trình nửa thế kỉ, làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.

Hai mươi dòng thơ, với ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc dồn nén. Hình tượng thơ phát sáng, có một vài câu thơ để lại nhiều ngỡ ngàng cho bạn đọc trẻ ngày nay.

Bài thơ Đồng chí ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954).

Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai “gương mặt” người chiến sĩ rất trẻ, như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết:

Quê hương anh nước mặn, đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi “nước mặn, đồng chua”, là xứ sở “đất cày lên sỏi đá”. Mượn tục ngữ. thành ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu của mình, Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, dáng yêu như tâm hồn người trai cày ra trận đánh giặc. Sự đồng cánh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở. Là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng chí sau này.

Năm câu thơ tiếp theo nói lên một quá trình thương mến: từ “đôi người xa lạ” rồi “thành đôi tri kỉ”, về sau kết thành Đồng chí. Câu thơ biến hoá, 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ, cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì: “Anh với tôi đôi người xa lạ – Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!
“Súng bên súng” là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lí tưởng chiến đấu; “anh với tôi” cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. “Đầu sát bên đầu” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao. Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm một thời gian khổ. Chia ngọt sẻ bùi mới “thành đôi tri kỉ”. “Đôi tri kỉ” là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại hai từ Đồng chí diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động khi nghĩ về một tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành – đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỉ, tình đồng chí. Cái tấm chăn mỏng mà ấm áp tình tri kỉ, tình đồng chí ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, không bao giờ có thể quên:
Ôi núi thẳm rừng sâu
Trung đội cũ về đâu
Biết chăng chiều mưa mau
Nơi đây chăn giá ngắt
Nhớ cái rét ban đầu
Thấm mối tình Việt Bắc...
(Chiều mưa đường số 5 - Thâm Tâm)
Ba câu thơ tiếp theo nói lên hai người đồng chí cùng chung một nỗi nhớ: nhớ ruộng nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng thắm thiết một tình quê vơi đầy:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay,
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính.
Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân thương của làng quê được nói nhiều trong ca dao xưa: “Cây đa cũ, bến đò xưa... Gốc đa, giếng nước, sân đình...”, được Chính Hữu vận dụng, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, thấm thía. Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hoá, đang đêm ngày dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận? Hay “người ra lính” vẫn đêm ngày ôm ấp hình bóng quê hương? Có cả hai nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời, lính yêu quê hương đã góp phần hình thành tình đồng chí, làm nên sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao ác liệt thời máu lửa. Cũng nói về nỗi nhớ ấy, trong bài thơ Bao giờ trở lại, Hoàng Trung Thông viết:
Bấm tay tính buổi anh đi,
Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về?
Lúa xanh xanh ngắt chân đê.
Anh đi là để giữ quê quán mình.
Cây đa bến nước sân đình,
Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường.
Hoa cau thơm ngát đầu nương,
Anh đi là giữ tình thương dạt dào.
(...)
Anh đi chín đợi mười chờ,
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?
Bảy câu thơ tiếp theo ngổn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực kháng chiến buổi đầu. Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã quật khởi đứng lên giành lại non sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,... nhân dân ta phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lược. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men,... Người lính ra trận “áo vải chân không đi lùng giặc đánh”, áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng. “Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày...
Chữ “biết” trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách. Các chữ: “anh với tôi”, “áo anh... quần tôi” xuất hiện trong đoạn thơ như một sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao đẹp. Câu thứ 4 tiếng cấu trúc tương phản: “Miệng cười buốt giá” thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới hình thức liệt kê, cảm xúc từ dồn nén bỗng ào lên: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Tình thương đồng đội được biểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: “Tay nắm lấy bàn tay”. Anh nắm lấy tay tôi. tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau, truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, đế vượt qua mọi thử thách. “đi tới và làm lên thắng trận”.

