Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

Phần 6

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

ĐỨC CHUYỂN SANG CHẾ ĐỘ QUỐC XÃ: 

1933-1934 HITLER không bao giờ quên chủ thuyết mà ông đã học được trong những ngày tháng lông bông ở Vienna về tiến trình chiếm quyền lực: liên minh với các định chế mạnh của Nhà nước. Chủ thuyết này được phát huy khá đúng như ông đã tính toán. Được Quân đội và giới bảo thủ ủng hộ, Tổng thống đã bổ nhiệm ông làm Thủ tướng. Tuy thế, quyền lực chính trị của Hitler chỉ mới to lớn, chứ chưa toàn vẹn. Hitler đang phải chia sẻ quyền lực với ba phía có thẩm quyền nêu trên, vốn không liên quan và đang có phần nghi kỵ với phong trào Quốc xã .

Vì thế, công việc trước mắt của Hitler là phải nhanh chóng loại bỏ các quyền lực ấy, để một mình Đảng của ông làm chủ Nhà nước, rồi với sức mạnh của một chính quyền chuyên chế mà thực hiện Cách mạng Quốc xã. Chỉ mới nhậm chức chưa đầy 24 giờ, Hitler đã có động thái mang tính quyết định thứ nhất. Đó chính là giăng ra một cái bẫy cho phe bảo thủ cả tin vốn đang tự cho là những "cai tù" của ông. Từ đó Hitler tạo ra một chuỗi những sự kiện do ông khởi phát và kiểm soát, mà nhờ đó, sau 6 tháng sẽ Quốc xã hoá được hoàn toàn nước Đức và nâng ông lên vị trí độc tài của Đế chế – người đầu tiên được thống nhất và tập trung quyền hành trong lịch sử Đức .

5 tiếng đồng hồ sau khi tuyên thệ nhậm chức, Hitler triệu tập buổi họp Nội các đầu tiên lúc 5 giờ chiều ngày 30 tháng 1 năm 1933. Chương trình nghị sự của buổi họp (được trình ra trước Toà án Nuremberg) cho thấy Hitler nhanh nhạy và khôn khéo đến mức nào, cùng với sự hỗ trợ bởi Goering láu cá để bắt đầu lừa dối các đồng nghiệp bảo thủ. Những buổi họp Nội các đều diễn ra trong phòng kín và giống như phần lớn những buổi họp khác do Hitler và các phụ tá của ông chủ trì, nội dung sẽ không được công bố, cho đến tận khi tài liệu của Đức bị tịch thu và bị trình ra trước Toà án Nuremberg .

Hindenburg bổ nhiệm Hitler cầm đầu không phải là Nội các tổng thống chế mà là Nội các dựa trên đa số trong Nghị viện. Tuy nhiên, Chính phủ chỉ có hai Đảng Quốc xã và Quốc gia, cả hai chỉ chiếm 247 ghế trong tổng số 583 ghế Nghị viện, vì thế thiếu đa số. Để đạt đa số cần thiết, họ cần sự hậu thuẫn của Đảng Trung dung Đức với 70 ghế. Trong những giờ đầu tiên của Chính phủ, Hitler đã phái Goering nói chuyện với các nhà lãnh đạo Đảng Trung dung Đức và sau đó ông này trở lại và thông báo cho Nội các biết rằng Đảng Trung dung Đức đòi hỏi "một vài nhượng bộ". Vì thế, Goering đề nghị giải tán Nghị viện, tổ chức tổng tuyển cử mới và Hitler đồng ý. Hugenberg chống đối việc Đảng Trung dung Đức tham dự trong Nội các nhưng cũng phản đối tổng tuyển cử mới. Ông thừa hiểu rằng Quốc xã – với những phương tiện của Nhà nước trong tay – có thể đạt đa số tuyệt đối và sau đó sẽ loại bỏ Đảng của ông cùng những người bảo thủ khác. Ông đề nghị đơn giản là đàn áp Cộng sản, với 100 ghế của họ bị loại bỏ, Quốc xã và Quốc gia sẽ có đa số. Nhưng vào lúc này Hitler không muốn đi xa như thế. Cuối cùng, họ đồng ý với nhau là sáng hôm sau đích thân Thủ tướng sẽ thảo luận với Đảng Trung dung Đức và nếu không đạt thoả hiệp, thì Nội các sẽ yêu cầu tổng tuyển cử mới .

Hitler né tránh thoả hiệp một cách dễ dàng. Ông yêu cầu nhà lãnh đạo Đảng Trung dung Đức, Mục sư Kass, nộp bản kê những vấn đề sẽ được thảo luận và đưa ra những yêu cầu mà theo đó Hitler hứa sẽ điều hành theo Hiến pháp. Nhưng Hitler lừa dối cả Kass và Nội các: ông báo cáo với Nội các rằng Đảng Trung dung Đức đã đưa ra những yêu sách quá đáng và không có cơ hội thoả hiệp. Vì thế, Hitler đề nghị Tổng thống giải tán Nghị viện và quy định kỳ tổng tuyển cử mới. Hugenberg và Papen bị mắc bẫy, nhưng sau khi Hitler long trọng trấn an là Nội các sẽ được giữ nguyên bất kể kết quả tổng tuyển cử sẽ như thế nào, cả hai đồng ý. Kỳ tổng tuyển cử mới được ấn định vào ngày 5 tháng 3 năm 1933 .

Lần đầu tiên – trong kỳ bầu cử cuối cùng còn tương đối được tự do – Đảng Quốc xã có thể khai thác phương tiện rộng lớn của Chính phủ để tranh phiếu. Goebbels vui mừng tột độ. Ông viết trong nhật ký ngày 3 tháng 3: "Bây giờ việc tranh cử sẽ trở nên dễ dàng hơn, vì ta có thể huy động mọi nguồn lực của Nhà nước. Ta nắm trong tay đài truyền thanh và báo chí. Ta sẽ dựng nên một kiệt tác về tuyên truyền. Lẽ tự nhiên là vào lúc này ta cũng chẳng thiếu tiền" .

Các doanh nhân lớn được yêu cầu móc hầu bao vì họ vui khi thấy chính quyền mới hứa sẽ đàn áp nghiệp đoàn và để cho giới chủ tự do kiếm lợi nhuận. Họ đồng ý như thế trong một buổi họp ngày 20 tháng 2 ở Dinh Chủ tịch Nghị viện của Goering, dưới sự chủ trì của Tiến sĩ Schacht. Còn Goering và Hitler thì trình bày đường lối với vài chục nhà tài phiệt hàng đầu của Đức, kể cả Krupp von Bhohlen (người nhanh chóng ủng hộ Quốc xã một cách nồng nhiệt), Bosch và Schnitzler của hãng I. G. Farben, Voegler của tập đoàn thép United Steel Works... Biên bản của buổi họp bí mật này còn được lưu giữ .

Hitler mở đầu bài phát biểu dài bằng cách lấy lòng các nhà công nghiệp .

Ông nói: "Không thể duy trì doanh nghiệp tư nhân trong thời đại dân chủ, mà chỉ có thể sản sinh ra nó nếu người ta có tư tưởng nghiêm túc về uy quyền và cá tính... Tất cả hàng hoá vật chất mà ta sở hữu đều là do cuộc tranh đấu của thành phần được tuyển chọn... Ta không nên quên rằng tất cả lợi ích về văn hoá hầu như là được mang lại từ bàn tay sắt" .

Hitler hứa với các doanh nhân rằng mình sẽ "loại trừ" phe Marxit và gây dựng lại Quân đội (mà những tập đoàn công nghiệp như Krupp, United Steel Works và I. G. Farben sẽ hưởng lợi nhiều nhất từ việc tái vũ trang). Hitler kết luận: "Lúc này chúng ta đứng trước kỳ bầu cử cuối cùng, dù cho kết quả ra sao thì sẽ chẳng có chuyện thoái lui". Nếu không thắng, ông sẽ vẫn cầm quyền "bằng phương thức khác... với vũ khí khác" .

Goering thì đề cập đến những vấn đề trước mắt, nhấn mạnh sự cần thiết của việc phải "hy sinh về tài chính" vốn "chắc chắn sẽ dễ dàng hơn cho ngành công nghiệp nếu biết rằng kỳ bầu cử ngày 5 tháng 3 cũng sẽ là kỳ cuối cùng trong 10 năm tới, có lẽ thậm chí là trong 100 năm tới" .

Các nhà công nghiệp đều thấy rõ ràng mọi chuyện và họ hồ hởi đón nhận lời hứa sẽ chấm dứt các kỳ bầu cử làm họ tiêu hao tiền bạc, chấm dứt dân chủ và tiến hành tái vũ trang. Nhà tài phiệt trong ngành công nghiệp vũ khí Krupp, người trước đây đã khuyên Hindenburg không nên bổ nhiệm Hitler, cũng đứng bật dậy và tỏ lộ với Thủ tướng lòng "cảm kích" của giới doanh nhân vì "đã cho chúng tôi thấy một hình ảnh sáng tỏ như thế". Rồi sau đó, Tiến sĩ Schacht đứng lên kêu gọi tài trợ. Tại Toà án Nuremberg, ông cho biết "Tôi đã thu được 3 triệu mác" .

Ngày 31 tháng 1 năm 1933, 1 ngày sau khi Hitler được bổ nhiệm Thủ tướng, Goebbels ghi vào nhật ký: "Trong buổi họp với Lãnh tụ, ta thảo đường lối cho cuộc chiến chống lại sự khủng bố Đỏ. Trước mắt, ta sẽ tránh đối đầu trực tiếp, nhưng vẫn phải chờ cho Cách mạng Bolshevik bùng cháy trước. Vào thời điểm thích hợp, ta sẽ đánh" .

Dù các bộ phận Quốc xã càng ngày càng khiêu khích thêm, nhưng không hề có dấu hiệu Cách mạng Cộng sản hoặc Xã hội chủ nghĩa sẽ bùng cháy trong cuộc vận động tranh cử. Vào đầu tháng 2 năm 1933, Chính phủ Hitler ra lệnh cấm mọi cuộc hội họp của Cộng sản và đóng cửa tất cả các tờ báo của Cộng sản. Những buổi hội họp của Đảng Dân chủ Xã hội hoặc bị cấm hoặc bị lực lượng S.A. giải tán, đồng thời những tờ báo hàng đầu của Đảng này bị liên tục đình bản. Ngay cả Đảng Trung dung Đức cũng không thoát khỏi sự khủng bố của Quốc xã. Stegerwald, thủ lĩnh Liên hiệp hội Thương mại Công giáo, bị đám S.A. đánh đập khi định phát biểu trong một buổi hội họp. Bruening phải nhờ cảnh sát bảo vệ ở một buổi hội họp khác khi S.A. gây thương tích cho một số người của ông. Tổng cộng có 51 người chống Quốc xã nằm trong danh sách bị sát hại trong chiến dịch tranh cử, còn Quốc xã tố cáo rằng 18 Đảng viên của họ bị giết .

Bây giờ người ta bắt đầu chú ý đến chức vụ Bộ trưởng Nội vụ Phổ của Goering. Phớt lờ sự kiềm chế của Papen – người giữ chức vụ Thủ hiến Phổ và là cấp chỉ huy trực tiếp – Goering bãi nhiệm hàng trăm công nhân viên Cộng hoà và thay thế bằng người của Quốc xã, phần lớn là sĩ quan S.A. và Ông chỉ thị cho cảnh sát "bằng bất cứ giá nào" cũng phải tránh thù địch với S.A., S.S. và đội quân cựu chiến binh Stahlhelm, nhưng không nhân nhượng với kẻ tỏ ra "thù địch với Nhà nước". Ông thúc giục cảnh sát "sử dụng vũ khí" và cảnh cáo sẽ trừng phạt ai không tuân lệnh. Ông còn đưa ra lời kêu gọi thẳng thừng đưa ra cho lực lượng cảnh sát của Phổ – lực lượng đang chiếm ⅔ nước Đức: phải bắn bỏ tất cả những ai chống đối lại Hitler. Để đảm bảo công tác này được thi hành một cách quyết liệt, ngày 22 tháng 2 Goering thành lập một lực lượng cảnh sát bổ sung gồm 50.000 người, trong số này có 40.000 rút ra từ các đội quân S.A. và S.S., số còn lại là từ đội Stahlhelm. Vì thế, lực lượng cảnh sát của Phổ phần lớn là bị những phần tử bất hảo của Quốc xã chi phối. Sẽ là việc làm thiếu suy nghĩ nếu yêu cầu một lực lượng "cảnh sát" như thế bảo vệ trước sự khủng bố của Quốc xã .

Tuy vậy, dù đã thi hành mọi hình thức khủng bố, "Cách mạng Bolshevik" mà Goebbels, Hitler và Goering trông đợi vẫn không thể "bùng cháy". Nếu khiêu khích không được, liệu có thể hư cấu một cuộc Cách mạng như thế không? Ngày 24 tháng 2, lực lượng cảnh sát của Goering khám xét trụ sở Trung ương của Cộng sản ở Berlin. Toà nhà đã bị bỏ hoang vài tuần vì các nhà lãnh đạo Đảng đã bỏ đi hoạt động bí mật hoặc âm thầm lẻn sang Nga. Nhưng hàng đống tờ bướm tuyên truyền vẫn còn được để lại ở tầng hầm, đủ để Goering ra một thông cáo chính thức nói rằng "tài liệu" tịch thu được chứng tỏ Cộng sản sắp phát động một cuộc Cách mạng. Công chúng và ngay cả một số người bảo thủ trong chính quyền, vẫn tỏ ra nghi ngờ. Như vậy thì hiển nhiên là phải cần chuyện gì đấy gây chấn động lớn hơn, nhằm mục đích khích động cho quần chúng hoảng loạn trước cuộc đầu phiếu ngày 5 tháng 3 .

VỤ HOẢ HOẠN Ở TOÀ NHÀ NGHỊ VIỆN .

Vào buổi tối 27 tháng 2 năm 1933, bốn người trong số những nhân vật có nhiều quyền hành nhất nước Đức gặp gỡ nhau qua hai bữa ăn ở Berlin. Phó Thủ tướng Papen tiếp đãi Tổng thống Hindenburg ở nhà hàng Herrenklub. Còn Thủ tướng Hitler đến nhà Goebbels để dùng bữa tối trong không khí gia đình. Theo Goebbels, họ đang thư giãn, nghe nhạc phát ra từ máy hát và kể chuyện cho nhau nghe thì, như ông kể lại trong nhật ký: "Bỗng có cú điện thoại của Tiến sĩ Hanfstaengl: 'Toà nhà Nghị viện bị cháy!' Tôi tin chắc ông ấy phóng đại và quyết định không thông báo cho Lãnh tụ" .

Nhưng các thực khách ở nhà hàng Herrenklub chỉ cách toà nhà Nghị viện một dãy phố thì khác. Sau này, Papen kể lại: "Đột nhiên, chúng tôi nhận thấy ánh lửa đỏ qua các khung cửa sổ và nghe thấy tiếng la ó trên đường phố. Một trong những người hầu bàn chạy vội đến tôi và thì thầm: 'Nghị viện bị cháy!' rồi tôi lặp lại cho Tổng thống nghe. Ông đứng dậy và từ cửa sổ, chúng tôi có thể trông thấy mái vòm của toà nhà Nghị viện trông như thể đang được đèn pha chiếu vào. Thỉnh thoảng, có một ngọn lửa và một cuộn khói bốc lên..." Vị Phó Thủ tướng đưa Tổng thống về nhà rồi vội trở lại toà Nghị viện đang cháy. Cùng lúc, Goebbels (theo lời chính ông kể) nghĩ lại về lời "phóng đại", nên đã gọi vài cú điện thoại và được biết đúng là toà nhà Nghị viện đang cháy thật. Trong vòng vài giây, ông và Lãnh tụ chạy vội đến hiện trường .

Họ tuyên bố ngay khi đến nơi rằng đó là do tội phạm, một tội phạm của Cộng sản. Goering vã mồ hôi, thở hổn hển và kích động tột độ, đến trước mặt Papen và vị Tổng thống, tuyên bố (theo như Papen kể lại): "Đây là tội phạm của Cộng sản chống lại chính quyền mới". Ông thét lên với tân Chỉ huy trưởng Mật vụ, Rudolf Diels: "Đây là bước khởi đầu của Cách mạng Cộng sản! Ta không nên chờ đợi thêm giây phút nào nữa. Ta không nên dung thứ. Tìm ra được tên Cộng sản nào là phải bắn ngay. Tối nay, phải bắt giữ tất cả đại biểu [Nghị viện] của Cộng sản" .

Có nhiều nguồn tin được cho là lời chứng hoặc cung khai của những người nói rằng đã can dự vào hoặc biết rõ vụ cháy. Tuy nhiên, theo tác giả được biết, những tình tiết này không được kiểm chứng. Riêng bản ghi nhớ của Ernst Oberfohren (đại biểu Nghị viện phe Quốc gia) và Karl Ernst (chỉ huy S.A. ở Berlin) được cho là đáng tin. Cả hai đều bị Quốc xã sát hại trong vòng vài tháng sau vụ cháy .

Có lẽ chẳng bao giờ người ta biết được tất cả sự thật về vụ cháy toà nhà Nghị viện. Hầu như tất cả những người biết về vụ này giờ đã chết, phần lớn bị Hitler hạ sát trong những tháng kế tiếp. Ngay cả Toà án Nuremberg vẫn không thể vén hoàn toàn bức màn bí ẩn. Tuy nhiên, có đủ chứng cứ hợp lý cho thấy rõ chính Quốc xã đã lên kế hoạch và tạo ra đám cháy nhằm phục vụ cho mưu đồ chính trị của mình .

Có một đường hầm để chứa hệ thống sưởi trung tâm chạy từ Dinh Chủ tịch Nghị viện đến toà nhà Nghị viện. Chính qua đường hầm này mà đến ngày 27 tháng 2, Karl Ernst dẫn một toán S.A. đi đến toà nhà Nghị viện. Ở đây, họ tưới xăng và hoá chất tự cháy rồi chạy trở về nơi xuất phát. Cùng lúc này, một Đảng viên Cộng sản khù khờ người Hà Lan tên Marinus van der Lubbe lẻn vào toà nhà rộng lớn, tối tăm rồi tự tay nhóm lên vài đốm lửa nhỏ. Con người ngốc nghếch thích trò điên rồ với lửa này là món quà trời cho của Quốc xã. Vài ngày trước, binh sĩ S.A. tóm được anh ta sau khi nghe anh khoe khoang trong một quán rượu rằng đã đốt vài toà nhà Chính phủ và kế tiếp sẽ đốt toà nhà Nghị viện .

