Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

MA KIẾM LỤC Full - Hồi 1-112

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

MA KIẾM LỤC Hồi 1-112

Tác giả: Tàn Nguyệt Bi Mộng

Nguồn: Nhạn Môn Quan

Dịch giả: Các cao thủ Nhạn Môn Quan

Hồi 1: Vong trần bi ca, tiếu dẫn U Minh lộ

( Khóc biệt trần gian đầy ảo mộng, Mỉm cười tiến nhập cõi U Minh )

Nhân sinh chẳng bao giờ đẹp đẽ như tưởng tượng, sinh mệnh vốn có rất nhiều bi ai và thống khổ!

(Cổ Long - Luận)

Người chết rồi, sẽ đi về đâu? Có đến được thế giới khác chăng? Thế giới khác đó là ở đâu? Có thể đầu thai được chăng? Có thể quay trở lại hồng trần chăng?

Đương nhiên, trước mặt chẳng phải có một du hồn đang vật vờ kia sao?

Bộ y phục màu đen, thân thể gần như trong suốt, dưới chân không mảy may động đậy, trên gương mặt xanh tái là đôi mắt thất thần, hầu như đã khẳng định cái chết của y.

Trông y rất anh tuấn, tuổi chừng tam thập, mà sao lại biến thành du hồn? Lẽ ra y còn có thể sống được hơn ba mươi năm nữa, thậm chí nhiều hơn.

Cũng không biết y vật vờ như thế đã bao lâu, chỉ thấy cảnh sắc trước mặt dần dần thay đổi, cây xanh hoa đỏ biến mất, thay vào đó là đá đen cây khô, không còn nghe thấy tiếng chim hay tiếng côn trùng, thay vào đó là từng hồi tiêu ai oán.

Trong không trung bồng bềnh hiện lên ba chữ lớn màu vàng kim “U Minh Giới”, du hồn cũng chẳng để tâm, tiếp tục trôi về phía trước...

Cuối cùng, không còn cô độc nữa, đã đến được U Minh Giới, phát hiện ra hàng ngàn hàng vạn du hồn cũng giống như mình, nối đuôi nhau đi lên đằng trước. Đây là cái gì? Ngoảnh đầu sang nhìn, “Nại Hà Kiều”.

Là Mạnh Bà Thang(1) chăng? Uống hết rồi sẽ quên được mọi sự chăng?

Cuối cùng, du hồn cũng có chút động tịnh, không mặc thân thể trôi vật vờ nữa, mà khe khẽ nhúc nhích, đi đến một tảng đá lớn bên đường, ngồi xuống đó.

Y là một kẻ thất bại, ở cái thế giới này, thất bại chỉ có một sự lựa chọn thôi, đó là chết, tất cả những chuyện của kiếp trước lại hiện lên trước mắt y....

oOo

“Vị Linh Phong, ngươi thân là thủ lãnh Ma tộc, tại sao lại cố chấp như thế, vì một người con gái, ngươi trở mặt thành thù với tất thảy anh hùng trong tam giới.” Một trung niên mình khoác chiến giáp kim sắc, đầu cắm hai sợi lông gà, tay cầm trường thương, lớn tiếng chỉ trích y.

Một giọng khác cất lên: “Thượng Tiên, nói với gã ma đầu này cũng vô dụng thôi, hôm nay chúng ta sẽ bắt hắn vĩnh viễn biến mất khỏi thế giới này, sẽ bắt hắn lấy máu tươi của chính mình ra mà bồi tội.”

Toàn bộ cao thủ của cửu đại môn phái, kể cả người trong Ma Môn của Vị Linh Phong, đều vây kín lấy y, nhưng không ai trong bọn dám khinh suất động thủ. Vì họ sợ, sợ thanh kiếm trong tay y, đó là một thanh ma kiếm, một thanh ma kiếm đứng đầu trong Thất Tà Kiếm.

Trên trần thế, biết bao nam nhân si tình, biết bao nữ nhân nhu tình...

Vị Linh Phong, mê mẩn, ngoan cố, ngắm người con gái đã lạnh cứng nằm trong lòng. Y khóc, huyết lệ tuôn rơi, khe khẽ nhỏ xuống gương mặt nàng. Ai nói nam nhi khó rơi lệ, chỉ là vì chưa đến lúc quá thương tâm. Vị Linh Phong hét: “Tại sao? Các người chẳng phải là thượng tiên sao? Chẳng phải là danh môn chính phái sao? Cớ gì đối xử với chúng ta như vậy? Điều mà Vị Linh Phong này muốn hết sức đơn giản, nhưng vì sao các người đều không chịu đáp ứng?”

Người trên đầu cắm lông gà, được gọi là Thượng Tiên lại lên tiếng: “Tiên và Ma không phải là không thể thành thân. Nhưng ngươi thì không được, ngươi là thủ lãnh của Ma tộc, còn nàng lại là thánh nữ của Tiên tộc.”

Vị Linh Phong nổi giận, ma kiếm trong tay tán phát sát khí đen đặc rùng rùng vô cùng vô tận, y thét: “Ta đã không phải là thủ lãnh, cũng không phải là chưởng môn gì nữa. Ta đã từ bỏ tất cả, các ngươi còn muốn thế nào?”

Mọi người hầu như đều lùi lại, một lão hòa thượng râu bạc bước ra nói: “Vị thí chủthí chủ nói không sai, nhưng sát nghiệp của thí chủ quá nặng, khi thí chủ cầm kiếm, lẽ ra nên nghĩ sẽ có ngày hôm nay. Nhân quả báo ứng, cái chết của nữ tử đó, có thể nói là do thí chủ làm liên lụy, A di đà phật!”

Vị Linh Phong nhìn thanh kiếm trong tay, nhìn người con gái đang ôm trong long trái tim tràn ngập vô vàn cảm xúc. Đúng, đúng là vì thanh kiếm của mình, nàng mới phải chết, mình mới có ngày hôm nay. Nhưng mà, lẽ nào ta đã giết nhầm? Những kẻ Vị Linh Phong ta hạ sát đều đáng chết, chẳng lẽ bọn người kia không hiểu?

Lúc này một lão nhân vận bộ đạo bào thanh sắc, dáng điệu hiền hòa bước lên nói

“Vị Linh Phong, ngươi còn nghĩ ngợi gì? Ngươi còn muốn tạo thêm sát nghiệp ư? Những chuyện của kiếp này, thôi hãy coi như phù vân, sao còn quyến luyến như vậy, chi bằng uống một ngụm Mạnh Bà Thang, trở lại làm người.”

Vị Linh Phong nắm chặt ma kiếm, sát khí càng thêm dày nặng. Tại sao? Lẽ nào quả thực mình đã sai? Nhưng nếu mình đúng, tại sao bọn họ đều chỉ trích?

Nâng trường kiếm lên, Vị Linh Phong thét lớn: “Vị mỗ tự vấn lương tâm không hối hận, chẳng lẽ ta giết những kẻ đáng chết lại là sai? Lẽ nào bọn chúng không đáng giết?”

Lúc ấy, Thượng Tiên đầu cắm lông gà lại nói: “Ngươi là một tên ma đầu sát nhân Thiên - Địa - Nhân tam giới, biết bao nhiêu người đã chết dưới tay ngươi, bây giờ ngươi vẫn còn lấp liếm sao?”

Vị Linh Phong cười lạnh, đầy vẻ bi thong, đầy vẻ thống hận. Trời đất rộng lớn thế này, nhất định sẽ có chỗ dung thân, thôi đi, thôi đi! Tay trái vụt chuyển, đưa người con gái vẫn ôm trước ngực cõng về sau lưng, tiếp đó y rút dải lưng, mau chóng cột chặt thân thể nàng lại với mình.

Vị Linh Phong vung trường kiếm lên vạch một đường lấp lóa, kéo theo làn khí đen dày đặc, y hét lớn: “Các người tự xưng là thượng tiên, ai có sức, hãy bước lên đấu với Vị mỗ một trận!”

Thượng Tiên lầm bầm: “Cái này, cái này... ngươi là ma đầu sát nhân, chết tới nơi rồi vẫn lớn lối như vậy. Hôm nay tất thảy anh hùng trong thiên hạ sẽ đấu với ngươi, thế nào?”

Vị Linh Phong vừa nghe dứt, máu nóng trào sôi, hào khí can vân đáp: “Được... Vị mỗ bình sinh hành sự không thẹn với trời đất. Hôm nay, Vị mỗ thân đơn thế cô đấu lại với anh hùng trong thiên hạ, dù chết cũng không đáng tiếc.” Nhất thời, mọi người đều chùn bước vì cái hào khí của Vị Linh Phong, không ai dám hé răng.

Vì họ hiểu rõ, Vị Linh Phong là ma, một tên ma đáng sợ, một tên ma mà trong tam giới không ai địch nổi, cho dù tất cả những người có mặt ở đây hợp sức lại, cũng không thể nào thắng nổi y, chính vì vậy, Vị Linh Phong mới bị đố kỵ, mới lâm vào bước đường ngày hôm nay.

Lúc ấy, lão hòa thượng ban nãy lại bước ra nói: “Vị thí chủ, thí chủ còn quyến luyến hồng trần ư, thị thị phi phi, ân ân oán oán, đều là phù vân, vì sao thí chủ không mở rộng cánh cửa lòng mình ra. Cho dù có giết sạch những người ở đây, thì thí chủ cũng làm gì còn chỗ dung thân?”

Phải rồi, Vị Linh Phong ơi Vị Linh Phong, vì sao lại có ngày hôm nay, lẽ nào người bị ngươi giết còn chưa đủ ư? Không sai, bọn chúng đúng là đáng chết, nhưng vì sao kẻ giết chúng lại đều là ngươi? Hôm nay, cho dù có giết sạch những người ở đây, thì người ngươi yêu cũng không thể sống lại, Vị Linh Phong cũng không còn chỗ dung thân nữa rồi.

Ánh lửa trong hai mắt Vị Linh Phong vụt mờ đi, rất lâu y không nói một lời, tựa như im lặng suy nghĩ, tựa như nghiền ngẫm ra quyết định. Đột nhiên y ngẩng đầu chằm chằm nhìn tất cả mọi người, mục quang như xuyên thấu hết thảy...

Những người có mặt đều phát run...

Vị Linh Phong nắm ngang trường kiếm, nói: “Được, Vị Linh Phong đáng chết, nhưng không phải chết vì những kẻ tự xưng là anh hùng như các ngươi. Vị Linh Phong sống cũng chẳng còn thú vị gì, chẳng quyến luyến gì cõi hồng trần này nữa, nhưng Vị Linh Phong ta hận, hận tất cả mọi người trong thiên hạ, cho dù có uống Mạnh Bà Thang, ta vẫn sẽ hận. Hôm nay... Vị mỗ ta tuyên bố với tất cả những kẻ tự xưng là anh hùng các ngươi, có thể hai mươi năm nữa, một Vị Linh Phong khác sẽ lại xuất hiện.”

Một đạo hắc quang loé lên, rất nhanh, lưỡi kiếm rất nhanh, chẳng ai nhìn thấy kiếm trong tay Vị Linh Phong đã rạch ngang cổ họng y như thế nào, mà cũng chẳng ai ngờ rằng Vị Linh Phong sẽ làm như vậy...

Máu tươi trào ra. Chính vào lúc Vị Linh Phong gục xuống, một thân ảnh trắng lóa, như lưu tinh bạch sắc xẹt ngang trời đêm, hiện ra trên đầu mọi người, lướt lại gần bên thân y, giơ tay giữ lấy hai người bọn họ đang từ từ ngã xuống.

Sau lưng y đeo trường kiếm, phục sức theo lối kiếm khách, tuổi chừng tam thập, gương mặt cương nghị lộ vẻ tang thương, đôi mắt lạnh băng như phiêu tuyết ngày đông giá.

Thấy Vị Linh Phong, cặp mắt bạch y kiếm khách thoắt đẫm lệ, y lớn tiếng hét: “Tại sao? Tại sao? Vị Linh Phong! Tại sao ngươi lại ngốc nghếch như vậy? Ngươi quên buổi luận kiếm năm nay rồi sao? Là ta không tốt, ta đến chậm một bước, ngươi đừng đi, ta sẽ giết sạch những kẻ này...”

Ai nấy bị ánh mắt của người đó làm cho kinh hoảng. Họ đã nhận ra, y chính là kiếm giả tối cao của Nhân tộc, mỗi năm vào ngày rằm tháng tám lại một lần tỷ thí kiếm pháp với Vị Linh Phong của Ma tộc. Mười năm gần đây, hai người trước sau đều đánh hòa. Kiếm giả lúc này hầu như phát cuồng, lại muốn giết hết những người ở đây...

Vị Linh Phong thu chút hơi tàn kiên quyết lắc đầu nói: “Đừng, huynh đệ, là ta đối với cõi trần thế hắc bạch bất phân này đã không... còn chút vương vấn gì nữa, để ta nghỉ ngơi... một lát. Nếu ngươi... còn coi ta là huynh đệ, thì đừng làm khó họ, đến... Nại Hà Kiều tiễn ta một chung... rượu cuối cùng đi!”

Lời còn chưa dứt, Vị Linh Phong đã cạn khí. Một đời kiêu hùng, lại bị những kẻ bại hoại giang hồ này bức tử trên Nguyệt Thương Sơn. Bạch y kiếm giả cặp mắt tròn trợn trừng, ngẩng lên nhìn những người “anh hùng” trước mặt lắc đầu nói: “Nếu không phải vì Vị Linh Phong có dặn dò lúc lâm chung, ta sẽ đưa các ngươi về địa phủ để bồi tội... còn không cút mau đi!”

Ai nấy như cất được gánh nặng, họ thở phào, rồi cùng hạ sơn, chỉ một chút công phu, hàng trăm hàng ngàn người đó đã mất dạng.

Bạch y kiếm giả điểm tay phải, kiếm từ sau lưng lao vút lên, bắt đầu bay lượn trên không, chỉ nháy mắt, dưới mặt đất đã hiện ra một cái hố lớn sâu chừng bốn, năm thước. Bạch y kiếm giả thu kiếm về, ôm lấy Vị Linh Phong và người con gái, nhẹ nhàng đặt xuống hố, rồi đứng dậy, nói: “Huynh đệ, đợi ta nhé, ta sẽ xuống địa phủ gặp ngươi...”

Một luồng sáng trắng lóe lên, tan biến trong màn đêm.

oOo

Hồi tưởng lại phù vân của kiếp trước, Vị Linh Phong cảm thấy muốn khóc, đời này thế là hết rồi...

Đột nhiên luồng sáng trắng lóe lên, một làn nhân ảnh xuất hiện ngay bên cạnh, người đó nào phải ai khác, chính là hảo huynh đệ của Vị Linh Phong, bạch y kiếm giả.

Bạch y kiếm giả nhìn dáng vẻ chịu đựng của Vị Linh Phong, nét mặt hết sức phức tạp, y kéo Vị Linh Phong bảo: “Đi, cùng ta quay về nhân gian!”

Vị Linh Phong bình tĩnh lắc đầu: “Thể xác đã hoại, quay về cũng uổng công thôi, thêm nữa Vị mỗ không còn vương vấn hồng trần nữa, quay về làm gì? Lãnh đệ là người duy nhất mà Vị mỗ tôn trọng, tri kỷ giờ phút này có thể gặp nhau, cũng không còn hối tiếc gì nữa.”

Nghe Vị Linh Phong nói, gương mặt Lãnh Kiếm cứng lại, bên nhau mười năm, y hiểu rõ tính khí của Vị Linh Phong, giờ này huynh đệ âm dương cách biệt, lòng y cảm thấy tan nát.

Y vụt hét lên: “Bạch Vô Thường, mang rượu lại đây!” Tiếng hét như sấm nổ giữa trời quang, dội vào tai tất cả các du hồn.

Bạch Vô Thường sớm đã trông thấy sát tinh này, chỉ có điều chưa lại gần. Lòng vẫn đang cảm thấy kỳ quái, Lãnh đại hiệp hôm nay sao lại chạy tới nơi địa phủ đây, gã chăm chú nhìn kỹ, lại còn có cả thủ lãnh của Ma Môn, Vị Linh Phong.

Địa phủ và Ma Môn giống như quan phủ và giang hồ trên nhân gian, nhưng vì uy tín của Vị Linh Phong rất lớn, người trong địa phủ cũng phải kiêng dè y ba phần...

Bạch Vô Thường nghe thấy Lãnh Kiếm gọi mình, vội vàng lấy ra hai hồ rượu từ chỗ Mạnh Bà, lểnh khểnh chạy tới bên họ, cung kính nói: “Lãnh đại hiệp, mời!”

Lãnh Kiếm đón lấy rượu, đưa cho Vị Linh Phong, tự mình cũng cầm lấy một hồ, mắt đẫm lệ, bi thương nói: “Hảo huynh đệ, hãy để Lãnh mỗ tiếp cho huynh say...” Nói đoạn không nỡ nhìn vẻ thương cảm của Vị Linh Phong, y nâng hồ rượu, rót vào miệng từng ngụm thật lớn.

Vị Linh Phong lòng chua xót, đời người được một tri kỷ là coi như đủ. Lãnh Kiếm đã vì y mà đến tống tiễn trên đường xuống hoàng tuyền, nhất thời, bao nhiêu lời muốn nói không thể nào thốt ra được, y nâng hồ rượu, cũng uống từng ngụm thật lớn.

Bạch Vô Thường tuy là sứ giả dẫn lối Dương - Âm, nhưng chưa từng gặp qua tình thâm ý trọng dường này, gã quay đầu đi, không nỡ nhìn tiếp đoạn bi thương ấy nữa...

Hai hồ rượu mạnh tuôn chảy không ngừng, chảy hết vào cổ họng hai người họ... Vị Linh Phong ném hồ rượu đi, khẳng khái nói: “Người có lúc bi hoan ly hợp, trăng có khi mờ tỏ tròn khuyết. Lãnh đệ hà tất phải thương cảm như vậy, linh hồn của Vị mỗ vẫn còn, sau này Lãnh đệ nhớ đến ta, hãy lên nhân gian thăm ta nhé!”

Lãnh Kiếm trợn mắt: “Gì cơ, Vị huynh vì sao không đầu thai vào Ma tộc, lại đi làm người?”

Vị Linh Phong lắc lắc đầu, nét mặt lặng lẽ: “Thiên - Địa - Nhân tam giới, người là bình phàm nhất, ta còn có gì để theo đuổi nữa? Chẳng lẽ Lãnh đệ không cảm thấy ta làm người là sự lựa chọn tốt nhất hay sao?”

Lãnh Kiếm lắc đầu, y hiểu rất rõ Vị Linh Phong, một khi Vị Linh Phong đã quyết định rồi, thì y cũng chẳng thể nói gì thêm được nữa...

Lúc đó, Bạch Vô Thường xem giờ: “Vị môn chủ, đã tới lúc lên đường rồi, bằng không sẽ muộn đấy!”

Lãnh Kiếm đổi sắc mặt: “Ta và huynh đệ nán lại với nhau một lát, ngươi cũng dám thúc ư? Có tin ta sẽ làm cho ngươi hồn phiêu phách tán, vĩnh viễn biến thành cát bụi không?”

Câu nói đó khiến Bạch Vô Thường trông thêm khó coi, mặt trắng nhợt xanh tái.

Vị Linh Phong chen vào: “Hà tất làm khó hắn, hắn cũng chỉ là muốn tốt cho ta, Lãnh đệ, Vị Linh Phong vô năng, không thể cùng đệ tỷ kiếm nữa, thôi ta đi trước.”

Nói dứt y đi đến bên Mạnh Bà, giơ tay đón lấy bát dược thang, ngửa mặt cười một tràng điên cuồng, rồi quay nhìn Lãnh Kiếm: “Hảo huynh đệ, bảo trọng nhé, huynh đệ đi trước đây.” Nói đoạn, y húp một hơi cạn sạch, nét mặt vụt trở nên đờ trệ, như trẻ con, nhãn thần vô quang, giống như những du hồn y vừa thấy lúc trước, rồi thân thể y trôi vụt đi, xa mãi...

Lãnh Kiếm trông theo bóng Vị Linh Phong khuất dần, rồi mất dạng. Mắt ứa một giọt lệ đầy...

-----------------------------------------------

(1) Theo Phật học từ điển, có một cái cầu gọi là Nại Hà, những người nghèo hèn, chết yểu đều phải qua cầu này. Nại Hà có ba thác nhỏ, tội nhân đến đò hỏi nơi nào có thể lội qua được, nên mới gọi là Nại Hà. Khi đến cầu này cần phải uống một dược thang của Mạnh Bà để quên hết chuyện kiếp trước.

-oOo-

Hồi 2: Tiếu khán hồng trần, du thưởng Tây Tử Hồ

( Hồng trần dạo bước nhìn phong cảnh, Bên hồ Tây Tử ngắm Tây Thi )

Phong cảnh của đời, dùng nét bút nào khắc hoạ được, dùng ánh mắt nào thẩm thị được, dùng linh hồn nào dung nạp được?

(Cổ Long - Luận)

Giang Nam. Địa linh nhân kiệt. Sơn thanh thuỷ tú. Nước non ngàn dặm nơi đây đã sinh ra bao nhiêu tài tử?

“Thuỷ quang liễm diễm tình phương hảo

Sơn sắc không mông vũ diệc kỳ

Dục bả Tây Hồ tỉ Tây Tử

Đạm trang nồng mạt tổng tương nghi” (2)

Bài thơ này ví Tây Hồ với mỹ nhân Tây Thi, do vậy, Tây Hồ còn có thêm một nhã hiệu khác, là “Tây Tử Hồ”.

Tháng ba, Tây Hồ mỹ cảnh. Cùng một lúc có biết bao văn nhân nhã khách tới đây du thưởng, vô hình đã điểm thêm phong vị cho Tây Tử Hồ.

Còn Liễu Dật, hoàn toàn chỉ vì nhà ở gần, y mới chạy ra chen vào cái đám nhiệt náo này. Đi cùng y là Thập Kiệt Nhất, một tên thô lỗ, chữ nghĩa gom góp lại chưa đầy một “bồ”, sở dĩ gã tới Tây Hồ chỉ vì lão đại của gã, Liễu Dật, cũng tới đây.

Đúng lúc đang định ngồi xuống một chỗ trong đình viên để thưởng thức cảnh đẹp, đột nhiên một thanh âm vang lên: “Ô la la, đây chẳng phải là tiểu công tử của Liễu phủ sao? Ôi, nhầm, là Liễu đại tài tử chứ, sao hôm nay lại có hứng đến đây du hí vậy? Xem ra phong quang của Tây Hồ nhờ Liễu công tử mà đã tăng thêm không ít hương sắc rồi!”

Liễu Dật nghe tiếng, bèn quay sang nhìn, thấy cách mình chừng mười trượng, có một người mình mặc áo dài màu tím, đầu đội mũ kiểu thư sinh, mày mỏng mắt ti hí, tướng mạo rất tối tăm, dáng lùn tịt thấp bé, niên kỷ ước độ hai mươi.

Liễu Dật nào lạ gì tên lùn này. Học phủ “Quảng An Các” có danh khí nhất Giang Nam hiện nay là do phụ thân hắn lập ra, còn hắn, đương nhiên là đại tài tử của Quảng An Các. Tuy tướng mạo bần tiện xấu xí, nhưng cứ ra đường hỏi: “Có biết Lý Dẫn không?“, bảo đảm cả một đám đông nhận có.

Lý Dẫn vốn không phải là người xấu, chỉ vì tài tử nổi tiếng nhất ở Giang Nam lại là Liễu Dật, hai bên xã giao còn tạm được, nhưng đồng hành lại là oan gia. Đều là tài tử nhưng Lý Dẫn không sao chấp nhận nổi Liễu Dật.

Đúng là, cừu nhân chạm mặt, hai mắt đỏ vằn. Lý Dẫn vốn tâm tình thoải mái, muốn đến ngoạn cảnh Tây Hồ, bất giác trông thấy Liễu Dật cũng ở đây, lòng đâm khó chịu.

Liễu Dật nghe giọng Lý Dẫn, cũng tự nhiên bực mình, y cung tay đáp lễ: “Cứ tưởng cơn gió lành vừa rồi thổi ai tới, thì ra là Lý đại công tử!”

Thập Kiệt Nhất đứng bên ngây ngô bảo: “Lão đại, đệ đâu có thấy cơn gió nào... Với lại, vừa rồi đệ mới để sút một cái rắm.”

Mấy tên gia nhân sau lưng Lý Dẫn nghe thấy, hầu như cùng xông lên một lượt, xem ra muốn nện cho tên ngốc kia một trận, chỉ là chưa nói thẳng ra mà thôi.

Lý Dẫn cũng tức, nhưng vẫn đủ tỉnh táo để ngăn đám gia nhân lại, vì hắn biết tên Thập Kiệt Nhất này, tuy ngu muội nhưng đã học được mấy năm công phu ở đâu đó, lợi hại vô cùng. Những lần trước chưa biết, nên đã ăn đòn đủ, hầu như bị tên ngốc đánh cho tàn tạ, sau đó còn phải nghe gã huênh hoang: “Ta chính là một trong đương kim thập đại kiệt xuất thiếu niên, thiên hạ gọi ta là Thập Kiệt Nhất, không phục thì đi kêu thêm người nữa đến đây đánh nhau.”

Lý Dẫn vừa ngăn đám gia nhân, vừa nhìn Thập Kiệt Nhất đang trợn trừng ánh mắt như muốn ăn tươi nuốt sống hắn, u ám bảo: “Liễu huynh, huynh xem, chuyện gì thế này, chúng ta đều là văn nhân, sao có thể thô lỗ thế. Hành vi của những kẻ ngu xuẩn kia, ta nghĩ Liễu huynh cũng không thể tán thành!”

Liễu Dật nhìn tên lùn có nét mặt biến đổi còn nhanh hơn con tắc kè thay màu da ấy: “Lý công tử nói sai rồi, khoái ý ân cừu trong giang hồ, thực ra chính là tưởng vọng của Liễu mỗ.”

Lý Dẫn nghe thấy câu đó, lại nhìn Thập Kiệt Nhất có vẻ như đang muốn phát tác: “Liễu huynh, lâu nay vẫn nghe về các mặt cầm - kỳ - thư - họa, huynh đã đạt tới trình độ rất cao, Lý mỗ lấy làm bội phục, không biết... Liễu huynh có chịu cùng tiểu đệ tỷ thí một chút không?”

Liễu Dật ngắm quả cầu thịt, không biết hắn đang định giở trò gì, đáp: “Lý huynh nói sao, những thứ đó là sở thích của Liễu mỗ, học để rèn luyện bồi đắp tâm tính, chứ không phải là để tỷ thí với người.”

Lúc này, bên cạnh họ đã bu quanh một đám đông, trong ba vòng, ngoài ba vòng.

Người Giang Nam ai mà không biết đại tài tử Liễu Dật và Lý Dẫn là oan gia, mỗi lần gặp nhau đều có kịch vui để xem, hôm nay cũng không ngoại lệ, mọi người cùng chong chong ánh mắt đợi chờ.

Lý Dẫn giơ cái quạt gấp trong tay lên, nhè nhẹ mở ra, chậm rãi nói: “Những môn mà Liễu huynh dùng để bồi dưỡng tâm tính ấy, tiểu đệ tất nhiên không thể so bì, hay là chúng ta tỷ thí bằng các câu đối?”

Nguyên là Lý Dẫn đã có tính toán, hắn biết Liễu Dật rất giỏi cầm - kỳ - thư - họa, vì vậy mới cố ý ra đề khó, là làm câu đối.

Lý Dẫn thấy Liễu Dật không có phản ứng, bèn xoay mình hỏi đám đông xung quanh: “Các vị, các vị có muốn xem Liễu đại tài tử và tiểu sinh so tài bằng câu đối không?”

Đám đông tức thì hô lên như điên, chẳng bao giờ thấy câu đối của Liễu đại tài tử, bây giờ mà được chứng kiến, thì đúng là cơ hội ngàn năm có một.

Liễu Dật không phải loại ngốc, đương nhiên nhận ra thâm ý của Lý Dẫn không muốn cho mình đường rút lui, bắt mình phải lộ mặt xấu. Nhưng y có coi cái việc đối đáp cỏn con này là cái gì, nhất thời máu nóng dâng lên, y nói: “Được, Lý huynh đã có nhã hứng, Liễu mỗ cũng đành chịu tiếng kém cỏi vậy.”

Lời vừa nói ra, lập tức xung quanh người ta hô vang, vỗ tay như sấm: “Hay lắm, hay lắm!”

Lý Dẫn cầm chiếc quạt gấp, phẩy khe khẽ: “Liễu huynh, vậy Lý mỗ không tự lượng sức đành bắt đầu trước.”

Liễu Dật chìa quạt về phía Lý Dẫn: “Mời!”

Lý Dẫn bước lên mấy bước, ngẩng đầu nhìn trời cao, khe khẽ phe phẩy chiếc quạt, đoạn quay mình, ngâm: “Từ trào mặc tận, thiên tình vạn oán, anh kiệt sầu.” (3)

Đám đông vừa nghe, đã cùng kêu lên: “Hay, quả nhiên là vế ra rất hay!”

Liễu Dật thở dài, lắc lắc đầu, không cân nhắc lâu đáp liền: “Khúc chung nhân tán, phát hoa mấn bạch, hồng nhan một.” (4)

Mọi người vừa nghe, còn kêu to hơn, vế đối thật tinh tế, hai câu hợp lại quả là một cặp tuyệt đối. Liễu Dật chẳng thèm nghĩ ngợi gì, tung ngay vế dưới ra, có thể thấy văn tài trác tuyệt dường nào.

Lý Dẫn nghe xong, lòng đâm hoang mang, tay vẫy cây quạt, lại ra một vế trên khác: “Oanh oanh yến yến túy túy hồng hồng xứ xứ dung dung kháp kháp.” (5)

Vế trên vừa đưa ra, xung quanh bỗng lặng ngắt, câu này khó quá.

Liễu Dật khe khẽ đưa cây quạt gấp, tiếp ngay: “Phong phong vũ vũ hoa hoa diệp diệp niên niên mộ mộ triêu triêu.” (6)

Vế dưới vừa xuất, đám đông lại một lần nữa rộn lên tiếng vỗ tay giòn giã.

Lý Dẫn chẳng còn lòng dạ nào mà nghe, vừa xoay mình, vừa bật ra vế đối trên đã chuẩn bị sẵn: “Thời thời hội nhất nhật, nhật nhật hội nhất nguyệt, nguyệt nguyệt hội nhất niên, niên phục nhất niên.” (7)

Liễu Dật nhè nhẹ giơ quạt lên, lông mày cau lại, Lý Dẫn ngó thấy, phá ra cười lớn: “Liễu huynh, có tìm được vế dưới không?”

Liễu Dật lắc đầu: “Lý công tử, xem câu này ra sao nhé! Nhất nhật tư nhất nguyệt, nhất nguyệt tư nhất niên, nhất niên tư nhất sinh, sinh sinh thế thế.” (8)

Lý Dẫn gấp quạt, không biết đáp lại thế nào.

Xung quanh tức thì vang lên tiếng rào rào. Có người nói thật to: “Hay lắm!”, có người giục Lý Dẫn mau ra câu đối khác, lại có người khích bác Lý Dẫn: “Gã này không còn câu đối nào rồi, Liễu đại tài tử là người mà hắn có thể so bì được sao? Đúng là không biết tự soi gương mà!”

Lý Dẫn biết hôm nay không muốn xấu cũng không được, bèn nghiến răng nói: “Vẫn còn một vế ra nữa, mời Liễu huynh đối.”

Liễu Dật ung dung: “Xin mời!”

Lý Dẫn phe phẩy cây quạt: “Tiếu ni cô hạnh nhãn hàm xuân mạch mạch hàm tình xuân tâm đãng dạng uyển chuyển oánh đề thiên kiều bách mị tình bất tự cấm hỉ bất tự thắng quyết ý dục tư xuân.” (9)

Vế ra đã hết, mọi người nghe xong một lúc lâu, rồi cùng phá ra cười, bảo nhau, Lý Dẫn này cùng đồ mạt lộ rồi, mới xuất một câu đối hạ lưu đến thế. Chỉ có điều không biết Liễu Dật có thể đối lại một câu dài như vậy không?

Liễu Dật đi xung quanh Lý Dẫn hai vòng, rồi kề sát vào tai hắn bảo: “Tuấn hoà thượng hổ mục sinh sân hận sinh thán phật ý kiên đỉnh khảng khái bi ca vạn niệm câu hôi tâm như mao thạch bi tùng trung lai đoạn nhiên yếu ngộ không.” (10)

Vế đối vừa dứt, Liễu Dật phẩy chiếc quạt, cười ha ha thật sảng khoái, xoay mình sải bước ra bên ngoài nói: “Thập Kiệt Nhất, đi nào, về nhà ăn cơm thôi!”

Thập Kiệt Nhất gật đầu, cùng Liễu Dật đi về hướng một quán ăn.

Ở chỗ cũ chỉ còn Lý Dẫn đứng sững, vế đối cuối cùng là hắn đã mất ba ngày nghiền ngẫm mới viết ra được, không ngờ bị cái tên tiểu tử kia đối mất. Còn những người vây quanh, tuy họ không biết Liễu Dật có đối được không, nhưng nhìn thái độ của cả hai, cũng đoán được tám chín phần. Chỉ có điều không biết câu đối của Liễu Dật là gì, đáng tiếc... Nhưng hôm nay xem được màn vui ra trò này, kể cũng đã không tệ. Họ trông theo bóng Liễu Dật tiêu sái đi xa dần, ai nấy không ngớt khen ngợi, tài tử như vậy, làm sao có thể là người trần.

Đương nhiên, nói Liễu Dật là tài tử, tất nhiên không phải là vô bằng vô cớ, ai cũng biết y là tam công tử nhà họ Liễu. Cho dù là ở kinh thành hay ngoại ô, danh tiếng của y cũng rất nổi.

Liễu Dật từ nhỏ đã thích cầm - kỳ - thư - họa, lại thêm có thiên tư, cái gì cũng chỉ nhìn qua một lần là nhớ, điều duy nhất y không thích là luyện võ. Mười ba tuổi đã nổi danh tiểu tài tử, mười tám tuổi vẽ bức tranh đầu tiên “Long Phụng Trình Tường Đồ” được đương kim hoàng thượng đánh giá rất cao, được vời vào cung, từ đó danh tiếng Giang Nam thư sinh của Liễu Dật không ngừng bay xa. Năm hai mươi tuổi, đã vẽ được mười lăm bức tuyệt thế trân phẩm, hiện lưu giữ tại nhà các hoàng thân quý tộc, cao quan trọng thần, cho dù họ không phải là những người yêu tranh. Nguyên nhân khá đơn giản, tranh của Liễu Dật vạn lạng cũng khó mua, tổng cộng mới có mười lăm bức, lấy được một bức chứng tỏ thực lực đã rất không tầm thường, hàng ngày đem ra khoe khoang cũng tốt. Còn Liễu Dật, từ năm hai mươi tuổi trở đi, y không động đến bút vẽ nữa, thành ra mười lăm bức kia càng trân quý đến bực nào, chẳng cần nghĩ cũng biết. Vậy mới nói Liễu Dật là tài tử, hoàn toàn không phải vô bằng vô cớ.

Tài tử, trong giới giang hồ ở Giang Nam cái không đáng tiền nhất chính là tài tử. Giới giang hồ kiếm ít mà ăn nhiều kia đời nào thèm để ý đến một tên tài tử nhỏ nhoi?

Nhưng Liễu Dật thì khác, địa vị tài tử trong giới giang hồ của y đã được khẳng định, vì chỉ cần lấy được của y một bức hoạ, là nửa đời còn lại sẽ không phải nỗ lực cướp bóc, cũng không phải phóng hỏa giết người làm gì nữa.

Đã là tài tử, đương nhiên rất nhiều người chú ý đến y, kiểu như Lý Dẫn hãy còn tàm tạm, nghiêm trọng hơn là có những kẻ trong giang hồ, tham luyến tranh của y, đã nghĩ cách cưỡng ép y vẽ. Nhưng bọn họ cũng vì việc đó mà lao tâm khổ tứ, bởi bên mình Liễu Dật lúc nào cũng có Thập Kiệt Nhất, một trong thập đại kiệt xuất thiếu niên, gã tiểu tử ngốc nghếch này không biết học ở đâu mà võ công rất cao cường, lại không rời Liễu Dật lấy nửa bước, kể cả lúc ngủ, hai người cũng bên nhau... Điều này khiến cho bao nhiêu kẻ trong giang hồ phải từ bỏ tà niệm với Liễu Dật, cái danh tài tử của y, vì thế cũng trở thành một truyền thuyết trong nhân gian...

-------------------------------------------------

(2) Ẩm Hồ Thượng Sơ Tình Phục Vũ (Tô Đông Pha - Nguyễn Hiến Lê dịch)

“Trời tạnh long lanh hồ đã đẹp

Mưa phùn mịt mịt núi càng xinh

Tây hồ đâu khác nàng Tây tử

Trang điểm cùng không nét vẫn tình”.

(3) Chữ cạn mực kiệt, trăm ngàn tình oán, anh kiệt sầu.

(4) Khúc hết người tan, tóc mai nhuốm bạc, hồng nhan muộn.

(5) Oanh oanh yến yến xanh xanh đỏ đỏ nơi nơi ríu rít rộn ràng.

(6) Gió gió mưa mưa hoa hoa lá lá ngày ngày chiều chiều sớm sớm.

(7) Nhiều giờ dồn thành ngày, nhiều ngày dồn thành tháng, tháng tháng dồn lại một năm, năm này sang năm nọ.

(8) Một ngày nhớ một tháng, một tháng nhớ một năm, một năm nhớ một đời, đời đời kiếp kiếp.

(9) Ni cô tươi cười, mắt hạnh long lanh đăm đắm, rành rành lòng xuân rạo rực, thỏ thẻ oanh vàng, yêu kiều mỹ lệ, tình vụt bay bổng, hoan hoan hỉ hỉ yêu xuân mến xuân.

(10) Hòa thượng tuấn tú, mắt hổ hờn hờn giận giận, trách than Phật ý kiên định, khẳng khái bi ca, thất vọng vùi chôn, lòng như đá nặng, xót tận ruột gan, chán Ngộ ghét Ngộ.

-oOo-

Hồi 3: Thần bí A Cửu, Trọng kim cầu danh họa

(A Cửu cô nương cầu danh họa, Ngàn vàng một bức vẽ con con )

Sinh trong nhà đế vương, có lúc cũng hoàn toàn không phải là điều may mắn.

Nguyện đời đời kiếp kiếp đừng tái sinh trong nhà đế vương, nỗi cay đắng ở câu nói này, người bình thường chưa chắc đã cảm nhận được.

(Cổ Long - Luận)

Suỵt,... khẽ thôi, đừng để cha phát hiện ra, không là chết đấy!”

Liễu Dật vừa nhắc nhở Thập Kiệt Nhất, vừa cẩn thận đi trước mở đường. Nhưng Liễu phủ rộng lớn quá, muốn về được cái hoa viên bé nhỏ của mình, còn phải đi qua hai sương phòng, một ngọn giả sơn mới tới được.

Chính vào lúc Liễu Dật đang nhè nhẹ đi trước mở đường, một thanh âm trầm trầm bỗng từ đằng sau vang lên: “Dật nhi, con lại lén chạy ra ngoài phải không?”

Thanh âm đó, tựa như tiếng sét nổ giữa trời quang, giáng trúng ngay Liễu Dật, khiến y dừng phắt tại chỗ, một lúc lâu sau mới quay mình lại, ảm đạm thưa: “Cha...” rồi chẳng biết nói gì tiếp nữa.

Đối diện với y, một lão nhân mặt đen tóc đen, hai bên tóc mai lốm đốm bạc, thần thái nhu hòa, mình vận áo rộng màu xanh, dáng vẻ rõ ràng đã trải qua nhiều năm phong trần, không sai, lão nhân đó chính là thái gia của Liễu phủ, Liễu Mục Tịch.

Liễu Mục Tịch nhìn Liễu Dật, lắc lắc đầu, ngữ khí lộ rõ sự quở trách: “Con ơi con... sao mà hư quá vậy, muốn hại cha tức chết phải không?”

Liễu Dật nhìn Liễu Mục Tịch: “Cha, cứ ở lì trong nhà lâu như vậy buồn lắm, con ra ngoài một lát cho khuây khỏa, cha hỏi Thập Nhất mà xem, con chỉ ngồi chơi bên Tây Hồ thôi. ”

Liễu Mục Tịch ngó Liễu Dật, cười lạnh: “Thật không? Quả thật chỉ ngồi đơn giản như vậy ư? Thế tại sao có người trông thấy con và công tử của Lý phủ so tài đối này?”

Liễu Dật nghe cha nói, không biết mở miệng thế nào.

Liễu Mục Tịch quay sang Thập Kiệt Nhất: “Kiệt Nhất, ngươi nói đi, có chuyện đó không?”

Liễu Dật nghe hỏi, thầm kêu: “Hỏng rồi.” Vừa thầm kêu vừa đưa mắt ra hiệu cho Thập Kiệt Nhất, cầu mong gã ngốc này đừng nói “quá đáng”.

Nhưng Thập Kiệt Nhất nào phải người thông minh, vừa nghe lão nhân hỏi, đã vội vàng đáp ngay: “Cha của lão đại à, ông không được chứng kiến, lão đại lúc đó rất là lợi hại, đối đáp đến mức cái tên Lý Dẫn kia cứng họng, ta xem cũng thấy thích mê đi!”

“Trời!” Liễu Dật giờ chỉ muốn cấu nát tim Thập Kiệt Nhất.

Liễu Mục Tịch thở dài, lắc đầu nói: “Con cứ mãi như thế, sớm muộn gì cũng rước họa vào thân! Con xem đại ca con đó, hiện đã trở thành phú hào bậc nhất; lại nhị tỷ con, vừa nhập Kiếm Môn; chỉ còn có con, con ơi con, muốn cha phải lo lắng vì con đến bao giờ đây?”

Liễu Dật vội vàng thưa: “Cha, xin cha yên tâm, hài nhi sẽ không bao giờ lén chạy ra ngoài nữa.” Nói đoạn nét mặt lộ vẻ hết sức thành khẩn.

Liễu Mục Tịch nhìn Liễu Dật, đột nhiên vung tay phải, ngón giữa điểm liên tiếp vào hai đại huyệt Đản Trung và Du Phủ trước ngực y, rồi lắc đầu bảo: “Con nói câu này cả ngàn lần rồi, quỷ nó mới tin. Bây giờ con cứ đứng đây, cơm trưa cơm tối khỏi cần ăn nữa.”

Nói đoạn lão xoay mình phủi vạt áo, đi về phía đại sảnh. Sau lưng vang lên tiếng kêu la thảm thiết của Liễu Dật, nhưng Liễu Mục Tịch cứ giả như không nghe thấy.

Huyệt đạo của Liễu Dật bị khống chế, hiện giờ chỉ có thể giữ nguyên tư thế, hai mắt trừng trừng nhìn Thập Kiệt Nhất. Gã ngốc lúng túng nói: “Lão đại, nhìn đệ làm gì? Đệ không giúp giải huyệt được đâu, cha lão đại sẽ giết đệ mất.”

Liễu Dật cáu kỉnh: “Đói lắm rồi, ngươi mau chạy đi lấy cho ta ít đồ ăn đến đây!”

Thập Kiệt Nhất gật đầu, dường như biết ban nãy mình đã nói sai, vội vàng đáp: “Được!” rồi quay mình chạy ra ngoài.

Thực ra đây không phải lần đầu, Liễu Dật đã quen bị phạt đứng, may mà có Thập Kiệt Nhất lén đi lấy đồ ăn, nên ít ra đứng cả ngày cũng không đến nỗi chết vì đói.

Ngắm mặt trời rực rỡ trên đầu, nghe tiếng chim hót, tuy mới là tháng ba, nhưng phong cảnh ở đây lại khiến Liễu Dật nhớ đến một câu trong “Thất Nguyệt” (Bân Phong - Kinh Thi), bất giác y cất giọng ngâm:

“Thất nguyệt lưu hỏa,

Cửu nguyệt thụ y.

Xuân nhật tải dương,

Hữu điểu thương canh.

Nữ chấp ý khuông,

Tuân bỉ vi hành,

Viên cầu nhu tang.

Xuân nhật trì trì,

Thái phiền kì kì.

Nữ tâm thương bi,

Đãi cập công tử đồng quy! ” (11)

“Lốp bốp lốp bốp!” Một tràng vỗ tay giòn giã vang lên, tiếp đó một giọng nói nuột nà vọng tới: “Liễu công tử thật tài hoa, thật có nhã hứng!”

Liễu Dật hé mắt trông lại, mẹ ơi, Thập Kiệt Nhất đã quay trở lại rồi, sau lưng gã còn có cha, lại cả một vị nữ tử và một ả nha hoàn.

Đó là một nữ tử mặc hoàng y, tay cầm thanh kiếm xanh dài ba thước, hàng mày cong lá liễu, cặp mắt hạnh, đôi môi mỏng, khuôn mặt đẹp hài hòa , thân hình thì càng khỏi phải bàn... Nếu nói đây là người con gái đẹp nhất Liễu Dật từng gặp, thì cũng không phải là nói quá.

Thư sinh rốt cuộc vẫn là thư sinh, trông thấy mỹ nữ không nén được mô tả bằng một hai câu, bất giác cảm thán: “Tay như mầm cỏ, Da như mỡ đông, Cổ như con sâu nõn, Răng như hạt bầu, Trán mịn mày thanh, Nụ cười hàm tiếu, Mắt đẹp vời vợi... “

Thập Kiệt Nhất là người đầu tiên chạy tới trước mặt Liễu Dật, hoang mang nói: “Lão đại, đệ vừa mới đánh cắp con gà, thì bị cha lão đại gọi lại, nói lão đại có khách, đệ đành đưa họ đến đây.”

Liễu Mục Tịch lại gần nói: “Thôi đi, còn ở đấy lầm bầm cái gì thế. Vị cô nương này nói là hảo bằng hữu của con, muốn gặp con.” đoạn lão chỉ hoàng y nữ tử, tiếp đó dùng cặp mắt đánh giá quan sát hai người, ánh mắt lộ rõ nghi hoặc: “Nói mau, hai đứa có quan hệ thế nào?”

Liễu Dật ngắm nữ tử, thầm nhủ: “Lạ, ta chưa từng gặp cô gái này, về lý mà nói người đẹp như vậy, gặp một lần là không thể quên. Thôi kệ, cứ giải quyết cái khó cho mình trước đã!”

Rồi y tỏ vẻ lúng túng, nói: “Cha, cha xem con cứ đứng mãi đây thật không hay chút nào, cha... hay là, giải huyệt cho con đã? Con hứa, sẽ không bao giờ chạy lung tung nữa.”

Lúc đó, mọi người mới nhận ra, tuy Liễu Dật miệng vẫn nói, mắt vẫn chớp, nhưng tư thế từ nãy tới giờ không hề thay đổi, Liễu Mục Tịch cũng quên bẵng đi, thì ra huyệt đạo y vẫn bị phong bế, lão bèn lắc mình, nhoài tới giải huyệt cho Liễu Dật.

Thập Kiệt Nhất chứng kiến bản lĩnh xuất thủ giải huyệt của Liễu Mục Tịch, cất tiếng tán thưởng: “Cha của lão đại tài thật!”

Liễu Dật không để ý nhiều đến thế, cử động trở lại được rồi, y nói với hoàng y nữ tử: “Tiểu cô nương đến tìm ta phải không?” Vì Liễu Dật nhận thấy hoàng y nữ tử hiển nhiên vừa mới qua tuổi dậy thì chưa lâu, giỏi lắm chỉ mười sáu tuổi là cùng, nên mới gọi cô ta là “tiểu cô nương”.

Hoàng y thiếu nữ gật đầu: “Ừ!”

Liễu Dật xoay sang người cha mi rậm mắt tròn: “Ơ, cha còn việc gì nữa không ạ?”

Liễu Mục Tịch nghĩ bụng: “Tiểu tử giỏi lắm, dám bắt nạt cả cha mi.” nhưng lão không nói nhiều, chỉ đáp: “Chẳng còn việc gì cả!”

Liễu Dật tiếp ngay: “Dạ, đã không còn việc gì, vậy thỉnh cha về phòng nghỉ ngơi.”

Nói đoạn mặt y lộ nét cười rất giảo hoạt.

Liễu Mục Tịch biết mình nói không lại tên tiểu nhi tử, phẩy tay áo nhìn y, rồi lại nhìn nữ nhân nọ, cuối cùng xoay mình đi về hướng đại sảnh.

“Phù...” rốt cục cũng có thể thở phào rồi, cha già thật đáng sợ. Liễu Dật quay lại gọi: “Nào, Thập Nhất, ta đói quá, theo ta đi ăn cái gì đi!”

Gọi xong y cất bước về phía hậu hoa viên.

Lúc đó, hoàng y thiếu nữ đằng sau lên tiếng: “Khoan đã!”

Liễu Dật dường như chợt nhớ ra cô gái áo vàng, y ngoái lại: “Xin hỏi, cô nương đang gọi ta phải không?”

Hoàng y thiếu nữ không hề lộ vẻ giận, chỉ gật đầu, dáng điệu kiêu hãnh: “Phải!”

Liễu Dật rút cây quạt gấp, khe khẽ đưa lên gãi đầu: “Cô nương, nếu nhớ không nhầm, thì trong ấn tượng của tiểu sinh, chưa từng in bóng một bằng hữu nào đẹp như cô nương đây!”

Hoàng y thiếu nữ khúc khích cười, thật duyên dáng, thật xinh đẹp, nàng nói: “Thư sinh, đúng là thư sinh, trước đây chưa có, bây giờ chẳng phải là đã có rồi đấy sao?”

Liễu Dật thắc mắc: “Cô nương, có thể nói rõ hơn một chút không?”

Hoàng y thiếu nữ chậm rãi đi lại gần Liễu Dật: “Liễu công tử là người rất rạch ròi, vậy thì, tiểu nữ cũng xin nói thẳng, tiểu nữ muốn Liễu công tử vẽ cho một bức hoạ.”

Liễu Dật khẽ xua quạt: “Thật ngượng quá, cô nương tìm nhầm người rồi, Liễu mỗ đã thôi vẽ từ lâu!”

Hoàng y thiếu nữ không tỏ vẻ ngạc nhiên, tựa hồ trước khi đến đã chuẩn bị cho việc bị từ chối, nàng giản dị nói: “Liễu công tử, tiểu nữ chỉ cần công tử vẽ một bức họa, sẽ có thù lao thật hậu.” đoạn vỗ nhẹ tay.

Cùng với tiếng vỗ tay, từ phía đại sảnh có tám cô gái tuyệt mỹ đi lại, tất cả đều bận bạch y, mỗi nàng mang trên tay một chiếc hộp kim sắc, dài khoảng hai thước, trông rất tinh xảo.

Thoắt cái họ đã đi tới trước mặt Liễu Dật, nhẹ nhàng mở những chiếc hộp đó ra. Liễu Dật bắt đầu xem, thoạt tiên là kinh ngạc, sau đó là lạ lùng, cuối cùng là cảm thán.

