Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

Phần 11

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CON ĐƯỜNG ĐẾN MUNICH 

 PHƯƠNG án Màu Lục là mật mã của kế hoạch tấn công bất ngờ Tiệp Khắc, do Thống chế von Blomberg soạn thảo và được Hitler bổ sung chi tiết trong huấn từ cho tướng lĩnh vào ngày 5 tháng 11 năm 1937. Trong những ngày này, Hitler nhắc nhở họ rằng "đòn đánh phủ lên đầu bọn Tiệp" phải "được thực hiện với tốc độ sấm sét" và có thể diễn ra "sớm nhất là năm 1938" .

Việc thôn tính Áo một cách dễ dàng khiến cho Phương án Màu Lục có tính khẩn trương: cần phải cập nhật và chuẩn bị thực hiện ngay từ bây giờ. Vì mục đích này mà Hitler cho triệu Keitel đến ngày 21 tháng 4 năm 1938. Ngày hôm sau, Thiếu tá Rudolf Schmundt, tân tuỳ viên quân sự của Hitler, đã soạn bản tóm tắt để thảo luận gồm có 3 phần: "phương diện chính trị", "kết luận về quân sự" và "tuyên truyền". Hồ sơ Phương án Màu Lục được quân Mỹ tịch thu nguyên vẹn ở Berchtesgaden và bản tóm tắt buổi họp ngày 21 tháng 4 cũng có trong hồ sơ này .

Hitler bác bỏ việc tấn công "mà không có nguyên nhân hoặc minh chứng" vì "dư luận thế giới thù địch có thể dẫn đến tình hình nguy kịch". Ông nghĩ đến phương án thứ hai: "Hành động sau một thời gian đàm phán chính trị để dần dần đưa đến khủng hoảng và chiến tranh" là không thích hợp vì "phải loại bỏ những biện pháp an ninh của Tiệp Khắc" .

Rốt cuộc, Lãnh tụ thiên về phương án thứ ba: "Hành động sấm sét dựa trên một sự cố (ví dụ: việc ám sát một bộ trưởng Đức trong một cuộc biểu tình chống Đức)". Ta còn nhớ một "sự cố" như thế đã được trù định để biện minh cho việc xâm lăng Áo, khi Papen bị chỉ định là nạn nhân của vụ ám sát. Trong thế giới côn đồ của Hitler, thì việc hy sinh các nhà ngoại giao Đức ở nước ngoài là hoàn toàn có thể .

Hitler nhấn mạnh với Keitel về sự cần thiết phải hành động nhanh chóng: "4 ngày đầu có tính quyết định về mặt chính trị. Nếu không đạt thành công đáng kể về quân sự, chắc chắn châu Âu sẽ dấy lên khủng hoảng. Chuyện đã rồi sẽ thuyết phục các cường quốc là chẳng còn có hi vọng gì để can thiệp bằng quân sự nữa" .

Nước Cộng hoà Tiệp Khắc, mà bây giờ Hitler quyết chí tiêu diệt, được thành lập sau Thế chiến I từ các hoà ước mà người Đức rất căm ghét. Được tách ra từ Đế quốc Habsburg cũ, Tiệp Khắc đã phát triển thành một trong những nước dân chủ và phồn thịnh nhất Trung Âu .

Nhưng vì có nhiều dân tộc khác nhau, ngay từ đầu Tiệp Khắc đã bị giằng co bởi những vấn nạn nội bộ mà suốt 20 năm vẫn chưa thể giải quyết được. Đó là vấn nạn của những dân tộc thiểu số. Có 1 triệu người Hungary, nửa triệu người Ruthenia và 3 triệu rưỡi người Đức Sudeten. Các dân tộc này tha thiết với "đất mẹ" của họ, lần lượt là Hungary, Nga và Đức, tuy rằng người Đức ở Sudetenland chưa bao giờ thuộc về Đế chế Đức (ngoại trừ xưa kia là một phần của Đế quốc La Mã Thần thánh) mà chỉ thuộc về Áo. Nói chung, các dân tộc này đòi hỏi có thêm quyền tự trị .

Ngay cả người Slovak, chiếm ¼ trong số 10 triệu người Tiệp Khắc, cũng muốn được phần nào tự trị. Hai nhóm Slovak và Séc di cư sang Mỹ đã ký hiệp định cho người Slovak quyền lập Chính phủ, Nghị viện và Toà án riêng. Nhưng Chính phủ ở Prague không cảm thấy bị bắt buộc phải tuân thủ hiệp định này .

So với những dân tộc thiểu số ở phương Tây, thậm chí là ở Mỹ, thì những dân tộc thiểu số ở Tiệp Khắc vẫn không bị lép vế. Họ có quyền dân chủ và tự do cá nhân trọn vẹn – ngay cả quyền được bầu cử – và có thêm cả quyền được lập trường học riêng và duy trì nền tảng văn hoá của riêng mình. Lãnh tụ các dân tộc thiểu số thường là bộ trưởng trong chính quyền Trung ương. Tuy nhiên, người Séc không thể giải quyết những vấn đề của người thiểu số. Họ thường có tư tưởng ái quốc cực đoan và thiếu khôn khéo. Trên hết, các dân tộc thiểu số cho rằng Chính phủ Tiệp Khắc đã không tôn trọng những cam kết trong Hội nghị Hoà bình Paris năm 1919 về việc thành lập thể chế liên bang tương tự như Thuỵ Sĩ .

Điều mỉa mai là người Đức Sudeten có vị thế khá cao trong nước Tiệp Khắc – chắc chắn cao hơn bất kỳ dân tộc thiểu số nào khác trong nước và cao hơn cả những dân tộc thiểu số Đức ở Ba Lan hoặc ở Phát xít Ý. Nhưng họ bất mãn với tính hà khắc vụn vặt của quan chức địa phương người Séc và thái độ kỳ thị đôi lúc xảy ra ở thủ đô Prague. Sống trong các vùng Tây Bắc và Tây Nam công nghiệp hoá, họ giàu lên và dần dà trở nên hoà thuận với người Séc, họ vẫn tiếp tục đòi hỏi thêm quyền tự trị và sự tôn trọng đối với các quyền về ngôn ngữ và văn hoá. Trước khi Hitler nổi lên, không có phong trào chính trị nghiêm túc nào đòi hỏi hơn thế .

Thế rồi, khi Hitler nắm quyền Thủ tướng năm 1933, cơn bão Quốc xã tràn đến người Đức Sudeten. Năm ấy, một giáo viên môn thể dục dụng cụ tên Konrad Henlein đã thành lập Đảng người Đức Sudeten (SDP). Đến năm 1935, Bộ Ngoại giao Đức bí mật hỗ trợ tài chính Đảng ở mức 15.000 mác mỗi tháng. Trong vòng vài năm, Đảng này chiếm được đa số trong cộng đồng người Đức ở Sudeten. Vào lúc Áo bị sáp nhập vào Đức, Đảng SDP đã sẵn sàng nghe theo lệnh của Hitler .

Để nhận lệnh, Henlein đi đến Berlin. Ngày 28 tháng 3 năm 1938 thì ông ta đã ngồi họp với Hitler trong 3 tiếng đồng hồ. Chỉ thị của Hitler, như ghi trong một bản ghi nhớ của Bộ Ngoại giao, là: "Đảng SDP phải đưa ra những đòi hỏi mà Chính phủ Tiệp Khắc không thể chấp nhận". Như chính Henlein tóm tắt quan điểm của Hitler: "Ta phải luôn đòi hỏi nhiều để ta không bao giờ hài lòng" .

Vì thế, hoàn cảnh khó khăn của người Đức thiểu số ở Tiệp Khắc – giống như Danzig ở Ba Lan 1 năm sau – đối với Hitler chỉ là cái cớ để quấy động mảnh đất mà ông thèm thuồng, khuynh đảo, tung hoả mù và gây hiểu lầm giữa những bạn hữu của mảnh đất ấy, đồng thời che giấu đi mục đích thực sự của ông ta. Mục đích là gì thì Hitler đã vạch rõ trong bài diễn thuyết lê thê ngày 5 tháng 11 năm 1937 cho giới lãnh đạo quân sự và trong chỉ thị đầu tiên của Phương án Màu Lục: hạ gục Tiệp Khắc và chiếm lấy lãnh thổ cùng dân cư cho Đế chế Thứ Ba .

Mặc cho những gì đã xảy ra ở Áo, các nhà lãnh đạo Anh và Pháp vẫn chưa nhận ra điều này. Suốt mùa xuân và mùa hè, thật ra ngay cả cho đến cuối cùng, Thủ tướng Chamberlain và Thủ tướng Daladier cùng với phần lớn thế giới vẫn còn điềm nhiên tin rằng Hitler chỉ mong muốn sự bình đẳng cho người Đức ở Tiệp Khắc .

Thật vậy, khi những ngày mùa hè trở nên ấm áp hơn, 2 Chính phủ Anh và Pháp cố tìm cách tạo áp lực lên Chính phủ người Séc để nhượng bộ thêm cho người Đức Sudeten. 4 ngày sau, tức ngày 7 tháng 5 năm 1938, hai Đại sứ Anh và Pháp tại Prague thúc giục Chính phủ người Séc "đi đến giới hạn tột cùng" để đáp ứng những đòi hỏi của người Đức Sudeten. Hitler và Ribbentrop hẳn là phải rất vui mừng khi thấy 2 Chính phủ Anh và Pháp lo lắng giúp đỡ Đức đến thế .

Tuy vậy, trong giai đoạn này, Đức vẫn cần che giấu ý đồ. Ngày 12 tháng 5, Henlein bí mật đến Đức để nhận chỉ thị của Ribbentrop về cách hành xử khi đến Anh. Một bản ghi nhớ của Nam tước Ernst von Weizsaecker ở Bộ Ngoại giao chỉ rõ: "Henlein sẽ phủ nhận ông đang thi hành chỉ thị từ Berlin... Cuối cùng, Henlein sẽ nói về sự phân hoá cùng cực trong cơ cấu chính trị ở Tiệp Khắc, để làm nản lòng những ai còn muốn can dự..." Cùng ngày, Công sứ Đức tại Prague tham mưu cho Ribbentrop về việc che đậy sự chi tiền và ra chỉ thị cho Đảng người Đức Sudeten. Ngày 14 tháng 5, Weizsaecker thông báo cho Đại sứ Hugh R. Wilson của Mỹ tại Berlin rằng Đức e sợ nhà cầm quyền Tiệp Khắc đang cố tình làm dấy lên một cuộc khủng hoảng toàn châu Âu khác nhằm ngăn chặn "sự tan rã của Tiệp Khắc" .

Hai ngày sau, Thiếu tá Schmundt, tuỳ viên quân sự của Hitler, thay mặt gửi một bức điện khẩn và "bí mật nhất" đến Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực, hỏi có bao nhiêu sư đoàn dọc biên giới Tiệp Khắc "sẵn sàng hành quân trong 12 giờ, trong trường hợp phải điều quân". Trung tá Zeitzler thuộc Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực trả lời lập tức: "12". Hitler vẫn chưa thoả mãn, đòi hỏi: "Yêu cầu gửi mã số của các sư đoàn". Câu trả lời liệt kê mã số của 10 sư đoàn bộ binh, thêm 1 sư đoàn thiết giáp và 1 sư đoàn quân sơn cước .

Hitler càng trở nên bồn chồn. Ngày hôm sau, ông hỏi Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực thông tin chính xác về những lô cốt mà Tiệp Khắc xây dựng trên dãy núi Sudeten dọc biên giới – được xem như Phòng tuyến Maginot của Tiệp Khắc. Zeitzler trả lời cùng ngày với một bức điện dài và "bí mật nhất" cung cấp nhiều chi tiết về hệ thống phòng thủ của Tiệp Khắc, vạch rõ rằng hệ thống này khá vững chắc .

CUỘC KHỦNG HOẢNG ĐẦU TIÊN: THÁNG 5 NĂM 1938 Thứ Sáu ngày 20 tháng 5 năm 1938 bắt đầu một cuộc khủng hoảng mà sau này được gọi là "Khủng hoảng tháng Năm". Trong 48 giờ đầu, các Chính phủ Anh, Pháp, Tiệp Khắc và Liên Xô trở nên hốt hoảng tin rằng châu Âu đang ở gần bờ vực chiến tranh hơn là bất kỳ thời điểm nào khác kể từ mùa hè 1914. Đây có lẽ chủ yếu là do kế hoạch của Đức tấn công Tiệp Khắc bị rò rỉ. Vì tin như thế mà Tiệp Khắc bắt đầu động binh, còn Anh, Pháp và Liên Xô biểu lộ sự cứng rắn và hợp nhất để đối phó với mối đe doạ từ Đức .

Cùng ngày, Tướng Keitel gửi đến Hitler bản thảo mới của Phương án Màu Lục mà ông và các phụ tá đã bỏ công viết ra. Trong một bức thư với nội dung đầy vẻ quỵ luỵ, Keitel giải thích rằng Phương án có tính đến "trường hợp sáp nhập Áo vào Đế chế Đức" và rằng Phương án đã không được mang ra thảo luận với tư lệnh 3 quân chủng trừ phi "ngài, Lãnh tụ của tôi" cho phép và ký tên vào .

Chỉ thị mới cho Phương án Màu Lục đề ngày 20 tháng 5 năm 1938 là một văn kiện đáng chú ý và khá quan trọng. Đó là mô hình của cách thức Quốc xã trù hoạch cho chiến dịch tấn công mà sau này cả thế giới đều quen thuộc. Văn kiện bắt đầu bằng: "Chủ định của tôi không phải là đập tan Tiệp Khắc bằng vũ lực trong tương lai gần, trừ phi bị khiêu khích hoặc vì có sự cố không tránh khỏi... mà bên trong Tiệp Khắc phải bắt buộc dẫn đến các hành động, hoặc những biến cố chính trị ở châu Âu tạo nên cơ hội thuận lợi mà có lẽ không bao giờ có lại" .

Ba "khả năng chính trị để động binh" được xét qua. Khả năng thứ nhất, "tấn công bất ngờ mà không có lý do bên ngoài" bị bác bỏ .

"Nên động binh trong các trường hợp: Sau một giai đoạn gia tăng những tranh luận và căng thẳng chính trị kết hợp với những bước chuẩn bị quân sự, khai thác lợi thế để đổ lỗi cho kẻ thù .

Bằng hành động sấm sét do hậu quả của một sự cố nghiêm trọng nhằm biện minh về mặt đạo đức, dưới con mắt của ít nhất một phần dư luận thế giới, cho biện pháp quân sự .

Trường hợp (b) là thoả đáng hơn, khi xét qua cả 2 khía cạnh quân sự và chính trị" .

Về việc hành quân, phải đạt kết quả trong vòng 4 ngày chính là để "chứng tỏ cho các kẻ thù muốn can thiệp thấy rõ tình hình tuyệt vọng của Quân đội Tiệp Khắc và cũng tạo động lực cho những nước có đòi hỏi về lãnh thổ cùng hợp nhất chống Tiệp Khắc" .

Những nước đó chính là Hungary và Ba Lan, đồng thời kế hoạch này mong đợi họ sẽ tham gia. Có lẽ Pháp sẽ không giúp đỡ Tiệp Khắc, nhưng "phải dè chừng Nga sẽ hỗ trợ Tiệp Khắc về mặt quân sự" .

Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực, hoặc ít nhất là Keitel và Hitler, tỏ ra tự tin rằng Pháp sẽ không hành động, đến nỗi chỉ điều "lực lượng tối thiểu che mặt sau phía Tây" và khẳng định là "phải sử dụng toàn sức mạnh của mọi lực lượng để tiến công Tiệp Khắc" .

Đó sẽ là chiến tranh toàn diện. Lần đầu tiên trong việc đặt kế hoạch cho binh sĩ Đức, giá trị của cái mà văn kiện chỉ thị gọi là "chiến tranh tuyên truyền" và "chiến tranh kinh tế" được nhấn mạnh, đồng thời hoà quyện trong kế hoạch tấn công tổng thể .

"Chiến tranh tuyên truyền phải một mặt trấn áp người Tiệp Khắc qua cách doạ nạt và làm suy yếu ý chí kháng cự, mặt khác làm cho các dân tộc thiểu số hỗ trợ hành động quân sự của ta và gây ảnh hưởng lên những phe nhóm trung lập nhằm tạo thuận lợi cho ta .

Chiến tranh kinh tế có nhiệm vụ sử dụng mọi nguồn lực kinh tế sẵn có để thúc đẩy sự suy sụp của Tiệp Khắc... Trong quá trình tác chiến,... phải nhanh chóng thu thập thông tin về những nhà máy quan trọng và khởi động lại càng sớm càng tốt. Vì lý do này, nếu điều kiện tác chiến cho phép thì không được gây thiệt hại cho cơ sở công nghệ và kỹ thuật của Tiệp Khắc..." Mô hình tấn công của Quốc xã về cơ bản là không được thay đổi và sẽ được áp dụng để đi từ thành công này qua thành công khác, cho đến khi thế giới bừng tỉnh nhận ra thì đã quá muộn .

Sau giữa trưa ngày 20 tháng 5 năm 1938, Công sứ Đức ở Prague gửi bức điện "khẩn và bí mật nhất" đến Berlin, báo cáo rằng Chính phủ Tiệp Khắc quan ngại về nguồn tin Đức đang tập trung quân đội và dù ông đã trấn an họ, thì ông vẫn muốn Berlin thông báo cho ông rõ tình hình .

Đây là khởi đầu cho một loạt những trao đổi ngoại giao gây chấn động ở châu Âu rằng Hitler đang chuẩn bị chiến tranh. Theo chỗ tôi biết, không ai rõ làm thế nào tình báo của Anh và Tiệp Khắc lại nắm bắt được thông tin về việc động binh của Đức. Báo chí có đăng tải sự di chuyển của Quân đội Đức, lời tuyên bố của Henlein cắt đứt vòng đàm phán với Chính phủ Tiệp Khắc và cũng có chiến tranh tuyên truyền của Goebbels tường thuật những câu chuyện về Chính phủ Tiệp Khắc "khủng bố" người Đức Sudeten. Tất cả khiến cho bầu không khí căng thẳng đến cùng cực .

Dù sự chuyển động của Quân đội Đức liên quan đến những cuộc diễn tập mùa xuân, nhưng các tài liệu tịch thu được sau chiến tranh lại không cho thấy việc tập trung Quân đội Đức dọc biên giới Tiệp Khắc vào lúc này. Hai tài liệu của Bộ Ngoại giao Đức ngày 21 tháng 5 của Đại tá Jodl ở Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực cho thấy không có sự tập trung của Quân đội Đức ở Silesia hoặc vùng Hạ nước Áo. Jodl khẳng định trong các báo cáo không dành cho nước ngoài đọc rằng chẳng có gì cả "ngoài những cuộc tập trận thời bình". Nhưng biên giới với Tiệp Khắc không phải hoàn toàn vắng bóng quân Đức. Như ta đã biết, vào ngày 16 tháng 5 Hitler đã được Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực thông báo có 12 sư đoàn Đức "sẵn sàng lên đường trong vòng 12 giờ" .

Có thể nào tình báo Tiệp Khắc hoặc Anh bắt được các bức điện trao đổi thông tin này? Hoặc họ đã tiếp cận được văn kiện của Keitel gửi cho Hitler ngày 20 tháng 5 chăng? Vì lẽ, ngày hôm sau Tham mưu trưởng Quân đội Tiệp Khắc, Tướng Kreici, báo cho Tùy viên Quân sự Đức tại Tiệp Khắc, Đại tá Toussaint, là ông có "bằng chứng không thể chối cãi là từ 8 đến 10 sư đoàn Đức đã được huy động ở Saxony". Số sư đoàn không sai sự thật là bao, tuy cách thức động binh thì không chính xác .

Dù sao đi nữa, chiều ngày 20 tháng 5 năm 1938, sau buổi họp Nội các khẩn cấp, Tổng thống Beneš quyết định động binh một phần ngay lập tức. Một phần quân trù bị được gọi vào Quân đội. Trái với người Áo 2 tháng trước, Chính phủ Tiệp Khắc quyết tâm chiến đấu .

Việc Tiệp Khắc động binh một phần khiến cho Hitler lên cơn giận dữ và ông càng giận hơn khi nhận được thông báo của các Đại sứ Anh và Pháp, cảnh cáo Đức rằng tấn công Tiệp Khắc có nghĩa là chiến tranh toàn châu Âu .

Đức chưa bao giờ chịu sức ép ngoại giao của Anh như lần này. Đại sứ Anh, Nevile Henderson, liên tục gọi đến Bộ Ngoại giao Đức để dò hỏi về những chuyển động của Quân đội Đức và khuyên Đức nên thận trọng. Thử tướng Anh phái nhà ngoại giao chuyên nghiệp này đến Berlin để áp dụng tài khéo léo trong việc xoa dịu Hitler. Chắc chắn Ngoại trưởng Anh Lord Halifax và Bộ Ngoại giao Anh ủng hộ Henderson vì con người khéo léo, vui vẻ này không có cảm tình với Tiệp Khắc. Ông liên tiếp gặp Ngoại trưởng Đức Ribbentrop và Thứ trưởng Ngoại giao Đức von Weizsaecker để trao thư riêng của Halifax, đồng thời nhấn mạnh rằng tình hình đang khá nghiêm trọng. Ở London, Bộ Ngoại giao Anh cũng triệu Đại sứ Đức đến để bày tỏ quan ngại .

Qua các cuộc trao đổi này, phía Đức nhận ra rằng Chính phủ Anh cho dù biết chắc Pháp sẽ giúp Tiệp Khắc, nhưng vẫn không xác nhận sẽ trợ giúp Tiệp Khắc. Cùng lắm thì Anh chỉ tuyên bố cảnh cáo, như Halifax nói, theo như Dirksen thuật lại: "Trong trường hợp có xung đột ở châu Âu thì không thể nào đoán được liệu Anh sẽ can dự hay không". Thật vậy: đây chính là cách mạnh mẽ nhất mà Chamberlain sẽ hành động cho đến khi đã quá muộn để ngăn chặn Hitler. Tác giả này có cảm tưởng rằng nếu Chamberlain thẳng thắn nói với Hitler rằng Anh sẽ có phản ứng mạnh khi đối diện với sự gây hấn của Đức, thì có lẽ Hitler đã không dám phiêu lưu như thế để dẫn đến Thế chiến II. Cảm tưởng này càng được củng cố hơn thông qua việc nghiên cứu các tài liệu mật của Đức. Đó là một lỗi lầm chết người của vị Thủ tướng có thiện chí .

Tại biệt thự nghỉ dưỡng Berghof phía trên Berchtesgaden, Hitler cảm thấy bẽ mặt nặng nề vì hành động của Tiệp Khắc và cũng vì sự ủng hộ của Anh, Pháp và ngay cả Liên Xô dành cho Tiệp Khắc. Hitler càng phẫn nộ hơn vì bị cáo buộc – đúng tội nhưng quá sớm – về hành động gây hấn mà chính ông ta định sẽ thực hiện. Ông đã rà soát Phương án Màu Lục do Keitel trình nộp, nhưng thấy không thể áp dụng ngay được. Nén giận, ông ra lệnh cho Bộ Ngoại giao thông báo cho phía Tiệp Khắc rõ rằng Đức không có ý định gây hấn và rằng tin tức về việc Đức tập trung quân đội vùng biên giới là vô căn cứ .

Các nhà lãnh đạo Tiệp Khắc, Anh, Pháp và Liên Xô đều thở phào nhẹ nhõm. Hitler đã nhận được một bài học. Ông hiểu rõ rằng mình không thể nào gây hấn một cách dễ dàng như ở Áo .

Nhưng các nhà lãnh đạo nước ngoài thì không hiểu rõ Hitler .

Hitler trải qua vài ngày ủ rũ ở Obersalzberg, cộng thêm lòng tức giận sục sôi mong trả đũa Tiệp Khắc và đặc biệt Tổng thống Beneš vì nghĩ ông này đã cố tình làm nhục mình .

Đến ngày 28 tháng 5 năm 1938, đột nhiên Hitler trở về Berlin và triệu tập tướng lĩnh cao cấp của Quân đội để phổ biến một quyết định quan trọng. Chính ông kể lại trong diễn văn đọc trước Nghị viện 8 tháng sau: "Tôi nhất định phải giải quyết rốt ráo vấn đề người Đức Sudeten. Vào ngày 28 tháng 5, tôi ra lệnh: Thực hiện các bước chuẩn bị cho hành động quân sự chống quốc gia này vào ngày 2 tháng 10 .

Mở rộng và đẩy nhanh tiến độ hệ thống phòng thủ phía Tây... Bắt đầu điều động ngay 96 sư đoàn..." Trước mặt Goering, Keitel, Brauchitsch, Beck, Đô đốc Raeder, Ribbentrop và Neurath, Hitler thét lên: "Ý chí không gì lay chuyển của tôi là xoá Tiệp Khắc khỏi bản đồ thế giới!" Phương án Màu Lục lại được mang ra và được chỉnh sửa lần nữa .

Nhật ký của Jodl ghi lại những gì diễn ra trong tâm trí sục sôi không khoan dung của Hitler .

"Chủ định của Lãnh tụ (không kích hoạt vấn đề Tiệp Khắc) được thay đổi vì lý do vào ngày 21 tháng 5 Tiệp Khắc tập trung quân đội có tính chiến lược. Việc này không phải là vô duyên cớ mà đe doạ được Đức. Bởi vì Đức đã kiềm chế, nên hậu quả là làm cho Lãnh tụ mất mặt và ông không muốn chuyện này lặp lại .

Vì thế, chỉ thị mới về Phương án Màu Lục được ban hành ngày 30 tháng 5" .

Các chi tiết của chỉ thị mới về Phương án Màu Lục về cơ bản không khác với phiên bản trình cho Hitler 9 ngày trước. Nhưng có 2 thay đổi quan trọng. Thay vì câu mở đầu trong chỉ thị cũ: "Chủ định của tôi không phải là đập tan Tiệp Khắc bằng vũ lực trong tương lai gần...", thì chỉ thị mới ghi là: "Quyết định không gì thay đổi của tôi là đập tan Tiệp Khắc bằng vũ lực trong tương lai gần..." Keitel giải thích "tương lai gần" có nghĩa là chậm nhất là ngày 1 tháng 10 năm 1938 .

Đó là ngày mà Hitler sẽ theo đuổi cho đến cùng dù cho bao thăng trầm, dù trải qua hết cuộc khủng hoảng này đến cuộc khủng hoảng khác và ở bờ vực của chiến tranh, mà không hề chùn bước .

