Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

MỘT SỐ CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN VỀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

MỘT SỐ CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN VỀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

 

Câu 1: Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày, tháng năm nào, quê quán? Lúc nhỏ người có tên là gì và ở đâu?

Trả lời:

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Hoàng Trù, (còn có tên là làng Chùa) quê mẹ, quê cha là làng Kim Liên (Làng sen) hai làng trên đều là thuộc xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh nay là xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thời thơ ấu chủ tịch Hồ Chí Minh có tên gọi là Nguyễn Sinh Cung (tên của Hồ Chí Minh từ năm 1890 đến khoảng 1901. Nguyễn Sinh Cung đã sống thời thơ ấu trong một căn nhà lá nhỏ ba gian với cây mít đầu hồi, hàng cau toả mát và chiếc bể trước sân. Lên năm tuổi, Nguyễn Sinh Cung rời xa quê nhà theo cha vào Huế. Năm 1989, Nguyễn Sinh Cung và gia đình sống trong một căn nhà lá nhỏ, ở làng Dương Nỗ cách thành phố Huế 6km về phía Đông (nay thuộc xã Phú Dương, huyện Hương Phú, tỉnh Thừa Thiên Huế). Chính tại nơi đây, Nguyễn Sinh Cung bắt đầu học chữ Hán. Năm 1901, thân mẫu của Nguyễn Sinh Cung là bà Hoàng Thị Loan lâm bệnh qua đời. Nguyễn Sinh Cung mới lên 10 tuổi đã phải chịu nỗi đau quá lớn, 5năm sống ở chốn kinh thành, Nguyễn Sinh Cung thấy được nhiều điều mới lạ so với quê hương mình. Truyền thống văn hoá dân tộc kết tinh ở kinh đô đã góp phần nâng cao trí tuệ và tình cảm của cậu Cung, đặc biệt Nguyễn Sinh Cung đã nhận thấy rõ bộ mặt độc ác của những ông tây da trắng và vẻ khúm núm, nhút nhát của ông tây nam triều. Cậu Cung sớm hiểu nỗi đau khổ và tủi nhục của người dân lao động. Những hình ảnh đó đã in sâu vào ký ức tuổi thơ Nguyễn Sinh Cung.

Những năm 1901, ông Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của cậu Cung đỗ  phó bẳng đã đem lại niềm vui lớn, niềm tự hào cho gia đình và dòng họ Nguyễn Sinh ở làng Kim Liên. Dân làng Kim Liên đón ông về cắt đất công trích quỹ làng làm một ngôi nhà năm gian tặng ông. Theo tục lệ hồi ấy, ông Nguyễn Sinh Sắc có 3 người con về sống ở Kim Liên, quê  nội và làm lễ vào làng cho 2 con trai: Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung với tên gọi mới là: Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành.

Câu 2: Truyền thống lịch sử văn hoá của quê hương Nghệ Tĩnh đã tác động đến việc hình thành nhân cách và tâm hồn Hồ Chí Minh?

Trả lời:

Kim Liên, huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An là một vùng đất có truyền thống yêu nước kiên cường, truyền thống văn hoá đặc sắc. Tuổi thơ Hồ Chí Minh gắn bó thiết tha với quê hương, với sông Lam con sông lớn nhất của Nghệ Tĩnh, dải đất xứ sở là nơi hội tụ trung tâm văn hoá miền Bắc Trung Bộ nơi có truyền thống đấu tranh anh hùng của dân tộc. Đây là nơi tập trung nhiều di tích lịch sử quan trọng, núi Chung, giếng Cốc ao làng sen đã ghi nhận, khắc sâu biết bao chiến công lẫy lừng của những người dân yêu nước, nêu gương khí tiết, đoàn kết cắt máu ăn thề thà chết không chịu đầu hàng dân cướp nước (như Vương Thúc Mậu tử tiết khi bị quân Pháp bao vây). Những truyền thống yêu nước thương dân cùng với những tháng trầm của cao trào yêu nước trong vùng đã làm cho Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh day dứt trăn trở, sớm suy nghĩ con đường cứu nước, cứu dân. Truyền thống lịch sử xứ nghệ là điều kiện để hun đúc lòng yêu nước  chống ngoại xâm của Hồ Chí Minh.

Bên cạnh ảnh hưởng của truyền thống yêu nước, thương dân Hồ Chí Minh còn ảnh hưởng của dòng văn hoá quê hương. Dòng sông Lam - một biểu tượng một dòng sữa mẹ đã nuôi dưỡng tạo dựng những đỉnh cao của nền văn hóa đồ đá, đồ đồng. Truyền thống cần cù, hiếu học là đặc trưng tiêu biểu của người dân xứ Nghệ. Sách Đại Nam nhất thống chí ghi rõ: "Nghệ An đất xấu dân nghèo, tập tục cần kiệm, nhà nông chăm chỉ làm ruộng, học trò ưa chuộng học hành, không mê đạo phật, chỉ thờ thánh khổng, rất kính cẩn việc thờ thần". Nghệ Tĩnh là một vùng giáp lưu văn hóa ấn độ và văn hoá Trung Quốc để tự mình trở thành "Văn vật" Việt Nam. Dòng văn hóa trải qua các thời đại đều gắn với tên tuổi của các vị anh  hùng hào kiệt, các nhà thơ danh bất hư truyền và được nhắc đến nhiều lần qua những trang sử: Vùng Nghi Xuân có Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, vùng Quỳnh Lu có nữ si Hồ Xuân Hương, vùng Đức Thọ có Phan Đình Phùng, vùng Căn Lộc có Nguyễn Huy Tự.