Từ chiếc hộp thứ nhất đến chiếc hộp thứ tám, bên trong lần lượt đặt vàng thỏi, bảo thạch, mã não, phỉ thuý, danh ngọc, ba hộp cuối cùng là ba loại mỹ tửu lâu năm, xem ra đã cất giữ đến trên một thế kỷ.

Liễu Dật tắc lưỡi, lắc đầu...

Hoàng y thiếu nữ tưởng Liễu Dật thấy thế là chưa đủ, bèn tiếp: “Nếu Liễu công tử có hứng, tám con mỹ nô này cũng là của công tử.”

Liễu Dật ngắm tám cô gái đẹp, thầm nhủ: “Thiếu nữ này lai lịch thế nào, khoan đừng nói đến những thứ nằm trong hộp, chỉ riêng tám chiếc hộp thôi, cũng đủ để mình ăn tiêu cả đời rồi.”

Nảy tính hiếu kỳ, y hỏi: “Xin hỏi phương danh của cô nương?”

Hoàng y thiếu nữ đáp: “Gọi ta là A Cửu được rồi!”

Liễu Dật lẩm nhẩm: “A Cửu? A Cửu? Tên tuổi kiểu gì thế này?”

A Cửu thấy Liễu Dật không có phản ứng, bèn nhắc: “Liễu công tử...?”

Liễu Dật vội vàng tập trung: “Ồ, A Cửu cô nương, Liễu mỗ muốn biết, cô cần bức họa gì mà phải dùng những thứ có giá trị liên thành như kim ngân châu bảo, giai tửu mỹ nữ... đến đổi?”

A Cửu mỉm cười, để lộ hai lúm đồng tiền xinh đẹp: “Long Phụng Trình Tường Đồ.”

Liễu Dật vừa nghe, đã cảm thấy sự việc thật phức tạp: “Long Phụng Trình Tường Đồ là bức hoạ mà hoàng thượng đích thân lựa lấy, hiện nay lưu ở trong cung. Vị cô nương tự xưng là A Cửu này lẽ nào không biết bức họa đó đang nằm trong tay hoàng thượng?”

Liễu Dật lập tức lấy vẻ mặt tươi cười: “Ha ha, A Cửu cô nương nói chơi rồi, Long Phụng Trình Tường Đồ hiện đang ở trong cung, cô nương tìm lầm người rồi!”

A Cửu nói: “Điều này tiểu nữ tất nhiên là biết, nếu không đã chẳng tới đây tìm công tử. Tiểu nữ muốn công tử vẽ lại một bức Long Phụng Trình Tường Đồ nữa, giống hệt bức trong cung.”

Liễu Dật lắc đầu: “Thứ cho Liễu mỗ không làm nổi, Liễu mỗ đã thôi vẽ rồi, mà dù có vẽ cũng không thể vẽ lại một bức giống hệt được.”

A Cửu nói: “Lẽ nào Liễu công tử không có hứng thú với những đồ vật này?” đoạn nàng chỉ tám mỹ nữ và những thứ tài bảo vô giá đang bày trước mặt.

Liễu Dật lắc đầu: “Thích lắm, nhưng nếu ta vẽ Long Phụng Trình Tường Đồ, thì đó là tội khi quân, có hứng đến đâu cũng không thể được. Liễu mỗ còn biết cân nhắc nặng nhẹ! ”

Liễu Dật lại tiếp: “Ồ, phải rồi, mải nói chuyện với A Cửu cô nương, bụng ta đói lắm rồi! Những thứ châu bảo mỹ nữ này dù có tuyệt vời, cũng không thể an ủi được cái bụng của ta. Vì vậy, Liễu mỗ xin cáo từ!”

Đoạn y quay mình kéo Thập Kiệt Nhất đi lại hậu hoa viên.

Nhìn theo bóng Liễu Dật đi xa dần, A Cửu đá chân, kêu: “Hừ, gã chết tiệt, ta không tin bảo ngươi vẽ lại khó khăn đến thế...”

----------------------------------------------------

(11) Thất Nguyệt (Tạ Quang Phát dịch)

“Tháng bảy mọc thấp sao Đại hoả,

Tháng chín thì áo đã trao rồi.

Ngày xuân ấm áp vui tươi.

Thương canh cất tiếng khắp nơi hót chào.

Cô gái mang giỏ sâu và đẹp,

Lại noi theo lối hẹp tiến chân,

Dâu non tìm hái xa gần.

Khi xuân ấm áp, ngày xuân trì trì.

Mớ rau phiền, bước đi tìm hái.

Trong lòng người con gái xót xa,

Bước theo công tử lìa nhà”.

-oOo-

Hồi 4: Tiến thoái lưỡng nan, bất biến ứng vạn biến

( Sự đời tiến thoái lưỡng nan, Làm sao thoát khỏi họa tìm tai bay )

Nhân sinh chẳng bao giờ đẹp đẽ như tưởng tượng, sinh mệnh vốn có rất nhiều bi ai và thống khổ!

(Cổ Long - Luận)

Hậu hoa viên.

Cái ổ riêng của Liễu Dật. Từ nhỏ đến lớn, dưới sự quản giáo chặt chẽ của cha, y đã cố sống cố chết xin được cái vườn hoa nhỏ này. Đây là thế giới của Liễu Dật, ở đây y không phải e sợ một ai hết.

Liễu Dật đặt cho tiểu ổ của mình một cái tên hết sức nhã trí, “Thiên Thượng Nhân Gian”. Hoa viên cũng thật hợp với cái tên đó, vì y đã cho mời các bậc thầy về làm vườn đến vun trồng hơn trăm loài hoa, lại nghĩ ra một cách lạ lùng là đem chôn dưới mỗi gốc hoa một cuốn danh thư - mọt sách, đúng là mọt sách.

Giờ thì Liễu Dật đang ngồi bên cái bàn đá giữa hoa viên, trên mặt bàn là bốn đĩa thức ăn tinh xảo, một hồ rượu, Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất vừa chậm rãi thưởng rượu, vừa nghe cô gái đối diện dạo cổ cầm, và ngắm cô gái trước mặt đang nhảy múa.

Người dạo cầm là Băng Nhi, nha hoàn của Liễu Dật. Băng Nhi tuổi vừa đôi mươi, nhan sắc mười phần tú lệ, do cha y cử sang phục dịch từ hồi y còn nhỏ. Những lúc rảnh rỗi, Liễu Dật cũng dạy Băng Nhi một vài ngón đàn, lâu dần, Băng Nhi thường đàn cho Liễu Dật nghe.

Người đang nhảy múa theo tiếng đàn là Thanh Nhi, cũng là nha hoàn của Liễu Dật, cùng tuổi với Băng Nhi, yêu kiều khả ái, do cha Liễu Dật mới mua cho y vài tháng trước, nói rằng y đã lớn rồi, một nha hoàn thì không đủ, nên lại cho thêm một ả. Cũng may là Thanh Nhi biết ca biết đàn, vừa khéo phối hợp được với Băng Nhi.

“Băng Nhi nhất khúc thiên thượng lai, Thanh Nhi nhất vũ thần tiên đảo!” Vừa dứt một bài, Liễu Dật buột miệng tán thưởng. Thập Kiệt Nhất lập tức đặt chung rượu xuống, lớn tiếng khen: “Hay, hay! Băng Nhi và Thanh Nhi quả thực càng ngày càng giỏi, càng lớn lại càng đẹp, hê hê, hê hê...!”

Băng Nhi, Thanh Nhi lại gần, khom mình nói với Liễu Dật: “Đa tạ công tử khen ngợi!”

Liễu Dật khẽ hớp một ngụm rượu trong chén: “Thiên Thượng Nhân Gian này của ta so với thiên giới có kém sút gì. Mỗi ngày nghe Băng Nhi tấu một khúc, xem Thanh Nhi múa một điệu, chậm rãi thưởng vài chén rượu, quả thực là cuộc sống thần tiên.”

Thập Kiệt Nhất ở bên cạnh càu nhàu: “Chỉ có điều rượu ít quá, không thể uống cho thống khoái.”

Liễu Dật chẳng để ý, tiếp tục nói với hai cô gái: “Các ngươi hãy lui về nghỉ đi!”

Thanh Nhi vội vàng: “Công tử, để chúng tiểu tỳ ở lại thị hầu bên cạnh người!”

Liễu Dật lắc đầu, xua tay bảo: “Nghe lời ta đi, đàn hát lâu như thế rồi, các ngươi chắc cũng đã mệt lắm, mau về nghỉ đi!”

Băng Nhi, Thanh Nhi thường ở bên Liễu Dật, hiểu rõ tính khí của y, bèn thấp mình thưa: “Vâng, công tử!” rồi hai ả từ từ lui ra.

Liễu Dật rót một chén rượu nhỏ, gắp một miếng thức ăn, tiếp tục khoan thai dùng bữa, nhưng vừa ăn được mấy miếng, y đã nhận thấy có gì lạ lùng. Gã Thập Kiệt Nhất này, ngày thường vốn tham ăn tục uống lắm cơ mà, sao hôm nay không đụng đũa, lại đang trầm ngâm cái gì kia?

Liễu Dật hỏi: “Thập Nhất, đang nghĩ gì thế? Có phải tại rượu ít quá không, tối mình lại uống nữa nhé!”

Thập Kiệt Nhất nhìn Liễu Dật, lắc lắc đầu: “Không phải rượu đâu lão đại, là A Cửu!”

“A Cửu? A Cửu? Có phải cô nương đòi ta vẽ tranh đó không?” Liễu Dật sực nhớ.

Thập Kiệt Nhất vội vàng gật đầu: “Đúng, là nàng ấy. Lão đại, nàng ấy đẹp quá phải không?”

Liễu Dật đặt chén rượu xuống, đứng dậy, đi quanh Thập Kiệt Nhất một vòng, hỏi: “Tiểu tử, nữ nhân xinh đẹp trong thiên hạ này rất là nhiều, ngươi hỏi ta như vậy làm gì? Có phải... nói mau, ngươi đang mưu đồ gì?”

Thập Kiệt Nhất vốn tính thật thà, làm sao mà chịu được Liễu Dật nghi ngờ, vội vàng đứng ngay dậy, lao lại bên Liễu Dật: “Lão đại, đệ muốn, đệ muốn... kết giao bằng hữu với nàng ấy!”

Liễu Dật mở chiếc quạt gấp, suy nghĩ một hồi rồi nói: “Ta quên mất A Cửu đó trông như thế nào rồi! Lúc nãy không chú ý nhìn, ngươi nếu thích thì đi theo họ đi!”

Thập Kiệt Nhất tỏ vẻ lúng túng: “Lão đại, lão đại, còn không hiểu đệ ư, huynh bảo đệ đánh người còn được... chứ đệ vừa trông thấy A Cửu đã tâm hoảng ý loạn, không thể nói năng gì được nữa!”

Đúng lúc hai người đang nói chuyện, một gia nhân thấp bé chạy vào. Gã này vì thân hình vừa gầy vừa nhỏ nên Liễu Dật gọi là A Thử; nhưng đừng có xem thường A Thử, gã là tai mắt mà Liễu Dật lén gài vào bên cạnh Liễu Mục Tịch. Có A Thử, Liễu Dật bớt được bao nhiêu phen bị đánh mắng.

Liễu Dật thấy A Thử vào, biết chắc là có chuyện, chứ bình thường thì tiểu tử này không bao giờ khinh suất chạy tới hậu hoa viên.

Quả nhiên, A Thử chạy tới trước mặt Liễu Dật: “Tiểu công tử, xảy ra chuyện lớn rồi, cô nương tên gọi A Cửu đó đang nói chuyện với lão gia!”

Liễu Dật xua quạt: “Chuyện đó mà lớn gì, nói chuyện thì nói chuyện chứ!”

A Thử vội giải thích: “Không phải, A Cửu đó có hoàng kim, lại có châu bảo, lại có mỹ nữ, nói là mời công tử vẽ một bức họa, bây giờ đang đàm phán với lão gia.”

Liễu Dật nghe xong kêu lớn: “Cái gì, í... tiểu nha đầu, sao lại đi tìm cha ta. Thế coi sao được!” rồi y xoay mình chạy tới đại sảnh.

Đương nhiên, nếu Liễu Mục Tịch muốn Liễu Dật vẽ tranh, Liễu Dật nhất định phải vẽ, nhưng Liễu Mục Tịch căn bản không biết tiểu nha đầu này đòi y vẽ “Long Phụng Trình Tường Đồ”, nếu cha đã nhận lời, thì không thể không vẽ, nhưng vẽ thì lại phạm tội khi quân.

Còn chưa đến đại sảnh, Liễu Dật đã nghe thấy giọng A Cửu: “Liễu lão gia, ta nghĩ ông cũng nên biết giá trị của những châu báu này, nói là có giá trị liên thành kể cũng không phải là quá. Châu báu này thừa sức mua được mười tòa Liễu phủ, chỉ cần ông nhận lời bảo quý công tử vẽ một bức họa, những châu báu này sẽ thuộc về ông!”

Rất lâu không thấy Liễu Mục Tịch lên tiếng. Liễu Dật ẩn mình sau cây cột đại sảnh, cho dù không quan sát được, y cũng biết cha đang ngắm nghía những món châu bảo kia, cha là một người làm ăn, thấy nhiều thứ quý như vậy, không động tâm mới là lạ.

Cuối cùng, y nghe thấy cha ngồi trở lại ghế, nói: “A Cửu cô nương, những món châu báu này quý thật đó, ta thừa nhận, toàn bộ Liễu phủ cũng không bằng một phần mười.”

A Cửu mỉm cười: “Chỉ cần một câu của Liễu lão gia, những châu bảo này sẽ thuộc về ông hết.”

Lại nghe Liễu Mục Tịch phá lên cười sảng khoái: “Quân tử ái tài, thủ chi hữu đạo (12) . Huồng hồ cô lại muốn tranh vẽ của con ta, điều này kẻ làm cha như ta thật không có quyền bắt ép.”

A Cửu nghe xong, ngữ khí tựa hồ có chút không vui: “Liễu lão gia, ông nên nghĩ cho kỹ càng, nếu ông nhận lời, những châu báu này là của ông. Ta cho rằng ông mà nhận lời, quý công tử vẽ hay không chỉ là chuyện sớm muộn.”

Liễu Mục Tịch lắc lắc đầu: “Xem ra phải mời A Cửu cô nương hồi gia, hoặc là tìm Dật nhi đến nói chuyện. Việc này ta không làm chủ được, Dật nhi đã lớn rồi, để nó tự quyết định thôi!”

A Cửu đứng lên khỏi chỗ ngồi: “Liễu lão gia quả thực là không thích tài bảo rồi. Vậy thì, Liễu lão gia xem có đánh giá được vật phẩm này không?” Nói đoạn, nàng móc từ trong bọc ra một mảnh ngọc bạch sắc.

Chỉ thấy trên mảnh ngọc chạm hai con bàn long, tinh tế sinh động, trông y như thật. Một vật phẩm như vậy, thiên hạ rộng lớn thế này, người không đánh giá được nó chắc có rất nhiều. Nhưng Liễu Mục Tịch thì biết, lão vội đứng lên, xem xét một hồi rồi cúi mình nói: “Ồ, chẳng hay A Cửu cô nương và miếng ngọc này có uyên nguyên thế nào?” Trong giọng nói đã thêm mấy phần cung kính.

A Cửu thu lại mảnh ngọc, quay mình trở về chỗ ngồi: “Giờ thì, Liễu lão gia có vui lòng thâu nhận những châu bảo này không? Phải nghĩ cho kỹ, đừng làm gì để sau hối hận, Liễu lão gia ạ!”

Liễu Mục Tịch toát mồ hôi trán, không ngờ sự việc lại phức tạp đến như vậy. Nếu nhận lời, liệu Dật nhi có chịu vẽ không? Nếu từ chối, toàn gia Liễu phủ có chịu nổi cái họa diệt môn không?

A Cửu cười cười, nét mặt thay đổi: “Liễu lão gia, bản cô nương không có nhiều thời gian đợi chờ. Nếu không mau trả lời, coi như Liễu lão gia đã khước từ. Ta cũng đành bẩm báo lại như vậy thôi!”

Nét mặt Liễu Mục Tịch trong một thoáng lộ ra vẻ giằng xé, nghe A Cửu hối, lão vội vàng đáp: “Việc này... A Cửu cô nương, xin... xin để lão phu nghĩ một lát!”

Đúng lúc ấy, một thanh âm dõng dạc vang lên: “Khỏi cần nghĩ nữa, thứ tranh cô ta muốn con không thể vẽ được!”

Đằng sau Thập Kiệt Nhất, Liễu Dật sải bước đi ra.

A Cửu đâu ngờ sự việc lại biến thành như vậy, Liễu Dật đột nhiên từ đâu chen vào, nàng đỏ mặt, giận dữ: “Ngươi... ngươi một mực chống đối bản cô nương phải không?”

Liễu Dật xua quạt: “Không dám, không dám! Quả thực tranh cô nương muốn vẽ, Liễu mỗ không vẽ được, ta nghĩ cô nên về đi!”

A Cửu càng giận: “Đồ chết bầm, ngươi lại dám ăn nói với ta như vậy, tên thư sinh vô lễ kia!”

Đúng lúc đó Liễu Mục Tịch xen vào: “Dật nhi, đừng hỗn, dẫu sao A Cửu cô nương cũng là khách mà!”

Liễu Dật đi đến bên A Cửu, ngắm bên trái, ngó bên phải, rồi lắc lắc đầu, cảm thán: “Ai ngờ con mắt Thập Nhất lại kém cỏi như vậy!”

A Cửu trừng lớn đôi mắt hạnh, giận dữ: “Ngươi nhìn cái gì, trên mặt bản cô nương có nhọ sao?”

Liễu Dật mở quạt, quay sang Liễu Mục Tịch, rồi lại nhìn A Cửu nói: “Mọi người đều không hiểu, hoặc giả có người hiểu mà làm vẻ hồ đồ, thế thì Liễu mỗ phải nói trắng ra thôi.”

Đoạn y phẩy quạt, tiếp: “Liễu mỗ ta không phải là cố ý chống đối A Cửu cô nương. Thêm nữa, huynh đệ của ta còn có ý kết giao với cô. Nếu có thể giúp được, ta nhất định giúp, nhưng tranh mà cô yêu cầu, ta không vẽ được, nếu ta vẽ, là phạm tội khi quân.”

Vừa nghe thấy câu đó, tất thảy đều sững người, Liễu Mục Tịch kinh nghi hỏi: “Dật nhi, nói vậy là thế nào?”

Liễu Dật nhìn sang: “Cha, cha biết A Cửu cô nương bảo con vẽ gì không? Vẽ Long Phụng Trình Tường Đồ, là bức họa mấy năm trước con đem dâng lên hoàng thượng ấy. Giờ cô ta muốn con vẽ lại, nếu con vẽ thật, thì Liễu phủ chúng ta, từ trên xuống dưới chẳng còn mạng nào sống sót được nữa rồi.”

Liễu Mục Tịch nghe vậy, kinh hãi thốt lên: “Ối!” Lão cảm thấy sự việc này thật kỳ quái, miếng ngọc ban nãy A Cửu đưa ra, rõ ràng là “Bàn Long Ngọc” tượng trưng cho thân phận, chỉ người trong hoàng gia mới có, bây giờ lại đòi vẽ một bức họa của hoàng gia, rốt cục là chuyện gì đây.

Nét mặt Liễu Mục Tịch đầy vẻ ngạc nhiên, còn khuôn mặt A Cửu thì hết sức điềm tĩnh, nàng lạnh lùng nói: “Được lắm, Liễu Dật, châu báu liên thành của ta đưa ra mời ngươi vẽ, ngươi lại khước từ. Hãy đợi đấy! Chúng ta đi thôi!” Đoạn nàng khoát tay, dẫn các a hoàn và mỹ nữ rời khỏi Liễu phủ.

Thấy A Cửu đùng đùng tức giận bỏ đi, khuôn mặt Liễu Mục Tịch càng thêm nhăn nhó: “Xem ra Liễu phủ không yên rồi. Dật nhi, A Cửu cô nương mà con vừa đắc tội đấy, nhất định có quan hệ với đương kim hoàng thượng. Cô ta vừa đưa cho cha xem Bàn Long Ngọc, vật mà phải là người được hoàng thượng sủng ái mới có được.”

Liễu Dật nghe dứt, ngạc nhiên: “Cha, cha nói gì vậy? Tiểu nha đầu đó có Bàn Long Ngọc? Không phải của giả chứ? Nếu quả thực có quan hệ với hoàng thượng, việc gì phải vẽ một bức mà hoàng thượng đã có, lẽ nào tự mình không muốn sống nữa?”

Liễu Mục Tịch lắc đầu: “Cái này cha cũng nghĩ mãi không thông. Xem ra sự việc trở nên phức tạp rồi, chúng ta đi bước nào hay bước đó thôi, hoàng đế và A Cửu đều đừng nên trêu vào...”

Liễu Dật nghe lời cha nói, biết lão đang lo lắng sự việc gây bất lợi cho gia đình mình: “Cha, yên tâm đi, quân đến sẽ có tướng ngăn, A Cửu đến sẽ có Liễu Dật chặn. Không để cô ta làm những việc bất trắc cho Liễu phủ!”

Liễu Mục Tịch ngắm Liễu Dật, gật gật đầu: “Việc này cũng đành xem con xử sự thế nào thôi. Con lui ra đi, cha phải yên tĩnh một lát, ngẫm nghĩ cho rõ ràng rốt ráo mọi sự! ”

Liễu Dật ứng tiếng, gật đầu: “Vâng, thưa cha!” rồi y cùng Thập Kiệt Nhất quay lại, trở về hậu hoa viên...

------------------------------------------------

(12) Quân tử ái tài, thủ chi hữu đạo: Người quân tử mà thích của cải thì phải kiếm nó bằng cách hợp đạo lý.

-oOo-

Hồi 5: Dạ sấm Liễu phủ, Thập Nhất hiển thân thủ

( Nửa đêm dạ khách xông vào, Liễu phủ Thập Nhất anh hào ra oai )

Trên đời, chỉ có thời gian là không hề thay đổi vì bất cứ ai, vì bất cứ việc gì.

Nhưng chính thời gian lại có thể thay đổi được rất nhiều việc, thậm chí có thể thay đổi tất cả.

(Cổ Long - Luận)

Nghe Thập Kiệt Nhất càu nhàu suốt buổi tối, Liễu Dật chỉ lặng lẽ uống rượu, lòng miên man một câu hỏi: “A Cửu này là ai, sao lại có được Bàn Long Ngọc? Thật bí ẩn quá!”

Trăng lặn sao mờ, ngắm sắc trời đã không còn sớm sủa nữa. Liễu Dật nhìn sang Thập Kiệt Nhất, có lẽ y uống đã đủ rồi, miệng vẫn không ngừng làu nhàu, ôi... hỏi thế gian tình là gì... Quả thực Thập Kiệt Nhất đang trách y đã đuổi A Cửu, không cho gã cơ hội để nói chuyện.

Y vỗ vỗ vai Thập Kiệt Nhất: “Đi đi, về ngủ đi, muộn quá rồi, đừng ở đây làu nhàu nữa, sau này nhất định sẽ có cơ hội!”

Thập Kiệt Nhất mở to cặp mắt say mông lung, nhìn Liễu Dật, lắc lư người đứng lên: “Cái này, là huynh nói đấy nhé. Lần... lần sau, nhất định phải cho đệ cơ hội nói chuyện đấy!”

Liễu Dật đúng là hết cách với gã ngốc này. Y xoay mình đi về hướng phòng riêng, vừa đi vừa bảo: “Ta cho đệ cơ hội nói chuyện ư? Chẳng biết A Cửu đó có chịu không nữa!”

Vừa đẩy cửa ra, Thập Kiệt Nhất đã len vào phòng, kêu hừ hừ, đổ vật ra cái giường hẹp ngủ liền.

Thắp ngọn lạp chúc lên, Liễu Dật lắc lắc đầu, cảm thán: “Vô tư lự hiếm thấy, nếu có thể giống như Thập Kiệt Nhất này, mỗi ngày chỉ biết nốc rượu, thì tự tại biết là chừng nào!”

Vừa lẩm bẩm, y vừa dùng hết sức đẩy Thập Kiệt Nhất dịch về một bên giường, rồi cũng ngả mình xuống.

Liễu Dật vừa định thổi tắt nến, Thập Kiệt Nhất đột nhiên mở miệng: “Lão đại, A Cửu cô nương là người ở đâu, sau này có thể gặp lại không?”

Liễu Dật giật bắn mình “Mẹ ơi! Thập Nhất, đệ làm người ta sợ chết khiếp!”

Thập Kiệt Nhất mở to mắt, nhưng không phải là đôi mắt say sưa, mà là một đôi mắt lấp lánh tinh quang và có thần. Đương nhiên Liễu Dật không nhận ra đó là đôi mắt mà hạng cao thủ giang hồ mới có.

Thập Kiệt Nhất xoay mình, đối diện với Liễu Dật: “Xin lỗi lão đại, đệ chỉ hỏi thế thôi. E rằng sau này không gặp lại được A Cửu cô nương nữa.”

Liễu Dật vừa bị giật mình, giờ còn tâm trí nào đi trả lời câu hỏi của gã nữa, miễn cưỡng đáp: “Thôi nào, thôi nào, thế giới nhỏ như vậy, đệ chắc chắn sẽ gặp lại cô ta mà.”

Đúng vào lúc Thập Kiệt Nhất đang định truy vấn, đột nhiên Liễu Dật thấy gã hét lên: “Là kẻ nào?” rồi cùng lúc, gã lăng mình ra ngoài cửa, động tác thật là nhanh.

Liễu Dật tuy không biết đã xảy ra sự gì, nhưng nghe thấy tiếng hét của Thập Kiệt Nhất, đoán rằng có kẻ đến viếng thăm. Trước đây những việc như vậy đã từng phát sinh rồi, nhưng đám khách đó sau khi ăn nắm đấm của Thập Kiệt Nhất, đều đã tản mát cả, không ngờ hôm nay lại có người đến nữa. Liễu Dật vội xỏ giày, vì y biết, theo sát gã ngốc là sự lựa chọn tốt nhất.

Trăng soi hiển nhiên không đủ sáng, nhưng cũng có thể lờ mờ thấy trước mặt Thập Kiệt Nhất có hai người. Họ đều mặc đồ dạ hành bó sát thân, tay cầm trường kiếm, qua bộ đồ bó sát, có thể khẳng định rằng, đó là hai nữ nhân.

Thập Kiệt Nhất lúc này tỉnh táo như chưa hề uống rượu, gã giơ tay phải lên, trỏ vào hai người, lớn giọng hỏi: “Đêm khuya đến đây, làm ra cái bộ dạng như vậy, không biết hai vị có dụng ý gì?”

Lúc này Thập Kiệt Nhất trở nên vô cùng linh mẫn. Mỗi khi sắp động thủ, và chỉ khi động thủ, Thập Kiệt Nhất mới linh mẫn, và hung hãn nữa.

Một trong hai hắc y nữ nhân nén họng, trả lời với giọng thật thấp thật trầm: “Dụng ý à, đương nhiên là nhắm vào kẻ sau lưng ngươi!” Rõ ràng ả ta đang cố ý che giấu thanh âm thật của mình.

Thập Kiệt Nhất phá lên cười: “Con nha đầu vô tri, hãy quá chưởng với ta rồi nói sau!” Lời vừa dứt, người đã xông đến trước mặt hai nữ nhân nọ, chưởng nặng giáng xuống họ, trong chưởng ẩn chứa nội công thượng thừa. Hai nữ nhân đâu ngờ bên cạnh Liễu Dật lại có một chiến thần như thế này. Gã thật dũng mãnh, nói đánh là đánh, tốc độ kinh nhân, mà sức mạnh lại càng kinh nhân hơn. Trong lúc hoang mang, nữ tử vừa lên tiếng đành vội lắc mình sang bên, hòng tránh khỏi một quyền của Thập Kiệt Nhất.

Nhưng Thập Kiệt Nhất đâu phải là một tên mãng phu bình thường. Trọng quyền bọc giữa một màn Tiên Thiên chân khí lạ lùng, giáng thẳng vào bả vai nữ tử vừa cất tiếng, chỉ có điều chạm hơi nhẹ. Hắc y nữ tử tránh qua rồi, vội vàng dùng tay phải ấn lên vai trái. Ðau quá, quyền phong của Thập Kiệt Nhất như đập nứt cả xương vai của ả.

Chỉ bằng một quyền, Thập Kiệt Nhất đã tách riêng hai nữ nhân, rồi lại đả thương một người, gã liền phá lên cười: “Tẻ nhạt quá, có vài miếng thế mà cũng đi học kẻ khác rình rình mò mò sao?”

Đúng lúc ấy, sau lưng gã, giọng thanh tao của nữ nhân còn lại vang lên: “Dám đả thương tiểu thư nhà ta, hãy đón trường kiếm đây!”

Cứ xem tốc độ, Thập Kiệt Nhất cũng nhận thấy, người tự xưng là nha hoàn đằng sau lưng gã hiển nhiên còn lợi hại hơn tiểu thư kia nhiều, nhưng gã tài cao mật lớn, đời nào thèm bận tâm đến ả ta.

Gã khẽ xoay mình, hữu thủ bọc trong Tiên Thiên chân khí như cái kềm sắt nắm cứng lấy trường kiếm trên tay nữ tử nọ, khiến trường kiếm của ả không thể tiến lại gần gã dù chỉ một phân.

Đúng vào lúc Thập Kiệt Nhất đang đắc ý, đột nhiên lại nghe thấy sau lưng có tiếng nói. Không phải, tiếng nói ấy không nhằm về phía gã, mà là... hướng về phía lão đại. Gã ngoái lại, thì thấy nữ tử ban nãy thọ thương đang xông về phía Liễu Dật.

Thập Kiệt Nhất tức giận, hữu thủ dụng lực chấn gãy thanh kiếm, rồi khua tả chưởng lên, đánh bật hắc y nữ tử trước mặt văng xa đến một trượng. Lúc hất ả đi, Thập Kiệt Nhất chỉ là tiện tay, chứ chưa hề dùng lực.

Rồi gã vội vàng tung mình lên, dùng tốc độ nhanh nhất đuổi theo hắc y nữ tử đang lao về phía Liễu Dật. Trong lúc gấp gáp, Thập Kiệt Nhất cũng không sử chiêu thức, chỉ chăm chăm tư thế như mãnh hổ vồ mồi, mong chặn được hắc y nữ tử nọ.

Vừa đúng lúc hắc y nữ tử nghe thấy tiếng động sau lưng, bèn quay đầu lại nhìn, không cẩn thận liền va luôn phải Thập Kiệt Nhất đang lao tới. Thập Kiệt Nhất nào ngờ còn có kẻ ngốc nghếch hơn cả mình, đang chạy giữa đường tự nhiên dừng lại, nhưng gã không kịp trụ vững thân hình nữa. “Sầm” một tiếng, thân thể to nặng của Thập Kiệt Nhất ngã đè luôn lên thân hình nữ tử mặc bộ đồ bó sát.

Liễu Dật đứng trông, hai nữ thích khách, một người bay ra xa bất tỉnh, một người bị Thập Kiệt Nhất đè lên, y cảm thấy buồn cười bèn lấy quạt ra quạt, miệng la: “Thảm quá, thảm quá...!”

Thập Kiệt Nhất không có ý muốn nhỏm dậy, sợ nhỏm dậy xong, nữ tử này lại lao đến Liễu Dật, gã nhìn lên: “Lão đại, đệ đã khống chế được hai ả này rồi, huynh muốn làm sao đây?”

Nữ tử bên dưới đời nào chịu để một gã đàn ông bự con như vậy đè lên người mình, tay phải ả huơ trường kiếm, định đâm Thập Kiệt Nhất. Nhưng ả tuy nhanh, mà Thập Kiệt Nhất còn nhanh hơn, gã thò tay trái ra, nắm cứng lấy cổ tay cô nàng, “canh canh” một tiếng, trường kiếm rơi xuống, tay phải của nữ tử nọ bị tay trái của Thập Kiệt Nhất ấn lên.

Nơi đâu có áp bức, nơi đó có phản kháng, nhưng nơi đâu phản kháng ghê gớm, áp bức nơi ấy lại càng ghê gớm hơn.

Tay trái, rồi hai chân của nữ tử đồng thời xuất động, toan đẩy gã đàn ông trên người mình xuống, nhưng Thập Kiệt Nhất cũng dùng biện pháp thủ công y hệt, tay phải của gã, rồi hai chân, đè nghiến lên tay trái và hai chân của nữ tử. Cứ như vậy, tư thế trông không nhã quan một chút nào.

Liễu Dật vừa phẩy quạt, vừa nhìn Thập Kiệt Nhất, lắc đầu nói: “Chậc chậc... được, Thập Nhất, xem ra trong bao nhiêu kỳ công của đệ, chiêu này là thực dụng nhất, đẹp mắt nhất, không biết... gọi là gì? Cũng là do sư phụ đệ truyền cho phải không?”

Thập Kiệt Nhất nghe Liễu Dật tán thưởng mình, vội vã ngẩng đầu dậy, cười hắc hắc mà rằng: “Lão đại, đây không phải là chiêu sư phụ dạy đâu, là đệ tự phát minh, đặt tên gì nhỉ? Đệ chưa nghĩ ra!” Nói đoạn nét mặt gã lộ vẻ hết sức đắc ý.

Liễu Dật ngồi xổm xuống, đập quạt lên đầu Thập Kiệt Nhất: “Đệ ngốc thật hay ngốc giả hả, phí sức như vậy làm gì? Điểm huyệt ả ta chẳng phải là tiện hơn sao?”

Thập Kiệt Nhất nghe xong, gật đầu hoài: “Có lý, sao đệ lại không nghĩ ra?”

Liễu Dật lắc đầu, đứng dậy: “Đơn giản lắm, vì đệ là Thập Kiệt Nhất, ta là Liễu Dật. Đệ mà nghĩ ra mới là lạ đó!”

Ngừng một lát, y tiếp: “Gỡ mạng che mặt của ả xuống, để ta xem xem thần tiên phương nào lại đến làm phiền Liễu Dật ta!”

Nhưng Liễu Dật không chú ý đến vẻ mặt Thập Kiệt Nhất. Bây giờ tứ chi gã đều áp lên tứ chi đối phương, chỉ cần động đậy thân mình, đối phương cũng động đậy được,không chừng đến lúc đó lại bị ả điểm huyệt trước. Thập Kiệt Nhất lộ vẻ khổ sở nói: “Lão đại, đệ không cử động được, huynh tự lại gỡ mạng che của ả ra!”

Liễu Dật sốt ruột kêu: “Đệ còn miệng động đậy được mà? Dùng miệng...”

Lời vừa nói ra, hắc y nữ tử biết Liễu Dật bắt đầu xử mình, mà gã ngốc đại nằm trên lại nghe lời y quá, y nói gì, gã nhất định làm nấy, trong lúc cấp bách, ả hét toáng lên: “Vô sỉ, hạ lưu, hổ cho cái danh Giang Nam thư sinh! ”

Liễu Dật nghe xong, không giận mà lại cười: “Tiểu nha đầu, Giang Nam thư sinh chẳng phải là ta tự xưng, mà là người đời tặng cho ta, nhé! Ta thật chẳng cần gì cái danh đó, huống hồ ta vốn không phải người tốt. Lẽ nào đến Giang Nam này rồi, mà chưa nghe kể về ta ư?”

Đoạn đổi giọng: “Thập Nhất, gỡ mạng che mặt của ả ra cho ta, bản công tử phải xem xem là nhân vật cỡ nào, lại dám bảo ta vô sỉ, hạ lưu. Quân đạo tặc mà còn nói lý... phản rồi, phản rồi! ”

Thập Kiệt Nhất thật cũng rất nghe lời. Thực ra cũng là do sư phụ dạy bảo gã, từ nhỏ đã biết phục tùng Liễu Dật, đi theo Liễu Dật, bảo vệ Liễu Dật. Thập Kiệt Nhất cũng là một người trung thực, nhiều năm nay vẫn một mực nghe lời sư phụ, đảm bảo an toàn cho Liễu Dật.

Thập Kiệt Nhất nhìn nữ nhân nằm bên dưới mình, nói: “Cô nương, đừng trách ta nhé, lão đại bảo ta làm vậy... Hơn nữa giờ ta chỉ còn cái mồm này là động đậy được thôi!” Nói đoạn, quả thực gã dùng miệng ngoạm lấy tấm mạng che mặt của nữ tử.

Nếu sư phụ Thập Kiệt Nhất mà biết mình có một tên đồ đệ thế này, chắc cũng tức đến thất khiếu bốc khói.

Nữ tử muốn hét, muốn chửi, nhưng không biết phải nói năng làm sao. Tên xú nam nhân này đang nằm phục trên người mình, muốn lấy mạng che của mình, bây giờ ả chỉ có cách ngoảnh đầu sang một bên.

“Lão đại, là... là...” Thập Kiệt Nhất kinh ngạc không nói nên lời.

Liễu Dật sốt ruột quay lại: “Là, là, là cái gì, đệ nói đi... Ô, thì ra là A Cửu cô nương, ta lại tưởng ai to gan quá đi mất. Muộn thế này rồi, A Cửu cô nương đến tìm tại hạ có việc gì?”

Thập Kiệt Nhất nhận ra phía dưới là thánh nữ của mình, muốn nói gì đó mà không sao mở miệng được. Rồi đột nhiên cảm thấy nằm đè lên nàng như thế này thật không hay, gã bèn vội vàng nhổm dậy, cũng không dám điểm huyệt, lắp bắp: “A Cửu... Cửu... Cửu cô nương. Thật... thật xấu hổ quá! Ta... ta không biết... là cô!” Gã vội vã tha thiết xin lỗi mãi.

Lại nói A Cửu đứng dậy được rồi, cũng không buồn phủi bụi đất bám trên mình, chỉ giơ tay phải bưng lấy vai trái, xem ra rất đau đớn, nét mặt nhợt nhạt.

A Cửu đứng dậy, không màng đến Thập Kiệt Nhất, chỉ quay sang nói với Liễu Dật: “Được lắm, Liễu đại tài tử, ngươi còn giở trò mèo khóc chuột, ngươi lợi hại lắm, chẳng phải chỉ vì một bức họa sao? Bản cô nương không cần vẽ nữa!” Nói đoạn nàng xoay mình đi về phía a hoàn, nhưng thân hình lắc lư lảo đảo, có lẽ ban nãy Thập Kiệt Nhất giáng quyền mạnh quá, khiến nàng chịu không nổi.

Thập Kiệt Nhất bèn ai oán kêu: “Lão đại, huynh đi hỏi cho rõ ràng đi, xem có thể giúp được nàng thì giúp... coi như giúp Thập Nhất đệ đây, được không?”

Liễu Dật ngắm Thập Kiệt Nhất, biết nếu nói không, gã ngốc tiểu tử này dám trách móc mình suốt cả cuộc đời. Y lắc đầu than: “Đúng là hết cách rồi, ta về hậu hoa viên, ở đó đợi cô nàng, đệ đi gặp nàng nói chuyện đi... ”

-oOo-

Hồi 6: A Cửu thiết chuỷ, hí sọa đại tài tử

( Miệng mồm A Cửu trơn tru, Cợt đùa tài tử phong lưu một hồi )

Những luồng âm luật tuyệt mỹ nhất trong đời người, tại sao lại luôn luôn ngắn ngủi?

(Cổ Long - Luận)

Tầm tầm mịch mịch, lãnh lãnh thanh thanh, thê thê thảm thảm thích thích

Sạ noãn hoàn hàn thời hậu, tối nan tương tức

Tam bôi lưỡng trản đạm tửu, chẩm địch tha, vãn lai phong cấp?

Yến quá dã, chính thương tâm, khước thị cựu thì tương thức

Đọc xong một đoạn, Liễu Dật nhẹ nhàng ngồi xuống, rót cho mình chén rượu. .

Mãn địa hoàng hoa đôi tích, tiều tuỵ tổn, như kim hữu thuỳ kham trích?

Thủ chước song nhi, độc tự chẩm sinh đắc hắc?

Ngô đồng cánh khiêm tế vũ, đáo hoàng hôn, điểm điểm tích tích.

Giá thứ đệ, chẩm nhất cá sầu tự liễu đắc? (13)

Một thanh âm ai sầu mà cảm động vang lên sau lưng y, đọc nốt đoạn còn lại của bài từ.

Chẳng cần ngoái đầu, Liễu Dật cũng biết người đó là A Cửu...

Không sai, nữ tử đó chính là A Cửu, theo sát nàng là tên hộ hoa sứ giả Thập Kiệt Nhất. A Cửu không đợi được mời, nàng ngồi xuống buồn buồn nói: “Không ngờ Liễu công tử cũng thích bài Thanh Thanh Mạn này!”

Liễu Dật thủng thẳng uống rượu trong chén: “Thích gì đâu, chỉ là ngẫu nhiên đọc ra mà thôi!”

A Cửu dùng ánh mắt đánh giá quan sát Liễu Dật. Tuy đã vào Liễu phủ mấy lần, nhưng nàng chưa từng nhìn kỹ y, đến nỗi trong ấn tượng của nàng, Liễu Dật chỉ tồn tại với cái danh là một tài tử, chứ không biết tướng mạo của tài tử ấy thế nào.

Dưới ánh nến mờ mờ trong hoa viên, Liễu Dật hiện lên với đôi mày kiếm xếch, hiên ngang anh tuấn, đôi mắt tròn có thần, sâu thẳm và mơ màng, sống mũi cao thẳng, khuôn mặt gần như đạt đến sự hoàn mỹ, khiến người ta cảm thấy bên trong khí chất thư sinh còn ẩn chứa một cái gì đó, nhưng không diễn tả được, y vận trường bào rộng màu xám, dáng điệu thoải mái, vô câu vô thúc.

Tựa hồ đang hân thưởng một tác phẩm nghệ thuật, A Cửu ngồi im một chỗ không động đậy. Liễu Dật gọi mấy tiếng liền nàng mới có phản ứng, y bèn dùng đúng câu của nàng hỏi: “A Cửu cô nương, trên mặt Liễu mỗ có nhọ chăng?”

Cảm thấy mình hơi thất lễ, A Cửu đỏ mặt, cũng may nhờ ánh nến mờ mờ che giấu bớt, nếu không nàng sẽ bối rối đến mức muốn chui xuống đất cho rồi.

Nàng vội lắc đầu đáp: “Không, không nhọ!”

Liễu Dật phe phẩy quạt, ung dung cầm chung rượu trên bàn lên, uống một hớp: “Nói về bức họa đi nào... Ta vốn duy trì thái độ phản đối với chuyện này, nhưng mà... Thập Nhất bắt ta phải hỏi cho rõ.”

A Cửu nghe rồi vội nói: “Thực ra... sự việc là như vầy. Một bằng hữu ở xa, với ta có mối sinh tử chi giao, y bình thường thích nhất là thư họa, nói rằng mê say cũng không phải là quá. Nhưng thiên mệnh bất trắc, bằng hữu đó không biết vì sao lại mắc một thứ quái bệnh, xem ra cũng không kéo dài được lâu. Y cầu xin ta một chuyện, bình sinh người y kính trọng nhất là Liễu công tử, hi vọng lúc lâm tử được xem Long Phụng Trình Tường Đồ. Vì vậy ta mới năm lần bảy lượt đến làm phiền quý phủ. ”

Thập Kiệt Nhất là một người thật thà, vừa nghe kể đã rơi lệ, thương cảm nói: “Lão đại, đệ đã bảo mà! A Cửu cô nương nhất định là có nỗi khổ riêng, nếu không cũng chẳng kiên trì tìm đến huynh như vậy.”

Nhưng Liễu Dật chẳng hề xúc động, y nhìn điệu bộ tức cười của Thập Kiệt Nhất, rồi lại nhìn cặp mắt hoảng hốt của A Cửu: “Ố? Là như vậy đấy? Thế A Cửu cô nương có biết bức Long Phụng Trình Tường Đồ đó quan hệ lớn thế nào không?”

A Cửu tựa hồ ngại nhìn thẳng vào ánh mắt Liễu Dật, nàng vội vã quay đầu đi: “Cái này... A Cửu đương nhiên biết, có điều, việc mà bằng hữu phó thác, A Cửu cho dù thịt nát xương tan cũng phải làm. Liễu công tử chắc cũng hiểu giá trị của tri kỷ trong đời người ta?”

Thập Kiệt Nhất không biết là muốn làm cho A Cửu vui, hay quả thực bị xúc động vì câu chuyện của nàng, gã sôi nổi nói: “Tốt lắm, có nghĩa khí, không ngờ A Cửu cô nương còn là một người trọng tình cảm đến như vậy.”

A Cửu ôm quyền đáp: “Thập Nhất đại ca quá khen rồi!”

Nghe câu trả lời của A Cửu, Thập Kiệt Nhất tràn trề vui sướng.

Liễu Dật vẫn chẳng tỏ vẻ gì. Bức họa quan hệ quá lớn, y không thể chỉ vì nghe vài câu nói mà đi vẽ cho một người lạ. Y lại uống một hớp nữa cho cạn chung rượu, rồi nói: “Bức họa đó là của hoàng thượng, nếu ta lại vẽ cho cô, tức là ta đã phạm tội khi quân, điều đó quan hệ đến sự sống còn của toàn gia Liễu phủ. Không biết A Cửu cô nương đã từng nghĩ qua cho nhà ta chưa?”

A Cửu tựa hồ đang suy tính, cuối cùng nàng nói: “Đương nhiên. Điều này Liễu công tử không cần lo lắng, bằng hữu của ta chỉ cần trông thấy tranh của Liễu công tử, chứ không hề có ý thu lưu. Vì vậy, sau khi y xem xong rồi, chúng ta sẽ huỷ bức họa đi. Vậy thì, Long Phụng Trình Tường Đồ chẳng phải là vẫn còn nguyên một bức sao?”

Thập Kiệt Nhất lắng nghe, rồi cười hắc hắc mà rằng: “Đúng là một ý hay, lão đại, huynh mau giúp A Cửu cô nương, đừng lo mấy cái tội khi quân đó nữa!”

Liễu Dật nhìn gã ngốc, chỉ muốn đá cho một cái, nhưng rồi cố trấn áp cơn nộ hỏa, y lại quay sang A Cửu: “A Cửu cô nương, những lời phiến diện như thế, bảo Liễu mỗ làm sao tin được? Ta không thể vì một câu nói của cô nương mà đùa cợt với sinh mệnh của hơn một ngàn người trong Liễu phủ.”

A Cửu tỏ vẻ trầm ngâm, rất lâu nàng không lên tiếng, rồi mập mờ nói: “Vậy... vậy...”

Liễu Dật uống một hớp rượu, tiếp: “Nếu A Cửu cô nương không nghĩ ra được lý do nào có tính thuyết phục hơn, e rằng Liễu mỗ quả thực hữu tâm vô lực rồi!”

Đột nhiên, A Cửu nói: “Thế này, Liễu công tử, ta có thể đem những châu bảo, mỹ nữ đặt ở đây, đổi lấy thời hạn bảy ngày. Chỉ cần người bạn đó của ta trông thấy bức họa, ta sẽ lập tức mang nó trở về, hủy ngay trong Liễu phủ.”

Liễu Dật suy nghĩ, nữ tử này muốn dùng tiền tài chỉ để đổi lấy thời gian bảy ngày, có lẽ là thật cũng chưa biết chừng. Sau đó hủy bức họa đi, chắc không xảy ra việc gì.

Thập Kiệt Nhất căn bản chẳng hề cân nhắc, lại vội vàng: “Lão đại, A Cửu cô nương dùng bao nhiêu kim ngân tài vật như thế để đổi lấy thời gian bảy ngày, việc này huynh nên tin đi!”

Liễu Dật nhìn Thập Kiệt Nhất, rồi lại nhìn A Cửu: “Hừ, lý do này cũng có thể chấp nhận được. Vậy thì, A Cửu cô nương, ngày mai mang đồ bảo đảm đến đây, thời hạn là bảy ngày.”

A Cửu vội vã gật đầu: “Đa tạ Liễu công tử!” Đoạn nàng lấy vẻ cảm động: “Trời xanh có mắt, người bằng hữu đó của ta chết cũng yên lòng rồi!”

Nhưng ai mà biết A Cửu tinh quái kia thực ra đang nghĩ gì? Thật sâu trong lòng, cô nàng cười thầm: “Hừ! Ha ha, những vật bảo đảm đó chẳng qua là dùng để đổi lấy bức họa mà thôi! Ta nhận được tranh rồi, đừng nói bảy ngày, bảy năm nữa ngươi cũng đừng hòng tìm lại được ta! Thật uổng danh Liễu đại tài tử, chẳng phải là đã bại dưới cái miệng dẻo của A Cửu ta rồi sao, ha ha, ha ha!”

Liễu Dật thì, thông minh cả đời, hồ đồ phút chốc, đã quên bẵng rằng những tài bảo kia lúc đầu vốn được đưa ra để đổi lấy tranh, có giá trị bảo đảm gì đâu! Cũng tại A Cửu miệng lưỡi lợi hại, che mắt được Liễu Dật. Còn cái tên đứng trong hàng ngũ thập đại kiệt xuất thiếu niên kia, bụng chỉ chứa toàn cơm.

Liễu Dật nhìn vẻ cảm động của A Cửu, nói: “Việc này khỏi cám ơn ta, vì ta vốn cực lực phản đối. Hãy cám ơn Thập Nhất đại ca đang đứng bên cạnh cô kìa, gã đã nói hộ cô nhiều đấy!”

Cuối cùng, A Cửu cũng ngoảnh đầu lại nhìn thẳng vào Thập Kiệt Nhất. Sao cái gã này lại giống mấy tên chăn lợn ở nhà mình thế không biết? Người như vầy mà là một trong thập đại kiệt xuất thiếu niên ư? Nhưng vốn từng trải, nàng ôm quyền xúc động nói:

“Thập Nhất đại ca, A Cửu đa tạ huynh đã thành toàn cho, sau này có cơ hội A Cửu nhất định sẽ báo đáp.”

Thập Kiệt Nhất như được nghe lời khen đẹp nhất trần gian, vội vàng đáp lễ: “A Cửu cô nương, cô... cô quá lời rồi, nhọc công mở miệng!”

Lời vừa thốt ra, là khiến cả A Cửu và Liễu Dật cùng phá lên cười. Thập Nhất bình thường ở bên Liễu Dật, gần mực thì đen, gần đèn thì rạng, đôi khi cũng học được chút ít văn từ, nhưng chỉ lõm bõm, vì vậy gặp lúc bối rối, lại tùy tiện nói chữ. Lẽ ra phải nói “nhọc công khen ngợi”, thì lại quên bẵng chữ “khen ngợi”, trong lúc vội vàng lại sửa thành “mở miệng”, có điều gã vẫn thập phần bội phục phản ứng nhanh nhẹn của mình.

Liễu Dật uống hết chung rượu: “Cũng muộn rồi, mình về ngủ đi!”

A Cửu đứng dậy, cố nén cơn đau nhức nơi bả vai: “Vậy A Cửu xin cáo từ, sáng sớm mai gặp lại!” Đoạn nàng quay mình đi ra ngoài.