Thế là có sự trùng hợp ngẫu nhiên khi Quốc xã tìm ra được kẻ tội phạm Cộng sản loạn trí dự tính làm đúng việc mà chính họ cũng quyết tâm làm. Điều này nghe có vẻ khó tin, nhưng lại có chứng cứ. Ý tưởng gây đám cháy hầu như chắc chắn xuất phát từ Goebbels và Goering. Một nhân viên trong Bộ Nội vụ Phổ lúc bấy giờ là Hans Gisevius khai trước Toà án Nuremberg rằng "chính Goebbels là người đầu tiên nghĩ đến việc đốt cháy toà nhà Nghị viện" .

Chỉ huy trưởng Mật vụ Rudolf Diels viết ra trong một tờ cung khai rằng "Goering đã biết chính xác đám cháy bộc phát như thế nào" và ra lệnh cho anh ta "trước khi đám cháy xảy ra, phải chuẩn bị một danh sách những người sẽ bị bắt giữ khẩn cấp" .

Tướng Franz Halder, Tham mưu trưởng Lục quân trong thời gian đầu của Thế chiến II, khai trước Toà án Nuremberg về một lần Goering khoe khoang về thành tích của mình: "Trong bữa ăn trưa nhân sinh nhật của Lãnh tụ năm 1942, câu chuyện chuyển qua đề tài toà nhà Nghị viện và giá trị nghệ thuật của nó. Khi Goering chen vào câu chuyện, chính tai tôi nghe ông ấy nói lớn: 'Người duy nhất thật sự biết về Nghị viện là tôi, bởi vì chính tôi đã đốt cháy nó!'" Nhưng khi được lấy khẩu cung và khi ra trước phiên toà Nuremberg, Goering đều nhất mực phủ nhận việc can dự vào vụ cháy toà nhà Nghị viện .

Có vẻ như Van der Lubbe đã bị Quốc xã lừa gạt. Anh ta được khuyến khích đốt toà nhà Nghị viện. Nhưng công việc chính yếu là do đội S.A. thực hiện, mà dĩ nhiên anh không hề biết. Thật vậy, phiên toà tiếp theo ở Leipzig xác định Lubbe không có phương tiện để gây cháy toà nhà rộng lớn một cách nhanh chóng như thế. Chỉ 2 phút rưỡi sau khi anh đột nhập vào, khu tiền sảnh trung tâm đã bốc cháy dữ dội. Anh chỉ có 1 chiếc áo để làm mồi lửa. Theo lời khai của chuyên gia trong phiên toà, những đám lửa chính cần đến một lượng lớn xăng và hoá chất mới bùng lên được. Hiển nhiên là một người duy nhất không thể mang vào lượng lớn xăng và hoá chất lớn đến vậy, đồng thời cũng không thể đốt nhiều đám lửa ở khắp các nơi trong một thời gian ngắn như thế .

Van der Lubbe bị bắt giữ ngay tại chỗ. Theo lời anh kể sau này trước toà, Goering muốn treo cổ anh ngay lập tức. Ngày hôm sau, Ernst Torgler, thủ lĩnh Cộng sản ở Nghị viện, đầu thú với cảnh sát sau khi nghe Goering kết án ông có liên can. Ít ngày sau, Georgi Dimitroff, 1 Đảng viên Cộng sản Bulgaria và sau này trở thành Thủ tướng của Bulgaria, bị cảnh sát bắt giữ cùng với 2 Đảng viên Cộng sản Bulgaria khác. Họ bị đưa ra xét xử trước Toà án Tối cao ở Leipzig. Phiên toà gần như là một sự thất bại đối với Quốc xã và đặc biệt là đối với Goering. Dimitroff tự biện hộ trước toà và dễ dàng biến Goering thành anh hề qua một loạt những lời đối chất nhức nhối của mình, Goering thậm chí đã phải thét lên để đuổi Dimitroff ra ngoài .

Khi Dimitroff được cảnh sát dẫn ra ngoài, ông nói với Goering: "Ngài Chủ tịch, ông e sợ những câu chất vấn của tôi phải không?" Torgler và 3 người Bulgaria được tha bổng, nhưng riêng Torgler lập tức được dẫn đến nơi "canh giữ bảo vệ" cho đến ngày ông qua đời trong Thế chiến II. Và Van der Lubbe bị phán là có tội và nhận án tử hình .

Dù cho toà án tỏ ra quỵ luỵ đối với chính quyền Quốc xã, nhưng phiên toà vẫn tạo ra nhiều nghi vấn đối với Goering và Đảng viên Quốc xã. Tuy vậy cũng chẳng có hiệu quả gì. Bởi vì Hitler không để mất thời giờ trong việc khai thác tối đa vụ cháy toà nhà Nghị viện .

Một ngày sau vụ cháy, 28 tháng 2, Hitler yêu cầu Tổng thống ký Nghị định về việc "Bảo vệ Nhân dân và Nhà nước" để đình chỉ 7 đoạn trong Hiến pháp, nhằm đảm bảo quyền tự do cá nhân. Được mô tả là "biện pháp phòng vệ chống lại những hành động bạo lực của Cộng sản phương hại đến đất nước". Nghị định này mang nội dung: "Hạn chế tự do cá nhân, quyền tự do phát biểu ý kiến, kể cả quyền tự do báo chí, quyền tụ tập và lập hiệp hội cùng với những vi phạm tính riêng tư của thư tín, điện tín, điện thoại. Giấy phép lục soát nhà, lệnh tịch thu cũng như hạn chế về tài sản được cho phép vượt quá những quy định khác" .

Thêm nữa, Nghị định còn cho phép Chính phủ Đế chế thực thi mọi quyền hạn của các bang khi cần thiết, đồng thời áp dụng hình phạt tử hình cho một số tội danh, kể cả tội "làm mất trật tự trị an một cách nghiêm trọng" do người mang vũ khí .

Thế là Hitler có thể bịt miệng đối thủ một cách hợp pháp và bắt giữ họ tuỳ ý, bằng cách mang hiểm hoạ Cộng sản ra hù doạ, gây sợ hãi cho hàng triệu người giới trung lưu và nông dân, cứ như thể nếu họ không bầu cho Quốc xã vào tuần sau thì người Bolshevik sẽ chiếm lấy quyền lực. Khoảng 4.000 Đảng viên Cộng sản và nhiều nhà lãnh đạo Dân chủ Xã hội cùng cánh tự do bị bắt giữ, kể cả các đại biểu Nghị viện vốn có quyền miễn tố theo luật định. Đây là kinh nghiệm đầu tiên của người Đức về một cuộc khủng bố của Quốc xã do Chính phủ hậu thuẫn. Binh sĩ S.A. đi trên xe tải gầm rú quanh đường phố trên mọi miền của Đức, xông vào nhà riêng, bố ráp nạn nhân và đưa họ vào doanh trại của S.A., rồi sau đó tra tấn đánh đập họ. Báo chí và những cuộc hội họp của Cộng sản bị đàn áp, báo của Đảng Dân chủ Xã hội và cánh tự do bị đình chỉ, những buổi hội họp của các Đảng theo cánh dân chủ bị cấm hoặc giải tán. Chỉ có Quốc xã và Đồng minh của họ theo cánh Quốc gia được phép vận động bầu cử suôn sẻ .

Với mọi nguồn lực của Chính phủ Trung ương và chính quyền bang Phổ nắm trong tay, cùng với túi tiền đầy ắp mà các doanh nghiệp đổ vào, Quốc xã mở chiến dịch tuyên truyền vận động ở mức độ nước Đức chưa từng thấy bao giờ. Lần đầu tiên, đài truyền thanh của Nhà nước phát đi giọng nói của Hitler, Goering và Goebbels đến mọi miền của Tổ quốc. Đường phố giăng đầy những lá cờ mang hình chữ thập ngoặc và vang vọng tiếng bước của binh sĩ S.A.. Những cuộc mít tinh, diễu hành đốt đuốc buổi tối và âm thanh lan khắp các quảng trường. Những tấm panô đầy rẫy hình ảnh tuyên truyền rực rỡ của Quốc xã trong đêm tối ánh lửa trại soi sáng những triền đồi. Cử tri bị phỉnh phờ vì những lời hứa về thiên đường Đức, bị đội quân Áo Nâu trên đường phố doạ dẫm khủng bố và kinh hãi vì những "phát hiện" về cuộc "Cách mạng" của Cộng sản .

Một ngày sau vụ cháy toà nhà Nghị viện, chính quyền Phổ ra một thông cáo là đã tìm ra "tài liệu" cho thấy: "Các toà nhà Chính phủ, bảo tàng, biệt thự và xí nghiệp thiết yếu sẽ bị đốt rụi... Phụ nữ và trẻ em sẽ bị lùa đi phía trước các nhóm khủng bố... Việc đốt toà nhà Nghị viện là dấu hiệu cho một cuộc nổi dậy và nội chiến đẫm máu... Khắp nước Đức sẽ tràn lan các khủng bố nhắm vào người, vào tài sản cá nhân, vào cuộc sống của dân cư và cũng là sự khởi đầu của nội chiến toàn diện" .

Nhà nước hứa sẽ công bố "tài liệu minh chứng âm mưu của Cộng sản", nhưng lại không bao giờ thực hiện. Tuy vậy, việc Chính quyền Phổ xác định rõ âm mưu của mình gây ấn tượng mạnh cho nhiều người Đức .

Những người còn nửa tin nửa ngờ có lẽ sẽ bị ấn tượng với lời đe doạ của Goering. Ngày 3 tháng 3, tại Frankfurt, 2 ngày trước khi cử tri đi bỏ phiếu, ông hô hào: "Hỡi đồng bào Đức, những biện pháp của tôi sẽ không bị lý lẽ tố tụng kiềm chế... Tôi chẳng phải lo ngại về công lý, sứ mệnh của tôi chỉ là phá huỷ và tận diệt, ngoài ra không còn gì khác!... Chắc chắn là tôi sẽ thực thi quyền hạn của Nhà nước và cảnh sát đến mức tối đa, vậy thì những người Cộng sản thân mến, đừng trông mong gì khác ngoại trừ cuộc đấu tranh sinh tử..." Riêng tiếng nói của cựu Thủ tướng Bruening thì hầu như không ai nghe được. Ngày hôm ấy, ông cũng lên tiếng, tuyên bố Đảng Trung dung Đức của ông sẽ chống lại bất cứ mưu đồ nào nhằm xé bỏ Hiến pháp, đòi hỏi phải điều tra vụ cháy toà nhà Nghị viện đầy nghi vấn, kêu gọi Tổng thống Hindenburg "bảo vệ người bị đàn áp và chống lại kẻ đàn áp". Nhưng đó là một lời kêu gọi vô vọng! Vị Tổng thống vẫn im hơi lặng tiếng. Vậy thì đây chính là thời khắc mà người dân phải cất tiếng nói .

Ngày 5 tháng 3 năm 1933, ngày mà người ta sau này sẽ nhận ra là kỳ bầu cử dân chủ cuối cùng trong đời của Hitler, người dân Đức đã lên tiếng bằng lá phiếu. Dù cho bao khủng bố và đe doạ, đa số cử tri vẫn chống lại Hitler. Đảng Quốc xã dẫn đầu, nhưng chỉ thu được 44% số phiếu. Hitler vẫn chưa đạt đa số. Mọi hành động ngược đãi và đàn áp trong những tuần lễ trước không thể ngăn cản Đảng Trung dung Đức có thêm số phiếu. Ngay cả Đảng Dân chủ Xã hội cũng giữ vững vị trí thứ hai. Đảng Cộng sản mất 1 triệu phiếu. Đảng Nhân dân Quốc gia Đức của Papen và Hugenberg thất vọng nặng nề, chỉ thu được 8% số phiếu .

Tuy thế, 52 ghế của Đảng Nhân dân Quốc gia Đức cộng với 288 ghế của Quốc xã là đủ để vượt đa số 16 ghế cho Chính phủ. Có lẽ đó là đủ để điều hành nước Đức hàng ngày, nhưng vẫn còn kém ⅔ số phiếu mà Hitler cần để thiết lập chế độ độc tài do Nghị viện thông qua .

GLEICHSCHALTUNG: S "ĐIỀU PHỐI" CỦA Đ CHẾ 

Kế hoạch này có vẻ đơn giản đến mức khiến người ta dễ lầm lạc và có ưu điểm là khoác áo hợp pháp cho việc chiếm lấy quyền lực. Nghị viện được yêu cầu thông qua "Luật Trao quyền" nhằm trao cho Nội các mọi quyền lập pháp trong bốn năm. Nói một cách dễ hiểu, Nghị viện chỉ việc giao cho Hitler những chức năng mà Hiến pháp quy định cho họ, rồi đi nghỉ mát dài hạn. Nhưng vì việc này đòi hỏi phải tu chính Hiến pháp, nên vẫn cần có đa số hai phần ba để thông qua .

Làm thế nào đạt đa số là chủ đề thảo luận chính trong phiên họp Nội các ngày 15 tháng 3 năm 1933, mà biên bản của buổi họp này đã được trình ra trước Toà án Nuremberg. Một phần vấn đề cần giải quyết là sự "vắng mặt" của 81 đại biểu Cộng sản trong Nghị viện. Goering đảm bảo là những vấn đề còn lại sẽ được giải quyết xong xuôi "bằng cách cấm cửa một ít đại biểu Dân chủ Xã hội". Tinh thần của Hitler trở nên sảng khoái. Xét cho cùng, Nghị định của Tổng thống ngày 28 tháng 2 sau ngày toà nhà Nghị viện bị cháy cho phép ông ta bắt giữ bao nhiêu đại biểu phe đối lập tuỳ thích, như vậy thì việc đảm bảo đạt ⅔ số phiếu của đại biểu hiện diện là không khó .

Vấn đề với Đảng Trung dung Đức vẫn tồn tại, nhưng Hitler tin chắc rằng họ sẽ chấp thuận. Hugenberg, thủ lĩnh Đảng Nhân dân Quốc gia Đức, không muốn giao tất cả quyền hành vào tay Hitler, nên đòi hỏi phải cho phép Tổng thống tham gia vào việc soạn thảo những Nghị định mà Nội các sẽ ban hành. Tiến sĩ Meissner, Chánh văn phòng Phủ Tổng thống, người đã theo phe Quốc xã, trả lời rằng "sự cộng tác của Tổng thống là không cần thiết". Ông đã nhanh chóng nhận ra rằng Hitler không thích bị vị Tổng thống cứng đầu ngáng trở như những gì mà Thủ tướng trước đã trải qua .

Nhưng vào lúc này, Hitler muốn có 1 cử chỉ long trọng với vị Thống chế già, với Quân đội và cũng là với cánh bảo thủ quốc gia. Qua đó, Hitler sẽ liên kết chế độ Cách mạng côn đồ của mình với cái tên Hindenburg được tôn sùng và với mọi vinh quang xưa cũ của quân sự Phổ. Để làm được việc này, ông cùng Goebbels (đã nhậm chức Bộ trưởng Thông tin và Tuyên truyền ngày 13 tháng 3) đã thực hiện một động thái thần sầu. Hitler khai mạc phiên họp Nghị viện mới – mà ông ta sẽ dẹp bỏ – ở Nhà thờ Doanh trại Potsdam – là thánh địa của nước Phổ xa xưa và gợi lại trong lòng người Đức nhiều hoài niệm về đế chế quang vinh. Đây chính là nơi Friedrich Đại đế yên nghỉ, nơi tôn thờ các hoàng đế của vương triều Hohenzollern, nơi mà người sĩ quan trẻ Hindenburg đến lần đầu năm 1866 sau khi trở về từ Chiến tranh Áo-Phổ – cũng là cuộc chiến thống nhất Đế chế Đức lần đầu tiên .

Ngày được chọn để cử hành lễ khai mạc Nghị viện đầu tiên của Quốc xã là ngày 21 tháng 3, cũng có ý nghĩa. Đó là ngày kỷ niệm Bismarck khai mạc Nghị viện đầu tiên của Đế chế Thứ Hai vào năm 1871. Thống chế, tướng lĩnh và đô đốc của những năm tháng đế chế cũ tề tựu trong bộ đồng phục chói lọi, đi theo sau cựu Thái tử và Thống chế von Mackensen, một trong những chỉ huy chiến trường lỗi lạc nhất trong Thế chiến I .

Goebbels phụ trách dàn dựng nghi thức và chỉ đạo công tác truyền thanh đi khắp cả nước. Ông nhận thấy có lúc Hindenburg tỏ ra cảm động thật sự vì đôi mắt của vị Thống chế già nua đã ướt lệ. Hitler đi bên ông, có vẻ ngượng nghịu trong bộ áo choàng trang trọng. Trong bộ quân phục màu xám, chiếc mũ sắt một bên tay, tay kia cầm chiếc gậy thống chế, Hindenburg bước chầm chậm theo lối đi giữa 2 hàng ghế dừng lại để chào chiếc ghế trống không của Hoàng đế Wilhelm II trong khu vực hoàng gia và rồi đứng trước bàn hành lễ, ông đọc một bài diễn văn ngắn để ban phúc cho Chính phủ mới của Hitler .

"Cầu xin anh linh của thánh địa nổi tiếng này thắm đượm vào thế hệ của ngày hôm nay, cầu xin họ giải phóng cho chúng ta thoát ra khỏi tính vị kỷ và bất hoà nội bộ và dẫn dắt chúng ta đến với nhau trong tính tự ý thức về tinh thần quốc gia để tạo phúc lành cho một nước Đức hãnh diện, tự do và tự mình thống nhất" .

Đáp từ của Hitler được tính toán một cách khôn khéo, nhằm khơi dậy lòng cảm thông và tranh thủ sự tin cậy của thế hệ đi trước đang đại diện ở đây một cách lộng lẫy .

"Cả Hoàng đế hoặc Chính phủ hoặc đất nước đều không muốn chiến tranh. Đó chỉ là mang đến sự sụp đổ của một quốc gia khiến cho một chủng tộc bị suy yếu..." Và rồi, quay sang Hindenburg đang ngồi trên một chiếc ghế cách ông vài bước: "Qua một biến động chưa từng có trong vài tuần qua, chúng ta đã phục hồi danh dự quốc gia. Và nhờ lòng cảm thông của Ngài Thống chế, chúng ta đã đánh dấu sự hoà hợp giữa những biểu tượng cao quý trong quá khứ và sức mạnh mới. Chúng tôi xin tỏ lòng tôn kính Ngài, Ơn Trên che chở đặt ngài trên lực lượng mới của đất nước chúng ta" .

Để tỏ lộ thái độ khiêm tốn sâu sắc trước vị Tổng thống mà ông ta sẽ tước đoạt quyền lực trong vòng một tuần tới, Hitler bước xuống, cúi đầu thật thấp trước mặt Hindenburg và nắm lấy bàn tay ông. Trong ánh sáng nhấp nháy của những ngọn đèn máy ảnh và giữa tiếng lịch kịch của máy quay phim – mà Goebbels đã cho bố trí cùng với micro ở những góc thích hợp nhất – hình ảnh vị Thống chế Đức và người hạ sĩ gốc Áo nắm chặt tay nhau được ghi lại cho cả nước Đức và thế giới cùng xem .