CÁC TƯỚNG LĨNH NAO NÚNG Ngày 30 tháng 5 năm 1938, Jodl ghi vào nhật ký là "... những ý định ban đầu của Quân đội phải thay đổi một cách đáng kể", đồng thời bổ sung: "Cả sự tương phản đã trở nên sâu sắc hơn giữa [một bên là] trực giác của Lãnh tụ rằng ta phải hành động trong năm này và [bên kia là] ý kiến của Quân đội rằng ta chưa thể làm được, vì gần như chắc chắn rằng các cường quốc phương Tây sẽ can thiệp, trong khi ta chưa mạnh bằng họ" .

Vị tướng nhạy cảm đã chỉ ra sự rạn nứt mới giữa Hitler và vài tướng lĩnh hàng đầu. Tướng Tham mưu trưởng Lục quân Ludwig Beck cầm đầu nhóm chống đối những ý đồ gây hấn to tát của Hitler. Sau hơn 4 năm dưới chế độ Quốc xã, Beck đã chống đối lại Lãnh tụ dựa trên lý lẽ chuyên môn: Đức chưa đủ mạnh để chống lại các cường quốc phương Tây và có lẽ cả Liên Xô .

Như ta đã thấy, Beck hoan nghênh Hitler lên cầm quyền và công khai ca ngợi Hitler vì đã tái lập chế độ nghĩa vụ quân sự trong sự thách thức Hoà ước Versailles. Vào năm 1930, lúc còn là một trung đoàn trưởng vô danh, Beck đã ra mặt bảo vệ cho 3 sĩ quan trẻ bị kết án phản quốc vì gieo rắc chủ nghĩa Quốc xã trong Quân đội. Dường như Beck đã nhận ra vấn đề không phải sau khi Hitler tấn công Ba Lan – được Beck ủng hộ – mà chính là vào thời điểm Mật vụ dàn cảnh để vu cáo Tướng von Fritsch. Sau khi quét đi rác rưởi phủ bên trên, có thể nhận ra rằng chính sách của Hitler là cố tình tạo nguy cơ chiến tranh với Anh, Pháp và Liên Xô. Nếu đem điều này ra thi hành, mà không nghe theo lời tham mưu của các tướng lĩnh hàng đầu, thì sẽ làm cho Đức tiêu tán .

Beck đã nghe phong thanh về cuộc họp giữa Hitler và Keitel ngày 21 tháng 4, trong đó Quân đội nhận chỉ thị xúc tiến nhanh việc chuẩn bị tấn công Tiệp Khắc. Ngày 5 tháng 5, ông viết bản ghi nhớ cho Tướng von Brauchitsch, tân Tư lệnh Lục quân, chống đối mạnh mẽ hành động như thế .

Đây là văn kiện xuất sắc, chứa những dữ kiện thẳng thắn tuy khó chịu, đầy những biện luận và lý lẽ vững chắc. Tuy Beck có phần phóng đại ý chí và sự tinh khôn của các nhà lãnh đạo Anh và Pháp, cùng với khả năng của Quân đội Pháp và hậu quả cuối cùng của vấn đề Tiệp Khắc, nhưng nếu tính riêng những dự đoán về lâu dài của ông liên quan đến Đức thì lại vô cùng chính xác .

Beck tin rằng nếu Đức tấn công Tiệp Khắc sẽ gây nên chiến tranh châu Âu, trong đó Anh, Pháp và Liên Xô sẽ chống lại Đức còn Hoa Kỳ sẽ là cơ xưởng vũ khí cho các nước phương Tây. Đức không thể nào thắng một cuộc chiến như thế. Chỉ việc thiếu thốn nguyên vật liệu đã đủ để Đức không thắng được. Thật ra, Beck cho rằng "tình hình quân sự và kinh tế của Đức còn kém hơn giai đoạn 1917-1918", khi mà các đội quân của Hoàng đế Đức bắt đầu suy sụp .

Beck ở trong số các tướng lĩnh được triệu đến Phủ Thủ tướng ngày 28 tháng 5 để nghe Hitler hò hét rằng sẽ xoá sổ Tiệp Khắc khỏi bản đồ thế giới. Ông ghi chép kỹ những lời phát biểu của Hitler, rồi 2 ngày sau gửi một bản ghi nhớ cho Brauchitsch, chỉ trích từng điểm trong kế hoạch của Hitler. Để đảm bảo vị Tư lệnh Lục quân có tính cẩn trọng hiểu thấu, chính Beck đã đọc lên bản ghi nhớ. Sau cùng, ông nhấn mạnh với vị tướng đang khổ sở và có phần nông cạn Brauchitsch rằng cơn khủng hoảng trong "các cấp chỉ huy hàng đầu" đã dẫn đến tình trạng vô kỷ luật, mà nếu không chế ngự, vận mệnh của Quân đội, đúng ra là của nước Đức, sẽ là "đen tối". Ít ngày sau, Beck gửi một bản ghi nhớ khác cho Brauchitsch, trong đó ông tuyên bố chỉ thị mới cho "Màu Lục" là "sai lầm về mặt quân sự" và đề nghị Bộ Tư lệnh Lục quân nên bác bỏ .

Tuy nhiên, Hitler lại đốc thúc Phương án Màu Lục. Hồ sơ tịch thu được cho thấy vào đầu mùa hè ông càng nôn nóng hơn. Ông ra lệnh các cuộc tập trận mùa thu phải diễn ra sớm để binh sĩ sẵn sàng tấn công. Cần mở cuộc tập trận đặc biệt "trong việc tiến chiếm lô cốt qua tấn công bất ngờ". Tướng Keitel được thông báo rằng "Lãnh tụ liên tục nhấn mạnh sự cần thiết của việc phải đẩy nhanh công tác gia cố phòng thủ ở phía Tây" .

Ngày 9 tháng 6, Hitler yêu cầu thông tin về vũ khí của Tiệp Khắc và ngay lập tức nhận được đầy đủ chi tiết về những loại vũ khí lớn nhỏ mà Tiệp Khắc sử dụng. Cùng ngày, ông hỏi han về sức mạnh của các pháo đài Tiệp Khắc. Trên khu nghỉ dưỡng vùng rừng núi với cận thần thân tín vây quanh, tinh thần của Hitler luôn lên xuống trong khi ông trăn trở với ý nghĩ về chiến tranh .

Ngày 18 tháng 6, ông ban hành "Chỉ thị Hướng dẫn Tổng quát" đối với "Màu Lục" .

"Không có nguy cơ của một trận chiến phủ đầu chống lại Đức... Tôi sẽ quyết định có động thái chống Tiệp Khắc chỉ khi nào tôi tin chắc... Pháp sẽ không động binh kéo theo Anh cũng sẽ không can thiệp" .

Tuy nhiên, ngày 7 tháng 7, Hitler lại đưa ra "những xem xét" phải làm gì nếu Anh và Pháp can thiệp. Ông nói: "Cần xem xét trước nhất việc giữ vững hệ thống công sự phòng thủ phía Tây" cho đến khi đập tan Tiệp Khắc và có thể điều động nhanh chóng binh sĩ qua mặt trận phía Tây. Trong đầu óc cháy bỏng của mình, ông không bận tâm đến việc không có đủ quân để phòng thủ phía Tây hay không. Ông chỉ nghĩ "có phần chắc là Liên Xô sẽ can dự" và bây giờ ông lo Ba Lan cũng thế. Phải đối phó với những tình huống này, nhưng Hitler không nói là sẽ đối phó như thế nào .

Hiển nhiên là Hitler, trong khi tất bật lập kế hoạch và có phần cô lập ở Berchtesgaden, chưa nghe được những lời càu nhàu phản đối ở Bộ Tư lệnh Lục quân. Dù nhiều lần quấy rầy Brauchitsch với các bản ghi nhớ, Beck nhận ra rằng vị Tư lệnh Lục quân sẽ không trình cho Lãnh tụ những ý kiến của mình. Vì thế, giữa tháng 7 năm 1938, Beck cố gắng lần cuối viết thêm một bản ghi nhớ cho Brauchitsch .

"Với ý thức rõ ràng về mức độ của bước đi và cũng vì trách nhiệm của mình, tôi thấy có bổn phận phải đề nghị là Tư lệnh Tối cao Quân lực [Hitler] nên đình chỉ việc chuẩn bị chiến tranh, đồng thời bãi bỏ ý định giải quyết vấn đề Tiệp Khắc bằng vũ lực cho đến lúc tình hình quân sự thay đổi một cách cơ bản. Hiện tại, tôi thấy tình hình là vô vọng và mọi chỉ huy cấp cao của Bộ Tham mưu Lục quân đều chia sẻ quan điểm này" .

Beck đích thân mang bản ghi nhớ này đến trao cho Brauchitsch và đề xuất thêm là tướng lĩnh sẽ nhất loạt hành động nếu Hitler tỏ ra khăng khăng không chịu. Đặc biệt, ông đề nghị trong trường hợp ấy, các tướng lĩnh đều từ chức ngay lập tức. Và lần đầu tiên trong Đế chế Thứ Ba, ông đưa ra câu hỏi mà sau này sẽ ám ảnh các phiên xử trong Toà án Nuremberg: Liệu sĩ quan có lòng trung thành nào cao hơn lòng trung thành với Hitler hay không? Trong Toà án Nuremberg, hàng chục tướng lĩnh nói "không" để biện minh cho tội ác chiến tranh của họ. Họ nói mình phải tuân theo mệnh lệnh .

Nhưng ngày 16 tháng 7 năm 1938, Beck có một quan điểm khác mà ông sẽ theo đuổi cho đến những giây phút cuối cùng, dù chẳng hề đạt được kết quả nào. Ông nói có những "giới hạn" cho lòng trung thành đối với Tư lệnh Tối cao khi mà lương tri, kiến thức và trách nhiệm không cho phép thi hành một mệnh lệnh. Beck nghĩ tướng lĩnh đã đi đến giới hạn như thế. Nếu Hitler muốn gây chiến, họ phải từ chức tập thể. Ông biện luận là trong trường hợp đó sẽ không thể nào có chiến tranh, bởi vì không có ai chỉ huy các đạo quân .

Khi ấy là lần đầu tiên trong đời vị Tư lệnh Lục quân Beck nhận ra nhiều điều. Ông thực sự đã sáng mắt ra .

Vấn đề không chỉ là ngăn Lãnh tụ xâm lấn một nước láng giềng nhỏ bé để rồi gây ra chiến tranh. Đột nhiên, ông nhận ra sự điên rồ của cả Đế chế Thứ Ba và những mặt xấu xa khác của Đế chế này: sự chuyên chế, tính tàn bạo và sự khinh thường đạo lý Cơ Đốc cổ xưa. Ba ngày sau, ông lại gặp Brauchitsch để nói lên nhận định mới này .

Ông nói các tướng lĩnh không những phải đình chỉ công việc để ngăn chặn Hitler khởi động chiến tranh, mà còn phải dọn dẹp rác rưởi trong Đế chế Thứ Ba. Phải giải phóng nhân dân Đức và Lãnh tụ khỏi sự khủng bố của lực lượng S.S. và các cấp lãnh đạo Đảng Quốc xã. Phải tái lập quốc gia và xã hội pháp trị. Beck tóm tắt chương trình cải tổ của mình: "Đối với Lãnh tụ, phải chống chiến tranh, chống cách Cai trị độc tài, phải hoà hoãn với Giáo hội, cho phép quyền tự do phát biểu, giảm tiền đóng góp cho Đảng, giảm xây cung điện, xây thêm nhà cho dân thường, tạo tính trung thực và giản đơn theo cung cách Phổ" .

Beck quá ngây thơ về chính trị nên không nhận ra rằng chính Hitler – hơn bất cứ cá nhân nào khác – phải chịu trách nhiệm cho tình hình ở nước Đức khiến lúc này ông phải nổi dậy. Tuy nhiên, công việc trước mắt của Beck là thay mặt cho Quân đội trình một tối hậu thư yêu cầu Hitler ngừng chuẩn bị chiến tranh. Để đẩy mạnh mục đích này, ngày 4 tháng 8 ông triệu tập một cuộc họp các tướng chỉ huy. Ông soạn thảo một bài diễn văn hùng hồn cho Tư lệnh Lục quân đọc, nhưng Brauchitsch lại thiếu can đảm để đọc. Beck đành phải đọc bản ghi nhớ ngày 16 tháng 7 của mình, tạo ấn tượng sâu sắc cho phần lớn tướng lĩnh. Nhưng không có hành động nào cụ thể và buổi họp chấm dứt mà không ai có can đảm nói chuyện này với Hitler, giống như những người tiền nhiệm của họ thiếu can đảm đối với các hoàng đế vương triều Hohenzollern và các Thủ tướng Đế quốc .

Riêng Brauchitsch thu hết can đảm để trình cho Hitler xem bản ghi nhớ ngày 16 tháng 7 của Beck. Phản ứng của Hitler là triệu tập tướng lĩnh chống đối và cả sĩ quan ở ngay cấp dưới kế cận. Họ đến dự buổi họp ở Berghof ngày 10 tháng 8, sau đó ăn tối, rồi nghe Hitler phát biểu trong 3 tiếng đồng hồ. Nhưng lần này, lời nói hùng hồn của Hitler không được thuyết phục như ông mong đợi. Cả Jodl và Manstein ở buổi họp đều kể về "sự xung đột nghiêm trọng và khó chịu" giữa Tướng von Wietersheim và Hitler. Với tư cách là Tham mưu trưởng mặt trận phía Tây dưới quyền Tướng Wilhelm Adam, Wietersheim dám nói về vấn nạn chủ chốt mà cả Hitler lẫn Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực đều tránh né: Khi như tất cả lực lượng dồn sức đánh Tiệp Khắc, thì Đức sẽ sơ hở ở phía Tây và có thể bị Pháp áp đảo. Cụ thể, ông báo cáo rằng Bức tường Tây không thể trụ vững quá 3 tuần .

Jodl ghi vào nhật ký: "Lãnh tụ đùng đùng nổi giận, nhận xét là trong trường hợp như thế cả Quân đội là vô tích sự. [Hitler quát đáp trả:] 'Tôi nói cho ông biết, vị trí đó sẽ trụ vững không phải chỉ 3 tuần mà là 3 năm!'" Trụ vững với cái gì thì Hitler không nói ra. Trước đó, ngày 4 tháng 8, Tướng Adam báo cáo rằng ở phía Tây mình chỉ có 5 sư đoàn và họ sẽ bị Pháp áp đảo. Wietersheim đưa ra cùng con số cho Hitler, nhưng Hitler không muốn nghe .

Riêng Jodl, vốn đã bị Hitler hoàn toàn thu hút, cảm thấy chán nản khi nghĩ tướng lĩnh không thấu hiểu được thiên tài của Hitler .

"Tư tưởng thoái chí đó [của Wietersheim] không may lại lan tràn trong Bộ Tư lệnh Lục quân vì nhiều lý do .

Trước nhất, Bộ Tư lệnh Lục quân bị trói buộc trong những hoài niệm xưa cũ và thấy có trách nhiệm đối với những quyết định về chính trị, thay vì tuân thủ và thi hành các nhiệm vụ quân sự. Công nhận là họ có thi hành nhiệm vụ nhưng tinh thần lại thiếu hăng hái, bởi vì rốt cuộc họ vẫn không tin vào thiên tài của Lãnh tụ. Và có lẽ cũng vì người ta đã so sánh Lãnh tụ với Charles XII .

Điều chắc chắn là tư tưởng chủ bại [của Wietersheim] không những tai hại về chính trị – bởi vì ai cũng nói đến mâu thuẫn về ý kiến giữa tướng lĩnh và Lãnh tụ – mà còn nguy hiểm đối với tinh thần binh sĩ. Nhưng tôi tin chắc Lãnh tụ sẽ có khả năng vực dậy tinh thần của mọi người khi thời điểm đã đến" .

Đáng lẽ Jodl có thể thêm rằng Hitler cũng có khả năng dập tắt sự nổi dậy của tướng lĩnh. Như Manstein khai trước Toà án Nuremberg năm 1946, đây là buổi họp cuối cùng mà Hitler cho phép giới quân sự đặt câu hỏi hoặc thảo luận. Trong cuộc rà soát quân sự ngày 15 tháng 8, Hitler lặp lại với tướng lĩnh rằng mình đã nhất quyết "giải quyết vấn đề Tiệp Khắc bằng vũ lực". Không ai dám – hoặc được phép – thốt lên tiếng nào để chống lại ông ta .

Beck thấy mình đã thất bại, chủ yếu là do sự hèn yếu từ những tướng lĩnh huynh đệ của ông. Ngày 18 tháng 8 năm 1938, ông rời bỏ chức vụ Tham mưu trưởng Lục quân. Ông cố dẫn dụ Brauchitsch từ chức theo, nhưng vị Tư lệnh Lục quân đã bị Hitler mê hoặc, lại còn chịu ảnh hưởng của người phụ nữ Quốc xã cuồng tín sắp trở thành vợ thứ hai của mình. Tướng von Brauchitsch nhận giấy ly dị vào mùa hè và ngày 24 tháng 9 cưới Charlotte Schmidt. Như Hassell nói về ông này: "Brauchitsch kéo cổ áo lên cao một nấc và nói: 'Tôi là một người lính, bổn phận của tôi là tuân lệnh'" .

Việc từ chức của một Tham mưu trưởng Lục quân giữa cơn khủng hoảng, nhất là của một người được trọng vọng như Tướng Beck, thông thường sẽ tạo bão tố trong Quân đội và thậm chí gây xôn xao ở ngoài nước .

Nhưng một lần nữa, Hitler cho thấy tính quỷ quyệt của mình. Mặc dù lập tức chấp nhận đơn xin từ chức của Beck một cách nhẹ nhõm, nhưng ông lại cấm thông báo việc này trên báo chí, ngay cả trên công báo và báo của Quân đội, đồng thời ra lệnh cho Beck cùng các tướng lĩnh phải giữ im lặng. Sẽ không có lợi nếu cho Anh và Pháp biết về sự bất mãn ở cấp cao nhất trong Quân đội Đức. Có lẽ họ không biết cho đến lúc có thông cáo chính thức vào cuối tháng Mười. Nếu họ biết, ta có thể suy đoán là đáng lẽ lịch sử đã chuyển qua hướng khác và việc xoa dịu Hitler đã không kéo dài quá lâu .

Riêng Beck thì không tiết lộ gì ra công chúng, do tình yêu nước và lòng trung thành với Quân đội. Tuy thế, ông cảm thấy vỡ mộng vì không có một tướng lĩnh nào trong số những người đồng ý với ông chịu noi gương ông mà từ chức. Ông không thử thuyết phục họ. Như sau này Hassell nói về ông: "... là người của nguyên tắc và tư tưởng, nhưng không phải của hành động". Việc Beck cảm thấy Tổng tham mưu trưởng Quân đội Brauchitsch đã làm cho mình thất vọng vào thời điểm có tính quyết định trong lịch sử nước Đức, dĩ nhiên là ông cũng cảm thấy cay đắng về chuyện này. Vài năm sau, người bạn của ông và cũng là người viết của ông nhận xét vị Tướng cảm thấy "chua chát sâu sắc" mỗi khi nói về người chỉ huy cũ của mình. Vào những lúc ấy, ông xúc động lắc đầu và thầm thì: "Brauchitsch đã bỏ rơi tôi" .

Trong vài tuần lễ, Hitler giữ kín tin tức về người kế nhiệm Beck trong chức vụ Tham mưu trưởng Lục quân. Đó là Franz Halder, 54 tuổi, thuộc dòng dõi một gia đình bang Bavaria có cha làm tướng. Ông này thăng tiến nhanh và trong năm ngoái còn là Tham mưu phó Lục quân dưới quyền Beck. Thật ra, chính Beck đề cử Halder với Brauchitsch vì biết người phụ tá sẽ chia sẻ quan điểm của mình .

Halder là người đầu tiên từ bang Bavaria và cũng là người Công giáo đầu tiên giữ chức Tham mưu trưởng Lục quân – một thay đổi quan trọng so với truyền thống lâu đời trong giới tướng lĩnh người Phổ đạo Tin Lành. Ông là người có kiến thức rộng, đặc biệt yêu thích toán học và thực vật (cảm tưởng đầu tiên của tôi về con người này là trông ông giống như một giáo sư đại học về lĩnh vực Toán hoặc Khoa học), đồng thời ông cũng là một con chiên Công giáo thuần thành, chắc chắn là ông có đầu óc và tinh thần để làm người kế nhiệm đích thực cho Beck. Vấn đề là liệu ông có giống như người tiền nhiệm: thiếu khéo léo khi đưa ra những hành động có tính chất quyết định vào thời điểm thích hợp hay không. Và nếu Halder không thiếu những phẩm chất đó, liệu vào thời điểm ấy ông có đủ cá tính để gạt ra ngoài lòng trung thành với Lãnh tụ và nhất quyết đi ngược lại hay không .

Sở dĩ như thế là vì, giống như Beck, tuy không tham gia nhưng ông có biết về một âm mưu chống lại Hitler và giống như Beck, ông sẵn lòng ủng hộ họ. Vị tân Tham mưu trưởng Lục quân trở thành nhân vật chủ chốt trong âm mưu nghiêm túc đầu tiên nhằm lật đổ nhà độc tài của Đế chế Thứ Ba .

BƯỚC KHỞI ĐẦU CỦA ÂM MƯU CHỐNG HITLER Giữa năm 1938, sau 5 năm rưỡi dưới chế độ Quốc xã, số ít người chống lại Hitler thấy rõ rằng chỉ Quân đội mới có đủ sức mạnh vật chất để lật đổ ông ta. Công nhân và các giai cấp trung lưu cùng thượng lưu đều không có phương tiện trong tay. Họ không có tổ chức bên ngoài các nhóm của Đảng Quốc xã và dĩ nhiên cũng không được trang bị vũ trang. Dù rằng về sau người ta viết nhiều về phong trào "kháng chiến" Đức, nhưng từ đầu đến cuối đây chỉ là một nhóm yếu ớt của một nhúm người can đảm tuy có tướng mà không có quân .

Ngay cả việc duy trì nhóm người như thế cũng đã là khó khăn trong một nhà nước cảnh sát cai trị bằng sự khủng bố và rình rập. Hơn nữa, làm thế nào nhóm nhỏ này – hoặc ngay cả nhóm lớn, nếu có – có khả năng nổi dậy mà chống lại súng máy, xe tăng hay súng phun lửa của lực lượng S.S.? Lúc đầu, sự chống đối là từ dân thường. Như ta đã thấy, các tướng lĩnh quá hài lòng với việc xoá bỏ những hạn chế của Hoà ước Versailles và với việc nhận nhiệm vụ tái vũ trang. Điều mỉa mai là những dân thường cầm đầu chống lại Hitler chính là những người đã từng phục vụ ông ta trong những chức vụ quan trọng. Phần lớn số này đã từng hăng say với chủ nghĩa Quốc xã và chỉ từ năm 1937 mới bắt đầu nhận ra rằng Hitler đang đẩy Đức vào cuộc chiến mà gần như chắc chắn Đức sẽ thua .

Một trong những người đầu tiên được sáng mắt là Carl Goerdeler, Thị trưởng Leipzig và Kế toán trưởng Vật giá trong Nội các Bruening rồi trong Nội các Hitler 3 năm sau đó. Có năng lực, nhiệt huyết, thông minh, kiên trì nhưng hay hớ hênh, ông từ chức cả 2 nơi vào năm 1936, rồi tiến hành chống đối Hitler với cả con tim và linh hồn. Một trong những hành động đầu tiên của ông trong năm 1937 là đi Pháp, Anh và Mỹ để bí mật cảnh báo về hiểm hoạ của Đức Quốc xã .

Hai người sáng mắt kế tiếp là Johannes Popitz, Bộ trưởng Tài chính của Phổ và Tiến sĩ Schacht. Cả 2 đều đã được thưởng huân chương cao quý nhất của Đức vì công lao đóng góp vào nền kinh tế cho mục đích chiến tranh. Có lẽ vì quá khứ và tư cách của họ mà 2 người không được thành phần cốt lõi của nhóm chống đối tin cậy .

Schacht là con người của chủ nghĩa cơ hội và Hassell đã nhận xét trong nhật ký của ông là Schacht "nói một đằng nhưng làm một nẻo" – ý kiến mà ông nghĩ các Tướng Beck và von Fritsch cũng đồng ý .

Riêng Popitz là người thông minh nhưng thiếu ổn định trong tư tưởng. Là một học giả tài ba về Hy Lạp cũng như là nhà kinh tế thành danh, ông gia nhập một nhóm trí thức gặp gỡ hàng tuần để bàn luận về Tâm lý học, Sử học, Nghệ thuật, Khoa học, Văn học, rồi theo thời gian tiến triển – hoặc thời gian không còn nữa – đã thành lập nên một trong những nhóm chống đối .

Ulrich von Hassell, cựu Đại sứ Đức ở Ý, trở thành một cố vấn ngoại giao cho các nhà lãnh đạo chống đối. Là người có văn hoá, ông khinh rẻ cung cách thô lỗ của Quốc xã, nhưng vẫn phục vụ chế độ cho đến khi bị khai trừ trong cuộc cải tổ sâu rộng của Hitler ngày 4 tháng 2 năm 1938. Giống như nhiều người khác, có vẻ như phải đợi đến khi có cú sốc do bị Quốc xã cách chức, ông mới nghĩ đến việc làm gì đấy để lật đổ họ. Một khi chuyện này xảy ra, con người nhạy cảm, thông minh, hay bứt rứt Hassell sẽ toàn tâm vào nhiệm vụ mới và cuối cùng hy sinh đời mình và phải chịu một cái chết dã man .

Có những người khác, ít được biết đến hơn và đa số là trẻ hơn, chống đối Hitler ngay từ đầu và dần dà kết hợp lại để tạo thành những nhóm khác nhau. Có trí thức, nhà lãnh đạo nghiệp đoàn và 2 sĩ quan Mật vụ: Artur Nebe, chỉ huy cảnh sát hình sự, và Bernd Gisevius – một sĩ quan cảnh sát chuyên nghiệp trẻ, trở thành những phụ tá đắc lực cho nhóm âm mưu. Gisevius đóng góp nhiều thông tin cho các công tố viên của Mỹ tại Toà án Nuremberg. Ông viết một cuốn sách đưa ra anh sáng nhiều chi tiết trong các âm mưu chống Hitler, tuy phần đông các sử gia và cả tôi nửa tin nửa ngờ .