Thập Kiệt Nhất toan nói, nhưng không biết nên nói thế nào, Liễu Dật đã vịn vào gã: “Thôi nào, Thập Nhất, về ngủ đi! Còn A Cửu đó, ca ca đây sớm muộn gì cũng bảo cô ta về làm nương tử của đệ!”

Thập Kiệt Nhất nghe dứt, phấn khởi ôm cứng lấy Liễu Dật, la lên: “Lão đại, huynh tốt quá! Thập Nhất đời này sẽ mãi mãi theo huynh!” Ánh mắt gã phảng phất lộ vẻ kính ngưỡng.

Giãy giụa thoát khỏi đôi tay cứng như sắt của Thập Nhất, Liễu Dật đi vượt lên trước, lầm bầm: “Khào, hảo huynh đệ, để mua cho đệ một mỹ nữ vậy!”

Tuy là đùa, nhưng nghĩ đến Thập Kiệt Nhất bảo vệ mình đã bao nhiêu năm, cũng phải thừa nhận, nếu không có gã, mình chắc đã cát bụi trở về cát bụi từ lâu rồi. Xem ra danh nhân cũng có nỗi khổ của danh nhân.

Nhìn bóng hai người khuất dần, trong màn đêm đột nhiên vang lên một tiếng thở dài: “Vị Linh Phong, Vị Linh Phong, ta nhất định sẽ khiến huynh cầm kiếm trở lại!”

Nơi phát ra thanh âm đó, một cây cổ thụ trong hoa viên, đầu cành một dải liễu, đột nhiên hiện ra một trung niên vận bạch y, tuổi chừng tam thập, tay cầm thanh trường kiếm lam sắc. Hơi gió lay động, cành cây lắc lư, người đó chính là Lãnh Kiếm, kiếm giả tối cao trong tam giới một trăm năm về trước. Sau cái chết của Vị Linh Phong, y đột nhiên bặt tăm vô tung vô ảnh. Từ đó trở đi, kiếm giả tối cao của tam giới, niềm kiêu hãnh của Nhân tộc, đã trở thành một thần thoại...

-----------------------------------------------------

(13) Thanh Thanh Mạn. (Nguyễn Xuân Tảo dịch - Nguồn : thi viện Mai Hoa Trang)

Lần lần giở giở

Lạnh lạnh lùng lùng

Cảm cảm thương thương nhớ nhớ

Thời tiết ấm lên lại rét

Càng thêm khó ở

Rượu nhạt uống đôi ba chén

Không chống nổi chiều về gió dữ

Nhạn bay qua

Đang đau long

Lại đúng bạn quen biết cũ

Chồng chất hoa vàng khắp chỗ

Buồn bực nỗi

Giờ đây còn ai bẻ nữa

Đen kịt nhường kia

Một mình giữ bên cửa sổ

Cây ngô đồng gặp mưa bay

Buổi hoàng hôn thánh thót giọt nhỏ

Nối tiếp vậy

Ghê gớm sao, sầu kia một chữ.

Sau loạn Tĩnh Khang, Lý Thanh Chiếu gặp cảnh nước mất, nhà tan, chồng chết. Thời kỳ này, tác phẩm của bà không còn cái vị thanh tân như xưa, mà trở nên ưu tư, chủ yếu bộc lộ nỗi nhung nhớ vong phu Triệu Minh Thành và miêu tả tình cảnh cô đơn thê lương của mình. Thanh Thanh Mạn – Tầm Tầm Mịch Mịch chính là một trong những tác phẩm tiêu biểu điển hình trong thời kỳ này.

Câu mở đầu của bài từ này rất đặc biệt, dùng liên tiếp bảy lần điệp từ. Không chỉ trong lĩnh vực điền từ, dù là trong thi – phú – khúc cũng tuyệt không có. Nhưng nó còn chỗ độc đáo ở chỗ, bảy cụm điệp từ rất giàu nhạc tính. Tống từ là thể loại dùng để diễn xướng, vì vậy âm điệu nhiệp nhàng là một điều kiện cần thiết. Bảy cụm từ này đọc lên có cảm giác như nghe tiếng lanh canh khi rắc một nắm hạt châu xuống cái khay ngọc. Âm điệu ngân nga trở đi trở lại, bồi hồi đê mê, uyển chuyển thê thiết, như tiếng thở than khe khẽ của một người đang đắm trong nỗi đau thương cực điểm, nghe mà thấy nỗi sầu úa khó tả tan dần trong lòng và trong không gian, ngưng tụ khó tiêu tán, dư vị thật vô cùng.

Tâm trạng buồn bã, lại thêm thời tiết dở ẩm dở lạnh, từ nhân không ngủ được. Nếu có thể lặng lẽ ngủ, may ra tạm thời trốn tránh được nỗi thống khổ trong một khoảng thời gian, nhưng càng nhắm mắt càng khó yên giấc, bất giác từ nhân lại nhớ tới người bạn lòng đã quá cố. Nàng khoác áo trỗi dậy khỏi giường, chiêu một ngụm rượu nóng, nhưng cái lạnh là do nỗi cô đơn gây nên, mà rượu thì cũng như trà, uống một mình làm sao chữa được cô đơn.

Quạnh quẽ bên chung rượu, giữa lúc thời tiết u ám, mây dày trĩu nặng, gió lạnh lùa tới từng cơn, đột nhiên lại nghe thấy tiếng kêu bi ai của cánh nhạn lẻ loi. Âm thanh ai oán như xé ngang bầu trời, lại một lần nữa xoáy mạnh vào vết thương lòng còn chưa kín miệng của từ nhân. Ôi nhạn, sao tiếng kêu của ngươi lại thê thiết như vậy, lẽ nào ngươi cũng giống ta, mất đi người bạn lòng, để quãng đời còn lại phải một thân một bóng đối diện với trùng điệp núi với nhấp nhô mây ?

Nghĩ ngợi mông lung, ánh mắt mê mang, mơ hồ...

-oOo-

Hồi 7: Long Phụng Trình Tường, tống tẩu tiểu sát tinh

( Kim Long Ngọc Phụng hòa minh, Cùng nhau đưa tiểu sát tinh ra về )

Vô khả nại hà, bốn chữ này xem ra rất bình đạm, nhưng thực ra là nỗi thống khổ lớn nhất, bi ai lớn nhất của đời người.

(Cổ Long - Luận)

Mở bừng mắt ra, cái trông thấy đầu tiên là ánh mặt trời chói chang, Thập Kiệt Nhất lật mình dậy, vặn lưng một cách lười nhác, ngủ thật thoải mái. Người khoẻ, tâm trạng tốt là ngủ rất ngon, mở mắt ra thấy mặt trời đã bò lên tận con sào.

“Ái... lão đại đi đâu mất rồi?” Thập Kiệt Nhất lẩm bà lẩm bẩm.

Gã chạy ra hậu hoa viên, đoán rằng lão đại nhất định ở đó, mỗi lần y dậy sớm, đều đến nghe Băng Nhi tấu cầm, hầu như đã thành thói quen rồi.

Thập Kiệt Nhất quá hiểu lão đại, Liễu Dật quả nhiên đang ở hậu hoa viên, nhưng không phải là nghe Băng Nhi dạo đàn, mà cũng không phải là xem Thanh Nhi nhảy múa. Chỉ thấy Băng Nhi bưng nghiên, Thanh Nhi liên tục đưa bút qua cho Liễu Dật, thì ra y đang vẽ bức tranh mà A Cửu yêu cầu.

Thập Kiệt Nhất vội vàng chạy lại: “Lão đại, sao huynh dậy sớm thế? Hắc hắc, đang vẽ tranh hả? Vẽ đẹp quá! Con rắn này sao lại có cả móng vuốt, ơ đây không phải là, vẽ rắn thêm, thêm cái gì ấy nhỉ?”

Thanh Nhi cười hi hi: “Phải, vẽ rắn thêm chân!”

Thập Kiệt Nhất vội vàng ứng tiếng: “Ừ, vẽ rắn thêm chân... Không đúng rồi, lão đại, con gà trống này sao huynh vẽ gầy thế, mà đuôi sao lại dài làm vậy?”

Liễu Dật tâm trạng vốn đang thoải mái mà cũng không thể chịu đựng nổi, y vỗ bàn quát: “Đệ rắp tâm đến chọc tức ta phải không? Mau cút đi, nếu không ta thôi vẽ tranh bây giờ, bảo A Cửu nhà đệ đi tìm người khác vẽ cho!”

Thập Kiệt Nhất bối rối, không hiểu mình lại sai ở chỗ nào. Nhưng vì A Cửu, để cho việc vẽ tranh được hoàn thành, gã lập tức ngậm chặt miệng.

Băng Nhi đứng bên cạnh cười vụng: “Công tử, Thập Nhất đại ca vốn là người như vậy rồi, công tử tức giận với huynh ấy làm gì?”

Liễu Dật không để ý đến lời Băng Nhi, cứ chăm chú vẽ tiếp.

Trông y thì có vẻ công tử bột, hời hợt thờ ơ, nhưng một khi vẽ tranh hay xem sách, thì y hoàn toàn đặt hết tâm trí vào đó, người bình thường không thể làm y phân tâm. Đương nhiên, Thập Kiệt Nhất là một ngoại lệ.

Đúng lúc đó, từ phía cổng hậu hoa viên truyền đến một thanh âm hết sức ngọt ngào: “Là ai khiến cho Liễu đại tài tử của chúng ta tức giận vậy?”

Thập Kiệt Nhất ngoảnh nhìn về phía đó, trông thấy A Cửu. Hôm nay nàng đổi cách ăn vận, lại có trang điểm, trên mình một tấm áo dài màu tím, bên ngoài khoác tấm sa mỏng trắng nhẹ, vô cùng xinh đẹp, trông tựa tiên nữ giáng trần.

Lúc đó Liễu Dật cũng thay đổi động tác, y cầm bút đưa qua cho Thanh Nhi, rồi thở dài nói: “Vẽ xong rồi...”

A Cửu bước lại gần, nghe Liễu Dật nói đã vẽ xong, nàng vội vàng nhìn xuống bức hoạ đặt trên bàn, nhưng xem qua lại không hề lộ vẻ vui mừng, mà đôi mắt như ánh lên nỗi thất vọng. A Cửu hỏi Liễu Dật: “Liễu công tử, đây mà là Long Phụng Trình Tường Đồ ư? Ta thấy rất bình thường, tranh như thế này ta cũng vẽ được... Liễu công tử, phải chăng công tử gạt ta?”

Băng Nhi nghe đoạn, lập tức phản đối: “Hừ, nha đầu kia, công tử nhà ta vẽ bức tranh này mất hai canh giờ mới xong. Tranh đẹp như vậy, ngươi lại xuất ngôn vũ nhục, hoài nghi họa pháp của công tử nhà ta, ngươi cũng...”

Lời còn chưa nói dứt, Liễu Dật đã ngăn Băng Nhi, rồi cầm quạt lên, nhẹ nhàng quạt: “A Cửu cô nương nghi ngờ tranh của Liễu mỗ như vậy, lẽ nào A Cửu cô nương đã xem qua bức Long Phụng Trình Tường Đồ thứ nhất rồi sao?”

Nét mặt A Cửu lộ vẻ hoang mang, nhưng chỉ trong một thoáng, không để người ngoài nhận thấy, nàng lắc lắc đầu, giải thích: “Không phải là A Cửu đã xem qua bức thứ nhất, chỉ có điều tranh này nhìn bình thường quá, giả sử vào tay vị bằng hữu đó của ta, y còn vẽ đẹp hơn... Xem ra Liễu công tử khả năng cũng chỉ có vậy, nếu cứ nhìn cách thể hiện ở đây. A Cửu không cần bức tranh này nữa, ta về nói cho bằng hữu biết đạo hạnh công tử cao thâm đến đâu là được rồi!”

Thanh Nhi nghe nói, tức giận quát: “Ngươi... công tử đã có lòng tốt vẽ cho ngươi, ngươi lại sỉ nhục như vậy!”

Liễu Dật lại không hề tức giận, mà chỉ ung dung cầm chiếc quạt gấp, khe khẽ phẩy, rồi nhẹ nhàng ngâm: “Thiên cổ giang san, giang lãng tài tận, hà nhân chi quân tâm...” rồi lắc đầu nói với Băng Nhi: “Giúp ta pha bình trà xanh đi!”

Băng Nhi gật đầu ứng tiếng: “Dạ, công tử!” đoạn quay mình lui ra.

A Cửu nhìn Liễu Dật, ánh mắt như có thể giết chết y: “Xem ra giang hồ đồn đại quá sai lệch, không ngờ Liễu công tử là dạng mua danh chuốc tiếng, Giang Nam tài tử cũng chỉ có ý nghĩa phô trương mà thôi!”

Thập Kiệt Nhất lúc này mới xen vào: “A, A Cửu cô nương, lão đại ta vẽ không đẹp ư? Ta thấy đẹp đó chứ!”

A Cửu nghe thấy, nổi giận quát: “Ngươi thì hiểu cái gì? Liễu công tử đã không muốn vẽ tranh cho A Cửu này, A Cửu cũng chẳng cưỡng ép làm khó người. A Cửu cáo từ!” Nói đoạn nàng quay mình đi ra ngoài.

Thập Kiệt Nhất cuống lên, vốn muốn làm cho A Cửu vui, nhưng không ngờ lão đại lại hại mình, vẽ một bức tranh chẳng ra gì. Gã cuống lên muốn chạy theo, nhưng không biết làm thế nào.

Lúc đó, Băng Nhi đã mang trà đến, đưa cho Liễu Dật. Liễu Dật đón lấy trà, nói với A Cửu: “Cô nương khoan đã, tuy rằng bách vô nhất dụng thị thư sinh, nhưng thư sinh như Liễu Dật ta là người đã nói là làm, nhận lời vẽ tranh cho cô, thì nhất định là vẽ cho tử tế.” Dứt lời, y nâng trà lên uống.

A Cửu vừa ngoái đầu, vừa tức giận nói: “Vẽ một bức tầm thường như vậy, ngươi còn nhàn tâm uống trà, lẽ nào gọi là nhận lời ....” rồi quay hẳn mình lại. Lời chưa nói dứt, nàng đã đứng sững ra, hai mắt mở lớn, tựa hồ nhìn thấy một thứ gì không thể tin nổi.

Liễu Dật uống trà chưa vào đến dạ dày, đã phun đầy xuống bức tranh, lúc đó một cảnh tượng kỳ lạ hiện ra.

Kim quang vụt tỏa lấp lánh, sáng rực hơn cả ánh thái dương. Kim long trong tranh sống động trỗi dậy, lượn vào không trung, dáng vẻ uy nghiêm dũng mãnh. Phượng hoàng tung cánh bay theo kim long, thi thoảng cất lên những tiếng kêu êm tai. Kim quang rọi sáng thân hình mọi người, sưởi ấm tâm linh, khiến ai nấy cảm thấy ngọt ngào vô cùng, một niềm hưng phấn khó tả trào lên trong tâm hồn họ.

Tất cả đều kinh ngạc, cảm thán. Đột nhiên Thập Kiệt Nhất kêu to: “Con rắn và gà trống trong tranh của huynh sống kìa, tuyệt quá!”

Thanh Nhi tiếp tục ngắm cảnh tượng khó tin đang diễn ra trong không trung, lầm bầm trả lời Thập Kiệt Nhất: “Đồ ngốc, đó là con rồng và phượng hoàng, không phải là rắn và gà trống!”

Ngoài Liễu Dật, ai nấy đều há hốc miệng, mắt như mở lớn lên gấp đôi. Cuối cùng, qua thời khắc chừng cạn một chén trà, rồng và phượng hoàng lại quay trở vào trong tranh. Mọi người lúc lắc đầu như không dám tin, muốn chắc là mình không nằm mơ. A Cửu cắn lấy đầu ngón tay, như kiểm chứng xem những gì vừa nhìn thấy có phải là giả không.

Rồi lấy lại bình tĩnh, nàng chạy đến, ngắm bức tranh tầm thường trên bàn, lẩm bẩm: “Lạ quá, bức của phụ hoàng cũng không thần kỳ đến như vậy?”

Liễu Dật xoè cái quạt gấp, hỏi: “A Cửu cô nương nói gì thế? Vẫn ngờ ta lừa cô sao?”

A Cửu vội vàng đáp: “Liễu... Liễu công tử, tranh... tranh của công tử quả thực càng lúc càng thần diệu!”

Đúng lúc đó, Liễu Mục Tịch dẫn một toán gia đinh xộc tới. Vừa thấy Liễu Dật, lão kêu to: “Ban nãy ta nghe người nhà nói có rồng và phượng ở phía này, sao giờ không thấy đâu nữa, lẽ nào hoa mắt ư?”

Liễu Dật vội vàng: “Chắc là hoa mắt thật!”

Liễu Mục Tịch nhìn bộ dạng của Liễu Dật, tiến đến trước bàn, ngắm nghía bức tranh, rồi lắc đầu nói: “Dật nhi, hai năm không vẽ, con kém đi nhiều đấy. Bức này chẳng có tý linh khí nào cả!”

Liễu Dật gật đầu: “Ừm, là hài nhi lười biếng, sau này hài nhi sẽ nỗ lực.”

Đúng lúc đó, một tên gia đinh cuống quýt chạy vào, cuống quýt kêu: “Lão... lão... lão gia, không hay rồi!”

Liễu Mục Tịch nhìn điệu bộ hoảng hốt của tên gia đinh, hỏi: “Chuyện gì mà sợ hãi như vậy?”

Gia đinh vội vã đáp: “Lão... lão gia, trước cửa kéo đến bao nhiêu là người, nói... nói vừa rồi nhìn thấy trong Liễu phủ có rồng phượng hiện thân, muốn vào... bái yết... rồng và phượng hoàng.”

Liễu Mục Tịch nghe vậy, lẩm nhẩm: “Quả thực có chuyện này, ban nãy đâu phải là hoa mắt? Mau, theo ta ra cửa xem!” Đoạn, cả đám người theo nhau đi về phía cổng.

Liễu Mục Tịch đi khuất, Liễu Dật lắc đầu: “Xem ra gây phiền cho Liễu phủ rồi!”

A Cửu ngắm bức tranh, thầm nghĩ: “Không ngờ họa pháp của tên mọt sách này lại tiến bộ thần tốc như vậy, có thể truyền được cả linh khí của mình vào bức tranh, quả thực là nhân tài trăm năm có một.”

Thập Kiệt Nhất lúc này đã chạy lên, cười hắc hắc mà rằng: “A Cửu cô nương, lão đại ta vẽ bức tranh sống như vậy, cô còn nói huynh ấy vẽ kém không?”

A Cửu ôm quyền hướng về Liễu Dật: “Hối hận hối hận! Liễu công tử, là tiểu nữ tử có mắt không tròng, vừa rồi mạo phạm.”

Liễu Dật lắc lắc đầu, khe khẽ nói: “Thiên lý mã và Bá Nhạc từ đầu vốn đã không ở cùng nhau, cái này không thể trách A Cửu cô nương. Có lẽ tranh Liễu mỗ vẽ khiến người khác khó hiểu, thực ra là phải trách Liễu mỗ.”

A Cửu đỏ mặt: “Liễu công tử, bức tranh này ta mang đi nhé?”

Liễu Dật nhìn nàng, gật đầu: “Bảy ngày, đừng quên giao hẹn của chúng ta đó!”

A Cửu gật gật đầu: “Tạ công tử tứ họa, A Cửu nhất định sẽ giữ lời hứa!”

Băng Nhi lườm A Cửu, cố ý nói: “Hừ, bây giờ mới biết tranh của công tử nhà ta là bảo bối, không hiểu ban nãy suy nghĩ cái gì nữa? Mắt gắn sau lưng à?”

A Cửu nghe thấy nổi giận: “Ngươi...”

Liễu Dật giơ quạt đập nhẹ vào đầu Băng Nhi, nói: “Tiểu nha đầu, không được vô lễ!”

Băng Nhi tấm tức dẩu môi.

A Cửu xếp gọn bức tranh lại, ôm quyền vái chào: “Liễu công tử, hậu hội hữu kỳ!”

Liễu Dật gật gật đầu, không phản ứng gì.

Thập Kiệt Nhất thì khác, gã hét lên: “A Cửu cô nương, cô mau đi mau trở lại nhé!”

A Cửu tưởng Thập Kiệt Nhất sợ bị mất bức họa, bèn ôm quyền nói: “Thập Nhất đại ca, huynh yên tâm. A Cửu nhất định sẽ mau quay về!” đoạn nàng xoay mình đi khỏi hậu hoa viên.

A Cửu vừa đi khuất, Băng Nhi và Thanh Nhi cùng kêu lên: “Công tử giỏi quá, vẽ tranh mà thành thật!”

Liễu Dật vừa nhìn hai ả, vừa ngồi xuống bên chiếc bàn đá: “Công tử đã giỏi như vậy, bây giờ phải chăng là đến lượt các ngươi? Thanh Nhi và Băng Nhi hãy diễn tấu một lúc cho công tử xem nào!”

Băng Nhi và Thanh Nhi nghe xong, nhìn nhau cười...

Tiếng đàn trong trẻo, điệu múa uyển chuyển, rượu nồng và thơm, vui vầy giữa trăm hoa, bên mỹ nhân tựa thiên tiên, Liễu Dật ngả mình xuống, đây chẳng phải là bức tranh đầy đủ về một hoa hoa công tử hay sao?

-oOo-

Hồi 8: Hoàng đế mật chỉ, bi tùng thiên thượng lai

( Thánh Hoàng giáng chỉ Liễu gia, Đi tìm công chúa nội ba trăng về )

Một truyền kỳ được tạo nên như thế nào? Một anh hùng được tạo nên như thế nào, bao nhiêu gian khổ, bao nhiêu huyết lệ, bao nhiêu cam chịu, bao nhiêu kiềm chế?

(Cổ Long - Luận)

Bấm đốt ngón tay, đã sang ngày thứ bảy. Theo như A Cửu nói, bây giờ lẽ ra tranh đã phải đưa về tới rồi. Thời gian lúc đó đã là giữa ngọ, A Cửu tại sao vẫn chưa trở lại?

Liễu Dật trầm tư suy nghĩ. Ban đầu tống tiễn được A Cửu, y cho rằng vậy là đã giải quyết được một tiểu sát tinh, nhưng giờ khi ả nha đầu đó không quay lại... lẽ nào... A Cửu đã lừa y?

Lơ đãng nghe Băng Nhi dạo cầm, lơ đãng xem Thanh Nhi nhảy múa, Liễu Dật cứ uống hết chén rượu này đến chén rượu khác.

Còn Thập Kiệt Nhất, gã đã trông chờ A Cửu suốt bảy ngày. Hôm nay, từ sáng gã đã chạy ra cửa ngóng đợi.

Đúng lúc ấy, Thập Kiệt Nhất hoảng hốt chạy vào, Liễu Dật nhìn thấy gã, vội hỏi: “Sao rồi? Phải chăng đã có tin tức gì?”

Thập Kiệt Nhất lập cập gật đầu: “Phải, lão đại!” đoạn gã cầm lấy chén rượu, uống một hơi cạn sạch. Liễu Dật hỏi: “Thế người đâu? Đang ở đâu?”

“Người ở đây!” Một câu nói, bởi một giọng bán nam bán nữ, nghe như phát ra từ một yêu nhân.

Liễu Dật ngoảnh lại lé mắt nhìn, Liễu Mục Tịch đang từ hướng đại sảnh đi tới, sau lưng là ba người ăn vận kiểu thái giám cung đình. Liễu Dật nhận ra người vừa cất tiếng là kẻ dìu đỡ hoàng thượng lần trước, lúc y đến dâng tranh. Nghe nói lão yêu tinh đó rất được hoàng thượng sủng ái.

Y vội đứng dậy, tiến lên đón, khom mình nói: “Tạ công công vẫn mạnh giỏi!”

Tên thái giám cung đình được gọi là Tạ công công khoát tay: “Các ngươi lui hết ra!” đoạn đuổi cả phụ thân của Liễu Dật là Liễu Mục Tịch đi. Chớp mắt cả hậu hoa viên chỉ còn lại ba người Liễu Dật, Thập Kiệt Nhất và Tạ công công đó.

Liễu Dật vội thỉnh Tạ công công ngồi, rồi giải thích: “Tạ công công, người Liễu mỗ nhắc ban nãy không phải là công công, mà là... một cô nương.”

Tạ công công mỉm cười gật đầu: “Một cô nương? Tên gọi A Cửu phải không?”

“Hỏng rồi, lão sao lại biết tên cô ta? Lẽ nào... Bức họa đó đã bị người của hoàng thượng phát hiện?” Liễu Dật lập tức đoán rằng Tạ thái giám đã biết về bức Long Phụng Trình Tường Đồ thứ hai.

Nhưng Thập Kiệt Nhất miệng thông thống như cống không đậy nắp thì vội vàng kêu lên: “Công công, sao ông biết vị cô nương đó tên là A Cửu?”

“Trời, Thập Nhất ơi Thập Nhất, cả đời Liễu Dật này bị hủy trong tay ngươi rồi!” Liễu Dật vốn đang suy nghĩ tìm một lý do lấp liếm cho qua, không ngờ Thập Kiệt Nhất lanh miệng đến thế, lại nói tuột hết cả ra.

Nét mặt Tạ công công bỗng dưng đông cứng: “Liễu Dật, ngươi biết tội chưa?”

Liễu Dật nghe thấy, sớm đã sợ đến toát mồ hôi lạnh. Nếu bức họa đó của A Cửu bị hoàng thượng biết được, thì toàn gia Liễu phủ lớn bé hơn một ngàn người đều khó bảo toàn được tính mệnh, tội khi quân này ai có thể gánh nổi. Ôi! Nhất thất túc thành thiên cổ hận (14) . Liễu Dật trong lòng lúc này ngập tràn những ăn năn.

Liễu Dật vội đứng dậy, cúi đầu thưa: “Liễu Dật biết tội!” nói ra câu ấy xong, mặt y lấm tấm đầy những hạt mồ hôi lớn.

Tạ công công cũng đứng dậy: “Biết tội là tốt rồi. Lần này hoàng thượng phái ta đích thân đến Giang Nam, truyền mật chỉ cho ngươi, mong ngươi có thể lập công chuộc tội.”

Liễu Dật nghe nói có thể lấy công chuộc tội, không biết là công gì? Hoàng thượng bắt ta làm gì?

Tạ công công nói ngay: “Lần này, Cửu công chúa lén trốn ra khỏi cung, hoàng thượng cũng rất phiền lòng. Có điều... khi biết Cửu công chúa mang Long Phụng Trình Tường Đồ theo, hoàng thượng anh minh liền đoán ra, Cửu công chúa nhất định sẽ đến Giang Nam tìm Liễu công tử.”

Lão ngừng một lát rồi tiếp: “Nên biết, bức tranh đó và Cửu công chúa đều là mệnh căn của hoàng thượng. Cửu công chúa đi biệt đã nửa tháng, không có một chút tin tức gì. Sau đó mật thám hoàng cung cấp báo: Cửu công chúa trên đường từ Giang Nam trở về đã biến mất một cách vô cớ.”

“Khoan, khoan đã!” Liễu Dật càng nghe càng không hiểu, y vốn cho rằng Tạ công công phát hiện ra mình vẽ cho A Cửu bức Long Phụng Trình Tường Đồ thứ hai mới tới để vấn tội, nhưng hóa ra không phải. Cửu công chúa mà Tạ công công nói là ai vậy? Cửu công chúa đem bức Long Phụng Trình Tường Đồ đến Giang Nam tìm y làm gì?

Lão thái giám lạ lùng nhìn Liễu Dật: “Làm sao thế, Liễu công tử?”

Liễu Dật hỏi: “Tạ công công nói Cửu công chúa đó là...”

Lão thái giám đáp: “Chính là cô nương tự xưng ‘A Cửu’ đó, mà nàng còn đem theo rất nhiều châu bảo danh quý đến thăm Liễu công tử, lẽ nào Liễu công tử không có ấn tượng gì, hay là, quên rồi...”

Liễu Dật vội vã gật đầu: “Ồ, đúng, phải phải!” Thì ra A Cửu cô nương là tiểu công chúa được sủng ái nhất bên mình hoàng thượng, ta sao có thể ăn nói ngạo mạn. Liễu Dật bắt đầu hiểu.

Rồi y hỏi: “Không biết mật chỉ của hoàng thượng ra sao?”

Lão thái giám nói: “Tuy việc Cửu công chúa thất tung không liên quan gì đến Liễu công tử, nhưng mà...Cửu công chúa rốt cục vẫn vì Liễu công tử mà mất tích. Vì vậy, hoàng thượng hi vọng Liễu công tử trong vòng ba tháng phải tìm thấy Cửu công chúa, đưa công chúa hoàn toàn nguyên vẹn về cho hoàng thượng.”

Liễu Dật cảm thấy khó xử: “Việc này... e là, Tạ công công, thời gian ba tháng chẳng phải là gấp quá sao, mà tiểu sinh hiện giờ lại chẳng có chút manh mối gì.”

Lão thái giám nói: “Nhưng ý của hoàng thượng là như vậy đấy!”

Liễu Dật khiếp đảm hỏi: “Công công, nếu... trong ba tháng mà không tìm được Cửu công chúa... thì sao?”

Tạ công công làm một động tác hết sức dễ hiểu, tay phải chìa ra, xoẹt ngang qua cổ, miệng còn thêm một câu: “Nhục nhã!”

Liễu Dật hoang mang: “Công công nói rằng hoàng thượng sẽ chặt đầu Liễu mỗ ư?”

Lão thái giám lắc đầu: “Làm sao mà chặt đầu công tử được?”

Liễu Dật áp tay lên ngực: “Vậy thì tốt, vậy thì tốt...”

Tạ công công nói: “Nhưng mà nhất định là chặt đầu toàn gia công tử!”

Liễu Dật nghe dứt, xém tí nữa bất tỉnh: “Công công, xin người trước mặt hoàng thượng hãy nói giúp cho Liễu mỗ vài lời.”

Tạ công công cười: “Việc này đơn giản, sau này chưa chừng còn phải phiền Liễu công tử vẽ giúp một bức tranh. Chỉ có điều Liễu công tử cần thu xếp cho kịp, ta ở trước mặt hoàng thượng cũng sẽ cố nói giúp để kéo dài thời gian thêm ít lâu.”

Liễu Dật nghe xong, lo lắng đến ướt đẫm đầu tóc, vô duyên vô cớ lại nảy sinh cái chuyện tày trời này, y vội vã: “Công công yên tâm, Liễu Dật nhất định sẽ đưa Cửu công chúa an toàn về bên hoàng thượng.”

Lão thái giám cười gật đầu: “Ừ, tốt... Liễu công tử đã hiểu rõ thánh ý, vậy lão nô cáo từ thôi!”

Liễu Dật cười mơn: “Để Liễu mỗ tiễn công công...”

Cuối cùng cũng tống táng được lão yêu nhân chết tiệt, nhưng Liễu Dật mặt mày buồn rười rượi, cùng Thập Kiệt Nhất ngồi lặng lẽ uống rượu trong hậu hoa viên. Thập Kiệt Nhất vừa uống vừa cảm thán: “Thật không ngờ, A Cửu cô nương lại là Cửu công chúa của hoàng thượng.”

Liễu Dật cũng gật đầu: “Ta cũng sơ suất quá, để cho tiểu nha đầu đó lừa, giờ thì chúng ta phiền phức to rồi. Thời hạn chỉ có ba tháng, nếu không kiếm được Cửu công chúa, toàn gia Liễu phủ, già trẻ lớn bé đều khó giữ được cái đầu!”

Thập Kiệt Nhất nói: “Thế ngày mai chúng ta ra ngoài tìm thử xem, không chừng sẽ tìm được A... Cửu công chúa đấy!”

Liễu Dật lắc đầu: “Trời đất bao la thế này, tìm một người khác nào đáy bể mò kim. Nếu có người cố ý đem giấu công chúa đi, thì chúng ta lại càng không có cách nào tìm được.”

Thập Kiệt Nhất nghe vậy, cũng bắt đầu trở nên buồn bực. Việc này làm thế nào, lão đại nói quả không sai, trời đất bao la như vậy, muốn tìm một người thật khó, huống hồ nếu nàng đã bị người ta bắt, thì đúng là hết cách thật.

Đúng lúc đó Liễu Mục Tịch từ đại sảnh vội vàng chạy tới: “Dật nhi, đã xảy ra chuyện gì, làm sao sủng thần của hoàng thượng lại đến nhà chúng ta thế?”

Liễu Dật đứng dậy: “Lại chẳng phải là vì A Cửu kia hay sao!”

Liễu Mục Tịch nhăn tít cặp lông mày: “A Cửu cô nương ấy à?”

Liễu Dật phẩy quạt, đem câu chuyện ban nãy kể ra. Liễu Mục Tịch thở dài: “Ôi! Làm sao... làm sao lại phát sinh chuyện này? A Cửu đó... công chúa... hại chết Liễu phủ ta rồi. Vô sự thì ở nhà chơi gì mà không được, cô ta chạy tới Giang Nam làm gì không biết.”

Nhìn vẻ bất an của Liễu Mục Tịch, Liễu Dật đứng dậy nói: “Cha ơi, cha đừng lo. Dật nhi đã nghĩ kỹ rồi, ngày mai sẽ thu dọn hành lý, ra ngoài đi tìm kiếm tin tức công chúa, đằng nào cũng còn thời hạn ba tháng nữa, con tin rằng chỉ cần con đi tìm, nhất định sẽ có kết quả.”

Liễu Mục Tịch thở dài: “Thiên hạ rộng lớn như thế, làm sao tìm nổi một người?”

Liễu Dật suy nghĩ, tựa hồ sớm đã có đáp án: “Con nhớ rõ hình dáng A Cửu rồi, chỉ cần con vẽ một người giống hệt, âm thầm đi dò hỏi chắc cũng được!”

Liễu Mục Tịch nghe vậy, vội kêu: “Con không được vẽ nữa, vẽ một bức tuổi thọ con giảm đi một năm đó!”

Liễu Dật lắc lắc đầu: “Cha, hiện giờ đã quan hệ đến toàn gia Liễu phủ, lẽ nào Liễu Dật chỉ vì tham luyến một năm dương thế mà không nỗ lực vì tính mệnh của hơn một ngàn người trong nhà?”

Liễu Mục Tịch nhìn Liễu Dật, gật đầu: “Dật nhi, con quả thực đã trưởng thành rồi, nếu vậy con hãy cố gắng đi làm đi. Cha sẽ chuẩn bị mọi thứ chu đáo cho con. Nếu ông trời khăng khăng muốn lấy mạng Liễu gia, Liễu Mục Tịch ta cũng đành nhắm mắt.” Nói đoạn, lệ già chan chứa, đối mặt với tai bay vạ gió, lão nhân này có thể làm gì đây?

Nam nhi nhiệt huyết, thấy người thân bi thương như vậy, có thể làm được gì?

-----------------------------------------------

(14) Một kiếp sa chân, muôn kiếp hận

-oOo-

Hồi 9: Nhất sự vô thành, thời quang tuỳ lưu thuỷ

( Thời gian như nước qua cầu, Bóng chim tăm cá biết đâu mà tìm)

Trên đời này vốn có rất nhiều chuyện, trông bề ngoài tưởng chừng chỉ là xảo hợp, kỳ thực nếu anh suy nghĩ kỹ càng một chút, sẽ phát giác ra trong đó nhất định sớm đã có gieo một "cái mầm tiền định" rồi.

(Cổ Long - Luận)

Trước cửa Liễu phủ.

Một thiếu niên trẻ trung tuổi chừng hai mươi, khuôn mặt anh tuấn vương đầy những ưu sầu, thân hình mảnh khảnh ẩn kín trong bộ trường bào rộng màu xám. Sau lưng là một gã lực lưỡng, cánh tay to bằng bắp đùi y, vồng ngực cao rộng, dáng điệu như muốn nói: “Ai khỏe bằng ta đây!”

Hai thiếu niên đó chính là Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất. Chẳng làm thế nào khác được, mật chỉ của hoàng thượng buộc họ trong ba tháng phải tìm được Cửu công chúa, nếu không hơn một ngàn người của Liễu phủ khó tránh khỏi kiếp nạn. Vì một ngàn người đó, Liễu Dật đành phải dắt theo Thập Kiệt Nhất, bắt đầu lao vào cuộc kiếm tìm vô vọng.

Liễu Mục Tịch hết sức lo lắng cho tiểu nhi tử. Xưa nay Liễu Dật luôn ở bên mình lão, nay lại rời xa, khỏi phải nói cũng biết lão lo lắng đến chừng nào. Nhưng sự chẳng đặng đừng, lão đành chuẩn bị đầy đủ hành lý cho Liễu Dật, lại dặn dò Thập Kiệt Nhất bảo vệ y, rồi sợ lộ phí không đủ dùng, nên lấy thêm năm vạn lượng bạch ngân sai Thập Kiệt Nhất giữ, phòng những việc bất ngờ.

Liễu Dật nhìn Liễu Mục Tịch, thấy cha sau một đêm dường như xanh xao đi rất nhiều. Bình thường vì y ham chơi, luôn bị cha trách mắng, nhưng giờ ngẫm lại, những lời trách mắng ấy thân thiết biết bao, làm người ta phải nhung nhớ biết bao.

Liễu Dật quỳ xuống thưa: “Phụ thân đại nhân, đều là tại con hư đốn, khiến toàn gia Liễu phủ gặp họa. Một ngày kia tìm được Cửu công chúa rồi, Liễu Dật sẽ thay đổi tính khí, ngoan ngoãn lo việc khoa cử công danh.”

Liễu Mục Tịch bước tới đỡ Liễu Dật dậy: “Dật nhi, đừng nghĩ ngợi quá! Những chuyện trời đất đã sắp đặt, việc gì phải viện nhiều lý do vô vị thế? Chuyện đã xảy ra rồi, thì đành phải đi giải quyết thôi!”

Liễu Dật ngẫm nghĩ lời cha, có lẽ đúng là trời đất đã sắp đặt... Nếu không, một tên thư sinh vô dụng như mình, làm sao mà bị cuốn vào việc này được?

Liễu Dật đứng dậy: “Cha, sắp tới Dật nhi không ở bên cạnh, không thể chăm sóc cha được, cha hãy tự bảo trọng nhé!”

Liễu Mục Tịch cười: “Ha ha, xú tiểu tử, con trở nên hiếu thuận như thế từ lúc nào vậy? Bình thường có lúc nào con không làm cha tức đâu!”

Liễu Dật làm mặt xấu: “Tóm lại, cha bảo trọng, chuyến đi này Dật nhi sẽ hết sức cẩn thận, cha không cần lo lắng nhiều!” Nói đoạn y quay mình đi, trèo lên lưng ngựa.

Thập Kiệt Nhất cũng nhảy lên yên, sẵn sàng chờ lệnh xuất phát.

Liễu Mục Tịch nhìn con: “Xú tiểu tử, trên đường đừng gây chuyện. Nhất định phải tìm được công chúa nhé!”

Liễu Dật đáp: “Cha yên tâm!” rồi kẹp hai chân, thúc ngựa chạy về hướng tây, Thập Kiệt Nhất liền bám theo sát gót.

Nhìn Liễu Dật đi xa dần, hai mắt Liễu Mục Tịch ướt nhòe. Tuy nhiệm vụ nghe rất đơn giản, chỉ là tìm công chúa, nhưng ai mà biết công chúa ở đâu? Bị kẻ nào bắt mất rồi?

Đã xảy ra chuyện gì? Thấy con phải đi xa, Liễu Mục Tịch lòng đau như cắt, việc mà không xong, thì lão đầu bạc phải tiễn kẻ đầu xanh... Giang hồ thật hiểm ác!

“Thiên hạ anh hùng xuất ngã bối

Nhất nhập giang hồ tuế nguyệt thôi.

Hồng đồ bá nghiệp đàm tiếu trung

Bất thắng nhân sinh nhất trường túy” (15)

Liễu Dật la to: “Hay cho câu, nhất nhập giang hồ tuế nguyệt thôi. Liễu Dật ta phải đi xem xem cái giang hồ này nó như thế nào?”

Thập Kiệt Nhất cưỡi trên lưng ngựa, phi bên trái Liễu Dật, cười ngây ngô mà rằng: “Lão đại, đệ đã muốn nếm thử giang hồ nhiệt huyết này từ lâu rồi, đáng tiếc mãi tới nay mới có cơ hội. Hắc hắc, bây giờ rốt cục cũng có thể thi triển quyền cước rồi!”

Liễu Dật nhìn Thập Kiệt Nhất, lắc đầu: “Trước tiên nghĩ cách tìm ra ả công chúa chết tiệt kia đi rồi hãy thi triển quyền cước. Nếu không, đến cái đầu chúng ta còn khó giữ đấy!”

Thập Kiệt Nhất gật gù: “Nhưng mà... Chúng ta đi không mục đích thế này, phải đến đâu tìm? Mình có chút tin tức gì về A Cửu đâu?”

Liễu Dật giơ tay, lấy từ sau lưng lên một cuộn tranh, mở ra đưa cho Thập Kiệt Nhất: “Đệ nhìn xem thế nào?”

Thập Kiệt Nhất đón lấy: “Oa, ai đây?”

Liễu Dật lạ lùng nói: “Đấy là A Cửu mà?”

Thập Kiệt Nhất lắc đầu: “Bức họa này đẹp hơn A Cửu nhiều!”

Liễu Dật nhìn sang: “Đại khái là trông như vậy. Mình vừa đi đường vừa hỏi, xem có ai nhìn thấy A Cửu không?”

Thập Kiệt Nhất gật đầu đáp: “Bây giờ cũng chỉ còn cách đó thôi!”

Tựa hồ trời già cố ý làm khó Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất. Nửa tháng trôi qua, họ đã hỏi thăm bao nhiêu người, nhưng không có một chút tin tức gì của A Cửu, cứ như cô nàng đã biến mất khỏi mặt đất này vậy.

Lưu lạc nửa tháng trời, họ tới gần Kiếm Môn Quan, hướng sang phía Tây là tiến vào Côn Lôn dẫn lên Thiên giới, hướng xuống phía Nam là vào lãnh địa của Ma tộc, còn nếu trực chỉ thì là Thục đạo. Liễu Dật nghe Thập Kiệt Nhất giới thiệu, cảm thấy hoang mang, ba khu vực này hình như có chỗ nào đó không phù hợp với mình.

Y gò ngựa, hỏi Thập Kiệt Nhất: “Đệ có thông thuộc ba vùng này không?”

Thập Kiệt Nhất lắc lắc đầu: “Đệ chỉ nghe sư phụ nói qua, nhớ mà thuật lại thôi, đệ chẳng biết gì hết.”

Liễu Dật trầm tư, thiên hạ rộng lớn như vậy, nếu A Cửu ở Thiên giới, lẽ nào mình phải đi Côn Lôn? Nếu nàng ta ở Địa giới, lẽ nào mình phải tiến vào lãnh địa Ma tộc?

Đúng lúc đó, ở bên đường nhảy “soạt” ra một hán tử tráng kiện, trông còn lực lưỡng hơn Thập Kiệt Nhất, thân hình đầy những cơ bắp cứng như sắt, cuồn cuộn như tạc, màu da đồng hun, gương mặt đen bóng rạch xé ngang dọc. Gã chỉ mặc một cái khố, không có áo, tay cầm đại đao, chặng trước đường tiến của Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất.

Liễu Dật trông thấy vội hỏi: “Vị đại ca này, sắp sang đông rồi, huynh không mặc quần áo như thế rất dễ nhiễm phong hàn đấy!”

Tráng hán hung dữ gầm lên: “Con bà nó, tiểu tử kia, đừng nhiều lời với lão gia ta. Cái cây này ta trồng, con đường này ta mở, nếu muốn... muốn...” Nói được một nửa, gã tựa hồ quên bẵng mất phần sau.

Liễu Dật vội tiếp: “Nếu muốn đi qua, phải giao lộ phí!”

Tráng hán nghe vậy hét lên: “Ồ, đúng, phải giao lộ phí... Bây giờ chắc biết lão gia muốn gì rồi chứ, thức thời thì mau nộp tiền đây! Nếu không đừng trách thanh đao này của lão gia vô tình!”

Liễu Dật gật đầu: “Hiểu rồi, huynh chính là lục lâm hảo hán trong các câu truyện. Ôi, cuối cùng cũng gặp được một vị! Nhưng mà thật làm người ta thất vọng quá đi, chẳng có khí chất như sách miêu tả gì hết!”

Thập Kiệt Nhất sớm đã không nhịn nổi, gã lật mình lên, phi khỏi lưng ngựa, cất giọng vang như sấm quát: “Chỉ có mình ngươi thôi hả?”

Tráng hán sững người, không ngờ bên mình tên thư sinh kia lại có một kẻ như vậy, vội vàng đáp: “Đợi đó, huynh đệ ta còn chưa đến đủ, đằng sau kia còn mười mấy người nữa cơ!”

Thập Kiệt Nhất nhìn theo hướng gã chỉ, quả nhiên có một toán người đang ung dung chậm rãi đi lại phía này, ước tính cũng khoảng mười mấy người thật.

Thập Kiệt Nhất bất kể đằng sau gã còn bao nhiêu người, xoạc luôn chân ra, hữu quyền lăng không giáng về phía tráng hán.

Thấy nháng lên một đạo quyền ảnh kim sắc, tráng hán sững sờ, không ngờ tên kia lại lợi hại đến nhường ấy. Cảm thấy bất diệu, gã vội vàng vung đao, chặn lấy quyền phong. “Tinh” một tiếng, tráng hán lảo đảo lùi lại ba bốn bước, hét ầm lên: “Tên tiểu tử nhà ngươi sao không biêt nói chuyện đạo nghĩa, hãy báo danh trước đã!”

Thập Kiệt Nhất đứng ngay ngắn lại: “Tại hạ Thập Kiệt Nhất.”

Tráng hán lắc đầu: “Chưa nghe thấy bao giờ, các huynh đệ đều kêu ta là Đại Đao Vương.” rồi vung tay chém xuống: “Đao này tên là Trảm Thiết, nặng bảy mươi sáu cân, dài ba thước hai thốn, có thể chặt liền mấy người cũng không quằn lưỡi.”

Liễu Dật quan sát, rồi thầm nhủ: “Gã này được lắm, trước khi cướp giật còn tranh thủ quảng cáo cho bản thân.”

Thập Kiệt Nhất nghiêng đầu: “Ta không có vũ khí, chỉ một đôi quyền đầu này thôi, ngươi thử xem nó nặng bao nhiêu cân!” đoạn lăng không bật lên hai trượng, huy động nắm đấm nện xuống Đại Đao Vương.

Đại Đao Vương trông thấy, cũng không dám xem thường, vung Trảm Thiết Đao lên chém vào nắm tay Thập Kiệt Nhất. Liễu Dật ngó thấy, thầm kêu ối, đây không phải trò đùa nữa rồi! Dùng quyền đầu đấu đại đao, Thập Kiệt Nhất có ngốc nghếch cũng không thể đến mức như vậy... Nhưng sự tình diễn tiến ngoài tiên liệu, “bình” một tiếng, Đại Đao Vương cả người lẫn đao bay vọt về sau hai trượng, ngã lộn xuống một gốc cây khô. Gã cố gắng đứng dậy, nhưng thân hình lảo đảo.

Liễu Dật nhìn sang Thập Kiệt Nhất, thấy đôi quyền đầu của gã toả ra một lớp hào quang ánh vàng bao bọc xung quanh, không hề có vết đao chém. Thập Kiệt Nhất này, càng ngày càng lợi hại.

Võ công của Thập Kiệt Nhất có thể nói là rất hiếm thấy, hoàn toàn do sư phụ truyền thụ cho. Chỉ có điều ngay cả bản thân gã cũng không biết được trình độ của mình đã đến mức nào, vì vậy gã hết sức kinh ngạc. Liễu Dật là một thư sinh, xưa nay chưa từng đi xa khỏi cửa nhà, lại càng không biết đến những kỳ công dị nhân trong giang hồ là như thế nào hết.

Đại Đao Vương cố gắng lê lại gần, nhìn Thập Kiệt Nhất, gật đầu nói: “Cao thủ”, rồi sầm một tiếng đổ vật ra đất, không gượng dậy được nữa.

Lúc đó, mười mấy huynh đệ của Đại Đao Vương đã từ đằng sau chạy tới, thấy gã ngã ra đất hôn mê, bọn họ lập tức vây kín lấy Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất.

Một trung niên vừa gầy vừa cao vừa xấu xí, tuổi chừng ba mươi, tay cầm một thanh Trảm Thiết Đao tương tự, nét mặt biến đổi hết sức nhanh, nhìn vào thấy rất khó chịu, cất giọng quát to: “Con bà nó, dám đả thương Đại Đao Vương huynh đệ của ta, ngươi thật không muốn sống nữa rồi!”

Tuy nghe lời nói rất có lực độ, nhưng Liễu Dật thấy gã này tựa hồ gió thổi cũng bay. Còn hiện giờ chưa bay, chắc vì trong tay cầm thanh đao quá nặng.

Thập Kiệt Nhất toan lên tiếng giáo huấn cái khung xương kia mấy câu, bỗng nhiên một làn gió nhẹ thổi tới, trong gió lại văng vẳng một thanh âm dịu dàng, mềm mại, nghe rất êm tai: “Là ai không muốn sống nữa đấy?”

Thanh âm đó tựa như cuốn đến từ bốn phương, khiến người ta khó xác định được chỗ phát xuất. Vì vậy, nhất thời tất cả mọi người đều ngoảnh nhìn tứ phía, tìm xem nó vọng ra từ nơi đâu.

Liễu Dật cũng ngó nghiêng, thanh âm êm tai chưa từng nghe thấy trong đời... chỉ nghe thôi, cũng biết đó là một nữ tử, mà chắc chắn là cười lần thứ nhất thì nghiêng thành, cười lần thứ hai thì nghiêng nước, cười lần thứ ba có khi chết người luôn.

“Soạt”, một đạo hào quang bạch sắc rơi ngay xuống lưng ngựa của Thập Kiệt Nhất. Liễu Dật liền nhận ra, đương nhiên, vì y đang ở gần con ngựa nhất... Đạo hào quang tan đi, một bạch y nữ tử tuyệt sắc xuất hiện ngay trước mắt...

---------------------------------------------

(15) VoDanhKhach dịch - Nguồn: vietkiem.com

Gió mây trời đất có ta đây

Dấn bước giang hồ nguyệt đã phai

Cơ đồ sự nghiệp như cười nói

Làm sao sánh được một giấc say.

-oOo-

Hồi 10: Nhân gian tiên tử, Tây Thục thần bí hành

( Người như tiên tử hạ phàm, Chàng đi Tây Thục, nàng về Côn Lôn)

Trong cuộc đời, mọi ảo mộng sớm muộn gì cũng thành hư không, sao vẫn phải khổ sở tranh đoạt? Có điều, ý nghĩa của sinh mệnh, vốn lại chính là tranh đoạt...