Truyền thống anh dũng của quê hương và tinh hoa văn hoá xứ sở đã có ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách, tâm hồn Hồ Chí Minh những ảnh hưởng theo suốt cuộc đời người, trở thành nguồn lực nuôi dưỡng trí tuệ, tâm hồn và bản lĩnh phi thường của vị lãnh tụ cách mạng của dân  tộc.

Câu hỏi 3: Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ tháng 6 - 1927 đến ngày hợp nhất các tổ chức Cộng sản (3 - 2 - 1930)?

Trả lời:

Những phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX đã có tác động như thế nào đến nhận thức của Hồ Chí Minh.

Từ đầu thế kỷ XX, giai cấp Việt Nam đã xuất hiện nhưng chưa trở thành lực lượng chính trị độc lập.

Phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX đã có sự tiếp thu những luồng tư tưởng mới của phong trào cách mạng Châu á và cách mạng thế giới dội đến như  Nhật Bản, Trung Quốc, Nga...

Những điều kiện bên trong và bên ngoài đó đã kết hợp với nhau tạo nên một hướng mới trong phong trào yêu nước. Khẩu hiệu "Trung quân, ái quốc" không còn tác dụng động viên tập hợp nhân dân ta chiến đấu nữa, mà phải tìm một con đường cứu nước mới.

Phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX không chỉ có nông dân như trước mà còn có tư sản, tiểu tư sản thành thị và công nhân. Vai trò lãnh đạo thuộc về một sĩ phu yêu nước chịu ảnh hưởng của tư tưởng mới và xuất hiện những hình thức đấu tranh mới như: lập hội biểu tình, tập hợp quần chúng để diễn thuyết, tuyên truyền...

Điển hình trên vũ đài chính trị Việt Nam thời kỳ này là sự tồn tại và phát triển của hai xu hướng: bạo động của Phan Bội Châu và cải cách của Phan Chu Trinh. Xu hướng bạo lực có những hoạt động tiêu biểu như đa thanh niên sang Nhật để du học, đào tạo cán bộ (phong trào "đông du "từ 1905 - 1908): thành lập Duy Tân Hội (1904) với chủ trương quân chủ lập hiến: thành lập Việt Nam quang phục với chủ trương cộng hoà dân quốc.

Hai xu hướng bạo động cải cách đều bắt nguồn từ tinh thần yêu nước, nên không đối lập mà hỗ trợ nhau, phối hợp với nhau để dấy lên cao trào cách mạng trong những năm đầu thế kỷ mang tính chất tư sản. Cuối cùng đều thất bại trước sự đàn áp của đế quốc Pháp, chấm dứt hai kỳ vọng: kỳ vọng thứ nhất là dựa vào Nhật Bản để giành độc lập, kỳ vọng thứ hai là mở cuộc vận động văn hóa công khai hợp pháp mở mang dân trí, chẩn dân khí nhằm nâng cao trình độ tư tưởng của đồng bào, giành thêm nhiều quyền lợi cho nhân dân Việt Nam đối với nhà nước bảo hộ". Đến đây, phong trào cách mạng Việt Nam vẫn trong tình trạng khủng hoảng đường lối, cha có một đường lối cách mạng đúng đắn. Lúc này, Nguyễn Tất Thành là một thanh niên mới lớn nhưng đã có nhận thức xã hội sâu sắc và rất đau đớn trước những nỗi khổ của đồng bào. Nguyễn Tất Thành đã có ý chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Người khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám... nhưng không tán thành cách làm của người nào. Năm 1911, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn, rồi sang Pháp, sau đó bôn ba ở nhiều nước khác nhau trên thế giới để tìm con đường cứu nước, cứu dân.

Câu hỏi 4. Tại sao Nguyễn Tất Thành quyết định sang Pháp? Người đã chuẩn bị chuẩn bị cho chuyến đi sang Pháp như thế nào?