Có một số người trẻ thuộc dòng dõi của những gia đình tiếng tăm ở Đức như: Bá tước Helmuth von Moltke – hậu duệ của một Thống chế lừng danh trong Thế chiến I, sau này lập nên Nhóm Kreisau, Bá tước Albrecht von Bernstorff – cháu của Đại sứ Đức tại Mỹ trong Thế chiến I, Freiherr Karl Ludwig von Gutenberf – một chủ bút không hề biết sợ của một nguyệt san Công giáo, Mục sư Dietrich Bonhoeffer – thuộc gia tộc giáo sĩ Tin Lành có tiếng tăm ở cả hai bên nội ngoại, người xem Hitler là kẻ phản Chúa, tin rằng nhiệm vụ của người theo Cơ Đốc là phải trừ khử ông .

Phần lớn những người trẻ dũng cảm này đều kiên trì cho đến khi bị Quốc xã bắt giam, tra tấn rồi xử tử hoặc bị S.S. giết hại .

Trong một thời gian dài, những nhóm dân thường nhỏ nhoi như thế không thể dẫn dụ Quân đội vào mưu đồ của họ. Như Thống chế von Blomberg khai trước Toà án Nuremberg: "Trước năm 1938 và 1939, các tướng lĩnh Đức không chống lại Hitler. Mà cũng chẳng có lý do gì để chống lại ông ta, vì ông tạo ra thành quả mà họ mong ước" .

Nhóm trí thức tiếp xúc với Đại tá Hans Oster, phụ tá chính cho Đô đốc Canaris ở Cục Quân báo và thấy vị sĩ quan này không những có tinh thần chống Hitler mãnh liệt, mà còn sẵn sàng làm cầu nối giữa 2 giới Quân đội và dân sự. Tuy nhiên, mãi đến mùa đông năm 1937-1938, tức sau khi Hitler quyết định gây chiến tranh, thanh trừng tướng lĩnh và đích thân nắm quyền tổng tư lệnh, đối xử tệ hại với tướng Fritsch, thì vài tướng lĩnh mới nhận ra hiểm hoạ của nhà độc tài Quốc xã đối với nước Đức. Việc Tướng Beck từ chức vào cuối tháng 8 năm 1938 khiến có thêm một số người thức tỉnh. Vị cựu Tham mưu trưởng Lục quân hiển nhiên là người có thể tụ hội cả những tướng lĩnh ương ngạnh lẫn giới dân sự bất mãn. Cả 2 nhóm đều kính trọng và tin tưởng ông .

Cả 2 nhóm cũng phải xét thêm một điểm nữa. Để lật đổ Hitler, cần phải dùng vũ lực và chỉ Quân đội mới có vũ khí. Nhưng ai trong Quân đội có thể gom vũ lực lại cho họ? Họ nhận ra là cần có tướng lĩnh thật sự cầm quân trong và xung quanh thủ đô, đồng thời có thể hành động ngay khi được cấp báo. Tướng Halder, tân Tham mưu trưởng Lục quân, không có quân dưới tay, còn Tướng Brauchitsch có cả Lục quân, nhưng không được tin cậy .

Vài tướng lĩnh chủ chốt sẵn sàng cộng tác. Ba người trong số họ có vị thế quan trọng để mang lại thành công: Tướng Erwin von Witzbelen, Tư lệnh quân khu Berlin và vùng phụ cận, Tướng Bá tước Erich von Brockdorff-Ahlefeld, chỉ huy doanh trại Potsdam gồm Sư đoàn 23 và Tướng Erich Hoepner, Tư lệnh một sư đoàn thiết giáp ở Thuringia .

Kế hoạch của nhóm phản loạn là bắt giữ Hitler ngay khi ông ta ra lệnh tấn công Tiệp Khắc, sau đó giải ông ta ra trước Toà án Nhân dân với cáo buộc rằng đã đẩy nước Đức vào hiểm hoạ chiến tranh châu Âu và đó chính là không có năng lực lãnh đạo. Thời gian đầu sẽ là chế độ độc tài quân sự, kế tiếp là Chính phủ lâm thời do một nhân vật được trọng vọng đứng đầu. Sau đó sẽ thành lập Chính phủ dân chủ bảo thủ .

Để đảm bảo thành công, có 2 yếu tố cần xem xét liên quan đến 2 nhân vật chủ chốt: Tướng Halder và Tướng Beck. Yếu tố đầu là thời gian. Halder đã dàn xếp với Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực là thông báo cho ông trước 48 giờ khi Hitler ra lệnh tấn công Tiệp Khắc. Ông sẽ có đủ thời giờ thực hiện cuộc đảo chính trước khi Quân đội vượt biên giới Tiệp Khắc. Vì thế, ông sẽ có thể bắt giữ Hitler và ngăn chặn bước cuối cùng dẫn đến chiến tranh .

Yếu tố thứ hai là Beck phải có khả năng thuyết phục tướng lĩnh trước và dân Đức rằng tấn công Tiệp Khắc sẽ gây ra chiến tranh châu Âu mà Đức chắc chắn sẽ bại trận. Đây là chủ đề của các bản ghi nhớ của ông suốt mùa hè và là cơ sở cho tất cả những gì ông chuẩn bị làm bây giờ: tránh cho Quốc xã sa vào cuộc xung đột ở châu Âu – bằng cách lật đổ Hitler .

Thương thay cho Beck và cho phần lớn thế giới, chính là Hitler chứ không phải cựu Tham mưu trưởng Lục quân lại có cái nhìn khôn ngoan hơn về những khả năng của cuộc đại chiến. Một người có văn hoá và có ý thức về lịch sử như Beck không thể nghĩ ra rằng Anh và Pháp lại cố tình hy sinh quyền lợi của họ bằng cách không can thiệp nếu Đức tấn công Tiệp Khắc. Ông có ý thức về lịch sử nhưng không biết gì về những chính sách đương đại. Hitler thì biết rõ. Trong một thời gian Hitler, đã biết rằng Anh thà hy sinh Tiệp Khắc còn hơn là tham gia chiến tranh và như thế Pháp cũng không muốn giúp Tiệp Khắc .

Từ tháng 5 năm 1938, báo chí ở New York tường thuật lời Thủ tướng Anh nói rằng cả Anh, Pháp và có lẽ cả Liên Xô sẽ không giúp Tiệp Khắc trong trường hợp Đức tấn công, rằng đất nước Tiệp Khắc không thể tồn tại trong thể thức hiện giờ và rằng do lợi ích của hoà bình, Anh nghiêng về việc giao Sudetenland cho Đức. Phía Đức nhận ra rằng cho dù có những câu hỏi tức giận ở Viện Dân biểu, nhưng Chamberlain cũng không phủ nhận các bản tin của báo chí Mỹ .

Ngày 1 tháng 6 năm 1938, Thủ tướng Anh phát biểu riêng tư với các nhà báo Anh, rồi 2 ngày sau tờ Times đăng bài báo khiến cho vị thế của Tiệp Khắc bị lung lay: Thúc giục Chính phủ giao "quyền tự quyết" cho các dân tộc thiểu số "ngay cả nếu việc này có nghĩa họ tách ra khỏi Tiệp Khắc" và lần đầu tiên đề xuất về trưng cầu dân ý, nhằm xác định ý muốn của người Sudeten và những cộng đồng khác .

Ngày 8 tháng 6, Đại sứ von Dirksen báo cáo Chính phủ Chamberlain chấp nhận Sudetenland tách ra khỏi Tiệp Khắc, miễn là có một cuộc trưng cầu dân ý lấy quyết định việc này và "không bị cản trở bởi hành động áp bức từ Đức" .

Hitler hẳn phải mãn nguyện khi nghe những tin này. Tin tức từ Moscow cũng không tệ. Vào cuối tháng 6 năm 1938, Đại sứ Đức tại Liên Xô báo cáo về rằng Liên Xô "khó có thể tiến quân để bảo vệ cho một nước tiểu tư sản", tức Tiệp Khắc. Ngày 3 tháng 8, Ribbentrop thông báo cho các phái bộ ngoại giao Đức ở nước ngoài rằng không nên lo ngại Anh, Pháp và Liên Xô sẽ can thiệp vào Tiệp Khắc .

Cùng ngày, Chamberlain phái Lord Runciman đến Tiệp Khắc để làm "trung gian" trong cuộc khủng hoảng Sudeten. Vị Thủ tướng Anh nói mục đích của Runciman là "đáp ứng yêu cầu của Chính phủ Tiệp Khắc". Nhưng sự thật là Runciman đã gây áp lực lên Tiệp Khắc .

Nhưng còn có cả những điều dối trá lớn hơn. Mọi người – kể cả Chamberlain – đều biết rằng chuyến đi của Runciman làm "trung gian" giữa Chính phủ Tiệp Khắc và các nhà lãnh đạo Sudeten là vô lý và không thể đạt được gì cả. Họ biết rằng Henlein, nhà lãnh đạo Sudeten, không có quyền tự do thương thuyết và rằng vấn đề hiện tại phải là giữa Tiệp Khắc và Đức. Người Tiệp Khắc hiểu rõ rằng Runciman đến chỉ để dọn đường cho việc bàn giao Sudetenland cho Hitler .

Và bây giờ, khi mùa hè 1938 gần chấm dứt, Runciman lăng xăng qua lại giữa Sudetenland và Prague, càng ngày càng tỏ ra thân thiện với người Đức Sudeten và càng đòi hỏi Chính phủ Tiệp Khắc phải nhượng bộ thêm. Hitler, các tướng lĩnh và Ngoại trưởng đang tất bật. Ngày 23 tháng 8, trên thương thuyền Patria trong cuộc tập trận hải quân, Hitler tiếp đãi Phụ chính của Hungary, Đô đốc Horthy và các thành viên của Chính phủ Hungary. Hitler bảo họ phải nhanh chân lên. Ông nói: "Muốn ăn phải lăn vào bếp". Đại sứ Ý, Bernardo Attolico, cũng là khách trên thuyền. Nhưng khi ông cố hỏi Ribbentrop về ngày "Đức hành động chống Tiệp Khắc" để Mussolini có thể chuẩn bị, Ribbentrop lại tránh né trả lời. Hiển nhiên là Đức không tin Đồng minh Ý của họ sẽ giữ kín tin tức .

Về phía Ba Lan thì lúc ấy đã là chắc chắn. Cả mùa hè, Đại sứ Đức von Moltke tại Ba Lan báo cáo về Berlin rằng Ba Lan không những sẽ không giúp Tiệp Khắc nên sẽ không cho Liên Xô gửi quân đi qua lãnh thổ Ba Lan, mà còn dòm ngó phần lãnh thổ của Tiệp Khắc, vùng Teschen. Beck đã thể hiện tính thiển cận vốn được chia sẻ rộng rãi ở châu Âu vào mùa hè năm ấy, để rồi cuối cùng gây tai hoạ lớn hơn cả những gì ông có thể mường tượng .

Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực (OKW) cũng như Bộ Tư lệnh Lục quân (OKH) đang tất bật soạn thảo những kế hoạch cuối cùng để sẵn sàng tấn công Tiệp Khắc vào ngày 1 tháng 10 năm 1938. Đức sẽ tạo nên một "sự cố" để lấy đó làm lý do khiêu khích khiến cho Đức phải can thiệp bằng quân sự. Đại tá Jodl ở Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực gửi một bản ghi nhớ khẩn cho Hitler nhấn mạnh rằng sau khi sự cố xảy ra, không nên tấn công ngay vào ngày hôm sau, mà phải chờ thêm một ngày nữa ("Ngày X"), để tránh vẻ bề ngoài giống như Đức ngụy tạo sự cố... "Không được có động thái sớm trước ngày X trừ 1, bởi vì sẽ không có cách biện minh thoả đáng, như thế sẽ giống như ta đang cố tình ngụy tạo sự cố... Nếu vì lý do kỹ thuật mà xem xét giờ buổi tối cho sự cố, thì ngày hôm sau không thể là X, nhưng là ngày sau nữa... Mục đích của bản ghi nhớ này là nhằm vạch ra lợi ích to tát của Quân đội trong sự cố, đồng thời Quân đội phải được thông tin về ý định của Lãnh tụ vào thời điểm thích hợp..." Vào cuối mùa hè, hiển nhiên là các bước chuẩn bị đã xong cho cuộc tấn công Tiệp Khắc. Nhưng ở phía Tây, liệu Pháp có giữ cam kết với Tiệp Khắc mà tấn công Đức hay không? Ngày 26 tháng 8, Hitler đi kinh lý các lô cốt phía Tây, được tháp tùng bởi Jodl, Tiến sĩ Todt – kỹ sư xây dựng Bức tường Tây, Himmler và một số viên chức của Đảng. Tướng William Adam, người gốc Bavaria, có năng lực và thẳng thắn, tháp tùng phái đoàn và nhận ra Lãnh tụ đang say men chiến thắng do những cuộc đón tiếp long trọng của người Rhineland .

Bản thân Adam không thấy có ấn tượng gì, ngược lại, ông thấy lo lắng. Ngày 29 tháng 8, ông bỗng nhiên yêu cầu được nói chuyện riêng với Lãnh tụ. Hitler lập tức ra lệnh Himmler và các phụ tá trong Đảng lánh mặt. Adam không hề uổng phí ngôn từ. Ông cho rằng dù có bao nhiêu sự phô trương về Bức tường Tây, nhưng ông vẫn không thể giữ vững với số quân hiện có. Hitler trở nên cuồng loạn và dông dài nói về việc làm thế nào mình đã biến Đức mạnh hơn Anh và Pháp cộng lại .

Hitler lớn tiếng: "Ai không giữ vững các lô cốt này thì tên đó là đồ khốn kiếp!" Các tướng lĩnh khác cũng có ý nghĩ e ngại về phía Tây .

Ngày 3 tháng 9, Hitler triệu tập Keitel (Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực) và Brauchitsch (Tư lệnh Lục quân) đến Berghof. Các đơn vị chiến trường phải đi đến các vị trí dọc biên giới Tiệp Khắc vào ngày 28 tháng 9. Nhưng vào giữa trưa 27 tháng 9, Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực phải biết ngày X là ngày nào. Ít nhất Brauchitsch – vì Keitel quá hèn yếu nên không dám phát biểu – đã nêu lên vấn đề làm thế nào trụ vững ở phía Tây. Hitler nói dối là đã ra lệnh đẩy nhanh tiến độ gia cố các lô cốt phía Tây .

Ngày 8 tháng 9, Tướng Heinrich von Stuelpnagel gặp Jodl. Cả 2 thấy rõ rằng Hitler nhất định xâm lăng Tiệp Khắc, mặc cho Pháp sẽ can thiệp hay không. Dù là người lạc quan, nhưng chính Jodl đã ghi lại: "Phải thú nhận là tôi cũng lo lắng" .

Ngày hôm sau, Hitler triệu Keitel, Brauchitsch và Halder đến Nuremberg để dự một buổi họp sóng gió bắt đầu lúc 10 giờ tối và kéo dài đến 4 giờ sáng hôm sau. Halder thấy mình ở trong hoàn cảnh khó xử: Là người chủ chốt trong âm mưu lật đổ Hitler ngay khi có lệnh tấn công, bây giờ ông phải giải thích chi tiết kế hoạch của Bộ Tư lệnh Lục quân về chiến dịch ở Tiệp Khắc. Hitler còn xé nát bản kế hoạch và la mắng cả ông cùng Brauchitsch vì thái độ nhút nhát và thiếu năng lực quân sự. Keitel cảm thấy rúng động vì diễn tiến của buổi họp và vì bằng cớ của "tư tưởng chủ bại" ngay trong cấp chỉ huy quân sự .

Jodl ghi vào nhật ký: "Có lời tố cáo với Lãnh tụ về tư tưởng chủ bại trong Bộ Tư lệnh Lục quân... Keitel tuyên bố rằng ông sẽ không dung thứ bất kỳ sĩ quan nào của OKW có ý phê phán, tư tưởng dao động và chủ bại... Lãnh tụ biết rằng Tư lệnh Lục quân [Brauchitsch] đã yêu cầu các tướng chỉ huy dưới quyền ủng hộ ông ta để cảnh giác Lãnh tụ về cuộc phiêu lưu... Chính ông [Brauchitsch] đã không còn có ảnh hưởng đối với Lãnh tụ nữa .

Vì thế bầu không khí ở Nuremberg trở nên tẻ lạnh và điều không may là Lãnh tụ có cả dân tộc đứng phía sau ông, nhưng các tướng lĩnh hàng đầu của Quân đội thì không." Vị tướng trẻ Jodl cảm thấy rất buồn phiền vì tất cả chuyện này và hoàn toàn ủng hộ Hitler .

"Chỉ qua hành động, [các tướng lĩnh này] mới có thể cứu vãn điều tai hại mà họ gây ra vì việc thiếu ý chí và không tuân lệnh. Vấn nạn giống như trong năm 1914. Chỉ có một ví dụ về sự bất tuân trong Quân đội, đó là của các tướng lĩnh, xuất phát từ thái độ tự phụ của họ. Họ không còn tin tưởng và không còn tuân lệnh vì họ không nhận ra thiên tài của Lãnh tụ. Nhiều người vẫn còn xem ông ấy là một hạ sĩ trong Thế chiến I, chứ không phải là một chính khách vĩ đại nhất kể từ Bismarck." Khi nói chuyện với Jodl vào ngày 8 tháng 9, Tướng von Stuelpnagel, thuộc Tổng cục Hậu cần của Bộ Tư lệnh Lục quân và cũng tham gia vào nhóm âm mưu đảo chính của Halder, yêu cầu Chỉ huy Tối cao Quân lực báo trước cho Bộ Tư lệnh Lục quân 5 ngày về lệnh của Hitler tấn công qua Tiệp Khắc. Jodl trả lời rằng vì lý do thời tiết thất thường, nên chỉ có thể đảm bảo báo trước 2 ngày. Và như thế đã là quá đủ cho nhóm âm mưu .

Nhưng họ vẫn cần sự đảm bảo theo phương diện khác nữa: Liệu giả định của họ là Anh và Pháp sẽ gây chiến với Đức nếu Đức tấn công Tiệp Khắc có đúng hay không. Họ phái nhân viên thân tín đi London không những để tìm hiểu Chính phủ Anh sẽ làm gì, thậm chí còn gây ảnh hưởng lên phía Anh bằng cách cho biết nếu Hitler quyết định tấn công, thì Bộ Tư lệnh Lục quân sẽ biết ngày và sẽ có hành động quyết liệt, nếu Anh chịu cứng rắn với Hitler cho đến cùng .

Đặc sứ đầu tiên của nhóm âm mưu là Ewald von Kleist, do Đại tá Oster thuộc Quân báo cử đi Anh ngày 18 tháng 8. Đại sứ Henderson của Anh tại Đức, người đã thuận chiều theo bất kỳ yêu sách nào của Hitler, khuyên Bộ Ngoại giao Anh rằng không nên tiếp Kleist theo cách chính thức. Trong một buổi chiêu đãi thân mật trước đó, Henderson đã nói với những người Đức hiện diện rằng "Anh quốc sẽ không nghĩ đến việc hy sinh ngay cả một thuỷ thủ hoặc một phi công cho Tiệp Khắc và sẽ thoả thuận bất kỳ giải pháp hợp lý nào, miễn là không phải dùng đến vũ lực." Tuy thế, Robert Vansittart, cố vấn cho Bộ Ngoại giao và Winston Churchill, lúc này chưa nổi danh, chịu tiếp kiến Kleist ngay vào buổi chiều ông này vừa đến. Với cả 2 người, Kleist khẳng định các tướng lĩnh chống đối sẽ có hành động. Nếu Anh và Pháp tuyên bố rằng họ sẽ không ngồi yên và nếu có một chính khách nổi tiếng của Anh gửi lời cảnh cáo cho Hitler, thì tướng lĩnh Đức sẽ hành động để ngăn cản Hitler .

Churchill trao cho Kleist một bức thư dứt khoát để mang về Đức với nội dung nêu rõ sự hỗ trợ về mặt tinh thần cho nhóm âm mưu đảo chính .

"Tôi tin chắc rằng việc bộ binh hoặc không quân Đức vượt qua biên giới Tiệp Khắc sẽ dẫn đến Chiến tranh Thế giới lần nữa. Tôi tin chắc cũng như tôi đã tin vào cuối tháng 7 năm 1914, rằng nước Anh sẽ hành quân cùng với Pháp... Tôi xin các ông đừng hiểu sai về điểm này..." Kleist trình bức thư của Churchill cho Beck, Halder, Hammerstein, Canaris, Oster và những người khác trong âm mưu đảo chính. Kleist giấu bức thư trong ngôi nhà miền quê của ông ở Schmenzin. Mật vụ tìm ra bức thư này sau âm mưu ám sát Hitler ngày 20 tháng 7 năm 1944, khiến cho Kleist bị hành quyết ngày 15 tháng 4 năm 1945. Thật ra, nhà cầm quyền Đức đã biết, về nội dung bức thư này sớm hơn là nhóm âm mưu nghĩ. Tôi tìm ra điều này trong một bản ghi nhớ của Bộ Ngoại giao không ghi ngày, nhưng được biết là đệ trình ngày 6 tháng 8 năm 1938. Văn bản ghi: "Trích từ một bức thư của Winston Churchill gửi một người Đức thân tín." Vansittart thấy lời cảnh báo của Kleist là đủ nghiêm trọng nên báo cáo về việc này cho cả Thủ tướng Anh và Ngoại trưởng Anh. Chamberlain viết cho Lord Halifax, nói ông không tin lời của Kleist và bổ sung rằng: "Tôi không nghĩ chúng ta nên làm gì." Ông chỉ thị Đại sứ Henderson của Anh tại Đức làm 2 việc: một là chuyển một lời cảnh cáo nghiêm chỉnh đến Hitler và thứ hai là bí mật chuẩn bị một cuộc "tiếp xúc cá nhân" giữa 2 vị Thủ tướng. Henderson thuyết phục Chamberlain bãi bỏ chỉ thị thứ nhất, nhưng lại vui lòng thực hiện chỉ thị thứ hai. Đó là bước đầu tiên đi đến Hiệp ước Munich và là chiến thắng không đổ máu quan trọng cho Hitler .

Không biết gì về việc Chamberlain thay đổi thái độ, nhóm âm mưu ở Berlin cố gắng thêm lần nữa để cảnh báo Chính phủ Anh. Ngày 21 tháng 8, họ gửi một nhân viên đến thông báo cho Tùy viên quân sự Anh ở Berlin về ý định của Hitler tiến công Tiệp Khắc vào cuối tháng Chín: "Nếu nước ngoài có hành động kiên quyết khiến cho Hitler phải bãi bỏ ý định vào giờ chót, ông ấy sẽ bị lật đổ. Tương tự, nếu chiến tranh xảy ra, việc can thiệp tức thời của Anh và Pháp sẽ khiến cho chế độ sụp đổ." Nevile Henderson chuyển lời cảnh báo về London, nhưng nhận xét thêm "rõ ràng là thiên vị và chủ yếu là tuyên truyền" .

Tướng Halder có cảm tưởng là phía Anh chưa thấu hiểu thông điệp mà nhóm âm mưu đưa đến, nên ngày 2 tháng 9 ông phái một sĩ quan quân đội về hưu, Trung tá Hans Boehm-Tettelbach, đến London để tiếp xúc với Bộ Chiến tranh và Cục Quân báo Anh. Ông này cho biết có gặp vài nhân vật quan trọng nhưng không gây ấn tượng mạnh cho họ .

Trong nỗ lực cuối cùng, nhóm âm mưu sử dụng Bộ Ngoại giao Đức và Đại sứ quán Đức ở London để khuyến dụ phía Anh nên cứng rắn. Đại biện lâm thời Theodor Kordt tại Đại sứ quán Đức được cử làm nhiệm vụ. Ông bí mật gặp Ngoại trưởng Halifax ngày 5 tháng 9 và thông báo rằng Hitler đang trù định tổng động viên ngày 16 tháng 9 và tấn công Tiệp Khắc muộn nhất là ngày 1 tháng 10, rằng Quân đội Đức sẵn sàng chống đối Hitler vào thời điểm ban bố lệnh tấn công và rằng nếu Anh và Pháp cứng rắn, thì cuộc đảo chính sẽ thành công. Ông cũng cảnh báo Lord Halifax rằng bài diễn văn của Hitler khi bế mạc Đại hội Đảng ngày 12 tháng 9 ở Nuremberg sẽ như là quả bom tấn và có thể khơi mào cho cuộc đối đầu với Tiệp Khắc, đồng thời đó cũng là thời điểm để Anh đứng lên đối phó với nhà độc tài .

Dù đã tiếp xúc thường xuyên với phía Anh và thẳng thắn với Ngoại trưởng Anh, Kordt vẫn không biết gì về ý định rõ ràng của Chính phủ Anh. Nhưng ông biết rõ hơn vào ngày 7 tháng 9, khi tờ Times ở London đăng một bài xã luận nổi tiếng cho rằng mọi việc có thể có lợi cho Chính phủ Tiệp Khắc nếu họ nhượng mảnh đất Sudetenland cho Đức... Như thế, "những lợi điểm đối với Tiệp Khắc khi trở thành một quốc gia thuần nhất sẽ có giá trị hơn là những bất lợi do mất đi huyện Sudetenland thuộc vùng biên giới." Bài xã luận không nhắc gì đến yếu tố hiển nhiên là khi nhượng Sudetenland cho Đức, Tiệp Khắc sẽ mất đi vùng núi bảo vệ Bohemia và hệ thống lô cốt của họ, khiến cho họ không còn có thể phòng vệ chống Đức được nữa .

Mặc dù Bộ Ngoại giao Anh vội xác minh rằng bài xã luận trên tờ Times không thể hiện quan điểm của Chính phủ Anh, nhưng ngày hôm sau Kordt điện về Berlin rằng bài báo có thể "xuất phát từ một đề nghị do nhân viên của Thủ tướng đưa đến Ban Biên tập của tờ Times" .

Trong những năm đầy biến động này, khó mà nhớ đến tình trạng căng thẳng đen tối ở các thủ đô châu Âu trong khi Đại hội Đảng Quốc xã Nuremberg diễn ra, khai mạc ngày 6 tháng 9 và lên đến đỉnh điểm ngày 12 tháng 9. Vào ngày này, Hitler dự kiến đọc diễn văn bế mạc và tuyên cáo với thế giới về quyết định cuối cùng của mình: chiến tranh hay hoà bình với Tiệp Khắc. Trong tuần lễ này tôi đang ở tại Prague, tâm điểm của cuộc khủng hoảng. Điều kỳ lạ là có vẻ như thủ đô Tiệp Khắc rất yên bình – ít nhất là bề ngoài – cho dù bạo lực từ phía người Đức ở Sundetenland, đe doạ từ Berlin, sức ép của các Chính phủ Anh và Pháp đòi nhượng bộ và nỗi e sợ họ có thể bỏ rơi Tiệp Khắc .