(Cổ Long - Luận)

Tăng chi nhất phân tắc thái trường, giảm chi nhất phân tắc thái đoản,

Trứ phấn tắc thái bạch, thi chu tắc thái xích.

Mi như thuý vũ, cơ như bạch tuyết,

Yêu như thúc tố, xỉ như hàm bối.

Yên nhiên nhất tiếu, hoặc dương thành, mê hạ thái.” (16)

Ngắm mỹ nhân trước mắt, Liễu Dật lại buột miệng ngâm lên một đoạn từ.

Bạch y thiếu nữ nhìn bộ dạng ngây ngây của Liễu Dật, không nén được khúc khích cười: “Đúng là mọt sách mà!”

Thập Kiệt Nhất là người thứ hai nhận ra sự xuất hiện của bạch y thiếu nữ, gã xoay hẳn lại nhìn. Vốn đang định nổi giận, mắng mỏ mấy câu, nhưng thấy nàng một trang tuyệt sắc khuynh thành như vậy, Thập Kiệt Nhất quên bẵng rằng cái mồm mình há ra là để nói.

Còn khung xương và mười mấy huynh đệ của gã thì mắt như tóe lửa, thậm chí đủ nóng để xào nấu.

Liễu Dật lấy lại bình tĩnh trước tiên, y lịch sự hỏi: “Cô nương là tiên nữ phương nào, mà hạ lạc chốn nhân gian này thế?”

Bạch y thiếu nữ tươi cười nói: “Tiểu nữ đến từ cõi Côn Lôn, tục gia đệ tử đời thứ mười hai của Thần Môn, tên gọi Thủy Nhi. Vừa nãy... vô tình đi qua đây, nghe thấy có người nói muốn chết, tiểu nữ mới cố ý lại xem nhiệt náo, tiện thể giúp siêu độ cho người chết đó luôn!”

Liễu Dật phá lên cười ha ha, hiển nhiên là hết sức thú vị với những lời ấy...

Mấy tên cường đạo kia lại cảm thấy không có gì là đáng cười hết, vì chúng nghe tiểu cô nương này nhắc đến Thần Môn... Đó là một danh từ đáng sợ, một danh từ không nên lọt vào tai những kẻ hạ đẳng như bọn chúng.

Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất cùng nhận ra vẻ nhăn nhó của bọn cướp, Liễu Dật hỏi: “Các vị hình như khó ở?”

Khung xương kia lắc đầu quầy quậy như trống bỏi: “Không, không!”

Thủy Nhi khe khẽ cười, má xoáy lúm đồng tiền mê hồn, nàng êm ái nói: “Nhất định là trong người có chỗ nào đó không được khỏe. Thủy Nhi khuyên các vị mau về nghỉ đi, nếu không, ai chà, Thủy Nhi lại phải ra tay chữa trị cho các vị đấy!”

Khung xương vội vã: “Đâu... không có... đúng... vâng, lập tức!”

Đoạn gã vẩy tay, không ngoái đầu lại, lao đi với tốc độ nhanh gấp trăm lần lúc đến, mất hút luôn trong đám bụi mù.

Liễu Dật trông theo, cảm thấy rất kỳ quái, y hỏi Thập Kiệt Nhất: “Vừa rồi xảy ra chuyện gì vậy?”

Thập Kiệt Nhất ngó Đại Đao Vương vẫn còn mê man trên mặt đất: “Hình như chúng ta gặp phải lục lâm hảo hán, sau đó... bọn chúng bỏ chạy.”

Thủy Nhi nhìn hai người nghi hoặc, thấy anh hỏi một đằng, tôi trả lời một nẻo, bất giác ôm cái eo nhỏ xinh cười khúc khích...

Liễu Dật nhìn nàng: “Thủy Nhi tiên tử, cô cười cái gì? Đó không phải bọn cướp sao? Chạy gì mà nhanh thế!”

Lúc ấy, Đại Đao Vương bỗng động một cánh tay, chậm chạp bò dậy nói: “Tại vì tiểu cô nương này là người của Thần Môn, chúng ta không dám trêu vào.”

Liễu Dật nhìn xuống, hê, tên Đại Đao Vương này dai sức thật, y hỏi: “Thần Môn là cái gì?”

Thủy Nhi đưa cặp mắt tuyệt đẹp quan sát Liễu Dật, rồi hỏi bằng một giọng ra ý lạ lùng: “Chẳng lẽ đến môn phái đứng đầu trong tam giới, công tử cũng không biết hay sao?”

Thập Kiệt Nhất và Liễu Dật đồng lắc đầu: “Chưa từng nghe qua! Chắc nổi tiếng lắm?”

Đại Đao Vương cắm thanh đao xuống đất, rồi tựa vào đó để gượng dậy: “Đương nhiên là rất nổi tiếng. Trong tam giới, mạnh nhất và lớn nhất là Thần Môn của Tiên tộc, Kiếm Môn của Nhân gian và Ma Môn của Ma tộc, ba môn phái này thống lĩnh tất cả các môn phái lớn nhỏ khác, nên được xưng tụng là môn phái đứng đầu.”

“Oa, đại ca, huynh biết thật là nhiều!” Thập Kiệt Nhất vốn ưa thích những chuyện giang hồ, vừa nghe là mê ngay, gã vội vàng giúp Đại Đao Vương phủi bụi đất bám trên mình, miệng hỏi: “Thế bây giờ trong số đó thì môn phái nào là mạnh nhất?”

Đại Đao Vương thấy tiểu tử này thay đổi nhanh quá, liền ra vẻ quan trọng, khục khặc đáp: “Vốn có hai môn phái mạnh nhất, là Kiếm Môn và Ma Môn, tính cho đến thời điểm hai mươi năm về trước. Lúc đó đệ tử hàng đầu của Kiếm Môn khiêu chiến Vị Linh Phong, tộc trưởng Ma tộc, đến nay vẫn là một giai thoại thiên cổ.”

Đại Đao Vương có vẻ biết khá nhiều, Thủy Nhi tuy là đệ tử của Thần Môn mà cũng phải giương to mắt, chăm chú lắng nghe. Còn Liễu Dật, tuy không hứng thú gì với câu chuyện ấy, nhưng khi nghe đến ba chữ Vị Linh Phong, y có cảm giác hết sức than thiết, hết sức quen thuộc, tự nhiên cũng tiếp tục theo dõi.

Thập Kiệt Nhất không ngừng thôi thúc: “Đại Đao ca, sau đó thì sao?”

Đại Đao Vương vặn lưng, nói: “Hơi tê, bóp giúp ta một chút.”

Thập Kiệt Nhất lập tức ngoan ngoãn chạy lại đấm bóp cho gã.

Đại Đao Vương hắng giọng tiếp: “Đệ tử hàng đầu của Nhân gian giới, Lãnh Kiếm, là một nhân vật như thần thoại. Truyền thuyết nói kiếm pháp của y đã đạt tới cảnh giới hủy thiên diệt địa. Để ấn chứng Lôi Vân Kiếm của mình, y đi tìm tộc trưởng Ma tộc, cũng chính là người chấp chưởng Ma Môn, Vị Linh Phong.

Vị Linh Phong là một nhân vật còn thần bí hơn, truyền thuyết về y không nhiều. Chỉ biết y sử một thanh ma kiếm, tên gọi Bi Mộng, là vật truyền lại từ ngàn năm. Truyền thuyết cũng nói y đã luyện được tới tầng thứ mười một Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp, là đệ nhất tâm pháp của Ma giới.

Hai người ước định vào đêm trăng tròn, ngày rằm tháng tám, lên tỷ kiếm ở đỉnh Mộng Vân Bách Hoa. Lãnh Kiếm là đại diện của Nhân gian giới, là một vì sao không bao giờ tắt. Còn Vị Linh Phong là một ma đầu, bảo vệ cho vinh dự của Ma tộc. Họ quyết chiến trên Bách Hoa Phong suốt bảy ngày, cuối cùng thể lực suy giảm, nên phải chấm dứt trận so kiếm.”

Thập Kiệt Nhất vội vàng hỏi dồn: “Vậy, rốt cục ai đã thắng?”

Đại Đao Vương nhìn Thập Kiệt Nhất với vẻ lạ lùng: “Ngươi ở quê lên phải không? Làm sao mà buổi luận kiếm long trời lở đất như thế ngươi cũng không biết?”

Thủy Nhi cười khúc khích, cất giọng êm ái nói: “Họ đánh hòa, hình như hai bên tỷ thí cả thảy sáu lần, mỗi lần cách nhau một năm.”

Đại Đao Vương gật đầu, ngó Thập Kiệt Nhất với vẻ rất khinh thị: "Tiểu nha đầu này còn biết, mà ngươi thì cái gì cũng mù tịt!"

Liễu Dật nói với Đại Đao Vương: “Chúng ta không phải người trong giang hồ, sống cuộc sống bách tính rất bình phàm. Những chuyện bên ngoài, chúng ta làm sao mà biết được?”

Đại Đao Vương gật đầu: “Cũng phải, nói cũng có lý. Nhưng hình như gần đây giang hồ lại nổi trận phong ba, Thần Môn xưa nay vẫn lặng lẽ đột nhiên ra mặt tranh đoạt ngôi vị Tiên Giới Đệ Nhất Môn với Thiên Môn. Có phải không tiểu cô nương?”

Thủy Nhi mở to mắt nhìn Đại Đao Vương: “Không ngờ ngươi biết nhiều chuyện thế?”

Đại Đao Vương tự mãn nói: “Tất nhiên, tin tức ngầm của ta tương đối chuẩn, mau, chính xác. Người trong giang hồ vẫn gọi ta là Tiểu Cường.”

Liễu Dật nghe vậy, chợt nghĩ ra một chuyện, bèn bảo: “Thập Nhất, đưa bức vẽ A Cửu ra đây, hỏi xem Đại Đao Vương có tin tức gì về A Cửu không?”

Thập Kiệt Nhất vâng lời, liền lấy bức họa A Cửu giở ra đưa cho Đại Đao Vương xem.

Đại Đao Vương mở to hai mắt, vừa ngắm vừa lẩm bẩm: “Hơ hơ, hôm nay Đại Đao ta thật được thỏa con mắt, một lúc mà gặp đến hai mỹ nữ.”

Liễu Dật sốt ruột: “Huynh nói lăng nhăng cái gì đấy, ta hỏi huynh đã nhìn thấy nữ tử này bao giờ chưa?”

Đại Đao Vương lúc lắc đầu: “Chưa!”

Thập Kiệt Nhất thu lại bức tranh: “Chẳng phải huynh nói tin tức ngầm của huynh linh thông lắm sao?”

Đại Đao Vương ấm ức: “Mỗi ngày bao nhiêu chuyện xảy ra, ta không thể nắm bắt hết được!”

Thủy Nhi hiếu kỳ đưa cặp mắt to quan sát một lúc, rồi hỏi: “Công tử, bức họa đó, có thể cho Thủy Nhi xem một lát không?”

Liễu Dật gật đầu ra hiệu cho Thập Kiệt Nhất, gã ngốc liền đưa tranh qua. Thủy Nhi mở ra xem, mắt mở càng to hơn, nàng phấn khích nói: “Vị tỷ tỷ trong tranh này đẹp quá chừng!”

Liễu Dật nhìn vẻ kinh ngạc của nàng, lắc đầu nói: “So với Thủy Nhi tiên tử vẫn còn kém xa!”

Thủy Nhi hơi đỏ mặt: “Cái miệng con mọt sách này sao mà trơn thế!”

Liễu Dật hỏi: “Thủy Nhi tiên tử đã nhìn thấy cô nương trong tranh bao giờ chưa?”

Thủy Nhi lắc đầu: “Chưa, cô nương này đối với công tử rất quan trọng phải không?”

Liễu Dật đáp: “Không phải là rất quan trọng, mà là cực kỳ quan trọng, hết sức quan trọng!”

Thủy Nhi gật gù nói: “Ta nghĩ có một nơi chắc đã nhìn thấy cô nương này!”

Liễu Dật tựa như đang trong sa mạc gặp nước nguồn, vội vã hỏi: “Ai nhìn thấy?”

Thủy Nhi đáp: “Không biết công tử đã nghe nói đến chưa, trong Nhân gian giới của các vị có một tổ chức rất thần bí. Tổ chức này chuyên mua bán tin tức, giao tin tức để lấy thù lao.”

Liễu Dật lắc đầu, Đại Đao Vương lên tiếng: “Ta biết, có phải Vạn Kim Lâu không?”

Thủy Nhi đáp: “Đúng rồi, danh tự của tổ chức này là Vạn Kim Lâu. Nghĩa là bất kể tin tức như thế nào, trước hết hãy trả một vạn lượng bạch ngân làm lệ phí đã!”

Liễu Dật lẩm bẩm: “Lại có một tổ chức như vậy kia đấy! Nếu biết sớm, có phải đã tiết kiệm được bao nhiêu thời gian rồi không?”

Thủy Nhi nói: “Nhưng địa điểm cụ thể của họ ở đâu thì ta lại không rõ. Ta cũng mới lần đầu hạ sơn đi giúp việc cho sư phụ thôi!”

Đại Đao Vương vỗ ngực: “Cái này ta biết!”

Liễu Dật sáng mắt: “Ở đâu?”

Đại Đao Vương kiêu ngạo nói: “Ở Tây Thục, địa điểm cụ thể ta không chỉ vẽ rõ được. Nhưng nếu bảo ta đi, ta nhất định sẽ tìm thấy!”

Liễu Dật đưa mắt ra hiệu cho Thập Kiệt Nhất. Thập Kiệt Nhất lập tức bảo: “Vậy huynh đưa bọn ta đi tìm đi!”

Đại Đao Vương chĩa đầu ngón tay lên: “Muốn ta đưa đi cũng được, nhưng mà, phải có thù lao! Mà cao lắm đấy nhé, hai vị nên chuẩn bị tâm lý trước!”

Liễu Dật ưng thuận: “Được mà, muốn bao nhiêu, huynh cứ nói xem!”

Đại Đao Vương giơ tay, xòe năm ngón ra trước mắt Liễu Dật.

Liễu Dật ngó thấy bèn nói: “Thập Nhất, đưa cho hắn ngân phiếu năm nghìn lượng!”

Mắt Đại Đao Vương lóe lên, gã lẩm bẩm: “Ta muốn nói là năm trăm lượng, ai ngờ lại đưa nhiều như vậy!”

Thập Kiệt Nhất rất thính tai, vừa nghe thấy liền nói: “Lão đại, tiểu tử này nói năm nghìn lượng là nhiều, hắn chỉ cần năm trăm lượng thôi!”

Không để Đại Đao Vương kịp xảo biện, Liễu Dật đã nói: “Được, đưa trước năm trăm, đợi tìm ra tổ chức ấy rồi đưa nốt bốn nghìn năm trăm lượng còn lại.”

Đại Đao Vương muốn bật khóc, nhưng chẳng làm thế nào được, người ta là khách, mình phải đáp ứng yêu cầu vậy.

Liễu Dật nói: “Tốt rồi, chúng ta xuất phát thôi!”

Liễu Dật quay trở lại lưng ngựa, đột nhiên nhận ra Thủy Nhi trên yên con ngựa kia đang mỉm cười ngọt ngào với mình. Thập Kiệt Nhất ngơ ngác nói: “Lão... lão đại, con... con ngựa của đệ!”

Liễu Dật nói: “Thủy Nhi tiên tử đã thích cưỡi, thôi thì đệ và Đại Đao Vương tạm đi bộ. Đến Kiếm Môn Quan phía trước kia, chúng ta sẽ mua thêm hai con!”

Thập Kiệt Nhất chẳng biết nói thế nào, nhưng gã cũng thích thú, vì ít nhất vẫn còn có thể tiếp tục hỏi Đại Đao Vương chuyện của Lãnh Kiếm và Vị Linh Phong.

Cứ như vậy, hai người đằng trước nói chuyện vui vẻ, hai người đằng sau nói chuyện cũng vui vẻ, thẳng hướng Kiếm Môn Quan...

Chuyện sau sẽ ra sao? Những người trẻ tuổi đó sẽ hành xử thế nào? Khi Thập Kiệt Nhất biết sư phụ của mình chính là Lãnh Kiếm trong truyền thuyết, ngôi sao sáng của Nhân gian giới, gã sẽ có phản ứng gì?

--------------------------------------------------

(16) Dịch nghĩa:

Thêm một phân thì quá dài, giảm một phân thì lại ngắn,

Dồi phấn thì trắng quá, thoa son thì đỏ quá

Mày như chim trả, da như hoa tuyết,

Eo như thắt chỉ, răng như ngậm ngọc

Nụ cười duyên dáng, dung mạo diễm kiều.

-oOo-

Hồi 11: Nhật lạc nguyệt xuất, Lang Vương động ngộ hiểm

( Cả ngày vất vả kiêm trình, Động trung ngộ hiểm tương phùng Lang Vương)

Trên thế giới thật có quá nhiều sự việc kỳ dị, có những sự việc mà ta cho rằng không bao giờ xảy ra, thì nó vẫn xảy ra.

(Cổ Long - Luận)

Thủy Nhi tiên tử tới đây có phải quay về Thần Môn không?” Liễu Dật nhìn Thủy Nhi hỏi.

Thủy Nhi nhẹ gật đầu nói: “Chúng ta phải chia tay tại đây, công tử phải đi Tây Thục, còn tiểu nữ thì về Côn Lôn tây cảnh, chúng ta môn lộ bất đồng.”

Liễu Dật gật đầu nói: “Đúng vậy, tiểu sinh còn phải đa tạ Thủy Nhi tiên tử đã tương trợ, chúng ta chia tay tại đây nhé?”

Thủy Nhi gật đầu, mỉm cười ngọt ngào nói: “Công tử còn chưa cho tiểu nữ biết quý danh đó.”

Liễu Dật liền ôm quyền, nói: “Tiểu sinh họ Liễu, tên Dật, người Giang Nam.” rồi chỉ Thập Kiệt Nhất nói: “Đây là huynh đệ của tiểu sinh, tên gọi Thập Kiệt Nhất, là đương kim thập đại kiệt xuất thiếu niên.”

Thủy Nhi nhãn thần lộ vẻ kỳ quái nhìn Liễu Dật từ trên xuống dưới, thanh âm lộ vẻ mừng rỡ phi thường, nói: “Ồ... tiểu nữ biết rồi, công tử chính là Giang Nam thư sinh. Người ta nói công tử là một đại tài tử. Sư phụ tiểu nữ cũng có một bức họa do ngài vẽ. Bức họa Lão Nhân đó được sư phụ xem như bảo bối, đến xem cũng không cho tiểu nữ xem nữa.”

Liễu Dật cười nhẹ, lắc lắc đầu nói: “Tài tử gì chứ, thư sinh là cái thứ vô dụng nhất trong thiên hạ đó!”

Thủy Nhi mỉm cười nói: “Ài, thư sinh đâu có vô dụng. Công tử có thể thi lấy công danh, công tử cũng có thể học võ công nữa.”

Liễu Dật lắc lắc đầu: “Không được đâu, tiểu sinh không thích học võ công, học võ công sẽ đánh người, mà đánh người thì sẽ làm người chết. Không tốt, không tốt.”

Thủy Nhi nhìn nhìn Liễu Dật ra vẻ kỳ quái, nhịn không được cười lên một tiếng, nói: “Ngốc tử, học võ công có thể cứu nguời, có thể giúp người bị nạn, trừ cường phù nhược, sách vở thánh hiền nói vậy mà."

Liễu Dật lắc mạnh đầu nói: “Không học.”

Thủy Nhi nhìn nhìn hình dáng của hắn, nói tiếp: “Giang hồ là nơi hung hiểm vô cùng, nếu như công tử nói sai một câu thôi thì có thể đầu rơi xuống đất, công tử không muốn học cái gì đó có thể tự bảo vệ mình sao?”

Liễu Dật tiếp tục lắc đầu, nói: “Một là tiểu sinh không muốn, hai là cảm thấy không cần thiết, bên cạnh tiểu sinh còn có Thập Kiệt Nhất là một cao thủ lợi hại, cần gì phải học nữa?”

Thủy Nhi cảm thấy Liễu Dật nói có điều gì đó không thông, nhưng cũng lắc đầu nói: “Nhân ngoại hữu nhân! Sớm muộn gì công tử cũng gặp thất bại. Thôi, đến lúc tiểu nữ cũng nên đi rồi, công tử không cần tiễn, chúng ta hậu hội hữu kỳ.”

Liễu Dật cũng ôm quyền: “Hậu hội hữu kỳ.”

Thủy Nhi quay đầu nhìn Thập Kiệt Nhất nói: “Thập Nhất đại ca, cám ơn đã tặng ngựa, Thủy Nhi xin phép cáo từ.”

Thập Nhất ngớ ngẩn cười, cũng ôm quyền nói: “Thủy Nhi đi thong thả.”

Thủy Nhi cười nhẹ, để lại một hình ảnh dung diện tuyệt mỹ, rồi từ từ biến mất trong đám bụi đường.

“Hồi đầu nhất tiếu bách mị sinh, Lục cung phấn đại vô nhan sắc.” (17) Liễu Dật nhìn theo Thủy Nhi, lắc đầu, tự thán.

Thập Kiệt Nhất cùng Đại Đao Vương đến cạnh Liễu Dật, Thập Kiệt Nhất nói: “Lão đại, chúng ta nên lên Thục Trung, qua Thục đạo, lão tiểu tử này nói ta có thể tiết kiệm được nửa tháng đó.”

Liễu Dật mừng rỡ, trước đây đã tốn hết một tháng rồi, giờ thời hạn chỉ còn hai tháng nữa thôi, thật là ít quá. Giờ tiết kiệm được nửa tháng thì còn gì bằng.

Liễu Dật nhìn nhìn Đại Đao Vương nói: “Nghe nói Thục đạo xuyên mây, rất khó qua phải không?”

Đại Đao Vương nhẹ gật đầu nói: “Kỳ thật cũng không khó lắm, hiện tại Thục đạo dễ đi hơn nhiều, và cũng có sơn lộ khả dĩ đi được.”

Liễu Dật nhẹ gật đầu, nói: “Tốt lắm, chúng ta hãy mau kíp lên đường, không biết Vạn Kim Lâu có thể tìm được chút tin tức gì của Cửu công chúa không nữa!”

Đại Đao Vương tự tin nói: “Có, chắc chắn là có, chủ nhân Vạn Kim Lâu có một quả thủy tinh cầu có ma lực, truyền thuyết đó là con mắt của Thiên Giới tộc, có thể thấy được quá khứ vị lai, chỉ cần ngươi có tiền, đừng nói một cô nương, mà một con kiến ông ta cũng có thể tìm ra cho ngươi.”

Liễu Dật sắc mặt lộ vẻ kinh ngạc, hỏi: “Thật có chuyện này ư?”

Đại Đao Vương nhìn Liễu Dật nói: “Thủy Nhi cô nương nói ngươi là một ngốc tử quả không sai, trên giang hồ kỳ sự nhiều vô kể, ngươi biết được bao nhiêu? Từ từ mà học đi.”

Thập Kiệt Nhất nổi nóng, vung quyền trước mặt Đại Đao Vương, gằn giọng nói: “Lão tiểu tử, dám nói lão đại ta thiếu hiểu biết hả! Lão đại đã nói với ta, hắn đã đọc tất cả từ sách vở, trong sách gì đó có... có ngọc bích gì đó, còn có hòan kim ốc gì đó. Ngươi biết không?”

Đại Đao Vương ngẩn người nhìn chăm chăm Thập Nhất, lắc mạnh đầu nói: “Không hiểu, không hiểu. Chúng ta lên đường cho nhanh.” Nói xong không lý gì tới Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất nữa, hướng về phía trước mà tiến tới.

Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất liền theo sau Đại Đao Vương.

Sau vài ngày phi nước đại, ba người đã tới phía dưới Thục đạo, tới đây thì căn bản là không đi ngựa được nữa, chỉ có thể bộ hành mà thôi.

Đại Đao Vương nhảy ngay xuống ngựa nói: “Đây là Thục đạo, chúng ta qua dãy núi kia thì có thể đến Thục Trung.”

Liễu Dật quay đầu nhìn, vực sâu thăm thẳm, núi cao chọc trời, chỉ cần sẩy chân là tan xương nát thịt thực là nguy hiểm. Liễu Dật thần sắc buồn rầu nói: “Đại Đao huynh, có đường nào khác có thể qua được không? Ở đây nguy hiểm quá.”

Đại Đao Vương lắc đầu nói: “Cũng có một đường khác, bất quá đường đó toàn núi cao chọc trời, người thường không đi được, chỉ có các võ lâm cao thủ có thể đi mà thôi.” Đại Đao Vương vừa đi về phía trước vừa nói.

Liễu Dật cũng theo sau hắn, hỏi tiếp: “Vì sao chỉ có võ lâm cao thủ mới đi được?”

Đại Đao Vương vừa đi vừa quay đầu lại nói: “Ngươi thật là ngốc mà. Những người tu hành cao là võ lâm cao thủ, căn bản không phải là những người chúng ta có thể tưởng tượng được, ví dụ như Kiếm Môn ở Nhân Gian giới, họ có thể đứng trên đỉnh núi mà ngự kiếm phi hành, Thiên Giới cảnh có thể sử dụng pháp bảo tự luyện để bay qua Thục đạo, võ công Ma Tộc rất thần bí, hoàn toàn có thể tự thân phi độ. Những kỳ sự này không phải là thứ mà người thường chúng ta có thể hiểu được.”

Liễu Dật nghe Đại Đao Vương nói thì kinh ngạc lắm, ngoài thế giới của mình còn một thế giới huy hoàng tráng lệ khác. Đó là giang hồ? Trước đây Liễu Dật cực kỳ ghê tởm cái gọi là giang hồ đó, ghê tởm những kẻ chỉ thích đánh đánh giết giết; nhưng hôm nay nghe Đại Đao Vương nói hắn bắt đầu ao ước có được bản lĩnh thượng thiên nhập địa đó.

Thập Kiệt Nhất nghe đến xuất thần, khi Đại Đao Vương nói xong, trong mắt hắn có một tia ao ước không nói được thành lời.

Cứ thế, ba người không biết đã đi được bao lâu, chỉ biết ngày tàn trăng lên, ba người vẫn còn đi quanh Thục đạo.

Đại Đao Vương chỉ về phía một sơn động nói: “Hai vị lão đại, trời đã tối, chúng ta cũng đã đến lối vào sạn đạo.”

Liễu Dật nhìn mặt trăng phía trên nhẹ gật đầu nói: “Cũng tốt, ta cũng đã mệt rồi, hôm nay chúng ta nghỉ ngơi dưới sơn động này, sáng mai tiếp tục lên đường.”

Đương nhiên, Liễu Dật thật sự đã rất mệt, hắn chỉ là một thư sinh, không có chút võ công, cùng đi với Thập Kiệt Nhất, Đại Đao Vương trên Thục đạo một ngày trời, hoàn toàn là vì áp lực cứu A Cửu. Bằng không một người thường không bao giờ đi cả ngày trên núi như thế này.

Ba người tiến đến trước cửa sơn động, Thập Kiệt Nhất thấy phía trái cửa sơn động có ba đại tự, Lang Vương Động.

Thập Kiệt Nhất nhìn ba đại tự: “Sao sơn động này cũng có tên nhỉ? Ai đã viết vậy?”

Đại Đao Vương nghe được cũng nhìn ba chữ “Lang Vương Động”. Sau khi nhìn ba chữ đó, Đại Đao Vương biến sắc nói: “Thôi rồi, hết rồi, sao chúng ta xui xẻo vậy chứ?”

Liễu Dật nhìn thái độ của Đại Đao Vương, cảm thấy kỳ quái hỏi: “Chuyện gì vậy?”

Đại Đao Vương nói: “Các ngươi không phải là người giang hồ, nên không biết trong giang hồ có lưu truyền một bài thơ.”

Liễu Dật nghe đến thơ thì tinh thần phấn chấn, liền hỏi: “Thơ gì vậy?”

Đại Đao Vương ngẫm nghĩ rồi đọc:

“Lang, Hổ, Long, Phượng, Kỳ, Lân động.

Lãnh kiếm, nghịch thiên, thần thập tam.

Bi mộng, lưu vân, kinh diễm thương.

Thập kiếm, tam ma, cửu vân thiên.”

Liễu Dật nghe nhưng không hiểu, liền hỏi: “Ngươi nói vậy nghĩa là gì?”

Đại Đao Vương giải thích: “Câu đầu nói về đương kim lục đại thần thú ‘lang, hổ, long, phượng, kỳ, lân’. Câu sau nói về ba vị ẩn thế cao thủ, cùng với ba tuyệt thế thần binh, cuối cùng là nói về hai mươi hai vị nhất đại cao thủ của tam giới.”

Liễu Dật hỏi tiếp: “Câu thơ đó với sơn động này có quan hệ gì?”

Đại Đao Vương lắc lắc đầu nói: “Ngươi không biết đó thôi, Lang Vương chính là một trong lục đại thủ hộ thần thú. Trong truyền thuyết Lang Vương ẩn mình ở giữa Thục đạo; rất ít người thấy Lang Vương hiện thân.”

Không chờ Liễu Dật trả lời, Thập Kiệt Nhất tự hồ minh bạch những gì Đại Đao Vương đã nói, liền hỏi: “Ngươi nói... trong động này có khả năng là nơi ở của thủ hộ thú trong truyền thuyết?”

Đại Đao Vương nhẹ gật đầu không nói.

Thập Kiệt Nhất thập phần hưng phấn nói: “Ý ngươi là tối nay chúng ta khỏi phải ăn lương khô, chúng ta có thịt ăn rồi phải không?”

Đại Đao Vương nhãn thần lộ vẻ kỳ quái nhìn Thập Kiệt Nhất, nói: “Ngươi nói gì vậy? Lục đại thần thú là vua của các loài vật ở tam giới, chúng có sức mạnh rất đáng sợ, vậy mà ngươi còn muốn ăn thịt chúng?”

Ba người cùng xem xét sơn động, một âm thanh thê lương vọng tới, đích thị tiếng sói tru, ba người cùng cảm thấy khí lạnh dâng lên trong người, ba người cùng quay về phía âm thanh vọng đến, đó không phải là Lang Vương Động sao?

---------------------------------------------

(17) Trích Trường Hận Ca (Bạch Cư Dị – Tản Đà dịch)

Một cười trăm vẻ thiên nhiên

Sáu cung nhan sắc thua hờn phấn son

(Nguồn: Thư viện Mai Hoa Trang)

-oOo-

Hồi 12: Lang Vương thần uy, Thập Nhất ngật đại khuy

( Lang Vương hiển lộ thần uy, Làm cho Thập Nhất phải ghi thiệt thòi)

Trầm mặc, có lúc cố nhiên là đáng quý hơn bất kỳ lời nói nào. Tịch mịch, có lúc cũng đáng sợ hơn bất kỳ âm thanh nào.

(Cổ Long - Luận)

Trời tối đen như mực, nhưng cả ba người đều cùng nhìn thấy một vật, một đôi mắt, giống như cặp đèn lồng, đó là cặp mắt biết phát sáng, ánh sáng màu lục thẫm, khiến người nhìn cảm nhận được một lực lượng khủng bố vô hình.

Lang Vương, một trong lục đại thủ hộ thần thú của tam giới, đại diện cho tốc độ và dã tính, từ thời Bàn Cổ khai thiên lập địa, đã tồn tại với thế giới này, với một sức mạnh vô thượng, nhưng Lang Vương Động có thể chứng kiến ngàn vạn năm lịch sử mà không phát sinh xung đột với con người, hoàn toàn là do Thục đạo cheo leo hiểm trở, ít người đi.

Tuy Đại Đao Vương là người dẫn đường, hiểu nhiều biết rộng, nhưng những nguy hiểm chân chánh của Thục đạo thì gã không tỏ tường, hiển nhiên là đã đưa Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất đi vào lãnh địa của Lang Vương.

Ánh sáng màu lục thẫm đó, từ từ di động ra ngoài, Liễu Dật và Đại Đao Vương tựa hồ có thể nghe được tiếng tim đập dồn dập trong lồng ngực mình, nhưng Thập Kiệt Nhất thì cực kỳ hưng phấn, cuối cùng cũng có thể đổi món rồi. Mấy ngày đi đường gấp rút, toàn trông vào lương khô lấp bụng, thật là khó chịu.

Thập Kiệt Nhất kêu lớn: “Lang huynh, ra đây nhanh đi, bụng của đệ đói lắm rồi. Nhanh!”

Cuối cùng, toàn thân Lang Vương cũng xuất hiện tại động khẩu. Ba người nhìn muốn rơi cả mắt. Đây là cái gì? Là chó ư? Bé tí xíu, thậm chí không bằng một con sói bình thường.

Chỉ thấy Lang Vương trong truyền thuyết này, toàn thân lông trắng xám, nhỏ hơn sói thường một chút, cắp mắt màu xanh lục nhìn trừng trừng Thập Kiệt Nhất không thôi.

Một thanh âm cất lên: “Lại có người muốn ăn thịt ta? Ha ha, lâu lắm không gặp kẻ nào thú vị đến thế.”

Ba người chưa kịp bình tĩnh, đã lại rụng rời. Lẽ nào đây là yêu quái trong truyền thuyết? Nó còn biết nói nữa.

Một trận cuồng phong đột nhiên nổi lên, khiến ba người phải nhắm nghiền mắt lại.

Khi gió ngưng, họ vội mở mắt ra, trước mặt đâu còn bóng dáng con sói nhỏ, thay vào đó là một thiếu niên vận y phục xám, cũng giống như Liễu Dật, phong vận thư sinh, đầu đội chiếc mũ tiêu dao, tay cầm quạt gấp, chỉ khí chất cũng đã vượt xa Liễu Dật, bộ dạng cao cao tại thượng, không thể xem thường. Nhìn người đó, Liễu Dật mới minh bạch thế nào là anh tuấn tiêu sái, thế nào là khí độ bất phàm.

Thiếu niên áo xám nhìn Thập Kiệt Nhất, mỉm cười hỏi: “Các hạ muốn ăn thịt ta chăng?”

Thập Kiệt Nhất hồ đồ đáp: “Huynh là ai? Ta muốn ăn thịt sói, đã lâu rồi ta chưa được ăn thịt.”

Thiếu niên áo xám cười tiêu sái: “Ta là con sói bé lúc nãy, là cái ‘thịt’ mà ngươi muốn ăn, lại còn hỏi ta là ai? Lâu lắm rồi chưa có người hỏi ta nhỉ, để ta nghĩ xem... ta tên là... Lang… Vương.”

Liễu Dật và Đại Đao Vương vừa nghe dứt, giật lùi mấy bước, trời ơi, hôm nay gặp yêu quái thật rồi, là sói thành tinh.

Thập Kiệt Nhất phản ứng hung dữ: “Con bà nó, mặt trời vừa xuống núi, ngươi đã ra đây hù dọa người ta, hãy xem Thập Nhất gia gia vì dân trừ hại, nếm thử một quyền của ta trước đây!” Nói xong, hữu quyền nhanh chóng nắm lại, đột nhiên tại giữa quyền đầu, ẩn ước có thể thấy xuất hiện những tia lôi điện.

Đại Đao Vương trông thấy, thất kinh nói: “Ở nơi hẻo lánh này lại thấy thật là nhiều chuyện lạ. Là ‘Bôn Lôi Quyền’ đấy ư? Nếu không có một giáp tí tu vi, làm sao có thể luyện thành, người huynh đệ này của ngươi thật là lợi hại à.”

Liễu Dật nghe Đại Đao Vương nói vậy, thì đâm ra thắc mắc, Thập Kiệt Nhất niên kỷ còn ít, tịnh không phải là người thông minh, làm sao lại luyện thành thứ quyền pháp cao thâm này chứ.

Chỉ thấy Lang Vương vẫn mỉm cười như vậy nói: “Tiểu tử ngốc này cũng biết chẳng ít chuyện. Bôn Lôi Quyền, quyền như sấm chớp, xé trời rạch đất, như phong như điện, là một loại quyền pháp vừa nhanh vừa mạnh, ngươi nhìn không giống loại người có thể luyện thành được à!”

Thập Kiệt Nhất chẳng để ý tới những lời châm biếm của Lang Vương, lớn tiếng nói: “Ta đã luyện được rồi đấy, thế nào, ngươi có muốn thử không?"

Lang Vương nhẹ gật đầu, thuận miệng nói: “Quyền đã vận lực, làm sao không phát được, để ta đỡ một Bôn Lôi Quyền của ngươi xem thử vậy.”

Thập Kiệt Nhất vốn chỉ định dọa tên yêu quái này thôi. Sư phụ hắn đã nói rằng, quyền pháp này bá đạo vô cùng, cương mãnh dị thường, ngay cả đương kim tam giới thập đại cao thủ, vậy mà cũng không thể chịu nổi loại quyền pháp này. Hà huống sư phụ đã cho hắn ăn một loại dị quả, trong một đêm tăng thêm cho hắn trăm năm công lực, tạo nên một Thập Kiệt Nhất như bây giờ. Sư phụ từng dặn đi dặn lại Thập Kiệt Nhất, nếu như không gặp phải nguy hiểm gì, ngàn vạn lần không được sử dụng Bôn Lôi Quyền.

Nhưng mà, hiện tại cái thằng cha tự xưng là Lang Vương kia, thật khi người quá đáng như thế, không ngờ hắn còn khích Thập Kiệt Nhất để hắn thử Bôn Lôi Quyền nữa chứ. Vốn dĩ Thập Kiệt Nhất tính khí đã không được tốt, làm sao mà chịu đựng nổi cái gã thư sinh mục hạ vô nhân này.

Thập Kiệt Nhất hét lớn một tiếng, như sấm sét trên chín tầng trời, nhảy vọt tới, tử sắc hòa trong luồng sấm sét đánh tới, kích thẳng đến trước ngực Lang Vương. Nhưng một sự việc kì quái đã xảy ra, Lang Vương vẫn đứng đó bất động, tựa như căn bản chẳng xem một quyền của Thập Kiệt Nhất ra gì, hoặc giả hắn quá sợ hãi đến độ không nhúc nhích được, cho nên ngay cả phản ứng của một người bình thường nên có, y cũng không có nữa.

“Ầm” một tiếng, cát bay đá chạy, y như xảy ra một vụ nổ lớn vậy, bụi đất bắn tung lên, sau khi Liễu Dật và Đại Đao Vương đã có thể thấy rõ cảnh tượng bên trong đương trường cũng đều đờ ra tại chỗ. Chuyện gì đã xảy ra vậy?

Chỉ thấy Lang Vương y phục thư sinh ấy chẳng bị sao cả, thong thả cầm cây quạt gấp nhẹ nhàng phe phẩy, còn Thập Kiệt Nhất tình trạng sắc mặt thì lại kém đi rất nhiều, lồng ngực phập phồng kịch liệt, hữu thủ chống lên một khối đá, cố gắng gượng để không ngã xuống, nhưng mặt mày hầu như trắng bệch, tình trạng đã thọ nội thương rất nặng nề.

Liễu Dật vừa thấy vậy, bất kể Đại Đao Vương kéo ra, liền sấn lên trước, đỡ lấy Thập Kiệt Nhất, đối diện trước gã thư sinh tự xưng là Lang Vương hét lớn: “Ngươi đã làm gì hắn rồi?”

Lang Vương nhìn Liễu Dật từ trên xuống dưới, cặp mắt đột nhiên sáng lên, tự nói: “Hảo căn cốt.”

Liễu Dật thấy Lang Vương chẳng phản ứng gì, lại quát lớn lần nữa: “Yêu quái, nói! Ngươi đã làm gì Thập Nhất rồi?”

Nhãn thần Lang Vương khôi phục lại vẻ bình tĩnh, chẳng hề giận dữ chút nào, chỉ cười nhẹ nói: “Hắn là bạn của ngươi à? Thân thủ của hắn thật làm ta ngạc nhiên đó, hoàn toàn có thể nằm trong số trăm cao thủ hàng đầu tam giới, nhưng… hắn thật là không may, bởi vì đã gặp phải ta, ta tưởng các ngươi chắc cũng phải biết đến Lang Vương.”

Liễu Dật nhìn thấy Thập Kiệt Nhất hư nhược, gần như muốn nổi điên lên: “Ta bất kể ngươi là Lang Vương, hay cẩu vương, đã ngang nhiên bức hiếp huynh đệ của ta, ta phải giết ngươi.” Ánh mắt Liễu Dật, chẳng còn chút hòa nhã nào nữa, trong cơn giận dữ đã phát lộ sát khí.

Lang Vương lắc đầu, nói: “Nghe đây này, bằng hữu của người không việc gì cả đâu, bất quá chỉ là bị phản chấn ngược bởi hộ thân cương khí của ta mà thôi, với trình độ nội công tu vi của hắn, không thể chết được đâu.”

Ngừng một chút, Lang Vương lại nói tiếp: “Ta không phải là yêu quái gì cả, ngươi chưa từng nghe qua thủ hộ lục đại thần thú ư? Ta chính là Lang Vương.”

Liễu Dật nghe được Lang Vương nói Thập Kiệt Nhất vô sự, mới cảm thấy yên tâm hơn…

Lang Vương lấy từ trong tay áo ra một hoàn đan dược màu đỏ to khoảng ngón tay cái, nhẹ nhàng búng đi. “Vút”một đạo hồng ảnh bay thẳng vào cổ họng Thập Kiệt Nhất.

Thập Kiệt Nhất chỉ cảm thấy một vật trong lành sảng khoái rơi vào cổ họng, thân thể vốn đang đau đớn tê liệt nhanh chóng chuyển biến, sắc mặt từ từ hồng hào trở lại.

Liễu Dật hỏi: “Ngươi cho hắn ăn cái gì vậy?”

Lang Vương cười nhẹ nói: “Một loại đan dược, ta phải lựa chọn tập hợp sương đọng cùng với trăm loại hoa nơi đây để tạo thành loại đan dược này đấy.”

Liễu Dật hiển nhiên là không hiểu những thứ này, nhưng tai lại nghe Đại Đao Vương đối với Lang Vương ấy càng lúc càng tôn kính, rõ ràng như đối với thần nhân, đã bước tới gần, nói: “Ngài chính là Lang Vương ư? Truyền thuyết nói ngài tính tình tàn bạo nóng nảy như thú hoang. Do mâu thuẫn với Thiên Long, vì thế mà phải rời bỏ Thiên giới, đến nơi Thục đạo tu hành có phải không?”

Lang Vương nhìn xuống Đại Đao Vương, gật đầu nói: “Chính thế, Thiên Long đã quá bá quyền, nhận ra hắn có thể thống trị được vạn vật, nhưng mà, cả tam giới đều có người thống lãnh của mình, thậm chí lực lượng Nhân, Ma, Tiên trong tam giới hoàn toàn có thể cùng hắn tranh đấu, hắn làm sao thống nhất được tam giới chứ?”

Đại Đao Vương lại tiếp tục hỏi tới: “Khó nói lắm. Ngài chính vì vậy mà phải xuống Thục đạo ư?”

Lang Vương gật đầu nói: “Ngàn năm cũng đã qua, không biết kế hoạch của Thiên Long đã ra sao rôi... trần thế như triều nhân như thủy, chỉ thán giang hồ kỷ nhân hồi (18) . Chẳng ngờ đến hôm nay lại bị ba người các ngươi đánh thức.”

Thập Kiệt Nhất dường như đã khá hơn rất nhiều, đứng dậy nói: “Cái lão già kia, đã già như thế, chẳng lạ lùng chi khi ta đánh không lại lão, ta luyện võ sau lão cả ngàn năm, chẳng phải lão quá nhiều thời gian sao.”

Lang Vương tựa như rất thích Thập Kiệt Nhất, không mảy may nổi nóng, cười nói: “Tên tiểu tử ngốc này, từ Bàn Cổ khai thiên ta đã có mặt trên thế giới này rồi, thời gian mà ta tu luyện ngươi có đếm cũng không đếm nổi đâu. Cùng lắm, ngươi cũng làm ta thật sự ngạc nhiên đó, người như ngươi mà muốn sử dụng Bôn Lôi Quyền có kết quả giống như thế, nếu không có thời gian tu luyện trăm năm, thì vô phương sử dụng nó, ngỡ rằng ngươi niên kỷ còn nhỏ, không ngờ lại sử dụng được thứ quyền pháp cao thâm này.”

Thập Kiệt Nhất gãi gãi đầu, ha ha cười nói: “Tất cả chỉ do sư phụ ta tùy tiện dạy cho, ta cũng không chú tâm học cho lắm. Sư phụ mới thật lợi hại à, nói rằng ta chỉ thích hợp luyện những loại quyền pháp cương mãnh, nên đã truyền cho ta bộ quyền pháp này. Ta tất cả chỉ học được cái vỏ ngoài của sư phụ mà thôi!”

Lang Vương nghe xong, sau cùng sắc mặt trở nên ngưng trọng, hỏi: “Thật có người này sao? Tên gọi là như thế nào?”

Thập Kiệt Nhất ngờ nghệch cười nói: “Kỳ thật... thì ta cũng không biết sư phụ gọi thế nào. Sư phụ chỉ truyền võ công cho ta, còn ta thì tập luyện, mà cũng đã qua mấy năm rồi ta chưa gặp lại sư phụ nữa.”

Lang Vương biến sắc mặt, không biết thời gian bế quan của mình có quá lâu chăng? Đối với thế giới này chưa thông hiểu hết, không rõ lại có cao thủ như thế, chỉ với một tên đồ đệ tư chất ngu độn, giáo huấn đến lợi hại thế này?

Đột nhiên, Lang Vương biến sắc mặt, thầm nói: “Không biết có phải là Thiên Long không? Như quả chính là hắn thu nhận tên đồ đệ này, điều đó cũng không lấy làm kỳ lạ, Nhưng... tại sao phải làm như vậy? Tự tìm kiếm không ra được một truyền nhân sao?”

Ánh mắt liếc qua một cái, Lang Vương dừng lại nhìn lên thân hình Liễu Dật, gật đầu.

Liễu Dật nhìn thấy thương thế Thập Kiệt Nhất trong một khoảng thời gian ngắn tự hồ đã hồi phục, tinh thần cũng đã tốt lên rất nhiều, thầm nói: “Tam thập lục kế tẩu vi thượng sách, cái lão già này một khi tâm tính không tốt, không khéo lại ăn thịt cả bọn mất.”

Liễu Dật ôm quyền nói: “Mọi sự cũng đã qua rồi, chúng tôi cũng xin phép cáo từ, xin lỗi đã làm phiền đến Lang Vương tiền bối thanh tu.”

Nói xong liền quay người theo đường cũ bước đi.

Lang Vương nhẹ vẫy cây quạt nói: “Chờ một chút.”

Liễu Dật vô thức dừng chân đứng lại, quay đầu lại hỏi: “Tiền bối, còn có việc gì nữa ư?”

Lang Vương hỏi: “Ngươi tên gọi là gì vậy?”

Liễu Dật nói: “Tiểu sinh Liễu Dật.”

Lang Vương gật gật đầu, nói: “Tốt lắm, bây giờ, ngươi có thể bái sư.”

Liễu Dật nghe xong, có chút ngơ ngác hỏi lại: “Bái sư? Bái sư gì chứ?”

Lang Vương hơi kinh ngạc nhìn Liễu Dật, nói: “Đương nhiên là ngươi bái ta làm sư phụ rồi, không lẽ ta lại bái ngươi?”

Liễu Dật nhìn nhìn Lang Vương, nhẹ nhàng phe phẩy quạt, quay bước đi, nói: “Tiền bối, người không thấy là đã nghỉ ngơi quá lâu rồi không, vẫn còn mơ mộng à? Tại hạ vì sao phải bái ngài làm sư phụ chứ?”

Lang Vương ngó Liễu Dật vẻ mặt kì quái, nói: “Ngươi chỉ cần bái ta làm sư phụ, thì ta sẽ truyền thụ cho ngươi võ công tuyệt thế, dương danh thiên hạ, muốn gió được gió, muốn mưa được mưa.”

----------------------------------------------

(18) Trần thế như triều dâng người như nước cuốn, đáng thương giang hồ mấy ai còn trở lại

-oOo-

Hồi 13: Tin tức Lâu chủ, hy vọng lại thất vọng

( Vượt ngàn dặm để mua tin, Nghe xong mới biết sự tình rối ren)

Hai thanh tuyệt kiếm lẻ loi, hai kẻ tuyệt thế cô đơn, sao lại lôi cuốn nhau đến thế.

Hai kiếm khách tuyệt thế cô độc, như hai ngôi sao băng, nếu có gặp nhau, nhất định sẽ va chạm kinh thiên động địa hoa lửa đầy trời. Hoa lửa ấy rồi sẽ tiêu biến trong chớp mắt, nhưng ánh sáng kia mãi vẫn chiếu rọi đến ngàn sau.

(Cổ Long - Luận)

Liễu Dật phe phẩy cây quạt gấp, nói: “Lời ngươi nói thực rất mê hoặc người ta, nhưng ta trời sinh không thích đánh đánh giết giết, đây cũng là lý do ta không thích tập luyện võ công. Ngươi tưởng thay đổi được phương châm sống hai mươi năm nay của ta sao?”

Lang Vương nhìn Liễu Dật, lắc lắc đầu nói: “Đáng tiếc, đáng tiếc! Căn cốt hoàn toàn tốt, cho dù có lãng phí như thế đi, ngươi thật sự nghĩ sinh sống được bình bình phàm phàm như vậy sao?”

Liễu Dật hỏi ngược lại: “Như thế có gì không tốt? ‘Xuân hữu bách hoa, thu vọng nguyệt, hạ hữu lương phong, đông thính tuyết’(19) , cuộc sống như thế không hơn chuyện đánh đánh giết giết nhiều lắm ư?”

Lang Vương cẩn thận đọc lại bài từ của Liễu Dật, khen: “Thơ hay! ‘Xuân hữu bách hoa, thu vọng nguyệt, hạ hữu lương phong, đông thính tuyết’, vậy ngươi nghĩ cuộc sống như thế phù hợp với ngươi sao? Bản thân ngươi trong tim tự sẵn có ma tính, tương lai, tam giới đại loạn, ngươi tìm đâu ra chốn đào viên ấy?”

Liễu Dật lắc đầu, nói: “Ma tính có trong tim mỗi người, ngươi không cần nói chuyện này với ta, tương lai tự bởi tương lai, loạn thế tự bởi anh hùng, nhưng đó không phải là ta, ta chỉ muốn một cuộc sống bình thường mà thôi.”

Lang Vương cuối cùng cũng nổi giận, bực tức nói: “Gỗ mục, gỗ mục mà! Căn cốt hoàn hảo từ xưa chẳng có được, mà lại lãng phí như thế. Thật là đồ gỗ mục mà!”

Liễu Dật lắc đầu, nói: “Tiền bối, hảo đồ đệ thì thiên hạ rất là nhiều, nếu như tiền bối quả thực là Bá Nhạc, thì lo gì không tìm thấy thiên lý mã?”

Lang Vương cuối cùng đành thở dài nói: “Ngươi không ngờ lại cố chấp như thế.”

Liễu Dật gập cây quạt lại, nói: “Liễu mỗ cáo từ. Tiền bối, chúng ta hậu hội hữu kỳ.”