Phần cuối bài thơ ghi lại cảnh hai người chiến sĩ – hai đồng chí trong chiến đấu. Họ cùng “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”, cảnh tượng chiến trường là “rừng hoang sương muối”, một đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng chiến khu. Trong gian khổ ác liệt, trong căng thẳng “chờ giặc tới”, hai chiến sĩ vẫn “đứng cạnh bên nhau”, vào sinh ra tử có nhau. Đó là một đêm trăng trên chiến khu. Một tứ thơ đẹp bất ngờ xuất hiện: “đầu súng trăng treo”.Người chiến sĩ trên đường ra trận thì “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người lính đi phục kích giặc giữa một đêm đông “rừng hoang sương muối” thì có “đầu súng trăng treo”. Cảnh vừa thực vừa mộng, về khuya trăng tà, trăng lơ lửng trên không như đang “treo” vào đầu súng. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp đất nước thanh bình. Súng mang ý nghĩa cuộc chiến đấu gian khổ hi sinh. “Đầu súng trăng treo” là một hình ảnh thơ mộng, nói lên trong chiến đấu gian khổ, anh bộ đội vẫn yêu đời, tình đồng chí thêm keo sơn gắn bó, họ cùng mơ ước một ngày mai đất nước thanh bình. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là một sáng tạo thi ca mang vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca kháng chiến, đã được Chính Hữu lấy nó đặt tên cho tập thơ – đoá hoa đầu mùa của mình. Trăng Việt Bắc, trăng giữa núi ngàn chiến khu, trăng trên bầu trời, trăng toả trong màn sương mờ huyền ảo. Mượn trăng để tả cái vắng lặng của chiến trường, để tô đậm cái tư thế “trầm tĩnh chờ giặc tới”. Mọi gian nan căng thẳng của trận đánh sẽ diễn ra đang nhường chỗ cho vẻ đẹp huyền diệu, thơ mộng của vầng trăng, và chính đó cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng của tình đồng chí, tình chiến dấu.

Bài thơ Đồng chí vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh – người lính binh nhì buổi đầu kháng chiến.

Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm tình. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.

Đồng chí là bài thơ rất độc đáo viết về anh bộ đội Cụ Hồ – người nông dân mặc áo lính, những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một tượng dài chiến sĩ tráng lệ, mộc mạc và bình dị, cao cả và thiêng liêng”.




Bài làm thứ 2


Hướng dẫn giải

    Trong bài thơ Đất nước Nguyễn Đình Thi đã viết:

    Ôm đất nước những người áo vải

    Đã đứng lên thành những anh hùng

    Hình ảnh người chiến sĩ áo vải hiện lên vô cùng đẹp đẽ. Họ - những con người bình dị, mộc mạc, nhưng chính họ là người đã làm nên đất nước. Trong dòng chảy văn học kháng chiến chống Pháp, hình ảnh người lính không ngang tàng, hóm hỉnh như kháng chiến chống Mĩ, nhưng lại mang trong mình nét chất phác, giản dị và hơn hết là tình yêu đất nước tha thiết. Vẻ đẹp tâm hồn đó đã đã Chính Hữu khắc họa rõ nét trong bài thơ Đồng chí.

    Đồng chí vừa là những nét vẽ rất thực về cuộc sống, chiến đấu của những người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Nhưng đằng sau những nét vẽ chân thực đó lại là một tâm hồn vô cùng lãng mạn, dù cái lãng mạn chỉ mới phảng phất, nhưng cũng đủ để cho người đọc cảm nhận được đầy đủ vẻ đẹp tâm hồn của người lính.


    Cả tác phẩm như một câu chuyện kể về cuộc đời người lính, nhưng không phải bằng lời văn xuôi mà bằng chính những dòng thơ thấm đẫm cảm xúc. Lời thơ mộc mạc, giản dị và chân thành đã đưa người đọc khám phá cuộc sống chiến đấu, cũng như tâm hồn của họ. Mở đầu bài thơ là những hình ảnh rất chân thực về nguồn gốc xuất thân của người lính nông dân:

    Quê hương anh nước mặn đồng chua

    Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.