Ngày 5 tháng 9 năm 1938, Tổng thống Tiệp Khắc Beneš nhận ra cần có bước quyết định để cứu vãn hoà bình, nên mời 2 nhà lãnh đạo của Sudeten đến và bảo họ viết ra giấy tất cả yêu sách. Dù là yêu sách gì, ông sẽ chấp nhận hết. Ngày hôm sau, một nhà lãnh đạo Sudeten thốt lên: "Chúa ơi, họ đã cho chúng ta mọi thứ!" Nhưng các nhà lãnh đạo Sudeten và sếp của họ ở Berlin không muốn chấp nhận .

Ngày 7 tháng 9, theo lệnh từ Đức, Henlein ngừng mọi việc đàm phán với Chính phủ Tiệp Khắc và viện cớ một cách yếu ớt về hành động thái quá của cảnh sát Tiệp Khắc .

Ngày 10 tháng 9, Goering đọc một bài diễn văn hiếu chiến trong Đại hội Đảng Nuremberg nhằm công kích Tiệp Khắc. Nhưng bài diễn văn của Beneš cùng ngày lại không đả động đến thái độ của Goering, lời lẽ của ông ôn hoà, có tự trọng, kêu gọi bình tĩnh, thiện chí và tin cậy lẫn nhau .

Tuy thế, dưới vẻ bề ngoài, người Tiệp cũng đang căng thẳng. Tôi ngẫu nhiên gặp Tiến sĩ Beneš trong tiền sảnh của Đài Phát thanh sau bài diễn văn của ông và nhận thấy sự nghiêm trọng, ông có vẻ hiểu rõ tình cảnh khốn cùng của mình. Nhà ga tàu hoả và sân bay đầy người Do Thái chen chúc nhau tìm phương tiện đi đến nơi an toàn hơn. Công chúng nhận mặt nạ chống hơi độc. Tin từ Paris cho biết Chính phủ Pháp bắt đầu hốt hoảng vì viễn cảnh của chiến tranh, còn tin từ Anh cho biết Chamberlain đang cố đáp ứng những yêu sách của Hitler – dĩ nhiên là với phần thiệt sẽ thuộc về Tiệp Khắc .

Và thế là cả Châu Âu ngóng chờ tiếng nói của Hitler ngày 12 tháng 9 từ Nuremberg. Hitler phát biểu trước một đám đông Quốc xã cuồng tín đầy một sân vận động khổng lồ vào ngày bế mạc Đại hội Đảng. Dù đầy tính bạo lực, khoa trương và phun nọc độc về Tiệp Khắc và đặc biệt Tổng thống Tiệp Khắc, bài diễn văn không phải là lời tuyên chiến. Ông để dành việc này về sau – ít nhất là công khai, vì như ta được biết từ tài liệu của Đức tịch thu được, Hitler đã định ngày 1 tháng 10 năm 1938 để tấn công Tiệp Khắc. Lúc này, Hitler chỉ đòi hỏi Chính phủ Tiệp Khắc tạo "bình đẳng" cho người Đức Sudeten. Nếu không, Đức sẽ có biện pháp để đạt được điều đó .

Ngôn từ của Hitler gây xao động đáng kể. Ở Sudetenland, một cuộc nổi loạn xảy ra. Sau 2 ngày xô xát cuồng loạn, Chính phủ Tiệp Khắc kiểm soát được tình hình bằng cách đưa quân đội đến và ra lệnh thiết quân luật. Henlein lẻn qua biên giới đến Đức, tuyên bố rằng giải pháp duy nhất bây giờ là nhượng vùng Sudetenland cho Đức .

Đó là giải pháp mà ta đã biết Anh đang ủng hộ, nhưng cần đạt sự thoả thuận của Pháp trước khi thúc đẩy thêm. Một ngày sau bài diễn văn của Hitler, Nội các Pháp họp suốt một ngày, vẫn chia rẽ nhau về việc liệu có nên tôn trọng nghĩa vụ giúp Tiệp Khắc trong trường hợp Đức tấn công mà họ biết sắp diễn ra hay không. Thủ tướng Daladier kêu gọi Chamberlain cố thương thuyết với Hitler .

Có thể đoán ra rằng Chamberlain cũng không cần sự thúc giục này. Lúc 11 giờ tối hôm ấy, ông gửi điện khẩn cho Hitler: "Xét qua tình hình càng lúc càng khẩn trương, tôi sẽ đến gặp ông để cố gắng tìm một giải pháp hoà bình. Tôi đề nghị đi bằng máy bay và sẵn sàng lên đường vào ngày mai .

Xin cho biết thời gian sớm nhất ông có thể gặp tôi và xin đề nghị nơi chốn gặp gỡ .

Tôi sẽ rất cảm ơn nếu sớm nhận được phúc đáp" .

Hai tiếng đồng hồ trước đó, Đại biện lâm thời Đức tại London, Theodor Kordt, đã gửi điện cho Berlin báo tin tuỳ viên báo chí của Chamberlain cho mình biết rằng Thủ tướng đã "sẵn sàng xem xét những đề xuất sâu rộng của Đức, kể cả trưng cầu dân ý, tham gia vào việc thực hiện và quảng bá những đề xuất ấy" .

CHAMBERLAIN TẠI BERCHTESGADEN: 15 THÁNG 9, 1938 Hitler đã kêu lên "Ôi Trời" khi đọc thông báo của Chamberlain. Ông vô cùng kinh ngạc nhưng cũng quá đỗi vui sướng khi biết người nắm vận mệnh của Đế quốc Anh hùng mạnh sẽ đi đến kêu nài với mình, đồng thời cũng cảm thấy hãnh diện rằng một người đã 69 tuổi và chưa từng đi máy bay lại đi chuyến bay dài 7 tiếng đồng hồ để đến Berchtesgaden, phần xa nhất của nước Đức. Hitler đã không màng chiếu cố để đề nghị nơi gặp gỡ bên sông Rhine, vốn có thể giảm đường bay còn một nửa. Hitler tin chắc chuyến đi của Chamberlain đã cộng thêm sự đảm bảo rằng Anh và Pháp sẽ không can thiệp – như ông vẫn tin tưởng từ lâu .

Lúc đầu vẫn có một chút va chạm về ngoại giao, dù Hitler theo thói quen huyên thuyên phần lớn thời gian. Chamberlain đáp xuống sân bay Munich ngày 15 tháng 9 năm 1938, một chiếc ô tô mui trần đưa ông đến nhà ga, rồi ông đi trên một chuyến tàu đặc biệt mất 3 giờ để tới Berchtesgaden. Ông thấy từng toa xe tiếp nối chở đầy binh sĩ Đức và pháo trên đường ray đối diện. Hitler không ra đón ông tại Berchtesgaden, mà đứng chờ ở những bậc thềm trên cùng của biệt thự Berghof. Lúc đó là 4 giờ chiều và Chamberlain đã phải di chuyển từ sáng sớm .

Sau khi dùng trà, Hitler và Chamberlain bước lên phòng đọc sách của Hitler trên tầng 2, cũng chính là nơi Hitler tiếp Schuschnigg vào 7 tháng trước. Theo yêu cầu của Đại sứ Henderson, Ribbentrop không được dự cuộc thảo luận. Vị Ngoại trưởng vốn có tính phù phiếm trở nên bực tức đến nỗi ngày hôm sau ông từ chối trao cho Chamberlain giấy ghi chép của Tiến sĩ Schmidt, thông dịch viên phía Đức – một hành động thiếu lịch sự. Vì thế, Chamberlain buộc phải dựa vào trí nhớ [để kể] về những gì ông và Hitler đã trao đổi .

Giống như mỗi khi phát biểu, Hitler bắt đầu với lời lẽ dông dài về những gì mình đã làm cho dân tộc Đức, cho hoà bình, cho mối quan hệ Anh-Đức. Thế nhưng hiện tại có một vấn nạn mà ông chủ định giải quyết "bằng cách này hoặc cách khác". Người Đức Sudeten lúc trước thuộc về Áo, chưa bao giờ thuộc Đức. 3 triệu người Đức ở Tiệp Khắc phải "trở về" Đế chế. Cả trong buổi gặp gỡ này với Hitler và trong báo cáo với Nghị viện, Chamberlain, với vốn kiến thức về lịch sử Đức không có vẻ sâu lắm, chấp nhận việc sử dụng sai lạc từ ngữ "trở về" .

Schmidt ghi lại lời của Hitler trong biên bản chính thức: "Ông ấy không muốn có bất cứ sự nghi ngờ nào về quyết tâm của mình rằng sẽ không dung thứ cho một nước nhỏ, hạng hai xem thường Đế chế Đức nghìn năm hùng mạnh... Ông đã 49 tuổi và nếu nước Đức phải can dự vào chiến tranh thế giới vì vấn đề Tiệp Khắc, ông muốn dẫn dắt đất nước ông với tất cả sức mạnh của con người... Dĩ nhiên là ông lấy làm tiếc nếu chiến tranh thế giới bùng nổ do vấn đề này. Tuy nhiên, nguy cơ ấy không thể khiến cho ông thiếu quyết tâm... Vì chuyện này, ông sẽ đối diện với bất kỳ cuộc chiến tranh nào, ngay cả chiến tranh thế giới. Ông sẽ không nhường dù một bước" .

Là người cực kỳ nhẫn nại, Chamberlain khó chen vào được câu nào, nhưng có giới hạn. Đến đây, ông ngắt lời để hỏi: "Nếu Lãnh tụ nhất định giải quyết vấn đề này bằng vũ lực mà không chờ 2 bên thảo luận, thế thì tại sao để cho tôi đến đây? Tôi đã uổng phí thời giờ của mình" .

Nhà độc tài không có thói quen bị ngắt lời – cho đến lúc này chưa từng có người Đức nào dám ngắt lời ông ta – vì thế câu trả đũa của Chamberlain dường như có hiệu quả. Hitler dịu xuống, ông nghĩ họ có thể "đi vào vấn đề liệu có thể đạt một thoả thuận hoà bình được không". Và rồi ông đi ngay vào đòi hỏi: "Nước Anh đồng ý với việc nhượng vùng Sudetenland hay không đồng ý?... Nhượng trên cơ sở quyền tự quyết chứ?" Chamberlain không bị sốc vì đề nghị này. Thật ra, ông bày tỏ sự hài lòng vì họ "cuối cùng đã đi đến cốt lõi của vấn đề". Theo lời Chamberlain, từ trí nhớ của mình, ông trả lời rằng ông không thể tự mình quyết định, mà phải tham khảo Nội các của ông và người Pháp. Theo Schmidt, nội dung được ghi tốc ký trong khi thông dịch, Chamberlain nói như trên và bổ sung: "Cá nhân ông ấy có thể nói ông công nhận nguyên tắc của việc tách ra vùng Sudetenland... Ông muốn trở về Anh để báo cáo với Chính phủ và xin họ chấp thuận quan điểm của cá nhân mình" .

Từ thái độ đầu hàng này tại Berchtesgaden, mọi chuyện khác sẽ tiếp diễn .

Hiển nhiên là phía Đức không hề ngạc nhiên. Đúng vào lúc diễn ra cuộc hội đàm tại Berchtesgaden, Henlein đang thảo một bức thư mật cho Hitler, đề ngày 15 tháng 9, ngay trước khi ông lẻn chạy về Đức: "Lãnh tụ của tôi, Tôi đã thông báo với phái bộ Anh [Runciman] ngày hôm qua rằng cơ bản cho vòng đàm phán kế tiếp chỉ có thể... là sự hợp nhất với Đế chế .

Có lẽ Chamberlain sẽ đề xuất sự hợp nhất này" .

Ngày hôm sau, Bộ Ngoại giao Đức gửi điện mật cho các Đại sứ quán Đức ở Washington và vài thủ đô khác .

"Ngày hôm qua Lãnh tụ nói với Chamberlain rằng cuối cùng ông nhất quyết chấm dứt bằng cách này hay cách khác tình trạng không thể chấp nhận được ở Sudetenland trong thời gian rất ngắn. Không chỉ xét đến việc tự trị cho người Đức Sudeten, mà còn là việc nhượng vùng này cho Đức. Chamberlain có ý kiến cá nhân chấp thuận. Hiện giờ ông ấy đang bàn bạc với Nội các Anh và thông báo cho Paris, Hội đàm kế tiếp giữa Lãnh tụ và Chamberlain được trù định trong tương lai gần" .

Vào cuối buổi họp giữa 2 người, Chamberlain nhận được lời hứa của Hitler là sẽ không có hành động quân sự nào cho đến khi đàm phán lại lần nữa. Trong lúc này, vị Thủ tướng tỏ lòng tin vào lời nói của Lãnh tụ, ít ngày sau ông có nhận xét riêng: "Dù tôi nghĩ mình đã thấy trên gương mặt ông ấy biểu hiện sự cứng cỏi và tàn nhẫn, nhưng tôi vẫn có cảm tưởng đây là một người mà ta có thể tin cậy khi ông ta cất lời hứa" .

Trong khi nhà lãnh đạo Anh đang có ảo tưởng dễ dãi như thế, Hitler vẫn tiếp tục các kế hoạch quân sự và chính trị cho cuộc xâm lăng Tiệp Khắc. Đại tá Jodl, thay mặt cho OKW, làm việc với Bộ Thông tin và Tuyên truyền cho cái mà ông gọi trong nhật ký của mình là "những chuẩn bị kết hợp cho việc phản bác sự vi phạm công pháp quốc tế của ta". Công việc của Tiến sĩ Goebbels là biện minh cho hành động quá trớn của Quốc xã. Ông đã đặt kế hoạch chi tiết cho những lập luận lừa dối của mình .

Ngày 17 tháng 9, Hitler chỉ định một sĩ quan của Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực đến phụ tá cho Henlein, lúc ấy đang hoạt động tại một tổng hành dinh đặt ở một lâu đài vùng Dondorf, bên ngoài Bayreuth, để tổ chức Lực lượng Tự do Sudeten – được trang bị bằng vũ khí Áo, nhận lệnh của Lãnh tụ là duy trì "hỗn loạn và xô xát" với người Tiệp .

Ngày 18 tháng 9, trong khi Chamberlain đang bận rộn vận động Nội các của ông và người Pháp thuận theo chính sách nhượng bộ, thì Hitler và các tướng lĩnh Đức cũng bận rộn. Lịch trình xuất phát được bố trí cho 5 Đại Quân đoàn Thứ Hai, Tám, Mười, Mười Hai và Mười Bốn, gồm có 36 sư đoàn kể cả 3 sư đoàn thiết giáp. Hitler cũng chốt lại việc tuyển chọn những tướng lĩnh chỉ huy 10 Đại quân đoàn. Dù ngỗ ngược, Tướng Adam vẫn được giữ làm Tổng Tư lệnh Mặt trận phía Tây. Điều đáng ngạc nhiên là 2 nhân vật trong nhóm âm mưu đã về hưu nhưng vẫn được gọi lại và được chỉ định làm tư lệnh 2 Đại quân đoàn: Tướng Beck Đại Quân đoàn Thứ Nhất và Tướng von Hammerstein Đại Quân đoàn Thứ Tư .

Những bước chuẩn bị về mặt chính trị để đánh Tiệp Khắc cũng tiếp tục. Tài liệu Bộ Ngoại giao Đức bị tịch thu cho thấy đầy những báo cáo về việc Đức thúc giục Hungary và Ba Lan vào chia chiến lợi phẩm. Ngay cả người Slovak cũng được đưa vào để gây rối loạn. Ngày 20 tháng 9, Hitler tiếp Thủ tướng Imredy và Ngoại trưởng Kanya của Hungary, đồng thời tỏ ra trách mắng họ vì đã lưỡng lự. Một bản ghi nhớ của Bộ Ngoại giao báo cáo chi tiết về buổi họp: "Trước hết, Lãnh tụ trách móc phía Hungary về thái độ nhùng nhằng của họ. Lãnh tụ quyết chí giải quyết vấn đề Tiệp Khắc ngay cả với rủi ro của một cuộc chiến tranh thế giới... Ông tin chắc Anh và Pháp sẽ không can thiệp. Đây là cơ hội cuối cùng cho Hungary tham gia... Ông yêu cầu phía Hungary 2 việc: (1) Hungary phải lập tức đòi hỏi trưng cầu dân ý trong những lãnh thổ mà Hungary mong muốn và (2) Hungary không được đảm bảo đường biên giới mới nào đề xuất cho Tiệp Khắc" .

Dù cho Chamberlain có tính toán thế nào, Hitler vẫn tỏ rõ với phía Hungary là mình không có ý định cho phép một nước Tiệp Khắc còn lại ít lãnh thổ sống sót lâu. Về phía Thủ tướng Anh: "Lãnh tụ tuyên bố ông sẽ trình cho Chamberlain những đòi hỏi của Đức với sự thẳng thắn quyết liệt. Theo quan điểm của ông, chỉ hành động của Quân đội mới là giải pháp thoả đáng. Tuy nhiên, có nguy cơ là người Tiệp nhượng bộ theo mọi đòi hỏi" .

Đó là nguy cơ đang ám ảnh nhà độc tài trong mỗi lần gặp gỡ kế tiếp với Thủ tướng Anh .

Bị Đức thúc đẩy ngày 21 tháng 9 năm 1938, Chính phủ Ba Lan đòi hỏi trưng cầu dân ý trong huyện Teschen, nơi có cộng đồng lớn của người thiểu số Ba Lan, sau đó chuyển quân đến vùng biên giới. Ngày hôm sau, Chính phủ Hungary noi gương. Cũng trong ngày 22 tháng 9, Lực lượng Tự do Sudeten được quân S.S. hỗ trợ chiếm lấy 2 thị trấn Asch và Eger kế cận lãnh thổ Đức .

22 tháng 9 năm 1938 là một ngày căng thẳng trên toàn châu Âu, khi Chamberlain trở lại Đức để hội ý với Hitler. Bây giờ, ta cần xem qua sơ lược những gì Chamberlain đã làm ở London giữa 2 chuyến đi gặp Hitler .

Khi trở về London tối ngày 16 tháng 9, Chamberlain triệu tập Nội các để ông trình bày yêu sách của Hitler. Lord Runciman từ Prague được triệu về để cho ý kiến – và đã gây kinh ngạc. Trong sự hăng say muốn xoa dịu Hitler, Runciman còn đi xa hơn cả Hitler. Ông đề xuất giao lãnh thổ Sudetenland cho Đức mà không cần trưng cầu dân ý và cho dù Tiệp Khắc sẽ mất vùng núi cùng hệ thống công sự phòng thủ, Tiệp Khắc vẫn phải cam kết sẽ không được tấn công các nước láng giềng. Nỗi quan ngại về một nước Tiệp Khắc bị xâu xé chống lại Đức đã là khó tin, nhưng dường như những đề xuất lạ lùng này gây ấn tượng cho Nội các Anh và khiến Chamberlain càng muốn chấp nhận yêu sách của Hitler hơn .

Cho dù những điểm chính trong các đề xuất của Runciman được trình ra Nội các vào tối 16 tháng 9, nhưng phải đợi đến ngày 21, báo cáo mới được soạn chính thức và đến ngày 28 mới được công bố, khi các sự kiện chỉ tạo sự chú ý hàn lâm. Wheeler-Bennett vạch rõ rằng một số đoạn của báo cáo cho ấn tượng là đã được soạn thảo sau ngày 21. Khi Runciman rời Prague vào sáng 16 tháng 9, không một ai, ngay cả Hitler hoặc các nhà lãnh đạo Sudeten đi xa đến mức yêu cầu giao Sudetenland cho Đức mà không qua trưng cầu dân ý .

Thủ tướng Pháp Daladier và Ngoại trưởng Pháp Bonnet đến London ngày 18 tháng 9 để hội ý với Nội các Anh. Cả 2 bên Anh và Pháp đều muốn tránh chiến tranh nên nhanh chóng đồng ý về những đề xuất chung mà Tiệp Khắc phải chấp nhận: giao cho Đức mọi lãnh thổ có trên phân nửa là người Đức Sudeten để đảm bảo "duy trì hoà bình và an ninh của những quyền lợi sống còn ở Tiệp Khắc". Để đáp lại, Anh và Pháp sẽ tham gia vào "sự đảm bảo quốc tế cho những đường biên giới mới..." Sự đảm bảo này sẽ thay thế những hiệp ước mà Tiệp Khắc ký kết với Pháp và Liên Xô. Đây là lối thoát dễ dàng cho Pháp khi không còn bị ràng buộc với các hiệp ước hiện hữu .

Thông báo chính thức Anh-Pháp gửi cho Tiệp Khắc ghi: "Cả 2 Chính phủ Pháp và Anh nhận thấy Chính phủ Tiệp Khắc phải hy sinh lớn lao cho sự nghiệp hoà bình. Nhưng bởi vì đó là mục đích cho châu Âu nói chung và cho chính Tiệp Khắc nói riêng, 2 Chính phủ có bổn phận phải thẳng thắn đặt ra những điều kiện thiết yếu để đạt mục đích này" .

Thêm nữa, họ phải còn phải khẩn trương lên. Vì nhà độc tài Đức không thể chờ đợi được nữa .

"Thủ tướng phải nối lại việc hội đàm với ông Hitler muộn nhất là ngày thứ Tư [ngày 22 tháng 9] và sớm hơn nếu có thể được. Vì thế, chúng tôi thấy phải yêu cầu ông phúc đáp càng sớm càng tốt" .

Thế là trưa ngày 19 tháng 9, 2 Công sứ Anh và Pháp tại Prague cùng trình đề xuất Anh-Pháp cho Chính phủ Tiệp Khắc .

Ngày hôm sau, Tiệp Khắc khước từ các đề xuất qua bức công hàm một cách đầy tự trọng, với lời giải thích – và cũng là lời tiên tri – rằng chấp nhận những đề xuất ấy sẽ khiến cho Tiệp Khắc "không chóng thì chầy sẽ nằm hoàn toàn dưới sự thống trị của Đức". Sau khi nhắc nhở Pháp về nghĩa vụ theo hiệp ước hiện hữu và về hậu quả cho vị thế của Pháp nếu Tiệp Khắc nhượng bộ, công hàm phúc đáp đề nghị đưa cả vấn đề Sudetenland ra hoà giải theo những điều khoản của Hiệp ước Đức-Tiệp Khắc năm 1925. Cần ghi nhận thêm rằng cả 2 Chính phủ Anh và Pháp đã đều không công bố công hàm của Tiệp Khắc sau này, khi họ phát hành tài liệu minh chứng cho việc chính sách của họ đã dẫn đến Hiệp ước Munich .

Nhưng cả Anh và Pháp không muốn cho phép một vấn đề như sự bất khả xâm phạm của hiệp ước can dự vào tiến trình họ đã đặt ra. Anh gia tăng sức ép lên Tiệp Khắc, cho biết nếu không chấp nhận các đề xuất Anh-Pháp, Anh sẽ không còn liên can gì đến số phận của Tiệp Khắc và nước này sẽ không còn trông mong Anh hoặc Pháp giúp đỡ nữa .

Vào lúc này, Tổng thống Tiệp Khắc Beneš nhận ra là đã bị bạn hữu của mình bỏ rơi. Ông kêu gọi Pháp, nhưng Pháp lại yêu cầu ông rút lại công hàm từ khước, chấp nhận các đề xuất Anh-Pháp, nếu không Tiệp Khắc sẽ phải một mình chống lại Đức .

Suốt ngày hôm sau, 21 tháng 9, đau nhức vì mệt mỏi, vì mất ngủ và vì bị phản bội, Beneš vẫn hội ý với Nội các, các nhà lãnh đạo Đảng và Bộ Tổng tham mưu. Họ tỏ rõ lòng quả cảm trước sự đe doạ của kẻ thù, nhưng bắt đầu suy sụp vì bạn hữu và Đồng minh đã bỏ rơi mình. Còn Liên Xô thì sao? Phía Liên Xô lặp lại cam kết rằng Liên Xô sẽ tôn trọng hiệp ước đã ký với Tiệp Khắc. Thương thay cho người Tiệp, họ nhận ra rằng hiệp ước với Liên Xô quy định Liên Xô sẽ đến hỗ trợ với điều kiện Pháp cũng phải hỗ trợ. Mà Pháp thì đã nuốt lời .

Xế chiều ngày 21 tháng 9, Chính phủ Tiệp Khắc đành chịu thua, chấp nhận kế hoạch Anh-Pháp. Bản thông cáo giải thích một cách cay đắng: "Chúng tôi không có chọn lựa nào khác, vì chúng tôi đã bị bỏ lại một mình." Trong những lúc riêng tư, Beneš nói một cách súc tích: "Về cơ bản, chúng tôi đã bị phản bội." Ngày hôm sau, Nội các từ chức. Tướng Tổng Thanh tra Quân đội Jan Sirovy được cử đứng đầu "Chính phủ tập trung quốc gia" .

CHAMBERLAIN TẠI GODESBERG: NGÀY 22 23 THÁNG 9 NĂM 1938 Dù Chamberlain mang đến cho Hitler mọi nhượng bộ theo yêu sách ở Berchtesgaden, nhưng cả 2 lại đều tỏ ra thiếu thoải mái khi gặp lại nhau ở thị trấn nhỏ Godesberg bên sông Rhine vào chiều ngày 22 tháng 9 năm 1938 .

Hitler có trạng thái vô cùng bồn chồn. Vào sáng hôm ấy, tôi đang dùng điểm tâm trên sân thượng của khách sạn Dreesen, nơi cuộc họp sẽ diễn ra, thì Hitler đi xuống bờ sông để kiểm tra chiếc du thuyền của mình. Dường như ông bị một chứng co giật kỳ lạ. Cứ vài bước, vai phải của ông hích lên và cùng lúc chân trái giật lên. Cặp mắt ông u ám. Dường như Hitler đang bên bờ vực của một cơn khủng hoảng tinh thần. Một biên tập viên người Đức cho tôi biết trong những ngày gần đây, Hitler đang trong trạng thái điên cuồng đối với người Tiệp đến nỗi hơn một lần ông đã hoàn toàn mất tự chủ, lăn ra trên sàn nhà và nhai lấy rìa của tấm thảm. Vì thế mà có cụm từ "người ăn thảm". Tối hôm trước, khi trò chuyện với vài người làm thuê cho Đảng, tôi nghe cụm từ này áp dụng cho Lãnh tụ – dĩ nhiên là trong lời thầm thì .