Nói xong đầu không quay lại, hướng sang đường khác, lớn bước đi tới. Thập Kiệt Nhất vội theo sát phía sau.

Đại Đao Vương bước đến trước mặt Lang Vương, nói: “Tiền bối, tiểu tử đó cố chấp thái quá, ngài xem tiểu nhân... tiểu nhân như thế nào? Hơi kém một chút, bất quá... bất quá tiểu nhân nhất định sẽ cố gắng, ngài thu tiểu nhân làm đồ đệ chứ?”

Lang Vương lúc này đang rất giận dữ, Đại Đao Vương lại đến làm phiền ông ta, ánh mắt xanh thẫm lướt qua trên mặt Đại Đao Vương, hiểm độc nói: “Nếu ngươi không biến đi, ta nói ngươi có đủ tư cách đầu thai liền đó.”

Đại Đao Vương nghe được, từ chỗ có ý muốn bái sư, thấy khó bảo toàn cái tính mệnh nhỏ bé của hắn, liền quay người nhấc đại đao lên, thẳng hướng Liễu Dật vừa đi khuất đuổi theo.

Dưới ánh trăng, ánh mắt xanh thẫm của Lang Vương khiến người ta cảm thấy cực kỳ khủng khiếp, nhìn Liễu Dật biến mất, Lang Vương giận dữ nói: “Không ngờ lại có người nói với ta như thế, người muốn đầu nhập làm môn hạ Lang Vương ta nhiều như lông trên mình trâu, tại sao trên thế gian này lại có một kẻ khùng điên như vậy, ta nhất định phải thu nhận ngươi.”

Có lẽ Lang Vương đã kích động thái quá, hoặc giả nhân ảnh đang ở trên thân cây khô cách ngoài mười trượng quá mờ ảo, cho nên, Lang Vương căn bản không phát giác những hành động của mình đang hoàn toàn nằm dưới sự giám thị của kẻ khác.

Chỉ thấy trên thân cây khô cách ngoài mười trượng, một thân ảnh gần như trong suốt, toàn thân mang bạch y cũng dường như trong suốt, trong tay cầm một thanh trường kiếm lam sắc, chân đứng trên ngọn cây khô, đu đưa theo gió.

Đây tuyệt không phải do Lang Vương sơ hốt, mà vì thân pháp Tùy Thanh Phong quá ư huyền diệu, Lang Vương căn bản vô pháp phát hiện. Người này là ai? Công lực còn cao hơn cả thủ hộ thần thú Lang Vương nữa? Tuy vậy, bí ẩn này, có lẽ rồi sẽ được giải khai.

Lại nói về Liễu Dật, tăng nhanh cước bộ, cũng không có cảm giác mệt mỏi, chỉ mong muốn nhanh chóng ly khai cái nơi chết chóc này. Lang Vương Động, cái gã Lang Vương ấy thấy thật là đáng sợ, cảm giác rất khiếp đảm con người. Tuy Liễu Dật có thể đứng bên cạnh hắn nói chuyện, nhưng Liễu Dật không thể đảm bảo rằng một khắc sau Lang Vương ấy có giết mình không nữa.

Thấy đi đã đủ xa, Liễu Dật dừng lại dưới một gốc cây.

Thập Kiệt Nhất cũng đã dừng lại, nội thương một khắc trước đây dường như đã khỏi hẳn, xem ra tinh thần Thập Nhất đã tăng lên hơn trước, có vẻ tinh tiến về phương diện võ học, thật là rất thần kỳ.

Đại Đao Vương cố gắng chạy theo, cuối cùng cũng bắt kịp.

Liễu Dật tựa vào thân đại thụ, dần dần mụ mẫm đi, đó là vì hắn đã cảm thấy thật sự rất mệt, đã lâu lắm rồi hắn không đi một đoạn đường xa đến vậy, trong mơ hồ, Liễu Dật tự hồ ngâm nga một bài từ:

“Thân như mây trôi nước chảy,

Tâm như trăng sáng gió thanh,

Tiếu ngạo giang hồ đi cùng rượu,

Hữu tình hay chăng vô tình,

Tràn đầy chính khí cao thượng,

Một thanh kiếm tâm can đảm,

Giang sơn vạn lý chẳng nề phiêu linh,

Cả đất trời tại trong lồng ngực.”

Trong mơ hồ, Liễu Dật không nhớ mình đã đọc nó ở đâu. Dần dần mơ màng, rơi vào giấc ngủ, Liễu Dật dường như có một giấc mơ; giấc mơ này không ngờ lại là “giang san vạn lý nhâm phiêu linh, thiên địa tự tại hung trung.” (20)

Thập Kiệt Nhất cảm được dư vị bài từ của Liễu Dật. Bởi vì hắn đã ở bên cạnh Liễu Dật trong một thời gian dài, cho nên đối với bài từ, Thập Kiệt Nhất cũng rất thích. Sau khi Liễu Dật ngâm xong đoạn từ, Thập Kiệt Nhất ngẫm nghĩ một hồi, dần dần hắn cũng ngủ mất.

Đại Đao Vương nhìn hai người đều đã ngủ, một mình cũng thấy buồn, nằm xuống bên cạnh Thập Kiệt Nhất, cũng từ từ yên ngủ. Có lẽ cả ba người đều hoàn toàn mệt mỏi.

Đi trên những dốc sơn lộ như thế, bất cứ người bình thường nào, mà đi suốt cả ngày, có khi cũng đến chết mệt.

Ánh mặt trời chiếu thẳng xuống mặt ba người, Liễu Dật liền mở mắt ra, nhìn khắp xung quanh, toàn là Thục đạo hoang vu. Vỗ nhẹ Thập Kiệt Nhất, gọi hắn dậy. Còn Đại Đao Vương thì thấy rất khí thế, vì hắn sắp có thể nhận ngay được bốn ngàn năm trăm lượng còn lại, làm sao không phấn chấn cho được?

Liễu Dật lấy vài miếng lương khô ra ăn, nhấp chút nước, hỏi: “Đại Đao Vương, lộ trình còn bao xa nữa chúng ta mới có thể đến được vùng đất Thục?”

Đại Đao Vương nhìn về phía xa vô tận, ngẫm nghĩ nói: “Hôm qua đi nhanh như thế, ta nghĩ chúng ta có thể đến đất Thục vào giữa giờ ngọ hôm nay.”

Hy vọng ,có thể cho con người niềm tin to lớn nhất. Liễu Dật cũng là người, đương nhiên, khi có hy vọng Liễu Dật lập tức có thêm lòng tin, duỗi người chuẩn bị lên đường, nói: “Tốt lắm, ta đã ăn xong rồi, các ngươi chuẩn bị xong chưa?”

Thập Kiệt Nhất ăn hết miếng lương khô cuối cùng rồi nói: “Xuất phát! Ta phải đi tìm A Cửu thôi.” Nói xong, đã chạy thẳng tới trước.

Liễu Dật và Đại Đao Vương chẳng nhận thấy, nguyên lai ma lực của ái tình lớn đến vậy, ái tình khiến Thập Nhất bình thường ngủ dậy uể oải, đột nhiên một mình chạy lên trước; làm Liễu Dật và Đại Đao Vương lúc này phải khổ sở. Liễu Dật chưa từng luyện qua nội công tâm pháp, nên căn bản không có chút căn cơ nội công nào, đi mệt gần chết. Còn Đại Đao Vương tuy cũng có cơ sở, nhưng mà... quá tệ. Chỉ một chữ thôi: mệt.

Trong khi Thập Kiệt Nhất chạy, thỉnh thoảng dừng lại. Rốt cuộc, Liễu Dật cũng vượt qua dốc núi cuối cùng, đã đến được đất Thục. Mắt nhìn không thấy được biên giới tận cùng, nơi này thật là hoang vu, tuy nhiên... giữa một vùng hoang vu phía trước lại hiện ra một tòa tiểu lâu.

Liễu Dật chỉ tòa tiểu lâu đó, hỏi Đại Đao Vương: “Ngươi không nói ... tiểu lâu đó, chính là Vạn Kim Lâu trong truyền thuyết chứ?”

Đại Đao Vương gật đầu, nói: “Không sai, chính là nó. Trong đó chỉ có mỗi một lão bản, nhưng những thủ hạ còn lại của lão lại ở trong giang hô nghe ngóng thu thập tin tức.”

Liễu Dật nhìn toà tiểu lâu, thấy kỳ lạ hỏi: “Nhưng, ở đây chẳng có gì ăn cả, ông ta ôm đống vàng để rồi chết đói ư?”

Đại Đao Vương nhìn Liễu Dật một cái, nói: “Trời đất! Người ta có tiền, tùy tiện kiếm vài thủ hạ, muốn ăn gì mà chẳng có?”

Liễu Dật gật đầu nói: “Cũng đúng. Đi, tới đó xem sao chứ, chúng ta đã chậm mất một tháng rồi, nếu chẳng đúng như hy vọng, đó cũng là trời đã diệt Liễu gia ta rồi.”

Tuy nói như thế, Liễu Dật cũng rất bội phục ông chủ tòa Vạn Kim Lâu, không ngờ có thể sinh sống ở môt nơi hoang vu thế này. Thế này có được gọi là ẩn sĩ không nhỉ?

Có phần nào nghi hoặc, Liễu Dật cùng với Thập Kiệt Nhất theo Đại Đao Vương đi đến tòa Vạn Kim Lâu ấy. Vào đến bên trong, mọi thứ trông thấy rất gọn gàng ngăn nắp. Trong đại sảnh của tòa lầu ba tầng này, một lão già tóc bạc, toàn thân mặc một thứ y phục cổ quái, thân hình phì nộn y như lão Trư chuyển thế, chẳng sai một phân. Liễu Dật không lấy làm lạ, cuộc sống như thế này, làm sao mà không tạo ra được một đại thúc phì nộn thế chứ.

Đại Đao Vương bước lên trước, hi hi cười nhỏ nói: “Kim lâu chủ, ta mang sanh ý lại cho ông bạn đây.”

Lão béo nhìn Đại Đao Vương, rồi nhìn Liễu Dật, giọng the thé nói: “Sanh ý? Các ngươi có biết quy củ của Vạn Kim Lâu không?”

Liễu Dật bước lên trước một bước, phe phẩy cây quạt gấp nói: “Quy củ của quý lâu ta đã nghe vị Đại Đao huynh đệ này nói qua, nhưng mà, ta muốn tìm người, không biết là...”

Lão béo nhìn Liễu Dật một cái, cười ha ha, nói: “Tiểu tử, ngươi là người từ vùng nào tới đây? Không ngờ lại hoài nghi thực lực Vạn Kim Lâu ta sao? Ngươi hành tẩu giang hồ chưa từng nghe nói, Vạn Kim Lâu, lên kiếm thần tiên, xuống tìm trùng kiến, chỉ cần ngươi đưa ra danh tự, ta sẽ đào cả đám nó ra cho ngươi.”

Liễu Dật kinh ngạc nói: “Lâu chủ nói phải thì là phải rồi.”

Người tự xưng là Kim Lâu chủ nhân, gật đầu nói: “Đương nhiên là thật, nhìn ngươi chắc cũng có tiền, chỉ cần có tiền, bất cứ người nào ngươi muốn tìm ta đều có thể tìm ra cho ngươi, hơn nữa ta cũng là người bán tin tức giang hồ, chỉ cần ngươi có tiền.”

Liễu Dật đưa mắt ra dấu cho Thập Kiệt Nhất, Thập Kiệt Nhất tiện tay lấy ra hai tờ ngân phiếu năm ngàn lạng, đặt lên bàn của Kim Lâu chủ nhân, Liễu Dật nói: “Về tin tức giang hồ à? Ta nghĩ, ta không cần, ta chỉ muốn biết hạ lạc của một người thôi.”

Kim Lâu chủ nhìn ngân lượng, mặt liền nở nụ cười, hi hi nói: “Tiểu ca đã nói thế, ta sẽ giúp ngươi tìm ra cho.”

Liễu Dật đến ngay trước Kim Lâu chủ nói: “Người này tên gọi là A Cửu, là một cô gái. Trước đây vài ngày đã vội vã rời Giang Nam Liễu phủ, nhưng lại chẳng thấy tung tích ở đâu. Bởi vậy ta muốn mời Lâu Chủ tìm ra hạ lạc A Cửu cô nương.”

Kim Lâu Chủ, không nhanh không chậm kéo tấm khăn trải trên bàn ra, chỉ thấy một bàn tay nắm một hạt châu tròn hiện ra trước mắt ba người, màu đỏ sậm, tuyệt đẹp.

Kim Lâu chủ nhìn chẳng biết lầm bầm niệm những gì trong miệng, hai bàn tay đặt lên trên hạt châu, rồi dần dần, bên trong hạt châu xuất hiện một làn vân vụ, sau khi làn vân vụ không ngừng tan đi, không ngờ đã xuất hiện thân ảnh của A Cửu ...

Chỉ biết đây là hoàng cung, bên trong một gian tẩm cung, A Cửu cùng một nha hoàn đang xem một bức tranh, bức tranh ấy chính là bức Long Phụng Trình Tường Đồ của Liễu Dật, có lẽ vì bất cẩn, bất ngờ đã đánh đổ nước trà lên trên, đây chính là bức tranh mà hoàng thượng thích nhất, chắc chắn rồi sẽ bị hoàng thượng trách tội.

Tên tiểu nha hoàn đề xuất chủ ý, là A Cửu hóa trang thành một vị tiểu thư, đến yêu cầu Liễu Dật vẽ lại bức khác, để có thể giải quyết êm thắm vụ này.

Rồi cuối cùng cũng thấy Liễu Dật đã vẽ xong bức tranh. Nhưng, ngay sau khi hồi cung, đột nhiên đã chạm trán Ma tộc, chính là động chủ Phong Đà Động. Giang hồ đều biết rằng nhân vật ma đạo này háo sắc phi thường, gặp được A Cửu thì làm sao có thể để nàng chạy thoát, xem ra A Cửu đang bị bắt về Phong Đà Động.

Rồi dần dần, làn vân vụ trong hạt châu lại bốc lên, rồi khôi phục trở lại như thường. Thập Kiệt Nhất hai mắt đã thấy lửa giận, đại nộ nói: “Phong Đà động là cái gì? Lão tử phải đạp bằng nó mới được.”

--------------------------------------------

(19) Xuân muôn hoa nở, thu ngắm trăng, Hạ bao gió mát, Đông nghe tuyết rơi

(20) Giang sơn vạn lý chẳng nề phiêu linh,

Cả đất trời tại trong lồng ngực.

-oOo-

Hồi 14: Thùy dữ tranh phong, vị lai đích mê mang

( Tương lai tam giới mịt mờ, Người tranh ta đấu bến bờ nơi nao)

Con người ai cũng có thể thay đổi, có người từ bần cùng biến thành giàu sang, từ người quân tử biến thành kẻ tiểu nhân, từ anh hùng biến thành lũ đê tiện, lại cũng có kẻ từ hào phú biến thành kẻ bần cùng, từ tiểu nhân trở thành người quân tử, từ kẻ đê tiện trở nên anh hùng.

(Cổ Long - Luận)

Liễu Dật gật đầu, thế này đủ rồi, nói xong quay người định bước đi.

Ngay lúc đó, Long Nhãn thật kỳ lạ, bỗng tỏa ra luồng quang mang đỏ hồng, làn vân vụ bên trong Long Nhãn từ từ tản ra, một màn tối đen dần dần sáng lên.

Liễu Dật vốn định bước đi, lại quay đầu lại, tiếp tục nhìn những biến đổi bên trong Long Nhãn, cái gì vậy chứ?

Kể cả Kim Lâu Chủ cũng cảm thấy kì quái, bởi vì lão chẳng hề dụng nội lực thôi động Long Nhãn, cũng chẳng truyền bất kỳ cái gì để hiện lên cảnh tượng này, không lẽ Long Nhãn lại có thể tự hoạt động ư?

Lúc mọi người đều cảm thấy kỳ quái, một khung cảnh tráng lệ cũng xuất hiện...

Đấy là một tòa cung điện, có vẻ rất cổ kính; một tòa cung điện đứng sừng sững, không biết ở chỗ nào, nhưng biết rằng tòa cung điện này không phải là hoàng cung, không phải thiên cung, không phải địa phủ. Mặc dù không thuộc những cung điện nổi tiếng trong tam giới, nhưng tòa cung điện này toát ra một khí chất vương giả, khiến cho người ta cảm thấy mình trở nên nhỏ bé.

Vân vụ dần dần tan đi, cảnh vật bên trong Long Nhãn dần dần hiện ra. Trong tòa cung điện, có mười hai cột trụ to bằng ba người ôm đứng đỉnh lập, mười hai con rồng điêu khắc uốn lượn trên thân cột trụ thô tráng, khí thế uy nghiêm. Dưới mỗi cột trụ, đều có một người cưỡi trên một con ngựa cao lớn, thật lạ lùng. Những người này sau lưng đều thấy một thanh trường kiếm, toàn thân mặc kình trang màu đen, trên cổ tay áo, đầu ống quần, đầu gối, ở nơi vai, đều mang giáp chế tác từ da hoặc một loại chất liệu đặc thù. Nhưng cả mười hai người này đều dùng khăn đen bịt mặt, không thể nhìn rõ diện mạo mười hai người bọn họ. Khiến cho mọi người ngạc nhiên hơn chính là ngựa cưỡi của cả mười hai người đó. Ban đầu không chú ý, nhưng khi một con mở miệng ra, mọi người đều phát hiện ra đây không phải là ngựa, mà là bạch hổ. Không sai, cả mười hai người đều không cưỡi ngựa mà là bạch hổ. Nhưng những con bạch hổ này có thể khẳng định chẳng phải là bạch hổ thông thường, bởi vì cả Kim Lâu Chủ và Đại Đao Vương đều không biết đó là hổ.

Mười hai con bạch hổ đều có răng nanh hai bên dài khoảng một xích, mọc dài ra ngay hàm trên, sắc nhọn như chủy thủ, ánh mắt bạch hổ tỏa sắc bích lam, nhìn khắp tứ chi toàn bộ vũ trang khôi giáp chẳng hiểu làm từ chất liệu gì, còn đuôi bạch hổ thì vừa thô vừa dài, những sợi râu trên mặt y như những cái móc dài, những con hổ bình thường chẳng thể có được.

Long Nhãn tiếp tục hướng về trước thăm dò, cung điện rất đơn giản, một chiếc bảo tọa kim sắc, đứng hai bên bảo tọa là hai người mặc kình trang giống nhau, trên vai trái đeo hộ kiên giáp, trên mặt dùng một loại chất liệu màu trắng chế thành chiếc mặt nạ, che lại khuôn mặt vẫn còn thiếu niên, trong tay đều là Thanh Phong trường kiếm dài ba xích.

Hai thiếu niên phân tả hữu đứng hai bên đối diện với một bạch hổ quái thú, quái thú toàn thân đều màu vàng kim, xung quanh đầu phủ đầy một lớp lông vàng, bên trên đầu, chỉ thấy cặp sừng dài, tứ chi dưới thân quái thú rõ ràng được khảm bởi một lớp vảy rồng, phản xạ ánh sáng ra xung quanh, xinh đẹp phi thường.

Kim Lâu Chủ cực kỳ kinh ngạc nói: “Là thủ hộ thần thú, Kì và Lân.”

Cuối cùng, Long Nhãn dừng lại nơi bảo tọa, chỉ thấy bên trên bảo tọa, một người mang giáp trắng bạc toàn thân, tóc dài trắng, mặt nạ trên mặt cực kỳ đặc biệt, hoàn toàn bao phủ từ mũi trở xuống, nhưng trên mặt nạ khắc hai con rồng xoay vòng. Xem tới đây, Kim Lâu Chủ la lên một tiếng kinh hãi: “Đó... đó... mặt nạ đó là Vong Hồn.”

Tiếp tục nhìn xuống, chiếc áo giáp màu trắng bao phủ toàn thân người ấy cực kỳ kín đáo, nhưng trên hai chân, là một đôi giày sắt rất phù hợp, tấm áo choàng đen nằm phủ trên bảo tọa kim sắc. Con người thần bí mặc áo giáp trắng, trong tay là một thanh trường kiếm màu đen, toát ra vẻ bi thương vô cùng, dù nhìn qua Long Nhãn, người ta vẫn cảm được thanh kiếm này thật cô độc, bơ vơ.

Tuy nhiên, cái làm người ta ngạc nhiên không phải là nó, mà là người ngồi trên bảo tọa toát ra một thứ vương khí vô thượng, khắp cả tam giới chẳng có ai có được vương khí ấy. Thử hỏi xem thế gian này ai có thể có được khí thế như vậy, “ngã chủ trầm phù, thùy dữ tranh phong” (21) , cao quý hơn người ấy, có thể là ai chứ?

“Bốp” một tiếng, những người đứng xem đều ngớ người, không ai tưởng nổi biến hóa đột ngột kỳ dị như thế, Long Nhãn đột nhiên bị vỡ thành vô số mảnh nhỏ, chuyện gì đã xảy ra vậy?

Người phản ứng đầu tiên tất nhiên là chủ nhân Long Nhãn, Kim Lâu Chủ, làm sao cái cây tiền của lão lại đột nhiên tiêu tan như thế chứ? Thế này là thế nào? Lẽ nào... khí thế trong hình quá lớn, Long Nhãn không cách nào chiu đựng nổi khí thế to lớn như vậy?

Đại Đao Vương mồ hôi chảy ròng ròng nói: “Đây... đây... đây là ai? Với khí thế như vậy, thế gian có người như thế sao? Là thần tiên sao? Hay Phật Tổ chuyển thế vậy?”

Còn Thập Kiệt Nhất lại có ý khác, nói: “Người này thật lợi hại, sát khí không ngờ có thể xuyên qua hư không, khiến Long Nhãn bị phá hủy.”

Nhưng cảm giác của Liễu Dật là kì quái nhất, hắn không sùng bái, không hiếu kì, càng không hiểu cái gì là sát khí, hắn chỉ có duy nhất một cảm giác, dường như... cực kỳ quen thuộc, cặp mắt người đó, rất quen thuộc, tuy che mặt, nhưng mà Liễu Dật có thể khẳng định, mình đã thấy qua người này ở đâu rồi.

Kim Lâu Chủ thở dài nói: “Thiên ý, thiên ý ư? Có thể do ta tiết lộ thiên cơ quá nhiều, nên ta bị trời báo ứng, nhưng mà... người đó là ai chứ?”

Đại Đao Vương vội hỏi: “Kim Lâu Chủ là người tai nghe tám hướng, cũng không biết người đó là ai ư?”

Kim Lâu Chủ gật đầu, nói: “Không biết, nhưng sao lại thế chứ? Trong tam giới hiện nay, những môn phái nhỏ chỉ cỡ mười người ta cũng biết được, thế mà cung điện quy mô to lớn như thế ta lại không biết ư?”

Đột nhiên, một tia sáng lóe lên trong đầu, Kim Lâu Chủ nói: “Ta biết rồi, Long Nhãn có thể dự đoán tương lai, có thể biết được quá khứ, nếu như nói những hình ảnh vừa mới rồi là hình ảnh của tương lai, làm sao ta biết được chứ, căn nguyên chỉ có thể như vậy thôi.”

Đại Đao Vương gật đầu nói: “Nếu như nói như thế, thì cũng còn có lý, nhưng Long Nhãn tại sao vô duyên vô cớ hiện lên những hình ảnh này chứ?”

Kim Lâu Chủ lắc đầu nói: “Không thể nói là vô duyên cớ được. Theo ta thấy, có hai lý do, Long Nhãn là thiên địa chí bảo có thể xem quá khứ vị lai cho con người trong truyền thuyết. Thứ nhất, ta nghĩ Long Nhãn muốn đề tỉnh chúng ta, trong tương lai có khả năng tam giới đại loạn, sẽ xuất hiện một người như thế. Thứ hai, người vừa rồi đó, nhiều khả năng là một người trong chúng ta, cho nên chắc chắn đã có một lực nào đó tác động đến Long Nhãn, nên mới hiện lên những hình ảnh đó.”

Đại Đao Vương đột nhiên dường như minh bạch điều gì đó, nói: “Phải chăng người đó có thể nào là Thiên Long không? Chúng ta trên đường đến đây đã tình cờ gặp được Lang Vương. Hắn nói một ngàn năm trước đây Thiên Long đã lập kế hoạch âm mưu thống nhất tam giới, cho dù vừa rồi hắn chưa hề hiện thân, nhưng người có Kỳ và Lân bên cạnh, còn không phải Thiên Long sao?”

Kim Lâu Chủ gật đầu nói: “Không loại trừ khả năng này, nhưng hình ảnh vừa rồi thật quá ly kỳ, cũng không thể phủ nhận một trong chúng ta sẽ là người đó trong tương lai.”

Liễu Dật nhìn hình ảnh vừa rồi, không hiểu sao lại có cảm giác phiền muộn, cặp mắt người ấy tựa như ở trong đầu thật lâu, ngay khi yên tĩnh lại, cặp mắt thâm thúy vừa rồi lại xuất hiện trong đầu Liễu Dật.

Liễu Dật phe phẩy quạt, làn gió nhẹ khiến y bình tĩnh lại nhiều, nói: “Sự việc này không liên quan đến công việc của chúng ta, chúng ta còn có việc quan trọng phải làm. Thập Nhất, chúng ta phải nhanh chóng cứu cho được A Cửu công chúa ra, nếu y cùng con rùa đó thực sự bái đường rồi, thì ngươi cũng không cần tìm tên lưu manh đó nữa.”

Thập Kiệt Nhất nghe xong, lập tức cuống lên, nghe nói người tình trong mộng của mình cùng người khác bái đường, nhịn không được, nổi giận nói: “Lão đại, đi, chúng ta đến cái động gì đó, đạp bằng nó luôn, con bà nó!”

Lập tức Đại Đao Vương chạy đến nói: “Liễu công tử, ngân lượng của ta?”

Liễu Dật nhìn nhìn Đại Đao Vương, ánh mắt xoay chuyển nói: “Ngươi muốn kiếm thêm không?”

Đại Đao Vương ngay lập tức hiểu ngay ý Liễu Dật, ha ha cười nói: “Tưởng gì, ai có thể chê nhiều tiền chứ?”

Liễu Dật cười cười: “Được, đi trước dẫn đường.”

Lúc này Kim Lâu Chủ la lớn: “Còn ta thì sao, Long Nhãn của ta vỡ thành trăm mảnh thì tính sao đây?”

Liễu Dật cười bảo: “Tuy việc này chẳng hiểu nguyên nhân từ đâu, nhưng có lẽ ta không thoát khỏi có quan hệ. Sau này có cơ hội, Liễu Dật tự nhiên đến gặp Lâu chủ vẽ một bức tranh, tuy không trân quý như Long Nhãn, nhưng có thể bảo đảm Lâu chủ suốt đời không chết đói.”

Kỳ thật chuyện này cũng không thể trách Liễu Dật được, hoàn toàn là do Long Nhãn tự khởi động, Kim Lâu Chủ tự mình cũng có tâm lý đó. Nghe Liễu Dật nói sau này gặp sẽ tự vẽ tranh cho mình, nét mặt lập tức lộ nét cười nói: “Liễu công tử, chúng ta quyết định thế nhé, lão Kim ta sẽ ở đây đợi ngươi trở lại.”

Liễu Dật gật đầu, quay người lớn bước ra ngoài đi mất. Ai là người có thể biết người trong Long Nhãn là ai chứ? Không chắc là Thập Kiệt Nhất, không chắc lại là Đại Đao Vương, hoặc giả nhiều khả năng là Liễu Dật. Việc Long Nhãn bị vỡ với bọn họ có quan hệ gì không? Người thông minh như Kim Toán Bàn mà cũng nhất thời hồ đồ, nhưng cho dù hắn biết, hắn có dám quan hệ với những người này không? Nói không chừng người trong hình tám năm hay mười năm sau sẽ chà đạp bản thân y.

-------------------------------------------------

(21) Ta một đời phiêu bạt, ai dám hơn ta?

-oOo-

Hồi 15: Thương thiên bất công, tam nhân trình anh hùng

( Yêu tinh giết hại dân lành, Ba người quyết chí anh hùng ra tay)

Mỗi con người nếu như hết sức đấu tranh, hết mình phấn đấu, toàn lực phản kháng, cho dù gặp bất kỳ chuyện gì đều không hề đáng sợ. Nhưng nếu chỉ ngồi đó mà chờ đợi, đấy mới rất đáng sợ. Chỉ ở tại những thời khắc như thế, mới có thể nhìn rõ được dũng khí của một con người.

(Cổ Long - Luận)

Nhắc lại lúc bấy giờ, dưới sự dẫn dắt của Đại Đao Vương, ba người đi như bay vào sâu trong đất Thục, hướng thẳng xuống phương Nam. Đến lúc đến được Phong Ma Trấn thì đã mất trọn tám ngày trời, tính toán lại thời gian một chút, thấy hình như cũng không còn nhiều nữa.

Liễu Dật ngồi bệt xuống dưới một gốc cây liễu, chẳng bước nổi lấy một bước nữa; mấy ngày gần đây đều gấp rút đi thâu đêm suốt sáng, một người bình thường làm sao chịu đựng nổi như thế được.

Liễu Dật lấy ra một bình nước uống một hớp, quệt ngang miệng rồi hỏi: “Đại Đao Vương, chúng ta đã chạy hết tám ngày đường rồi, còn bao lâu nữa mới có thể đến được Phong Đà Động đây?”

Đại Đao Vương cũng lấy bình nước của mình hớp một hớp lớn, rồi trải rộng tấm địa đồ ra, bắt đầu xem: “Nơi đây ta cũng chưa đến bao giờ, chỉ biết dựa vào tấm địa đồ này mà thôi. Nếu cứ theo như tấm địa đồ này mà nói, chúng ta phải đi qua Phong Ma Trấn, rồi vượt qua thêm một ngọn núi, lại thêm mấy ngã rẽ nữa là có thể đến nơi rồi.”

Liễu Dật giật lấy tấm địa đồ, nói: “Không phải chứ? Thế chẳng phải là cần thêm một ngày nữa mới tới được ư? Tổng cộng mất hết chín ngày sao? Cái Phong Đà Động này chẳng nhẽ lại chạy tuốt ra đến tận ngoài quan ngoại, xa đến như vậy?“

Đại Đao Vương liền giải thích: “Các môn phái Ma Tộc đều nằm ở ngoài quan ngoại, duy chỉ có Ma Môn là nằm trong Trung Nguyên mà thôi.”

Thập Kiệt Nhất cũng uống một hớp nước, vẫn giận dữ như cũ nói: “Ngày mai hãy xem ta giẫm bẹp cái Phong Đà Động ấy ra như thế nào. Con bà nó, các người cũng chẳng còn yên ổn lâu nữa đâu.“

Liễu Dật nhìn sắc trời một lúc rồi nói: “Bây giờ trời cũng không còn sớm nữa, chúng ta tối nay nghỉ ngơi tại thị trấn ấy nhé.”

Đại Đao Vương ngó về phía thị trấn thê lương, lẩm bẩm nói: “Ta thấy cái thị trấn kia có gì đó không ổn, tóm lại có cảm giác cái Phong Ma Trấn này ắt phải có điều gì cổ quái chăng?”

Liễu Dật phản bác: “Có điều cổ quái gì chứ? Ta, Liễu Dật, từ trước tới nay chưa từng làm gì thẹn với lương tâm, kể cả có quỷ quái đi nữa lại phải sợ hãi sao.”

Nói đoạn bật dậy hướng về phía thị trấn đi tới.

Đại Đao Vương nhìn theo thân ảnh Liễu Dật, thầm nói: “Chừng ấy tuổi đầu, ngươi cho dù chưa từng làm việc gì đáng hổ thẹn thì rồi quỷ cũng sẽ tìm ngươi thôi, huống hồ ta đây làm không ít việc ác à, làm sao có thể so sánh với ngươi chứ.”

Cũng chẳng ích gì, cả cái gã ngờ nghệch kia cũng đã tiến tới, Đại Đao Vương cực chẳng đã đành phải nối gót bước theo. Ngay khi vừa đi qua cổng thị trấn, ba người đều phát hiện thấy một tấm thạch bài cực lớn không biết đã bị cái gì chém bay đi mất một nửa, phía trên mặt vẫn còn dính máu tươi, hiển nhiên là mới xảy ra chưa lâu, khiến Phong Ma Trấn xem ra lại thêm phần âm trầm khủng bố.

Khi ba người tiến vào trong thị trấn, bỗng cảm giác thấy không được tự nhiên, bởi vì những người trong trấn đều cố tránh xa cả ba người bọn họ, lại nhìn họ với một ánh mắt kì dị, phảng phất xem bọn họ như là những sinh vật đang sắp bị tuyệt chủng vậy.

Nhìn thấy phía trước có một trà lầu, Liễu Dật nói: “Thập Nhất, chúng ta đến kia nghỉ ngơi một chút, tiện thể hỏi xem thị trấn này có lữ điếm nào không.”

Thập Kiệt Nhất gật đầu, ba người nhằm hướng trà lầu bước tới, nhưng khi chỉ còn cách trà lầu vài bước, bỗng nhiên có mấy người từ trà lầu chạy ra, hấp tấp đóng chặt cả cửa ngoài lẫn cửa sổ.

Liễu Dật ngạc nhiên nói: “Chuyện gì vậy chứ? Bọn họ dường như rất sợ chúng ta!”

Bỗng nhiên, một âm thanh cất lên: “Chú nhỏ kia, ngươi có phải từ nơi khác tới không? Hãy mau đi nơi khác đi thôi, nơi này là không phải là nơi tốt lành gì đâu.”

Liễu Dật quay người lại, nhìn thấy bên cạnh cửa một ngôi nhà ven đường có một lão nhân đang ngồi, vừa uống rượu, vừa đưa ánh mắt say mèm nhìn bọn họ dò xét.

Liễu Dật bước qua bên ấy, cúi mình vái một vái thực lễ độ: “ Lão trượng, xin hỏi nơi đây có lữ điếm nào không? Hiện tại trời đã muộn rồi, bọn tiểu bối chỉ cần tá túc một đêm cũng được rồi.”

Lão nhân nhìn Liễu Dật nói: “Ta khuyên ngươi nên nhanh chóng ly khai cơ mà, nghỉ lại nơi đây là rất nguy hiểm đó.”

Liễu Dật không hiểu được liền hỏi: “Lão trượng nói nguy hiểm không hiểu là có ý gì vậy?”

Lão nhân đang định trả lời thì bỗng nghe tiếng Thập Kiệt Nhất từ sau lưng Liễu Dật nói lớn: “Có gì mà nguy hiểm chứ, không cần biết là cái gì, Thập Nhất cũng sẽ đạp bẹp nó ra.”

Nói đoạn, vỗ ngực bộp một cái, trên mặt hiển rõ vẻ “có gan thì cứ lại đây”.

Lão nhân nhìn khắp bốn phía thấy đã vắng bớt người bèn nói: “Lại đây, các ngươi vào đây.” Nói đoạn liền mở cửa ra rồi đi vào bên trong nhà.

Liễu Dật cảm thấy hiếu kỳ, liền theo sau lão nhân bước vào. Chỉ thấy bên trong rất là âm u, đến khi lão nhân nọ thắp ngọn đèn dầu lên, căn phòng dần dần sáng tỏ mới thấy rằng nơi này đã rất cũ kĩ, bên trong lại bày biện hết sức đơn giản, ngoài chỗ cất trữ một ít lương thực là một cái giường ọp ẹp, cùng với lão nhân hiện đang uống rượu, còn thấy cả mấy bình rượu nằm trên mặt đất xếp thành một hàng.

Lão nhân ngồi xuống cạnh mép bàn, kêu bọn Liễu Dật với Thập Kiệt Nhất mấy người cùng ngồi xuống, đoạn uống một hớp rượu rồi nói: “Gọi ta là Tửu thúc là được rồi, ta thích uống rượu, mọi người trong thị trấn này đều gọi ta như vậy. Các ngươi là người từ nơi khác tới, chưa biết được sự lợi hại của Phong Ma Trấn này.”

Liễu Dật phe phẩy quạt hỏi: “ Ở đây có gì lợi hại vậy? ”

Lão nhân ngồi trên ghế nói khe khẽ: “Có yêu quái! ”

Nhưng Liễu Dật tựa hồ như không có chút kinh ngạc nào, lại hỏi tiếp: “Yêu quái như thế nào vậy? ”

Tửu Thúc kinh ngạc nhìn dáng vẻ của Liễu Dật, nói: “Yêu quái chuyên hại người, nếu như hôm nay bọn các ngươi nghỉ đêm tại đây, nhiều khả năng sẽ bị yêu quái làm hại.”

Liễu Dật nhìn lão đầu nói: “Vậy tại sao Tửu thúc ở đây vẫn an nhiên vô sự, còn bọn tiểu bối phải rời khỏi nơi đây chứ?”

Tựa hồ như câu nói này của Liễu Dật đánh vào đúng điểm quan trọng, Thập Kiệt Nhất cùng Đại Đao Vương đều gật đầu đồng ý.

Tửu thúc lại uống thêm một hớp rượu nữa rồi tiếp: “Ngươi nhìn cái tấm thân già của ta đây, khắp người chỉ còn da bọc xương, kể cả dâng cho bọn yêu quái kia ăn bọn chúng cũng không thèm. Hai con yêu quái này chỉ chuyên tìm những người thanh niên trẻ tuổi sung mãn, hay tìm những mỹ nữ trẻ tuổi xinh đẹp, nghe nói bọn chúng lại còn chuyên ăn tim gan người ta nữa kia.”

Liễu Dật nghe đoạn, tức giận hét lớn: “Làm gì có chuyện hoang đường như vậy? Chẳng lẽ quan phủ nơi đây không có người nào lo liệu hay sao?”

Tửu thúc lại hớp một hớp rượu nữa: “Quan với chẳng phủ, từng tuổi này rồi mà còn tin vào quan phủ nữa. Người của quan phủ đều lo đi ôm của, có ai mà dám liều mạng đi tìm bắt yêu quái chứ, huống hồ cái con yêu quái kia bản lĩnh lại cao cường, quan phủ làm sao dám đắc tội với bọn chúng chứ.”

Liễu Dật thở dài: “Nếu như tại hạ có năng lực diệt yêu trừ ma, hôm nay nhất định giúp các vị tiêu trừ hai con yêu quái này.”

Tửu Thúc gật đầu nói: “Chú nhỏ à, tâm ngươi rất tốt, nhưng ngươi nên nhanh rời khỏi nơi đây bây giờ đi, đến lúc trời tối rồi thì không còn kịp nữa đâu, hai con yêu quái đó đích thực là rất lợi hại đó.”

Thập Kiệt Nhất ở đằng sau Liễu Dật liền vỗ ngực nói: “Lão đại, hôm nay Thập Nhất muốn làm anh hùng, muốn bắt cả hai con yêu quái ấy.”

Liễu Dật suy nghĩ một lúc, đúng rồi, còn có cả Thập Kiệt Nhất nữa chứ, tên Thập Kiệt Nhất này quả là một cao thủ, hôm đó tại Lang Vương Động, Liễu Dật cũng đã từng thấy qua bản lĩnh của hắn, tuy không đả thương được Lang Vương, nhưng cũng thực là lợi hại phi thường.

Liễu Dật gật đầu, quay sang Tửu thúc nói: “Tửu thúc, người huynh đệ này của tôi lợi hại phi thường, hay hôm nay xin hãy để cho chúng tôi bắt chước làm anh hùng thử xem thế nào, để coi hai con yêu quái kia có gì lợi hại chăng.”

Đại Đao Vương nghe tới đây, cầm thanh đao nặng trịch đập lên trên ghế một cái nói: “Ta, Đại Đao Vương, từ trước tới giờ chưa từng làm việc tốt, hôm nay ta cũng muốn mạo hiểm làm anh hùng, xem cảm giác ra sao.”

Tửu thúc nhìn Liễu Dật mấy người nói: “Nếu như... nếu như bọn ngươi đã quyết định như vậy, ta cũng sẽ mang những điều ta biết nói cho các ngươi nghe.”

Liễu Dật mấy người gật đầu, rồi chăm chú lắng nghe.

Tửu thúc uống thêm một hớp rượu nữa rồi bắt đầu kể: “Hai con yêu quái này mới xuất hiện cách đây gần mười năm. Trước khi bọn chúng xuất hiện, Phong Ma Trấn thực ra rất náo nhiệt.

Truyện kể, rất lâu rất lâu trước đây, có một đạo sĩ trên đường du ngoạn, phát hiện nơi này yêu khí rất nặng, ngài truy tìm ở nơi ấy, cuối cùng cũng tìm được một con Hắc Hùng Tinh và một con Hồ Ly Tinh. Đạo sĩ nọ vốn định dùng đạo pháp để tiêu trừ hai con yêu quái, thế nhưng đạo hạnh lại chẳng cao hơn yêu quái, nên chỉ có thể phong ấn bọn chúng vào trong sơn động ở dãy núi phía nam. Từ đấy, thị trấn này mới đổi tên thành Phong Ma Trấn. Cứ như vậy, không biết đến bao lâu sau, cũng không biết đã phát sinh chuyện gì nữa, chỉ biết vào một đêm cách đây đã mười năm, gió mưa ào ạt, sấm sét đầy trời, không biết vì sao, hai con yêu tinh đó phá được phong ấn thoát ra ngoài.”

Hớp một hớp rượu, Tửu thúc kể tiếp: “Từ đó, Phong Ma Trấn lại bị hãm vào trong khủng hoảng, hai con yêu quái đó đêm nào cũng vào Phong Ma Trấn, đương nhiên, nếu lúc nào chúng cao hứng thì chỉ tìm vài người bắt làm thức ăn, rồi uống chút rượu. Nhưng những lúc chúng không cao hứng, thì bắt cả người sống, moi lấy tim gan để ăn; cũng vì như vậy, trong thời gian mười năm, Phong Ma Trấn bốn vạn người nay chỉ còn khoảng bẩy, tám nghìn người. “

Liễu Dật nghe xong thì kinh tâm lạnh mình, trên đời không ngờ lại có chuyện bất bình đến vậy, giận dữ hỏi: “Chẳng nhẽ mọi người ở đây không biết phản kháng sao?”

Tửu thúc lắc đầu: “Vô dụng thôi, hai con yêu quái đó võ công cao cường, hơn nữa người trong trấn đều không biết võ công, càng phản kháng thì càng nhiều người chết.”

Liễu Dật nghe đến võ công, bỗng cảm thấy có chút hối hận, trước đây không học võ công tức là vì không muốn tham dự vào những chuyện chém chém giết giết trên giang hồ, cho nên bây giờ hắn vẫn chỉ là một thư sinh bình phàm. Cho nên bây giờ hắn dẫu có ý định đánh dẹp sự bất bình, thì cũng lực bất tòng tâm mà thôi. Ôi... nếu như trước đây nghe lời phụ thân, học lấy chút võ công, ít nhất bây giờ gặp tình huống như thế này cũng có đất dùng, chẳng hơn là nấp trốn đi sao? Ôi... ta sao lại ngu dốt như thế.

Tửu thúc lại uống rượu rồi nói: “Tóm lại, các ngươi nên cẩn thận, hai con yêu quái đó cực kỳ lợi hại, nghe nói đã có đến cả nghìn năm tu hành rồi, không biết mấy người các ngươi làm sao chống lại được bọn chúng.”

Ngay lúc đó, một âm thanh kiều mị từ ngoài cửa cất lên: “Cẩn thận cái gì? Hai người bọn ta đáng sợ đến vậy sao? Hi hi hi...”

Tiếp đến một trận cười trong trẻo truyền lại.

Tửu thúc run rẩy nói: “Không xong rồi... đó là... hai con yêu quái đó...”

Ngay lúc đó, “vù” một tiếng, cánh cửa bị một cơn gió mạnh giật tung. Liễu Dật cùng Thập Kiệt Nhất, Đại Đao Vương đều đứng bật dậy, chỉ thấy có hai người đứng ở ngoài cửa, một nam một nữ.

Nam nhân cao to uy mãnh, cả người so với Thập Kiệt Nhất còn cao hơn một cái đầu. Mặc dù trên mình chỉ khoác một tấm da thú, nhưng xem ra so với Đại Đao Vương cũng không có gì khác biệt, cơ bắp cuồn cuộn sung mãn; lờ mờ như đang nhìn về phía Thập Kiệt Nhất gây hấn, hình dạng bên ngoài giống nhau gần như đúc vậy, tướng mạo anh tuấn phi thường, nhưng trong hai mắt lại có chút yêu khí, làm người khác nhìn cảm thấy rất bất an.

Nữ tử bên cạnh, thấp hơn Thập Kiệt Nhất một cái đầu, toàn thân lấp lánh ánh bạc, bên trong ánh xuân thì lúc ẩn lúc hiện, thân mình chỗ cần thon rất thon, chỗ cần nổi rất nổi, chỗ cần đầy đặn rất đầy đặn, nếu như không biết nữ tử này là ai, chắc chắn sẽ cho rằng đây là tuyệt đại vưu vật của thế gian, nhưng trong ánh mắt phiêu xuất chút ánh dâm đãng.

Liễu Dật tiến lên phía trước một bước nói: “Tiểu sinh Liễu Dật, xin chào hai vị, xin hỏi hai vị có phải là Hồ Ly Tinh và Hắc Hùng Tinh mà thiên hạ vẫn đồn không?”

Vừa nói dứt, Liễu Dật mới thấy mình thật ngu xuẩn, ngu xuẩn đến mức hỏi yêu tinh xem bọn chúng có phải là yêu tinh không.

Nhưng không ngờ ngoài sự dự liệu của Liễu Dật, tráng nam tử đó đáp: “Không sai, chúng ta đích thị là Hắc Hùng Tinh và Hồ Ly Tinh.”

Xem ra, vị tráng nam tử này còn ngây ngô hơn cả Liễu Dật nữa.

-oOo-

Hồi 16: Hà vi chân tình, song lệ lạc quân tiền

(Yêu tinh cũng có chân tình, Đôi dòng lệ chảy trước người tình chung)

Kẻ muốn dọa được người, thường thường phải biết dọa ngược lại mình.

(Cổ Long - Luận)

Dường như con Hồ Ly Tinh này có đầu óc hơn Hắc Hùng Tinh; nếu nói là có đầu óc, cũng không phải là nói thị giảo hoạt, gian trá.

Chỉ thấy mỹ nữ yêu kiều mềm mại buông nhẹ, tựa sát vào trên thân mình tráng nam. “Suỵt” trên khóe môi thổi đến chàng ta một hương thơm nồng nàn: “Chàng à, sao lại bắt chước tên ngốc tử thư sinh ấy vậy chứ.”

Thập Kiệt Nhất phía sau Liễu Dật rùng mình một cái: “Mẹ ơi, sao mà lạnh thế này vậy.”

Không lạnh làm sao được? Một mỹ nhân như vậy, ngay tại lúc ấy nơi ấy, lại hành động như thế, không lạnh mới là lạ.

Mặc dù nơi ánh mắt Hồ Ly Tinh chứa đầy vẻ dâm đãng, nhưng trong khi nàng chuyển ánh mắt nhìn sang Hắc Hùng Tinh thì lại đem đến cho mọi người một mùi vị ấm áp, một cảm giác hạnh phúc.

Liễu Dật lắc lắc đầu, thầm nghĩ: “Không phải ta đã nhìn lầm rồi chứ, một con yêu tinh làm sao có thể có được cảm tình phong phú đến như thế.”

Lúc này, tráng nam lại cất tiếng: “Chỉ bằng vào ba đứa bé bọn ngươi, mà muốn thu thập chúng ta ư?”

Liễu Dật phe phẩy cây quạt gấp, gật đầu đáp: “Hai vị chẳng lẽ không tự xét ngược lại mình ư? Xem mạng người như cây cỏ, bọn họ và các người đều như nhau cả, là cũng đều có cảm xúc vậy, đang khi các người tàn hại bọn họ, chẳng lẽ các người không nghĩ được rằng bọn họ và các người cũng đều như nhau, cũng đều có quyền hưởng thụ sinh mệnh của mình sao?”

Nữ tử kiều mị nhẹ nhàng rời khỏi vai chàng tráng nam, thong thả bước về phía Liễu Dật hai bước, nói: “Ngốc tử, ta nghĩ ngươi làm hòa thượng thì thích hợp lắm đó, bởi vì ngươi có một trái tim đầy yêu thương, tại sao không khuyên bọn ta bể khổ vô biên, quay đầu là bờ đi.”

Chẳng đợi cho Liễu Dật đáp lời, Thập Kiệt Nhất bước lên một bước, hét lớn: “Rắm thúi! Lão tử nếu như đang là hòa thượng thì đã chẳng khuyên bảo ngươi, đúng thật là, hoang, hoang, hoang cái gì đó chi đại mậu, nếu là phật thì chắc sớm đã siêu độ ngươi rồi.”

Mặc dù chẳng biết được hoang cái gì mậu, nhưng Thập Kiệt Nhất cũng vẫn cứ nói bừa.

Nữ tử kiều mị lúc này mới phát hiện ra phía sau thư sinh cũng còn có một gã đại ngốc tử như thế, một chuỗi tiếng cười như chuông bạc vang lên: “Hi hi, té ra cũng vẫn còn một người như thế này cơ đấy, ta thật là không nhìn ra, đáng trách tiểu nữ sơ hốt.”

Thập Kiệt Nhất nhất thời chẳng biết nói ra lời nào để đáp trả, cũng chẳng phát tác được.

Nữ tử kiều mị trở lại sát bên chàng tráng nam, nhẹ nhàng tựa vào ngực gã, thần sắc khuôn mặt thật ôn nhu nói: “Hùng ca, tên ngốc tử thư sinh đó thì giao cho muội nhé, xem ra cũng là một anh chàng anh tuấn hơn người. Còn tên tiểu tử ngốc nghếch kia, thì giao cho huynh đó.”

Đương nhiên, tiểu tử ngốc nghếch là chỉ Thập Kiệt Nhất, ai nấy cũng đều có thể đoán ra.

Thập Kiệt Nhất cũng nhìn chằm chằm vào nhân vật trông tựa Trương Phi kia, chỉ thấy hắn thân hình vạm vỡ, lại nghe thấy hai người bàn bạc chia nhau tấn công hai đường, bản thân mình thì không sao, tuy rằng Liễu Dật thì không biết võ công, nhưng Hồ ly tinh kia cũng không dễ bắt được gã đâu. Thập Nhất Kiệt quay lại Đại Đao Vương phía sau nói: “Đại Đao, ngươi bảo vệ lão đại cho tốt, một lát thôi là đủ rồi, để ta thu thập xong tên cẩu hùng này sẽ qua giúp ngươi siêu độ con Hồ ly tinh.”

Tráng nam tựa hồ như không thích nghe thấy có người gọi gã là cẩu hùng, bởi thế mà bây giờ trong mắt hắn nổi vằn lên, rõ ràng có thể nhận thấy gã có rất nhiều sinh lực, giận dữ gầm lên một tiếng. Chỉ thấy tráng nam cất mình nhảy lên, tung ra một quyền đánh về phía Thập Kiệt Nhất.