    Họ vốn từ nhiều miền quê khác nhau, người nơi miền chiêm trũng “nước mặn đồng chua”, người lại từ miền đồi núi “đất cày lên sỏi đá” tụ hợp về chung một nơi. Điều gì đã khiến họ rời bỏ quê hương, để đến đây, đó chẳng phải là tình yêu làng, yêu nước nồng nàn đó sao. Thật tinh tế, Chính Hữu đã sử dụng từ “đôi” để nói lên sự gắn bó giữa hai con người xa lạ. Nếu là hai, thì có thể tách rời các thực thể, nhưng đôi thì không thể tách rời nữa. Mà giữa những người chiến sĩ có sự gắn bó, kết dính hài hòa với nhau. Từ đôi đến tri kỉ, rồi đến đồng chí là cả một quá trình thấu hiểu lẫn nhau. Kết lại bảy câu thơ đâu, hai tiếng vang lên đầy ám ảnh, ý nghĩa:

    Đồng chí!

    Đồng chí là một khái niệm mới, để nói về những con người cùng chung mục đích, lí tưởng. Và ở họ sau những tháng ngày chiến đấu gian khổ, cùng mang nỗi niềm, lí tưởng, đọng lại, kết tinh lại chính là tình đồng chí bền chặt, sâu sắc. Tình đồng chí ấy không chỉ được gây dựng trên cơ sở tình cảm mà còn được gây dựng trên cơ sở cùng chung giai cấp, mục đích, lí tưởng. Ngày họ ra đi, không màng gian nhà – nơi chốn thân thương đã sinh ra họ; giếng nước, gốc đa gắn bó với kỉ niệm tuổi thơ, nuôi họ khôn lớn. Hai chữ “mặc kệ” như một lời dứt khoát lên đường để thực hiện nhiệm vụ lớn lao hơn, cao cả hơn, đó là nhiệm vụ cứu nước.

    Không dừng lại ở đó, nét vẽ hiện thực của Chính Hữu tiếp tục xoáy sâu để thấy được cuộc sống vô vàn những khó khăn mà họ phải đương đầu:

    Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

    Sốt run người vừng chán ướt mồ hôi

    Áo anh rách vai

    Quần tôi có vài mảnh vá

    Miệng cười buốt giá

    Chân không giày

    Những cơn sốt rét rừng đã từng được nhà thơ Quang Dũng tái hiện trong bài thơ Tây Tiến: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Người chiến sĩ không chỉ phải đương đầu với khói bom, lửa đạn chiến tranh mà họ còn phải đương đầu với rừng thiêng nước độc, với căn bệnh sốt rét rừng ám ảnh đến cả trong giấc ngủ. Căn bệnh này đã cướp đi sinh mạng biết bao người. Chính Hữu không che giấu, mà vẽ những nét rất chân thật, để ta có thể cảm nhận hết sự khắc nghiệt của chiến tranh. Không chỉ vậy họ còn phải đối mặt với sự thiếu thốn về vật chất, những chiếc quần rách tơi tả, chắp vá, cái lạnh của mùa đông thấm vào da thịt; hành quân dài ngày mà chân chẳng có lấy một đôi giày. Nhưng họ đã vượt qua tất cả bằng tình yêu thương, bằng cái nắm tay đầy nồng ấm. Cái nắm tay đó trao truyền sức mạnh, niềm tin và ý chí phấn đấu cho họ. Như vậy, khắc họa chân thực hiện thực cuộc sống của người lính, Chính Hữu không phải để nói lên gian nan, cực khổ mà người lính phải đương đầu mà trên hết là làm sáng lên vẻ đẹp của tình đồng chí, lòng yêu nước.

    Đằng sau chất hiện thực sống sít, là hình ảnh vô cùng lãng mạn về người lình:

    Đêm nay rừng hoang sương muối

    Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

    Đầu súng trăng treo.