Dù âu lo về việc chính sách của mình bị chống đối ở Anh, Chamberlain có vẻ rất thoải mái khi đến Godesberg và ngồi trên xe chạy qua đường phố treo đầy cờ chữ thập ngoặc lẫn cờ của Anh để đi đến Petershof, một khách sạn giống như toà lâu đài nằm trên đỉnh đồi Petersberg bên dòng sông Rhine. Ông mang đến tất cả nhượng bộ mà Hitler đòi hỏi và thậm chí còn hơn thế nữa. Bây giờ đủ cần đi vào chi tiết là xong. Vì mục đích này, ông mang theo William Malkin, Cục trưởng Cục Pháp chế của Bộ Ngoại giao .

Lúc xế chiều, Chamberlain đi phà vượt sông Rhine để đến khách sạn Dreesen, nơi Hitler đang đợi ông. Chính từ khách sạn này mà Hitler đã ra đi trong đêm 29 tháng 6 năm 1934 để sát hại Roehm trong cuộc thanh trừng đẫm máu (Xem Chương 7). Hitler thường tìm về khách sạn này như là nơi ẩn thân, nơi ông có thể tập trung tư tưởng và giải quyết tâm trạng hoang mang .

Lần này, ít nhất là lúc khỏi đầu, Chamberlain đã chủ động phát biểu. Xét qua những ghi chép dài của thông dịch viên Schmidt, Chamberlain đã lên tiếng trong hơn 1 giờ, giải thích những việc ông đã làm để thuyết phục cả 2 Nội các Anh và Pháp lẫn Tiệp Khắc. Ông chấp nhận ý kiến của Runciman: giao Sudetenland cho Đức mà không cần trưng cầu dân ý. Tương lai của những vùng pha trộn nhiều chủng tộc sẽ do một uỷ hội gồm 3 thành viên giải quyết: một Đức, một Tiệp Khắc, một trung lập. Một đảm bảo quốc tế sẽ thay thế cho các hiệp ước – mà Hitler vẫn luôn có ác cảm – giữa Tiệp Khắc với Pháp và Liên Xô .

Tất cả đều có vẻ rất đơn giản, rất hợp tình hợp lý đối với một Thủ tướng Anh gốc doanh nhân, yêu hoà bình. Ông ngừng nói với vẻ tự mãn và đợi chờ phản ứng của Hitler .

Hitler hỏi: "Có đúng là theo tôi hiểu thì các Chính phủ Anh, Pháp và Tiệp Khắc đồng ý chuyển giao Sudetenland từ Tiệp Khắc cho Đức?" Hitler cảm thấy kinh ngạc vì các nhượng bộ cho mình có thể đi xa như thế và đến nhanh như thế. Ông biết Tiệp Khắc đã chấp nhận đề xuất Anh-Pháp, như nhật ký của Jodl cho thấy. Tuy nhiên, có thể là Hitler không biết rõ chi tiết các điều khoản của kế hoạch Anh-Pháp cho đến khi Chamberlain giải thích .

Thủ tướng Anh mỉm cười đáp: "Phải" .

Hitler nói: "Tôi rất lấy làm tiếc, nhưng sau những sự việc trong những ngày qua, kế hoạch này chẳng còn ích lợi gì nữa." Chamberlain đứng bật dậy, gương mặt lộ vẻ kinh ngạc và tức giận. Nhưng ông không có vẻ trách móc rằng Hitler đã lừa dối mình, rằng Hitler như là người tống tiền đã ra thêm yêu sách đúng vào lúc yêu sách cũ được chấp nhận. Chamberlain diễn tả tâm trạng của mình lúc này trong báo cáo trước Nghị viện ít ngày sau: "Tôi không muốn Nghị viện nghĩ Hitler cố tình lừa dối tôi – không có giây phút nào tôi nghĩ thế – nhưng, đối với tôi, tôi đã mong rằng... chỉ cần thảo luận một cách bình tĩnh với ông ấy về những đề nghị tôi mang theo và đó là cú sốc nặng khi tôi nghe nói... rằng những đề nghị này là không chấp nhận được..." Chamberlain thấy bao nhiêu công sức khó nhọc của ông đều đang tiêu tan. Theo ghi chép của Tiến sĩ Schmidt, Chamberlain nói với Hitler là ông cảm thấy: "Vừa thất vọng vừa hoang mang. Ông có thể nói một cách đúng lý rằng Lãnh tụ đã nhận được tất cả từ ông cho những gì đã đòi hỏi trước đây .

Để đạt được điều này, ông đã đánh cược cả sự nghiệp chính trị của mình... Ông đang bị kết án ở Anh là đã bán đứng và phản bội Tiệp Khắc, đã nhượng bộ các nhà độc tài và khi rời nước Anh sáng nay ông đã bị la ó chế nhạo" .

Nhưng Lãnh tụ không tỏ ra xúc động với hoàn cảnh tội nghiệp của vị Thủ tướng Anh. Ông đòi hỏi Đức phải được chiếm đóng vùng Sudetenland ngay lập tức. Phải "giải quyết toàn vẹn và rốt ráo vấn đề này chậm nhất là vào ngày 1 tháng 10". Ông có sẵn một bản đồ chỉ ra phải chuyển giao lập tức những lãnh thổ nào .

Tối ấy, Chamberlain hội ý qua điện thoại với Nội các của ông và Chính phủ Pháp. Tình hình dường như không có triển vọng lắm, đến nỗi Anh và Pháp đồng ý nên thông báo cho Tiệp Khắc vào ngày hôm sau rằng 2 nước không thể "tiếp tục nhận trách nhiệm khuyên họ không nên động binh". Tiệp Khắc bắt đầu động binh lúc 10 giờ 30 tối 23 tháng 9 .

Lúc 7 giờ 20 tối 22 tháng 9, Tướng Keitel từ Godesberg gọi cho tổng hành dinh Quân đội: "Chưa thể xác định được ngày (hoặc Ngày X). Tiếp tục chuẩn bị theo kế hoạch. Nếu Phương án Màu Lục diễn ra, sẽ là sau ngày 30 tháng 9. Nếu sớm hơn, có lẽ cần phải tuỳ cơ ứng biến" .

Adolf Hitler lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Chamberlain không hề biết rằng mục đích của Hitler từ lúc đầu chỉ là "đập tan Tiệp Khắc bằng vũ lực". Chấp nhận kế hoạch Anh-Pháp không phải là hành động quân sự, trong khi Hitler vừa muốn làm nhục Tổng thống Beneš và Chính phủ Tiệp Khắc vừa muốn các cường quốc phương Tây hiện rõ vẻ hèn yếu. Để làm được như thế, ít nhất cần phải chiếm đóng bằng biện pháp quân sự. Việc này có thể không đổ máu giống như việc chiếm đóng bằng quân sự ở Áo, nhưng phải thực hiện. Hitler muốn ít nhất phải có hình thức rửa nhục như thế đối với những người Tiệp vừa mới nổi lên đã có vẻ tự phụ .

Sau bữa ăn sáng ngày hôm sau, Chamberlain viết một bức thư cho Hitler. Ông sẽ thông báo cho Tiệp Khắc về những đòi hỏi mới nhưng ông không nghĩ họ sẽ chấp nhận. Thật ra, ông tin chắc người Tiệp sẽ chống lại việc chiếm đóng của Quân đội Đức. Nhưng ông sẵn lòng đề nghị với Tiệp Khắc vì các bên đã bằng lòng giao Sudetenland cho Đức, nên người Đức Sudeten sẽ lo duy trì an ninh trật tự ở Sudetenland cho đến khi giao vùng đất này cho Đức .

Hitler không chấp nhận giải pháp dung hoà này. Sau khi để cho Chamberlain chờ đợi gần cả ngày, Hitler mới trả lời cùng với lời kể lể dông dài về mọi chuyện sai trái mà người Tiệp đã gây ra cho người Đức, ông không muốn dung hoà, đồng thời kết luận rằng bây giờ có lẽ sẽ có chiến tranh .

Chamberlain chỉ trả lời ngắn gọn là yêu cầu Hitler ghi ra giấy những đòi hỏi mới, "cùng với một bản đồ" và sẽ làm nhiệm vụ "như người trung gian" để gửi qua Prague .

Chamberlain trở lại khách sạn Dreesen để có buổi hội đàm cuối cùng với Hitler bắt đầu lúc 10 giờ 30 tối 23 tháng 9, Hitler trình bày những đòi hỏi trong một bản ghi nhớ cùng với một bản đồ. Chamberlain phải đối mặt với một thời hạn mới. Bên Tiệp phải bắt đầu rút ra khỏi lãnh thổ sẽ chuyển giao bắt đầu từ ngày 26 tháng 9 và xong xuôi ngày 28 tháng 9 .

Chamberlain thốt lên: "Nhưng cái này không khác gì tối hậu thư" .

Hitler đáp trả: "Không phải... xem đây, văn kiện có tựa là 'Bản ghi nhớ'" .

Vừa lúc ấy, một tuỳ viên mang vào một tin khẩn cấp cho Lãnh tụ. Ông xem qua và trao cho Schmidt để thông dịch: "Đọc cho ông Chamberlain nghe" .

Schmidt đọc: "Beneš vừa tuyên cáo trên đài phát thanh lệnh tổng động viên ở Tiệp Khắc" .

Cả gian phòng yên lặng như chết chóc. Rồi Hitler nói: "Bây giờ, dĩ nhiên là mọi việc đều đã an bài. Người Tiệp sẽ không muốn nhượng lãnh thổ nào cho Đức." Chamberlain không đồng ý. Tiếp theo là cuộc tranh cãi dữ dội .

"Hitler nói người Tiệp đã động binh trước. Chamberlain nói ý khác: Đức đã động binh trước. Lãnh tụ phủ nhận Đức đã điều quân..." Thế là, cuộc tranh cãi kéo dài đến khuya. Cuối cùng, Chamberlain hỏi liệu bản ghi nhớ của Đức "có phải đúng là thực sự những lời cuối cùng của ông ấy hay không", Hitler trả lời rằng đúng và Chamberlain nói: "Thảo luận tiếp cũng chẳng ích gì. Ông đã làm mọi việc, tất cả các nỗ lực đã thất bại. Ông trở về với con tim nặng trĩu, vì hy vọng mà ông mang theo khi đến Đức đã tắt lịm." Nhưng nhà độc tài Đức vẫn chưa để cho ông yên. Ông ta có một "nhượng bộ" .

Hitler nói một cách hớn hở: "Ông là một trong số ít người mà tôi từng làm như thế này. Tôi sẵn sàng định ra một ngày duy nhất cho việc rút lui của Tiệp Khắc – ngày 1 tháng 10 – để tạo thuận lợi cho công việc của ông." Sau khi nói thế, Hitler rút một cây bút chì và tự tay đổi ngày. Dĩ nhiên đây không phải là nhượng bộ. Ngay từ đầu, Hitler đã định 1 tháng 10 là Ngày X .

Bản ghi nhớ đòi hỏi mọi lực lượng của Tiệp Khắc, kể cả cảnh sát, rút khỏi những vùng tô màu đỏ trên bản đồ. Một cuộc trưng cầu dân ý sẽ quyết định tương lai của những vùng tô màu lục. Phải để lại nguyên trạng mọi cơ sở quân sự trong vùng đã rút lui. Phải chuyển giao nguyên trạng cho bên Đức mọi cơ sở thương mại và giao thông, "đặc biệt là những bộ phận di động". Không được mang theo lương thực, hàng hoá, bò, nguyên vật liệu... Điều này có nghĩa là hàng trăm nghìn người Tiệp không được mang theo vật dụng nội thất, thậm chí là bò của gia đình mình .

Dường như Chamberlain có ấn tượng với các đề xuất đó, nhưng ông nói ông không thể chấp nhận hoặc từ khước, ông chỉ có thể chuyển chúng đi thôi .

Dù cho những gì đã diễn ra, nhưng khi buổi họp chấm dứt lúc 1 giờ 30 sáng, cả 2 người có vẻ thân thiết với nhau hơn bất kỳ lúc nào kể từ khi họ gặp nhau. Tôi đứng trong phòng thu thanh tạm cách 2 người khoảng 8 m và nhìn họ nói lời từ giã. Tôi có ấn tượng mạnh với cử chỉ thân thiện mà họ đối xử với nhau. Schmidt đã ghi lại những lời mà tôi nghe không rõ .

"Chamberlain nói ông ấy có cảm nghĩ rằng một mối quan hệ tin cậy đã nảy nở giữa ông và Lãnh tụ nhờ những cuộc đàm thoại trong vài ngày qua... không ngừng hy vọng rằng sẽ vượt qua cơn khủng hoảng khó khăn hiện nay. Và rồi ông sẽ vui lòng thảo luận những vấn đề khác còn tồn tại với Lãnh tụ cũng với tinh thần như thế .

Lãnh tụ cảm ơn Chamberlain và nói rằng ông cũng có những hy vọng tương tự. Như ông đã tuyên bố nhiều lần, vấn đề Tiệp Khắc là yêu cầu cuối cùng của ông ở châu Âu về lãnh thổ" .

Có vẻ như việc chối bỏ thêm yêu sách về đất đai tạo ấn tượng cho Thủ tướng Anh, bởi vì trong báo cáo cho Viện Dân biểu ông nhấn mạnh Hitler đã tỏ "thái độ nghiêm chỉnh tột cùng" .

Khi Chamberlain về đến khách sạn của ông lúc 2 giờ chiều, một ký giả hỏi ông: "Thưa ngài, liệu tình hình có tuyệt vọng không?" Vị Thủ tướng đáp: "Tôi không nghĩ thế. Bây giờ là tuỳ thuộc vào người Tiệp" .

Hiển nhiên ông không nghĩ ra rằng cũng tuỳ thuộc vào người Đức, với những yêu sách quá đáng của họ .

Trở về nước, Chamberlain cố làm chính việc mà ông đã thông báo với Hitler rằng ông sẽ không làm: thuyết phục Nội các Anh chấp thuận yêu sách mới của Quốc xã. Nhưng lần này ông bất ngờ vấp phải sự chống đối. Ông không thể thuyết phục Nội các của mình. Ông cũng không thể thuyết phục Pháp, vốn đã khước từ bản ghi nhớ Godesberg và ra lệnh động binh một phần .

Khi Thủ tướng Pháp đến London ngày 25 tháng 9, Pháp xác nhận sẽ giữ lời hứa và giúp đỡ Tiệp Khắc khi nước này bị tấn công. Nhưng họ muốn biết Anh sẽ làm gì. Bị bắt bí, hoặc có vẻ như thế, Chamberlain đồng ý sẽ báo tin cho Hitler rằng nếu Pháp can thiệp, Anh sẽ có nghĩa vụ phải ủng hộ Pháp .

Nhưng trước hết, ông phải kêu gọi nhà độc tài Đức một lần cuối. Hitler sẽ đọc diễn văn ở Berlin ngày 26 tháng 9. Để khuyến dụ Hitler nên bỏ ngỏ cơ hội, Chamberlain viết một thư riêng cho Hitler và gửi hoả tốc bằng một chuyến bay đặc biệt do Horace Wilson mang tới thủ đô Đức .

Sau khi Chamberlain ra đi vào buổi sáng 24 tháng 9, người Đức đâm ra u sầu. Bây giờ, khi đang đối diện với chiến tranh, ít nhất có một số người không thích tiến hành chiến tranh. Tôi thơ thẩn trong khu tiền sảnh khách sạn một lúc sau bữa ăn tối. Goering, Goebbels, Ribbentrop, Tướng Keitel và những nhân vật cấp dưới đứng quây quần, trò chuyện với nhau một cách sôi nổi. Dường như họ cảm thấy bàng hoàng vì viễn cảnh chiến tranh .

Chủ Nhật 25 tháng 9 là một ngày ấm áp và đẹp trời ở Berlin. Từng đám đông kéo ra những bờ hồ và khu rừng xung quanh thành phố. Dù có tin tức về cơn giận dữ của Hitler khi nghe tin tối hậu thư bị Pháp, Anh và Tiệp Khắc từ khước, nhưng Berlin lại không có vẻ gì là khủng hoảng vì chắc chắn chiến tranh sẽ không xảy ra. Tối hôm ấy tôi còn ghi vào nhật ký của mình: "Khó mà tin được sẽ có chiến tranh" .

Thế nhưng đến ngày Thứ Hai thì mọi việc lại bất ngờ đi theo chiều hướng xấu hơn. Horace Wilson trao cho Hitler bức thư của Chamberlain. Khi Tiến sĩ Schmidt dịch bức thư, nói Chính phủ Tiệp Khắc đã thông báo cho biết tối hậu thư Godesberg là "hoàn toàn không thể chấp nhận được", Hitler bất ngờ nhảy dựng lên, la hét: "Không có lý do gì phải đàm phán thêm!" rồi đi ra khỏi cửa .

Người thông dịch Đức nói đó là cảnh tượng đau lòng. "Đó là lần thứ nhất và duy nhất với sự hiện diện của tôi, Hitler hoàn toàn mất tự chủ." Theo lời Wilson, Hitler trở lại ngồi phệt trên ghế, nhiều lần ngắt ngang lời người thông dịch bằng cách hét lên: "Người Đức đang bị đối xử như mọi... Ngày 1 tháng 10 tôi sẽ chiếm Tiệp Khắc .

Nếu Pháp và Anh muốn đánh, cứ để cho họ đánh... Tôi không màng" .

Chamberlain đề nghị các đại diện của Tiệp Khắc và Đức nên gặp nhau lập tức để dàn xếp "cách thức chuyển giao lãnh thổ", còn Anh sẵn lòng cử đại diện ngồi vào buổi họp. Hitler trả lời rằng mình chỉ thương thuyết chi tiết nếu Tiệp Khắc chấp nhận trước tối hậu thư Godesberg (mà họ đã bác bỏ). Và họ phải trả lời trong vòng 44 tiếng đồng hồ tiếp theo, tức là lúc 2 giờ chiều ngày 28 tháng 9 .

Đối với những người nghe Hitler phát biểu đêm 26 tháng 9 ở Cung thể thao Sportpalast đông kín người, thì có vẻ như Hitler đã đóng sầm cánh cửa đàm phán. La lối và gào thét trong cơn điên loạn mà tôi chưa từng thấy, Hitler lăng mạ cá nhân Beneš, tuyên bố rằng vấn đề chiến tranh hoặc hoà bình bây giờ tuỳ thuộc vào Tổng thống Beneš và rằng dù sao chăng nữa, ông cũng sẽ chiếm Sudetenland vào ngày 1 tháng 10. Dù được đám đông cổ vũ cuồng nhiệt, ông cũng đủ khôn khéo để xoa dịu Thủ tướng Anh, cảm ơn về nỗ lực của ông này cho hoà bình và lặp lại rằng đây là đòi hỏi cuối cùng của Đức về lãnh thổ. Ông thốt lên một cách khinh bỉ: "Chúng tôi không muốn người Tiệp!" .

Trong khi Hitler hô hào, tôi ngồi trong một bao lơn ngay phía trên ông, cố truyền đi bản dịch trực tiếp nhưng không mấy thành công. Tối hôm ấy, tôi ghi vào nhật ký: "... Trong nhiều năm tôi quan sát, đêm nay là lần đầu tiên Hitler có vẻ như hoàn toàn mất tự chủ. Khi ông ấy ngồi xuống, Goering đứng dậy và hét vào micro: 'Chắc chắn một điều: 1918 sẽ không bao giờ lặp lại'. Hitler nhìn lên Goering, vẻ hoang dại, sục sôi trên đôi mắt, như thể đó là ngôn từ ông đã nặn óc cả buổi tối nhưng nghĩ không ra. Ông nhảy dựng lên và với ngọn lửa cuồng tín trong đôi mắt mà tôi không bao giờ quên, dang cánh tay phải quét một vòng rồi đập mạnh xuống mặt bàn và hét lớn: 'Đúng!'." Ngày hôm sau, 27 tháng 9, Hitler trở lại tư thái bình thường để tiếp kiến Horace Wilson lần thứ hai. Vị đặc sứ, người không được huấn luyện về ngoại giao nhưng vẫn lo lắng như Thủ tướng Anh, nếu không muốn nói là lo lắng hơn, đã giao cho Hitler Sudetenland nếu ông này tiếp nhận một cách êm thấm. Ông yêu cầu Hitler chú ý đến một phát biểu đặc biệt của Chamberlain ngay sau nửa đêm khi đáp lại bài diễn văn tại Cung thể thao Sportpalast. Xét qua việc Hitler không tin nơi những lời hứa của người Tiệp, Chính phủ Anh sẽ xem mình "có nghĩa vụ đạo đức" để muốn thấy những lời hứa của người Tiệp được thực hiện "một cách công bằng, đầy đủ và với tất cả sự năng nổ hợp lý". Ông hy vọng Hitler sẽ không khước từ đề xuất này .

Nhưng Hitler chẳng quan tâm. Ông bảo mình không có lời gì nhắn gửi Chamberlain. Bây giờ là tuỳ người Tiệp. Họ có thể chấp nhận hoặc khước từ những yêu cầu của ông ta. Nếu họ từ khước, ông giận dữ thét lên: "Tôi sẽ tiêu diệt Tiệp Khắc". Ông lặp lại câu đe doạ này nhiều lần với vẻ thích thú .

Như thế là quá mức ngay cả đối với Wilson – một người vốn hay nhượng bộ. Ông này đứng lên và nói: "Trong trường hợp này, tôi được Thủ tướng uỷ quyền để có lời tuyên bố sau: 'Nếu vì làm tròn nghĩa vụ hiệp ước mà Pháp can dự tích cực vào hành động thù địch với Đức, Vương quốc Anh sẽ bắt buộc phải ủng hộ Pháp'" .

Hitler trả lời với thái độ gây hấn: "Điều này có nghĩa nếu Pháp muốn tấn công Đức, Anh cũng sẽ bắt buộc phải tấn công Đức" .

Khi Horace trả lời rằng ông không nói thế, rằng rốt cuộc thì hoà bình hoặc chiến tranh là tuỳ thuộc vào Hitler, Hitler lớn tiếng: "Nếu Pháp và Anh muốn đánh thì cứ đánh! Tôi hoàn toàn không màng. Hôm nay là Thứ Ba, vào ngày Thứ Hai tới ta sẽ lâm chiến" .

Theo biên bản chính thức cuộc họp của Schmidt, Wilson có vẻ muốn nối tiếp cuộc đối thoại nhưng Đại sứ Anh khuyên ông nên thôi. Việc này cũng chẳng thể ngăn cản vị đặc sứ thiếu kinh nghiệm nói riêng với Hitler khi kết thúc: "Tôi sẽ cố làm cho người Tiệp biết điều" và Hitler trả lời ông: "Hoan nghênh việc này". Có lẽ vị Lãnh tụ nghĩ vẫn có thể vỗ về Chamberlain để ông này làm cho người Tiệp "biết điều". Đêm ấy, ông đọc cho thuộc hạ viết một bức thư gửi Chamberlain với ngôn từ khôn khéo .

Có nhiều lý do chính đáng để Hitler gửi bức thư ấy. Vào ngày 27 tháng 9 này đã xảy ra nhiều sự kiện ở Berlin và ở cả những nơi khác .

Lúc 1 giờ trưa, sau khi Wilson ra về, Hitler ban hành một chỉ thị "bí mật nhất" ra lệnh cho những đơn vị tấn công gồm khoảng 21 trung đoàn được tăng cường, tức 7 sư đoàn, rời những khu vực huấn luyện để đến những điểm xuất phát dọc biên giới Tiệp Khắc. Vài giờ sau, một lệnh điều quân kín được ban hành. Trong những biện pháp khác, 5 sư đoàn được điều động cho phía Tây .

Nhưng ngay cả khi Hitler đã tiến hành các động thái quân sự, thì vẫn có những sự kiện trong ngày khiến cho ông lưỡng lự. Để khuấy động cơn sốt chiến tranh trong quần chúng, Hitler ra lệnh một sư đoàn thiết giáp diễu hành qua thủ đô lúc hoàng hôn – vào giờ mà hàng trăm nghìn người dân Berlin từ những toà nhà văn phòng đổ ra đường phố. Cuộc diễu hành hoá ra là thất bại chua cay – ít nhất là đối với vị Tư lệnh Tối cao. Người dân Berlin hiền hoà không muốn bị nhắc nhở về chiến tranh. Trong nhật ký đêm ấy, tôi ghi lại cảnh tượng đáng kinh ngạc .

"Tôi đi ra góc phố nơi đoàn quân sẽ rẽ vào Wilhelmstrasse và nghĩ sẽ trông thấy một cuộc mít tinh hoành tráng. Tôi hình dung đến quang cảnh mà tôi đã được đọc về năm 1914 khi đám đông cổ vũ trên cùng con đường này ném hoa vào hàng ngũ binh sĩ đang tiến bước, những cô gái chạy đến hôn họ... Nhưng hôm nay, dân chúng lánh mặt trong xe điện ngầm, không muốn nhìn đến và số ít người đứng dọc lề đường thì chìm trong im lặng hoàn toàn... Đó là hình thức biểu lộ chống chiến tranh nổi bật nhất mà tôi từng thấy" .

Theo lời thúc giục của một cảnh sát, tôi bước dọc khu Wilhelmstrasse đến Phủ Thủ tướng, nơi Hitler đang đứng trên một ban công để dự khán đoàn quân .

"... Không có đến 200 người ở đây. Hitler lộ vẻ nghiêm nghị, rồi tức giận, sau đó bước vào bên trong, để mặc cho đoàn quân diễu hành qua mà không màng dự khán. Quang cảnh tôi chứng kiến tối nay gần như đã khơi lại một ít niềm tin nơi người dân Đức. Họ cực lực chống đối chiến tranh" .

Bên trong Phủ Thủ tướng có thêm tin xấu, lần này là từ nước ngoài. Nam Tư và Rumania thông báo cho Chính phủ Hungary biết họ sẽ có động thái chống lại Hungary bằng quân sự nếu nước này tấn công Tiệp Khắc. Việc này sẽ khiến chiến tranh lan đến vùng Balkans – đó là điều mà Hitler không muốn .