Vị Đại sứ Pháp hiện diện trong buổi lễ sau này viết: "Sau lời cam kết sáng chói của Hitler tại Potsdam, làm thế nào mà Hindenburg và bạn hữu, người Junker và các nam tước, Hugenberg và Đảng Nhân dân Quốc gia Đức, cùng với các sĩ quan quân đội còn có thể âu lo như khi nhìn thấy việc làm bừa bãi và sự lạm dụng quyền hành của Quốc xã? Bây giờ làm sao họ còn ngại tin tưởng hoàn toàn nơi ông, đáp ứng mọi yêu cầu của ông và giao mọi quyền hành cho ông?" Có ngay câu trả lời vào hai ngày sau, 23 tháng 3 năm 1933 trong Nhà hát Kroll tại Berlin, nơi Nghị viện nhóm họp. Đặt trước chương trình nghị sự là cái gọi là Luật Trao quyền – có tên chính thức là Gesetz zur Behebung der Not von Volk und Reich, có nghĩa: Luật Phòng chống Tai hoạ của Nhân dân và Đế chế. Luật gồm có 5 đoạn ngắn, tước đoạt quyền lập pháp của Nghị viện, kể cả quyền kiểm soát ngân sách Đế chế, phê chuẩn hiệp ước với nước ngoài và tu chính Hiến pháp, đồng thời trao các quyền này cho Nội các trong thời hạn 4 năm. Thêm nữa, Luật Trao quyền quy định Thủ tướng sẽ soạn thảo và ban hành luật mới "có thể khác biệt với Hiến pháp". Và chắc chắn đây là lời cợt đùa thô thiển nhất: không luật nào có thể "ảnh hưởng đến vị thế của Nghị viện" và quyền hành của Tổng thống phải được duy trì ở trạng thái "không bị xáo trộn" .

Hitler đã lặp lại 2 điểm cuối này trong 1 bài diễn văn có nội dung kiềm chế một cách đáng ngạc nhiên khi đọc trước các đại biểu tụ tập trong nhà hát hoa mỹ, nơi diễn những vở nhạc kịch nhẹ nhàng. Bây giờ, trong khán phòng đầy binh sĩ S.A. mặc đồng phục màu nâu, với nét mặt cho thấy sẽ chẳng dung thứ bất cứ phản ứng bất lợi nào từ phía đại diện dân cử. Hitler lên tiếng hứa hẹn: "Chính phủ sẽ thực thi quyền lực chỉ khi cực chẳng đã nhằm thực hiện những biện pháp tối cần thiết. Nghị viện và Hội đồng Bang sẽ được duy trì. Vị thế và quyền hạn của Tổng thống cũng sẽ được duy trì... Các bang vẫn được giữ nguyên. Quyền của các Giáo hội sẽ không suy giảm, đồng thời mối quan hệ giữa họ với Nhà nước sẽ không thay đổi" .

Nhà lãnh đạo Quốc xã thường có cá tính tàn bạo nhưng ngày hôm ấy lại tỏ ra khá chừng mực và gần như khiêm tốn. Vẫn còn quá sớm để ngay cả các đại biểu trong phe đối lập hiểu tường tận giá trị trong những lời hứa hẹn của Hitler. Tuy thế, có một người trong phe này, Otto Wells, thủ lĩnh của Đảng Dân chủ Xã hội với khoảng chục đại biểu đã bị cảnh sát bắt giữ, đứng lên trong tiếng la ó của binh sĩ S.A. bên ngoài: "Chúng tôi, những người của Đảng Dân chủ Xã hội, trong giờ phút lịch sử này, long trọng cam kết sẽ gắn bó với những nguyên tắc của nhân văn và công lý, của tự do và xã hội chủ nghĩa. Không luật trao quyền nào có thể cho ông quyền hành để huỷ hoại những lý tưởng vĩnh cửu mà không gì phá bỏ được" .

Hitler giận dữ nhảy dựng lên và đến tận lúc đó, những người trong hội trường mới nhận ra thực chất của con người ông ta: "Ông đến muộn, nhưng ông đã đến! Ông chẳng còn hữu dụng nữa... Ngôi sao của nước Đức sẽ ngời sáng và ngôi sao của ông sẽ lịm tắt... Tôi không cần lá phiếu của ông. Nước Đức sẽ được tự do, nhưng không phải nhờ đến ông!" [Tiếng vỗ tay dồn dập] .

Đảng Dân chủ Xã hội, vốn chịu trách nhiệm nặng nề cho sự suy yếu của nền Cộng hoà, ít nhất sẽ gắn bó với những nguyên tắc của mình và vẫn tỏ ra kiên cường cho đến lúc cuối .

Nhưng Đảng Trung dung Đức thì không. Mục sư Kaas, thủ lĩnh Đảng, yêu cầu Hitler viết tờ cam kết sẽ tôn trọng quyền phủ quyết của Tổng thống. Dù Hitler đã hứa hẹn trước khi biểu quyết, nhưng sẽ chẳng bao giờ có một tờ cam kết như thế. Thủ lĩnh Đảng Trung dung Đức đứng lên tuyên bố Đảng của mình sẽ biểu quyết thuận. Còn Bruening thì vẫn giữ im lặng .

Kết quả biểu quyết cho Luật Trao quyền là 441 phiếu thuận và 84 phiếu chống (đều là của Đảng Dân chủ Xã hội). Các đại biểu Quốc xã nhảy cẫng lên, hò hét, giậm chân một cách điên cuồng và rồi cùng với binh sĩ S.A. cất tiếng hát bài Horst Wessel, bài hát chẳng bao lâu sẽ vang lên cùng với quốc ca .

Thế là nền dân chủ nghị viện rốt cuộc đã bị chôn vùi. Ngoại trừ những vụ bắt bớ Đảng viên Cộng sản và vài đại biểu Dân chủ Xã hội, tiến trình diễn ra khá hợp pháp, dù là thông qua cách khủng bố. Nghị viện trao chức năng theo Hiến pháp cho Hitler và qua đó tự kết liễu mạng sống của chính mình, cho dù thân xác vẫn còn được ướp khô cho đến ngày cuối cùng của Đế chế Thứ Ba, đồng thời thỉnh thoảng được làm bức bình phong cho Hitler khi bước ra tuyên bố những điều chấn động. Từ bây giờ, Hitler sẽ đích thân tuyển chọn đại biểu, vì sẽ chẳng còn kỳ bầu cử nào nữa. Chính một Luật Trao quyền duy nhất đã là đủ để tạo cơ sở pháp lý cho chế độ độc tài của Hitler. Kể từ ngày 23 tháng 3 năm 1933 trở đi, Hitler là nhà độc tài của Đế chế, không còn bị Nghị viện kiềm chế và trên thực tế cũng không bị Tổng thống kiềm chế. Đương nhiên là còn rất nhiều việc phải làm để đem cả nước Đức và mọi định chế đặt dưới gót giày của Quốc xã, nhưng tất cả sẽ được hoàn tất một cách chóng mặt, theo một cách thức thô thiển, lọc lừa và tàn bạo nhất .

Hitler không ngừng khoe khoang là mình đã chiếm quyền lực một cách hợp pháp, qua đa số phiếu áp đảo của Nghị viện. Người Đức không nên đổ lỗi cho ai, mà chỉ nên trách móc chính mình .

Từng định chế mạnh nhất của Đức tuần tự đầu hàng Hitler để rồi mất bóng một cách im lìm, không một thái độ phản đối .

Các bang trong nền Cộng hoà, vốn đã ngoan cường duy trì quyền lực riêng rẽ xuyên suốt lịch sử của Đức, lại chính là những định chế sụp đổ đầu tiên. Buổi chiều ngày 9 tháng 3, hai tuần trước khi biểu quyết Luật Trao quyền, Tướng von Epp, nhận lệnh của Hitler và Frick cùng với sự hỗ trợ của một số binh sĩ S.A., đã giải tán chính quyền bang Bavaria và thiết lập chế độ Quốc xã. Trong vòng một tuần, chế độ Quốc xã cũng được thiết lập ở các bang khác, ngoại trừ Phổ – nơi Goering đã vững chắc nắm quyền kiểm soát .

Ngày 31 tháng 3 năm 1933, Hitler và Frick lần đầu tiên áp dụng Luật Trao quyền – một luật được ban hành giải tán tất cả Nghị viện của các bang ngoại trừ Phổ – đồng thời ra lệnh cho họ tổ chức lại dựa trên tỷ lệ số phiếu trong kỳ tổng tuyển cử vừa qua. Các Đại biểu Cộng sản không được nhận trở lại. Nhưng giải pháp này chỉ kéo dài một tuần. Ngày 7 tháng 4, với tốc độ làm việc chóng mặt, Thủ tướng đã ban hành luật mới, bổ nhiệm Thủ hiến Quốc xã (Reichs-staathaelter) ở tất cả các bang, giao quyền cho họ chỉ định và dẹp bỏ cơ cấu chính quyền bang, giải tán Nghị viện, bổ nhiệm và cách chức công nhân viên và thẩm phán của bang. Các Thủ hiến bang đều là Đảng viên Quốc xã và được "yêu cầu" thực hiện "chính sách tổng quát do Thủ tướng Đế chế đề ra" .

Vì thế trong vòng nửa tháng từ khi nhận quyền hành từ Nghị viện, Hitler hoàn tất những việc mà Bismarck, Wilhelm II và nền Cộng hoà Đức chẳng bao giờ dám thử làm: xoá bỏ mọi quyền hạn của bang vốn đã tồn tại lâu đời theo dòng lịch sử và đặt họ dưới sự kiểm soát của chính quyền Trung ương nằm trong tay Hitler .

Ngày 30 tháng 1 năm 1934, kỷ niệm tròn 1 năm Hitler nhậm chức Thủ tướng, Hitler chính thức hoàn tất công việc thông qua Luật Tái lập Đế chế. Tất cả thể chế dân cử bị xoá bỏ, quyền điều hành bang được chuyển về Trung ương, mọi cơ cấu chính quyền bang được tập trung dưới Chính phủ Đế chế, thủ hiến bang được đặt dưới hệ thống hành chính của Bộ Nội vụ Đế chế thuộc quyền của Frick .

Phần mở đầu của luật ngày 30 tháng 1 năm 1934 tuyên bố rằng luật "được ban hành với sự biểu quyết nhất trí của Nghị viện". Điều này là đúng, bởi vì bây giờ mọi Đảng phái chính trị của Đức đều đã bị giải tán – ngoại trừ Quốc xã .

Nhưng ta cũng không thể nói rằng các Đảng phái khác đã ngã xuống trong khi chiến đấu. Ngày 19 tháng 5 năm 1933, toàn thể đại biểu của Đảng Dân chủ Xã hội – những người không ngồi tù, cũng chẳng bị lưu vong – đều biểu quyết chấp thuận không phản kháng với chính sách ngoại giao của Hitler. Trong khi đó, vừa mới 9 ngày trước thôi, cảnh sát của Goering đã chiếm đoạt trụ sở, tờ báo và tài sản của Đảng này. Thế mà Đảng vẫn cố nhân nhượng Hitler. Ngày 19 tháng 6, họ bầu ra Trung ương Đảng mới, nhưng 3 ngày sau Frick chấm dứt mọi nỗ lực hoà hoãn của họ bằng cách giải tán Đảng Dân chủ Xã hội với lý do "mưu đồ lật đổ và thù địch với Nhà nước". Paul Lobe, lãnh đạo Đảng và vài đại biểu của Đảng này trong Nghị viện cũng bị bắt giam. Dĩ nhiên là khi ấy Đảng Cộng sản cũng đã bị dẹp bỏ xong xuôi .

Chỉ còn lại các Đảng thuộc giới trung dung, nhưng cũng chẳng tồn tại được bao lâu. Đảng Trung dung Đức, Nhân dân Quốc gia Đức, Dân chủ đều giải tán trong tuần lễ đầu tháng 7 năm 1933 .

Riêng Đảng Nhân dân Quốc gia Đức, dù đã hỗ trợ Hitler lên nắm quyền một cách hợp lệ và có quan hệ mật thiết với Hindenburg, người Junker và những doanh nghiệp lớn, đồng thời với đó là tiếp nối các Đảng khác với cùng thái độ ngoan ngoãn. Nhưng đến ngày 29 tháng 6, thủ lĩnh Hugenberg, người đã giúp Hitler lên nắm quyền chỉ mới 6 tháng trước, đã từ chức khỏi Chính phủ, còn các phụ tá của ông "tự nguyện" giải tán Đảng .

Chỉ còn lại Đảng Quốc xã. Ngày 14 tháng 7 năm 1933, một luật mới đã quy định: "Đảng Lao động Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa Đức là Đảng chính trị duy nhất ở Đức. Bất kỳ người nào duy trì cơ cấu tổ chức của một Đảng chính trị khác, hoặc thành lập một Đảng chính trị mới sẽ bị phạt với mức án đến 3 năm khổ sai hoặc với án tù giam từ 6 tháng đến 3 năm." Và thế là chỉ trong vòng 4 tháng kể từ khi Nghị viện từ bỏ mọi trách nhiệm dân chủ, một Nhà nước chuyên chế độc Đảng đã được hoàn thiện mà chẳng có mấy hành động chống đối hay phản kháng .

Các nghiệp đoàn, vốn có lúc dẹp tan cuộc đảo chính Kapp chỉ bằng cách tuyên bố tổng đình công, nhưng lúc đó cũng bị dẹp bỏ một cách dễ dàng như các Đảng phái chính trị khác, mặc dù vẫn phải thông qua một trò lừa gạt từ Quốc xã. Đã hơn nửa thế kỷ, Ngày Quốc tế Lao động được giai cấp công nhân Đức và châu Âu cử hành lễ kỷ niệm mỗi năm. Để ru ngủ giới nghiệp đoàn trước khi ra tay, Chính phủ Quốc xã tuyên bố Ngày Lao động năm 1933 là ngày lễ toàn quốc, được chính thức gọi là "Ngày Lao động Quốc gia" và được chuẩn bị một chương trình kỷ niệm như thể chưa từng được kỷ niệm. Giới lãnh đạo nghiệp đoàn lấy làm cảm kích và hồ hởi khi cộng tác với Chính phủ và Đảng để giúp cho việc cử hành ngày lễ được thành công. Các nhà lãnh đạo nghiệp đoàn khắp địa phương được đưa về Berlin, hàng nghìn băng-rôn được giăng ra để tuyên dương tình đoàn kết giữa chế độ Quốc xã và công nhân .

Hitler đích thân tiếp đón các đoàn đại biểu công nhân, tuyên bố: "Các anh sẽ thấy câu nói Cách mạng chống lại công nhân Đức là sai lầm và thiếu công tâm". Sau đó, phát biểu trước 100.000 công nhân tụ tập ở sân bay, Hitler hô khẩu hiệu: "Tôn vinh lao động và tôn trọng công nhân!" đồng thời hứa rằng sẽ tiến hành kỷ niệm Ngày Lao động để tôn vinh lao động Đức "trong nhiều thế kỷ" .

Đêm ấy, Goebbels ghi một câu bí ẩn trong nhật ký: "Ngày mai, ta sẽ chiếm các trụ sở nghiệp đoàn. Và sẽ chẳng có nhiều chống đối" .

Sự kiện diễn ra đúng như thế. Ngày 2 tháng 5 năm 1933, các trụ sở nghiệp đoàn trên khắp cả nước bị chiếm đóng, ngân quỹ nghiệp đoàn bị tịch thu, các nghiệp đoàn bị giải tán và các nhà lãnh đạo bị bắt giữ. Nhiều người bị đánh đập và đưa vào trại tập trung. Hai lãnh đạo nghiệp đoàn Theodor Leipart và Peter Grassmann đã công khai cam kết cộng tác với chế độ Quốc xã nhưng vẫn bị bắt giam. Tiến sĩ Robert Ley, một kẻ nghiện rượu, Xứ uỷ Cologne, được Hitler chỉ định giải tán các nghiệp đoàn và thành lập Mặt trận Lao động Đức, tuyên bố: "Những người như Leipart và Grassmann có thể giả vờ tuỳ thích mà tuyên bố phục vụ Lãnh tụ, nhưng họ nên ở trong tù thì tốt hơn" .

Một tài liệu được đưa ra ở Nuremberg cho thấy trước đó, Quốc xã đã lên kế hoạch xoá bỏ nghiệp đoàn. Một chỉ thị mật đề ngày 21 tháng 4 được ký bởi Tiến sĩ Ley ghi những chỉ dẫn chi tiết để "điều phối" nghiệp đoàn vào ngày 2 tháng 5. Binh sĩ S.A. và S.S. sẽ tiến hành "chiếm các cơ sở nghiệp đoàn" và "đưa tất cả các lãnh đạo nghiệp đoàn vào nơi bảo vệ". Đồng thời phải tịch thu quỹ công đoàn. Các nghiệp đoàn Công giáo không bị phiền nhiễu ngày 2 tháng 5. Họ cáo chung vào ngày 24 tháng 6 .

Lúc đầu, cả Hitler và Ley đều cố trấn an công nhân là sẽ bảo vệ quyền của họ. Trong bản tuyên bố đầu tiên, Ley nói: "Hỡi công nhân! Tổ chức của các bạn có tính thiêng liêng với người Quốc xã chúng tôi. Bản thân tôi là con nông dân và tôi thông hiểu cảnh đói nghèo... Tôi thấu hiểu sự khai thác của chủ nghĩa tư bản... Hỡi công nhân! Tôi thề với các bạn, chúng tôi sẽ duy trì mọi điều kiện hiện hữu và tăng cường bảo vệ, củng cố thêm quyền của công nhân" .

Chỉ trong vòng 3 tuần, người ta lại thấy rõ thêm một lời hứa rỗng tuếch của Quốc xã. Hitler ban hành một luật mới chấm dứt việc thương thuyết tập thể quy định từ nay "nhân viên được uỷ thác" do Thủ tướng chỉ định sẽ "điều hành hợp đồng lao động" và duy trì "trật tự lao động". Vì lẽ quyết định của nhân viên được uỷ thác có tính chất luật định, nên trên thực tế điều này có nghĩa là công nhân bị cấm đình công .

Trong lúc này, giới doanh nhân lại tỏ ra hài lòng. Những khoản tiền mà các chủ nhân hào phóng rót vào két sắt của Quốc xã tỏ ra có tác dụng. Nhưng doanh nghiệp muốn giàu lên thì xã hội cần phải ổn định. Ngược lại, suốt mùa xuân cho đến đầu mùa hè, an ninh trật tự của nước Đức bị suy sụp vì các đội quân S.A. bắt bớ, đánh đập, đôi lúc hạ sát bất kỳ ai tuỳ thích trong khi cảnh sát không hề can thiệp. Nỗi kinh hoàng trên đường phố không phải do quyền lực yếu kém của Nhà nước như trường hợp của Cách mạng Pháp, mà lại do chính Nhà nước khuyến khích, thường là ra lệnh, trong khi quyền hành của Đức chưa bao giờ mạnh mẽ và được tập trung đến thế. Thẩm phán bị hăm doạ, họ lo sợ cho mạng sống của mình nếu họ kết tội và bỏ tù một binh sĩ, ngay cả vì tội giết người .