Xem qua thì chỉ là một quyền bình thường chẳng có gì kỳ lạ, nhưng lại pha lẫn uy thế như bạo phong, một quyền này, hoàn toàn có thể khai sơn phá thạch.

Đương nhiên, Thập Kiệt Nhất thì lại chẳng để một quyền này vào mắt, qua mười năm tu luyện võ công, hoàn toàn có thể xem Thập Kiệt Nhất là một quyền vương được rồi. Hữu thủ ngưng tụ nội lực, huy động lên quyền, hòa lẫn uy thế như phong hỏa trong nắm quyền nhằm thẳng vào quyền của tráng nam nọ mà đánh trả. Một quyền này, chính là trong “Ngũ Hành Quyền Phổ” của sư phụ hắn truyền lại, Phong Hỏa Liệt Dương Quyền cùng với Bôn Lôi Quyền đều nằm trong Ngũ Hành Quyền.

“Ầm” một tiếng, hai quyền cùng tương tranh, nội lực chấn động mãnh liệt như nổ tung ra, quyền phong thổi tung cả bụi đất lên, hai người đều bị chấn lui về sau một bước, nhưng tráng nam dường như đã rơi xuống hạ phong. Bởi quyền pháp của Thập Kiệt Nhất còn gồm chứa cả ngũ hành, nội lực dồn nén nơi nắm quyền, phát lửa nóng rực, khiến gã tráng nam không chịu nổi phải đưa tay lên há mồm thổi phù phù, miệng không kìm được kêu lên: “Nóng quá, nóng quá!”

Thập Kiệt Nhất cười lớn: “Ha ha, yêu quái tu hành cả nghìn năm bất quá cũng chỉ như vậy sao! Hôm nay hãy để ta một trong mười thanh niên đại kiệt xuất đến dạy bảo giáo huấn ngươi.”

Đương nhiên, Thập Kiệt Nhất cũng biết rằng, nếu như không có sự huấn luyện của vị sư phu siêu nhân của hắn, thì có đến mười tên Thập Kiệt Nhất cũng không phải là đối thủ của con yêu quái này.

Tráng nam nọ vẫy tay một cái, từ không trung bỗng nhiên xuất hiện hai cây cự phủ, đen nhẻm xù xì, nhưng mà bén nhọn vô cùng. Thập Kiệt Nhất vừa nhìn thấy, đã khoa trương nói: “Mẹ ơi, chết đến nơi rồi, hai cây cự phủ của Lý ca (Lý Quỳ) ta ngươi cũng biến ra được?”

Miệng nói theo như vậy, còn tay cũng chẳng hề ngừng lại, song thủ vận chân khí cực mạnh, trên hai nắm quyền liền được bao bọc bởi lớp bạch quang; đây cũng là một kiệt tác của sư phụ gã, nhưng mà, lại không nằm trong Ngũ Hành Quyền Phổ, loại quyền pháp này tên là “Thiên Cương Đẩu Quyền”; sử dụng loại quyền pháp này, song quyền cương ngạnh vô cùng, giống như một thứ vũ khí đánh thẳng đến gã tráng nam, tưởng chừng như hai lưỡi cự phủ chẳng gây cho hắn một chút áp lực nào. Song phủ mãnh liệt bổ thẳng xuống đầu Thập Kiệt Nhất, Thập Kiệt Nhất thấy thế, thân hình to lớn nhẹ nhàng lách sang bên phải, tránh khỏi hai lưỡi cự phủ. Vừa mới lách sang, một lưỡi cự phủ phạt ngang trở lại, ngay khi nơi eo lưng tránh khỏi, lại phát hiện một đầu cự phủ bổ thẳng xuống, Thập Kiệt Nhất chẳng còn cách nào tránh được, liền búng mình về phía sau, thoát ra khỏi vòng đấu. Nhưng lẽ nào tráng nam kia để cho hắn có cơ hội đổi hơi, mạnh mẽ xông lên, tiếp tục ác liệt chém tới. Ngay lúc ấy, nhịn đã đủ rồi, Thập Kiệt Nhất tá lực hướng ra trước gia tốc xông đến mạnh mẽ, miệng thét lớn: “Thiên Trùy” Hữu quyền hóa thành một luồng khí nhọn hoắt sắc bén, đánh thẳng đến hai lưỡi cự phủ. Vốn gã tráng nam vẫn chưa đạt được góc độ tốt, chỉ nghe “choang” một tiếng, quyền cùng cự phủ xung đột; “ầm” một tiếng, gã tráng nam bắn ngược về phía sau, dựa lên vách tường. Tráng nam nhận thấy đây chỉ là chút sai lầm nhỏ, chuẩn bị khởi đánh tiếp, nhưng mà, khi hắn phát hiện ra Thập Kiệt Nhất đang cực kỳ lẹ làng xông đến, thì đã chậm mất rồi.

“Lôi Phá”, Thập Nhất Kiệt tiếp tục thét rõ chiêu thức của mình, chỉ thấy vô số bóng quyền như lôi phá san thạch, vô tình bắn đến thân người gã tráng nam. “Lôi phá” – “Thiên Cương Đẩu Quyền” đệ nhị thức – theo tên như vậy, lấy thuần thiên cương chân khí tạo thành quyền phong, phàm bị “Lôi phá” đánh phải, biểu hiện trên mặt như chẳng bị thương hại gì cả, nhưng chỗ nào bị quyền đánh vào, cơ thể bên trong toàn bộ sẽ bị nát vụn; hơn nữa tốc độ của “Lôi Phá” lại rất nhanh, trong thời gian đánh một quyền “Thiên Trùy”, hoàn toàn có thể đánh được đến mười sáu quyền “Lôi Phá”.

Tội nghiệp gã tráng nam, đến kêu thảm một tiếng cũng không có lấy một cơ hội, bị Thập Kiệt Nhất đánh hiện nguyên hình trở lại. Thập Kiệt Nhất cẩn thận xem xét, té ra ông bạn này, nguyên lai đích thực là một con Hắc Hùng Tinh. Lại nói đến trận chiến bên kia, trong khi Thập Kiệt Nhất cùng gã tráng nam giao thủ, cuộc chiến bên ấy cũng diễn ra.

Kiều mị nữ tử cười hi hi nói: “ Ngốc tử, đang nghĩ gì vậy hả? Ngươi xem tỷ tỷ có đẹp không? Theo tỷ tỷ về sơn động nhé.”

Chỉ nghe mấy tiếng “leng keng”, một thanh đại đao vung lên giữa Liễu Dật và kiều mị nữ tử, chẳng cần đoán, cũng biết chính là Đại Đao Vương, không sai. Kiều mị nữ tử dường như giật mình, định thần lại mới hỏi: “Ngươi là ai vậy?”

Đại Đao Vương đứng làm dáng, gồng mình lên khoe một thân cơ bắp hoàn mỹ rồi nói: “Chịu ơn huynh đệ giang hồ hậu ái, thưởng cho một danh hiệu, Đại Đao Vương chính là ta.”

Kiều mị nữ tử nghe đoạn, kinh hãi: “Ngươi chính là Đại Đao Vương.”

Đại Đao Vương cười khà khà hỏi: “Sao vậy, sợ rồi hả?”

Kiều mị nữ tử lắc đầu nói: “Chưa nghe qua, nhưng mà, ngươi mang chữ Vương, chắc là rất lợi hại nhỉ?”

Đại Đao Vương gật gật nói: “Bây giờ mà chạy đi thì vẫn còn kịp đó. Chào...”

Đại Đao Vương còn chưa nói hết, chỉ cảm thấy một luồng gió khẽ phất qua trước mặt, kiều mị nữ tử nọ đã đến ngay trước mặt rồi.

“Bịch” một tiếng, thân hình Đại Đao Vương bay ngược về phía sau. Kiều mị nữ tử nọ nhìn lại bàn tay, tưởng như đang tự ngắm nghía năm ngón tay thon dài của nàng.

Đại Đao Vương phủi phủi bụi đất bám trên người, ráng nhịn cơn đau mà gượng đứng dậy, nâng cây đại đao, chầm chậm bước tới, nói: “Cũng khá lắm, ta chỉ là muốn thử chút lực đạo của ngươi thôi, không ngờ chẳng qua cũng chỉ có vậy.”

Tuy là nói như thế, nhưng Đại Đao Vương đúng là có thể chịu đòn, bao nhiêu năm nay, chẳng biết hắn đã bị đánh bao nhiêu lần rồi, nếu không, lúc mới gặp Thập Kiệt Nhất, hắn đã bị đánh chết rồi, chẳng còn đứng đó mà chịu trận nữa.

Tựa hồ như kiều mị nữ tử kia cũng rất ngạc nhiên với khả năng chịu đựng của Đại Đao Vương, một chưởng mới rồi, đừng nói đến người bình thường, kể cả là một tay giang hồ hảo thủ, cũng đánh đến thổ huyết mà chết luôn rồi.

Kiều mị nữ tử cười nói: “Được, ngươi đã chịu đòn giỏi như vậy, ta bắt đầu luyện tập chưởng pháp ta mới luyện thành Trúc Ti Miên Chưởng.”

Nói đoạn, hữu thủ nhẹ nhàng lay động, xem ra rất chậm rãi, nhưng thực sự lại kéo theo tàn ảnh, khiến cho người ta có một cảm giác mềm mại uyển chuyển.

Kiều mị nữ tử lại nói: “Xem tiếp đây, Trúc Nhã Thanh!”, tư thế rất đẹp, một chưởng chẳng ngờ tốc độ lại chầm chậm nhằm thẳng ngực Đại Đao Vương đánh tới. Đại Đao Vương vừa lắc đầu thì chưởng đã đến cách ngực chỉ còn ngoài một xích. Không còn cách nào khác, Đại Đao Vương chỉ có cách sử dụng thân pháp né tránh cao nhất của gã là Lại Lư Đả Cổn, quả nhiên hữu dụng.

Một trận cát bụi cuộn lên, Đại Đao Vương đứng vững lại, vũ động đại đao, bắt đầu nhằm kiều mị nữ tử chém tới, đây là chính là Đại Đao Vương bản lĩnh, Hoành Tảo Thiên Quân của gã, chính do Đại Đao Vương dựa vào kinh nghiệm giang hồ nhiều năm mà sáng chế ra chiêu thức này; mặc dù rất rối loạn, nhưng vì dựa vào lực vũ động của đại đao như thế, nên nhất thời chẳng có cách nào áp sát.

Hiển nhiên, kiều mị nữ tử cũng hiểu vậy, liên tục thối lui, vừa lùi vừa cười nói: “Không hổ là Đại Đao Vương, chiêu đao đùa bỡn của ngươi, rất là tuyệt diệu, người bình thường chắc là chẳng đùa giỡn như vậy được đâu.” Miệng tuy nói vậy, nhưng tay vẫn không ngừng cử động, “phật phật” hai tiếng, từ trong ống tay áo nữ tử nọ bỗng bay ra hai dải lụa dài nhỏ, chiếu theo nguyên lý lấy nhu chế cương. Hiển nhiên, chiêu đao Hoành Tảo Thiên Quân của Đại Đao Vương khi gặp hai dải lụa ấy, liền trở thành chẳng còn đất dụng võ nữa.

Chỉ thấy hai dải lụa như hai con linh xà, thoăn thoắt chèn chặn lấy thanh đại đao của Đại Đao Vương. Chỉ thấy kiều mị nữ tử vận chân khí giật mạnh, Đại Đao Vương không còn giữ nổi thanh đại đao trong tay nữa. “Choang” một tiếng, thanh đao vuột khỏi tay, bay ra ngoài ba trượng ghim sâu xuống đất.

Kiều mị nữ tử vừa cười vừa nhìn Đại Đao Vương nói: “Còn gì để dùng nữa không? Xem ra ngươi cũng khá khỏe khoắn, hay về sơn động với tỷ tỷ cùng hưởng phong lưu khoái hoạt.”

Vừa lúc đó, Thập Kiệt Nhất phi thân nhập trường, nói: “Hồ ly tinh, vẫn còn chưa đi coi tên tình lang của ngươi đi, muộn chút nữa, chỉ sợ không còn gặp được hắn lần cuối đâu.”

Kiều mị nữ tử không ngờ Thập Nhật Kiệt lại có thể xuất hiện tại đây, cứ nghĩ tráng nam kia có thể giải quyết Thập Kiệt Nhất một cách dễ dàng, bèn đưa mắt nhìn tình hình bên kia ra sao, không ngờ tên tiểu tử ngốc nghếch kia võ công lại cao như vậy.

Thấy Thập Kiệt Nhất xuất hiện, kiều mị nữ tử biết rằng bên kia chắn chắn đã xảy ra chuyện rồi. Ngoảnh đầu qua nhìn, quả nhiên, thấy “tình lang” mình tựa bệt vào tường, đầu nghẹo sang một bên, miệng thổ đầy máu tươi, hiển nhiên là sắp phải ăn cháo lú rồi.

Nhìn biểu tình của kiều mị nữ tử nọ, Thập Kiệt Nhất không nhận thấy con yêu quái này có phản ứng gì; trái lại, hắn lại nhận thấy con yêu quái này đang định chạy trốn, hoặc giả tiếp tục nghĩ kế một mình chiến đấu tiếp với ba người.

Chẳng ngờ, con Hồ ly tinh xem ra có vẻ vô tình dâm đãng này lại khiến ba người phải kinh ngạc dụi mắt. Chỉ thấy một kiều mị nữ tử, cuống cuồng phóng qua bên Hắc Hùng Tinh, ôm lấy Hắc Hùng Tinh, hai mắt đỏ ngầu, lệ chảy ròng ròng, giọng run run hỏi: “ Tại sao... tại sao lại... tại sao lại như thế này? Không phải chúng ta đã hứa với nhau rồi sao? Vĩnh viễn bên nhau mà, vĩnh viễn mà, huynh nói vậy mà. Chúng ta... chúng ta sẽ đi đên chân trời góc bể mà. Huynh đã bằng lòng rồi mà, phải rồi, huynh đã bằng lòng rồi mà. Tại sao?”

Ba người không thể tin nổi vào mắt mình, và càng không thể tin nổi vào tai mình, con yêu tinh này đang nói gì vậy? Chẳng lẽ đây là những lời mà con yêu quái có thể nói ra sao?

Nữ tử hoảng loạn nọ nhìn Hắc Hùng Tinh từ từ nhắm mắt, nằm bất động, bản thân cũng dần dần lấy lại bình tĩnh; mặc dù nói là bình tĩnh, nhưng đúng ra là bất lực mà phải bình tĩnh trở lại, giọng run run, hòa cùng với nước mắt, nức nở nói: “Tại sao? Tại sao trời già lại hý lộng bọn ta như vậy? Nghìn năm rồi, chúng ta ở đây đủ nghìn năm rồi. Mấy ngày nữa thôi, chúng ta đã có thể ly khai cái địa phương quỷ quái này, đến nơi mà chúng ta muốn đến, không phải chúng ta đã bàn bạc rồi sao? Vĩnh viễn sẽ không phân khai, vĩnh viễn không bao giờ bỏ cuộc. Tại sao? Tại sao huynh lại đi trước? Tại sao? Huynh đã đáp ứng muội rồi mà, muốn mang muội đến chân trời góc bể xem mặt trời lặn, huynh đã hứa sẽ mang muội đến tây vực xem biển cát. Huynh đã hứa rồi mà, mang muội đến Côn Lôn xem trăng mọc...” dần dần, âm thanh càng lúc càng nhỏ, càng nhỏ, rồi tắt hẳn.

Đột nhiên, ánh mắt nữ tử quay ngoắt trở lại, đó là... đó là ánh mắt rực lửa căm thù, phẫn nộ nói: “Các ngươi, các ngươi là ma quỷ!”, nói đoạn tả thủ khẽ phất lên, phóng ra một dải lụa, nhằm hướng Liễu Dật bay tới quấn chặt lấy hắn, rồi “rẹt” một tiếng, một đạo lam quang lóe lên, hai con yêu quái và Liễu Dật biến mất khỏi mặt đất.

-oOo-

Hồi 17: Thiên thốc chi âm, nhân gian đích kỳ tích

(Du dương một tiếng tơ đồng, Nhân gian một phiến chân tình thủy chung)

Thế gian này bất cứ sự việc gì rồi cũng phải có kết cục, đã có khởi nguồn, thì cũng có kết thúc, vô luận là sự việc gì cũng không ngoại lệ.

(Cổ Long - Luận)

Sơn động u ám, nói u ám là chỉ tương đối một quãng ngắn ở gần cửa hang, nếu đi sâu vào, có thể phát hiện, nơi này rộng rãi phi thường, hơn nữa lại còn khá sáng sủa.

Nơi đây có thể so sánh với gian đại sảnh của nhà đại gia chốn nhân gian, ngoài ra, trên trần sơn động, có treo một chuỗi dạ minh châu bạch sắc, ánh sáng từ đó chiếu xuống, làm cả sơn động sáng như ban ngày.

Trong sơn động, truyền lại thanh âm nữ nhân than khóc, thật là bi thương, tựa như tuyệt vọng, theo thanh âm mà lần tới, chính thị là Yêu Hồ. Yêu Hồ ôm lấy thi thể Hắc Hùng, dường như hắn đích thị là tình lang của ả... Liễu Dật đứng đối diện với Yêu Hồ, nhìn Yêu Hồ ở tại đó khóc lóc thương tâm, muốn nói vài lời, mà chẳng biết nên nói sao cho phải. Im lặng một lúc, Liễu Dật cất tiếng nói: “Đừng bi ai nữa, hắn đã ly khai chốn trần thế này mất rồi, ngươi còn khóc lóc để làm gì?”

Nghe tiếng Liễu Dật, Yêu Hồ hung dữ ngẩng phắt đầu lên, hét lớn: “Tất cả là tại ngươi! Tại ngươi! Nếu không tại ngươi, chàng đã không chết.”

Liễu Dật quay đầu đáp: “Hừ! Tự tạo nghiệt, không thể sống. Là lão thiên trừng phạt các ngươi thôi.”

Yêu Hồ dịu dàng đặt Hắc Hùng nằm xuống, đứng thẳng người, từ từ đi đến trước mặt Liễu Dật, một trận cuồng phong thổi vù tới, Liễu Dật hai mắt không cách nào mở lớn ra được, sau khi trận gió đi qua, hắn mới có thể mở mắt ra nhìn.

Phát hiện Yêu Hồ đã biến thành lốt thú, toàn thân phủ lông đỏ rực, cái đuôi xù dựng đứng phía sau, mười ngón tay nhọn hoắt, thêm vào móng tay dài ngoằn, chẳng khác gì mười mũi chủy thủ sắc bén. Gương mặt kiều diễm biến dạng méo mó, để lộ ra hàm răng sắc nhọn.

Yêu Hồ phẫn nộ nói: “Ngươi hại chết tướng công của ta, bây giờ ta quyết phải moi tim của ngươi ra, dùng để tế linh hồn chàng.”

Liễu Dật ngẩng đầu, chẳng chút sợ hãi, nổi giận nói: “Hừ! Bị ngươi bắt được, ta biết đã chẳng còn đường sống sót. Trời cao công bình, ngươi lại nhận được kết cục còn tốt đẹp hơn.”

Yêu Hồ nghe được, móng vuốt sắc nhọn hạ xuống, càng thêm phẫn nộ, tận lực hét lớn: “Ngươi nói sao? Trời cao công bình hả? Thật sự là công bình hay sao? Nếu thật có trời cao, ta thật muốn hỏi hắn tại sao đối xử với ta như vậy?”

Liễu Dật chăm chú nhìn Yêu hồ đang phát cuồng, nói: “Sao chứ? Nói là không công bình ư? Bọn yêu nghiệt các ngươi xem mạng người như cỏ rác, ngươi tự tay hại chết bao nhiêu người rồi, ngươi có đếm nổi không? Hắc Hùng Tinh chỉ bất quá là bước đầu của báo ứng thôi.”

Yêu hồ lớn tiếng thét lên: “Không, ta không nhìn thấy là tại làm sao? Đây là thứ mà ngươi bảo là công bình sao? Nhân loại tàn sát chúng ta, lột da chúng ta, ăn thịt chúng ta, là thiên kinh địa nghĩa, chúng ta giết người, ăn người, lại là thiên địa bất dung? Đây là thứ mà ngươi bảo là công bình sao?”

“Sáu trăm năm trước, ta mới là một tiểu hồng hồ trên đường tu hành, không may bị thợ săn bắt được, nhưng hắn không giết ta, mà nhốt ta vào trong rọ, mỗi ngày lúc cao hứng thì cho ta ăn, còn nếu không cao hứng thì dùng thứ này thứ nọ đánh ta, đâm ta. Chung qui đến một ngày, hắn đã nghịch đủ rồi, ngay lúc hắn đem ta đi lột da, thì Hắc Hùng cứu ta. Cứ như vậy, chúng ta đã cùng sinh sống suốt sáu trăm năm qua, chúng ta đã đối thiên lập thệ, đời đời kiếp kiếp vĩnh viễn không chia lìa. Ta đã quên hết những kí ức về cuộc sống trần tục, chúng ta sinh sống một cách khoái hoạt, chúng ta không phương hại đến bất cứ người nào. Ngươi có thể không tin, nhưng yêu quái cũng có tình, đừng nghĩ rằng tình yêu chỉ có loài người các ngươi mới hiểu nổi. Mười năm trước, chúng ta gặp một tên đạo sĩ, hắn nói chúng ta là loài yêu nghiệt, đem chúng ta phong ấn trong cái hang chuột này. Nhưng mà chúng ta có làm gì đâu? Chúng ta sinh sống trong rừng sâu này, chúng ta phương hại đến ai chứ? Hắc Hùng thì bịgiam cầm lại một chỗ, nhưng tên đạo sĩ đó, hắn đối với ta lăng nhục đủ đường, ngươi nhìn xem...”

Cuồng phong thổi qua, Yêu Hồ biến lại thành nữ tử khả ái, ngoại y trên thân đã bị xé rách giờ rơi xuống đất lả tả, Liễu Dật hoảng kinh vội mở quạt che trước mặt, kêu lớn: “Muốn giết thì giết, đừng hòng lung lạc được ta.”

Yêu Hồ tựa hồ đã hóa cuồng, hét lớn: “Ngươi nhìn đi, ngươi hãy nhìn đi, nhìn những gì tên đạo sĩ đó lưu lại trên thân thể ta, có phải yêu nghiệt chúng ta không có quyền được hưởng thụ sinh mệnh, không thể nói sinh mệnh là chỉ nhân loại các người mới có. Ngươi hãy nhìn đi!”

Liễu Dật từ từ hạ cây quạt xuống, hướng về phía Yêu Hồ, nhìn trên thân Yêu Hồ lằn dọc lằn ngang toàn là vết thương thành sẹo, nhìn qua một lượt, làm cho người ta kinh tâm, là kẻ nào đã tàn nhẫn đến vậy...

Yêu Hồ lại thét lên: “Đây là thứ ngươi gọi là công bình? Loài người ăn thịt chúng ta thì được, chúng ta ăn thịt con người thì không được. Loài người làm tổn thương chúng ta thì được, chúng ta gây tổn thương cho con người thì không được. Đây là công bình, là công bình chăng?” Yêu Hồ gần như hóa cuồng gào thét.

Liễu Dật lắc đầu.

Yêu Hồ nói tiếp: “Có biết tại sao ta và Hắc Hùng phải giết người? Tại sao phải móc lấy tim người? Chúng ta phải báo thù, ta phải nhìn xem tim các ngươi là đen hay là đỏ, là lạnh hay là nóng!”

Liễu Dật nói: “Không thể nói trời cao bất công được. Loài người vô cớ làm hại các ngươi, nhưng còn các ngươi? Các ngươi đâu có tốt lành gì? Các ngươi thậm chí còn tàn nhẫn hơn, vô tình hơn. Các ngươi có từng nghĩ, các ngươi làm hại con người một cách vô cớ, họ đều có cha mẹ vợ con, họ đang sống hạnh phúc? Sự báo thù của các ngươi đã làm hại bao nhiêu hạnh phúc của con người rồi?”

Liễu Dật dừng lại một lúc rồi nói tiếp: “Ta không thể không thừa nhận, nhân tính quả thật có một phần là tà ác, nhưng nhân tính vốn thiện lương, một người không là đại biểu cho mười người, mười người không là đại biểu cho trăm người, trăm người không là đại biểu cho ngàn người, ngàn vạn người không thể đại biểu cho cả nhân loại. Ngươi gây thương hại bao nhiêu người vô tội, có gọi là công bình không? Ngươi đã từng nghĩ thông suốt chưa? Ngươi bị người ta tổn hại chịu thống khổ ra sao? Nhưng những người bị ngươi tổn hại? Những người thân của họ? Cha mẹ của họ phải chịu đau khổ còn hơn ngươi nữa? Sao ngươi không mở rộng tấm lòng, dùng trái tim mà nhìn thế gian này, học lấy cách quan tâm trân trọng mọi sinh mệnh xung quanh mình, nhất thiết lấy lòng chân thành mà đối xử với người, không gây tổn hại đến ai? Yêu nghiệt, sở dĩ bị coi là yêu nghiệt là do các ngươi bổn tính tàn nhẫn, giảo hoạt, gian trá, hung dữ, còn loài người bổn tính là thiện lương, đây chính là khác biệt, nếu ngươi muốn được công bình, thì ngươi sao không tự bắt đầu với bổn tính giống như con người? Nếu ngươi làm được vậy, ta tin rằng, giá trị sinh mệnh của ngươi có thể so sánh với sinh mệnh của con người, mà không phải mãi trầm luân như vậy...”

Yêu Hồ dường như nghe quá nhiều thuyết về hòa bình của Liễu Dật thành ra ngây ngốc, hỏi lại: “Thật chứ?”

Liễu Dật bước lên, đưa tay phải ra, nói: “Ngươi nhìn đi, đây là cái gì?”

Yêu Hồ mở lớn mắt ra nhìn, rồi nói: “Đó là... là tay phải của ngươi.”

Liễu Dật lắc đầu, lập tức đập tay lên mặt bàn ở kế bên, nói: “Đó là nhân quả... là dư kình từ cái đập tay không còn vang nữa.”

Yêu Hồ chầm chậm nói: “Nhân quả? Nhân quả?”, nhìn bàn tay phải của Liễu Dật, tựa hồ đã minh bạch rất nhiều.

Liễu Dật nói tiếp: “Có những việc vốn đã được định trước, có lẽ, hắn quả thật không muốn rời xa ngươi, nhưng các ngươi có năng lực tranh đấu với vận mệnh hay không? Khi hai ngươi rời xa nhau, ngươi có hy vọng là gã được vui vẻ hạnh phúc hay là không?”

Yêu Hồ từ từ đứng lên, đến bên thân Hắc Hùng, chầm chậm ngồi xuống, hai mắt trống rỗng, vô quang …

Liễu Dật đưa mắt nhìn tứ phía, phát hiện có một cây cổ cầm, là vật Yêu Hồ ngày thường sử dụng, nói: “Ta nghĩ, ta chẳng làm được gì nữa, hãy để ta tấu một khúc cho gã, coi như là tiễn biệt.”

Yêu Hồ tựa hồ không nghe thấy Liễu Dật nói gì, chỉ ôm chặt lấy Hắc Hùng. Liễu Dật cũng không màng đến phản ứng của Yêu Hồ, đi về phía cây đàn cầm, hạ mình ngồi xuống.

Cầm âm vang lên, nhẹ nhàng thong thả, khiến người nghe có cảm giác bay bổng phiêu lãng ra ngoài chín tầng trời, nhìn khắp đại địa, gió phơ phất thổi qua người, mây trắng phiêu hốt bao lấy xung quanh, lạc bước đến chốn non xanh nước biếc, cỏ khô chầm chậm chuyển mình trở nên xanh ngắt, trăm hoa đua nở, vạn vật bừng tỉnh, không khí sung mãn ấm áp, tràn ngập sinh mệnh, thế gian thật là mỹ lệ, khiến người ta quên

hết, tựa như giữa trời đất chỉ còn lại cầm âm mỹ diệu.

Đây là khúc đàn “Xuân phong” do chính Liễu Dật viết ra. Hắn rất lâu rồi không tự mình gẩy đàn, nay nhìn thấy chân tình của yêu với yêu, Liễu Dật tựa như vì thế mà cảm động, có ý muốn Hắc hùng khi chết đi được nâng niu bởi “Xuân phong”. Khúc đàn chấm dứt, nhưng cầm âm tựa như vẫn còn quanh quất trong sơn động, từ một hốc đá nhỏ, một cọng thanh thảo xanh xanh từ nham thạch mọc lên, một con chim nhỏ nghe thấy tiếng đàn đã bay vào trong động, đậu bên cạnh cây đàn.

Sơn động đã khôi phục lại sự an tĩnh, chỉ còn lại niềm bi thương và nỗi hối hận vô biên. Liễu Dật nhẹ nhàng đi lại trước mặt Yêu Hồ, thở dài nói: “Ngươi đã minh bạch chưa? Tiếng đàn giống như là nhân sinh chúng ta, không kể là người, là yêu; không kể ngươi tu luyện vạn năm, biến thành tiên, thành thần; tất cả đều có lúc chấm dứt, chỉ là khi biểu đạt thì phương thức không giống nhau, thời gian ngắn dài không giống nhau mà thôi.”

Yêu Hồ hai mắt đã từ từ khôi phục lại thần sắc, nhìn Liễu Dật, hỏi: “Tại sao? Lão Thiên tại sao lại đối xử với chúng ta như vậy?”

Liễu Dật chỉ khẽ lắc đầu, nói: “Không vì lý do gì cả, hoặc có thể, mọi việc đã được chủ định từ trước, việc phải xảy ra thì sẽ xảy ra, khi nó xảy ra, chúng ta làm sao mà tránh được? Ngươi thương tâm sao? Chẳng bằng suy nghĩ theo một hướng khác, có thể bây giờ hắn đã đến được một nơi an tĩnh, cách rời mọi huyên náo nơi trần thế, không thể nói là đó không phải là một thứ hạnh phúc. Mở rộng cánh cửa trái tim của chúng ta, nhất định sẽ nhìn thấy được ánh sáng.”

Yêu Hồ hai mắt còn vương chút mông lung không rõ, hướng về Liễu Dật: “Nhưng, chúng ta phân khai làm hai thế giới, vĩnh viễn đã không thể cùng chung sống với nhau, sao ta có thể chấp nhận được. Ta không thể! Ta chỉ còn có thể sống cuộc sống cô độc, tịch mịch đến lúc chết.”

Liễu Dật lắc đầu, nói: “Chỉ cần trong tim ngươi có hắn, như vậy, giữa hai thế giới hoàn toàn không có khoảng cách, bởi vì hai trái tim của các ngươi ở chung một chỗ, vĩnh viễn, vĩnh viễn là vậy.”

Yêu Hồ vẫn còn nghi vấn hỏi: “Cùng nhau thế nào?”

Nhưng đúng lúc này, từ phía sau vang lên một tiếng quát lớn: “Con bà nó, yêu quái, mau nếm quyền của lão tử đây...”

-oOo-

Hồi 18: Sinh tử ly biệt , tối thâm huynh đệ tình

(Sự đời sinh tử khôn lường, Thâm tình huynh đệ ai ngờ phân ly)

Chết trong tim bất quá chỉ bi thương đến chết lặng, nhưng còn có thể đập trở lại. Giữa sinh và tử, tuyệt không có chỗ cho sự chọn lựa, cũng tuyệt không hề có cơ hội thứ hai.

(Cổ Long - Luận)

Đừng...

Liễu Dật thét lớn. Mà Liễu Dật phản ứng cũng nhanh không kém, hai tay dang ra, chặn ngay phía trước quyền của Thập Kiệt Nhất.

“Ầm” một tiếng, luồng tử sắc như điện chớp chạm lên người Liễu Dật.

Chiêu Thập Kiệt Nhất sử dụng chính là Bôn Lôi Quyền, dự định là thâu tập Yêu Hồ, cho cô ả thấy chút bản lĩnh, nào ngờ được Liễu Dật lại bất thình lình chặn quyền của mình, cho nên một quyền ấy đã thật sự đánh trúng lên người Liễu Dật.

Liễu Dật chỉ là một tên thư sinh bình thường, một chút tu vi cũng không có, làm sao có thể chịu nổi một Bôn Lôi Quyền cương mãnh của Thập Kiệt Nhất, toàn thân y như diều đứt dây, văng tuốt ra xa.

“Bịch”, một âm thanh lại vang lên, chính là do thân hình Liễu Dật đập lên vách đá sơn động mà phát ra...

Lúc này, Yêu Hồ dường như có hơi lưỡng lự, sao người này lại cứu mình vậy nhỉ?

Thập Kiệt Nhất chẳng còn để ý chuyện gì xảy ra nữa, chạy thẳng đến bên cạnh Liễu Dật, quỳ xuống ôm chầm lấy Liễu Dật, hoảng hốt kêu lên: “Lão đại, huynh làm sao rồi? Lão đại, đừng dọa đệ. Thập Nhất không cố ý đâu, đệ thật không biết. Thật đấy, đừng dọa đệ, huynh tỉnh dậy đi.”

Đại Đao Vương ngay lúc này cũng xông vào trong động, nhìn thấy Yêu Hồ ngơ ngẩn đứng ngay đó, còn Liễu Dật thì hôn mê tại một góc, Thập Kiệt Nhất thì đang khóc lóc thảm thiết ở bên cạnh...

Đại Đao Vương có phần mơ hồ, chuyện gì xảy ra ở đây vậy? Chuyện này là thế nào, rồi vội vàng chạy đến bên Liễu Dật.

Thập Kiệt Nhất lại kêu lên thật to: “Lão đại, đừng dọa đệ mà, huynh mau tỉnh dậy, mau tỉnh dậy đi, huynh làm sao rồi...”

Liễu Dật sắc mặt nhợt nhạt, hai mắt nhắm nghiền, Đại Đao Vương thấy thế vội nói: “Nhanh, Thập Nhất, truyền chân khí cho y! Trước tiên hãy bảo vệ tâm mạch cái đã.”

Thập Kiệt Nhất trong lúc quá hốt hoảng, đã quên khuấy mất chuyện này, liền vội vàng giơ tay phải lên thành chưởng, vận chân khí trong người truyền vào thân thể Liễu Dật, luồng nhiệt khí ấm áp lưu chuyển chỉ chút ít đả thông những đường huyết mạch đã bị tắc nghẽn của Liễu Dật.

Liễu Dật chầm chậm mở hai mắt, nhìn thấy Thập Kiệt Nhất hai mắt gần như sắp bật lệ liền bảo: “Hảo huynh đệ... đệ... đệ làm sao vậy? Không được khóc, hảo hán nam tử không được thế, không thể để dễ dàng rơi lệ được.”

Thập Kiệt Nhất vốn đang khó kiềm lại, bây giờ thấy Liễu Dật mở mắt ra, đột nhiên nói câu ấy, lại càng không thể kiềm chế nổi, một giọt lệ nam nhân đã nhỏ xuống: “Lão đại, tại Thập Nhất không tốt, Thập Nhất thật quá bất cẩn, là do Thập Nhất hại huynh, huynh ngàn vạn lần không được xảy ra chuyện gì.”

Sau khi nói xong, Thập Kiệt Nhất bỗng nhiên không thốt được lời nào nữa.

Liễu Dật khẽ lắc đầu, cười yếu ớt: “Không, Thập Nhất, sinh tử hữu mệnh, nếu như ông trời đã an bài, huynh phải chấp nhận, huynh sao có thể trách đệ được.”

Thập Kiệt Nhất nghe được, lại càng không thể kiềm chế, dòng lệ hối hận lại rơi không ngừng, cả mười năm nay, ở bên cạnh Liễu Dật, Thập Kiệt Nhất lúc nào cũng hoan hỉ vui vẻ, chưa bao giờ cảm thấy bơ vơ như lúc này. Thập Kiệt Nhất vẫn gọi Liễu Dật là lão đại, tình thân tựa huynh đệ, bây giờ thấy Liễu Dật tình trạng thế này, bản thân mình lại bất lực không thể tương trợ, thâm tâm Thập Kiệt Nhất hoàn toàn trống rỗng.

Thập Kiệt Nhất dùng đôi bàn tay to lớn thô ráp lau dòng nước mắt nói: “Lão đại, huynh nhất định không có chuyện gì cả. Thật đấy, có Thập Nhất ở bên cạnh, huynh làm sao xảy ra chuyện gì được.”

“Khục, khục...”, cơ quan nội thể bị tổn thương, khiến Liễu Dật từ trong mồm phun ra cả một bụm máu lớn, cố gắng chịu đựng nỗi đau đớn xé tâm can, Liễu Dật lắc đầu nói: “Huynh đệ ngốc, đệ tưởng đấu lại ông trời sao? Mặc dù ta không biết võ công, nhưng ta biết đệ võ công cao cường, trúng một quyền của ngươi, đừng nói đến người không biết võ công...”

Liễu Dật chẳng nói được hết câu, nhưng cho dù y không nói ra, mọi người ai cũng đều hiểu rằng Liễu Dật chẳng còn cứu được nữa.

Ăn năn, hối hận, chưa được một khắc đã hành hạ khổ sở gã thiết hán. Thập Kiệt Nhất nói: “Là Thập Nhất không tốt! Thập Nhất chặt cánh tay này xuống.”

Vừa nói xong, bất ngờ giật lấy đao của Đại Đao Vương.

Liễu Dật cố gắng chịu đựng đau đớn, thều thào: “Dừng tay...đệ làm sao thế...đừng tự trách mắng như thế... đệ tự chặt tay mình chẳng lẽ ta sẽ khỏi hay sao? Không còn tay ... đệ làm sao mà lấy được A Cửu.”

Thập Kiệt Nhất nghe Liễu Dật nói thế, càng thêm thương tâm, cả trong lúc này, mà Liễu Dật vẫn còn nghĩ đến mình...

Liễu Dật lại hộc máu, giọng nói vô lực: “Thập Nhất, về sau phải cố gắng tự chiếu cố lấy thân, giúp ta tìm A Cửu công chúa về, Liễu phủ giờ đây tùy thuộc vào đệ, ta trong người đau quá... mệt quá... ta muốn... ta muốn nghỉ ngơi một lát.”

Nói xong, chầm chậm nhắm mắt lại.

Thập Kiệt Nhất liền phản ứng tức thì, ôm chặt lấy Liễu Dật, vừa lay vừa nói: “Lão đại, huynh đừng ngủ, không được ngủ! Trời sáng bây giờ đấy, chúng ta... chúng ta còn phải nhanh chóng lên đường nữa.”

Thế nhưng, đôi mắt Liễu Dật vẫn nhắm chặt, Thập Kiệt Nhất lại tiếp tục tự mình xuất thủ chưởng, liên tục vận chân khí trong người truyền vào trong thân thể Liễu Dật, nhưng Liễu Dật một phản ứng nhỏ cũng chẳng có.

Thập Kiệt Nhất hoảng hốt, bấn loạn, lớn tiếng gọi: “Lão đại... lão đại... huynh đừng dọa đệ... đừng dọa đệ, huynh không có làm sao đâu, huynh mau mở mắt nhìn Thập Nhất đi chứ. Lão đại, đừng dọa đệ...”, Thập Nhất lắc mạnh thân thể Liễu Dật.

Thế nhưng Liễu Dật cứ như người đã chết, chẳng có lấy một chút phản ứng.…

Đại Đao Vương lắc đầu, vỗ vỗ lên vai Thập Kiệt Nhất nói: “Thập Nhất huynh đệ, đừng nên như thế. Liễu công tử hắn... đã chết rồi, ngươi có thế này thì cũng vô dụng thôi.”

Thập Kiệt Nhất ngẩng đầu lên, hai mắt đỏ hoe nói: “Không đúng đâu, lão đại không thể chết, huynh ấy chỉ... chỉ ngủ một giấc thôi.”

Lúc ấy, Yêu Hồ từ từ đi đến...

Đại Đao Vương vừa thấy, vội cầm lấy đao, chuẩn bị tiến đến chặn lại, chỉ cần nhìn bộ dạng Thập Kiệt Nhất hiện thời, cũng biết không phải là lúc nghênh chiến.

Yêu Hồ ngó Đại Đao Vương rồi bảo: “Ta không hại ngươi đâu, ta chỉ lại giúp hắn thôi.”

Đại Đao Vương vung đại đao nhảy tới, giận dữ quát: “Ai mà tin được ngươi. Người đã chết rồi, ngươi còn muốn giở trò gian trá gì đây?“

Yêu Hồ nhẹ nhàng tránh khỏi, nhưng nàng tịnh không hoàn thủ, lại cũng không hề làm bị thương Đại Đao Vương, nhưng vẫn tiếp tục hướng tới thi thể của Liễu Dật đi đến, rồi quỳ xuống.

Đại Đao Vương có chút kỳ quái, vừa rồi Yêu Hồ rõ ràng có thể đả thương mình, sao lại không xuất thủ, chẳng lẽ hôm nay mọi người ở đây đều điên hết cả rồi sao?

Yêu Hồ nhìn Liễu Dật cùng Thập Kiệt Nhất nói: “Ta có thể cứu hắn.”

Thập Kiệt Nhất liền ngẩng lên, nước mắt lưng tròng, thật sự là khó khăn lắm mới nói được. Ngạc nhiên, Thập Kiệt Nhất hỏi: “Thật chứ? Ngươi thật có thể cứu lão đại sống lại à?”

Yêu Hồ gật gật đầu, chỉ mỉm cười đáp lời: “Hắn quả là người tốt, không nên chết đi như thế. Nhưng ta, thực sự đã hại quá nhiều kẻ vô tội, đối với nhân gian này đã không còn chút quyến luyến, ta muốn đến một thế gian khác mà có người cùng ta luyến ái, nếu không, chàng sẽ cô đơn.”

Nói chưa dứt câu, từ trong miệng nàng chập chờn xuất hiện một quả cầu bạch sắc, quả cầu ấy chỉ độ hai đốt ngón tay, lấp lánh tỏa ánh bạch sắc, ở giữa có hào quang lưu động, đẹp đẽ vô cùng. Yêu Hồ ngoái lại nhìn con gấu đen tinh đang nằm trên mặt đất, mỉm cười khẽ nói: “Đợi muội nhé!”

-oOo-

Hồi 19: Đại nạn bất tử, xảo đắc thiên niên đan

(Nạn lớn không chết, vô tình lấy được nội đan linh hồ )

Sự việc trên thế gian này thường thường rất kì quái, những người không muốn nổi danh, lại nhất định sẽ nổi danh.

(Cổ Long - Luận)

Yêu Hồ dùng tay trái bóp miệng Liễu Dật, nhẹ nhàng thổi vào miệng Liễu Dật một đạo bạch khí, chỉ thấy trong đó có một quả cầu bạch sắc chầm chậm trôi dần, trôi dần, cuối cùng tan biến trong miệng Liễu Dật.

Ngay lúc đó, bỗng phát sinh một sự việc kì quái, chỉ thấy sắc diện Liễu Dật từ từ khôi phục lại vẻ hồng nhuận, thân thể đã có chút phản ứng, hai bàn tay khẽ nhúc nhích.

Thập Kiệt Nhất hai mắt sáng bừng, lấy lại tinh thần, hô lớn: “Lão đại... lão đại, huynh không sao rồi. Nhanh, mở mắt ra nhìn Thập Kiệt Nhất đi!”

Tựa hồ Liễu Dật nghe được tiếng gọi của Thập Kiệt Nhất, chầm chậm mở mắt, hai tay yếu ớt đưa lên, thều thào nói: “Ta có phải đang nằm mơ không? Chắc chắn là nằm mơ rồi, thân thể ta hình như có gì đó khác lạ lắm.”

Thập Kiệt Nhất kích động nói: “Lão đại, không phải là mộng, không phải mộng, là thực đó.”

Liễu Dật lắc lắc đầu, chợt nhìn thấy Yêu Hồ, thân thể ả dường như cũng đã phát sinh biến hóa, trong khoảnh khắc biến thành già lão, nếp nhăn nhanh chóng hiện lên đầy mặt, thân hình run rẩy như sắp hiện nguyên hình, mái tóc đen dài biến thành bạc trắng, ánh mắt không còn toát lên sự tươi trẻ, ngược lại chỉ còn vẻ già lão, vô lực.

Liễu Dật hoang mang hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy, ngươi làm sao vậy?”

Yêu Hồ khẽ mỉm cười, đoạn thều thào nói: “Ta chỉ là dùng nội đan tu hành truyền cho công tử, giúp công tử tái sinh.”

Liễu Dật lại hỏi: “Còn ngươi thì sao? Ngươi tại sao lại biến thành thế này?”

Yêu Hồ đáp: “Loài yêu chúng ta khi tu luyện, sinh mệnh toàn bộ nằm trong nội đan, nếu như không có nội đan, chúng ta có thể chết ngay lập tức.”

Liễu Dật ngồi dậy, vội vã hỏi: “Sao ngươi khờ khạo vậy, tại sao lại muốn cứu ta?”

Yêu Hồ yếu ớt lắc đầu: “Không phải, ta không khờ khạo. Liễu công tử là người tốt, không thể chết được. Còn ta trái tim đã chết rồi, ta hoàn toàn không còn tìm được lý do gì để tiếp tục sống. Vì vậy, ta còn muốn đa tạ công tử, là công tử đã cho ta câu trả lời, nếu như thế gian này thật sự không dung nạp chúng ta, thì hãy để chúng ta tách ra, có thể như vậy chúng ta sẽ hạnh phúc hơn.”

Liễu Dật còn nói gì được nữa? Mà cũng còn có gì để mà nói nữa đây? Có lẽ, bản thân y cũng thường nghĩ tới tất cả đều không đúng, thời kỳ loạn lạc này, cái gì là đúng, cái gì là sai? Yêu quái thì không thể đúng sao? Là người thì nhất định đúng sao?

Yêu Hồ tiếp tục nói: “Có lẽ lần này, chúng ta nhất định sẽ trầm luân trong bể khổ, đã làm bao nhiêu điều sai trái không thể bù đắp lại, ta cũng chẳng dám yêu cầu điều gì. Hy vọng duy nhất của ta là tại mười tám tầng địa ngục có thể nhìn thấy tướng công, thì dù có cực khổ đến đâu ta cũng vui lòng.”

Dần dần, giọng Yêu Hồ càng lúc càng nhỏ, càng lúc càng yếu ớt.

Liễu Dật an ủi: “Nếu như ngươi đã có lòng hối cải, nhất định sẽ gặp lại được tình lang, nhưng không nhất định là gặp nhau tại địa ngục, biết đâu hai ngươi sẽ tái ngộ tại chốn Tây Phương cực lạc, cửa Phật luôn mở rộng, chẳng lẽ lại không thu nhận được hai người bọn ngươi sao?”

Yêu Hồ gật đầu cười buồn, ánh mắt bỗng biến thành trống rỗng vô thần, yếu ớt nói: “Ta cảm thấy nhẹ nhẹ lâng lâng rồi, ta mệt quá, ta muốn nghỉ ngơi một lúc."

Đoạn ả gượng người trở dậy, hướng về phía thi thể Hắc Hùng, chầm chầm đi tới, khoảng cách mỗi lúc một gần, thân thể mỗi lúc một hư nhược, cuối cùng cũng ngã gục vào lòng Hắc Hùng.

Mặc dù Yêu Hồ không phải là do Liễu Dật giết, nhưng cũng vì hắn mà chết, hắn không khỏi cảm thấy có chút cảm thán, lắc đầu thở dài: “Thường Nga hối trộm thuốc tiên, trời xanh biển biếc, đêm đêm tỏ lòng. Nếu đã sớm biết là thế này, hà tất khi xưa...”

Liễu Dật quệt vết máu tươi bên khoé miệng, rồi quay sang phía Thập Kiệt Nhất nói: “Chúng ta hãy chôn cả hai bọn họ chung một chỗ.”

Thập Kiệt Nhất gật đầu vâng lời, ba người hợp sức, cuối cùng cũng đắp xong được ngôi mộ cho cả hai ở bên ngoài sơn động, lập cho Hồ Ly cùng với Hắc Hùng chung một tấm mộc bia.

Liễu Dật ngẩng mặt nhìn trời, thấy mặt trời sắp mọc, nói: “Trời sắp sáng rồi, chúng ta tiếp tục đi thôi. Đầu tiên đến Phong Đà Động, thời gian không còn nhiều nữa rồi. Đại Đao Vương, chúng ta phải nhanh chân lên, có thể đến nơi vào đầu giờ chiều.”

Đại Đao Vương tính toán một lúc, trong vòng ba canh giờ, nếu như đi nhanh, thì có thể được. Gã gật đầu nói: “Nếu như chúng ta có thể đi nhanh như đã nói, thì chắc là có thể.”

Liễu Dật gật đầu nói: “Chúng ta xuất phát thôi!”

Nói xong liền xăm xăm nhằm phía trước mà đi.

Liễu Dật sau khi thoát chết, bỗng cảm thấy thân thể như nhẹ bỗng, đi bộ hầu như không tốn một chút khí lực nào, càng đi càng nhanh. Những sự kỳ dị này, ngay cả bản thân gã cũng không biết giải thích thế nào.

Thập Kiệt Nhất cùng Đại Đao Vương đi phía sau thấy vậy lấy làm lạ lắm, Liễu Dật chưa từng học qua võ công mà, tại sao mới bắt đầu đi đã đi nhanh như vậy? Thập Kiệt Nhất thì còn khả dĩ có thể theo kịp, chứ Đại Đao Vương thì hết chịu nổi, đi theo được một lúc, gã hổn hển nói lớn: “Liễu công tử, đi chậm lại một chút, ngươi đi nhanh như vậy, sẽ chết người đấy.”

Liễu Dật chậm bước, quay lại nhìn hai gã, ngạc nhiên hỏi: “Ta có đi nhanh sao? Ta thì lại cảm thấy hai ngươi đi rất chậm.”

Thập Kiệt Nhất cùng Đại Đao Vương ngớ người nhìn nhau lắc đầu, Đại Đao Vương nói: “Liễu công tử, tại sơn động lúc trước đã phát sinh ra chuyện gì, công tử có thể kể lại cho bọn ta được không? Bao nhiêu việc xảy ra khiến ta chẳng hiểu gì cả, trở nên hồ đồ rồi.”

Thập Kiệt Nhất cũng gật đầu phụ họa: “Phải đó, phải đó! Lão đại, đã phát sinh ra chuyện gì vậy? Tai sao huynh lại giúp con yêu quái đó thoát khỏi quyền của đệ?”

Liễu Dật nói: “Chúng ta vừa đi vừa nói, nếu không sẽ tốn nhiều thời gian.”

Hai người gật đầu đồng ý, Đại Đao Vương lại nói: “Phiền công tử đi chậm lại một chút, nếu không chúng tôi sẽ không theo kịp.”

Liễu Dật gật đầu, và cứ như vậy, một mặt vừa đi, một mặt vừa kể lại mọi việc đã xảy đến với mình, hai người trố mắt lắng nghe, tưởng như tự mình chứng kiến sự tình trong sơn động.

Đại Đao Vương nghe xong, kích động nói: “Sớm nghe nói Giang Nam có nhiều tài tử, nhưng Đại Đao Vương ta trước đây vẫn không tin là tài tử có thể dùng vào việc gì tại giang hồ, không ngờ hôm nay công tử lại cho Đại Đao Vương ta mở rộng tầm nhìn.”