Tin tức đưa từ Paris thì càng nghiêm trọng hơn. Bức điện "Tối Khẩn" của tuỳ viên quân sự Đức gửi đích danh không những cho Bộ Ngoại giao mà còn cả Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực và Bộ Tư lệnh Lục quân, cho biết việc điều động quân sự một phần của Pháp giống như việc tổng động binh với "65 sư đoàn đầu tiên dàn quân xong xuôi dọc biên giới Đức vào ngày thứ sáu sau khi điều động". Hitler biết rằng rất khó để chống lại lực lượng như thế trong khi Đức chỉ có khoảng chục sư đoàn, mà phân nửa số này là những đơn vị dự bị với khả năng tác chiến đáng nghi ngờ .

Bức điện còn cho biết quân Ý hoàn toàn không làm gì cả để giữ chân quân Pháp dọc biên giới Pháp-Ý. Dường như Mussolini đã bỏ rơi Hitler trong thời khắc khẩn trương này .

Và rồi, Tổng thống Hoa Kỳ và Vua Thuỵ Điển chen vào. Roosevelt đã kêu gọi Hitler giúp duy trì hoà bình, đồng thời ngụ ý nếu chiến tranh xảy ra, thế giới sẽ quy trách nhiệm cho Hitler .

Vua Thuỵ Điển cho biết nếu Hitler không gia hạn ngày cuối 1 tháng 10 thêm 10 ngày nữa thì chiến tranh thế giới là không tránh khỏi, Đức sẽ là nước duy nhất bị kết án và chắc chắn sẽ thua trận .

Kế tiếp, Đại sứ Đức Hans Dieckhoff tại Mỹ gửi một bức điện "hoả tốc" về Berlin, cảnh báo rằng nếu Hitler sử dụng vũ lực và bị Anh chống lại, thì "cả sức nặng của Hoa Kỳ sẽ nghiêng về Anh" .

Còn Tiệp Khắc? Liệu có dấu hiệu suy yếu nào không? Bức điện từ Đại tá Toussaint, Tùy viên quân sự Đức cho biết: "Yên tĩnh ở Prague. Biện pháp động binh cuối cùng đã được thi hành... Tổng cộng khoảng 1 triệu quân, quân nơi trận tiền là 800.000..." Đó là số quân của Đức ở cả 2 mặt trận. Tiệp Khắc và Pháp cộng lại có số quân áp đảo Đức bằng tỷ lệ hơn 2 trên 1 .

Đối diện với những sự kiện trên, nhớ lại lời chia tay của Wilson, tính cách cũng như nỗi lo sợ chiến tranh của Chamberlain, Hitler đã gửi thư cho Chamberlain. Cũng trong đêm này, Đô đốc Raeder thông báo cho Hitler về việc Anh huy động hạm đội, đồng thời kêu gọi Lãnh tụ không nên gây chiến tranh .

Lúc ấy, Hitler biết rõ rằng Tiệp Khắc đang ương ngạnh, Pháp đang động binh nhanh chóng, Anh đang cứng rắn lên, dân Đức đang thờ ơ, tướng lĩnh hàng đầu đang chống lại ông, còn tối hậu thư của ông cho đề xuất Godesberg sẽ có hạn chót vào 2 giờ chiều hôm sau .

Lá thư của Hitler có ngôn từ được tính toán một cách tuyệt diệu để lay chuyển Chamberlain. Lần này, Hitler sẵn sàng đàm phán chi tiết với Tiệp Khắc, sẵn sàng "nghiêm túc đảm bảo cho phần còn lại của Tiệp Khắc". Người Tiệp còn đang kiên trì vì họ hy vọng khởi động chiến tranh châu Âu với sự giúp đỡ của Anh và Pháp. Tuy thế Hitler vẫn không muốn sập xuống cánh cửa cho những hy vọng cuối cùng. Ông kết luận: "Tôi xin để tuỳ ngài phán đoán, xét qua những sự việc này, liệu ngài thấy có nên tiếp tục nỗ lực của mình... để ngăn chặn những động thái ấy và giúp Chính phủ ở Prague nhận ra được lý lẽ vào phút cuối hay không." GIỜ PHÚT CUỐI CÙNG Lá thư của Hitler được gửi hoả tốc bằng điện tín đến London, Chamberlain nhận được lúc 10 giờ 30 tối 27 tháng 9 năm 1938, vào cuối một ngày bận rộn của ông .

Tin bất ổn do Horace Wilson mang về đến London vào lúc xế trưa thúc đẩy Nội các Anh thi hành một loạt động thái phòng bị: điều động hạm đội, gọi không quân trù bị, tuyên bố tình trạng khẩn cấp, đào hào tránh bom trong công viên, quảng trường và sơ tán học sinh ở London .

Chamberlain cũng cảnh cáo Tổng thống Beneš rằng Đức sẽ vượt biên giới Tiệp Khắc nếu nước này không chấp nhận những điều kiện của Đức vào hạn chót là 2 giờ chiều ngày hôm sau, 28 tháng 9. Ông tiếp nối bằng lời trách móc là Quân đội Đức sẽ tràn ngập Bohemia mà không cường quốc nào có thể làm gì được để cứu Tiệp Khắc ra khỏi số phận này. Và đó là sự thật, cho dù kết quả của chiến tranh thế giới sẽ ra sao. Thế là, Chamberlain đặt trách nhiệm về hoà bình hoặc chiến tranh lên Beneš chứ không phải Hitler .

Trước khi Beneš có thời giờ để trả lời, Chamberlain đã gửi tiếp bức điện thứ hai, đề nghị Tiệp Khắc chấp nhận cho Đức chiếm đóng một phần vào ngày 1 tháng 10 rồi một uỷ ban biên giới Đức-Tiệp-Anh sẽ xác định những phần lãnh thổ khác giao cho Đức. Và Chamberlain còn bổ sung thêm lời cảnh cáo: "Lựa chọn khác duy nhất cho kế hoạch này chính là việc chiếm đóng và xâu xé đất nước bằng vũ lực, dù xung đột có thể xảy ra sẽ khiến cho thiệt hại về sinh mạng là không thể nào tính được. Ta không thể tái lập Tiệp Khắc trong đường biên giới, dù cho kết quả cuộc xung đột có ra sao" .

Đại sứ Henderson cũng chuyển những đề xuất này cho Bộ Ngoại giao Đức lúc 11 giờ tối, kèm yêu cầu chuyển ngay cho Hitler .

Với việc Pháp ủng hộ những đề nghị mới nhất, Tiệp Khắc bị các nước bè bạn cảnh cáo: Cho dù họ và các Đồng minh có thắng Đức, họ vẫn phải trao Sudetenland cho Đức. Câu suy diễn là rõ ràng: Tại sao phải nhấn chìm châu Âu vào chiến tranh, vì đằng nào cũng mất Sudetenland? Sau khi đẩy gánh nặng ra khỏi cửa, vị Thủ tướng phát biểu trên sóng phát thanh lúc 8 giờ 30 tối: "Làm thế nào có chuyện quái đản, lạ kỳ và khó tin là chúng ta phải đào hào tránh bom... ở đây chỉ vì có cãi cọ ở một nước xa xôi giữa những người mà ta chẳng quen biết gì cả!..." Hitler đã có được về cơ bản những gì mình muốn. Anh quốc đảm bảo rằng người Tiệp sẽ chấp nhận và thực hiện .

"Tôi không ngần ngại đi Đức chuyến thứ ba nếu như điều đó là hữu ích... Dù cho chúng ta có thể thông cảm với một quốc gia nhỏ đối mặt với một nước láng giềng lớn và hùng mạnh, trong mọi trường hợp chúng ta không thể lôi cả Đế quốc Anh can dự vào một cuộc chiến. Nếu chúng ta phải chiến đấu, thì nên chiến đấu cho những vấn đề lớn hơn thế nữa... Bản thân tôi là người yêu chuộng hoà bình từ tận đáy lòng. Xung đột vũ trang giữa các quốc gia là ác mộng đối với tôi, nhưng nếu tôi tin chắc rằng có quốc gia nào đấy đang muốn thống trị thế giới bằng cách gây ra sự khiếp sợ vũ lực, tôi sẽ chống lại quốc gia đó. Dưới sự thống trị như thế, cuộc đời của những người tin tưởng vào tự do sẽ là không đáng sống, nhưng chiến tranh là điều đáng sợ và trước khi lao vào chiến tranh, chúng ta phải thấy thật rõ rằng rằng đây là một vấn đề lớn lao đang bị đe doạ" .

Wheeler-Bennett ghi rằng sau khi nghe bài phát biểu này, phần lớn cư dân Anh tối hôm ấy đi ngủ mà nghĩ trong vòng 24 giờ tới Anh và Đức sẽ đánh nhau. Nhưng chỉ đến tối họ mới biết chuyện gì đang xảy ra ở tư dinh Thủ tướng Anh. Lá thư của Hitler đến vào lúc 10 giờ 30 tối. Đó là tia hy vọng mỏng manh mà Thủ tướng Anh vội vàng nắm bắt. Ông trả lời: "... Tôi sẵn sàng đích thân đi Berlin lập tức để thảo luận về việc chuyển giao của ông với đại diện của Chính phủ Tiệp Khắc, cùng với đại diện của Pháp và Ý, nếu ông muốn. Tôi tin chắc chúng ta sẽ đạt thoả thuận trong vòng một tuần. Tôi không thể tin rằng chỉ vì chậm trễ vài ngày để dàn xếp vấn đề tồn tại này, mà ông sẽ chịu trách nhiệm khởi động một cuộc chiến tranh thế giới có thể chấm dứt nền văn minh" .

Một bức điện cũng được gửi cho Mussolini yêu cầu ông này thúc giục Hitler chấp nhận kế hoạch đó và đồng ý gửi đại diện đến cuộc đàm phán .

tưởng về một hội nghị đã có trong đầu của Thủ tướng Anh một thời gian. Ông đã đề nghị Đức, Ý, Anh và Pháp cùng giải quyết vấn đề Sudetenland. Nhưng ông được Bộ Ngoại giao nhắc nhở rằng khó mà loại Liên Xô và Tiệp Khắc. Sau khi từ Godesberg trở về, ông nghĩ Hitler sẽ không bao giờ chấp nhận Liên Xô, còn bản thân ông cũng không muốn Liên Xô hiện diện. Cho dù là một người ít hiểu biết ở Anh thì họ vẫn hiểu một điều rằng: Trong trường hợp có chiến tranh với Đức, thì sự tham dự của Liên Xô về phía phương Tây hiển nhiên sẽ có giá trị to tát như Churchill đã nhiều lần nêu ra, nhưng có lẽ như vị Thủ tướng cũng không màng xét qua sự kiện này. Như ta đã thấy, sau khi Áo bị sáp nhập vào Đức, ông đã từ chối đề xuất của Liên Xô về một hội nghị nhằm chống lại sự xâm lăng tiếp theo của Đức. Mặc cho Liên Xô bảo lãnh Tiệp Khắc và cho đến lúc này, Litvinov vẫn còn tuyên bố rằng Liên Xô sẽ giữ cam kết, thì Chamberlain vẫn không có ý định cho phép Liên Xô tham gia, mà vẫn muốn giữ hoà bình bằng giải pháp giao Sudetenland cho Hitler .

Nhưng cho đến ngày Thứ Tư, 28 tháng 9, ông vẫn chưa muốn Tiệp Khắc tham dự hội nghị. Đúng thế: Ngày 25, sau khi Tiệp Khắc khước từ yêu sách Godesberg của Hitler, Chamberlain mới đề xuất Tiệp Khắc tham gia đàm phán trong "một hội nghị quốc tế mà trong đó Đức, Tiệp Khắc và những cường quốc khác có thể tham dự." Ngày kế tiếp, Tiệp Khắc chấp thuận. Và như ta đã thấy, đêm 28 ông đề nghị với Hitler cho "đại diện của Tiệp Khắc" tham gia hội nghị cùng với Đức, Ý, Pháp và Anh .

"THỨ TƯ ĐEN" VÀ ÂM MƯU CỦA HALDER CHỐNG HITLER Bầu không khí ảm đạm bao trùm Berlin, Prague, London và Paris vào ngày 28 tháng 9 năm 1938, hay còn gọi là ngày "Thứ Tư Đen". Có vẻ như chiến tranh sẽ là điều không tránh khỏi .

Jodl trích lời của Goering: "Khó mà tránh khỏi một trận chiến lớn. Cuộc chiến có thể kéo dài 7 năm, rồi ta sẽ thắng." London, việc đào hào tránh bom, sơ tán học sinh, sơ tán bệnh viện... vẫn tiếp tục. Tại Paris, những toa xe lửa chất đầy người muốn thoát ra khỏi thủ đô và những xa lộ đầy nghẹt xe cộ từ thành phố đi ra. Có những cảnh tượng tương tự ở Đức. Vào lúc 2 giờ chiều, thời hạn của Hitler sẽ hết. Không có dấu hiệu cho thấy Tiệp Khắc sẽ chấp nhận .

Đối với vài tướng lĩnh và trên hết là đối với Tướng Halder, Tham mưu trưởng Lục quân, đã đến lúc thực hiện âm mưu nhằm lật đổ Hitler và tránh cho Tổ quốc lâm vào một cuộc chiến mà họ nghĩ Đức sẽ bại trận. Suốt trong tháng Chín, theo lời kể sau này của những người sống sót, các nhân vật trong nhóm âm mưu luôn bận rộn để thực hiện kế hoạch của mình .

Erich Kordt, bí thư của Ribbentrop tại Bộ Ngoại giao và cũng là nhân vật tham dự quan trọng và sống sót sau chiến tranh. Tại Toà án Nuremberg, ông soạn một bản ghi nhớ dài về những sự kiện trong tháng 9 năm 1938, mà tác giả được sử dụng. Halder, Gisevius và Schacht đều kể lại âm mưu này, nhưng mỗi người đều cung cấp những chi tiết khó hiểu và ở vài điểm còn mâu thuẫn với nhau. Cần nhớ rằng ban đầu cả 3 đều phục vụ chế độ Quốc xã, vì thế sau chiến tranh họ phải cố chứng tỏ mình đã chống đối Hitler và thực sự yêu chuộng hoà bình .

Tướng Halder luôn liên lạc với Đại tá Oster và sếp của ông này tại Cục Quân báo là Đô đốc Canaris, người cung cấp thông tin về động thái chính trị của Hitler và của tình báo nước ngoài .

Riêng Tướng von Witzbelen, Tư lệnh Quân khu Berlin thì can dự vào âm mưu, nhưng vẫn còn lưỡng lự vì ông nghĩ Anh và Pháp đã bí mật cho Hitler rảnh tay ở phía Đông và vì thế sẽ không tham chiến vì Tiệp Khắc. Vài tướng lĩnh tin theo những ước đoán này. Vào lúc ấy, họ chỉ muốn lật đổ Hitler nhằm tránh xảy ra cuộc chiến mà họ nghĩ Đức sẽ thua. Nếu Anh và Pháp không can dự, chiến tranh sẽ không xảy ra, vậy thì họ cũng không cần gì phải đảo chính .

Thêm một yếu tố nữa là nhóm âm mưu chờ cho Hitler quay về Berlin rồi mới khởi sự để bắt giữ ông ta. Họ chờ Hitler trở về từ Đại hội Đảng Nuremberg ngày 14 tháng 9 năm 1938, để khởi động đảo chính vào một hoặc hai ngày sau đó. Nhưng Lãnh tụ không quay về Berlin.Thay vào đó, ông đi đến Berchtesgaden vào ngày 14 tháng 9 để đón Thủ tướng Anh đến vào ngày hôm sau .

Nhóm âm mưu càng thêm chán nản vì Erich Kordt, một người trong nhóm ở Bộ Ngoại giao, nắm bắt được nội dung lá thư của Chamberlain giải thích là muốn gặp Hitler lập tức để "tìm giải pháp hoà bình" .

Kordt lý giải: "Ảnh hưởng ấy gần như là một thảm hoạ đối với kế hoạch của chúng tôi. Sẽ là điều vô lý nếu phát động cuộc đảo chính để lật đổ Hitler vào lúc mà Thủ tướng Anh đang đến Đức để thảo luận với Hitler về 'hoà bình của thế giới'" .

Nhóm đảo chính cực kỳ thất vọng. Một mặt, họ chỉ muốn thực hiện kế hoạch nếu Hitler trở về Berlin. Mặt khác, một số người trong số họ, cũng giống như dân Anh, nghĩ Chamberlain bay đến Berchtesgaden nhằm cảnh cáo Hitler đừng phạm sai lầm của Wilhelm II vào năm 1914 khiến cho Anh tham gia cuộc chiến .

Nhưng vào buổi tối 15 tháng 9, Tiến sĩ Paul Schmidt – như ta đã biết, là thông dịch viên duy nhất và nhân chứng duy nhất trong cuộc họp Hitler-Chamberlain và cũng nằm trong nhóm âm mưu – đưa tin là Hitler vẫn muốn đánh chiếm toàn bộ Tiệp Khắc. Nguồn tin này làm cho tinh thần của nhóm âm mưu phấn chấn trở lại. Họ quyết định tiến hành theo kế hoạch. Oster nói: "Nhưng trước hết, chúng tôi phải chờ cho con mồi trở lại vào cái bẫy của nó ở Berlin" .

Con mồi trở lại vào "cái bẫy" vào chiều ngày 24 tháng 9, sau cuộc hội đàm ở Godesberg. Và cho đến 28 tháng 9, ngày "Thứ Tư Đen", ông đã lưu lại Berlin được gần 4 ngày .

Thế thì, nhóm âm mưu còn đợi gì nữa? Mọi điều kiện mà họ đặt ra đều đã hội đủ. Hitler đang có mặt ở Berlin. Ông nhất quyết muốn khởi động chiến tranh. Ông đã định thời điểm tấn công Tiệp Khắc là ngày 30 tháng 9, tức là 3 ngày sau. Phải phát động cuộc đảo chính lập tức, nếu không sẽ là quá muộn để lật đổ nhà độc tài và ngăn chặn chiến tranh .

Kordt cho biết vào ngày 27 tháng 9, nhóm âm mưu định ngày hành động là 29 tháng 9. Còn sĩ quan cảnh sát Gisevius khai trước Toà án Nuremberg rằng các tướng Halder và Witzleben quyết định hành động lập tức vào ngày 28 tháng 9 sau khi họ nhận được bản sao "bức thư thách thức" của Hitler với "yêu sách xấc xược" gửi Chamberlain đêm hôm trước. Các tướng lĩnh tin rằng đó là chứng cứ cho thấy Hitler định tiến hành chiến tranh .

Dòng lệ lăn dài trên má Halder vì phẫn nộ. Witzleben thúc giục, cho rằng giờ đây là lúc phải hành động, khuyến dụ Halder đi gặp Tướng Tư lệnh Lục quân Brauchitsch. Sau một lúc, Halder trở về cho biết có tin vui: Brauchitsch cũng tức giận và có lẽ sẽ tham gia bạo loạn .

Tuy nhiên, hoặc nội dung trong bức thư của Hitler bị thay đổi khi sao chép, hoặc các tướng lĩnh ngộ nhận, bởi vì như ta đã biết, bức thư ấy có ngôn từ ôn hoà, đầy lời hứa hẹn "đàm phán chi tiết với Tiệp Khắc" và "nghiêm túc đảm bảo cho phần còn lại của Tiệp Khắc". Vì thế mà Chamberlain mới đề xuất một hội nghị như trên đã nêu .

Hiển nhiên các tướng lĩnh không biết về sự dàn hoà vào giờ phút cuối cùng này, nhưng trong thâm tâm von Brauchitsch có thể nghi ngại. Theo Gisevius, Witzleben gọi điện cho Brauchitsch từ văn phòng của Halder, cho biết mọi việc đã sẵn sàng và xin ông đứng ra chỉ huy cuộc đảo chính. Nhưng vị Tư lệnh Lục quân vẫn lửng lơ. Ông cho Halder và Witzleben biết rằng ông sẽ đến Phủ Thủ tướng để tự mình xem các tướng lĩnh cố đánh giá tình hình đúng hay không. Gisevius kể lại rằng Witzleben vội trở về tổng hành dinh của mình. Ông phấn khích nói: "Gisevius, giờ khắc đã đến!" Lúc 11 giờ sáng 28 tháng 9, điện thoại trên bàn của Kordt ở Bộ Ngoại giao nhận cuộc gọi từ Ý. Bên Đức đã nghe lén và ghi âm cuộc gọi. Hoá ra đó là cuộc điện đàm giữa Mussolini và Đại sứ Ý tại Đức, Bernardo Attolico .

MUSOLINI: Lập tức yêu cầu gặp Thủ tướng Đức. Nói với ông ấy Chính phủ Anh thông qua Lord Perthđã yêu cầu tôi làm trung gian trong vấn đề Sudeten. Các ý kiến mâu thuẫn chỉ nhỏ thôi. Nói với ông Thủ tướng rằng tôi và nước Ý phát xít đứng sau lưng ông ấy. Ông ấy phải quyết định. Nhưng nói với ông ấy tôi thiên về việc chấp nhận đề xuất .

ATTOLICO: Vâng, tôi đã rõ .

MUSOLINI: Nhanh lên! Đại sứ Attolico vội vã đi đến Phủ Thủ tướng và thấy Đại sứ Pháp François-Poncet đã vào họp với Hitler từ lúc 11 giờ 15 phút sáng. Bên Pháp muốn đi trước Anh một bước: Anh đã đề nghị Tiệp Khắc chuyển giao trước một vùng nhỏ, còn bây giờ Pháp đề nghị 3 vùng lớn bao gồm hầu hết lãnh thổ đang bị tranh chấp .

Đó là một đề nghị hấp dẫn, nhưng vị Đại sứ Pháp gặp khó khăn để thông báo. Ông gọi điện lúc 8 giờ sáng ngày 28 tháng 9 để xin cái hẹn với Thủ tướng Đức nhưng không có ai nhấc máy. Lúc 10 giờ, ông phái tuỳ viên quân sự đi nhanh đến Bộ Tư lệnh Lục quân để nói cho cho tướng lĩnh Đức biết về đề nghị mà ông không thể thông báo .

Để gặp được Hitler, Đại sứ Pháp phải nhờ đến Đại sứ Anh Nevile Henderson. Ông này sốt sắng muốn giúp đỡ bất kỳ ai có thể giúp tránh chiến tranh với bằng bất kỳ giá nào. Thật ra Henderson đang tự mình cố làm việc này, vì được chỉ thị trao cho Hitler "thông điệp cuối cùng của Thủ tướng" mà Chamberlain đã soạn đêm trước, trấn an Hitler rằng ông này có thể nhận bất kỳ thứ gì theo yêu sách "mà không có chiến tranh, không chậm trễ, cùng đề xuất cho một hội nghị để bàn chi tiết .

Hitler tiếp kiến François-Poncet lúc 11 giờ 15 phút sáng và vị Đại sứ Pháp đã nhận thấy vẻ mặt lo lắng và căng thẳng ở ông. Ông giơ ra một bản đồ mà ông đã phác hoạ vội vàng, cho thấy những vùng đất Tiệp Khắc mà Pháp – Đồng minh chính của Tiệp Khắc – đề xuất giao cho Đức và thúc đẩy Hitler chấp thuận .

Lúc 11 giờ 40, buổi họp bị gián đoạn bởi một tuỳ viên vào thông báo rằng Attolico vừa đến với một tin nhắn khẩn từ Mussolini gửi cho Lãnh tụ. Hitler ra khỏi phòng cùng với Schmidt để đón vị Đại sứ Ý đang thở hổn hển .

Attolico kêu lớn lên từ khoảng cách xa: "Tôi có tin nhắn cho ngài từ Duce!" Sau khi trao tin nhắn, Attolico thêm rằng Mussolini xin Lãnh tụ ngừng động binh .

Theo Schmidt – người làm chứng duy nhất của quang cảnh ấy còn sống sót – thì chính vào thời điểm này mà quyết định cho hoà bình được chấp nhận. Lúc đó là đúng giữa trưa, 2 tiếng đồng hồ trước thời hạn của tối hậu thư Hitler đưa ra cho Tiệp Khắc .

Với vẻ nhẹ nhõm, Hitler nói với Attolico: "Xin nói với Duce rằng tôi chấp nhận đề nghị của ông ấy" .

Đại sứ Anh Handerson đi theo Attolico và François-Poncet vào gặp Hitler .

Hitler nói với Handerson: "Theo lời yêu cầu của người bạn và Đồng minh vĩ đại của tôi, Mussolini, tôi sẽ hoãn động binh trong vòng 24 giờ". Và ông sẽ quyết định những việc khác sau khi tham khảo thêm với Mussolini. Dù cho như ta đã biết, Hitler đã điều động xong xuôi mọi lực lượng .

Ít phút trước thời hạn của tối hậu thư, vào lúc 2 giờ chiều ngày 28 tháng 9 năm 1938, Đức gửi thư mời lãnh đạo các Chính phủ Anh, Pháp và Ý đến gặp Hitler ở Munich vào lúc trưa ngày hôm sau để dàn xếp vấn đề Tiệp Khắc. Không có thư mời cho Tiệp Khắc – vốn là nạn nhân và cho Liên Xô – vốn là nước cùng bảo lãnh cho Tiệp Khắc .

Trong tập hồi ký của mình, Nevile Henderson đã ghi phần lớn công lao cứu vãn nền hoà bình vào lúc này là do Mussolini và nhiều sử gia khi viết về chuyện này cũng đồng ý với ông ta.Nhưng chắc chắn điều này là một sự tâng bốc thái quá. Ý là nước yếu nhất trong số các cường quốc ở châu Âu và sức mạnh quân sự của Ý là không đáng kể. Chỉ có Anh và Pháp mới là 2 cường quốc có trọng lượng trong những tính toán của Đức. Và chính do Thủ tướng Anh là người ngay từ đầu đã cố thuyết phục Hitler rằng ông ta có thể nhận được Sudetenland mà không cần đến chiến tranh. Chamberlain – chứ không phải Mussolini – đã dẫn đến thoả hiệp ở Munich và do đó, duy trì được nền hoà bình trong đúng 11 tháng .

Vào lúc 3 giờ kém 5 ngày "Thứ Tư Đen", bây giờ đã bớt tăm tối hơn so với buổi sáng, Thủ tướng Anh bắt đầu phát biểu trước Nghị viện, tường trình về diễn tiến của cuộc khủng hoảng Tiệp Khắc. Lúc 4 giờ 15, khi đến gần phần cuối của bài phát biểu, thì ông bị ngắt lời. Một mảnh giấy được trao cho ông .

Chamberlain liếc qua mảnh giấy và mỉm cười .