Hitler bây giờ chính là luật. Ông tuyên bố: "Cuộc Cách mạng Quốc xã vẫn đang tiến hành ... và chỉ kết thúc một cách thắng lợi khi một dân tộc Đức mới được giáo dục" .

Theo cách nói của Quốc xã, "giáo dục" có nghĩa là "trấn áp" – đến mức mà mọi người sẽ phải ngoan ngoãn chấp nhận chế độ độc tài và tàn bạo của Quốc xã. Đối với Hitler, như ông đã công khai tuyên bố hàng nghìn lần, người Do Thái không phải là người Đức và dù không tận diệt họ ngay, ông vẫn ban hành luật loại họ ra khỏi các ban ngành Nhà nước, Đại học và nghề chuyên môn. Ngày 1 tháng 4 năm 1933, Hitler tuyên bố chiến dịch tẩy chay toàn quốc đối với những cửa hàng của người Do Thái .

Giới doanh nhân tỏ ra phấn khởi khi thấy nghiệp đoàn bị dẹp bỏ. Họ thấy cánh Tả của Quốc xã – vốn thật sự tin vào chủ nghĩa xã hội của Đảng – đang tìm cách dẹp bỏ các hiệp hội chủ nhân, trung tâm bách hoá và quốc hữu hoá nhà máy. Đảng viên Quốc xã đe doạ tịch thu cửa hàng của người không ủng hộ Hitler, hoặc yêu sách được nhận vào làm việc với mức lương cao. Tiến sĩ Gottfried Feder, một nhà kinh tế lập dị, đã thúc giục sách lược quốc hữu hoá công ty lớn, phân chia lợi nhuận, xoá bỏ thu nhập không qua công sức lao động và "chế độ nô lệ lãi suất". Như thể chưa đủ để gây chấn động cho doanh nhân, Walther Darré – người vừa được cử làm Bộ trưởng Nông nghiệp – làm cho giới ngân hàng hốt hoảng khi hứa giảm nợ của nông dân và cắt giảm lãi suất .

Tại sao không? Vào giữa mùa hè 1933, Hitler đã trở thành chủ nhân của nước Đức. Bây giờ, ông đã có khả năng thực hiện chương trình của mình. Papen đã trở nên bất lực, mọi tính toán của ông nhằm kiềm chế Hitler bằng đa số 8/3 trong thành phần Nội các đã thất bại. Chính ông cũng mất chức Thủ hiến Bang Phổ và bị Goering thay thế. Papen vẫn giữ chức Phó Thủ tướng, nhưng như ông thừa nhận sau này, "chức vụ này trở nên bất bình thường". Hugenberg – người mà giới kinh doanh và tài chính trông cậy – đã ra đi, Đảng của ông đã bị giải tán. Ngày 13 tháng 3, Goebbels được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Thông tin và Tuyên truyền .

Tiến sĩ Hans Luther – Thống đốc có tính bảo thủ của Ngân hàng Nhà nước – đã bị Hitler sa thải và phái đi làm Đại sứ ở Mỹ. Thay thế ông, ngày 17 tháng 3 năm 1933 là Tiến sĩ Schacht, cựu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và là người tận tâm với Hitler. Không người nào tỏ ra hữu dụng hơn cho Hitler như ông trong việc xây dựng sức mạnh kinh tế cho Đế chế Thứ Ba và tái vũ trang cho Thế chiến II trên cương vị Bộ trưởng Kinh tế và Đặc mệnh Toàn quyền Kinh tế Chiến tranh. Đúng là trước khi chiến tranh bùng nổ, ông đã có hành vi chống đối Hitler và bị mất hết chức vụ. Nhưng việc ấy chỉ xảy ra khi đã quá muộn: Nhờ vào lòng tận tụy đối với nhà lãnh đạo Quốc xã, cùng uy tín và tài năng, thành quả của ông cho Quốc xã đã được phát huy tối đa .

"KHÔNG CÓ CÁCH MẠNG THỨ HAI!" 

Hitler đã chinh phục nước Đức một cách dễ dàng, nhưng vào mùa hè 1933 ông phải đối mặt với ít nhất 5 vấn nạn. Đó là: ngăn cản cuộc Cách mạng thứ hai, cải thiện mối quan hệ giữa lực lượng S.A. và Quân đội, đưa nước Đức khỏi bãi lầy kinh tế đồng thời tìm công ăn việc làm cho 6 triệu người thất nghiệp, đạt vị thế bình đẳng về quân bị cho Đức ở Hội nghị Giải trừ Quân bị ở Geneva cũng như tăng tốc chương trình tái vũ trang bí mật và cuối cùng là quyết định xem ai sẽ kế nhiệm Hindenburg khi ông này qua đời .

Chính Roehm, Tham mưu trưởng lực lượng S.A., tạo ra cụm từ "cuộc Cách mạng thứ hai" và thúc giục công cuộc hành động. Goebbels ủng hộ ý kiến này. Ngày 18 tháng 4 năm 1933, ông ghi vào nhật ký: "Mọi người đang nói đến cuộc Cách mạng thứ hai, cuộc Cách mạng này chắc chắn phải diễn ra. Điều đó có nghĩa là cuộc Cách mạng thứ nhất không phải là kết cục cuối cùng. Bây giờ ta phải tính sổ với bọn phản động. Cách mạng không thể nào chấm dứt." Quốc xã đã tiêu diệt phe Tả, nhưng phe Hữu thì vẫn tồn tại bao gồm: giới kinh doanh lớn và ngân hàng, giới quý tộc, các địa chủ người Junker và các tướng lĩnh Phổ – những người chi phối Quân đội. Roehm, Goebbels và những thành phần "cấp tiến" trong phong trào cũng muốn triệt hạ họ .

Vào tháng 6 năm 1933, Roehm, lúc ấy đang chỉ huy lực lượng Áo Nâu lên đến khoảng 2 triệu binh sĩ – gấp 20 lần Quân đội – gióng lên tiếng chuông báo động: "Đã có một chiến thắng trên con đường Cách mạng Đức... Các lực lượng S.A. và S.S., những người đã giúp Cách mạng Đức lăn bánh, sẽ không cho phép bị phản bội ở giữa đường... Chúng ta sẽ tiếp tục chiến đấu..." Vào tháng 8, ông bổ sung thêm ý của mình trong một bài phát biểu khác: "Hiện vẫn còn người trong những chức vụ trong Nhà nước nhưng lại chẳng hiểu gì về tinh thần Cách mạng. Chúng ta sẽ dứt khoát loại bỏ họ nếu họ dám thực hiện ý tưởng phản động" .

Nhưng Hitler có ý nghĩ ngược lại. Đối với ông ta, khẩu hiệu về chủ nghĩa xã hội chỉ là để tuyên truyền, là cách thức để vận động sự ủng hộ của quần chúng trên đường tiến lên quyền lực. Bây giờ, khi đã có quyền lực, ông chẳng thiết tha gì đến những khẩu hiệu ấy nữa. Ông cần thời gian để củng cố vị trí của mình và củng cố đất nước. Ít nhất là trong giai đoạn này, ông cần phải trấn an cánh Hữu là các doanh nghiệp, Quân đội và Tổng thống. Ông không có ý định làm nghèo nước Đức, vì nếu thế chế độ của ông có nguy cơ sụp đổ. Vậy nên, không được có Cách mạng thứ hai .

Hitler vạch rõ điều này với các nhà lãnh đạo S.A. và S.S. trong bài phát biểu ngày 1 tháng 7. Ông nói, lúc này nước Đức cần có an ninh trật tự .

"Tôi sẽ trấn áp bất kỳ hành động nào làm xáo trộn trật tự hiện tại và cũng kiên quyết xử lý cái gọi là Cách mạng thứ hai, vốn chỉ dẫn đến hỗn loạn" .

Ngày 6 tháng 7, ông lặp lại lời cảnh cáo khi phát biểu với các Thủ hiến bang đều do Quốc xã bổ nhiệm: "Cách mạng không phải là công tác vĩnh cửu và cũng không được phép phát triển đến mức ấy. Phải hướng dòng chảy Cách mạng vào luồng lạch an toàn của bước tiến hoá... Vì thế ta không nên sa thải một doanh nhân nếu đó là một doanh nhân giỏi, ngay cả khi ông ta chưa phải là Quốc xã và đặc biệt là không nên, khi người Quốc xã muốn thay thế ông ta mà chẳng biết gì về kinh doanh. Trong kinh doanh, năng lực phải là tiêu chuẩn duy nhất... Lịch sử sẽ phán xử ta không phải theo cách ta có bỏ tù một số lớn doanh nhân hay không, mà theo cách ta có thành công trong việc tạo công ăn việc làm hay không... Cương lĩnh không bắt buộc ta phải hành động như kẻ điên khùng và làm xáo trộn mọi thứ, mà là phải nhận thức được dòng tư tưởng một cách khôn ngoan và cẩn trọng, về lâu dài, nếu ta càng củng cố nó về mặt kinh tế thì sức mạnh chính trị của ta sẽ càng thêm vững vàng. Vì thế các thủ hiến bang không được để bất kỳ một tổ chức Đảng nào chiếm lấy chức năng của chính quyền, sa thải nhân sự và bổ nhiệm chức vụ, nhằm thực hiện những việc mà chính quyền Đế chế – xét về mặt kinh doanh, là Bộ trưởng Kinh tế – cũng có năng lực thực hiện" .

Đây là lời tuyên bố mạnh mẽ nhất cho thấy Cách mạng Quốc xã cũng có tính chất kinh tế chứ không chỉ chính trị. Để củng cố lời lẽ của mình, Hitler sa thải một số Đảng viên Quốc xã "cấp tiến" đã cố tìm cách kiểm soát những cơ sở doanh nghiệp. Ông bổ nhiệm Tiến sĩ Kurt Schmitt làm Bộ trưởng Kinh tế mới. Schmitt nguyên là Tổng giám đốc của Allianz, một công ty bảo hiểm lớn nhất của Đức. Ngay khi nhậm chức, ông này vội vã ngăn chặn công việc của Đảng viên Quốc xã vốn đã ngây thơ mà thi hành chương trình của Đảng quá nghiêm túc .

Hàng ngũ cấp thấp của Quốc xã, đặc biệt là đội quân S.A., cảm thấy thất vọng não nề. Phần lớn bọn họ là đám người không có quyền sở hữu và luôn bất mãn. Họ có tư tưởng chống tư bản và tin rằng cuộc Cách mạng mà họ tham gia sẽ mang đến chiến lợi phẩm, đồng thời mang lại cho họ một công việc trả lương cao – hoặc trong doanh nghiệp tư nhân hoặc trong cơ quan nhà nước. Bây giờ, những hy vọng ấy đã vỡ vụn. Lớp người cũ, dù là Đảng viên hay không, đã chiếm lấy công ăn việc làm và sẽ giữ nguyên công ăn việc làm. Nhưng đây không phải là nguyên nhân duy nhất khiến cho lực lượng S.A. bị dao động .

Sự tranh cãi âm ỉ giữa Hitler và Roehm về vai trò và mục đích của lực lượng S.A. lại bùng phát. Từ những ngày đầu tiên trong phong trào Quốc xã, Hitler xác định đội quân Áo Nâu này là lực lượng chính trị, không phải thuộc diện quân sự. Nhiệm vụ của họ là gây bạo động, gây khủng bố và theo đấy Đảng sẽ xông lên mà chiếm quyền lực .

Nhưng đối với Roehm, S.A. vừa là xương sống của Cách mạng Quốc xã và cũng là hạt nhân cho quân đội Cách mạng tương lai. Đây là lúc phải quét sạch các tướng lĩnh Phổ phản động, thành lập một lực lượng chiến đấu Cách mạng, một quân đội nhân dân, dưới quyền chỉ huy của ông và các phụ tá – những người đã chinh phục đường phố Đức .

tưởng của Hitler thì khác hẳn. Ông nhận thức rõ ràng hơn Roehm – hoặc bất kỳ Đảng viên Quốc xã nào khác – rằng mình chỉ nắm được quyền lực nếu có sự ủng hộ của tướng lĩnh và rằng, ít nhất lúc này, ông vẫn còn lệ thuộc vào Quân đội, vì họ vẫn còn đủ sức lật đổ ông nếu họ muốn. Hitler cũng tiên liệu rằng mình sẽ cần đến lòng trung thành của Quân đội một khi Hindenburg qua đời – và ngày ấy sẽ không còn quá xa. Hơn nữa, nhà lãnh đạo Quốc xã biết chắc rằng chỉ có cấp tướng lĩnh và sĩ quan – với tất cả truyền thống và năng lực quân bị – mới có thể hoàn tất trong một thời gian ngắn mục tiêu xây dựng một lực lượng chiến đấu hùng mạnh và có kỷ luật. Quân S.A chỉ là đám ô hợp, chỉ làm tốt việc đấm đá ngoài đường phố chứ không thể là quân đội hiện đại. Họ đã làm tròn nhiệm vụ và bây giờ phải tìm cách khéo léo mà đẩy họ ra khỏi con đường sự nghiệp của Hitler .

Khó mà dung hoà hai quan điểm của Hitler và Roehm. Từ mùa hè 1933 đến giữa năm sau, một cuộc tranh đấu sống còn diễn ra giữa hai nhà lãnh đạo kỳ cựu trong phong trào Quốc xã, đồng thời cũng là bạn thân. (Ernst Roehm là người duy nhất mà Hitler xưng hô bằng từ thân mật du) .

Dù Roehm phản đối thêm, Hitler vẫn cương quyết. Ngày 23 tháng 9, ông phát biểu tại Nuremberg: "Ngày hôm nay, chúng ta phải đặc biệt nhớ đến vai trò mà Quân đội đã đóng góp, bởi vì tất cả chúng ta đều biết rõ rằng trong những ngày của Cách mạng, nếu Quân đội không đứng về cùng một phía, thì ngày hôm nay chúng ta sẽ không đứng ở đây. Chúng ta có thể cam đoan với Quân đội rằng sẽ không bao giờ quên điều này, rằng chúng ta xem họ là những người nối tiếp truyền thống của Quân đội quang vinh ngày xưa và rằng chúng ta sẽ hỗ trợ tinh thần của Quân đội với tất cả tâm tư và sức mạnh của mình" .

Một thời gian trước đó, Hitler đã bí mật trấn an các lực lượng quân sự và khiến cho nhiều tướng lĩnh ngả về phía ông. Ngày 2 tháng 2 năm 1933, 3 ngày sau khi nhậm chức Thủ tướng – tại nhà riêng của Tướng chỉ huy Lục quân von Hammerstein, Hitler đã phát biểu trong hai giờ trước các tướng lĩnh và đô đốc hàng đầu. Đây là buổi gặp gỡ đầu tiên giữa vị Thủ tướng Quốc xã và Tướng von Hammerstein, Chỉ huy Quân đội. Trước Toà án Nuremberg, Thuỷ sư Đô đốc Erich Raeder tiết lộ nội dung buổi gặp gỡ: Hitler trấn an Quân đội là họ sẽ không bị lôi kéo vào một cuộc nội chiến, cùng với đó ông hứa rằng bây giờ Lục quân và Hải quân có thể chú tâm hoàn toàn vào việc tái vũ trang nhanh chóng cho nước Đức mới. Raeder thừa nhận mình rất vui khi nghĩ đến viễn cảnh của một Hải quân mới. Riêng Tướng von Blomberg – người đã vội vã tiếp nhận chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng ngày 30 tháng 1 năm 1933 rồi dập tắt mọi chống đối trong Quân đội khi Hitler lên làm Thủ tướng – ghi trong hồi ký rằng Lãnh tụ đã mở ra "một lĩnh vực gồm những hoạt động mang nhiều điều khả dĩ lớn lao cho tương lai" .

Để tạo thêm hưng phấn cho giới lãnh đạo quân sự, ngày 4 tháng 4 năm 1933, Hitler thành lập Hội đồng Quốc phòng Đế chế nhằm thúc đẩy một chương trình tái vũ trang mới và bí mật. Ba tháng sau, ông ban hành Luật Quân đội mới, xoá bỏ quyền hạn của toà án dân sự đối với Quân đội và bãi bỏ việc bầu cử đại diện của binh sĩ, qua đó phục hồi cho cấp sĩ quan những đặc quyền quân sự trước đây. Nhiều tướng lĩnh và đô đốc bắt đầu có cảm tình với Cách mạng Quốc xã .

Để xoa dịu Roehm, Hitler bổ nhiệm ông này vào Nội các cùng với Rudolf Hess, Phó Lãnh tụ Đảng Quốc xã. Ngày đầu năm 1934, Hitler gửi cho Roehm một bức thư với ngôn từ nồng nàn. Ông khen ngợi thành công của lực lượng S.A. chủ yếu là nhờ Roehm. Bức thư kết luận: Vì thế, kết thúc một năm Cách mạng của Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa, tôi phải cảm ơn người bạn thân mến của tôi, Ernst Roehm, về những công lao không thể kể hết mà anh đã cống hiến cho phong trào Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa và cho nhân dân Đức. Mong anh tin rằng tôi lấy làm biết ơn vì có thể gọi những người như anh là bạn của tôi và chiến hữu của tôi .

Với tình bạn đích thực và lời chào biết ơn, ADOLF HITLER Bức thư được viết theo cách xưng hô thân mật, được đăng tải trên tờ nhật báo của Quốc xã và trong một thời gian đã giúp xoa dịu phần nào bất mãn trong lực lượng S.A. .

CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO KHỞI ĐẦU CỦA QUỐC Xà

Khi nhận xét Hitler đã chinh phục và Quốc xã hoá nước Đức một cách dễ dàng ra sao, Oswald Spengler viết: "Không có chiến thắng, bởi vì thiếu kẻ thù. Sau khi chiếm được quyền lực là việc ăn mừng ồn ào mỗi ngày. Đáng lẽ ra nên để dành việc đó cho đến ngày có được thành công thực sự và dứt khoát thì tốt hơn..." Đó là lời của một vị sử gia kiêm triết gia, người mà trong một thời gian ngắn xem Quốc xã là thần tượng cho đến khi cảm thấy bất mãn và tỏ ra nôn nóng một cách vô lý. Ông cho rằng Hitler phải chinh phục Đức trước khi có thể tìm cách chinh phục thế giới. Nhưng ngay sau khi tiêu diệt được các đối thủ trong nước, hoặc họ tự tiêu diệt lẫn nhau, thì Hitler lại nhanh chóng chuyển qua lĩnh vực mà mình chú tâm nhất: ngoại giao .