    Câu thơ vừa mang nghĩa thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng, đầy lãng mạn. Trong đêm phục kích chờ giặc, ông chỉ có những người bạn chiến đấu, khẩu súng và vầng trăng, Trời về khuya, có lúc nhìn lên, trăng như treo đầu ngọn súng. Từ thực tế đó, ông đã viết nên hình ảnh “đầu súng mảnh trăng treo”, sau này cắt bớt chữ “mảnh” thành “đầu súng trăng treo”. Nhưng đồng thời khổ thơ cũng đầy chất lãng mạn. Súng là hình ảnh của chiến tranh khói lửa, trăng là hình ảnh của thiên nhiên trong mát, cuộc sống thanh bình. Sự hòa hợp của trăng và súng toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính và tình đồng chí của họ, vừa nói lên ý nghĩa cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước: Người lính cầm súng là để bảo vệ cho độc lập, tự do của đất nước. Trăng và súng là gần và xa, là chiến sĩ và thi sĩ, là hiện thực và lãng mạn. Tất cả hòa quyện tạo nên vẻ đẹp của người lính, đời lính.

    Bằng những vần thơ vừa giàu chất hiện thực, vừa thấm đẫm chất lãng mạn, Chính Hữu đã khắc họa thành công hình ảnh người lính vừa giản dị, mộc mạc vừa anh hùng, dũng cảm. Họ là những người chiến sĩ quả cảm, đem hết tuổi trẻ và sức lực để cống hiến cho tổ quốc, cho sự bình yên của quê hương, đất nước.



Bài làm thứ 3


Hướng dẫn giải

Chính Hữu là một trong những nhà thơ xuất sắc trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Trong số những tác phẩm của ông, có một bài thơ đã gây nên tiếng vang lớn trong lòng độc giả, bởi những xúc cảm dạt dào, chân thực giữa những người lính, những người đồng đội. Đó là bài thơ đồng chí. Qua vần thơ, lời thơ bình dị, bài thơ đã thể hiện tình cảm gắn bó, tình đồng đội giữa những người chiến sĩ, qua đó ngợi ca tình cảm cao đẹp ấy.

Những người lính vốn là những chàng trai khoẻ mạnh vốn chỉ quen với việc đồng áng, cấy cày. Họ đến từ những vùng quê khác nhau, những vùng miền xa xôi, hẻo lánh. Vì chung nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, quê hương, chung tình yêu đất nước, họ không hẹn mà gặp nhau, quen nhau và gắn bó với nhau. Chính Hữu đã kể lại cuộc gặp gỡ ấy như một lời kỉ niệm, hồi tưởng đẹp, giản dị và xúc động:

        Quê hương anh nước mặn đồng chua

     Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.

Anh với tôi đôi người xa lạ

         Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,

Thật lạ kì! Tình cảm của những con người ấy được tạo nên từ sự tình cờ, chẳng hẹn quen nhau. Họ đều chiến đấu vì muốn thoát khỏi cái đói, cái khổ của những người dân bị áp bức, bóc lột. Mảnh đất đã nuôi dưỡng họ lớn lên đều bị bủa vây bởi khốn khó; những nương rẫy nước mặn đồng chua, vùng làng quê đất cày lên sỏi đá. Từ sự xa lạ ban đầu giữa đôi người ấy, họ đã quen nhau, gắn bó với nhau, gọi nhau là đồng chí. Đôi người - hai con người - cách dùng từ của tác giả đã làm nổi bật lên cả đoạn thơ - tưởng chừng như số phận định mệnh, ngay từ đầu đã báo trước một tình cảm nảy nở khăng khít trong chiến đấu:

Súng bên súng, đầu sát bên đầu,

   Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.

Đồng chí!