"Tôi có thêm một điều để thông báo... Bây giờ, ông Hitler mời tôi đến gặp ông ấy Munich sáng ngày mai. Ông ấy cũng mời ngài Mussolini và ngài Daladier. Ngài Mussolini đã nhận lời và tôi tin chắc ngài Daladier cũng sẽ đồng ý. Tôi không cần nói câu trả lời của tôi sẽ là..." Không cần phải nói. Một cơn cuồng loạn tập thể nổi lên chưa hề có tiền lệ trong lịch sử lâu đời của Nghị viện này, tiếng reo hò man dại, nhiều giấy tờ được ném lên cao, nhiều người mắt trào lệ và một giọng nói cất lên như là thay mặt cho những người khác: "Cảm ơn Chúa đã phù hộ cho Thủ tướng!" Công sứ Tiệp Khắc Jan Masaryk tại Anh từ khu vực ngoại giao đoàn nhìn quang cảnh mà không thể tin vào mắt mình. Sau đó, ông đến gặp Thủ tướng và Ngoại trưởng ở phố Downing để hỏi xem nước ông – vốn sẽ chịu mọi hy sinh – có được mời hay không. Chamberlain và Halifax trả lời rằng không, Hitler không chấp nhận điều đó .

Masaryk nhìn chăm chăm 2 nhà lãnh đạo Anh và cố giữ tự chủ. Cuối cùng, ông nói: "Nếu các ông hy sinh đất nước tôi để bảo tồn nền hoà bình của thế giới, thì tôi sẽ là người đầu tiên hoan nghênh các ông. Nhưng nếu không, các ông ạ, xin Thượng Đế cứu rỗi linh hồn các ông!" Về phần những người âm mưu chống lại Hitler thì thế nào? Như các tướng lĩnh và dân thường, Tướng Halder và Tướng von Witzleben, Schacht và Gisevius và Kordt cùng những người còn lại, những người trước giờ trưa của ngày định mệnh ấy đã tin rằng thời khắc đã tới, hiện giờ ra sao? Có thể đưa ra câu trả lời theo cách nói của họ – được thốt lên mãi về sau, khi mà mọi chuyện đã xong xuôi và họ cố tìm cách chứng tỏ cho thế giới thấy họ đã chống đối Hitler như thế nào .

Tất cả bọn họ đều cho rằng Neville Chamberlain là tội đồ! Bằng cách đi đến Munich, ông này buộc bọn họ vào phút cuối phải bãi bỏ kế hoạch lật đổ Hitler và chế độ Quốc xã! Lúc Toà án Nuremberg gần kết thúc, Tướng Halder được phỏng vấn riêng, và nói: "Đã có kế hoạch đánh chiếm Phủ Thủ tướng và các toà nhà văn phòng của Chính phủ, đặc biệt là các bộ do Đảng viên điều hành, với ý định tránh đổ máu... Đúng ngày [28 tháng 9], Witzleben đến gặp tôi... Chúng tôi thảo luận các chi tiết... Trong khi thảo luận, có tin đưa đến là Thủ tướng Anh và Thủ tướng Pháp đã đồng ý đến gặp Hitler để bàn thảo thêm. Việc này xảy ra khi có mặt Witzleben. Vì thế tôi rút lại lệnh khởi sự bởi vì, dựa trên sự kiện ấy, chẳng còn có cơ sở để hành động... Chúng tôi tin tưởng chắc chắn rằng mình sẽ thành công. Nhưng khi ông Chamberlain đi đến, đồng nghĩa với việc ngay lập tức có thể tránh khỏi nguy cơ chiến tranh... Người ta chỉ có thể chờ đến một dịp khác..." Câu hỏi: "Vậy có nghĩa là nếu Chamberlain không đến Munich, thì đáng lẽ kế hoạch của các ông có thể được thi hành và Hitler hẳn đã bị lật đổ?" Tướng Halder trả lời: "Tôi chỉ có thể nói kế hoạch hẳn đã được thi hành. Tôi không biết liệu hẳn đã thành công hay không?" Tiến sĩ Schacht, người ở Toà án Nuremberg và trong cuốn sách viết sau chiến tranh đã phóng đại vai trò của ông trong các âm mưu khác nhau chống Hitler, cũng đổ lỗi cho Chamberlain: "Rõ ràng là... âm mưu đầu tiên của Witzleben và tôi là âm mưu duy nhất có thể mang đến bước ngoặt trong định mệnh của nước Đức. Đó là âm mưu duy nhất được trù định và chuẩn bị ở thời điểm thích hợp... Vào mùa thu 1938, vẫn còn có thể mang Hitler ra xử trước Toà án Tối cao, nhưng mọi nỗ lực sau này đều cần tính đến việc kết liễu tính mạng ông ấy... Lịch sử đã chống lại chúng tôi. Sự can dự của một chính khách nước ngoài là điều tôi không thể xét đến" .

Và Gisevius cũng nói thêm: "Điều không thể xảy ra đã xảy ra. Chamberlain và Daladier đang bay đến Munich. Cuộc nổi dậy của chúng tôi bị phá hoại. Trong vài giờ, tôi còn tưởng tượng rằng dù sao đi nữa, chúng tôi vẫn có thể phát động cuộc nổi dậy. Nhưng Witzleben giải thích cho tôi biết rằng binh sĩ sẽ chẳng bao giờ nổi dậy chống lại vị Lãnh tụ chiến thắng... Chamberlain đã cứu Hitler" .

Đúng thế không? Hay đây chỉ là cách để bào chữa cho sự thất bại? Khi khai trước Toà án Nuremberg, Halder giải thích rằng có 3 điều kiện để một "hành động Cách mạng" thành công: "Điều kiện thứ nhất là sự lãnh đạo rõ ràng và quyết đoán. Điều kiện thứ hai là quần chúng phải sẵn sàng chấp nhận ý tưởng Cách mạng. Điều kiện thứ ba là chọn thời điểm cho đúng. Theo quan điểm của chúng tôi, điều kiện thứ nhất về sự lãnh đạo rõ ràng và quyết đoán đã đạt được. Chúng tôi nghĩ điều kiện thứ hai cũng hoàn tất, bởi vì... dân tộc Đức không muốn chiến tranh. Điều kiện thứ ba – chọn thời điểm cho đúng – cũng tốt bởi vì chúng tôi đã trông đợi trong vòng 48 giờ lệnh thực hiện hành động quân sự. Vì thế, chúng tôi tin chắc rằng mình sẽ thành công .

Nhưng khi ấy, ông Chamberlain lại đến và chỉ trong phút chốc hiểm hoạ chiến tranh đã được ngăn chặn" .

Người ta có thể nghi ngờ về việc đạt điều kiện thứ nhất. Lý do là, nếu có "sự lãnh đạo rõ ràng và quyết đoán" thì tại sao các tướng lĩnh lại lưỡng lự trong 4 ngày? Họ có đủ sức mạnh quân sự để quét sạch Hitler và chế độ của ông ta: Witzleben có nguyên một quân đoàn nằm trong và xung quanh Berlin – Quân đoàn III, Brockdorff-Ahlefeldt có một sư đoàn bộ binh thiện chiến gần Potsdam, Hoetner có một sư đoàn thiết giáp ở miền Nam và 2 sĩ quan cảnh sát cấp cao ở thủ đô, Bá tước von Helldorf và Bá tước von der Schulenburg có một lực lượng cảnh sát hùng hậu. Theo các nhân vật trong nhóm kể lại, tất cả các sĩ quan này chỉ chờ mệnh lệnh của Halder để đứng lên hành động với lực lượng áp đảo. Và dân chúng ở Berlin, đang sợ chết khiếp khi thấy Hitler sắp gây chiến tranh, có thể tự phát ủng hộ cuộc đảo chính – đó là theo những gì tác giả có thể phán đoán .

Người ta không bao giờ trả lời được một cách thoả đáng câu hỏi: Liệu cuối cùng là Halder và Witzleben có hành động, nếu Chamberlain không đến Munich hay không? Xét qua thái độ lạ kỳ của các tướng lĩnh này khi họ muốn lật đổ Hitler chỉ nhằm tránh chiến tranh, chứ không phải chấm dứt sự chuyên chế tàn bạo, thì có lẽ họ đã hành động nếu không có hội nghị Munich. Ta không có thông tin để biết âm mưu đã được tổ chức hoàn thiện như thế nào, các lực lượng đã sẵn sàng đến đâu để tiến công và Halder cùng Witzleben đã tiến gần ra sao đến việc ra lệnh hành động. Chúng ta chỉ có lời khai của một nhóm nhỏ những người mà sau chiến tranh muốn chứng tỏ họ chống lại Quốc xã và những gì họ nói hay viết ra để tự bào chữa thường là mâu thuẫn và khó hiểu. Nếu đúng như những nhân vật âm mưu nói, kế hoạch của họ đang đến điểm phải thi hành, thì lời loan báo về chuyến đi của Chamberlain chắc chắn sẽ làm cho họ hụt hẫng. Các tướng lĩnh khó mà bắt giữ và đưa Hitler ra toà như là tội nhân chiến tranh khi rõ ràng là ông sắp đạt một thành tựu quan trọng mà không cần chiến tranh .

Điều chắc chắn trong số những điều không chắc – và ở đây Tiến sĩ Schacht đã có lý – đó là cơ hội bằng vàng như thế không bao giờ có lại để hạ bệ Hitler, chấm dứt nhanh chóng Đế chế Thứ Ba và tránh cho Đức cùng thế giới một cuộc chiến. Tuy có thể bị phê phán là vơ đũa cả nắm, nhưng cũng nên nói là người Đức có khuyết điểm ở chỗ là hay đổ lỗi cho người nước ngoài về thất bại của mình. Chamberlain và Halifax, Daladier và Bonnet có trách nhiệm đối với hội nghị Munich và đối với những hậu quả thảm khốc tiếp theo đó. Nhưng họ có thể được tha thứ phần nào vì đã không để ý đến những lời cảnh báo về cuộc "nổi loạn" của những người mà đa số đang phục vụ đắc lực cho Hitler đến thời điểm này .

Họ – hoặc ít nhất là những người tham mưu cho họ ở London và Paris – có lẽ phải nhớ lại những sự kiện ảm đạm trong lịch sử nước Đức trong thời gian gần đây. Đó là: Quân đội đã đặt một cựu hạ sĩ người Áo lên nắm quyền lực, lấy làm vui mừng khi ông ta cho họ cơ hội tái vũ trang, không chống đối việc tước bỏ quyền tự do cá nhân, không làm gì khi Tướng von Schleicher bị hạ sát hoặc khi tướng von Fritsch bị dàn cảnh và gần đây là sự đồng thuận trong việc xâm lấn Áo, đúng ra là cung cấp lực lượng Quân đội để thi hành. Dù có đổ bao nhiêu tội lên đầu những kẻ có tội nặng vì đã xoa dịu ở London và Paris đi chăng nữa, thì sự thật vẫn còn đấy: Chính tướng lĩnh Đức và những cộng tác viên dân sự vào thời khắc thích hợp đã không tự mình nắm lấy quyền hành động .

SỰ ĐẦU HÀNG Ở MUNICH: NGÀY 29 30 THÁNG 9 NĂM 1938 Thành phố của bang Bavaria này đã chứng kiến Hitler bắt đầu làm chính trị trong những gian phòng tối tăm phía sau quán cà phê và chịu thất bại trên đường phố trong vụ bạo loạn Nhà hàng Bia. Cũng ở thành phố này, vào lúc 12 giờ 30 xế chiều ngày 29 tháng 9 năm 1938, Adolf Hitler với vị thế như là người chuyên đi thôn tính sẽ tiếp đón nguyên thủ của các Chính phủ Anh, Pháp và Ý .

Lúc sáng sớm, Hitler đi Kufstein trên đường biên giới Áo-Đức cũ để đón Mussolini và hoạch định cơ sở cho 2 bên cùng hành động ở bàn hội nghị. Trên toa xe đi đến Munich, Hitler có thái độ hung hăng, giải thích cho Mussolini qua các bản đồ rằng mình có ý định ra sao để "trừ khử" Tiệp Khắc. Ông nói buổi đàm phán sẽ phải thành công lập tức, nếu không ông phải khởi động chiến tranh. Ciano, người có mặt trên cùng toa xe đã kể lại rằng Hitler còn nói thêm: "Hơn nữa, sẽ có lúc chúng ta phải chiến đấu bên nhau chống lại Pháp và Anh". Mussolini đồng ý .

Chamberlain không cần đi gặp Daladier trước để xếp đặt theo cách tương tự cho chiến lược chung của 2 nền dân chủ phương Tây, nhằm đối phó với 2 nhà độc tài Phát xít. Thật ra, khi tiếp xúc với các phái đoàn Anh và Pháp, nhiều người trong giới truyền thông chúng tôi thấy rõ là Chamberlain đến Munich để đảm bảo không một ai – nhất là Tiệp và kể cả Pháp – ngáng trở ông đạt thoả thuận nhanh với Hitler. Lúc 6 giờ 45 chiều hôm trước, Chamberlain đã thông báo chính thức cho Tổng thống Beneš về hội nghị ở Munich: "Tôi sẽ để tâm đến quyền lợi của Tiệp Khắc. Tôi đi đến đó [Munich] với ý định cố gắng tìm sự thoả hiệp giữa quan điểm của Đức và Tiệp Khắc." Beneš lập tức trả lời: "Tôi yêu cầu ông đừng làm gì ở Munich mà không thông báo cho Tiệp Khắc" .

Còn trường hợp của Daladier – người suốt ngày như trong tình trạng mộng du – thì không cần lo lắng, nhưng Thủ tướng Anh vẫn muốn chắc chắn .

Hội nghị bắt đầu lúc 12 giờ 45 chỉ có tính thủ tục nhằm thực hiện chính xác những gì Hitler muốn vào thời điểm ông ta muốn. Nhà thông dịch Schmidt, làm việc bằng 3 ngôn ngữ Đức, Pháp và Anh, đã để ý ngay từ đầu đến "không khí thiện chí". Đại sứ Henderson sau này nhớ lại rằng "không có lúc nào sự thảo luận trở nên căng thẳng". Không có ai làm chủ trì. Công việc tiến hành một cách xuề xoà và xét theo biên bản buổi họp được tịch thu sau chiến tranh, Thủ tướng Anh và Thủ tướng Pháp khá sẵn lòng đồng ý với Hitler .

Hội nghị bắt đầu công việc thật sự khi Mussolini, người phát biểu thứ ba – Daladier được để sau cùng – nói "nhằm mang đến một giải pháp thực tế cho vấn đề", ông mang theo một đề xuất ghi trên giấy. Nguồn gốc văn bản này là đáng chú ý và tôi tin cho đến khi qua đời, Chamberlain vẫn không hề biết gì về nó. Từ hồi ký của François-Poncet và Henderson, rõ ràng là họ cũng không biết. Thật ra, câu chuyện chỉ được đưa ra ánh sáng sau một thời gian dài sau khi 2 nhà độc tài qua đời .

Cái mà Mussolini mang ra là kế hoạch dung hoà của chính ông đã được vội vã soạn thảo ngày hôm trước tại Bộ Ngoại giao Đức. Các tác giả là Goering, Neurath và Weizsaecker làm việc sau lưng Ribbentrop, vì 3 người không tin tưởng vào phán xét của ông này. Goering mang văn bản đến trình Hitler, ông này chấp nhận, rồi Tiến sĩ Schmidt vội vã dịch văn bản sang tiếng Pháp. Văn bản được trao cho Đại sứ Ý Attolico và người này đọc nội dung qua điện thoại cho Mussolini nắm bắt ở Rome, ngay trước khi ông lên đường đi Munich. Vì thế "đề xuất Ý", vốn cung cấp cho hội nghị văn kiện làm việc duy nhất và cũng thể hiện những điều khoản cơ sở rồi cuối cùng trở thành Hiệp định Munich, thật ra là đề xuất của Đức được soạn ra ở Berlin. Đáng lẽ việc này được xem như hiển nhiên bởi vì văn bản phù hợp với yêu sách Godesberg của Hitler đã bị từ khước, nhưng Daladier và Chamberlain không thấy đó là hiển nhiên. Theo ghi chép của Đức, Thủ tướng "hoan nghênh đề xuất của Ý vốn được soạn ra trong tinh thần khách quan và thực tế". Còn Đại sứ Anh tại Đức Henderson nghĩ Mussolini "đã đưa ra một cách khôn khéo như là sự kết hợp các đề xuất của Hitler và Anh-Pháp". Còn Đại sứ Pháp tại Đức François-Poncet có ấn tượng là hội nghị đang làm việc dựa trên bản ghi nhớ của Anh "do Horace Wilson soạn thảo". Chỉ vì muốn xoa dịu bằng bất kỳ giá nào mà các chính khách và nhà ngoại giao Anh-Pháp đã bị lừa dối quá dễ dàng! Vì các bên đều hoan nghênh "đề xuất của Ý", nên chỉ cần thảo luận các chi tiết thi hành. Chamberlain – nguyên là doanh nhân và cựu Bộ trưởng Tài chính – muốn biết ai sẽ đền bù cho tài sản công được chuyển giao cho Đức. Có vẻ mệt nhọc và cũng bực dọc vì không thể theo dõi các câu trao đổi bằng tiếng Pháp và Anh, Hitler trả lời ngay là không có đền bù gì cả. Khi Chamberlain phản đối điều khoản quy định người Tiệp không được mang theo bò khi rút khỏi Sudetenland, Hitler lớn tiếng: "Không nên phí thời giờ quý báu của chúng ta vào chuyện vụn vặt như thế!" Vị Thủ tướng Anh liền bỏ qua vấn đề .

Nhưng Chamberlain đòi hỏi phải có mặt đại diện của Tiệp Khắc. Ông nói Anh "không thể đảm bảo người Tiệp sẽ rút lui xong xuôi vào ngày 1 tháng 10 nếu Chính phủ Tiệp Khắc không cam kết việc này". Daladier tỏ ý ủng hộ tuy không nhiệt tình lắm .

Nhưng Hitler vẫn khăng khăng. Ông sẽ không cho phép người Tiệp đến khi có sự hiện diện của ông. Daladier ngoan ngoãn chịu thua, nhưng Chamberlain cuối cùng đạt được một ít nhượng bộ. Hội nghị đồng ý rằng một đại diện của Tiệp Khắc có thể chờ đợi "trong phòng bên cạnh" như Chamberlain đề nghị .

Và đúng thế, buổi xế chiều 2 đại diện của Tiệp Khắc đến: Tiến sĩ Voltech Mastny, Công sứ Tiệp Khắc tại Đức và Tiến sĩ Hubert Masarik của Bộ Ngoại giao Tiệp Khắc. Họ được lạnh lùng đưa vào một căn phòng bên. Sau khi chờ đợi mỏi mòn từ 2 giờ chiều cho đến 7 giờ tối, họ được Frank Ashton-Gwatkin trong đoàn Anh báo tin chẳng lành. Hội nghị đã đi đến nhất trí chung, ông không thể cho biết chi tiết, nhưng nó còn "khắc nghiệt" hơn cả đề xuất của Pháp-Anh .

Lúc 10 giờ tối, 2 nhân vật Tiệp Khắc vô phúc được đưa vào gặp Horace Wilson, cố vấn của Thủ tướng Anh. Thay mặt Thủ tướng, Wilson thông báo cho 2 người về những điểm chính và trao cho họ tấm bản đồ mà theo đấy, người Tiệp phải rút đi lập tức. Khi 2 nhân vật Tiệp Khắc định lên tiếng phản đối, Wilson đã ngắt lời họ. Ông bảo chẳng còn gì để nói và lập tức bước ra khỏi phòng. 2 nhân vật Tiệp Khắc phản đối với Ashton-Gwatkin lúc này vẫn còn ở bên cạnh mình, nhưng vô vọng. Ông nói với 2 người: "Nếu không chấp nhận, các ông sẽ phải giải quyết chuyện này với người Đức mà không có chúng tôi. Có lẽ người Pháp sẽ nói với các ông điều này một cách nhỏ nhẹ hơn, nhưng các ông nên tin là họ có cùng quan điểm với chúng tôi. Họ không quan tâm" .

Đó là sự thật, dù là nghe phũ phàng đối với 2 đại diện của Tiệp Khắc .

Khoảng sau 1 giờ sáng ngày 30 tháng 9 năm 1938, tuần tự Hitler, Chamberlain, Mussolini và Daladier ký vào bản Hiệp ước Munich quy định Quân đội Đức sẽ bắt đầu tiến vào Tiệp Khắc ngày 1 tháng 10, đồng thời hoàn tất việc chiếm đóng Sudetenland ngày 10 tháng 10. Hitler đạt được kết quả đúng như yêu sách đã bị từ chối tại Godesberg .

Thật ra, Hiệp ước đề ngày 29 tháng 9 năm 1938. Các điều khoản chính quy định Đức sẽ tiến vào chiếm đóng trong 4 giai đoạn từ 1 tháng 10 đến 7 tháng 10. Đức sẽ chiếm đóng phần lãnh thổ còn lại ngày 10 tháng 10, sau khi "uỷ hội Quốc tế" vạch ranh giới, uỷ hội sẽ gồm đại diện của Anh, Pháp, Đức, Ý và Tiệp Khắc, "uỷ hội Quốc tế" sẽ tổ chức trưng cầu dân ý "chậm nhất là cuối tháng Mười một" ở những vùng không rõ tỷ lệ của các dân tộc và sẽ xác định các ranh giới. Trong phần phụ lục, Anh và Pháp tuyên bố "thi hành đề nghị... liên quan đến việc đảm bảo quốc tế đối với đường biên giới mới của Tiệp Khắc chống lại sự xâm lấn vô cớ. Khi đã giải quyết các vấn đề dân tộc thiểu số Ba Lan và Hungary..., Đức và Ý sẽ đảm bảo cho Tiệp Khắc." Cam kết về trưng cầu dân ý không bao giờ được thực hiện. Cả Đức lẫn Ý không bao giờ đảm bảo cho Tiệp Khắc chống lại sự xâm lấn, ngay cả sau khi các vấn đề dân tộc thiểu số Ba Lan và Hungary được giải quyết. Và, như ta sẽ thấy, Anh và Pháp từ chối việc đảm bảo của họ .

Còn lại một việc đau lòng – ít nhất là đau lòng đối với nạn nhân – đó là việc thông báo cho phía Tiệp Khắc những gì họ phải từ bỏ và từ bỏ nhanh chóng như thế nào. Hitler và Mussolini không muốn làm việc này nên rút lui, để lại cho 3 bên Anh, Pháp và Tiệp Khắc tự lo. Trong báo cáo gửi cho Bộ Ngoại giao Tiệp Khắc, Masarik mô tả quang cảnh một cách sinh động: "Lúc 1 giờ 30 sáng, chúng tôi được đưa vào gian phòng nơi đã diễn ra hội nghị. Hiện diện gồm có các ông Chamberlain, Daladier, Horace Wilson, ông Léger [Chánh văn phòng Bộ ngoại giao Pháp], ông Ashton-Gwatkin, Tiến sĩ Mastny và tôi. Không khí thật ngột ngạt, bản án sắp được tuyên cáo. Phía người Pháp thể hiện sự bồn chồn lo lắng, cố giữ thanh danh trước phiên toà. Trong lời mở đầu dài, ông Chamberlain nói về Hiệp ước và trao văn bản cho Tiến sĩ Mastny..." Phía Tiệp Khắc bắt đầu hỏi vài câu, nhưng... "Ông Chamberlain ngáp liên tục mà không cố che giấu việc ông đang ngáp. Tôi hỏi ông Daladier và ông Léger liệu họ có trông chờ Chính phủ ta tuyên bố hoặc trả lời gì về bản Hiệp ước hay không, ông Daladier rõ ràng là lúng túng. Ông Léger trả lời rằng 4 chính khách không có thời giờ. Ông nói thêm một cách vội vàng và hời hợt rằng ta không cần trả lời, vì họ xem như kế hoạch đã được chấp nhận, rằng Chính phủ ta, chậm nhất là vào 3 giờ chiều, phải gửi đại diện để tham gia vào uỷ hội và cuối cùng rằng nhân viên Tiệp Khắc được phái đi phải có mặt ở Berlin vào ngày thứ Bảy, để xác định các chi tiết cho việc rút khỏi vùng đầu tiên. Ông nói bầu không khí đang bắt đầu trở nên nguy hiểm cho cả thế giới .

Ông ấy cũng nói với chúng tôi với giọng điệu khá gay gắt. Đó là một người Pháp... Ông Chamberlain không che giấu sự mệt mỏi. Họ trao cho chúng tôi một tấm bản đồ thứ hai được sửa chữa đôi chút. Rồi họ xong việc và chúng tôi có thể ra về." Tôi còn nhớ, trong cái đêm định mệnh ấy, ánh sáng chiến thắng loé trong đôi mắt của Hitler khi ông khệnh khạng bước xuống các bậc thềm của toà nhà hội nghị sau cuộc họp, vẻ tự mãn của Mussolini trong bộ quân phục đặc biệt, những cái ngáp và vẻ mặt ngái ngủ dễ chịu của Chamberlain khi ông trở lại khách sạn Regina Palace. Tối ấy, tôi ghi vào nhật ký: "Daladier, trái lại, biểu lộ là một người hoàn toàn bại trận và thất vọng. Ông đến khách sạn Regina để chào từ biệt Chamberlain... Có ai đấy hỏi, hoặc bắt đầu câu hỏi: 'Thưa ông, ông có hài lòng với hiệp ước hay không?' Ông quay người như thể muốn nói gì đấy, nhưng ông đã quá mệt mỏi và thất bại quá nặng nề nên ngôn từ không thể thoát ra, rồi ông loạng choạng bước đi trong im lặng" .

Chamberlain vẫn chưa hội ý xong xuôi với Hitler về nền hoà bình của thế giới. Sáng sớm ngày 30 tháng 9, sau giấc ngủ vài tiếng đồng hồ và hài lòng về nỗ lực ngày hôm trước, ông đến gặp Hitler trong căn hộ riêng của ông này ở Munich để thảo luận thêm về tình hình châu Âu, đồng thời để đạt được thêm một số nhượng bộ mà ông nghĩ có thể cải thiện được vị thế chính trị của ông tại quê nhà .