Sau khi rời trường Quốc học Huế, Nguyễn Tất Thành đã nung nấu một hoài bão tìm con đường giải phóng cho dân tộc. Chính hoài bão này đã hình thành và nuôi dưỡng ý tưởng hướng về nước Pháp và các nước Tây Âu. Theo giáo sư Trần Văn Giàu, ý muốn đánh đuổi thực dân Pháp không phải chỉ là ý muốn của Nguyễn Tất Thành hồi trẻ, mà còn là ý muốn của phần đông tuổi trẻ thanh niên hoặc nô nức đi Đông Du, sang Nhật hoặc tham gia Đông kinh nghĩa thục và Duy tân hội chỉ có một số ít hướng về Yên Thế. Cái đặc biệt của chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành là có sự so sánh giữa ba con đường cứu nước được tiêu biểu cho ba nhân vật lớn: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám. Hoàng Hoa Thám chủ trương "thủ hiểm lấy Yên Thế làm căn cứ địa, chờ thời cuộc thuận lợi hơn mà đánh Pháp bằng quân sự. Phan Bội Châu chủ trương dựa vào Nhật học tập nhật có thể nổi dậy đuổi Pháp bằng bạo lực. Phan Chu Trinh không tin vào con đường cách mạng bạo lực mà chủ trương "ỷ Pháp cầu tiến" chống triều đình lạc hậu, yêu cầu cải cách chính trị phát triển văn hoá kinh tế dần dần đến mức ngang với Pháp thì Pháp sẽ công nhận tự chủ của Việt Nam, công nhận bình đẳng với Việt Nam, cả ba đường lối cứu nước đó đều đi đến bế tắc, đất nước vẫn đang trong tình trạng khủng hoảng đường lối chính trị. Trong tình hình đó Nguyễn Tất Thành muốn tự mình tìm một con đường cứu nước mới, hướng về Pháp và các nước Tây Âu. Đó là suy nghĩ độc lập bởi lẽ cũng như một số trí thức hồi đó, Nguyễn Tất Thành đã nhận thức được rằng các nước Tây Âu không phải là kẻ thù, có thể học tập ở họ được nhiều điều. Tháng 6 - 1911 Nguyễn Tất Thành đã tâm sự: "Tôi muốn đi ra ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta". Và những hiểu biết không nhiều thu được ở trường Pháp - Việt về văn hóa lịch sử cận đại  Pháp càng có tác dụng thúc đẩy Nguyễn Tất Thành đi Pháp đi Tây Âu. Cuối năm 1923 Nguyễn Tất Thành - Nguyễn ái Quốc còn nhắc lại "khi tôi 13 tuổi lần đầu tiên tôi đã nghe được ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bắc ái... và từ thuở ấy tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau tự do bình đẳng bắc ái ẩn giấy những gì" có nghĩa là tìm hiểu cuộc cách mạng cận đại của Phương Tây, tìm hiểu lý do vì sao các nước phương tây trở nên phú cường". Trở về nước giúp đồng bào mình có nghĩa là khi học được kinh nghiệm nước ngoài thì trở về góp phần sức cùng đồng bào trong nước làm cho dân tộc mình cũng tự do, bình đẳng, bắc ái như các nước Châu âu đã làm cách mạng. Tức là đi tìm đường cứu nước, là tìm một giải pháp cho quê hương để giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ. Chỉ xét riêng trên bình diện vừa nêu ý tưởng không đi sang Nhật mà sang các nước Tây âu lúc đó của Nguyễn Tất Thành quả là một chuyển biến hợp thời đại. Lịch sử đặt ra yêu cầu mới và Nguyễn Tất Thành người thực hoá nó, bằng tư chất trí tuệ và mẫn cảm chính trị đặc biệt của mình.

Câu hỏi 5: Những hoạt động chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc từ tháng 6 - 1927 đến ngày hợp nhất các tổ chức cộng sản (3 - 2 - 1930)?

Tưởng Giới Thạch tiến hành đảo chính và đàn áp, khủng bố các lực lượng cách mạng (4 - 1927), nên Nguyễn Ái Quốc rởi khỏi Quảng Châu đi Hồng Kông, Thượng Hải, rồi đi Vladivotoc. Người có mặt và hoạt động ở nhiều nước: Pháp, Bỉ (tại Bỉ người dự cuộc họp của đại hội đồng liên đoàn chống đế quốc từ ngày 9 đến 12/12/1927 tại thủ đô Bruxcen). Những ngày ở Beclin theo Nguyễn ái Quốc là vô ích và "ở trong hoàn cảnh khó khăn không chịu nổi". Trong một bức thư ngày 12/4/1928 gửi cho cán bộ của quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc viết "đồng chí có thể hình dung nổi tôi đang sống trong một tình trạng tinh thần và vật chất như thế nào không, biết là có nhiều công việc mà không thể làm gì được ăn không ngồi dồi".

Ngày 25/4/1928 Nguyễn Ái Quốc được ban chấp hành quốc tế cộng sản ra quyết định đồng ý để người trở về Đông Dương theo yêu cầu.

Đầu tháng 6/1928, Nguyễn Ái Quốc rời nước Đức bắt đầu cuộc hành trình để về gần đất nước. Từ đức, người qua Thụy sĩ rồi sang Italia. Cuối tháng 6 năm đó người đáp tàu Nhật Bản rồi sang Xiêm.

Tháng 7/1928, Nguyễn Ái Quốc xuất hiện ở bản Đông, thuộc Phichit, tỉnh Phitanuloc miền Trung nước Xiêm. Người tự giới thiệu là Thọ, biệt hiệu Nam Sơn và nhanh chóng sống hoà mình vào kiểu bào, đi chân đất, mặc áo nâu sòng làm đủ thứ việc như mọi người... Sau 2 tuần ở Bản đông, người đi Udon, thuộc Đông Bắc nước Xiêm.

Đầu tháng 8/1928, người Udon, với tên là Chí, mọi người quen gọi là Hồ Chí, Tại đây người yêu cầu đổi tên báo đồng thanh - tờ báo của hội thân ái xuất bản từ năm 1927 thành báo Thân ái. Thời gian này, Người vừa chấn chỉnh xây dựng tổ chức, vừa dịch sách lý luận làm tài liệu tuyên truyền và huấn luyện cho cán bộ Việt Nam hoạt động ở Xiêm. Người đã dịch hai cuốn Nhân loại tiến hoá sử, và cộng sản A.B.C.