Thập Nhất Kiệt khoái trá cười nói: “Ngươi còn phải học hỏi nhiều, lão đại ta còn biết bao nhiêu chuyện khác nữa kia.”

Lúc này, Liễu Dất bỗng nhiên đi chậm lại. Không biết tại sao, cảm giác toàn thân đau đớn, nhưng không phải là kiểu đau như lúc vừa rồi thụ thương, toàn thân lúc thì cảm thấy lạnh giá như ở trong hang băng, lúc thì cảm thấy nóng bừng như có liệt hỏa thiêu đốt.

Lúc lạnh, trong miệng Liễu Dật không ngờ lại thở ra luồng hơi trắng như sương; lúc nóng, thân thể y lại nóng bỏng như lò lửa khiến Đại Đao Vương cùng Thập Kiệt Nhất đều thất kinh, kêu trời kêu đất.

Liễu Dật cảm thấy thân thể thập phần thống khổ, nóng nóng lạnh lạnh làm y không còn một chút khí lực nào nữa, đành ngồi phịch xuống một gốc cây khô tạm nghỉ.

Thập Kiệt Nhất thấy biểu tình thống khổ của Liễu Dật, hấp tấp hỏi: “Việc gì vậy? Tại sao lại như vậy?”

Đại Đao Vương nhận định: “Công tử có quá nhiều chân khí, xem ra trong thân thể không có gì để áp trụ đám chân khí này."

Thập Nhất Kiệt gật đầu, đặt hữu chưởng lên vai Liễu Dật, dùng chân khí của mình truyền qua người hắn. Dòng chân khí ôn hòa ấm áp vừa nhập vào thân thể của Liễu Dật, liền lập tức bị hai đạo chân khí một nóng một lạnh làm tan biến hết, tay Thập Kiệt Nhất phảng phất như gặp phải chấn lực cực đại, giống như có một lực lượng vô cùng mạnh mẽ đẩy tay hắn ra ngoài.

Đại Đao Vương vội hỏi: “Sao rồi?”

Thập Kiệt Nhất nói: “Trong thân thể y, có một đạo lãnh khí và một đạo nhiệt khí bài xích ta, ta không có cách nào truyện chân khí vào nội thể lão đại được. ”

Đại Đao Vương cũng chẳng còn cách nào khác, làm sao bây giờ? Chẳng nhẽ cứ nhìn Liễu Dật lúc lạnh thì ôm lấy Thập Nhất, lúc nóng thì cởi hết y phục? Chuyện này đúng là một vấn đề lớn đây!

-oOo-

Hồi 20: Băng hỏa tiên ngao, vấn quân hà vi lai

(Huyền băng, liệt hỏa quay cuồng, Tưởng chừng thân thể nửa đường phân đôi)

Có những bí mật mà người ta không tự hiểu được, có lẽ không phải là thực sự không thấu hiểu, bất quá chỉ vì chẳng tìm hiểu nó cho rõ ràng.

(Cổ Long - Luận)

Đang lúc hai người lo lắng chạy loanh quanh, chợt một thanh âm quen thuộc truyền lại: “Tín du du, kỷ thời hưu. Đáo đắc như kim, sản địa kiến vô do. Nghĩ đãi bất năng tư tưởng đắc, vô hạn sự, tại tâm đầu.” (22)

Thập Kiệt Nhất và Đại Đao Vương cùng nhìn lại phía thanh âm vừa truyền đến, chính là Lang Vương mặc y phục thư sinh ấy. Đại Đao Vương kích động la lên: “Liễu công tử được cứu rồi, nhờ ông ấy đi.”

Thập Kiệt Nhất nghe phải, Lang Vương nhất định là cao nhân rồi, vội đặt Liễu Dật nằm xuống, chạy đến bên Lang Vương nói: “Lang Vương tiền bối, ngài mau mau xem dùm cho lão đại! Chẳng biết làm sao, thân thể huynh ấy lúc nóng lúc lạnh, tại hạ thật chẳng biết phải làm sao cả.”

Lang Vương phe phẩy cây quạt gấp trong tay, liếc mắt nhìn Liễu Dật đang nằm run rẩy dưới gốc cây khô, hỏi: “Tên tiểu tử này bị làm sao thế? Lúc trước ta thấy hắn ta thật linh hoạt lắm mà, sao bây giờ lại biến thành con mèo bệnh thế kia?”

Thập Kiệt nhất lắc đầu nói: “Tại hạ chẳng biết. Từ khi bọn tại hạ ba người đến đây, lão đại toàn thân một bên thì lạnh, một bên thì nóng. Lang Vương tiền bối, ngài mau xem giúp lão đại đi, bằng không huynh ấy chắc chết mất.”

Lang Vương gật đầu, thoáng một cái đã đến bên cạnh Liễu Dật ngồi xuống. chỉ thấy sắc mặt Liễu Dật một nửa trắng xanh nhợt nhạt, một nửa nhuộm đỏ tía, biến đổi thập phần đáng sợ, còn vẻ mặt Liễu Dật thì trông vạn phần thống khổ.

Lang Vương phất tay thu lại cây quạt, hữu thủ dùng hai ngón tay nhẹ nhàng đẩy tới, cùng lúc điểm lên hai huyệt Du Phủ, Thiện Trung. Trong giây lát, chân khí tu luyện của Lang Vương lập tức đổ vào trong thân thể Liễu Dật.

Chân khí vừa truyền vào, liền gặp phải một luồng bạch sắc chân khí và một luồng hồng sắc chân khí đẩy ra. Lang Vương nhanh chóng vận thêm chân khí để chống lại hai luồng chân khí kia đồng thời tiếp tục quét mắt quan sát sự biến đổi trên toàn thân Liễu Dật. Khoảng chừng uống cạn một tuần trà, Lang Vương thu hồi hai luồng chỉ lực, phe phẩy quạt, ngồi xuống bên cạnh Liễu Dật nghỉ ngơi.

Liễu Dật cố chịu nỗi đau đớn vạn phần, hỏi: “Lang Vương... Lang Vương tiền bối, ông... ông có xem ra được...ta... ta mắc phải là căn bệnh kỳ lạ gì không?”

Cơn đau làm cho Liễu Dật có cảm giác phải cố gắng hết sức mới nói được, mồ hôi trên trán đọng thành những giọt lớn không ngừng nhỏ xuống.

Thập Kiệt Nhất cũng khẩn trương hỏi: “Lang Vương tiền bối, ngài có thể đoán đại ca mắc phải bệnh gì? Khổ sở như thế này, tại hạ trước nay chưa từng thấy qua bao giờ.”

Lang Vương cuối cùng cũng cười bảo: “Cái tên ngốc này đâu có bệnh gì, là phúc duyên đấy.”

Lời nói của Lang Vương làm cho mấy người chẳng thể hiểu được. Đại Đao Vương huơ ngang thanh đại đao, tựa như muốn liều mạng, hỏi: “Phúc duyên cái gì chứ? Ngươi thấy Liễu công tử bệnh trạng thế này, còn nói những lời vô tình như vậy, đừng có trách đại đao của ta vô tình.”

Nói xong câu ấy, chẳng qua là vì nhất thời xung động, tuy Đại Đao Vương cũng chẳng hạ thấp mình, nhưng với thực lực của hắn, Lang Vương chỉ phóng một phát trung tiện cũng đủ khiến hắn chết ngoẻo.

Lang vương nhẩn nha đáp: “Hai ngày nay có lẽ đã có chuyện vô cùng kỳ quái xảy ra. Có phải hắn đã ăn phải một vật gì đấy không tầm thường, còn có thể phát quang nữa phải không?”

Thập Kiệt Nhất ngẫm nghĩ rồi nói: “Có đấy, lão đại đã ăn thứ nội đan gì đấy của Hồ ly tinh đưa cho. Cái vật này đúng là trăng trắng, cũng tròn tròn nữa, lại cũng phát quang, hơn nữa...”

Lang Vương lắc đầu: “Thế là đủ rồi, không cần nói nữa. Hậu quả của hắn chính là xuất phát từ viên nội đan này. Nhưng mà ta thấy thật kỳ quái, tại sao con yêu quái này lại không màng đến sự sống chết của chính mình mà lại đem nội đan của nó đi tặng cho người khác chứ?”

Thập Kiệt Nhất không hiểu rõ được ý tứ của Lang Vương nên nổi giận quát: “Con yêu quái này thật là đáng ghét, đã chết rồi lại còn hại lão đại như thế.”

Lang Vương lắc đầu nói: “Không phải là hại hắn, mà là giúp hắn. Ngươi có biết nội đan là vật gì không?”

Thập Kiệt Nhất với Đại Đao Vương đều lắc đầu. Đại Đao Vương lên tiếng: “Những thứ gì đó của yêu quái, là người như chúng ta làm sao có thể biết được?”

Lang Vương quay đầu nhìn Liễu Dật rồi nói: “Trông hắn có vẻ như rất đau đớn, hay là ta cứ truyền trước cho hắn một đoạn tâm pháp, để hắn ổn định lại hai luồng chân khí trở về nội đan trước đã.”

Thập Kiệt Nhất cùng Đại Đao Vương vội gật đầu.

Lang Vương đỡ Liễu Dật dậy: “Ngươi chắc là thành thục về các huyệt đạo chứ.”

Liễu Dật gật đầu: “Có biết đôi chút.”

Lang Vương cười nhẹ: “Thư sinh quả nhiên là thư sinh, cái gì cũng biết được không ít. Ngươi nghe cho rõ, theo lời ta mà làm theo: Hai tay đặt lên đầu gối, lòng bàn tay úp xuống, tập trung tại Đan Điền. Mở Khí Hải, Mệnh Môn, lưu chuyển âm khí tụ về Đan Điền. Chân khí theo hai mạch Nhâm Đốc đi thẳng lên nhập vào huyệt Đại Chuy, quay về huyệt Kiên Tỉnh bên phải rồi vào lòng bàn tay, khí tràn đầy tứ chi, đưa tay lên ngang ngực...”

Liễu Dật vốn là người vô cùng thông minh, mà Lang Vương lại nói thật rõ ràng, trong lúc chỉ dẫn đồng thời lại cũng chỉ điểm cho Liễu Dật những chỗ không được minh bạch. Rất nhanh, tình trạng Liễu Dật đã trở nên khá hơn, sắc mặt cũng dần dần khôi phục như bình thường, mọi người cũng cảm thấy bình tĩnh hơn, vẻ đau đớn trên mặt rõ ràng đã giảm đi rất nhiều.

Lang Vương quan sát Liễu Dật đang hành công tâm pháp, thế rồi, chuyển thân bước lại đến bên cạnh Thập Kiệt Nhất và Đại Đao Vương: “Tiểu tử này quả là được phúc duyên, không phải là bị bệnh gì đâu. Các ngươi xem hắn đã không còn quá tệ nữa.”

Thập Kiệt Nhất và Đại Đao Vương cùng nhìn lại. Quả nhiên Liễu Dật nhắm cả hai mắt, sắc mặt hồng nhuận, chẳng còn thấy chút gì đau đớn, chỉ là vẫn còn vận công tâm pháp nên chưa mở mắt ra mà thôi.

Sở dĩ Đại Đao Vương biết được nhiều tin tức, cũng bởi hắn vốn rất hiếu kỳ, ở đâu có việc gì mới mẻ là có hắn, hiện tại tinh thần hắn đã trở lại, nên vội vàng truy vấn: “Lang lão tiền bối, hãy mau cho tại hạ và Thập Nhất biết Liễu công tử đã gặp kỳ duyên gì? Tại sao chúng ta lại chưa từng được nghe qua vậy?”

Lang Vương đáp: “Tên ngốc tử này tịnh không có bệnh gì nan giải cả, mà là vì nội đan đang ở trong người hắn. Trong thân thể người thường, nếu không tập luyện thứ tâm pháp thật cao cường thì không cách gì kết tụ thành nội đan. Thế nhưng hình thành nội đan phải dựa vào hai điều kiện. Thứ nhất, cần phải có thời gian rất lâu, để duy trì việc kết tụ nội đan. Thứ hai, điều kiện chính để có thể kết tụ nội đan, chính là phải liên tục hấp thụ linh khí trời đất, đương nhiên nếu có thể ở nơi Côn Lôn tiên cảnh hấp thu linh khí cửu thiên để kết tụ nội đan thì rõ ràng càng như hổ thêm cánh. Nhưng nếu yêu quái muốn hóa thành hình người, muốn được trường sinh, chủ yếu là nhờ vào nội đan liên tục hấp thu thiên địa linh khí mà duy trì; thế nhưng thời gian để hình thành nội đan cũng phải đến cả ngàn năm, trong vòng một ngàn năm này, chỉ cần một điểm sai sót, hoàn toàn có thể khiến cho nội đan tiêu biến, nói cách khác, yêu tinh có thể sẽ chết. Cho nên, nội đan cũng y như sanh mệnh của yêu quái vậy."

Thập Kiệt Nhất gật đầu một cái nói: “Hèn chi sau khi đưa nội đan cho lão đại, thì nó chết mất. Xảy ra những sự việc như thế, té ra là vì lý do này.”

Lang vương tiếp tục giải thích: “Đương nhiên, đừng nói gì là một người thường, ngay cả một cao thủ, cho dù lấy được nội đan, nếu như không thể sử dụng có thể cũng sẽ bị chính âm dương chi khí của nội đan hành hạ đến chết. Ngược lại, nếu như có thể sử dụng được, rồi lợi dụng nội đan mà tu luyện tâm pháp cao cường, tất có thể đạt thành quả gấp đôi, tiến triển rất nhanh chóng, tu luyện tâm pháp rất hiệu quả.”

Đại Đao Vương gật đầu nói: “Có vẻ cái vật này thật sự là một bảo bối, giả sử như Liễu công tử bị lấy nội đan ra, hắn có chết không?”

Lang vương trả lời: “Tối thiểu như hiện tại thì không. Nội đan chưa hoàn toàn bị hắn luyện hóa, cũng chưa dung hợp làm một với hắn; nếu như có một ngày nội đan hoàn toàn được hóa luyện, trở thành một phần thân thể của hắn, thế thì có lẽ hắn có thể chết. Ta cũng không rõ lắm, ngàn vạn năm rồi, chưa từng thấy thêm một yêu quái nào lấy nội đan của chính mình đem cho người, công sức tu luyện ngàn năm, cũng làm sao có thể quan trọng bằng sinh mệnh được.”

Thập Kiệt Nhất cũng hỏi một câu: “Nếu để luyện hóa được hoàn toàn” thì cần bao nhiêu thời gian?”

Lang vương suy nghĩ: “Ít thì cũng phải mười năm, nhiều thì cần đến cả trăm năm, nhưng nếu là ngươi... vĩnh viễn chẳng thể luyện hóa được.”

Thập Kiệt nhất gật gù, thế nhưng lại nghe được thứ chẳng lọt tai, liền phản ứng lại mạnh mẽ: “Con bà ngươi, cái lão già kia, ngươi không phải quay qua chửi ta ngu đấy hả?”

Tính khí Lang Vương tựa như vĩnh viễn vui vẻ như thế, cười nói: “Có khuyết điểm thì cần phải khiêm tốn tiếp nhận. Huống hồ ngươi đã có nội lực như thế thì còn cần gì nội đan nữa chứ.”

---------------------------------------------------

(22) Dịch nghĩa: (tác giả Chu Tử Chi – đời Tống)

Thư chậm đến, mãi mong tin.

Đến hôm nay, tìm hoài mà chẳng thấy.

Nghĩ hoài nghĩ mãi đến không nghĩ được nữa,

Trăm vạn chuyện chất chứa trong tâm

-oOo-

Hồi 21: Bích ngọc hoa chỉ, phàm trần hoa ngữ hương

Mỗi cá nhân đều có một chỗ đứng nhất định, vốn dĩ đều rất công bằng, chỉ xem người đó có muốn trèo lên cao không mà thôi. Nhưng nếu ngươi đứng cao hơn kẻ khác, nhìn người khác trèo lên vất vả khổ nhọc, đợi đến lúc họ đạt được bằng mình rồi lại than rằng thế giới không công bằng, không bình đẳng, đó mới thực sự là không công bằng.

(Cổ Long - Luận)

Lúc này Liễu Dật từ từ mở mắt ra, cảm giác đầu tiên của y là cảnh vật bốn bề xung quanh rõ ràng hơn hẳn, tự mình dường như có thể nhìn được xa hơn, trông thấy mọi vật rõ hơn, hơn nữa đôi tai của y, dường như cũng thính nhạy hơn trước, những giác quan khác cũng thay đổi khác hẳn.

Kinh qua sự chỉ dẫn vừa rồi, trong Đan Điền y đúng thật là có một vật gì tròn tròn đang chuyển động, mà bên trong dường như lại có một không gian khác, khiến y không thể nhìn rõ không gian đó rộng lớn đến mức nào. Liễu Dật quay người lại hỏi Lang Vương đang ngồi bên cạnh: “Vật bên trong người tại hạ là cái gì vậy?”

Lang Vương phe phẩy cái quạt nói: “Đó là nội đan! Nội đan vẫn chưa được dung hợp. Sau này thời gian lâu dài, cộng thêm sự luyện hóa của ngươi với nó, nội đan này sẽ là của ngươi, nó sẽ tuỳ theo sự luyện hóa của ngươi mà dần dần lớn lên và dung hòa. Nhưng nó chỉ có thể lớn đến mức như trước kia của nó mà thôi, bởi hiện giờ ngươi vẫn chưa thể hấp thu được linh khí của trời đất.”

Liễu Dật không hiểu, lắc lắc đầu.

Lang Vương phe phẩy quạt nói tiếp: “Nghĩa là thế này, bây giờ nội đan của ngươi mới chỉ ở mức sơ cấp, tương đương với nội công của một cao thủ võ lâm; nhưng nội đan là cái mà con người không có được, vì vậy ngươi phải từ từ luyện hóa nó theo tâm pháp mà ta dạy, nhằm biến nó thành một bộ phận của ngươi. Nếu một ngày ngươi không luyện tập rất có thể sẽ bị hai luồng khí âm dương của nó tấn công ngược lại, đến lúc đó ngươi sẽ càng khổ sở hơn nhiều. Trừ phi ngươi hoàn toàn dung hợp được nội đan nếu không ngươi hàng ngày đều phải luyện tâm pháp đó.”

Liễu Dật gật gật đầu, bây giờ thì rõ rồi, tự mình thầm nhủ, mỗi ngày phải luyện tâm pháp mà hắn dạy cho, nếu không sẽ dễ dàng bị chết thiêu hay chết cóng.

Lang Vương vẫn phe phẩy quạt, tự hào nói: “May mà mấy hôm trước ta tham ngộ ra đạo giữa người và yêu, nếu không cũng không thể tạo ra được tâm pháp này. Ta vốn nghĩ tâm pháp này vô dụng, thật không ngờ lại có ích trên người ngươi.”

Liễu Dật duỗi tay ra, hỏi: “Yêu và người thì có đạo gì?”

Lang Vương cười cười đáp: “Loài người các ngươi chỉ biết rằng trong tam giới có Nhân – Ma – Tiên. Mà không biết rằng trong tam giới có ít nhất là sáu chủng tộc: Quỷ tộc trong Ma tộc, từ trước tới nay ẩn tàng rất kín đáo; Thượng Thần trong Tiên tộc rất ít khi lộ diện, dường như đã bị quên lãng; ngoài ra còn có thêm Yêu tộc nữa. Bàn Cổ lúc khai thiên, đã sáng tạo ra sinh mệnh đầu tiên là Thiên Long, loài bảo hộ cho các loài thú hoang dã. Các loài thú hoang ngày đó đã từ từ tiến hóa thành Yêu tộc của ngày nay. Yêu tộc vốn có lịch sử rất lâu dài, bởi vì thú hoang hoặc các sinh vật bình thường khác muốn trở thành Yêu tộc đều phải tu luyện cả ngàn năm. Điều khiến người ta kinh ngạc sợ hãi là ở chỗ sau khi tu luyện ngàn năm Yêu tộc có hình dạng giống như người và bất tử, đó chính là năng lực biến hóa của Yêu tộc. Mà việc Yêu tộc tu luyện thành người, ta từ trước tới nay vẫn đang nghiên cứu. Tâm pháp mà ngươi luyện là một chút thành quả đó vậy.”

Đại Đao Vương sắc mặt lộ ra vẻ ao ước, tam giới giang hồ vốn rất thần bí, không có một cá nhân nào có đủ sức kháng cự, ai lại không muốn trở thành một nhân vật truyền thuyết trong tam giới cơ chứ? Một nhân vật giống như Lãnh Kiếm vậy.

Lang Vương nhìn Liễu Dật đang trầm mặc suy nghĩ liền nói: “Chỉ cần ngươi chịu luyện theo tâm pháp mà ta dạy, nội công của ngươi sẽ tiến rất nhanh nhờ vào sự trợ giúp của nội đan. Thế nhưng... kể cả ngươi có nội công thâm hậu, mà không biết sử dụng thế nào thì cũng không được. Thôi thì ta sẽ dạy cho ngươi một bộ chỉ pháp để phòng thân, ngươi thấy thế nào?”

Liễu Dật nhìn Lang Vương cười gian manh nói: “Vô sự hiến ân cần, phi gian ký đạo“ (23) , y lắc lắc đầu, nói tiếp: “Không học, tại hạ đã nói rồi, tại hạ không thể bái ngươi làm sư phụ được.“

Lang Vương lắc đầu nói: “Ta chỉ cảm thấy chúng ta có duyên với nhau, nên muốn thành toàn cho ngươi. Ngươi phải biết rằng những thứ ta dạy ngươi, kẻ khác nằm mơ cũng không có được, giờ ta dạy ngươi không điều kiện vẫn không được sao?”

Liễu Dật không hiểu tại sao rất có hảo cảm với hắn, thế nhưng thấy người mà tuổi tác không hơn mình bao nhiêu lại cứ muốn nhận mình làm đồ đệ trong lòng cảm thấy khó chịu.

Liễu Dật lắc đầu, nói: “Không được, nếu sau này ngươi đi nói với kẻ khác rằng, võ công của tên tiểu tử Liễu Dật là do ta truyền dạy, thì không phải là tại hạ đã thành đệ tử ngươi rồi sao?”

Lang Vương vội vàng đáp: “Ta thề với trời nếu có một ngày ta nói như vậy sẽ bị ngũ lôi đánh cho hồn phi phách tán, vĩnh viễn không được siêu sinh, như vậy vẫn không được sao?”

Thề xong Lang vương thầm nghĩ: “Sao giống như ta cầu khẩn tên tiểu tử này học ta vậy?”

Liễu Dật bản tính không thích học võ, thế nhưng từ khi rời Liễu phủ đến nay, đã trải qua bao nhiêu là sự việc, suy nghĩ cũng thay đổi không ít; đối diện với giang hồ mà cá lớn nuốt cá bé, y cảm thấy lời nói của mình thật vô dụng; nếu lúc đầu biết chút ít võ công thì Yêu Hồ có lẽ cũng không phải chết. Lòng y thầm nghĩ, dù không bái sư vẫn có thể học nghệ, cũng chẳng phải là tệ, hơn nữa chỉ là chỉ pháp chắc cũng đơn giản thôi.

Liễu Dật dường như suy nghĩ rất lâu, mới đứng dậy, phe phẩy cái quạt nói: “Lang Vương đã thành ý như vậy, Liễu Dật ta nếu cứ từ chối mãi thật không nể mặt ngươi chút nào, thôi thì tại hạ miễn cưỡng mà học vậy.”

Lang Vương giương mắt nhìn Liễu Dật một lúc rồi giận dữ nói: “Ấy, mẹ kiếp, ngươi thật là... không đúng, sao lại có vẻ giống như ta đang cầu ngươi vậy!”

Đại Đao Vương chống thanh đao xuống rồi nằm gối đầu lên gốc cây gãy Liễu Dật vừa nằm, vươn vai nói: “Đùa sao, gì mà có vẻ giống như, rõ ràng là đang cầu người ta mà!”

Lang Vương chỉ Đại Đao Vương, tức khí nói: “Ngươi...” thế nhưng chẳng biết nói gì cả.

Liễu Dật đập đập cái quạt, sốt ruột nói: “Dạy hay không dạy? Không dạy ta đi đây, Cửu công chúa đang chờ ta cứu, thời gian còn lại không nhiều, không lãng phí được đâu.”

Lang Vương hấp tấp quay lại đáp liền: “Dạy, dạy chứ, chúng ta bắt đầu ngay thôi.”

Nói xong tay phải vung ra, triển khai thân pháp, biến mất ngay trước mặt Đại Đao Vương và Thập Kiệt Nhất, chỗ đó chỉ còn lưu lại sáu bóng mờ...

Đại Đao Vương bật dậy hỏi: “Đâu mất rồi, sao nhanh vậy?”

Thập Kiệt Nhất lắc đầu nói: “Ta cũng chẳng biết, chẳng thấy gì cả, thôi chỉ còn biết ngồi chờ lão đại quay trở về vậy.”

Hai người ngồi lên gốc cây khô, bắt đầu bàn luận về ba tộc người mà Lang Vương vừa nói tới...

Cách đó trăm mét, một kiếm khách bạch y đang đứng trên một cành đại thụ um tùm, tay cầm một thanh trường kiếm màu lam, dưới mặt trời cả thân thể của kiếm khách như nhòa vào ánh sáng, nhìn không rõ khuôn mặt, kì lạ một chỗ là thân thể của vị kiếm khách này cũng đung đưa theo gió như là được làm bằng giấy vậy. Chỉ nghe thấy vị kiếm khách tự nói nhỏ: “Xem ra ta đã đánh giá thấp ngươi rồi, không ngờ có thể lưu lại đến sáu bóng mờ, thủ hộ thần thú này xem ra cũng không đơn giản...”

Lại nói, Liễu Dật bị mang đi chỉ thấy thân hình bay rất nhanh, mọi cảnh vật lướt về phía sau, hai bên ù ù tiếng gió rát cả tai, không biết là đã đi được bao xa, chỉ biết rằng đã bay rất xa rồi, cuối cùng đến lúc dừng lại, ngước lên nhìn thì thấy hóa ra là đã bị Lang Vương mang đến sơn động của Yêu Hồ.

Liễu Dật ngạc nhiên hỏi: "Sao lại đến nơi này?"

Lang Vương cười cười nói: "Ngươi tưởng những thứ Lang Vương ta dạy có thể tùy tiện để kẻ khác học sao? Dạy ngươi cũng phải chọn nơi yên tĩnh. Có hai tên kia ta chịu không nổi."

Liễu Dật nhìn Lang Vương rồi lẩm nhẩm: “Ngươi chẳng phải là có ý sợ Đại Đao Vương và Thập Kiệt Nhất học trộm sao?”

Lang Vương dường như đọc được ý nghĩ của Liễu Dật, hắng giọng một tiếng rồi nói: “Ngươi đừng lấy bụng tiểu nhân đo lòng ta, kể cả ta có dạy cho hai tên đó thì chúng cũng chẳng học được, Đại Đao Vương học được thì cũng chẳng đủ chân khí, Thập Kiệt Nhất đủ chân khí thì cũng quá si ngốc để học. Chỉ là ta muốn tìm một chỗ yên tĩnh cho ngươi chuyên tâm học tập mà thôi.”

Liễu Dật nói: “Sao ta nghĩ gì ngươi cũng biết hết vậy?”

Lang Vương cười khẩy đáp: “Có một ngày, ngươi trải qua bao nhân tình thế thái, rồi cũng sẽ như ta mà thôi.”

Liễu Dật cũng rất hiểu điều này liền gật gật đầu.

Lang vương phe phẩy cái quạt nói: “Thôi vào việc chính đi, chỉ pháp mà ta biết rất nhiều, bây giờ ta đọc qua một lượt ngươi nghe mà chọn lấy một. Bách Sắc Chỉ, dùng chân khí đè nén chỉ khí, hấp thu độc tố trong không gian, hình thành bách sắc. Thiên Thiền Chỉ, đúng như tên gọi, uyển chuyển, linh hoạt, tốc độ nhanh, nhưng sức sát thương không cao. Huyền Hư Chỉ, chỉ pháp cương mãnh, nhưng cần phải có chân khí mạnh mẽ, một chiêu có thể phát ra nhiều luồng chỉ khí. Phiêu Hoa Lạc Diệp Chỉ, sát thương không mạnh, nhưng có thể phát ra liên tục, tốc độ cực nhanh, rất khó luyện thành, không phù hợp. Đa La Phong Diệp Chỉ, chỉ pháp nhu thuận, phát chiêu không nhanh lắm, nhưng lại có thể gây ra nội thương trầm trọng cho đối thủ, cũng rất khó luyện. Thanh Liên Phiêu Thủy Chỉ, nổi tiếng phong lưu, động tác mềm mại, phát ra liên tục, có thể phá vỡ được hộ thân cương khí.”

Lang Vương gấp quạt lại, cao hứng nói: “Thế nào, ngươi chọn lấy một, học lấy để hộ thân.”

Liễu Dật nghĩ đi nghĩ lại nói: “Xem ra rất là lợi hại, nhưng ta không học đâu.”

Lang Vương nghe vậy, vội hỏi: “Không phải là nói rõ rồi sao? Sao bây giờ ngươi lại nói là không học?”

Liễu Dật cười khổ, giải thích: “Không phải là không học, mà mấy chiêu này khó nghe quá, có chiêu nào dễ nghe hơn không?”

Lang Vương nghe đến đó, liền nói: “Ngươi nói vậy chẳng có đạo lý gì cả, chỉ pháp thì chỉ cần xem là lợi hay hay không, ngươi nhìn tên của nó làm gì?”

Liễu Dật lắc đầu: “Thì ngươi cứ thử nói xem có cái tên nào dễ nghe một chút không, không có thì ta đi đây.”

Nói xong thì tỏ vẻ muốn bỏ đi.

Lang Vương vẫy tay đáp liền: “Có, có, có... “

Liễu Dật hỏi lại: “Cái gì?”

“Ngưng Không Chỉ, Yên Liễu Chỉ, Bích Ngọc Hoa Kiếp Chỉ...”

“"Đợi chút...”, Lang Vương còn chưa nói hết, Liễu Dật đã giơ tay ngăn lại: ”Bích Ngọc Hoa Kiếp Chỉ, luyện chiêu này, ngươi nói xem có đặc tính gì?”

Lang Vương vò đầu bứt tóc nói: “Bích Ngọc Hoa Kiếp là chỉ pháp đầu tiên ta lĩnh ngộ được, tốc độ cực nhanh, sau khi luyện thành chỉ khí sẽ mang màu ngọc bích, còn tỏa ra hương thơm của trăm loài hoa, mỗi luồng chỉ khí có mùi hương hoa khác nhau, mà chỉ khí mạnh yếu nhanh chậm lại hoàn toàn dựa vào chân khí; ngươi học cái này thực không hợp, vừa khó luyện, công hiệu lại ít, chân khí ngươi không mạnh luyện cái này không có lợi.”

Liễu Dật cười nói: “Thì ta thích chỉ pháp này, chân khí yếu thì sao? Chờ ta dung hòa nội đan thì chân khí sẽ mạnh, không lợi hại cũng có thể dọa được người, dù sao thì cũng hơn là không học cái gì.”

Lang Vương lắc đầu: “Thế nhưng chỉ pháp này khó luyện hơn tất cả, lúc đầu ta không nhắc đến cũng là vì sợ ngươi học không được.”

Liễu Dật nhơn nhơn cười đáp: “Cái này ngươi không cần quan tâm. Học được hay không là do trời định, ngươi cứ dạy là được rồi. À mà Bích Ngọc Hoa Kiếp Chỉ cái tên nghe không được hay lắm đổi thành Bích Ngọc Hoa Chỉ đi.”

“Rầm”, Lang Vương ngã lăn ra than thầm: “Trời ơi, sao lại có tên thư sinh vô lại như vậy chứ.”

Có điều không biết từ đâu Lang Vương kiếm được bao nhiêu là hoa, dễ đến có hơn trăm loài, bày đầy xung quanh Liễu Dật. Những bông hoa này lập tức mọc rễ trong sơn động, hấp thu ánh sáng rực rỡ của dạ minh châu.

Liễu Dật thật không ngờ rằng Lang Vương thần thông đến vậy. Hỏi ra một lúc mới biết rằng, những loài hoa này là do lão trồng từ trước ở trong Thiên Hoàn của lão, chỉ một chiếc nhẫn đeo tay (giới chỉ) nhỏ mà nghe nói có thể bỏ trong đó rất nhiều đồ vật; chiếc nhẫn đó là một loại vật khí phổ thông của Tiên tộc, trong Thần Môn dường như mỗi người có một cái, nhưng trong nhân gian thì rất hiếm, nguyên nhân bên trong rất phức tạp, Liễu Dật cũng lười chẳng muốn hỏi thêm.

Bích Ngọc Hoa Chỉ xem ra cũng rất khó học. sau khi nghe Lang Vương tỷ mỉ giảng giải, Liễu Dật bắt đầu chuyên tâm luyện tập, y cố gắng đưa luồng khí từ Đan Điền đi qua mọi bộ phận trong cơ thể rồi phóng ra ngoài, nhân đó hấp thu sinh khí của các loài hoa vào trong, y phong bế hoàn toàn ý thức, chỉ dùng cảm giác để nhận biết xung quanh.

Lang Vương ngồi ở cửa động chuẩn bị lương khô, vừa ăn vừa nói: “Với chỉ pháp khó luyện như vậy, cho dù căn cơ của ngươi có tốt đi chăng nữa thì cũng phải mất nửa năm mới đạt được mức sơ cấp...”

Thế nhưng, có lẽ Lang Vương đã quên mất hai chữ kỳ tích.

Không biết bên ngoài đã trải qua bao nhiêu lâu, ý thức của Liễu Dật dần dần thanh tĩnh, tại nơi giao thoa giữa chân khí của bản thân và sinh khí của thực vật, một luồng chân khí mỏng manh bắt đầu chuyển động bên trong cơ thể, Liễu Dật biết rằng đây chính là luồng chân khí của Bích Ngọc Hoa Chỉ mà Lang Vương đã nói đến; luồng khí này chạy suốt qua mười hai đại kinh mạch của cơ thể, từ Thủ dương minh, Thủ thiếu dương, Thủ thái dương, Thủ thái âm, Thủ quyết âm, Thủ thiếu âm, Túc dương minh, Túc thiểu dương, Túc thái dương, Túc âm, Túc quyết âm, đến Túc thiếu âm tổng cộng mười hai kinh mạch, rồi lại nhanh chóng theo đường Túc thiếu dương quay trở lại Thủ dương minh, cứ như thế tuần hoàn nhiều lần, từ tay tới chân từ chân tới đầu rồi từ đầu lại trở về tay.

Luồng chân khí chạy tới các huyệt đạo ở cánh tay trái thì đột nhiên chậm lại, từ từ hướng về phía huyệt Thái Uyên gần cổ tay, Liễu Dật cảm thấy hơi nhói đau, sau khi luồng khí đi qua huyệt Thái Uyên thì cơn đau biến mất, luồng chân khí nhanh chóng chia làm ba dòng khác nhau hướng về huyệt Chỉ Giản của năm ngón tay, rồi lại hợp lại với nhau tại huyệt Chỉ Giản biến thành một đạo chân khí hoàn mĩ.

Liễu Dật đột nhiên mở to mắt, ngón tay giơ lên, một đạo chỉ khí màu ngọc bích mang theo hương thơm của Đàm hoa từ ngón tay út bắn ra.

Lại nói đến Lang Vương, đang ngồi ở cửa động tay cầm một cái bánh to vừa mới lấy ra từ Thiên Hoàn, chuẩn bị cắn một miếng, thì đột nhiên một tia sáng màu ngọc bích bay vụt qua, cái bánh đang cầm trên tay liền bị thủng một lỗ, không gian tràn ngập mùi hương của Đàm hoa.

Lang Vương mắt dán chặt vào cái bánh, ngẩn người lẩm bẩm: “Không phải chứ?”

Nói rồi quay người lại, qua cái lỗ bánh trông thấy Liễu Dật đang đi tới.

Lang Vương tay cầm cái bánh, đứng bật dậy tức giận quát: “Mẹ kiếp, xú tiểu tử, muốn giết người hả?”

Nói rồi vỗ vỗ vào vai Liễu Dật.

Liễu Dật cười cười rồi hỏi Lang Vương: “Đã qua bao lâu rồi?”

Lang Vương hạ cái bánh xuống, trả lời: “Hình như là chín ngày, không, là mười ngày rồi.”

Liễu Dật hấp tấp nói: “Mười ngày? mười ngày không ăn uống gì cả, vậy mà không thấy đói.”

Nói xong liền giật ngay cái bánh của Lang Vương cắn một miếng thật to, chẳng giống bộ dạng thư sinh đọc sách thánh hiền một chút nào, chẳng trách Lang Vương bảo y là vô lại thư sinh.

Lang Vương lại lấy ra một cái bánh nữa rồi thong thả nói: “Ngươi dùng nội đan thì có mười năm không ăn cũng chẳng vấn đề gì, cũng chỉ là lãng phí một chút linh khí của nội đan để duy trì sinh mệnh mà thôi, sau này biết hấp thu linh khí của trời đất thì có thể dễ dàng bù đắp lại được.”

Liễu Dật vừa nhồm nhoàm nhai bánh, vừa tò mò hỏi: “Lang huynh, ta muốn hỏi một việc, huynh bảo chỉ pháp này khó luyện, vậy sao ta mới luyện mà đã được rồi?”

Lang Vương đột nhiên ngớ người ra, bỏ cái bánh xuống rồi nói: “Ừ nhỉ, điểm này bây giờ ta mới để ý, đến ngay như ta với tư chất thế này phải mất nửa năm mới đạt được tầng thứ nhất. Thế nhưng ngươi vừa bắn ra đạo chân khí rõ ràng có mùi Đàm hoa, vậy đã là tầng thứ tư rồi.”

Liễu Dật vừa ăn vừa hỏi: “Vậy chỉ pháp này tất cả có mấy tầng?”

“Tổng cộng có bảy tầng, dựa vào chân lực bản thân quyết định sức mạnh của chỉ lực; từ tầng năm trở lên có thể tùy ý bắn ra chỉ lực mang hương hoa bất kỳ. Đến tầng thứ bảy có thể bắn ra ba đạo chỉ lực.”

Liễu Dật vẫn tiếp tục cắn từng miếng bánh lớn, hỏi tiếp: “Vậy huynh luyện đến tầng thứ mấy rồi?”

Lang Vương vừa nghe xong liền mặt đỏ tía tai, mồ hôi chảy ròng ròng, ngượng ngập nói: “Vì từ tầng thứ tư trở lên phải dựa vào chân lực để tăng cường tu vi chỉ khí, vì vậy... vì vậy mà ta mới luyện đến tầng thứ sáu.”

Liễu Dật chẳng để ý gì đến dáng vẻ của Lang Vương, không ngừng chất vấn: “Vậy sao huynh biết đến tầng thứ bảy thì có thể bắn ra ba đạo chỉ lực cùng một lúc?”

Lang Vương chẳng biết nói thế nào, tức khí đáp: “Chẳng lẽ lời của Lang Vương ta không đáng tin sao?”

Liễu Dật lắc lắc đầu, nói: “Ai mà biết được.”

Nói xong liền giơ tay: “Huynh còn cái bánh nào không...”, chưa để cho Lang Vương kịp có phản ứng, Liễu Dật liền giật lấy cái bánh trên tay Lang Vương, há miệng cắn một miếng lớn.

Đúng lúc Lang Vương còn đang chẳng biết làm gì, định thò tay vào Thiên Hoàn lấy ra cái bánh nữa thì đột nhiên phát hiện ra đã chẳng còn cái nào nữa rồi. Lang Vương tức giận hét lên: “Trời ơi...” rồi nhảy bổ vào Liễu Dật, định giành lại cái bánh cuối cùng...

---------------------------------------------

(23) Không việc mà ân cần, tất có sự gian trá

-oOo-

Hồi 22: Vô lại thư sinh, nộ phát xung quan xứ

(Vô lại thư sinh, đùng đùng nổi giận)

Giữa người với người, sao lại có khoảng cách lớn như vậy? Tại sao lại có những người hèn hạ đến vậy? Tại sao lại có những người kiêu ngạo đến thế?

(Cổ Long - Luận)

Ra khỏi cửa động, Lang Vương nói với Liễu Dật: “Bích Ngọc Hoa Kiếp Chỉ nương theo kinh mạch đến các huyệt đạo mà xuất ra chỉ pháp, vì thế mà cũng làm bản thân ngươi bị thương, ngươi luyện càng cao, kinh mạch huyệt đạo của ngươi lúc ấy càng đau đớn, nhưng nếu luyện đến tầng thứ bảy thì nó đúng là một thứ chỉ pháp lợi hại phi thường.”

Liễu Dật gật đầu nói: “Đa tạ, việc này không có gì quan trọng, chỉ cần ta không dùng đến nó thì hiển nhiên như ngươi nói cũng chẳng gặp đau đớn gì. À, bây giờ ta phải đến Phong Đà Động cứu người, ngươi có đi cùng ta không?”

Lang Vương phe phẩy cây quạt nói: “Sợ là không được rồi, Bạch Hổ tìm ta có việc quan trọng, ta phải đi tìm hắn, bọn ta đến đây phải chia tay nhau thôi. Phong Đà Động chỉ là một động phủ nhỏ bé trong Ma tộc Ma Môn Thất phái Tam thập lục động, động chủ Vi Thiên Đà võ công cũng chẳng thể cao hơn Thập Kiệt Nhất, ngươi bây giờ đã có thể tự bảo vệ, tính ra cho dù muốn giết sạch người của Phong Đà Động thì bọn ngươi cũng có thể làm được.”

Liễu Dật cười đáp: “Có câu nói này của ngươi thì tốt rồi.”

Lang vương lại nói: “Chỉ là, Phong Đà Động mới được thành lập gần đây, nhưng đã đứng đầu cả tam thập lục động, ngươi chắc phải biết bên trong có chỗ kỳ lạ.”

Liễu Dật phẩy quạt nói: “Nói ra thật đáng chê cười, ta chẳng phải là người trong giang hồ, thì làm sao biết được cái ảo diệu thất điên bát đảo ấy được.”

Lang Vương liền trả lời: “Phong Đà Động có được thành tựu như hiện nay, có thể thấy được là có quan hệ mật thiết gắn liền với Ma Môn, đệ nhất đại môn phái của Ma tộc, Vi Thiên Đà võ công thì quá bình thường, lại là con người háo sắc, nếu chỉ dựa vào bản thân hắn, hoàn toàn không có năng lực đứng đầu tam thập lục động.”

Liễu Dật gật đầu nói: “Xin chỉ giáo.”

“Chỉ dựa vào một trong Ma Môn tứ đại trưởng lão, Phong Vi Kiếm Vi Phong chính là thúc thúc của hắn, chỉ bằng quan hệ ấy, thế lực Vi Thiên Đà đã vô cùng lớn mạnh, chỉ trong vòng ba tháng ngắn ngủi, đã từ một động chủ nho nhỏ mà trở thành người đứng đầu cả tam thập lục động.”

Liễu Dật gật đầu nói ngay: “Theo như ý ngươi nói, thì đáng sợ không phải là Vi

Thiên Đà, mà là kẻ đứng đằng sau lưng hắn, giả sử bọn ta đắc tội với Vi Thiên Đà, thì đương nhiên là sẽ kinh động đến thúc thúc của hắn, cũng có nghĩa là phải đối mặt với cả Ma Môn, chỉ cần Ma Môn xảy ra chuyện, thì cả Tam môn Thất phái Tam thập lục động của Ma tộc sẽ đồng loạt đứng ra đối phó?”

Lang Vương gật đầu nói: “Ngươi thật là thông minh, môn chủ Ma Môn Ngạo Thiên là kẻ rất lợi hại, nghe đồn Cửu Linh Kiếm Quyết của hắn đã luyện đến mức vượt xa môn chủ tiền nhiệm Vị Linh Phong.”

Liễu Dật hỏi lại: “Vậy ngươi so với hắn thì thế nào?”

Lang Vương nhìn nhìn Liễu Dật nói: “Nói ra thật xấu hổ, tùy tiện lấy ra 2 người trong tứ đại hộ pháp ma giáo ta đã ứng phó không nổi, nói gì đến Ngạo Thiên.”

Liễu Dật vẫy quạt nói: “Vậy nếu ta đắc tội với Vi Thiên Đà, thì tính mạng toàn gia không bảo toàn được, nếu bảo toàn tính mạng toàn gia chắc chắn phải không đắc tội với Ma Môn. Thôi không tính toán gì nữa, trước hết phải cứu người cái đã.”

Lang Vương gật đầu nói: “Được, hay lắm, nam tử hán một lời nói ra thì không thay đổi. Được rồi, vậy ta đi trước, ta sẽ cố gắng đi về thật nhanh để xem xem các ngươi có tìm được Vi Thiên Đà hay không.”

Liễu Dật gật đầu nói: “Tốt!”

Lang Vương liền quay người, tiện tay phóng quạt, chiếc quạt nháy mắt biến to ra, Lang Vương nhẹ nhàng nhảy lên, chân dẫm lên quạt mà bay mất vào trong mây. Liễu Dật nhìn theo thân ảnh Lang Vương, thở dài mà nói: “Trần thế như thủy triều, người như nước, chỉ tiếc người giang hồ có mấy ai có thể quay lại được. Không ngờ Liễu Dật ta đã bước chân vào chốn giang hồ này rồi.”

Vừa than thở, Liễu Dật vừa gia tăng cước bộ, lao nhanh về hướng Thập Kiệt Nhất và Đại Đao Vương, cảm thấy tốc độ càng đi càng nhanh, cây cối hai bên đường vùn vụtlui về phía sau, dưới chân bụi bay mù mịt, hai mươi năm nay, Liễu Dật lần đầu tiên có cảm giác sướng khoái như vậy, càng đi càng thấy nhẹ nhàng, càng đi càng nhanh nhẹn.

“Ầm” nhìn thấy Thập Kiệt Nhất cùng Đại Đao Vương đang ngủ dưới gốc cây, mà chẳng biết làm sao để giảm tốc độ, liền ôm chầm lấy cây đại thụ, lập tức “rầm” một tiếng, ấy là tiếng Liễu Dật ngã lăn ra đất.

Thập Kiệt Nhất vội lao tới hỏi: “Lão đại, huynh không sao chứ, có chuyện gì vậy?”

Liễu Dật đã đứng dậy, miệng phun phì phì ra mấy miếng vỏ cây vừa vô tình cắn trúng, đầu hoa mắt váng lắc lắc mấy cái, rồi nói: “Không sao, chỉ là chạy quá nhanh, đột nhiên quên mất làm sao để dừng lại.”

Thập Kiệt Nhất gãi đầu, chẳng hiểu là Liễu Dật nói chuyện gì.

Đại Đao Vương nhảy đến bên Liễu Dật, hỏi: “Liễu lão đại, ngươi cùng Lang Vương đi đã gần mười ngày, đã học được những võ học cao thâm gì?”

Liễu Dật nghĩ một hồi rồi đáp: “Chẳng học được gì, hắn với ta chỉ đi trồng hoa thôi.”

Nói rồi lại tiếp tục đi thẳng về phía trước. Đại Đao Vương một mặt ngẫm nghĩ tìm hiểu lời nói của Liễu Dật, một mặt bám theo sát gót.

Liễu Dật nói: “Thời gian không còn nhiều, chúng ta phải nhanh chóng cứu công chúa ra.”

Thập Kiệt Nhất xoa quyền nói: “Lão đại, tôi nhất định phải đạp bằng cái gì Phong cái gì động ấy, cứu A Cửu ra ngoài, chúng ta đi nhanh thôi.”

Liễu Dật gật đầu đồng ý, tăng nhanh tốc độ hướng phía trước mà đi.

Có nội lực tương trợ, thẳng đường mà đuổi tới, hiển nhiên cũng dễ chịu hơn nhiều, đến sau giờ ngọ một chút, ba người đã tới cửa Phong Đà Động, nơi mà họ đêm ngày trông đợi.

Thập Kiệt Nhất xoa xoa quyền đầu nói: “Cha mẹ ơi, cuối cùng đã tới, lão tử đã lâu không đánh một trận, đã ngứa tay lắm rồi.”

Liễu Dật khẽ vẫy chiếc quạt nói: “Thập Nhất, đừng có nóng vội!”, rồi liếc nhìn bốn người đang nói chuyện trước cửa động.

Lại nói trước cửa Phong Đà Động có bốn tên tiểu lâu la tay cầm vũ khí tương tự như vũ khí của Đại Đao Vương. Bốn tên này người cao vóc lớn, lại cầm đại đao trong tay, hiển nhiên uy phong phi thường, kì thật ấy là đặc tính của những người trong Ma tộc, trời sinh đã có thân thể cường tráng như vậy.

Mà bốn tên lâu la này còn đang bận rộn dán tấm bảng chữ “Hỉ” ở chính giữa phía trên cửa sơn động, dường như là đang có hôn sự vậy.

Liễu Dật tiến lên ôm quyền hành lễ, dò hỏi: “Xin hỏi bốn vị tiểu ca, các vị là...”

Trong đám lâu la, một tên mặt đen có một vết thẹo do đao chém đáp lại: “Người đến xem động chủ của bọn ta thành thân à? Vậy có thiếp mời không?”

Liễu Dật lắc lắc đầu nói: “Không phải, không phải, ta chỉ muốn hỏi người cùng động chủ thành thân là một cô nương tên gọi là A Cửu phải không?”

Gã mặt thẹo quay đầu kinh ngạc nói: “Ngươi làm sao lại biết được danh tự của động chủ phu nhân chúng ta?”

Liễu Dật mở chiếc quạt, vừa quạt vừa bước tới nói: “Thật đơn giản, bởi vì động chủ của bọn ngươi đã cướp mất thê tử của huynh đệ ta.”

Ban đầu Liễu Dật định trà trộn vào động để xem tình hình thế nào, nhưng hiện tại thì không cần nữa, bởi vì nếu sắp có đám cưới, Phong Đà Động này chắc chắn có rất nhiều người kéo tới, không chừng Vi Phong của Ma Môn cũng đến, khi đó muốn cứu A Cửu đi thì chắc chắn là không xong rồi, hiện tại cứ nên tốc chiến tốc quyết là hơn. Đấy chính là chỗ thông minh của Liễu Dật.

Gã mặt thẹo vừa nghe qua, liền tức giận nói: “Con mẹ nó, ngươi nói cái gì, ngươi đang tìm cái chết à?”

Phía sau ba tên còn lại đồng thời ngừng tay, vung cao đại đao, chằm chằm nhìn Liễu Dật.

Liễu Dật vội nhảy lùi về sau, một mặt lùi một mặt chuẩn bị “Bích Ngọc Hoa Chỉ”, chuẩn bị tùy lúc bảo vệ thân thể, nói: “Các vị, Liễu mỗ nói ra chính là nói thật, không tin các vị có thể hỏi động chủ của các vị.”