Theo Tiến sĩ Schmidt, thông dịch và là nhân chứng duy nhất trong buổi hội kiến bất ngờ này, Hitler có vẻ xanh xao và khó chịu. Ông nghe một cách lơ đãng trong khi người đứng đầu Chính phủ Anh lại hồ hởi bày tỏ niềm tin rằng nước Đức sẽ "có thái độ rộng lượng trong việc thực hiện Hiệp ước Munich", ông còn lặp lại niềm hy vọng của mình rằng người Tiệp sẽ "không đến nỗi quá đáng mà gây khó khăn" và rằng dù cho họ có như thế, Hitler cũng sẽ không bỏ bom Prague vì điều đó sẽ "gây ra thiệt hại kinh hoàng cho dân thường". Đó chỉ là phần mở đầu cho lời phát biểu dông dài huyên thuyên có vẻ như khó tin là do một vị Thủ tướng Anh thốt ra, nếu không được Tiến sĩ Schmidt ghi lại trong một bản ghi nhớ chính thức của Bộ Ngoại giao, thì ngay cả bây giờ, nếu đọc văn bản được tịch thu này, ta vẫn sẽ thấy khó tin .

Nhưng đây chỉ là phần mào đầu của vị lãnh đạo nước Anh. Sau một bài luận văn bất tận đề nghị sự cộng tác trong các việc chấm dứt cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, giải trừ quân bị, sự phồn thịnh kinh tế thế giới, hoà bình chính trị ở châu Âu và thậm chí là giải quyết vấn đề nước Nga, vị Thủ tướng Anh rút ra từ trong túi áo một văn bản mà ông viết sẵn để mong cả 2 bên cùng ký vào: "Hôm nay, chúng tôi, Lãnh tụ cùng với Thủ tướng Đức và Thủ tướng Anh, đã gặp gỡ thêm và nhất trí nhận định rằng quan hệ Anh-Đức có tầm quan trọng hàng đầu cho hai nước và cho châu Âu .

Chúng tôi xem hiệp ước đã ký kết tối qua và Hiệp định Hải quân Anh-Đức là biểu tượng cho lòng mong mỏi của hai dân tộc chúng tôi là sẽ không bao giờ gây chiến với nhau nữa .

Chúng tôi khẳng định sẽ áp dụng phương pháp tham vấn để đối phó với bất kỳ vấn đề nào khác có thể liên quan đến 2 nước, đồng thời nhất quyết tiếp tục nỗ lực nhằm loại ra những bất đồng và qua đó, đóng góp đảm bảo nền hoà bình của châu Âu" .

Hitler đọc qua văn bản và nhanh chóng ký vào. Cảm tưởng của Tiến sĩ Schmidt là Lãnh tụ đồng ý "với một chút ngần ngại... chỉ để làm vui lòng Chamberlain" và ông này đã "cảm ơn Lãnh tụ một cách nồng hậu..." Vị Thủ tướng Anh bị lừa dối mà không biết rằng, như các tài liệu mật của Đức và Ý chỉ ra sau này, ngay trong lần gặp gỡ ở Munich này, Hitler và Mussolini đã đồng ý với nhau rằng sẽ đến lúc họ chiến đấu "bên nhau" chống lại Anh. Và ông cũng không đoán được những gì đang xao động trong sâu thẳm tâm tư của Hitler .

Chamberlain trở về London – giống như Daladier trở về Paris – trong vinh quang chiến thắng. Vung lên văn bản ký với Hitler, Chamberlain được đám đông kéo đến tư dinh của ông ở số 10 phố Downing để hoan nghênh và chúc mừng .

Trong cuộc tranh luận ở Nghị viện, Winston Churchill, lúc này vẫn còn là tiếng nói giữa đồng không mông quạnh, đã cất lên một câu đáng nhớ: "Chúng ta chịu một thất bại toàn diện, không gì cứu vãn được", rồi ông phải ngừng lại trong khi chờ cho tiếng phản đối ồn ào lắng xuống .

Đối với Tổng thống Tiệp Khắc Beneš, không có chọn lựa nào khác hơn là phải chấp nhận. Anh và Pháp không những bỏ rơi đất nước ông, mà bây giờ còn ủng hộ Hitler sử dụng vũ lực nếu ông bác bỏ bản hiệp ước. Theo lời bản công bố chính thức, Tiệp Khắc đã phải nhượng bộ "dưới sự phản đối với thế giới". Tướng Sirovy, tân Thủ tướng, nói với người dân Tiệp Khắc trên sóng phát thanh: "Chúng ta đã bị bỏ rơi. Chúng ta chỉ có một mình" .

Anh và Pháp gây áp lực đến cùng trên đất nước mà họ đã dẫn dụ và phản bội. Suốt ngày, các Đại sứ Anh, Pháp và Đức đến gặp Tiến sĩ Krotta để đảm bảo Tiệp Khắc không kháng cự vào giờ chót. Trong báo cáo gửi về Berlin, Đại biện lâm thời Đức, Tiến sĩ Hencke mô tả quang cảnh: "Đại sứ Pháp cố nói lên lời chia buồn với Krofta, nhưng bị vị Bộ trưởng Ngoại giao ngắt lời: 'Chúng tôi đã bị thúc ép mà lâm vào hoàn cảnh này, bây giờ mọi việc đều chấm dứt, hôm nay đến phiên chúng tôi, ngày mai sẽ đến phiên những người khác... Vị Bộ trưởng Ngoại giao... cuối cùng chỉ có một ý muốn: là 3 đại sứ 'phải nhanh chóng bước ra khỏi phòng'" .

Ngày 5 tháng 10 năm 1938, do áp lực từ Đức, Tổng thống Tiệp Khắc Beneš từ chức và khi biết tính mạng mình bị lâm nguy, ông đã bay đến Anh để lánh nạn. Tướng Sirovy làm Tổng thống lâm thời. Ngày 30 tháng 11, Quốc hội cử Tiến sĩ Emil Hácha, Chánh án Toà án Tối cao, 66 tuổi, làm Tổng thống phần còn lại của đất nước .

"Uỷ hội Quốc tế" được vội vã thành lập gồm các Đại sứ Ý, Anh và Pháp, thêm Công sứ Tiệp Khắc tại Đức và Thứ trưởng Ngoại giao Đức von Weizsaecker. Hitler và Quân lực Đức gây áp lực để mọi sự tranh cãi về các lãnh thổ được dàn xếp có lợi cho Đức. Cuối cùng vào ngày 13 tháng 10, uỷ hội Quốc tế biểu quyết bãi bỏ cuộc trưng cầu dân ý mà Hiệp ước Munich quy định cho những vùng đang bị tranh chấp .

Giống như những con kền kền, khi ấy Ba Lan và Hungary liền xông vào xâu xé lãnh thổ của Tiệp Khắc .

Ba Lan chiếm gần 1.700 km² xung quanh Teschen với 228.000 dân, trong số này có 133.000 người Séc .

Hungary chiếm hơn 19.000 km², với 500.000 người sắc tộc Magyar và 272.000 người Séc .

Thêm nữa, đất nước đã bị cắt vụn và mất vị thế phòng thủ bây giờ lại bị Đức ép buộc lập một chính quyền thân Đức. Rõ ràng là từ lúc này, nước Tiệp Khắc mới chỉ còn biết trông cậy vào lòng khoan dung của nhà Lãnh tụ Đế chế Thứ Ba .

HẬU QUẢ CỦA HIỆP ƯỚC MUNICH Hiệp ước Munich trao cho Hitler những gì mà ông đòi hỏi ở Godesberg và nhờ vào sự hù doạ, "uỷ hội Quốc tế đã phải cho Hitler thêm nhiều quyền lợi hơn. Cuối cùng, đến ngày 20 tháng 11 năm 1938, Tiệp Khắc nhường cho Đức gần 30.000 km² lãnh thổ, trên đó có 2.800.000 người Đức Sudeten và 800.000 người Séc sinh sống. Trên lãnh thổ này là một hệ thống lô cốt mà từ trước đến giờ đã tạo nên tuyến phòng thủ vững chắc nhất châu Âu, có lẽ chỉ kém Phòng tuyến Maginot của Pháp .

Nhưng không chỉ có thế. Cả hệ thống đường sắt, đường bộ, điện thoại và điện tín của Tiệp Khắc đều bị rối loạn. Theo số liệu của Đức, Tiệp Khắc mất trên dưới 80% than non, hoá chất, xi măng, trên dưới 70% than đá, sắt, thép, điện năng và 40% gỗ. Một đất nước công nghiệp phồn thịnh trong phút chốc bị tan rã và phá sản .

Không lạ gì mà Jodl có thể hồ hởi ghi vào nhật ký của mình vào đêm ký hiệp ước: "... Thiên tài và quyết tâm của Lãnh tụ không tránh né ngay cả chiến tranh thế giới đã một lần nữa thắng lợi mà không phải dùng đến vũ lực... Hy vọng những kẻ hoài nghi, hèn yếu và lưỡng lự đã thay đổi chính kiến..." Đúng là nhiều người hoài nghi đã thay đổi chính kiến, còn những người không thay đổi thì chìm vào nỗi tuyệt vọng. Những tướng lĩnh như Beck, Halder và Witzleben cùng các cố vấn dân sự của họ một lần nữa đã nhận định sai lầm. Hitler đạt được những gì mình muốn, có thêm một chiến tích vĩ đại mà không phải nổ phát súng nào. Uy tín của ông vươn lên tầm cao mới. Những ai có mặt ở Munich vào thời gian sau khi ký hiệp định – như tác giả – đều không thể nào quên được nỗi vui sướng tột cùng của dân Đức. Họ cảm thấy nhẹ nhõm vì đã tránh được chiến tranh, họ phấn chấn và lòng tự hào dân tộc được thổi phồng vì thắng lợi của Hitler – thắng chẳng những trước Tiệp Khắc mà còn cả Anh và Pháp .

Chỉ trong vòng 6 tháng, Hitler đã thôn tính cả Áo và Sudetenland, nhận thêm 10 triệu dân gia nhập Đế chế Thứ Ba và một dải đất mênh mông, qua đó sẽ mở đường cho Đức thống trị vùng Đông Nam châu Âu. Đặc biệt là không phải hy sinh một mạng sống của người Đức nào! Với bản năng của một thiên tài hiếm hoi trong lịch sử Đức, Hitler tìm ra điểm yếu của các nước nhỏ ở Trung Âu và của 2 nền dân chủ phương Tây – Anh và Pháp – đồng thời buộc họ phải chiều theo ý nguyện của ông ta. Ông đã suy nghĩ và vận dụng thành công những chiến lược và kỹ năng mới của chiến tranh chính trị, khiến cho không cần thiết phải gây ra chiến tranh thật sự .

Chỉ trong vòng 4 năm rưỡi, con người có lai lịch thấp hèn này đưa một nước Đức bị giải trừ quân bị, nhiễu nhương, gần như bị phá sản, nước yếu nhất trong số các cường quốc cũ, lên một vị thế được xem là đáng gờm nhất trong Cựu Thế giới, mà những nước còn lại – kể cả Anh và Pháp – đều phải run sợ. Trong suốt quá trình chóng mặt này, các cường quốc chiến thắng ở Hội nghị Versailles không dám ngăn chặn Hitler, ngay cả khi họ có đủ sức mạnh để làm việc đó .

Điều khiến cho Hitler cảm thấy lạ lùng nhất – và cũng khiến cho người chống đối ông phải kinh ngạc – là không một ai trong các Chính phủ Anh và Pháp nhận ra hậu quả khi họ không dám sử dụng vũ lực để đối phó với động thái hiếu chiến của nhà lãnh đạo Quốc xã .

Dường như chỉ có Winston Churchill của nước Anh là hiểu ra. Không ai nói lên được hệ luỵ một cách súc tích như khi ông phát biểu trước Nghị viện Anh vào ngày 5 tháng 10 năm 1938: "Chúng ta đang chịu một thất bại toàn diện, không gì cứu vãn được... Chúng ta lâm vào một thảm hoạ có tầm mức lớn lao... Con đường đến sông Danube... con đường đến biển Đen được mở rộng... Tất cả các quốc gia ở vùng Trung Âu và thung lũng Danube, lần lượt trước sau, sẽ bị cuốn vào hệ thống chính trị của Quốc xã... phát tán từ Berlin... Và đừng nghĩ đó là kết cục. Đó chỉ là bắt đầu..." Nhưng Churchill không phải là thành viên Chính phủ, nên không ai chú ý đến lời nói của ông .

Liệu Anh và Pháp có cần thiết phải nhượng bộ ở Munich không? Liệu Adolf Hitler có chơi nước bài tháu cáy hay không? Bây giờ chúng ta sẽ biết rằng câu trả lời – một cách nghịch lý đối với cả 2 câu hỏi – là: Không. Tất cả các tướng lĩnh thân cận với Hitler và sống sót sau chiến tranh đều đồng ý là nếu không có Hiệp ước Munich, thì đáng lẽ Hitler đã tấn công Tiệp Khắc ngày 1 tháng 10 năm 1938. Và họ nghĩ rằng dù lúc đầu có lưỡng lự, thì cuối cùng Anh, Pháp và Liên Xô cũng sẽ bị cuốn vào chiến tranh. Và điều quan trọng nhất cho lịch sử là ở điểm này: Tướng lĩnh Đức đều nhất trí với nhau rằng Đức sẽ bại trận và bại trận nhanh chóng .

Còn người ủng hộ Chamberlain và Daladier – họ chiếm đa số lúc này – lập luận rằng Hiệp ước Munich không phải giúp phương Tây tránh chiến tranh, mà giúp cho họ tránh bị tàn phá trong chiến tranh, nhân thể tránh cho London và Paris bị Không quân Đức san bằng. Luận cứ này lại bị chính những tướng lĩnh thân cận với Hitler và ủng hộ ông ta từ đầu đến cuối phản bác lại .

Đứng đầu nhóm này là Tham mưu trưởng Quân lực Keitel, kẻ xu nịnh Hitler và luôn ở bên cạnh ông ta. Trong Toà án Nuremberg, khi được hỏi về phản ứng của tướng lĩnh Đức đối với Hiệp ước Munich, Keitel trả lời: "Chúng tôi rất đỗi vui mừng là việc này không dẫn đến chiến dịch quân sự bởi vì... chúng tôi luôn nghĩ rằng mình sẽ không có đủ phương tiện để đánh phá những công sự phòng thủ vùng biên giới của Tiệp Khắc" .

Những chuyên gia quân sự Đồng minh luôn cho rằng Quân đội Đức có khả năng xuyên thủng Tiệp Khắc. Nhưng ngoài lời khai của Keitel rằng không phải như thế còn có thêm ý kiến của Thống chế von Manstein, một trong những tư lệnh mặt trận tài giỏi nhất của Đức. Khi khai ở Nuremberg về vị thế của Đức vào thời điểm Hiệp ước Munich, ông giải thích: "Nếu chiến tranh bùng nổ, chúng tôi không thể bảo vệ biên giới phía Tây lẫn biên giới Ba Lan và rõ ràng là chúng tôi hẳn đã bị các công sự phòng thủ của Tiệp Khắc chặn đứng, bởi vì chúng tôi không có khả năng để xuyên phá" .

Jodl, "bộ óc" của Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực, khai trước Toà án Nuremberg: "Không thể nào 5 sư đoàn tác chiến và 7 sư đoàn dự bị ở phía Tây... lại có thể chống chọi với 100 sư đoàn của Pháp, về mặt quân sự, việc này là bất khả thi" .

Nếu đúng như các tướng lĩnh Đức thừa nhận và hơn nữa, có mối bất đồng lớn giữa các tướng lĩnh đến nỗi vị Tham mưu trưởng Lục quân chuẩn bị lật đổ Lãnh tụ, thế thì tại sao các tướng lĩnh Anh và Pháp lại không biết? Liệu họ có biết không? Và nếu họ biết, làm thế nào các nhà lãnh đạo Chính phủ Anh và Pháp lại chịu hy sinh nhiều quyền lợi của quốc gia họ như thế ở Munich? Khi đi tìm câu trả lời, ta đối mặt với một trong những bí ẩn mà cho đến giờ vẫn chưa được làm sáng tỏ. Ngay cả Churchill, dù có dính dáng đến sự vụ quân sự, cũng không hề đề cập việc này trong hồi ký của mình .

Khó có thể tưởng tượng rằng tướng lĩnh và Chính phủ 2 nước Anh-Pháp không biết Bộ Tư lệnh Lục quân Đức chống đối chiến tranh châu Âu. Vì lẽ, như đã ghi trên, trong các tháng 8 và 9 năm 1938, những người âm mưu ở Berlin đã thông báo cho phía Anh qua ít nhất 4 kênh liên lạc và những chuyện này đều được thông báo cho Chamberlain. Vào đầu tháng Chín, cả Paris và London hẳn đều đã biết việc Tướng Beck từ chức và hậu quả hiển nhiên của thái độ chống đối của vị tướng tài năng này đối với Quân đội Đức .

Trong giai đoạn ấy, ở Berlin người ta công nhận rằng Anh và Pháp có khả năng quân báo khá tốt. Rất khó để tin rằng các nhà lãnh đạo quân sự Anh và Pháp không biết gì về những điểm yếu hiển nhiên của Quân đội Đức trong việc tham dự cuộc chiến ở cả 2 mặt trận. Dù là con người rất cẩn trọng, Thống chế Gamelin, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Pháp, còn e ngại gì khi ông có đến 100 sư đoàn đối mặt với 5 sư đoàn tác chiến và 7 sư đoàn dự bị của Đức? Nói chung, như sau này ông kể lại, Thống chế Gamelin không có mấy e ngại. Ngày 12 tháng 9 năm 1938, khi Hitler đang hò hét hăm doạ Tiệp Khắc trong Đại hội Đảng ở Nuremberg, vị tướng Pháp trấn an Thủ tướng Daladier rằng nếu chiến tranh xảy ra, "các quốc gia dân chủ sẽ áp đặt nền hoà bình". Ông nói mình đã củng cố lời phát biểu này bằng một bức thư giải trình những lý do cho sự lạc quan của ông .

Ngày 26 tháng 9 năm 1938, ở cao trào của cuộc khủng hoảng Tiệp Khắc, khi tháp tùng các nhà lãnh đạo Chính phủ Pháp đến London, Gamelin lặp lại lời trấn an với Chamberlain và cố biện minh bằng cách phân tích tình hình quân sự để vực dậy tinh thần 2 vị Thủ tướng đang dao động. Hiển nhiên là ông thất bại trong nỗ lực này. Cuối cùng, ngay trước khi Daladier bay đến Munich, Gamelin đã phác thảo những giới hạn trong việc nhượng đất đai ở Sudetenland mà không làm phương hại đến an ninh của Pháp. Không nên giao cho Đức các công sự, tuyến đường trục xe lửa cùng nhánh đường chiến lược và các nhà máy quốc phòng chính. Trên hết, không nên cho Đức cắt rời vùng đất khoảng giữa Moravia. Đây là những ý kiến tham mưu hợp lý, nhưng Daladier không có động thái nào cả .

Nhiều luận cứ cho rằng một lý do khiến cho Chamberlain nhượng bộ là ông sợ Không quân Đức sẽ san bằng London và chắc hẳn người Pháp cũng run sợ trước viễn cảnh kinh khiếp là thủ đô hoa mỹ của họ cũng bị tàn phá. Nhưng nếu được biết về sức mạnh của Không quân Đức lúc bấy giờ, dân chúng London và Paris cũng như 2 vị Thủ tướng không cần phải lo sợ quá đáng. Không quân Đức, giống như Lục quân Đức, đang tập trung chống lại Tiệp Khắc, vì thế không có khả năng đe doạ phương Tây. Ngay cả nếu một số máy bay thả bom của Đức có thể được tách ra để tấn công London và Paris, họ hẳn sẽ khó mà bay được đến các mục tiêu. Đức không có khả năng cung cấp máy bay chiến đấu để bảo vệ các máy bay thả bom của mình. Còn các sân bay quân sự của Đức thì lại ở khoảng cách quá xa .

Cũng có lập luận – nhất là từ 2 Đại sứ François-Poncet và Henderson – cho rằng Hiệp ước Munich cho Pháp và Anh có được gần 1 năm để bắt kịp cuộc tái vũ trang của Đức. Thực tế thì sự kiện đi ngược lại lập luận này. Như Churchill, được mọi sử gia quân sự Đồng minh ủng hộ, viết: "Thời gian 1 năm 'có thêm' do Hiệp ước Munich khiến cho Anh và Pháp sau đó ở vị thế còn tệ hại hơn so với thời điểm ký Hiệp ước" .

Như ta sẽ thấy, mọi tính toán quân sự của Đức 1 năm sau và những sự kiện khác sẽ minh chứng rõ ràng cho điều này .

Khi rà soát lại sự việc với thông tin ta có được từ tài liệu mật của Đức cùng lời khai của chính người Đức, thì ta có thể đúc kết như sau: Ngày 1 tháng 10 năm 1938, Đức không đủ mạnh để tham chiến chống lại Tiệp Khắc và Anh-Pháp, chưa kể đến Liên Xô. Nếu Đức gây hấn, Đức sẽ chiến bại một cách nhanh chóng, dễ dàng và đây sẽ là dấu chấm hết cho Hitler và Đế chế Thứ Ba. Nếu vào giờ chót, chiến tranh toàn châu Âu không thể tránh khỏi do Quân đội Đức khởi động, thì đáng lẽ Halder và Witzleben đã lật đổ Hitler ngay sau khi ông ta ra lệnh tấn công Tiệp Khắc .

Khi công khai tuyên bố rằng Đức sẽ tiến quân vào Sudetenland ngày 1 tháng 10 "trong bất cứ trường hợp nào", Hitler tự đặt mình vào "vị thế chông chênh" như Tướng Beck đã dự báo. Sau những lời hăm doạ và tuyên bố cụ thể, nếu Hitler thoái lui thì ông ta khó có thể trụ vững được lâu. Sẽ cực kỳ khó khăn – nếu không muốn nói là vô phương – cho Hitler thoái lui và dù cho ông ta có làm thế ông ta sẽ mất mặt với cả châu Âu, với dân Đức và nhất là với các tướng lĩnh, rồi không thể tồn tại được .

Thái độ ương ngạnh, cuồng tín của Chamberlain trong việc đáp ứng những gì Hitler đòi hỏi và ba chuyến đi đến Đức của ông ta đã cứu nguy, củng cố vị thế của Hitler đối với châu Âu, dân Đức và Quân đội Đức vượt quá những gì có thể tưởng tượng được vài tuần trước đó. Việc này cũng tiếp thêm sức mạnh vô hạn cho Đế chế Thứ Ba so với các nền dân chủ phương Tây và Liên Xô .

Đối với Pháp, Hiệp ước Munich là thảm hoạ và khó mà hiểu được rằng tại sao Paris lại không nhận ra vấn đề này. Vị thế quân sự của Pháp đã suy sụp. Vì lý do Quân đội Pháp không bằng phân nửa Quân đội Đức khi Đức động viên tổng lực và cũng vì khả năng sản xuất vũ khí yếu kém, nên Pháp đã phải khổ công gây dựng những mối liên minh với các nước nhỏ hơn bên cạnh sườn của Đức và Ý. Những nước này là Tiệp Khắc, Ba Lan, Nam Tư và Rumania. Kết hợp lại, họ có tiềm năng quân sự ngang bằng một cường quốc châu Âu. Bây giờ, Pháp mất đi sự yểm trợ của 35 sư đoàn Tiệp Khắc được huấn luyện nhuần nhuyễn, được trang bị hùng hậu, trấn giữ những pháo đài kiên cố vùng đồi núi và có khả năng chống trả một lực lượng Đức lớn hơn. Nhưng không chỉ có thế. Sau Hiệp ước Munich, làm thế nào những nước liên minh với Pháp còn lại ở Tây Âu lại tin tưởng vào lời hứa hẹn trên giấy tờ của Pháp? Câu trả lời của họ là: Không mấy tin tưởng, mà là họ đang cố chen lấn nhau để tìm cách thoả hiệp với Quốc xã trong khi còn có thời giờ .

Nếu không chen lấn, thì Moscow cũng cựa mình. Dù Liên Xô lập liên minh quân sự với cả Tiệp Khắc và Pháp, thì Chính phủ Pháp vẫn về hùa với Đức và Anh để loại Liên Xô ra khỏi hội nghị Munich. Stalin sẽ không bao giờ quên hành động khinh rẻ này và điều đó sẽ khiến cho 2 nước phương Tây trả giá đắt về sau. 4 ngày sau khi ký hiệp ước, tham tán Đức ở Moscow báo cáo về rằng ông chắc chắn Liên Xô sẽ "xem xét lại chính sách ngoại giao", trở nên kém thân thiện với Pháp và "tích cực hơn" với Đức. Ông nghĩ rằng "tình hình hiện tại tạo ra cơ hội thuận tiện cho một hiệp định kinh tế mới và bao quát hơn nữa giữa Đức và Liên Xô." Đây là lần đầu tiên tài liệu mật của Đức đề cập đến một thay đổi trong quan hệ giữa 2 nước mà trong vòng 1 năm sau sẽ tạo ra những hậu quả to lớn .

Dù đạt thắng lợi lớn lao và làm nhục cả Tiệp Khắc lẫn các nước dân chủ phương Tây, Hitler vẫn thất vọng về kết quả của Hiệp ước Munich. Schacht nghe Hitler ta thán với tuỳ tùng S.S. khi trở về Berlin: "Cái ông ấy [Chamberlain] đã làm tôi mất cơ hội tiến vào Prague!" Đó chính là điều Hitler mong muốn ngay từ đầu, như ông liên tục thổ lộ với tướng lĩnh từ lúc phát biểu với họ vào ngày 5 tháng 11 năm ngoái. Lúc ấy, ông giải thích rằng việc thôn tính Áo và Tiệp Khắc chỉ là bước đầu để mở rộng Lebensraum – "không gian sinh sống" – về phía Đông và tính sổ với Pháp bằng quân sự ở phía Tây. Như ông bảo Thủ tướng Hungary vào ngày 20 tháng 9 rằng cách tốt nhất là "trừ khử Tiệp Khắc". Ông nói đó là "giải pháp thoả đáng duy nhất". Và rằng ông chỉ e ngại "nguy cơ" là người Tiệp sẽ chấp nhận mọi yêu sách của mình .

Kế tiếp, Chamberlain lại đến Munich và ép buộc người Tiệp chấp nhận mọi yêu sách của Đức, do đó đã tước đi cơ hội cho Hitler thôn tính bằng vũ lực. Đó là tư tưởng xảo trá của Hitler. Sau này, ông thổ lộ với tướng lĩnh: "Rõ ràng là ngay từ đầu tôi không thể hài lòng với lãnh thổ Sudetenland được. Đó chỉ là giải pháp nửa vời." Ít ngày sau khi ký Hiệp ước Munich, nhà độc tài Đức bắt đầu khởi động kế hoạch để đạt đến giải pháp toàn diện .

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top

#dichle