Vào mùa xuân 1933, địa vị của Đức trên thế giới khó mà thấp kém hơn được nữa. Đức bị cô lập về ngoại giao và bất lực về quân sự. Cả thế giới cảm thấy kinh tởm trước những hành động quá đáng của Quốc xã, nhất là việc ngược đãi người Do Thái. Các nước láng giềng – đặc biệt là Pháp và Ba Lan – có thái độ thù địch và nghi ngại. Ngay cả Mussolini, dù bề ngoài hoan nghênh việc quyền lực Phát xít thứ hai nổi lên, nhưng thật ra lại không lấy làm hào hứng lắm khi thấy Hitler lên nắm chính quyền. Lãnh tụ của một quốc gia có tiềm năng mạnh hơn Ý có thể che lấp ảnh hưởng của Mussolini. Một Đế chế Đức tham lam có thể ngấp nghé Áo và vùng Balkans, trong khi nhà độc tài Ý lại đang có mưu đồ ở những nơi này. Liên Xô cũng rõ ràng tỏ ra thù địch với Quốc xã, trong khi mới sau Thế chiến I hai bên còn thân thiện với nhau. Vậy là Đế chế Thứ Ba không có ai là bạn trong một thế giới thù địch. Hơn nữa Đức còn bị giải giới trong khi các nước láng giềng đều có quân đội hùng mạnh .

Vì thế, chiến lược và chiến thuật ngoại giao trước tiên của Hitler là nương theo vị thế yếu ớt và cô lập của Đức. Nhưng điều trớ trêu là chính tình cảnh này lại tạo ra hai mục tiêu phù hợp với ý nguyện của Hitler và của đại đa số dân Đức: thoát khỏi xiềng xích của Hoà ước Versailles mà không bị cấm vận, đồng thời tái vũ trang mà không gây chiến tranh. Chỉ khi đạt được hai mục tiêu này, Hitler mới có đủ tự do và sức mạnh quân sự để theo đuổi chính sách ngoại giao dài hạn như ông mô tả trong Mein Kampf .

Việc đầu tiên là gây rối các đối thủ của Đức ở châu Âu bằng việc kêu gọi giải trừ quân bị, hô hào hoà bình và để mắt phát hiện ra điểm yếu của họ. Ngày 17 tháng 5 năm 1933, Hitler đọc bài "Diễn văn Hoà bình" trước Nghị viện. Đây là một trong những bài diễn văn quan trọng nhất trong sự nghiệp của Hitler, một kiệt tác trong nghệ thuật tuyên truyền lừa dối khiến cho người Đức cảm động một cách sâu sắc. Bài diễn văn cũng làm cho dân Đức đoàn kết sau lưng Hitler và tạo ấn tượng tốt cho các nước khác trên thế giới .

Vào ngày hôm trước, Tổng thống Roosevelt đã gửi một thông điệp dứt khoát đến các nhà lãnh đạo của 44 quốc gia, vạch ra kế hoạch và ước mong của Mỹ về giải trừ quân bị và hoà bình, đồng thời kêu gọi dẹp bỏ mọi vũ khí tấn công bao gồm: máy bay oanh tạc, xe tăng và đại pháo cơ động. Hitler nhanh chóng đáp lại và lợi dụng sự thách thức của Roosevelt để đạt được mục đích tuyên truyền và lừa dối .

"Chính phủ Đức nồng nhiệt cảm ơn đề xuất của Tổng thống Roosevelt... Chúng tôi sẵn sàng đồng ý với phương pháp như thế nhằm vượt qua cuộc khủng hoảng quốc tế... Đề xuất của Tổng thống là nguồn an ủi cho tất cả những người muốn hợp tác trong công cuộc duy trì hoà bình... Đức hoàn toàn sẵn sàng từ bỏ mọi vũ khí tấn công nếu các quốc gia được trang bị vũ trang cũng sẽ phá huỷ vũ khí tấn công của họ... Đức cũng rất sẵn sàng giải tán cả Quân đội và phá huỷ số vũ khí ít ỏi còn lại, nếu các nước láng giềng cũng làm thế... Đức sẵn sàng ký kết bất kỳ hiệp ước bất tương xâm nào, bởi vì Đức không nghĩ đến việc tấn công mà chỉ nghĩ đến tìm kiếm an ninh." Còn có nhiều điều khác trong bài diễn văn được dùng với ngôn từ chừng mực và thể hiện lòng khao khát hoà bình. Đức không muốn chiến tranh. Chiến tranh là "sự điên rồ vô bờ bến". Chiến tranh sẽ "làm sụp đổ trật tự xã hội và chính trị hiện nay". Đức Quốc xã không muốn "Đức hoá" những dân tộc khác: "Chúng tôi không còn mang não trạng trong thế kỷ trước, vốn khiến cho người ta nghĩ có thể biến người Ba Lan và người Pháp thành người Đức... Người Pháp, người Ba Lan và những dân tộc khác là láng giềng của chúng tôi và chúng tôi biết chẳng biến cố nào có thể thay đổi thực tế ấy" .

Nhưng Hitler vẫn đưa ra một lời cảnh cáo. Đức đòi hỏi được đối xử bình đẳng với mọi quốc gia khác, đặc biệt là về việc giải trừ quân bị. Nếu điều này không đạt được, Đức sẽ rút ra khỏi Hội nghị Giải trừ Quân bị và Hội Quốc liên .

Lời cảnh cáo chìm trong quên lãng giữa niềm vui mừng khắp thế giới phương Tây trước thái độ biết điều bất ngờ của Hitler. Tờ Times ở London đồng ý rằng lời kêu gọi của Hitler đối với bình đẳng là "không thể biện bác được". Tờ Daily Herald ở London, cơ quan chính thức của Đảng Lao động, yêu cầu mọi người hãy tin vào lời nói của Hitler. Tờ tuần báo bảo thủ Spectator ở London kết luận rằng Hitler đã nắm lấy bàn tay của Roosevelt và xem cử chỉ này là niềm hy vọng mới cho một thế giới đau khổ. Ở Washington, văn phòng báo chí chính thức của Đức trích lời Bí thư của Tổng thống: "Tổng thống lấy làm phấn khởi việc Hitler chấp thuận những đề xuất" .

Ngôn từ của nhà độc tài thích bạo động của Quốc xã không phải là đe doạ dữ dằn như người ta e ngại lúc đầu, mà là bỗng chốc lại thay đổi thành ngọt ngào và dịu dàng. Còn ở Nghị viện, ngay cả các đại biểu Xã hội – những người không vào tù hoặc lưu vong đã nhất trí biểu quyết chấp nhận tuyên bố chính sách ngoại giao của Hitler .

Nhưng lời cảnh cáo của Hitler không phải là rỗng tuếch. Khi thấy rõ rằng Đồng minh cứ khăng khăng về thời gian 8 năm để giải trừ quân bị xuống ngang bằng với Đức, ngày 14 tháng 10 năm 1933, đột nhiên Hitler loan báo rằng, vì không được các cường quốc ở Geneva đối xử bình đẳng, nên Đức sẽ lập tức rút lui khỏi Hội nghị Giải trừ Quân bị và Hội Quốc liên. Cùng lúc, Hitler thực hiện 3 bước khác: giải tán Nghị viện, đưa vấn đề rút khỏi Genevara trưng cầu dân ý và hạ lệnh cho Bộ trưởng Quốc phòng von Blomberg bí mật chỉ thị Quân đội chống lại một cuộc tấn công vũ trang, nếu Hội Quốc liên muốn trừng phạt .

Hành động hấp tấp này cho thấy bài diễn văn dàn hoà của Hitler đọc vào mùa xuân chỉ là rỗng tuếch. Đó là ván bài lật ngửa đầu tiên của Hitler về ngoại giao. Việc này có nghĩa là từ lúc này trở đi, Đức Quốc xã có ý định tự tái vũ trang trong thái độ thách thức với bất kỳ hiệp ước giải trừ quân bị nào và với Hoà ước Versailles. Đây là rủi ro có tính toán và những rủi ro như thế sẽ tiếp diễn nhiều lần sau này. Chỉ thị bí mật của Blomberg (được trình ra trước Toà án Nuremberg) cho thấy Hitler đã đánh ván bài liều với nguy cơ bị trừng phạt và tình thế của Đức sẽ là vô vọng nếu các nguy cơ ấy trở thành sự thật. Chỉ thị của Hitler đã vạch ra những tuyến phòng ngự mà lực lượng Đức được lệnh "giữ vững càng lâu càng tốt". Rõ ràng là Đức không tin có thể chống cự lâu dài .

Đây là cuộc khủng hoảng đầu tiên của nhiều cuộc khủng hoảng trong giai đoạn kéo dài suốt 3 năm. Trong thời gian này, Đồng minh đáng lẽ đã có thể trừng phạt Đức vì lý do vi phạm Hoà ước Versailles và đánh bại Đức một cách dễ dàng, qua đó chấm dứt Đế chế Thứ Ba ngay trong năm đầu của chế độ này. Nhưng Hitler đã quá tinh ranh: trong một thời gian dài ông đã đánh giá đối thủ nước ngoài một cách tài tình, cũng như ông đã đánh giá đúng đối thủ trong nước. Trong cơn khủng hoảng này, các nước Đồng minh chiến thắng chẳng có hành động gì. Do quá chia rẽ, quá ù lì, quá mù quáng mà họ không nhận ra bản chất hoặc chiều hướng của nội tình nước Đức. Theo khía cạnh ấy, tính toán của Hitler là đúng lý, cũng chính xác như tính toán của ông về dân Đức. Ông biết rõ dân Đức sẽ quyết định ra sao trong cuộc trưng cầu dân ý mà ông định vào ngày 12 tháng 11 năm 1933. Đó là một ngày sau ngày kỷ niệm hiệp định ngừng bắn năm 1918 – một ngày đen tối vẫn còn vương vấn trong ký ức người Đức .

Hitler phát biểu trong một buổi vận động bầu cử: "Ngày ấy sẽ được ghi trong lịch sử của dân tộc ta là ngày cứu rỗi... Ngày 11 tháng 11, dân tộc Đức bị mất danh dự. 15 năm sau, đến ngày 12 tháng 11 dân tộc Đức sẽ tự phục hồi danh dự" .

Một ngày trước cuộc trưng cầu dân ý, Hindenburg lên tiếng trên đài truyền thanh tỏ ý ủng hộ: "Ngày mai, mọi người hãy cho thấy tình đoàn kết của quốc gia với Chính phủ. Hãy cùng với tôi và Thủ tướng ủng hộ nguyên tắc bình đẳng và hoà bình trong danh dự, đồng thời cho thế giới thấy chúng ta đã hồi phục, và nhờ Ơn Trên giúp đỡ, nước Đức đã thống nhất!" .

Sau 15 năm chán ngán và bất mãn với hậu quả của chiến bại, phản ứng của người Đức gần như là nhất trí. Khoảng 96% cử tri đi bỏ phiếu, trong đó 95% trong số ấy chấp thuận việc Đức rút ra khỏi Geneva. Ngay cả ở trại tập trung Dachau, 2.154 trong số 2.242 người bị giam cầm bỏ phiếu ủng hộ Chính phủ đã bắt giam họ! Đúng là trong nhiều cộng đồng, chính quyền đe doạ người không đi bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu không đúng ý Nhà nước. Nhưng dù có trừ ra những số phiếu này, việc đếm phiếu một cách trung thực vẫn cho thấy Hitler đạt thắng lợi áp đảo. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa: khi thách thức thế giới bên ngoài, Hitler nhận được sự ủng hộ của phần lớn người dân Đức .

Ba ngày sau cuộc trưng cầu dân ý, Hitler mời Đại sứ Josef Lipski của Ba Lan đến gặp. Sau buổi hội kiến, 2 bên ra thông cáo chung khiến cả công chúng Đức và các nước trên thế giới ngạc nhiên. Hai Chính phủ Ba Lan và Đức đồng ý... "giải quyết những vấn đề liên quan đến hai bên qua đàm phán trực tiếp và từ bỏ mọi việc sử dụng vũ lực, nhằm củng cố nền hoà bình chung của châu Âu" .

Hơn cả Pháp, Ba Lan là quốc gia mà người Đức có ác cảm nặng nề .

Trong tâm tưởng của người Đức, lỗi lầm gớm ghiếc nhất của Hoà ước Versailles là tách Đông Phổ khỏi phần còn lại của lãnh thổ Đức để sáp nhập vào Ba Lan, tạo nên Hành lang Ba Lan, lại còn tách Danzig và trao cho Ba Lan tỉnh Posen và một phần của Silesia – dù cho có đa số dân là người Ba Lan nhưng đã là lãnh thổ của Đức từ khi chia cắt Ba Lan. Dưới thời Cộng hoà, không có chính khách Đức nào xem việc giao lãnh thổ cho Ba Lan là trường cửu. Lấy ví dụ, Tướng von Seeckt, cha đẻ của Quân đội Đức sau này và là người chỉ đạo chính sách ngoại giao trong những năm đầu nền Cộng hoà, ngay vào năm 1922 đã khuyến cáo Chính phủ rằng "Sự hiện hữu của Ba Lan là không chấp nhận được, không phù hợp với những điều kiện thiết yếu cho cuộc sống của Đức... Ba Lan phải ra đi và sẽ ra đi... Việc huỷ diệt Ba Lan phải là một trong những bước tiến trong chính sách của Đức. Khi Ba Lan biến mất, thì một trong những trụ cột mạnh nhất của Hoà ước Versailles là đường lối hiếu chiến của Pháp sẽ sụp đổ." Hitler thấy trước khi tiêu diệt Ba Lan thì cần tách nước này ra khỏi mối liên kết với Pháp. Sách lược mà ông đang theo đuổi có nhiều lợi điểm nhất thời. Bằng cách từ bỏ sử dụng vũ lực, ông có thể củng cố làn sóng tuyên truyền cho hoà bình và xoá đi nỗi nghi ngại ở cả hai vùng Tây Âu và Đông Âu. Bằng cách mời Ba Lan đàm phán trực tiếp, ông có thể né tránh Hội Quốc liên và làm suy yếu chức năng của tổ chức này. Và ông tấn công vào ý niệm của Hội Quốc liên về "an ninh tập thể", đồng thời lũng đoạn những mối liên minh của Pháp với Đông Âu, trong đó Ba Lan là pháo đài vững chắc. Người dân Đức vốn thù ghét Ba Lan có thể không hiểu được, nhưng đối với Hitler, một trong những lợi điểm của chế độ độc tài là có thể tạm thời theo đuổi chính sách mất lòng dân để đạt mục đích trong lâu dài .

Ngày 26 tháng 1 năm 1934, 4 ngày trước khi Hitler gặp Nghị viện để kỷ niệm 1 năm ông lên cầm quyền, một thông cáo được đưa ra về việc ký kết hiệp ước bất tương xâm giữa Đức và Ba Lan có hiệu lực trong vòng 10 năm. Từ ngày này, Ba Lan dần dần rời xa khỏi Pháp (nước bảo hộ Ba Lan từ khi Ba Lan ra đời năm 1919) và trở nên thân cận hơn với Đức Quốc xã. Đó là con đường dẫn đến sự sụp đổ của Ba Lan trước khi hiệp ước bất tương xâm hết hạn .

Khi Hitler đọc diễn văn trước Nghị viện ngày 30 tháng 1 năm 1934, ông có thể nhìn lại một năm thành tựu không gì sánh bằng trong lịch sử nước Đức. Chỉ trong vòng 12 tháng, ông lật đổ nền Cộng hoà, thay thế nền dân chủ bằng chế độ độc tài, giải tán mọi Đảng chính trị ngoại trừ Quốc xã, xoá bỏ chính quyền và Nghị viện các bang, từ đây thống nhất toàn Đế chế, dẹp bỏ nghiệp đoàn, đẩy người Do Thái ra khỏi các hoạt động công cộng và chuyên môn, thủ tiêu quyền tự do ngôn luận và báo chí, khống chế toà án, "điều phối" bằng luật của Quốc xã trong đời sống chính trị, kinh tế văn hoá và xã hội của một dân tộc lâu đời và văn minh. Và người dân Đức ủng hộ ông mạnh mẽ trong những thành tựu trên cùng với chính sách ngoại giao để đưa Đức ra khỏi sự chi phối của Hội nghị Giải trừ Quân bị và Hội Quốc liên .

Tuy thế, khi bước sang năm thứ hai của chế độ độc tài, những đám mây u ám lại bao phủ chân trời Quốc xã .

CUỘC THANH TRỪNG ĐẪM MÁU NGÀY 30 THÁNG 6, 1934

Chân trời u ám ấy là do 3 vấn đề liên quan với nhau và đều chưa được giải quyết: sự thúc giục của nhóm cấp tiến và các cấp chỉ huy S.A. về cuộc "Cách mạng thứ hai", sự kình chống giữa lực lượng S.A. và Quân đội, cuối cùng là vấn đề tiếp nhiệm Tổng thống Hindenburg đang ngày càng già yếu .

Tham mưu trưởng Roehm của lực lượng S.A. (hiện lên đến 2 triệu rưỡi người), vẫn chưa hài lòng khi được đưa vào Nội các và nhận được bức thư thân thiện từ chính Lãnh tụ. Ông đã đề nghị với Nội các là lực lượng S.A. phải là nền tảng cho Quân đội Nhân dân mới và toàn bộ lực lượng Quân đội nói chung, S.A. và S.S. phải được đặt dưới Bộ Quốc phòng mà ông ngụ ý sẽ do mình đứng đầu. Giới lãnh đạo quân sự đồng lòng phản đối và kêu gọi Hitler ủng hộ họ. Cả truyền thống của giai cấp chiến binh sẽ bị huỷ diệt nếu gã côn đồ Roehm và đám quân Áo Nâu ô hợp nắm quyền kiểm soát Quân đội. Hơn nữa, các tướng lĩnh bị sốc vì những chuyện tham nhũng và sa đoạ của đám người đồng tính xung quanh Roehm. Như Tướng von Brauchitsch sau này tường trình: "tái vũ trang là công việc quá nghiêm túc và khó khăn nên không thể cho phép sự tham gia của những kẻ tham ô, rượu chè và đồng tính" .

Vào lúc này Hitler rất cần đến Quân đội, thế nên ông không chấp nhận đề nghị của Roehm. Ngày 21 tháng 2, ông bí mật nói với Anthony Eden – người đến Berlin để bàn về giải trừ quân bị – rằng mình sẵn sàng giảm lực lượng S.A. còn ⅓, cùng với đó cũng sẽ đồng ý về một cơ chế kiểm tra nhằm đảm bảo phần còn lại của S.A. sẽ không được huấn luyện quân sự và nhận vũ khí. Khi chuyện này rò rỉ ra ngoài, Roehm và lực lượng lấy làm tức tối .