Đầu năm 1929 Người đến Sacon, nơi có đông việt kiều và tổ chức cách mạng đợi từ lâu. Cũng như ở udon, tại đây Người tiếp tục củng cố và xây dựng cơ sở cách mạng giáo dục lòng yêu nứoc cho kiều bào. Người viết bài ca Trần Hưng Đạo, viết kịch bản, bày cho bà con diễn kịch và có lúc: khăn gói đi buôn để gây quỹ cho tổ chức"

Để tránh mật thám của thực dân pháp bởi vậy, có lúc Nguyễn Ái Quốc  đã phải tạm cắt tóc đi tu ở chùa để họat động.

Ngày 10/10/1929, Nguyễn ái Quốc quyết định rời Xiêm đi Trung Quốc. Ngày 23/12/1929, Người đến Trung Quốc, chuẩn bị cho việc hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam.

Đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc gặp Nguyễn Lương Bằng tại Thượng Hải. Người liên lạc được với cơ quan của Đảng cộng sản Trung Quốc ở Hồng Kông.

Từ 3 đến 7/3/1930, chấp hành chỉ thị của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc với tư cách là đại diện của Quốc tế cộng sản đã triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Buổi họp đầu tổ chức tại một căn phòng của một công nhân nghèo, sau đó được chuyển qua một số địa điểm khác ở Cửu Long.

Đại biểu của Đông Dương cộng sản Đảng. An nam cộng sản Đảng, chi bộ của những người cộng sản ở nước ngoài đã tham dự hội nghị. Hội nghị tán thành lấy tên Đảng là Đảng cộng sản Việt Nam thông qua những văn kiện chính thức của Đảng: Chính cương viết tắt, sách lước viết tắt, điều lệ viết tắt… do  Người khởi thảo.

Câu hỏi 6: Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam khi nào? những công việc đầu tiên của người khi về tổ quốc?

Năm 1911 từ bến cảng nhà Rồng của thành phố Sài Gòn, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Ngày 28/1/1941, sau 30 năm bôn ba nước ngoài người trở về tại mảnh đất cực bắc Tổ quốc. Khi bước chân đến cột mốc 108 ở biên giới Việt - Trung thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, Tỉnh Cao Bằng, người đứng lặng hồi lâu xúc động.

Về đến Cao Bằng với bí danh là Già Thu, người đến ở Hang Cốc Bó thuộc xã Pắc bó xã Trường Hà, nơi đây địa hiểm trở. thu xếp xong chỗ ở, Người phái cán bộ đi Tĩnh Tây (Trung Quốc) liên lạc với các lực lượng bên đó. Sau đó bản thân Nguyễn Ái Quốc cũng nhiều lần vượt biên trở lại Tĩnh Tây. Người thường cải trang thành một thầy địa lý để che mắt giặc.

Nguyễn Ái Quốc đặt tên dòng suối, ngọc núi nơi người ở là suối Lênin, quý Cácmác. Dùng tảng đa bên bờ sông Lênin làm bài viết, người tiếp tục công việc dang dở từ Trung Quốc là dịch tiếp cuốn lịch sử Đảng cộng sản của Nga ra tiếng việt để làm tài liệu huyến luyện cho đảng viên.

Sống ở Pắc bó xúc cảm trước thiên nhiên hùng vĩ của đất nước với tinh thần lạc quan cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã sáng tác bài thơ tức cảnh Pắc bó:

"Sáng ra bờ suối tối vào hàng

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đá chông chênh lịch sử đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang"

Công việc tập trung nhất lúc này là xây dựng thí điểm các đoàn thể cứư quốc, để tích cực thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh và mở hội nghị lần thứ 8 của trung ương đảng.

Dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, những cán bộ của tỉnh Cao Bằng đã nhanh chóng xây dựng được nhiều tổ chức cưu quốc, ở huyện Hoà An đã có 6/7 tổng huyện Hà Quảng có 10/27 xây dựng được các tổ chức cứu quốc. Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ cho đồng chí Vũ Anh triệu tập hội nghị cán bộ tỉnh Cao Bằng để rút kinh nghiệm tổ chức thí điểm. Mặt trận dân tộc thống nhất măng tên Việt Nam độc lập đồng minh tại Cao Bằng. Cuối tháng 4/1941 hội nghị cán bộ tỉnh Cao Bằng họp tại côcmu có cán bộ của 3 huyện Hoà An Hà Quảng Nguyễn Bình là nơi đã xây dựng được phong trào quần chúng khá mạnh. Hội nghị khẳng định xây dựng thí điểm các đoàn thể cứu quốc, mở đầu lớp huấn luyện cán bộ Việt minh do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách đã được kết quả tốt. Nó chứng tỏ chủ trương lập mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh của Nguyễn Ái Quốc là hoàn toàn đúng đắn.

Câu hỏi 7: Hồ Chí Minh về thăm quê hương lần thứ nhất và lần thứ hai vào thời gian nào? Những hoạt động chủ yếu của người trong 2 lần về thăm quê?