Hình ảnh súng bên súng, đầu sát bên đầu vừa tả thực, vừa mang tính tượng trưng. Nó không chỉ vẽ lên hình ảnh hai con người cùng kề vai sát cánh mà còn gợi ra trong lòng người đọc lí tưởng cao đẹp: mục đích chung không của riêng ai mà là khát vọng tự do của cả một dân tộc. Từ việc cùng chung lí tưởng, qua gian khổ, thiếu thốn, tình cảm đã nảy sinh giữa đôi người xa lạ ấy. Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ là một hình ảnh chân thực mà cảm động lạ kì... Đâu cần phô trương, đâu cần sự gắn kết gì cao xa, chỉ cần qua gian khổ, giữa con người cũng có thể thành tri kỉ. Giọng thơ đột ngột bị ngắt nhịp bởi hai tiếng gọi thân thương: Đồng chí! Dường như đó là tiếng gọi thốt ra từ trái tim, từ xúc cảm tha thiết, thân thương giữa những người đồng đội. Câu thơ đã làm nên một nút thắt đặc biệt, một điểm nhấn, một nét chấm phá riêng biệt cho bài thơ. Âm hưởng da diết của tiếng gọi đã làm rung động lòng người:  Đồng chí. Từ việc cùng chung chí hướng - trong gian nan đã tạo nên niềm cảm kích, xúc động chân thành, trong giây lát, tiếng gọi Đồng chí vang lên - phải chăng đó là cung bậc tình cảm cao quí nhất, thiêng liêng nhất sưởi ấm cho trái tim những con người thổn thức nhớ về quê hương?

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà tranh mặc kệ gió lung lay

  Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Họ tâm tình, kể chuyện cho nhau nghe, về ruộng nương anh, về gian nhà không, giếng nước, gốc đa. Hoài niệm, hồi ức của quê hương ùa về trong tâm trí họ. Để cho ta hiểu rằng, họ bỏ quê hương cũng vì muốn tốt đẹp cho quê hương. Họ đành dứt áo ra đi, mặc kệ tất cả, bỏ lại người thân, gia đình để dấn thân vào cuộc kháng chiến trường kì gian khổ. Lạ lùng thay, cũng chính nơi đây, họ tìm được niềm đồng cảm, sẻ chia và nó cũng chính là động lực giúp họ vượt qua biết bao khó khăn.

                                     Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.

Những trận sốt rét rừng thâm độc không thể quật ngã ý chí một con người. Bởi bên họ, luôn có sự tương trợ, giúp đỡ, luôn có tình đồng chí thân thương. Và tất cả thiếu thốn trở thành vô nghĩa:

Áo anh rách vai

        Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Bằng những chi tiết rất thực, tác giả đã tạo nên hình ảnh hai người lính, tuy vất vả, thiếu thốn về vật chất áo rách vai, quần có vài mảnh vá, chân, không giày, nhưng vẫn cười trong cái giá lạnh của nơi rừng thiêng nước độc. Và họ đã sưởi ấm cho nhau, bộc lộ tình cảm với nhau bằng cử chỉ giản dị mà đầy xúc động:

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Chao ôi! Đâu cần vật chất của cải, đâu cần lời hay ý đẹp, những người đồng chí bộc lộ tình cảm với nhau thật chân thành lặng lẽ nắm lấy bàn tay nhau. Chính hơi ấm của đôi bàn tay ấy đã làm nên sức mạnh chiến thắng tất cả.

Kết thúc bài thơ, Chính Hữu thể hiện tình đồng chí qua những câu thơ đầy thi vị.

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau, chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Cảnh rừng âm u buổi đêm như trở nên lãng mạn, đầy chất thơ, khi mà ở đó có hơi ấm tình người. Đầu súng trăng treo - hình ảnh độc đáo và sáng tạo tuyệt vời. Hình ảnh trăng tròn vành vạnh lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Rất chân thực nhưng cũng rất lãng mạn, hư hư thực thực, một không gian đầy mộng tưởng mà vẫn mang vẻ đẹp tinh thần chiến đấu... Tình đồng chí, đồng đội đang dần toả sáng, rực rỡ trong gian lao chiến đấu.

Toàn bộ bài thơ hàm súc, cô đọng với hình ảnh chân thực, giản dị mà sâu sắc thấm thía. Chính Hữu đã thể hiện thành công tình đồng chí cao đẹp giữa những người lính.


Đọc xong bài thơ, trong lòng độc giả không khỏi xúc động bởi những tình cảm chân thành, sâu lắng. Có thể chính vì lẽ đó, mà bài thơ luôn còn sống mãi với thời gian.







Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top

Tags: #vanhoc