Đến mùa hè 1934, quan hệ giữa Roehm và Bộ Tư lệnh Lục quân ngày càng tồi tệ hơn. Tranh cãi xảy ra gay gắt trong Nội các là giữa Roehm và Bộ trưởng Quốc phòng Blomberg. Vào tháng Ba, vị tướng này phản ánh với Hitler là đội quân S.A. đang bí mật trang bị súng máy cho một lực lượng lớn. Blomberg cho rằng việc này là mối đe doạ cho Quân đội và cũng làm phương hại đến chương trình tái vũ trang bí mật mà Quân đội đang thực hiện .

Vào lúc này, Hitler đang nghĩ đến ngày mà vị Tổng thống già yếu trút hơi thở cuối cùng. Hitler biết rằng sau khi ông già qua đời, Quân đội và các thành phần bảo thủ khác đều mong phục hồi vương triều Hohenzollern. Nhưng Hitler lại có kế hoạch khác. Đầu tháng 4 năm 1934, Hitler nhận được tin báo mật nhưng đáng tin cậy rằng chẳng còn bao lâu nữa vị Tổng thống sẽ qua đời. Hitler cần Quân đội ủng hộ để thực hiện mưu đồ của mình và ông muốn tranh thủ sự ủng hộ này bằng mọi giá .

Cơ hội để điều đình bí mật với Quân đội đến vào ngày 11 tháng 4 năm 1934. Hitler cùng Bộ trưởng Quốc phòng Blomberg, Tướng Freiherr von Fritsch chỉ huy Lục quân và Đô đốc Raeder chỉ huy Hải quân khởi hành từ Kiel trên chiếc thiết giáp hạm bỏ túi Deutschlandđể tham dự cuộc tập trận mùa xuân ở Đông Phổ. Hitler thông báo cho hai chỉ huy Lục quân và Hải quân về tình trạng sức khoẻ ngày càng tồi tệ của Tổng thống, đồng thời thẳng thừng đề nghị là nếu có sự đồng ý của Quân đội thì chính mình sẽ lên thay thế. Vốn hay phục tùng, Blomberg ủng hộ ý kiến này. Để đáp lại sự ủng hộ của Quân đội, Hitler hứa sẽ kiềm chế tham vọng của Roehm, giảm đi số lượng của đội quân S.A. và đảm bảo rằng Quân đội vẫn là lực lượng vũ trang duy nhất. Cũng có tin cho rằng Hitler còn hứa hẹn với Fritsch và Raeder về triển vọng phát triển mạnh mẽ của Lục quân và Hải quân, nếu chỉ huy 2 quân chủng này ủng hộ ông ta. Đối với Raeder có tính xu nịnh thì điều đó chẳng thành vấn đề, nhưng Fritsch – mẫu người cứng cỏi hơn – cần hội ý trước với tướng lĩnh dưới quyền .

Trong buổi hội ý ngày 16 tháng 5, sau khi nghe Fritsch giải thích về chương trình của Hitler, giới chỉ huy cao cấp của Lục quân nhất trí ủng hộ Hitler lên thay Tổng thống Hindenburg .

Đối với Quân đội, quyết định chính trị này có tầm quan trọng lịch sử. Bằng cách tự nguyện đặt dưới sự điều động của một nhà độc tài có tính hoang tưởng tự đại và không biết tự kiềm chế, vô hình trung Quân đội đã tự kết liễu vận mệnh của mình .

Đối với Hitler, thoả thuận này sẽ đưa ông ta lên ngôi vị độc tài tối cao. Khi vị Tổng thống cứng cỏi qua đời, khi vương triều Hohenzollern không có cơ hội quay lại, với cương vị nguyên thủ quốc gia kiêm Thủ tướng Chính phủ, một mình ông có thể làm bất cứ việc gì mình muốn mà không còn ai ngáng trở. Cái giá phải trả cho việc này lại rất nhỏ: hy sinh lực lượng S.A.. Ông chẳng còn cần đến lực lượng này nữa, khi mà đã có tất cả quyền lực trong tay. S.A. là một đám hỗn tạp thô bạo chỉ khiến cho ông xấu hổ. Vào mùa xuân, hẳn Hitler bắt đầu cảm thấy khinh thường giới tướng lĩnh thiển cận khi có thể mua đứt họ bằng một cái giá rẻ đến mức đáng ngạc nhiên. Đó là phán xét mà Hitler mang trong đầu cho đến tận hồi kết cục của ông và của chính họ – chỉ trừ một thời khắc tồi tệ vào tháng Sáu .

Tuy thế, mùa hè đến mà Hitler vẫn chưa giải quyết xong rắc rối. Bầu không khí căng thẳng bắt đầu bao trùm Berlin. Càng ngày càng có thêm nhiều tiếng hô hào từ đám S.A. cho cuộc "Cách mạng thứ hai" và bây giờ có thêm cả Goebbels phụ hoạ qua những bài diễn văn và báo chí mà ông nắm quyền kiểm soát. Từ cánh Hữu bảo thủ, người Junker, các nhà công nghiệp lớn xung quanh Papen và Hindenburg vang lên lời yêu cầu dừng cuộc Cách mạng, chấm dứt các hành động: bắt bớ, ngược đãi người Do Thái, đả kích Giáo hội, tăng cường sự kiềm chế quân Áo Nâu và chấm dứt các hành động khủng bố nói chung .

Trong nội bộ Đảng Quốc xã nổi lên một cuộc tranh giành quyền lực mới không khoan nhượng. Goering và Himmler cùng liên kết với nhau để chống lại Roehm. Ngày 1 tháng 4 năm 1934, Goering bổ nhiệm Himmler làm chỉ huy Mật vụ của bang Phổ. Himmler lập tức gây dựng một lực lượng cảnh sát bí mật. Goering đã được Hindenburg phong hàm Đại tướng Bộ binh từ tháng 8 năm 1933 (dù ông là Bộ trưởng Hàng không), giờ đây vui vẻ thay bộ đồng phục lôi thôi màu nâu của S.A. để khoác vào bộ quân phục oai vệ của Đại tướng. Sự thay đổi tạo biểu tượng mới: với cương vị là tướng lĩnh và là thành viên của giai cấp quân sự, ông nhanh chóng ngả theo phe Quân đội để chống lại Roehm và lực lượng S.A.. Nhằm tự bảo vệ trong cuộc chiến đấu hoang dại, Goering cũng thành lập một lực lượng cảnh sát cho riêng mình, với đội ngũ lên đến vài ngàn người, đóng doanh trại tại Trường Sĩ quan ở Lichterfelde – vị trí chiến lược ở vùng ngoại ô Berlin .

Những lời đồn đại về mưu đồ và phản mưu đồ khiến cho không khí ở thủ đô ngày càng căng thẳng thêm. Tướng von Schleicher cũng bắt đầu dính dáng đến chính trị vì không muốn nằm mãi trong bóng tối và thấy không ai còn vị nể mình. Ông tiếp xúc với Roehm và Gregor Strasser, rồi có tin là ông đang cố chiếm chiếc ghế Phó Thủ tướng của kẻ cựu thù Papen. Trong mưu đồ này, Roehm sẽ nắm ghế Bộ trưởng Quốc phòng và lực lượng S.A. sẽ được sáp nhập vào Quân đội. Trong hàng chục "danh sách" Nội các được lưu hành ở Berlin, có danh sách ghi Bruening làm Bộ trưởng Ngoại giao và Strasser làm Bộ trưởng Kinh tế .

Bản thân Goering và Himmler đều có tham vọng riêng và cũng muốn thanh toán món nợ cũ với Schleicher cùng nhóm bảo thủ đang bất mãn, nên họ đã báo cáo mọi chuyện với Hitler. Hai người có ý định thanh trừng đám S.A., quét sạch các đối thủ ở cánh Tả lẫn Hữu, kể cả những người lúc trước chống đối Hitler nhưng bây giờ không còn hoạt động. Vào cuối tháng 5 năm 1934, phe âm mưu chống Hitler bị đánh động, Bruening cải trang rồi trốn ra nước ngoài, Schleicher đi nghỉ mát ở Bavaria nhưng quay lại Berlin cuối tháng Sáu .

Hitler kể lại rằng vào đầu tháng Sáu, một cuộc khẩu chiến giữa ông ta và Roehm đã kéo dài 5 tiếng đồng hồ cho đến tận nửa đêm. Hitler nói đó là "cố gắng cuối cùng" của ông nhằm đạt được sự cảm thông giữa 2 người: "Tôi cho anh ấy biết rằng từ nhiều lời đồn đại và tố cáo của đảng viên kỳ cựu trung thành và các chỉ huy của S.A., tôi có cảm tưởng rằng những thành phần thiếu suy nghĩ đang âm mưu hành động kiểu Bolshevik vốn chỉ gây tai ương cho nước Đức... Tôi khẩn cầu anh ấy một lần chót từ bỏ hành động điên rồ này và sử dụng quyền hạn của anh để ngăn chặn những biến động vốn chỉ mang đến tai hoạ" .

Theo lời Hitler, sau khi từ giã, Roehm "đảm bảo sẽ làm mọi cách để chấn chỉnh tình thế". Sau này, Hitler nói thực ra Roehm bắt đầu "các bước chuẩn bị để đích thân triệt hạ tôi" .

Điều này gần như là sai sự thật. Mặc dù có lẽ ta chẳng bao giờ biết được toàn bộ vụ việc, nhưng các chứng cứ có sẵn đều cho thấy Roehm không bao giờ âm mưu lật đổ Hitler. Điều chẳng may là, cũng như vụ cháy toà nhà Nghị viện, tài liệu tịch thu được không cho thấy gì hơn. Trong cả hai trường hợp, có lẽ là Goering ra lệnh tiêu huỷ mọi tài liệu có liên quan .

Sau khi nói chuyện với Roehm, Hitler ra lệnh cho lực lượng S.A. ngừng hoạt động trong cả tháng Bảy và trong thời gian này, họ bị cấm mặc đồng phục, diễu hành hay tập trận. Ngày 7 tháng 6, Roehm thông báo mình sẽ nghỉ bệnh nhưng đồng thời đưa ra lời cảnh cáo: "Nếu kẻ thù của S.A. hy vọng rằng S.A. sẽ không được gọi lại hoặc chỉ được gọi lại một phần, thì chúng ta sẽ cho phép họ vui mừng một thời gian ngắn. Họ sẽ có câu trả lời đúng lúc và theo cách cần thiết. S.A. đang và sẽ là vận mệnh của nước Đức" .

Vào ngày 30 tháng 6, trước khi rời Berlin, Roehm mời Hitler đến hội họp với các nhà chỉ huy của lực lượng S.A. ở thị trấn nghỉ dưỡng Wiessee, gần Munich. Hitler nhận lời, nhưng lại theo cách mà Roehm không ngờ tới và có lẽ chính Hitler cũng không mường tượng trước được. Bởi vì, như sau này ông phát biểu trước Nghị viện: "Tôi vẫn còn nuôi hy vọng là có thể tránh cho phong trào và lực lượng S.A. của tôi nỗi ô nhục về sự bất đồng tư tưởng này, đồng thời có thể ngăn chặn được tổn hại mà không có bất kỳ xung đột gây gắt nào" .

Sau đó, Hitler cáo giác là Roehm và những kẻ âm mưu có những bước chuẩn bị để chiếm Berlin và bắt giữ mình. Nếu đúng như thế tại sao tất cả cấp chỉ huy của S.A. rời khỏi Berlin đầu tháng Sáu? Và quan trọng hơn, tại sao Hitler lại rời khỏi Đức vào lúc này, như thế khác nào tạo cơ hội cho lực lượng S.A. nắm quyền kiểm soát Nhà nước trong khi ông ta vắng mặt? Bởi vì, ngày 14 tháng 6, Hitler bay đến Venice để hội đàm với Mussolini. Cuộc hội đàm không diễn ra suôn sẻ với Hitler trong bộ trang phục nghèo nàn và Mussolini oai vệ trong bộ đồng phục Phát xít gắn đầy huy chương và không muốn hạ mình cho ngang bằng với khách. Hitler trở về trong tinh thần khá bực bội, sau đó triệu tập một buổi họp ngày Chủ Nhật 17 tháng 6 với cấp lãnh đạo Quốc xã ở thị trấn Gere của bang Thuringia, để ông tường trình về cuộc hội đàm với Mussolini và xem xét tình hình trong nước .

Như là định mệnh, một cuộc hội họp khác được tổ chức cùng ngày ở Marburg, nhưng thu hút mạnh hơn sự chú ý ở Đức và ngay cả nước ngoài, rồi đẩy cuộc khủng hoảng lên đến đỉnh điểm .

Dù bị Hitler và Goering cho ra rìa nhưng vẫn giữ chức vụ Phó Thủ tướng và được Tổng thống tin cậy, Papen đã lấy hết can đảm để lên tiếng trước công chúng. Vào tháng 5, ông đã gặp vị Tổng thống già yếu, cũng là lần gặp gỡ cuối cùng, và nghe lời khuyên: "Papen ạ, tình hình đang tồi tệ. Hãy xem ông có thể làm được gì để chấn chỉnh mọi thứ đi" .

Được khuyến khích như thế, Papen nhận lời mời đến phát biểu tại Đại học Marburg ngày 17 tháng 6 năm 1934. Bài diễn văn được soạn thảo bởi Edgar Jung, một luật sư và tác giả thông minh theo đạo Tin Lành. Hai bí thư của Papen là Herbert von Bose và Erich Klausener cũng đóng góp thêm ý kiến. Bài diễn văn thể hiện lòng can đảm và nhờ có Jung chấp bút, văn phong của nó trở nên hùng hồn và nội dung thì mang đầy phẩm cách. Papen kêu gọi ngừng cuộc Cách mạng, chấm dứt khủng bố kiểu Quốc xã, phục hồi những khuôn phép bình thường, trả lại một số quyền tự do, nhất là tự do phát biểu và báo chí. Kêu gọi trực tiếp đến Goebbels, Bộ trưởng Thông tin và Tuyên truyền, Papen nói: "Những thảo luận công khai và đường hoàng sẽ hữu ích cho nhân dân Đức hơn là, lấy ví dụ, tình cảnh của báo chí Đức hiện giờ... Tuyên truyền không tạo ra con người vĩ đại... Nếu muốn tiếp xúc gần gũi và đoàn kết với nhân dân, ta không nên đánh giá thấp trình độ hiểu biết của họ. Không nên cứ mãi lo dẫn dắt họ... Chẳng có tổ chức nào, chẳng có câu tuyên truyền nào, dù cho tài giỏi đến đâu, tự nó có thể chiếm được lòng tin trong thời gian dài. Ta hoàn toàn có thể duy trì lòng tin và tận tâm không phải bằng cách sách động... và càng không phải bằng cách doạ dẫm... mà cần phải khuyến dụ người dân... Nếu bị đối xử như kẻ ngu dốt, nhân dân sẽ không có lòng tin để cống hiến. Đây là lúc phải hợp nhau lại trong tình thân hữu anh em và tôn trọng tất cả đồng bào, để tránh làm phiền đến những người đang lao động nghiêm túc, đồng thời cũng là để làm im tiếng những kẻ cuồng tín" .

Bài diễn văn được ca ngợi trên nước Đức, nhưng đối với giới lãnh đạo Quốc xã thì nó như sét đánh ngang tai. Goebbels nhanh chóng ngăn chặn tin tức lan truyền. Ông ra lệnh cấm phát lại bài diễn văn được ghi âm, cấm báo chí đăng tải và tịch thu những tờ báo đã đăng một phần. Nhưng ngay cả quyền hạn tuyệt đối của một Bộ trưởng Thông tin và Tuyên truyền vẫn không thể ngăn cản người Đức và thế giới bên ngoài biết về nội dung của bài diễn văn đầy thách thức này. Con người quỷ quyệt Papen cung cấp trước văn bản cho các nhà báo nước ngoài, các nhà ngoại giao ở Berlin và vài nghìn bản đã được in vội vã từ nhà in của nhật báo Germania của ông rồi được bí mật phát tán .

Khi nghe tin về bài diễn văn ở Marburg, Hitler nổi cơn thịnh nộ. Trong bài phát biểu cùng buổi chiều ở Gera, ông lên án "kẻ tầm thường đã tưởng tượng ra việc chỉ với vài ngôn từ hắn là có thể ngăn cản sự phục hồi to tát cho đời sống của một dân tộc". Papen cũng giận dữ khi thấy bị ngăn chặn phát tán bài diễn văn. Ngày 20 tháng 6, ông đến tìm Hitler, nói ông không thể chấp nhận việc hành động cấm cản như thế "của một bộ trưởng cấp thấp" và khẳng định rằng ông đã phát biểu "như là người được Tổng thống uỷ nhiệm" rồi lập tức xin từ chức, cảnh báo là ông "sẽ thông báo ngay với Hindenburg" .

Dĩ nhiên là Hitler lo lắng về lời đe doạ này, vì ông được tin Tổng thống đang bất mãn với tình hình đến nỗi ông này đang xem xét tuyên bố tình trạng thiết quân luật và giao quyền hành cho Quân đội. Để lượng định mối hiểm nguy đối với chế độ Quốc xã, ngày hôm sau, 21 tháng 6, Hitler bay đến Neudeck, trang trại của Hindenburg để xin diện kiến Tổng thống. Ông được Tướng von Blomberg đón tiếp và thấy ngay rằng vị Bộ trưởng Quốc phòng của mình đã không còn thái độ khúm núm thường ngày. Giờ đây, Blomberg lại có phong thái của một vị tướng Phổ. Ông này nói với Hitler một cách cộc lốc rằng mình được Tổng thống cho phép thông báo là nếu tình hình căng thẳng ở Đức không chấm dứt, Tổng thống sẽ tuyên bố tình trạng thiết quân luật và giao quyền hành của Nhà nước cho Quân đội. Khi Hitler được phép diện kiến Hindenburg trong vài phút với sự hiện diện của Blomberg, vị Tổng thống già xác nhận mệnh lệnh tối hậu .

Nếu Hindenburg làm đúng như lời cảnh cáo, sự nghiệp của Hitler và của Quốc xã sẽ tiêu tan. Khi bay về Berlin cùng ngày, hẳn Hitler có lẽ nghĩ rằng nếu muốn tồn tại, ông chỉ có một con đường. Ông phải thực hiện lời hứa với Quân đội, trấn áp lực lượng S.A., ngưng lại cao trào Cách mạng mà các nhà chỉ huy S.A. đang thúc ép. Rõ ràng là Quân đội, được Hindenburg hậu thuẫn, không chấp nhận điều gì kém hơn thế .