Hồ Chí Minh về thăm quê lần thứ nhất:

Nói chuyện với cán bộ đồng bào trong tỉnh Hồ Chí Minh mong cán bộ và đồng bào có quyết tâm xây dựng Nghệ An thành 1 trong các tỉnh khá nhất miền bắc. Về tham xã nhà, người vui mừng trước sự tiến bộ của xã và nêu lên những việc cần làm để trở thành xã gương mẫu. Đối với cán bộ và công nhân nhà máy cơ khí Vinh người nhắc nhở phải nêu cao tinh thần làm chủ xí nghiệp, làm chủ nước nhà phải sản xuất "nhiều, nhanh, rẻ, tốt "Đối với học sinh củ trường sư phạm miền núi tỉnh người dặn dò các em phải cố gắng học tập tốt và chỉ rõ:" học tập tốt là chính trị và văn hoá đều phải gắn liền với lao động sản xuất, khong học dông dài. Mục đich học là để làm kinh tế chính trị, văn hoá đều tiến bộ, các dân tộc đều đoàn kết với nhau"

Câu hỏi 8: Từ năm 1954 đến năm 1969 Hồ Chí Minh có những bài viết tác phẩm nào về đạo đức cách mạng? nội dung ấn phẩm đó?

Từ năm 1954 đến năm 1969 Hồ Chí Minh có những đề cập đến đạo đức cách mạng củ cán bộ đảng viên.

Tác phẩm 1:

Đạo đức cách mạng là 1 văn kiện dài 5760 từ được in trên tạp chó học tập số ra tháng 12/1958 ký bút danh Trần lực đề cập đến tư cách của 1 người cách mạng.

Hồ Chí Minh xây dựng CNXH "để xây dựng cải tạo xã thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề một cuộc đấu tranh rất phức tạp và gian khổ"

Hơn nữa trong giai đoạn xây dựng CNXH ở nước ta còn có 3 kẻ thù chống lại cách mạng là CNTB và bọn đế quốc là kẻ địch nguy hiểm nhất" "thói quen và truyền thống cũng là kẻ địch to. "Loại thứ ba là CN cá nhân tư tưởng tư sản còn ẩn nấp trong mỗi con người chúng ta" "nó là bạn đồng minh của 3 kẻ địch kia"

Để chiến thắng 3 kẻ địch đảng viên cán bộ phải có đạo đức cách mạng làn nền tảng. Nói tóm lại đạo đức còn là:

Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho đảng cho CM. Đó là điều chủ chốt thứ nhất ra sức làm việc cho Đảng giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng.

Đặt lợi ích của Đảng lên trên lợi ích riêng của cá nhân.

Ra sức học tập CN mác-lê nin luôn tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng CM.

Tác phẩm thứ 2;

Nâng cao đạo đức CM quét sạch CN cá nhân, bút danh T. 1, nhân kỷ niệm lần thứ ba chính ngày thành lập Đảng 3/2/21969.

Mở đầu tức phẩm này, Hồ Chí Min viết," nhân dân ta thường nói: Đảng viên đi trước, làng nowcs theo sau". "Do đó, trải qua 39 năm lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh oanh liệt và giành thắng lợi vẻ vang," Đảng ta đã đào tạo một thế hệ thanh niên cách mạng, gái cũng như trai, rất hăng hái, dũng cảm trong mọi công tác. đó là những bông hoa tưới thắm của chủ nghĩa anh hùng cách mạng".

Song bên cạnh những đồng chí tốt ấy, còn một số ít cán bộ, Đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém. Họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo, mình vì mọi người, mà chỉ muốn mọi người vì mình, người chỉ rõ; do chủ nghĩa cá nhân mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hoá, lãng phí xa hoa"

MỤC LỤC

Câu 1: Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày, tháng năm nào, quê quán? Lúc nhỏ người có tên là gì và ở đâu?. 1

Câu 2: Truyền thống lịch sử văn hoá của quê hương Nghệ Tĩnh đã tác động đến việc hình thành nhân cách và tâm hồn Hồ Chí Minh?. 2

Câu hỏi 3: Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ tháng 6 - 1927 đến ngày hợp nhất các tổ chức Cộng sản (3 - 2 - 1930)?. 3

Câu hỏi 4. Tại sao Nguyễn Tất Thành quyết định sang Pháp? Người đã chuẩn bị chuẩn bị cho chuyến đi sang Pháp như thế nào?. 4

Câu hỏi 5: Những hoạt động chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc từ tháng 6 - 1927 đến ngày hợp nhất các tổ chức cộng sản (3 - 2 - 1930)?. 5

Câu hỏi 6: Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam khi nào? những công việc đầu tiên của người khi về tổ quốc?. 7

Câu hỏi 7: Hồ Chí Minh về thăm quê hương lần thứ nhất và lần thứ hai vào thời gian nào? Những hoạt động chủ yếu của người trong 2 lần về thăm quê?. 8

Câu hỏi 8: Từ năm 1954 đến năm 1969 Hồ Chí Minh có những bài viết tác phẩm nào về đạo đức cách mạng? nội dung ấn phẩm đó?. 9

ó, Kt'nếu học thuyết Mác và chủ nghĩa Lê-nin mang tính thời đại bao nhiêu thì tư tưởng Hồ Chí Minh cũng mang giá trị thời đại bấy nhiêu. Với Mác, ý nghĩa thời đại của học thuyết cách mạng và khoa học diễn ra trực diện và phù hợp với những nước phát triển chủ nghĩa tư bản. Với Lê-nin, thời đại đã được xác định với tên gọi cụ thể nhưng vẫn tập trung ở ý nghĩa đấu tranh giai cấp giữa giai cấp công nhân và chủ nghĩa tư bản. Với Hồ Chí Minh, ý nghĩa và giá trị thời đại không chỉ diễn ra ở các nước tư bản phát triển mà còn bao quát hơn ở tất cả các nước chưa phát triển; không chỉ bao gồm cuộc đấu tranh sống còn giữa giai cấp công nhân với chủ nghĩa tư bản mà cuộc đấu tranh đã được mở rộng trên tất cả các phạm vi và lĩnh vực đời sống xã hội; không chỉ là đấu tranh giai cấp với ách áp bức, bóc lột mà cả đấu tranh xóa bỏ đói nghèo và lạc hậu, nhằm xây dựng một thế giới mới theo mục tiêu lý tưởng của Mác: "Tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người".