Tuy vậy, đến tuần lễ cuối của tháng Sáu, Hitler vẫn còn do dự, ít nhất là vì không biết phải quyết liệt đến mức nào đối với các chỉ huy của S.A., vốn đã tận tình phục vụ ông trong thời gian qua. Nhưng lúc đó, Goering và Goebbels đã giúp ông quyết định được dễ dàng hơn. Họ liệt kê ra những ân oán cần giải quyết, những kẻ thù hiện tại và quá khứ cần thanh trừng. Họ chỉ cần thuyết phục Lãnh tụ là có một "âm mưu" chống lại ông ta nên cần có hành động nhanh chóng và quyết liệt. Theo lời khai trước Toà án Nuremberg của Wilhelm Frick, Bộ trưởng Nội vụ và là một trong những phụ tá trung thành nhất của Hitler, Himmler rốt cuộc cũng thuyết phục được Hitler. Sau đó, Himmler nhận lệnh ra tay ở Bavaria, còn Goering được chỉ thị hành động ở Berlin .

Quân đội cũng thúc đẩy Hitler và qua đây cũng phải nhận một phần trách nhiệm cho cơn bạo tàn sắp diễn ra. Ngày 25 tháng 6, Tướng von Fritsch chỉ huy Lục quân đặt binh sĩ trong tình trạng báo động, huỷ bỏ mọi giấy nghỉ phép và giữ binh sĩ túc trực trong doanh trại. Ngày 28 tháng 6, Roehm bị trục xuất khỏi Liên đoàn Sĩ quan Đức – dấu hiệu rõ ràng cho thấy ông đang gặp rắc rối. Và để tỏ rõ chính kiến của Quân đội, Blomberg lấy động thái chưa hề có tiền lệ là cho đăng một bài trên tờ báo của Đảng Quốc xã có ký tên ra ngày 29 tháng 6, khẳng định rằng "Quân đội... đứng sau lưng Adolf Hitler... Ông ấy là một thành viên của chúng tôi" .

Quân đội muốn thúc đẩy cuộc thanh trừng, nhưng lại không muốn bàn tay mình bị vấy máu. Việc này phải do Hitler, Goering và Himmler tiến hành, với lực lượng quân Áo Đen và cảnh sát đặc biệt của Goering .

Ngày 28 tháng 6 năm 1934, Hitler rời Berlin đi Essen để dự lễ cưới của Xứ uỷ Josef Terboven. Chuyến đi và mục đích cho thấy hẳn Hitler không dự trù được những gì sắp diễn ra. Cùng ngày, Goering và Himmler huy động những đội đặc biệt của lực lượng S.S. và "cảnh sát Goering" để ứng chiến. Trong khi Hitler vắng mặt, cả hai hẳn đã nghĩ rằng họ có toàn quyền hành động. Ngày hôm sau, Hitler đi kinh lý một vòng rồi nghỉ đêm ở khách sạn Dreesen bên bờ sông Rhine tại Godesberg. Còn Goebbels – trước đó dường như vẫn lưỡng lự thì bây giờ đã ra quyết định – cũng đi đến Godesberg .

Sau này, Hitler kể rằng cho đến ngày 29 tháng 6, ông chỉ quyết định "cách chức Tham mưu trưởng [Roehm] rồi giam ông này tạm thời, bắt giữ một số chỉ huy có tội rõ ràng... và kêu gọi những người khác quay lại với nhiệm vụ". Trước Nghị viện ngày 13 tháng 7, Hitler kể lại: "Tuy nhiên,... vào lúc 1 giờ sáng tôi nhận được 2 tin khẩn từ Berlin và Munich. Tin đầu tiên từ Berlin... lúc 5 giờ chiều thông báo cuộc tấn công bất ngờ sẽ bắt đầu, các toà nhà Chính phủ sẽ bị chiếm đóng... Tin thứ hai từ Munich... lực lượng S.A. được lệnh tập trung lúc 9 giờ tối... Đó là phản loạn!... Trong tình huống như thế, tôi chỉ còn một quyết định... Chỉ có cách can thiệp kiên quyết và sẵn sàng đổ máu mới có thể trấn áp sự phát tán mầm phản loạn... Vào lúc 2 giờ sáng, tôi bay đi Munich" .

Hitler chẳng bao giờ tiết lộ ai đã gửi hai "tin khẩn" ấy nhưng lại ngụ ý đó là Goering và Himmler. Điều chắc chắn là những tin báo này đều quá xa sự thật. Ở Berlin, chỉ huy S.A. Karl Ernst đang lái xe đi Bremen trong chuyến hưởng tuần trăng mật với cô vợ mới cưới. Còn ở miền Nam, những "kẻ âm mưu" của S.A. tập trung ở đâu? Vào lúc 2 giờ sáng ngày 30 tháng 6 năm 1934, khi chiếc máy bay chở Hitler và Goebbels cất cánh từ sân bay Hangelar gần Bonn, thì Roehm và các phụ tá vẫn còn đang say ngủ trong khách sạn Hanslbauer ở Wiesse. Sự thật khác xa với lời cáo buộc phản loạn vì Roehm đã để nhóm cận vệ của mình lưu lại Munich. Đại tướng S.S. Edmund Heines, Chỉ huy trưởng S.A. ở Silesia, kẻ giết người đã bị kết án, người đồng tính luyến ái khét tiếng thì đang ở trên giường với một gã trai trẻ. Xem chừng có nhiều trò chè chén lạc thú giữa các cấp chỉ huy của S.A. nhưng lại không thấy biểu hiện nào của phản loạn .

Hitler và nhóm tuỳ tùng nhỏ (Tùy viên Báo chí Otto Dietrich và Chỉ huy trưởng S.A. Viktor Lutzem ở Hanover) đáp xuống Munich lúc 4 giờ sáng và thấy rằng đã có vài hoạt động xảy ra. Những người đã bị bắt gồm các cấp chỉ huy của lực lượng S.A. ở Munich, kể cả Đại tướng S.S. Schneidhuber, cũng là Chỉ huy trưởng cảnh sát Munich. Hitler bây giờ tỏ ra cuồng loạn và tìm đến đám tù nhân ở Bộ Nội vụ Bavaria. Bước đến gần Schneidhuber, cựu Đại tá Quân đội, Hitler giật phắt huy hiệu Quốc xã của ông này và chửi bới ông về tội "phản loạn" .

Lúc trời vừa hửng sáng, Hitler cùng nhóm tuỳ tùng đi đến Wiesse trên một đoàn xe dài. Họ thấy Roehm và các bạn của ông này vẫn còn ngủ say sưa trong khách sạn Hanslbauer. Đám người bị đánh thức một cách thô bạo. Heines và gã trai trẻ ngủ chung giường bị dắt ra bên ngoài khách sạn và bị bắn chết ngay tại chỗ theo lệnh của Hitler. Theo lời kể của Otto Dietrich, Hitler một mình bước vào phòng của Roehm, mắng mỏ ông và ra lệnh giải ông đến Munich, giam vào nhà tù Stadelheim, cũng là nơi ông ngồi tù sau khi tham gia vụ Bạo loạn Nhà hàng Bia năm 1923 cùng với Hitler. Sau 14 năm sóng gió, 2 người bạn có trách nhiệm chính trong việc xây dựng nên Đế chế Thứ Ba, đã từng bên nhau kinh qua những cuộc khủng hoảng, giờ đã đến lúc chia tay nhau .

Trong động thái cuối cùng mà ông nghĩ là ban ân huệ, Hitler ra lệnh để một khẩu súng lục trên bàn của người đồng chí cũ. Roehm từ chối sử dụng. Ông này nói: "Nếu muốn giết tôi, hãy để cho Adolf tự làm việc này". Theo lời khai của một trung uý cảnh sát làm nhân chứng trước một phiên toà ở Munich vào tháng 5 năm 1957: 2 sĩ quan S.A. bước vào, rút súng ra bắn thẳng vào Roehm. Nhân chứng này nói: "Roehm muốn nói điều gì đó, nhưng người sĩ quan S.A. ra hiệu cho ông im lặng. Rồi Roehm đứng nghiêm, ông bị lột áo xuống đến hông và nét mặt ông ngập tràn vẻ khinh bỉ". Thế là ông chết vì bạo lực, cũng như đã sống vì bạo lực, trong sự khinh thường một người bạn ông đã giúp đưa lên đỉnh cao mà chưa từng có người Đức nào đạt đến và gần như chắc chắn – giống như hàng trăm người khác bị hạ sát trong đêm ấy – là ông chẳng biết rõ chuyện gì đang xảy ra. Schneidhuber cũng thế, ông kêu lên: "Các anh em, tôi không biết có chuyện gì, nhưng hãy cứ bắn thẳng". Họ không biết gì ngoại trừ chuyện phản trắc, mà tuy đã kinh qua nhiều phản trắc nhưng vẫn không ngờ đó là từ Adolf Hitler .

Trong lúc ấy, ở Berlin, Goering và Himmler cũng tất bật. Khoảng 150 cán bộ chỉ huy S.A. bị bố ráp và lùa ra đứng dọc bức tường rào của Trường Sĩ quan Lichterfelde rồi bị quân S.S. của Himmler và cảnh sát của Goering hành quyết .

Trong số này có Karl Ernst, người trước đây làm nghề vác hành lý ở khách sạn và bảo vệ ở một quán cà phê nơi người đồng tính hay lui tới, rồi được Roehm cử làm chỉ huy S.A. Berlin. Ông bị binh sĩ S.S. bắt gần Bremen trên đường đi hưởng tuần trăng mật. Cô vợ và người lái xe bị thương, riêng ông bị đánh bất tỉnh rồi bị giải về Berlin chịu hành quyết. Người điển trai nhưng không thông minh, lúc bấy giờ và trong 24 tiếng đồng hồ cuối cùng trong đời, Ernst vẫn tin mình đang đối mặt với một cuộc nổi loạn của cánh Hữu, nên thậm chí còn chuẩn bị tinh thần để hô "Heil Hitler!" trước khi bị bắn .

Một phiên toà ở Munich tháng 5 năm 1957 là cơ hội đầu tiên để các nhân chứng và những người can dự vào cuộc thanh trừng được cung khai trước công chúng. Sepp Dietrich là người chỉ huy cận vệ S.S. của Himmler vào năm 1934 và chỉ đạo cuộc hành quyết trong nhà tù Stadelheim. Mang quân hàm Trung tướng S.S. trong chiến tranh, ông bị án 25 năm tù vì can dự vào việc sát hại tù binh Mỹ năm 1944. Sau 10 năm, ông được trả tự do, rồi bị mang ra xử ở Munich năm 1957 và lãnh án 18 tháng tù vì can dự vào cuộc hành quyết ngày 30 tháng 6 năm 1934. Sĩ quan S.S. Michael Lippert cũng bị kết án vì đã trực tiếp giết Roehm .

Không phải chỉ có đám S.A. bị xử tử. Buổi sáng 30 tháng 6 năm 1934, một toán S.S. nhấn chuông nhà cựu Thủ tướng von Schleicher ở ngoại ô Berlin. Khi vị tướng mở cửa, ông bị bắn ngay tại chỗ. Khi cô vợ của ông bước đến, cô cũng bị bắn ngay. Ông vẫn độc thân cho đến lúc cưới cô 18 tháng trước .

Tướng Kurt von Bredow, một người bạn thân của Schleicher, cũng cùng chung số phận vào buổi tối hôm ấy .

Gregor Strasser bị bắt tại nhà riêng ở Berlin và đích thân Goering ra lệnh kết liễu ông trong nhà ngục .

Đương kim Phó Thủ tướng Papen thì may mắn hơn khi trốn thoát được số phận. Nhưng quân S.S. đã lục soát văn phòng và bắn chết thư ký của ông tại bàn làm việc .

Bạn thân của Papen là Edgar Jung đã bị Mật vụ bắt vài ngày trước, rồi bị hạ sát trong ngục. Erich Klausener, thủ lĩnh nhóm Hành động Công giáo thì bị giết trong văn phòng của mình ở Bộ Giao thông, còn các nhân viên của ông kể cả thư ký riêng là nữ Nam tước Stotzingen đều bị đưa vào trại tập trung .

Khi Papen tìm đến Goering để phản đối, ông đã bị giam lỏng trong ngôi biệt thự của mình với quân S.S. vũ trang kín kẽ canh gác xung quanh, đường điện thoại thì bị cắt. Ông còn bị cấm liên lạc với thế giới bên ngoài. Thêm một nỗi nhục nhã khác mà vị Phó Thủ tướng phải chịu đựng, đó chính là không đầy một tháng sau, ông chấp nhận đi làm công sứ tại Áo, nơi Quốc xã vừa sát hại Thủ tướng Dollfuss .

Chẳng bao giờ người ta biết chính xác được đã có bao nhiêu người bị sát hại. Trong bài diễn văn đọc trước Nghị viện ngày 13 tháng 7, Hitler thông báo có 61 người bị bắn, kể cả 19 "lãnh đạo S.A. cấp cao", thêm 13 người chết vì "chống lại lệnh bắt giữ" và 3 người "tự tử" – tổng cộng 77 người. Một cuốn sách có tên The White Book of the Purge xuất bản ở Paris đã thống kê có đến 401 người bị giết, nhưng chỉ có thể kể tên 116 người. Trong phiên toà ở Munich năm 1957, con số được đưa ra là "hơn 1.000" .

Nhiều người bị giết chỉ là do trả thù vì đã chống đối Hitler trong quá khứ, một số người là do biết quá nhiều và ít nhất là có một người đã bị giết nhầm. Xác của Gustav von Kahr được tìm thấy trong một đầm lầy. Ông nguyên là một trong tam đầu chế cầm quyền bang Bavaria đã đàn áp vụ Bạo loạn Nhà hàng Bia và đã ngừng hoạt động chính trị từ lâu, nhưng Hitler chẳng bao giờ quên hay tha thứ cho ông ta .

Xác của Linh mục Bernhard Stempfle được tìm thấy trong một khu rừng với 3 phát đạn ở ngực, cổ bị gãy. Ông đã giúp biên tập quyển Mein Kampf và có lẽ bị giết là do sau này đã nói quá nhiều về tình cảm của Hitler đối với Geli Raubal .

Những người "biết quá nhiều" khác gồm có 3 binh sĩ S.A., những người bị cho là tòng phạm của Ernst trong việc đốt toà nhà Nghị viện .

Ngoài ra, như đã nói ở trên, thì trong cuộc thanh trừng này còn có ít nhất một người bị giết do nhầm lẫn. Vào lúc 7 giờ 20 phút buổi tối ngày 30 tháng 6 năm 1934, Tiến sĩ Willi Schmid, một nhà phê bình âm nhạc nổi tiếng, đang chơi nhạc trong nhà, trong khi bà vợ đang nấu ăn và 3 đứa con đang chơi đùa. Chuông cửa ngân, 4 nhân viên S.S. xuất hiện và bắt ông đi mà chẳng giải thích gì cả. 4 ngày sau, xác của ông được trả về trong một quan tài với lệnh của Mật vụ là không được mở ra trong bất cứ trường hợp nào. Tiến sĩ Willi Schmid chưa bao giờ tham gia chính trị. Có lẽ S.S. nhầm ông với Willi Schmidt, một chỉ huy S.A. ở địa phương, cùng lúc bị một toán S.S. khác sát hại. Kate Eva Hoerlin, vợ của Willi Schmid, đã kể lại vụ việc này trong một tờ khai được tuyên thệ nộp năm 1945 ở Mỹ. Bà nhập quốc tịch Mỹ năm 1944. Để che đậy tính dã man, Rudolf Hess còn đích thân đến thăm bà, ngỏ xin lỗi về sự "nhầm lẫn" và giúp tìm cho bà một khoản tiền về hưu từ Chính phủ Đức. Tờ khai của bà đã được trình ra trước Toà án Nuremberg .

Vậy thì còn có mưu đồ nào chống lại Hitler nữa hay không? Có lẽ những mưu đồ ấy chỉ tồn tại ở những lời tố cáo của ông trong các bản thông cáo và diễn văn đọc trước Nghị viện ngày 13 tháng 7. Ông không bao giờ trình bất kỳ bằng chứng nào. Roehm đã công khai tỏ lộ tham vọng được thấy S.A. làm nòng cốt của quân đội mới do mình chỉ huy. Chắc chắn ông có nói với Schleicher về ý đồ này khi Schleicher còn là Thủ tướng. Có lẽ đúng như Hitler nói, Gregor Strasser cũng có can dự. Nhưng những việc được thảo luận như thế không phải là phản bội. Chính Hitler cũng đã tiếp xúc với Strasser và đề nghị cử ông này làm Bộ trưởng Kinh tế .

Lúc đầu Hitler kết tội cả Roehm và Schleicher tìm kiếm sự ủng hộ của một "cường quốc" – ý nói Pháp – và tố cáo Tướng von Bredow làm trung gian trong "chính sách ngoại giao". Sau đó, Hitler vẫn lặp lại lời cáo buộc này trước Nghị viện và nói một cách châm biếm về một "nhà ngoại giao nước ngoài", rõ ràng chỉ Đại sứ Pháp François-Poncet. Nhưng Hitler không thể đưa ra chứng cứ. Ông chỉ yếu ớt nói rằng một người Đức gặp gỡ nhà ngoại giao nước ngoài mà ông không hay biết thì đã là đủ để bị kết án .

"Khi 3 kẻ quản quốc ở Đức dàn xếp... một buổi họp với một chính khách nước ngoài... và ra lệnh không cho tôi biết thì tôi phải sẽ ra lệnh bắn chết họ cho dù có chứng cứ cho thấy buổi họp giấu giếm với tôi chỉ nói về thời tiết, đồng tiền cổ hoặc đề tài tương tự" .

Khi François-Poncet cực lực phản đối về việc mình bị nói bóng gió đã tham dự vào "âm mưu" của Roehm, Bộ Ngoại giao Đức chính thức thông báo với Chính phủ Pháp rằng những lời cáo giác là hoàn toàn vô căn cứ và Chính phủ Quốc xã hy vọng vị đại sứ sẽ ở lại với nhiệm vụ của ông. Thật thế, như tác giả có thể xác minh, François-Poncet tiếp tục có quan hệ cá nhân mật thiết với Quốc xã hơn bất kỳ đại sứ nào khác từ một quốc gia dân chủ .

Bản thông cáo đầu tiên và diễn văn của Hitler ở Nghị viện nhắc nhiều đến lối sống sa đoạ của Roehm và những nhân viên S.A. khác đã bị giết. Tùy viên Báo chí Otto Dietrich đưa ra những chi tiết về lối sống này. Trong bài phát biểu với các lãnh đạo S.A. còn sống vào ngày 30 tháng 6 ở Munich, Hitler tuyên bố những người bị xử tử là đáng chết vì lối sống vô đạo đức của họ .

Nhưng ngay từ những ngày đầu của Quốc xã, Hitler đã biết rõ các phụ tá thân cận của mình bị lệch lạc về giới tính hoặc là những kẻ giết người có tiền án. Lúc ấy, chẳng những Hitler làm ngơ, mà còn biện hộ cho họ. Hơn một lần, ông ta đã cảnh cáo các đồng chí là không nên quá câu nệ về đạo đức cá nhân của một người nếu người ấy là chiến binh cuồng tín cho phong trào. Thế mà bây giờ, ông ta lại thú nhận rằng mình bị sốc vì những phụ tá gần gũi nhất đã thoái hoá đạo đức .

Phần lớn việc giết chóc xong xuôi vào buổi chiều Chủ Nhật ngày 1 tháng 7 năm 1934. Hôm sau, Tổng thống Hindenburg ngỏ lời cảm ơn Hitler vì "hành động kiên quyết và sự can thiệp cá nhân dũng cảm đã giúp diệt mầm phản loạn từ trong trứng nước và tránh cho dân tộc Đức hiểm hoạ to lớn hơn". Ông cũng chúc mừng Goering vì "hành động hăng say và thành công" trong việc đàn áp "phản loạn cấp cao" .

Ngày hôm sau, Tướng von Blomberg đã gửi tới vị Thủ tướng lời chúc mừng của Nội các vốn đã tiến hành "hợp thức hoá" cuộc tàn sát như là biện pháp cần thiết nhằm "bảo vệ Nhà nước". Blomberg cũng ban hành nhật lệnh cho Quân đội, biểu lộ sự hài lòng của Bộ Tổng Tham mưu về vụ việc và cam kết "mối quan hệ mật thiết với lực lượng S.A. mới" .

Chắc chắn là Quân đội đã hài lòng khi thấy kẻ kình địch S.A. bị tiêu diệt. Nhưng còn ý thức về danh dự của họ thì sao? Giới chỉ huy Quân đội chẳng những nhắm mắt làm ngơ mà còn công khai ca ngợi một chính quyền đã thực hiện cuộc tàn sát chưa hề có tiền lệ trong lịch sử nước Đức, trong đó 2 vị tướng hàng đầu bị giết một cách dã man: von Schleicher và von Bredow .

Chỉ có 2 người lên tiếng phản đối việc sát hại 2 tướng lĩnh và cáo buộc về vụ phản loạn: vị Thống chế von Mackensen 85 tuổi và Đại tướng cựu Tư lệnh Lục quân von Hammerstein. Thái độ của giới chỉ huy chẳng những là vết nhơ trên danh dự của Quân đội, mà còn là biểu hiện của một bộ óc thiển cận đến khó tin .

Qua việc chấp nhận cách hành xử vô luật pháp như là xã hội đen, các tướng lĩnh đang đặt mình vào vị thế khiến họ chẳng bao giờ còn có thể chống đối lại chủ nghĩa khủng bố của Quốc xã trong tương lai, cả ở trong và ngoài nước Đức. Vì lẽ, Quân đội đang ủng hộ tuyên bố của Hitler rằng ông ta chính là pháp luật, như trong lời phát biểu trước Nghị viện ngày 13 tháng 7 năm 1934: "Nếu có ai trách tôi và hỏi tại sao tôi không vận dụng toà án tư pháp, thì tôi chỉ có thể trả lời: 'Trong thời khắc này tôi có trách nhiệm đối với vận mệnh của dân tộc Đức và qua đó tôi trở thành Chánh án tối cao của dân tộc Đức'." Và Hitler thêm, với đầy ẩn ý: "Trong tương lai mọi người nên biết nếu ra tay chống lại Nhà nước thì chắc chắn họ sẽ bị xử tử" .

Đó là lời cảnh cáo sẽ được áp dụng cho các tướng lĩnh gần chẵn 10 năm sau, cho đến khi cuối cùng thì những người tuyệt vọng cũng ra tay để chống lại vị "Chánh án tối cao" của họ .

Hơn nữa, giới chỉ huy Quân đội chỉ đang tự lừa dối khi nghĩ họ đã thoát khỏi sự đe doạ của phong trào Quốc xã đối với những đặc quyền truyền thống của mình. Bởi vì, thay cho S.A. là S.S.. Ngày 26 tháng 7 năm 1934, để tưởng thưởng công sức của mình, lực lượng S.S. được tách ra độc lập với S.A., dưới quyền chỉ huy của Himmler, người chỉ phải chịu trách nhiệm trước Hitler. Chẳng bao lâu sau, với kỷ luật và lòng trung thành hơn S.A., lực lượng S.S. trở nên hùng mạnh hơn hẳn S.A. .

Tuy nhiên, trong lúc này, các tướng lĩnh Quân đội lại cảm thấy tự tin một cách thiển cận. Do Quân đội thúc đẩy, Hitler dẹp được lực lượng S.A. vốn đã dám thách thức ông. Còn bây giờ thì đã đến lúc Quân đội thực hiện nhiệm vụ của mình thể theo "Hiệp ước Deutschland" .

CÁI CHẾT CỦA HINDENBURG 

Vào lúc 9 giờ sáng ngày 2 tháng 8 năm 1934, Hindenburg qua đời, hưởng thọ 87 tuổi. Vào giữa trưa, có thông báo là theo một luật mới do Nội các ban hành ngày hôm trước, 2 chức vụ Thủ tướng và Tổng thống được nhập lại làm một và Adolf Hitler sẽ nhậm chức lãnh đạo đất nước kiêm Tư lệnh Tối cao Quân lực. Chức vụ Tổng thống bị bãi bỏ, Hitler chính thức trở thành Lãnh tụ và Thủ tướng Đế chế. Chế độ độc tài của ông ta xem như là đã hoàn tất. Để bịt kín mọi kẽ hở, Hitler đòi hỏi tất cả công nhân viên chức và toàn thể quân lực cất lời tuyên thệ trung thành không phải với nước Đức, không phải với Hiến pháp mà ông ta đã chà đạp vì không tổ chức bầu người kế nhiệm Hindenburg, mà là với chính ông ta. Lời tuyên thệ như sau: "Tôi xin thề với Thượng Đế lời thề thiêng liêng này, rằng tôi sẽ phục tùng vô điều kiện Adolf Hitler, Lãnh tụ của Đế chế và nhân dân Đức, Tư lệnh Tối cao Quân lực và sẽ sẵn sàng như một chiến binh dũng cảm hy sinh mạng sống của mình bất cứ lúc nào cho lời thề này" .

Cho đến lúc này, các tướng lĩnh vẫn có thể lật đổ chế độ Quốc xã một cách dễ dàng nếu họ muốn. Nhưng từ tháng 8 năm 1934 trở đi, họ lại gắn liền vận mệnh của mình với cá nhân Adolf Hitler, công nhận ông là chức quyền hợp pháp cao nhất, tức là liên kết chặt chẽ với ông qua lời tuyên thệ mà họ cảm thấy ràng buộc về danh dự để vâng lời trong mọi tình huống, mà chẳng cần biết như thế là hèn hạ đối với bản thân và đối với Tổ quốc. Lời tuyên thệ sẽ làm cho lương tâm nhiều người bị cắn rứt khi Hitler đi trên con đường mà họ biết chỉ có thể đưa đất nước đến chỗ huỷ diệt. Lời tuyên thệ cũng sẽ khiến cho phần đông lẩn trốn trách nhiệm cá nhân đối với những tội ác kinh khủng mà họ gây ra theo lệnh của Hitler, con người với bản chất mà chính họ đã chứng kiến trong cuộc tàn sát ngày 30 tháng 6 năm 1934 .

Một trong những lầm lạc tệ hại nhất của giới lãnh đạo quân sự Đức từ lúc này chính là sự xung đột của "danh dự" – từ ngữ mà tác giả nghe nhiều lần từ miệng lưỡi của họ với ý niệm lạ kỳ. Sau này, rất thường xuyên, chỉ vì tuân theo lời tuyên thệ mà họ tự đánh mất danh dự con người và dìm quy chuẩn đạo đức của giai cấp chỉ huy quân sự xuống bùn nhơ .

Sau khi Hindenburg qua đời, Tiến sĩ Goebbels, Bộ trưởng Thông tin và Tuyên truyền, chính thức loan báo là không thể tìm ra bản di chúc hoặc tuyên cáo nào của cố Thống chế và có thể xem như không có. Nhưng ngày 15 tháng 8, 4 ngày trước cuộc trưng cầu dân ý về việc Hitler đảm nhận chức Tổng thống, Papen mang đến cho Hitler bản tuyên cáo chính trị của Hindenburg. Những lời ca ngợi Hitler đã giúp Goebbels có vũ khí lợi hại trong những ngày cuối của chiến dịch tuyên truyền cho cuộc trưng cầu dân ý. Trước ngày bỏ phiếu, hiệu lực tuyên truyền càng mạnh hơn khi con trai của người quá cố Đại tá Oskar von Hindenburg, phát biểu trên đài truyền thanh: "Chính cha tôi đã nhìn thấy Adolf Hitler là người kế nhiệm trực tiếp của ông để đứng đầu nước Đức và để thể theo nguyện vọng của cha mình, tôi kêu gọi mọi người Đức bỏ phiếu chấp thuận chuyển giao chức vụ của cha tôi cho Lãnh tụ và Thủ tướng Đế chế" .

Một điều kỳ thú và có lẽ là sẽ nói lên được ý nghĩa nào đấy, đó là ngay sau đó, Hitler đã thăng chức cho Oskar lên hàm Thiếu tướng .

Ta có thể gần như chắc chắn lời tuyên bố của Oskar không phải là sự thật. Dựa theo chứng cứ đáng tin cậy nhất, Hindenburg đã tỏ lộ ý muốn cuối cùng là phục hồi vương triều sau khi ông qua đời. Và Adolf Hitler đã giấu đi đoạn này trong bản tuyên cáo chính trị của Hindenburg .

Vài bí ẩn về bản tuyên cáo được hé lộ ở phiên hỏi cung Papen trước Toà án Nuremberg và sau đó là trong hồi ký của ông. Tuy Papen khó tránh bị nghi ngờ và có thể không nói ra hết những gì mình biết, thì ta vẫn không thể bỏ qua lời cung khai của ông. Papen cho hay, Hindenburg đã nhờ ông viết bản nháp của di chúc. Ông viết trong hồi ký: "Bản nháp của tôi đề nghị là sau khi ông ấy qua đời thì thiết lập nền quân chủ lập hiến và tôi còn nêu là không nên sáp nhập 2 chức vụ Tổng thống và Thủ tướng. Để tránh xúc phạm Hitler, có vài câu từ nói về thành tựu của chế độ Quốc xã" .

Papen trình bản nháp cho Hindenburg tháng 4 năm 1934 .

"Ít ngày sau, ông ấy cho triệu tôi đến và nói với tôi rằng ông đã quyết định không chấp thuận văn bản như tôi đề nghị. Ông nghĩ... nên để cho nhân dân quyết định... Vì thế ông có ý định xem đây như là bản tuyên cáo và đề nghị của ông về việc phục hồi vương triều sẽ được ghi trong một thư riêng gửi cho Hitler. Dĩ nhiên điều này có nghĩa là cả đề nghị ban đầu của tôi cũng bị phớt lờ và đề nghị của ông về vương triều sẽ không được tuyên bố với nhân dân. Đây chính là điểm mà sau này Hitler lợi dụng triệt để" .

Không người Đức nào ở vào địa vị tốt hơn Papen để biết rõ Hitler lợi dụng sự kiện ấy như thế nào: "Sau tang lễ của Hindenburg, ... Hitler gọi tôi đến. Ông ấy hỏi tôi có tuyên cáo chính trị của Hindenburg hay không, tôi nói tôi sẽ hỏi Oskar von Hindenburg. Hitler nói: 'Xin ông gửi cho tôi càng nhanh càng tốt.' Vì thế, tôi bảo Kageneck, thư ký riêng của mình, đi Neudeck hỏi người con trai của Hindenburg xem có bản tuyên cáo hay không và xem tôi có thể nhận để trao cho Hitler hay không. Vì tôi không gặp lại Hindenburg [con] vì ông ấy đã rời Berlin vào cuối tháng Năm, nên tôi cũng chẳng rõ là ông ta có tiêu huỷ bản tuyên cáo đó hay không" .

Ngay sau khi người cha qua đời, Oskar không tìm được văn bản, nhưng rồi đột nhiên ông ta lại tìm ra. Bá tước von der Schulenberg, tuỳ viên của Hindenburg, khai rằng ngày 11 tháng 5, Tổng thống ký 2 văn bản: bản tuyên cáo gửi "Nhân dân Đức" và di chúc gửi "Thủ tướng Đế chế". Khi Hindenburg rời Berlin trong chuyến đi Neudeck lần cuối cùng, Schulenberg đã mang các giấy tờ đi theo. Papen nói ông không biết việc này. Nhưng sau đó, thư ký của ông mang đến 2 phong bì dán kín do Oskar von Hindenburg trao lại .

Ngày 15 tháng 8, Papen trao 2 phong bì cho Hitler .

"Hitler đọc cả 2 văn bản một cách chăm chú và thảo luận với chúng tôi về nội dung. Hiển nhiên là những đề nghị của Hindenburg trong di chúc trái ngược với chủ ý của Hitler. Vì thế ông ấy đã lợi dụng việc phong bì ghi người nhận 'Thủ tướng Đế chế Adolf Hitler'. Ông nói: 'Những đề nghị của cố Tổng thống được trao cho cá nhân tôi. Sau này, tôi sẽ quyết định việc công bố. Tôi van nài ông ấy công bố cả 2 bản văn, nhưng vô ích. Bản duy nhất được giao cho tuỳ viên báo chí để công bố là lời Hindenburg tuyên dương công trạng của Hitler." Papen không nói – và có lẽ không biết – chuyện gì xảy ra với văn bản thứ hai có nội dung đề nghị một người của vương triều Hohenzollern làm Tổng thống. Văn bản chẳng bao giờ được tìm lại trong số hàng trăm tấn tài liệu của Quốc xã. Có lẽ Hitler đã nhanh chóng thiêu huỷ nó .

Có lẽ nếu Hitler đủ can đảm và chân thành mà cho công bố văn bản đó thì mọi việc thực ra vẫn không có gì thay đổi nhiều. Một ngày trước khi Hindenburg qua đời, Hitler ra lệnh Nội các ban hành luật giao cho mình quyền hành của Tổng thống. Nếu "luật" này phạm luật thì cũng chẳng có gì thay đổi hết, khi mà bản thân Hitler đã trở thành luật. Luật này rõ ràng là phạm luật. Ngày 17 tháng 12 năm 1932, dưới thời Chính phủ Schleicher, Nghị viện biểu quyết bằng đa số ⅔ một tu chính án Hiến pháp quy định Chánh án Toà án Tối cao – thay vì Thủ tướng – làm Quyền Tổng thống cho đến khi bầu được Tổng thống mới. Và tuy Luật Trao quyền trao cho Thủ tướng quyền ban hành luật dị biệt với Hiến pháp, thì Luật này vẫn đặc biệt cấm Thủ tướng thay đổi định chế của chức vụ Tổng thống .

Nhưng luật thì có nghĩa lý gì bây giờ? Vô nghĩa đối với Papen, người vui vẻ đi nhậm chức ở Áo và lo giải quyết cho êm thấm vụ Quốc xã sát hại Thủ tướng Áo Dollfuss. Vô nghĩa đối với tướng lĩnh, những người hăng hái làm việc để gây dựng Quân đội cho Hitler. Vô nghĩa đối với ngành công nghiệp, những người hưởng lợi từ chương trình tái vũ trang. Những người phe bảo thủ, những người Đức "đứng đắn" như Nam tước von Neurath trong Bộ Ngoại giao và Tiến sĩ Schacht ở Ngân hàng Nhà nước, đều không từ chức. Không ai từ chức cả. Ngược lại, Tiến sĩ Schacht còn nhận thêm chức Bộ trưởng Kinh tế vào ngày 2 tháng 8 – cũng chính là ngày Hitler cướp quyền hành của vị Tổng thống đang hấp hối .

Còn về phía dân Đức thì sao? Ngày 19 tháng 8 năm 1934, khoảng 95% cử tri đi bỏ phiếu và 90%, tức là hơn 38 triệu người chấp thuận cho Hitler chiếm mọi quyền lực. Chỉ có 4 triệu rưỡi người Đức có can đảm – hoặc có ước nguyện – bỏ phiếu nói "Không" .

Chẳng lạ gì mà Hitler có tư thái tự tin khi Đại hội Đảng Quốc xã nhóm họp ở Nuremberg ngày 4 tháng 9. Sáng hôm sau, tôi thấy ông giống như một hoàng đế chiến thắng bước dọc lối đi giữa giữa sảnh đường treo đầy cờ xí, trong khi ban quân nhạc nổi lên và 30.000 cánh tay giơ cao theo cách chào kiểu Quốc xã. Một lúc sau, ông khoanh tay và mắt rạng rỡ, ngồi một cách hãnh diện ở giữa một sân khấu rộng, trong khi Thị trưởng Bavaria đọc lời tuyên cáo của Lãnh tụ .

"Vận mệnh mới của dân tộc Đức được xác định chắc chắn trong 1.000 năm tới... Sẽ không cần có cuộc Cách mạng nào khác ở Đức trong 1.000 năm nữa!" Hitler không thể sống 1.000 năm, nhưng ngày nào mà ông còn sống thì ngày ấy ông ta sẽ lãnh đạo dân tộc lớn lao này như là một kẻ chuyên chế mạnh mẽ và tàn bạo nhất từ trước đến nay. Hindenburg không còn sống để tranh chấp quyền hạn của mình, còn Quân đội thì nằm trong tay ông, bị trói buộc vào sự phục tùng qua một lời tuyên thệ mà không người lính Đức nào muốn nông nổi chối bỏ. Thật vậy: cả nước Đức và cả dân tộc Đức đều nằm gọn trong 2 bàn tay vấy máu của Hitler, khi mà những người cứng cỏi hoặc đã bị đàn áp hoặc là đã biến mất hoàn toàn .

Tại Nuremberg, sau một tuần lễ gồm những cuộc diễu hành, những bài diễn văn với quang cảnh phô trương và tâng bốc cuồng nhiệt nhất đối với một nhân vật chính trị, Hitler đã phải thốt lên với các phóng viên nước ngoài rằng: "Thật là tuyệt vời!" Kể từ lúc ngụ trong khu tồi tàn ở Vienna, Hitler đã đi một đoạn đường dài. Hiện tại ông mới chỉ bước sang tuổi 45 và tất cả mới chỉ là bắt đầu. Ngay cả một người trở về nước Đức lần đầu tiên sau khi chế độ Cộng hoà sụp đổ cũng có thể thấy – dù cho những tội ác chống nhân loại có ra sao chăng nữa – Hitler đã giải phóng được một sức mạnh bùng phát theo tầm mức không thể nào đo lường hết, mà vốn từ lâu bị giam kín trong dân tộc Đức. Cho dù mục đích gì, thì Hitler cũng đã trình bày rõ ràng quan điểm của mình qua những trang sách Mein Kampf và trong hàng trăm bài phát biểu mà quá nhiều người – mà thật ra là hầu như tất cả mọi người trong và ngoài nước Đức đều không mấy để ý hay suy nghĩ thấu đáo, mà thậm chí còn chế giễu chúng .

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top

#dichle