Hồ Chí Minh tiếp thu Mác ở hai khía cạnh lớn: Đó là phương pháp luận biện chứng và nhân sinh quan tất cả vì con người, cho con người và do con người. Nhưng, Người tập trung hơn vào phát hiện thứ ba của Mác được Ăng-ghen nhắc đến sau khi Mác qua đời, đó là lịch sử phát triển các nền văn minh, tập trung vào lý tưởng giải phóng con người không chỉ khỏi áp bức, bóc lột mà còn phải giải phóng con người khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Đây là vấn đề có ý nghĩa thời đại cấp bách hiện nay.

2. Từ những phát hiện mới, Hồ Chí Minh phát huy chủ nghĩa dân tộc chân chính gắn với chủ nghĩa quốc tế chân chính nhằm tổ chức cuộc đấu tranh trường kỳ, anh dũng để giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước ta phát triển theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Đó là sự khởi đầu mang tính thời đại một cách sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay chủ nghĩa tư bản không còn phát triển bình thường nữa, chính nó đã tạo ra sự vận động hình thành không ngừng những ý niệm, vì theo Mác, những quan hệ sản xuất trong đó giai cấp tư sản vận động, không có một tính chất nhất trí, một tính chất đơn mà là một tính chất kép; rằng trong cùng quan hệ ấy sự giàu có được sản sinh ra thì sự khốn cùng cũng được sản sinh ra; trong cùng những quan hệ ấy, có sự phát triển của lực lượng sản xuất thì cũng có một lực lượng sản sinh ra áp bức; rằng những quan hệ ấy chỉ sản sinh ra sự giàu có tư sản, nghĩa là sự giàu có của giai cấp tư sản, bằng cách không ngừng thủ tiêu sự giàu có của những thành viên cấu thành của giai cấp ấy và bằng cách sản sinh ra một giai cấp vô sản không ngừng tăng lên. Đó là biểu hiện của sự thoái trào của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến sự phá sản tất yếu của nó, là hậu quả tất yếu của phương thức sản xuất hiện đang tồn tại "những dấu hiệu chứng tỏ rằng phương thức sản xuất đó bắt đầu tan rã" như Ăng-ghen dự báo.

Trên cơ sở thực tiễn ấy, Hồ Chí Minh đã rút ra nhận định: "Thời đại chủ nghĩa tư bản lũng đoạn cũng là thời đại của một nhóm nước lớn do bọn tư bản tài chính cầm đầu thống trị các nước phụ thuộc". Chính nhóm nước lớn, do bọn tư bản tài chính cầm đầu được xem là "thầy phù thủy" không kiểm soát nổi của chủ nghĩa tư bản, đang tạo nên sự phá sản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đòi hỏi một phương thức sản xuất mới thay thế. Đó chỉ có thể là chủ nghĩa xã hội. Không phải là ngẫu nhiên, trong sự vận động hình thành những ý niệm trong lòng chủ nghĩa tư bản, cũng xuất hiện cả ý niệm về chủ nghĩa xã hội. Điều đó chứng minh rằng, chủ nghĩa xã hội và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thay thế chủ nghĩa tư bản. Hiện nay, sự phát triển của khoa học và công nghệ tạo ra sức sản xuất mới đáng lẽ phải có một chế độ xã hội mới cao hơn là chủ nghĩa xã hội tương ứng với nó, nhưng xã hội mới đó lại chưa đủ mạnh để thay thế chủ nghĩa tư bản đã không còn thích hợp nữa. Trong bối cảnh đó, nhân loại hướng về việc tìm kiếm một mô hình về chủ nghĩa xã hội, dường như là điều tất yếu. Và, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội không chỉ có ý nghĩa và giá trị đối với Việt Nam mà còn có ý nghĩa và giá trị thời đại ở ngay cả các nước tư bản phát triển, dù cho quan niệm về chủ nghĩa xã hội đang cũng có nhiều ý kiến khác nhau.

3. Phát hiện quan trọng nữa của Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở những nước chưa phát triển như Việt Nam, không chỉ là đấu tranh giai cấp mà trước hết và trên hết phải tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, làm sao cho dân giàu, nước mạnh, nhân dân được tự do, hạnh phúc. Đó là con đường phấn đấu lâu dài, gian khổ, liên tục trên mọi phương diện từ kinh tế, chính trị đến văn hóa và xã hội, y tế và giáo dục.

4. Ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ trên nhiều lĩnh vực khác về xây dựng con người và văn hóa... Trong bối cảnh mới, tư tưởng của Người mang ý nghĩa và giá trị mới.

Có thể nói, chưa bao giờ thế giới lại diễn ra nhiều nghịch lý như hiện nay. Thế giới càng giàu lên thì sự phân hóa giàu nghèo càng trở nên sâu sắc. Chính nghịch lý đó đang tạo ra những khủng hoảng về niềm tin, về tâm lý, dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội như một tất yếu ở các nước được xem là văn minh, vào chính con người ở ngay các nước giàu có nhất. Trớ trêu thay, cái thế giới văn minh như đã thấy khiến con người có đủ mọi thứ, thực hiện được mọi ước mơ mà trước kia chỉ là huyền thoại lại vẫn có vô số sự bất công, vô số người mất lòng tin đã tìm đến cái chết để trốn tránh cuộc đời. Trớ trêu thay, chính ở những nước có nền kinh tế phát triển, có nhiều người là tỷ phú đô-la, lại nảy sinh hiện tượng khủng hoảng về lẽ sống, phải tìm đến những cách sống xa lạ trái với tự nhiên. Phải chăng, đó cũng chính là biểu hiện của sự suy thoái đạo đức khi con người chỉ hướng vào "cái tôi" thuần túy, chạy theo chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Trong bối cảnh đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa nhân văn, về đạo đức mới đang có ý nghĩa định hướng cho con người hành động, cho con người thấy hướng đi đúng đắn.

Không phải ngày nay chúng ta mới thấy được ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ rất lâu, nhân loại tiến bộ trên thế giới, nhất là những trí thức lớn, những chính khách giàu lòng bác ái, đã từng ca ngợi và bày tỏ sự khâm phục tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nhưng, có thể nói, trong bối cảnh thế giới đang có những diễn biến phức tạp, đan xen những thời cơ và thử thách, những tiêu cực và tích cực, những nghịch lý... thì ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh càng được tỏa sáng hơn bao giờ hết.

Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, “Là đạo đức, là văn minh” trong giai đoạn hiện nay

Đất nước ta đang đứng trước thời cơ lớn và thách thức lớn của sự phát triển. Để lãnh đạo đất nước trong điều kiện mới, Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao được năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, nắm bắt thời cơ, chấp nhận và vượt qua thách thức, nguy cơ, nâng cao tầm trí tuệ. Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng, cấp ủy đảng phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, chung tay xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”.

Với nhận thức chung đó, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng hiện nay cần tập trung vào những nội dung, công việc chính sau đây.

1. Nâng cao phẩm chất trí tuệ của Đảng, xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới, đề ra các chủ trương, giải pháp phù hợp cho giai đoạn phát triển mới

Đảng ta là Đảng cầm quyền. Năng lực cầm quyền của Đảng là sự tổng hoà trình độ, khả năng, bản lĩnh chính trị để giải quyết các yêu cầu, nhiệm vụ do tình hình đất nước và thế giới đặt ra, nhằm lãnh đạo toàn dân thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”.

Muốn đề ra đường lối, chủ trương, quyết sách phù hợp, Đảng phải nâng cao tầm trí tuệ, nắm chắc yêu cầu thực tiễn, tình hình trong nước và quốc tế để tiếp tục hoàn thiện đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Trong hoạch định đường lối phải tránh bảo thủ, trì trệ, đồng thời phải tránh hấp tấp, vội vàng, làm tốt công tác dự báo, chú ý đến những vấn đề mới nảy sinh để kịp thời nghiên cứu, tổng kết, bổ sung, phát triển cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng.

Việc xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh “Đảng… phải có chủ nghĩa làm cốt”. Đảng phải kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm kim chỉ nam cho hành động, cơ sở quy tụ, xây dựng và phát huy sức mạnh đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân tộc.

2. Quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, thực sự coi xây đựng Đảng lả nhiệm vụ then chốt ở tất cả các cấp, các ngành

– Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, sự suy yếu thoái hóa, biến chất của tổ chức Đảng, làm cho vai trò cầm quyền của Đảng bị suy giảm, dẫn đến mất ổn định chính trị – xã hội là một nguy cơ lớn. Chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là điều kiện tối cần thiết và là điều kiện tiên quyết để giữ vững ổn định chính trị – xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

– Toàn Đảng phải quán triệt đầy đủ quan điểm xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Tính chất then chốt của nhiệm vụ xây dựng Đảng thể hiện trong các điểm sau:

Một là, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, thu hút và phát huy tiềm năng trí tuệ của toàn dân tộc.

Trong thực hiện nhiệm vụ này, cần quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: Xây dựng xã hội mới là công việc “rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân” (12).

Hai là, cần đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ đức và tài, đầy tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước dân tộc, năng động, dám nghĩ dám làm,… không chỉ là sự quan tâm, phát huy nhân tố con người trong Đảng, mà còn để phát huy sức mạnh của toàn dán tộc, vấn đề có ý nghĩa quyết định đến thành bại của cả sự nghiệp cách mạng.

Ba là, kiên quyết đấu tranh, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tiêu cực khác ở trong Đảng và ngoài xã hội. Những tiêu cực trong xã hội đã xâm nhập vào cơ thể Đảng, vào bộ máy Nhà nước, thách thức nghiêm trọng uy tín của Đảng, Nhà nước trong nhân dân, ảnh hưởng đến việc cầm quyền của Đảng, sự tồn vong của chế độ và con đường phát triển của đất nước. Do vậy, toàn Đảng và mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần có nhận thức đúng đắn tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh về nhiệm vụ xây dựng Đảng, để tham gia đấu tranh khắc phục tình trạng trên, xây dựng Đảng ta thực sự “là đạo đức, là văn minh”.

3. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

– Phương thức lãnh đạo của Đảng có vai trò quan trọng để đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Đó cũng chính là yêu cầu mà Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã đề ra trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc.

– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết và đặt trọng tâm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam xác định Hiến pháp và pháp luật là quyền lực tối thượng, điều chỉnh mọi quan hệ xã hội. Trong điều kiện đó, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có vai trò rất quan trọng, thể hiện năng lực cầm quyền của Đảng.

– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng hiện nay phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội. Ngày nay, vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội ngày càng mở rộng. Đảng tiếp thu những ý kiến của các tổ chức đoàn thể để bổ sung, phát triển, điều chỉnh đường lối, chủ trương; để đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Cần quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và trung thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo” (13).

4. Giải quyết tốt mối quan hệ với dân

– Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ trương tập hợp tất thảy những người yêu nước vào sự nghiệp cách mạng, xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân có ý nghĩa lớn về lý luận và thực tiễn trong công tác xây dựng Đảng, cần được quán triệt và tổ chức thực hiện tốt ở tất cả các cấp, các ngành.

– Giải quyết mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân hiện nay đang trở thành vấn đề cấp thiết, là bài học lớn rút ra từ hơn 20 năm đổi mới. Sự phản ứng, đôi khi gay gắt của nhân dân ở một số nơi đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, chính quyền các cấp, rõ nhất là cấp cơ sở; các “điểm nóng” liên quan đến nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề nhà, đất, quyền dân chủ, dân sinh,… liên tiếp xuất hiện ở nhiều địa phương đã phản ánh sự không bình thường trong mối quan hệ máu thịt này.

– Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế,… để giải quyết mối quan hệ này, nhưng nói chung hiệu quả vẫn còn rất thấp. Điều đó phản ánh sự cố gắng, quyết tâm chính trị nhưng vấn đề cơ bản hiện nay là tổ chức thực hiện tích cực, kiên quyết, đồng bộ, có hiệu quả ở các cấp, các ngành. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, của mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên của. Đảng, trước hết là các cấp ủy đảng.

– Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với dân, ở tất cả các cấp, các ngành phải quán triệt các chỉ dẫn của Bác: Các quyết định, chủ trương được thông qua phải lấy lợi ích của đa số nhân dân làm mục đích; các chính sách được ban hành phải theo mục tiêu vì dân; cán bộ, đảng viên, công chức phải là công bộc của dân, “vì nhân dân phục vụ”; các biện pháp thực hiện phải dựa vào sức dân và mang lợi ích cho dân… Điều quan trọng là mọi hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể phải thực sự lấy dân làm gốc.

5. Tổ chức tốt đại hội đảng bộ các cấp theo quy định của Điều lệ Đảng

Ngày 4-8-2009, Bộ Chính trị khóa X đã ban hành Chỉ thị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (Chỉ thị số 37-CT/TW). Theo Chỉ thị, Trung ương Đảng đã quyết định tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI vào nửa đầu tháng 1-2011. Chỉ thị đã xác định các yêu cầu và nội dung tiến hành đại hội Đảng các cấp. Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh” phải trực tiếp phục vụ cho việc tổ chức tốt đại hội các cấp theo quy định của Điều lệ Đảng.

– Trong Báo cáo chính trị trình đại hội các cấp phải gắn kiểm điểm việc thực hiện nhiệm vụ chính trị với kiểm điểm việc thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, qua đó để phát huy vai trò và gắn trực tiếp Cuộc vận động với nội dung tiến hành Đại hội.

– Trong việc chuẩn bị và tiến hành Đại hội phải phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết, giữ vững kỷ cương, coi trọng chất lượng. Phát huy cao nhất trí tuệ, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên trong công tác xây dựng Đảng. Tổ chức thật tốt việc thảo luận những quan điểm, chủ trương, định hướng lớn nêu trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI và các văn kiện đại hội đảng bộ. Báo cáo của mỗi cấp bộ đảng trước đại hội cần tập trung vào những vấn đề quan trọng, cấp bách trước mắt và có ý nghĩa lâu dài của địa phương, đơn vị. Tổ chức lấy ý kiến góp ý của các tầng lớp nhân dân về các văn kiện dự thảo.

– Nâng cao tinh thần phê bình và tự phê bình, đánh giá đúng mức ưu điểm, khuyết điểm, kết quả lãnh đạo của cấp ủy và đảng bộ trong thực hiện nhiệm vụ chính trị; chỉ rõ nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, của những yếu kém, khuyết điểm và đề ra những biện pháp khắc phục.

– Việc lựa chọn, giới thiệu nhân sự bầu vào cấp ủy các cấp căn cứ vào tiêu chuẩn chung quy định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII về Chiến lược cán bộ. Trong điều kiện hiện nay, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về yêu cầu đối với cán bộ lãnh đạo, cần đặc biệt nhấn mạnh tiêu chuẩn về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ được giao; uy tín trong Đảng và trong xã hội; có tư duy đổi mới, khả năng tiếp cận, nắm bắt, xử lý các vấn đề mới và vấn đề phức tạp mới nảy sinh; khả năng đoàn kết, quy tụ; phong cách làm việc khoa học, dân chủ, sâu sát, nói đi đôi với làm; dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm.

Vận dụng tốt tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh” trong tổ chức đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XI có ý nghĩa rất thiết thực trong công tác xây dựng Đảng, trong thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” hiện nay; đáp ứng được yêu cầu thang của công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; sự mong đợi của đông đảo cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top

Tags: #linh#tại