Gã mặt thẹo vừa hùng hổ tiến lên vừa nói: “Con mẹ nó, lão tử ghét nhất là những người nói thật, ngươi không nghe qua câu chỉ có người chết mới biết nói thật sao?”

Cùng lúc đó, Đại Đao Vương và Thập Kiệt Nhất đã tiến lên phía trước, đứng tại hai bên Liễu Dật.

Thập Kiệt Nhất mở miệng mắng: “Dám trước mặt bọn lão gia mà tự xưng lão tử à, coi ra ngươi cũng có chút cân lượng, có dám thử múa chơi một phát không.”

Chưa nói xong đầu quyền ẩn hiện sắc tía ầm ầm đánh tới gã mặt thẹo.

Chiên Thập Kiệt Nhất vừa sử chính là quyền pháp bá đạo nhất trong Ngũ Hành Quyền, Bôn Lôi Quyền. Gã mặt thẹo bị Bôn Lôi Quyền của Thập Kiệt Nhất đánh trúngmột phát. Gã ngỡ ngàng nhìn Thập Kiệt Nhất, con ngươi trợn to ra, chỉ trong chớp mắt tử sắc lôi ở đầu quyền như linh xà đã cuộn chặt lấy thân thể gã. Mặt thẹo chẳng kịp kêu lên một tiếng, ngực đã bị Thập Kiệt Nhất đánh cho vỡ nát. Gã ngã ra mặt đất, cũng chẳng thể tin rằng mọi chuyện lại chỉ diễn ra như vậy, dĩ nhiên chết không nhắm mắt.

Lại nói ba tên còn lại vừa nhìn thấy Thập Kiệt Nhất ra tay, không biết được tên tiểu đầu mục đó sống chết thế nào, cùng huy vũ đại đao, đồng loạt xông lên.

Tên tiểu tử xông tới trước Liễu Dật, tay nắm chặt đại đao chém tới, khi còn cách ba trượng, “Bích Ngọc Hoa Chỉ” của Liễu Dật đã chuẩn bị từ sớm, chính vào lúc tên tiểu tử này mở miệng quát tháo, chợt phát hiện ra một đạo chỉ khí lam sắc phảng phất mùi hương hoa hồng đã bắn xuyên qua tim của gã. Chỉ khí xuyên qua người tạo thành một lỗ hổng trước ngực, có thể xuyên qua cái lỗ hổng ấy mà nhìn thấy mấy người đang hỗn chiến ở sau lưng. “Phịch” một tiếng, tử thần thậm chí không để gã kêu thảm một tiếng mà đã đem linh hồn của gã đi rồi...

Liễu Dật không tin nổi chằm chằm nhìn vào ngón tay út của mình, chỉ khí quả thật quá lợi hại, không kém bất cứ thanh kiếm nào. Lần đầu tiên, Liễu Dật giết người, chỉ là, trong lòng dường như lại cảm thấy có chút hưng phấn.

Lại nói Thập Kiệt Nhất đối diện với tên cầm đại đao, cũng to lớn vạm vỡ chẳng khác gì Thập Kiệt Nhất; chỉ tiếc, chỉ tiếc gã lại gặp phải sát tinh là Thập Kiệt Nhất, hắn vận khởi Thiên Cương Đấu Quyền, kỳ chiêu đánh xuống, Thập Kiệt Nhất đã cướp được đại đao trong tay của tên cầm đao, bẻ gãy thành chín khúc mười tám đoạn.

Nhìn quyền pháp dũng mãnh cương liệt như vậy, làm tan nát thanh đại đao trong tay, tên cầm đao quay đầu định chạy. Thập Kiệt Nhất đời nào cho hắn thoát, liền biến chiêu, sử “Địa Sát Quyền” của Ngũ Hành Quyền, thức thứ nhất “Khốn”, hữu quyền Thập Kiệt Nhất phát ra sắc đen, đấm thẳng xuống đất. Thức thứ hai "Sát lục", hữu quyền tiếp tục đánh xuống mặt đất, chân khí phát ra làm rung chuyển cả mặt đất. Hai thức phát liên tục. Gã cầm đao đang bỏ chạy, đột nhiên cảm thấy hai chân không động đậy được, cúi đầu nhìn xem, mặt đất tự nhiên xuất hiện những khối đá nhỏ chắn bước chân đi, vừa quay đầu lại, đột nhiên phát hiện ngực đau nhói, “uỳnh” một tiếng, thức thứ hai của Thập Kiệt Nhất, quyền phong "Sát Lục" đã xé gã cầm đao thành hai mảnh… trên mặt đất máu thịt bầy nhầy, thảm thương không nỡ nhìn.

Địa Sát Quyền của Thập Kiệt Nhất, một chiêu ba thức, chuyên dùng để đối phó với kẻ chạy trốn, trừ phi kẻ đó có thể “ngự khí” mà bay, còn lại thì chẳng thể nào chạy thoát nổi.

Bên phía Đại Đao Vương, chiến cục nhìn chẳng ra thể thống gì cả, hai người cầm đại đao ngươi chém ta, ta chém ngươi, bất quá nhìn toàn cục thì Đại Đao Vương so ra có vẻ lợi hại hơn tên lâu la kia một chút. Đương nhiên, Đại Đao Vương lăn lộn trong giang hồ đã lâu, không phải là “tay mơ”. Chỉ thấy tên lâu la đối diện y phục toàn thân bị Đại Đao Vương chém rách tả tơi, trừ những chỗ quan trọng, còn thì toàn thân hắn gần như phơi hết ra ngoài.

Tên lâu la thấy Thập Kiệt Nhất với Liễu Dật từ hai bên tiến đến, ba tên đồng bọn đều thảm tử, sớm đã chẳng còn lòng dạ nào mà đánh đấm nữa, nhìn thấy trước mắt sẽ thua chắc, bèn thoát ly chiến cuộc, quay mình hướng về phía cửa sơn động mà chạy trốn.

Thập Kiệt Nhất nắm chặt quyền đầu, vừa định xuất thủ, Liễu Dật phẩy quạt ngăn lại, nói: “Để hắn quay về báo tin, giảm tạo sát nghiệp là tốt nhất. Chúng ta chính là đợi con cá lớn chui ra.”

Liễu Dật nói chẳng sai chút nào, tên lâu la chạy thẳng vào đại sảnh trong sơn động.

Đại sảnh quả thật rất rộng, xung quanh đèn đuốc thắp sáng trưng như thể đang ở bên ngoài vậy, bốn đại đao thủ nhìn hình dạng giống nhau đứng ở bốn góc đại sảnh, nhìn rất uy nghiêm; chính phía trên đại sảnh, cao cao ở phía trên thượng tọa thấy có một đại hán râu ria xồm xoàm, tuổi khoảng ngoài tam thập, hai con mắt ti hí, thỉnh thoảng lại liếc nhìn một vị cô nương ở bên cạnh, không thể nhầm được, ấy chính là A Cửu, người đã tìm Liễu Dật nhờ vẽ tranh, trên đường trở về hoàng cung đã bị Vi Thiên Đà bắt đi.

Có thể khẳng định, người râu rậm đang cười khoái trá ngồi ở trên cao chính thị là động chủ Vi Thiên Đà. Chỉ thấy hắn cười khùng khục mà nói: “Tiểu cô nương, ngoan ngoãn thành thân với ta đi thôi, cô nương khá lắm. Bây giờ trong người cô nương đã trúng độc của ta, nếu không có giải dược, bảy ngày sẽ phát tác một lần, mỗi lần phát tác trên thân thể cô hỏng đi một bộ phận, cô hãy suy nghĩ kĩ đi.”

A Cửu chẳng thèm liếc mắt, chỉ hừ mũi một tiếng tỏ vẻ khinh bỉ.

Vi Thiên Đà bực tức nói: “Nha đầu không biết sống chết là gì, tối nay chúng ta thành thân, ta gạo sống đã nấu... nấu... nấu rồi, ta xem nàng còn giữ bộ dạng kiêu căng được không.”

Hiển nhiên, tên này văn tài cũng chẳng hơn gì Thập kiệt Nhất, nói hoài mà chẳng biết là "nấu" cái gì, cuối cùng chỉ đành nói là nấu rồi.

Trong lúc Vi Thiên Đà đang tính cách tối nay làm sao chinh phục tiểu nha đầu này ở trên giường, thì một tên lâu la giữ cửa rẽ lối chạy vào cấp báo: “Động... động chủ, không hay rồi. Có chuyện rồi.”

Vi Thiên Đà nhìn tên lâu la một cái, tức giận, nói: “Con mẹ nó, ta cấp cho ngươi y phục không mặc, thế mà nay lại mặc đồ rách mà chạy vào đây, con bà ngươi tự cho rằng thân mình đẹp lắm hả?”

Tên lâu la bèn giải thích: “Động chủ, tôi vốn mặc y phục của ngài cho, nhưng mà vừa rồi bên ngoài có một tên cầm đại đao đánh nhau với tôi, chém tôi ra thành như thế này. tên tiểu tử đó thật là lạ, chỉ chém quần áo của tôi, nên cuối cùng mới thành ra như thế.”

Khuôn mặt lộ vẻ vô tội, làm Vi Thiên Đà không thể không tin lời hắn nói.

Vi Thiên Đà liền hỏi: “Ngoài kia có chuyện gì?”

Tên lâu la vội đáp: “Có một tên thư sinh, hai tên tráng nam tìm đến. Tên thư sinh nói ngài đã cướp đi cô dâu của huynh đệ hắn, liều mạng đòi tìm ngài, ba huynh đệ ở ngoài cửa, vừa rồi đã bị bọn hắn phân thây mất rồi.”

Vi Thiên Đà nghe qua, tức giận nói: “Thối quá, ta đây đời nào lại đi cướp cô dâu của huynh đệ của tên thư sinh đó chứ.”

Quay đầu nhìn A Cửu một cái, nói: “À, rõ rồi, thì ra là nha đầu này, có thể là có quan hệ với ả.”

Vi Thiên Đà hỏi tiếp: “Ba người mới đến ấy ngươi có biết không.”

Tên lâu la đáp lại: “Ba người ấy nhìn như là người của nhân gian giới, chỉ là không biết của môn phái nào. Tên thư sinh thì giỏi dùng chỉ lực, một tên nam tử to khỏe đầu quyền còn mạnh mẽ hơn đại đao của tôi, còn một tên khác thì dùng đại đao rất nhanh, nhìn xem... hắn chém y phục của tôi thành ra thế này.” Vừa nói hắn vừa quay một vòng để chứng minh.

Bởi vì người nhân giới quen sử dụng kiếm, quạt, thường mặc áo vải thô từ cây gai.

Ma tộc quen dùng kiếm, đao, mặc quần áo da thú, chiến giáp màu bạc. Còn Tiên tộc thì sử dụng trường thương, kiếm, mặc kim sắc chiến giáp, tử sắc kim quan, trên đầu lại còn cắm lông chim. Thế nên, nhìn trang phục, vũ khí, có thể phỏng đoán được người đó xuất thân từ chủng tộc nào.

Vi Thiên Đà tự nhủ: “Phải hỏi rõ lai lịch chúng rồi hãy động thủ, vạn nhất gặp phải người của Lãnh Kiếm Môn hoặc Thần Môn thì thật là phiền phức.”

Nhìn qua thì thấy Vi Thiên Đà cũng ngốc nghếch như Thập Kiệt Nhất, ấy vì đó là đặc tính của người trong Ma tộc thân thể cường tráng. Tuy nhiên Vi Thiên Đà vẫn còn biết sử dụng đầu óc, chứ nếu không làm sao có thể ngồi vào vị trí đứng đầu ba mươi sáu động được.

Vi Thiên Đà liền bảo tên lâu la: “Ngươi ra ngoài, hỏi xem lai lịch của bọn chúng thế nào.”

Tên tiểu lâu la gật đầu vâng dạ, khoát tay một cái, hai tên đại đao thủ bên cạnh cùng chạy tới. Ra đến cửa động, thấy có ba người đang đứng ở đó, tiểu lâu la nói: “Động chủ bảo ta hỏi các người, là người của môn phái nào mà dám tới nới đây làm loạn.”

Liễu Dật tuy thông minh nhưng không hiểu biết lắm về giang hồ, trả lời thẳng: “Giang Nam thư sinh Liễu Dật.”

Thập Kiệt Nhất và Đại Đao Vương cũng lần lượt báo danh.

Tiểu lâu la nhìn qua một lượt rồi nói: “Các người đứng đây đợi, ta quay lại tìm động chủ.”

Nói xong, chạy biến vào trong, hình như sợ Đại Đao Vương xé nốt mảnh áo còn lại của mình.

Vào trong động, tiểu lâu la giải thích: “Động chủ, họ nói là đến từ Giang Nam, tên thư sinh khai hắn tên Liễu Dật, hai kẻ còn lại, một là Thập Kiệt Nhất, một là Đại Đao Vương.”

Lại nói A Cửu đang nằm bất động bên cạnh vừa nghe đến Liễu Dật, lập tức trợn trừng mắt, quát Vi Thiên Đà: “Đồ chết tiệt, thấy có người đến cứu bản cô nương rồi đấy, khôn hồn thì mau thả ta ra, nếu không thì cẩn thận cái động của nhà ngươi sẽ bị san bằng.”

Vi Thiên Đà lườm A Cửu một cái, lầm bầm: “Thư sinh Giang Nam? Thập Kiệt Nhất? Đại Đao Vương? Chưa nghe tới bao giờ … hình như chỉ là mấy kẻ vô danh tiểu tốt trên giang hồ thôi.”

Vi Thiên Đà cất mình đứng dậy cất tiếng gọi: “Tả hữu hộ pháp.”

Phía sau đi ra hai người tráng nam to béo so với Vi Thiên Đà còn cao hơn một cái đầu, nửa trên người không mặc y phục, chỉ đeo trên cánh tay cái bao hộ tay, bảo vệ cổ tay, thân dưới thì mặc một cái khố to đùng làm từ vải thô, một tên cầm cự phủ, một tên cầm cự chùy, hai người này nhìn cứ có cảm giác như là lợn nhà nào vừa mới bị xổng chuồng.

Vi Thiên Đà ra lệnh: “Theo bổn tọa ra ngoài gặp bọn tiểu tử miệng còn hôi sữa kia, xem bọn chúng có việc gì mà dám xông vào động phủ của Vi Thiên Đà ta.”

Nói rồi rút một thanh đại đao từ sau lưng, đi ra ngoài cửa động.

Ra đến cửa động, chỉ thấy một tên thư sinh đang phe phẩy cây quạt, có thêm hai nam hán cường tráng khoanh tay đứng hai bên, đang nhìn chằm chằm vào mình, bất giác cảm thấy có chút run sợ, Vi Thiên Đà tức giận nói: “Trên mặt ta có mọc hoa hay sao mà bọn ngươi nhìn ta như vậy?”

Liễu Dật chắp tay nói: “Tại hạ Liễu Dật, bằng hữu thường gọi là Vô Lại Thư Sinh.”

“Danh hiệu” này là do Liễu Dật vừa mới nghĩ ra, bởi vì người trên giang hồ đều tự gọi mình bằng một danh hiệu, để cho tên Vi Thiên Đà này không thể xem thường mình được nên hắn thuận miệng nói ra tên mà Lang Vương hay gọi mình.

Liễu Dật tiếp tục giới thiệu: “Đây là hai vị bằng hữu của tại hạ, Thiết Quyền Thập Kiệt Nhất và Đại Đao Vương.”, Liễu Dật thuận miệng đặt luôn cho Thập Kiệt Nhất một danh hiệu, tuy nhiên đối với Đại Đao Vương, tên của gã so với danh hiệu thì cũng chẳng khác gì, nên không nhắc tới.

Vi Thiên Đà nhìn bọn họ từ đầu đến chân đánh giá một hồi, rồi lắc đầu nói: “Chưa hề nghe qua!”

Thập Kiệt Nhất xoa quyền nói: “Hôm nay chúng ta không chỉ muốn ngươi nghe, mà còn muốn cho ngươi xem qua nữa!”

Vi Thiên Đà lắc đầu chắt lưỡi đáp: “A, vị thiếu hiệp Thập Kiệt Nhất này hỏa khí không nhỏ, sao không vào bên trong động của bổn tọa uống hai bát lục đậu thang cho hạ hỏa?”

Thập Kiệt Nhất tức giận quát: “Mẹ nó, giả vờ trong sạch trước mặt mấy lão gia đây, được thì đến, không được thì mau cút đi, mấy lão gia đã vạch sẵn đường cho ngươi đây rồi!”

Vi Thiên Đà này tì khí quả thật không kém, lại còn âm hiểm hơn người, do đó có thể nhẫn nại phi thường, nhưng đối diện với Thập Kiệt Nhất, chỉ nghe gã nói một câu, muốn nhẫn cũng không nhẫn được, cũng không thể nào chịu đựng thêm được.

Vi Thiên Đà nổi giận, vung đại đao lên nói: “Ma tộc Ma Môn, Tam môn Thất phái Tam thập lục động, Phong Đà Động động chủ Vi Thiên Đà.” Vung thanh Huyết Hồng Đao lên nói tiếp: “Thanh đao này luyện từ phi thạch từ trên trời, dài ba thước ba tấc, nặng sáu mươi bảy cân, chuôi đao dài ba tấc, lưỡi đao sắc bén, có thể chém đứt tinh thiết.”

Hai tên lợn béo cũng đến, tên cầm đại chùy bên trái xưng danh: “Ma tộc Ma Môn, Tam môn Thất phái Tam thập lục động, Phong Đà Động Tả hộ pháp Thiết Chùy.”

Gã vung cao thanh đại chùy bạch sắc, tự giới thiệu: “Luyện từ sắt ròng trăm năm, toàn thân dài bốn thước chín tấc, nặng một trăm lẻ hai cân, có thể đánh vỡ đá tan bia.”

Tên heo mập ú đứng bên phải tiếp lời: “Ma tộc Ma Môn, Tam môn Thất phái Tam thập lục động, Phong Đà Động Hữu hộ pháp Thiết Phủ.”

Nói đoạn cắm mạnh cự phủ xuống đất, nói: “Luyện từ sắt ròng, toàn bộ dài năm thước hai tấc, nặng tám mươi chín cân, là búa có hai lưỡi.”

Nghe ba người này tự giới thiệu công phu của mình, Liễu Dật vừa nhìn vừa nói thầm: “Bọn ba người này đều sử dụng vũ khí hạng nặng, dùng vũ khí của họ để vào việc phá núi làm đường, đích thị là rất phù hợp.”

Thập Kiệt Nhất nóng ruột quát lớn: “Con bà nó, lão tử chỉ có một đôi thiết quyền, cũng có thể đánh tan Phong Đà Động các ngươi. Đến đây, ra tay đi chứ!”

Thập Kiệt Nhất là người hiếu chiến, chỉ vài lời qua tiếng lại là ra tay đánh ngay.

Vi Thiên Đà giận dữ quát: “Được lắm, để ta tiếp thiết quyền của ngươi, con mẹ nó chứ, lâu lắm rồi chưa có kẻ nào dám nói năng như vậy trước mặt ta.” Nói đoạn uốn mình xông tới.

Thiết Phủ cũng giơ búa lên, không nói câu nào, xông thẳng đến Đại Đao Vương, hai ngươi bắt đầu hỗn chiến.

Thiết Chùy đứng nhìn, thấy hai người bắt đầu ác chiến, trên lưng vẫn vác chùy, thân hình vạm vỡ cường tráng, hướng về phía tên tiểu tử Liễu Dật phóng tới.

Liễu Dật đương nhiên hiểu rõ, đối phương sức lực mạnh bạo, không thể ngạnh tiếp, chỉ có điều Liễu Dật thoái lui đã lẹ, để trách sự truy cản của Thiết Chùy, nhưng tốc độ của Thiết Chùy cũng không chậm, phảng phất như thân hình to lớn cùng vũ khí trầm trọng căn bản không hề ảnh hưởng đến tốc độ của gã.

Thiết Chùy đuổi theo sát gót Liễu Dật, khiến Liễu Dật cảm thấy có chút lo lắng: “Như vậy là không ổn rồi, tự mình quay đầu lại, chỉ pháp chưa kịp xuất ra, đã bị chém nát như tương, giờ không thể dừng lại, chỉ có cách kiên trì đến khi Thập Kiệt Nhất đánh xong, có người trợ thủ vẫn tốt hơn.”

Liễu Dật một mặt suy nghĩ, một mặt chạy nhanh đến mức bụi bay mù mịt.

Chỉ có điều chạy một hồi, Liễu Dật lại phát hiện ra một vấn đề mới, tuy vẫn không thể quay đầu lại, nhưng có thể nhìn thấy Thiết Phủ ở phía trước, đang cùng với Đại Đao

Vương đánh đấm kịch liệt, Đại Đao Vương chỉ còn nước chạy vòng vòng tránh né, không có chiêu nào phản công lại...

Liễu Dật vận chỉ khí, tay phải nhanh chóng điểm tới, một đạo chỉ khí phát ra ánh sáng màu lam lẫn với mùi hoa hồng, bay thẳng đến Thiết Phủ.

Xảo hợp phi thường, không sớm không muộn đúng vào lúc Thiết phủ đang khom mình xuống dùng cây đại phủ của gã chém một nhát chí mệnh xuống Đại Đao Vương, hơn nữa thân hình vĩ đại cùng với cái mông to lớn của gã lúc này cũng bắn tung lên. Chỉ nghe “phù” một tiếng.

Thiết Phủ ưỡn người ngửi ngửi rồi nói: “Sao lại có mùi của heo sữa nướng vậy?”

Quay vòng vòng truy tìm nguồn gốc, cuối cùng, trên cái mông to lớn của mình, phát hiện ra Bích Ngọc Hoa Chỉ đã lưu lại một lỗ hổng lớn, suy nghĩ cả nửa ngày trời, rồi đột nhiên ôm mông nhảy cẫng lên, kêu the thé như lợn: “Đau quá, đau quá...”

Liễu Dật một mặt gia tăng tốc độ chạy trốn, một mặt cười khoái trá, hiển nhiên nhận thấy hiện giờ mình rất an toàn. Thiết Chùy chạy tuy nhanh, nhưng tốc độ của mình cũng không tệ, Liễu Dật vừa chạy vừa lẩm bẩm: “Vô Lại Thư Sinh cái này ta rất khoái, có vẻ như Lang Vương quả thật là hiểu rõ ta, ha ha.”

Lại nói đến Đại Đao Vương, nhìn thấy Thiết Phủ hai tay ôm mông nhảy tưng tưng thì không lý gì đến gã nữa, nhân cơ hội phát ra tuyệt học bản thân một chiêu Hoành Tảo Thiên Quân như gió táp, lưỡi đại đao trong tay như một luồng gió, chỉ dựa vào sức lực nhục thể mà duy trì tốc độ của đao, một trân loạn đao chém xuống, Thiết Phủ sẽ bị lăng trì xử tử.

Đại đao chém xuống đất, Đại Đao vương miễn cưỡng dừng lại. Chiêu Hoành Tảo Thiên Quân tuy không phải là một chiêu thức cao siêu gì, nhưng cũng cương mãnh phi thường, chỉ có Đại Đao Vương mới chịu tốn nhiều sức lực như vậy, nếu là kêu Liễu Dật tới, khẳng định hắn chỉ đánh một quyền thôi rồi sẽ ngã lăn ra không chịu nổi.

Thế nhưng Đại Đao Vương không phải vì kiệt sức đứng không vững, mà là vì vừa nãy quay quá nhiều vòng, bây giờ choáng váng. Nhưng không nên coi thường cách xoay vòng này, sau mỗi vòng tùy theo trọng lượng của đao, tốc độ sẽ nhanh hơn nhiều, làm tăng thêm lực lượng cho chiêu thức, cũng vì lý do này, Thiết Phủ toàn thân bị cắt vụn, chỉ còn một đống bầy nhầy, nhìn thật thảm thương.

Đại Đao Vương nhìn qua chiến trường một lượt, thấy hai người bên địch vẫn chưa giải quyết xong, chỉ có mình là đã tiêu diệt xong đối thủ, giơ tay cao lên, mừng rỡ hét lớn: “Đại Đao Vương ta cuối cùng cũng có ngày hôm nay, ha ha ha ha.”

Liễu Dật một mặt ra sức chạy nhanh một mặt há miệng la to: “Đại Đao Vương, lại đây giúp ta với, ngươi giải quyết cho ta con heo mập này, ta sẽ tăng thêm năm ngàn lượng cho ngươi.”

Đai Đao Vương vẫn còn choáng váng, vừa nghe qua tăng thêm năm ngàn lượng, con mẹ nó, số tiền này có thể giúp cho gã sống được mấy đời mấy kiếp. Không thèm suy nghĩ cân nhắc gì, lập tức giơ cao đại đao, hướng về phía con heo kia chém xuống, trong óc lại nghĩ: “Sao lại có cảm giác mình chẳng khác gì đồ tể vậy kìa?”

Lại nói đến Thiết Chùy, vừa nhìn thấy có người chuẩn bị chém mình, liền quay đầu nhìn về hướng huynh đệ Thiết Phủ, lập tức lửa giận bừng bừng, tên tiểu tử này không ngờ lại giết chết huynh đệ của mình. Gã chẳng còn có tâm tình nào để đuổi theo Liễu Dật, giơ cao thanh đại chùy đập xuống Đại Đao Vương.

Ban đầu Đại Đao Vương vốn không thể giết được Thiết Phủ nếu không có sự hỗ trợ của Liễu Dật. Đại Đao Vương chưa bị giết, đó là hoàn toàn do may mắn. Bây giờ Thiết Chùy thấy huynh đệ thảm tử thì càng hung hãn gấp bội, Đại Đao Vương bị trúng mấy thiết chùy bay tới, té dài trên mặt đất, bò cũng không bò nổi.

Thiết Chùy từng bước đi về phía Đại Đao Vương, đến bên cạnh gã, giơ cao chùy lên định đập cho Đại Đao Vương nát thành bột, thì đột nhiên nghe phía sau lưng có kình phong ập tới, có khả năng là chỉ khí, cũng có thể là kiếm khí, hoặc là ám khí, đại khái vị trí bắn vào bên óc bên trái của gã.

Thiết Chùy thân thể nhanh chóng dời sang một bên, quả nhiên một đạo chỉ khí lam sắc thoảng mùi hoa mẫu đơn bay sượt qua mặt gã.

Trên gương mặt heo của gã bỗng nở nụ cười, gã muốn nhìn thấy qua kẻ này có đủ trình độ để thâu thập mình, quay phắt lại. ”Phù” một tiếng, một luồng chỉ khí màu lam thoảng mùi mai côi đã khoan một lỗ hổng trên cái đầu heo của gã. Trên mặt gã vẫn còn thoảng qua nụ cười, Thiết Chùy rầm một cái đã rơi xuống đất, ngoài ra không còn một âm thanh nào khác nữa. Câu “ta yên lặng đến, rồi lại yên lặng đi” chính là để tả tình trạng này.

Liễu Dật phe phẩy quạt, tiêu sái bước đến, nắm vai Đại Đao Vương kéo dậy, cười hi hi nói: “Con mẹ nó, huynh đệ ngươi đúng là ngu ngốc, ngươi lại còn ngu ngốc hơn y. Ta chỉ có thể phát ra một đạo chỉ khí thôi sao? Đúng là não của ngươi nằm ở mông mà. Đúng là đáng thương, ta thật là lấy làm thương tiếc cho ngươi.”

Đại Đao Vương phủi bụi bám trên mình đã dính đầy máu của Thiết Chùy, cười ha ha nói: "Liễu lão đại đúng là lợi hại, lợi hại. À, còn năm ngàn lượng của ta? Huynh xem..."

Liễu Dật nhìn trừng trừng Đại Đao Vương nói: “Ngươi còn dám đòi tiền hả? Ta gọi ngươi chém chết con heo này, nhưng chính ngươi lại suýt mất mạng, hiện tại ta cứu ngươi một mạng, chính ngươi mới là thiếu ta năm ngàn lượng.”

Đại Đao Vương vừa nghe qua, liền lập tức than trời trách đất: “Không phải vậy đâu. Liễu lão đại, người nghèo khổ kiếm tiền vốn không dễ dàng gì, huynh không phải lấy ta ra làm trò cười sao?”

Liễu Dật phe phẩy quạt lạnh lùng nói: “Ngươi thấy ta đang nói đùa hay sao?”

Rồi chuyển thân chạy về phía Thập Kiệt Nhất đang đánh trận.

Lại nói đến Thập Kiệt Nhất và Vi Thiên Đà hai người, mở miệng nói nửa câu là đả xung đột, ban đầu Vi Thiên Đà nghĩa là chỉ cần đánh xuống một chiêu, thì tên Thập Kiệt Nhất miệng lưỡi “lợi hại” này sẽ được giải quyết nhanh chóng. Nhưng không ngờ bản lĩnh của Thập Kiệt Nhất lại cao hơn nhiều so với dự liệu của hắn, Vi Thiên Đà càng đánh càng lạnh run người, nhìn thấy tên tiểu tử này tuổi tác còn nhỏ, không ngờ không những mồm miệng lợi hại mà hai nắm quyền đầu cũng không kém cạnh chút nào.

Thập Kiệt Nhất càng đánh càng hăng, ngay khi chân khí lưu động, từ Đan Điền, chân khí hóa thành hai phần, tả thủ sử Bôn Lôi Quyền, hữu thủ dụng Thiên Cương Đấu Quyền.

Bôn Lôi Quyền, vô chiêu vô thức, hoàn toàn dựa vào chân khí để phát xuất ra quyền phong, cương mãnh dị thường. Thiên Cương Đấu Quyền, thế thứ nhất Thiên Trùy, thế thứ nhì Lôi Phá, thế thứ ba Toái Ngọc.

Trong hai loại quyền pháp này, Thiên Cương Đấu Quyền thì che chắn thanh Huyết Hồng đại đao, làm Vi Thiên Đà không thể nào có cơ hội gây thương hại cho Thập Kiệt Nhất. Bôn Lôi Quyền thì phản kích cực nhanh, chỉ chờ đợi có một chút sơ hở là lập tức đánh thẳng vào Vi Thiên Đà.

Hai người đánh được vài hiệp, Vi Thiên Đà hiển nhiên đã rơi vào thế hạ phong, hổ khẩu tay phải bị Thiên Cương Đấu Quyền của Thập Kiệt Nhất chấn động đến đau ê ẩm, nhiều lúc không nắm chặt đao được, điều làm y kinh dị nhất là Thập Kiệt Nhất tuổi còn rất nhỏ nhưng tại sao võ công lại cao cường đến mức này. Trong lúc y đang tính toán, thì nghe rắc rắc xương cốt va vào nhau, chính là vai trái đã bị trúng một quyền của Thập Kiệt Nhất, xương bả vai dĩ nhiên đã bị vỡ tan.

Vi Thiên Đà rủa thầm trong bụng: “Con bà nó, tên tiểu tử này không biết từ đâu chui ra, tại sao trước đây chưa hề nghe qua danh tự của gã.”

Vào lúc này, góc mắt lại nhìn thấy Liễu Dật cùng Đại Đao Vương đang chạy tới trước mắt, nhìn lại hai tên tả hữu hộ pháp của mình, hiển nhiên cực kỳ kinh sợ.

Lúc này Vi Thiên Đà trong thời gian ngắn ngủi, đã đưa ra một quyết định sáng suốt, rừng xanh còn đó, sợ gì thiếu củi đốt, hiện tại đại thế của mình đã không còn, huống hồ tên xú tiểu tử trước mắt dũng mãnh phi thường, không khéo khó giữ được tính mạng, do đó, hữu thủ vung mạnh thanh đại đao Huyết Hồng, ném thẳng vào cổ của Thập Kiệt Nhất.

Thập Kiệt Nhất ngẩn cả người, đây là đánh đấm kiểu gì, đao mà lại được dùng làm ám khí? Nhưng mà chẳng lẽ y không còn định dùng đao nữa sao? Đang suy nghĩ không biết làm sao, Thập Kiệt Nhất vung mạnh tả thủ, vận khí Thiên Cương Đấu Quyền để chống lại phi đao.

Cùng lúc đó, Vi Thiên Đà thối lui cực nhanh, hữu thủ cũng ném ra một vật, nhưng không nhằm vào ai, chỉ cắm ngay xuống đất.

“Rầm” một tiếng, nơi mặt đất tiếp xúc với vật đó nhanh chóng tỏa ra khói trắng, trong chốc lát không gian mười thước xung quanh đã tràn đầy khói trắng.

Trong đám khói, Thập Kiệt Nhất không nhìn thấy gì, ra sức lùi lại về phía sau, gã hiểu rõ phải nhanh chóng ra khỏi đám khói này, nếu xui xẻo bị Vi Thiên Đà thu thập thì rất phiền phức.

Từ từ đám khói trắng dần dần biến mất, Liễu Dật cùng Đại Đao Vương chạy ào tới, còn Thập Kiệt Nhất vẫn nhìn chằm chằm vào chỗ Vi Thiên Đà vừa đứng, giờ đã không còn thấy bóng dáng gã, không biết đã chạy trốn đâu mất rồi.

Đại Đao Vương như nhìn thấy bảo bối, nắm tay kéo mạnh thanh Huyết Hồng đại đao đang cắm trên mặt đất lên, một mặt khen ngợi, một mặt chiếm làm của riêng: “Đúng là đồ tốt, thanh đao này đúng là rất khá, so với đao của ta thì mạnh hơn gấp mấy lần, ha ha, không có ai cần, thì ta thu lấy thanh đại đao này vậy.”

Một mặt mở đường cho bản thân, một mặt thu lấy thanh đại đao.

Thập Kiệt Nhất chẳng thèm để ý đến, nhìn Liễu Dật hỏi: “Lão đại, tên tặc tử đó chắc là chạy vào bên trong sơn động, chúng ta hãy đi tìm hắn để giải quyết đi.”

Liễu Dật lắc đầu nói: “Không hợp lý, nếu quả y tiến vào sơn động, nhất định sẽ không có đường rút lui, bởi vậy đó không phải là biện pháp tốt, ta nghĩ y đã bỏ trốn lâu rồi.”

Thập Kiệt Nhất vội vàng hỏi: “Còn A Cửu thì sao? Giờ nàng đang ở đâu?”

Liễu Dật nói: “Đi, chúng ta đi vào trong sơn động xem tình hình ra sao.”

Ba người cùng đi về hướng sơn động, đi qua một thông đạo, trước mắt bỗng bừng sáng, chỉ thấy một gian đại sảnh hào hoa sang trọng, có thể nhìn thấy tên Vi Thiên Đà này bình thời sống rất xa xỉ, để tạo ra được một sơn động hào hoa như thế này ít nhất cũng phải tiêu tốn cả vạn lượng hoàng kim.

Vừa bước vào đại sảnh, đã thấy Đại Đao Vương vơ vét chiến lợi phẩm, kêu la inh ỏi: “Bọn chó chết kia hãy nghe ta đây! Cuộc càn quét chính thức bắt đầu, động chủ của các ngươi đã chạy mất rồi, hai tên tả hữu hộ pháp cũng bị chúng ta siêu độ. Bây giờ nam đứng bên trái, nữ đứng bên phải, không phải nam không phải nữ thì ra đứng trước mặt ta. Nhanh, nhanh lên, đứng xếp hàng cho ta xem!”

Đại Đao Vương quát nạt một hồi, rồi quay lại cười với Liễu Dật: “Liễu lão đại, huynh thấy ta như thế nào? Đã sớm nghe Vi Thiên Đà bình thường ngoài việc thích thu thập mỹ nữ, còn thu thập nhiều loại bảo bối, nhiều loại bí cấp, hôm nay chúng ta phải vét sạch hang ổ của hắn.”

Đúng là giang sơn dễ đổi bản tính khó dời, sau mấy năm sống bằng nghề lục lâm, bây giờ đã có cơ hội dùng đến.

Liễu Dật gật gật đầu nói: “Không sai, không sai, ai nói ngươi ngu ngốc, ta thấy ngươi cũng khá là tài giỏi đó chứ, có đủ tố chất để trở thành thổ phỉ.”

Đại Đao Vương xịu mặt: “Chỉ có thể làm thổ phỉ thôi sao?”

Liễu Dật không thèm trả lời, rảo bước đi đến chính giữa đại sảnh. Đúng lúc đó, một tiểu lâu la nhảy ra, nói: “Các vị đại gia, tôi biết chỗ dấu bảo vật, nay xin dẫn đường.”

Đại Đao Vương nhận ra tên tiểu tử này, là tên tiểu lâu la ban đầu bị mình đánh đến không còn một manh giáp, gã liền vỗ vỗ đao, nói: “Hay lắm, hay lắm, ngươi dẫn đường đi.”

Tên tiểu lâu la này không thèm để ý đến chuyện nam nhân phải đứng bên trái, nữ

nhân bên phải, liền quay mình, đi về hướng một tiểu đạo ở bên phải.

Liễu Dật nói: “Các ngươi đi trước đi, ta ở lại đại sảnh xem xét một chút.”

Đại Đao Vương cùng Thập Kiệt Nhất nhanh chóng biến mất trong tiểu đạo. Liễu Dật gấp quạt lại, nói: “Ta hỏi các ngươi một vấn đề, phải thành thật trả lời.”

Một hàng nam nhân bên trái, một đám nữ nhân bên phải đồng thanh đáp: “Đại hiệp xin cứ nói, đại hiệp xin mời...”

Liễu Dật nói: “Động chủ các ngươi bắt được một vị cô nương, định là hôm nay sẽ thành thân với nàng ta, nàng ta hiện tại ở đâu?”

Một tên nam nhân chạy ra nói: “Hồi bẩm đại hiệp, đang ở phía trước mặt đại sảnh, kế bên hàng ghế là nàng ta nằm dài ở đó.” Nói đoạn liền chỉ hướng cho Liễu Dật.

Liễu Dật gật gật đầu nói: “Được lắm, các ngươi đi được rồi.”

Cả đám người nhanh chóng giải tán, ai mà không muốn mọc thêm chân chạy cho nhanh, nếu vị đại hiệp này đột nhiên thay đổi chủ ý, tùy tiện giết một hai người, thì thật là xui xẻo.

Liễu Dật đi thẳng phía trước, kế bên dãy ghế trong đại sảnh, cuối cùng cũng nhìn thấy dáng người quen thuộc của A Cửu, Liễu Dật gật gật đầu: “Đúng là khó mà biết được chân tướng nguồn gốc... A Cửu Công Chúa, cô hại ta thảm quá, bởi vì cô mà cả nhà ta bị giam cầm chuẩn bị xử trảm.”

A Cửu cười hì hì nói: “Liễu công tử, ta cũng có khổ tâm, ngài là đại nhân không nên chấp nhặt kẻ tiểu nhân...” Liễu Dật nhìn A Cửu hỏi: “Nàng có sao không? Bị điểm huyệt rồi à? Sao lại bất động vậy?”

A Cửu lắc đầu, nói: “Gã động chủ đáng chết đó không biết đã cho ta uống loại yêu dược gì, mà toàn thân không có chút khí lực nào, chỉ biết nằm tại đây thôi, hơn nữa hắn còn nói nếu đến ngày thứ bảy mà không uống giải dược, cả thân thể của ta sẽ tan ra thành bột.”

Liễu Dật gấp quạt nói: “Tệ quá, sự tình thế này còn gặp nhiều rắc rối đây...”

-oOo-

Hồi 23: Nhất ba vị bình, kế tục hướng tây hành

(A Cửu thụ độc trùng nan giải, Thỉnh thần y Liễu Dật kíp lên đường)

Cuộc sống vốn là niềm vui, phong phú biết bao, náo nhiệt biết bao, cho dù trong cuộc sống của một số người không có được niềm hoan lạc triền miên, dù sao ở một lúc nào đó cũng có thể hưởng được niềm vui nhẹ nhàng yên tịnh. Thế nhưng đích cuối cùng của cuộc sống là gì? Cái chết

(Cổ Long - Luận)

A Cửu tròn đôi mắt sáng nhìn Liễu Dật: “Ngươi đỡ ta ngồi dậy có được không? Đã nửa tháng nay ta nằm đây khó chịu chết đi được.”

Liễu Dật nhìn A Cửu, có vẻ không tự nhiên, ấp úng: “Cái này...”

A Cửu gắt gỏng: “Gì mà cái này cái kia, nhanh lên, đau muốn chết đây.”

Liễu Dật vòng tay ra phía sau, từ từ đỡ A Cửu ngồi dậy.

A Cửu liền hỏi tiếp: “Vừa rồi ngươi nói có chuyện gì rắc rối vậy?”

Liễu Dật phẩy quạt nói: “Cô nương à, thật là rắc rối! Sao cô không nói sớm là đã bị trúng độc? Bây giờ Vi Thiên Đà đã mất tung mất tích, chúng ta đi đâu mà tìm giải dược cho cô? Thật là... chuyện này chưa qua chuyện rắc rối khác đã đến mà!”

A Cửu nghe Liễu Dật nói xong, diện mạo mếu máo như muốn khóc: “Ta làm sao mà biết được, không phải bây giờ ta đã nói rồi sao? Ta mà nói sớm liệu ngươi có nghe thấy không?”

Liễu Dật gườm gườm nhìn bộ dạng thê lương của A Cửu, nói: “Được rồi, được rồi, bây giờ chỉ còn phó mặc cho ông trời, xem xem lão Thiên gia có cho cô chết thối thây hay không?”

A Cửu nước mắt lã chã nói: “Ta quyết không chịu, không chịu! Thân thể mà bị rữa nát thì thà chết trăm lần còn sướng hơn.”

Nữ nhân vốn yêu cái đẹp, việc này ai lại không biết.

Đúng vào lúc này, Đại Đao Vương vác trên vai một bao đầy, Thập Kiệt Nhất cũng ôm một đống sách lớn, chạy vội đến nói: “Lão đại, lão đại, nhìn xem bọn đệ tìm thấy gì này?”

Hai người nhanh chóng bỏ đống đồ xuống. Chỉ thấy Đại Đao Vương cầm trong tay vật gì lấp lánh kim quang, đẹp đẽ vô ngần, toàn là ngọc ngà châu báu, mã não, đồ trang sức quý giá. Còn đống sách của Thập Kiệt Nhất thì hầu như là sách về kiếm pháp, đao pháp, tâm pháp, thân pháp.

Thập Kiệt Nhất nhìn sang A Cửu đang ngồi cạnh Liễu Dật, hớn hở nói: “Ha ha, thì ra A Cửu cô nương đang ở đây, ta đã tìm cô khắp mọi nơi.”

A Cửu nghếch đầu nhạo: “Phì, chờ cho ngươi tìm được ta ư, thế thì ta đã chết mất từ đời thuở nào rồi, ngươi có mà đi tìm mấy quyển sách của ngươi thì có.”

Liễu Dật nhìn đống châu báu nói: “Ta đâu có cần đến những thứ này, chẳng dùng vào chỗ nào được, lộ phí dọc đường cần đủ là được rồi...”

Rồi quay đầu nhìn mấy quyển bí cấp: “Kiếm pháp, khó luyện; đao pháp, quá nặng nề, không xài được; tâm pháp, có một bộ rồi, không luyện nữa; xem xem mấy thứ thân pháp xem sao, được, món này không tồi, hôm nay suýt chết vì Thiết Chùy, sau này cũng phải luyện thân pháp, dùng để đào tẩu cũng tốt.”

Liễu Dật tùy tiện cầm lên một quyển: “Ẩn Toàn Cửu Anh” rồi bỏ vào người.

Thập Kiệt Nhất lại không lấy cái gì, mấy thứ này có luyện nửa ngày cũng không hữu dụng bằng nắm đấm của mình, tốt nhất cứ dùng quyền đầu mà thôi.

Đại Đao Vương lại khác, hắn lấy vàng bạc châu báu bỏ vào bao, lại cầm luôn quyển “Thiên Tật Tâm Pháp” và quyển đao quyết “Hỏa Diễm Đao Pháp” bỏ vào áo, ngẫm nghĩ một lúc rồi gom tất cả cột thành một gói lớn đeo trên vai. Hắn hớn hở nói: “Đây là các người không lấy đấy nhé, sau này đừng có tìm ta mà đòi lại những món này đó.”

Đại Đao Vương nhìn khuôn mặt còn vương nước mắt của A Cửu hỏi: “A Cửu cô nương sao thế? Sao mà khóc? Chẳng phải cô đã được cứu rồi sao? Sao lại khóc như vậy, lẽ nào cô đã bị tên kia... làm gì rồi sao?”

Thập Kiệt Nhất dứ dứ nắm đấm về phía Đại Đao Vương nói: “Ngậm cái miệng thối của ngươi lại!”

Liễu Dật phe phẩy chiếc quạt trả lời thay: “Là thế này, A Cửu bị trúng độc của Vi Thiên Đà, toàn thân chẳng còn chút khí lực, trong vòng bảy ngày mà không có giải dượcthì thân thể sẽ bị hủy hoại. Hiện tại Vi Thiên Đà đã trốn mất, chúng ta ở ngoài sáng, hắn ở trong tối, biết đi đâu mà tìm ra hắn.”

Nhất thời chẳng ai nói gì, thế này... làm thế nào bây giờ? Thời gian bảy ngày chóng vánh, thiết tưởng muốn tìm một người trong thế giới này thật khác gì mò kim đáy bể, ngay cả nếu Long Nhãn của Kim Lâu chủ Vạn Kim Lâu không bị hỏng cũng không có đủ thời gian.

Mấy người trầm mặc giây lát, bỗng một quang ảnh màu xám lóe lên rồi tụ lại, còn ai vào đây nữa, chính là Lang Vương. Lão vừa hạ xuống đất liền hỏi ngay: “Sao yên tĩnh thế này? Ta vội vội vàng vàng trở về, thế mà vẫn không được xem náo nhiệt gì sao?”

Liễu Dật vừa trông thấy Lang vương xuất hiện, vội hỏi: “Lang Vương, ngươi có biết Vi Thiên Đà hay dùng loại độc dược nào không? Hiện tại A Cửu đã trúng độc của hắn, nhưng tên này đã tẩu thoát mất rồi, chúng ta làm thế nào bây giờ?”

Lang Vương quan sát bộ dạng Liễu Dật, phe phẩy cây quạt, đi đến bên cạnh A Cửu, chăm chú nhìn nàng rồi nói: “Không tồi, thật là xinh đẹp, chẳng trách tên tiểu tử đó lo cho cô nương như thế!”

A Cửu bị Lang Vương nhìn ngó nhận xét một hồi, chỉ biết cúi đầu im lặng, riêng Thập Kiệt Nhất thì lửa giận phừng phừng, lớn tiếng chửi: “Mẹ kiếp, đến ăn phân cũng không dám ăn nóng, lần nào xong việc rồi mới dẫn xác tới, lại còn mở mồm nói toàn những thứ vô nghĩa.”

Lang Vương phe phẩy quạt nói: “Vô nghĩa cái gì chứ, ta nhìn ngắm nữ tử ý trung nhân của bạn hữu, có gì là sai?”

Liễu Dật vội vàng chữa lại: “Không phải, ngươi nói sai rồi, không phải ta, là Thập Kiệt Nhất.”

Lang Vương cười hề hề một cách ma mãnh: “Ngươi chối quanh chối co làm chi, cái này gọi là: Sâm si hạnh thái, tả hữu lưu chi, yểu điệu thục nữ, ngụ mị cầu chi (24). Ngươi còn định giấu diếm gì nữa?”

Liễu Dật nói nhanh cho qua chuyện: “Thôi được, đừng nói chuyện này nữa, ngươi mau trả lời câu hỏi của ta đi.”

Lang Vương ngẫm nghĩ một lúc rồi đáp: “Vi Thiên Đà là một môn nhân mới xuất đạo của Ma Môn, hắn chuyên dùng loại độc nào ta cũng không rõ. Chỉ là, chất độc trong vết thương của A Cửu không phải do dược vật gây nên, mà là do một loại huyết dịch độc trùng. Loại trùng này cực kỳ nhỏ, mắt thường không nhìn thấy, có thể làm cho nạn nhân mất hết sức lực; trong vòng bảy ngày độc trùng không ngừng sinh sản trong huyết dịch, để tiếp tục sinh sôi, chúng có thể ăn mòn da người, ngay cả xương cốt, cực kỳ hung ác, người trong tam giới gọi loại trùng này là Xích Long Trùng.”

Liễu Dật vội hỏi tiếp: “Thời gian bảy ngày thật nhanh chóng, chúng ta làm sao tìm được Vi Thiên Đà?”

Lang Vương lúc lắc đầu bảo: “Nếu ngươi quả thật muốn tìm Vi Thiên Đà, vậy thì chỉ có thể chờ đến khi A Cửu chết đi mà thôi. Hiện tại chúng ta ở sáng, hắn ở trong tối, nếu phải tìm hắn, biết đến ngày tháng nào đây?”

Liễu Dật tiếp tục truy vấn: “Chẳng lẽ không còn cách nào khác sao?”

Lang Vương phe phẩy quạt, đáp: “Có, nhưng mà...”

Thập Kiệt Nhất vội vàng xen vào: “Có đánh rắm gì thì đánh mau đi, bất quá thế nào?”

Lang Vương lườm Thập Kiệt Nhất một cái rồi nói tiếp: “Hoàng thượng không lo thái giám lo làm gì? Hà, chỉ là việc này rất khó khăn, ta nghe nói Miêu Cương có một đệ nhất cao thủ dụng độc, cũng là một vị đệ nhất thần y danh xưng là Mạc Anh, giang hồ gọi là Anh Thần Y, nghe nói vị cao nhân này tánh tình rất ư là cổ quái.”

Liễu Dật tiếp lời: “Bây giờ cấp tốc đi đến Miêu Cương mất khoảng bao lâu?”

Lang Vương đáp: “Đi qua Phong Ma Trấn, lộ trình sẽ dễ đi hơn nhiều. Các người nếu phi ngựa liên tục, đại khái cũng mất một ngày, còn từ đây đến Phong Ma Trấn, nếu đi với tốc độ của các người, ta nghĩ phải cần đến ba ngày mới đủ.”

Liễu Dật hốt nhiên nhớ đến một chuyện liền hỏi: “Ngươi có thể bay được đúng không? Hay là ngươi đem A Cửu đi trước, chúng ta sẽ theo phía sau.”

Lang vương nghe vậy tự hỏi: “Từ khi nào hắn đã biết ta biết bay?”, hốt nhiên nhớ lại lúc ly khai sơn động của Yêu Hồ, lão đã ngự khí mà bay đi.

Liễu Dật nhìn nhìn nét mặt của Lang Vương nói: “Được rồi, không làm khó nữa, đi nhanh thôi, coi như Liễu Dật ta nợ ngươi một món nợ ân tình.”

Dưới sự chỉ dẫn của Lang Vương, Liễu Dật biết được nơi cư ngụ của Mạc Anh, và bảo đảm nội trong bốn ngày cho dù có chuyện gì xảy ra cũng sẽ đến đó bằng mọi cách,

Lang Vương ôm A Cửu, nhảy vọt lên mây, bay thẳng về hướng Miêu Cương.

Liễu Dật thở dài nói: "Chung quy cũng đã xong được một việc, không biết thương thế của A Cửu phải chữa mất bao lâu. Thôi thì thế này, Đại Đao Vương, ta thêm cho ngươi năm ngàn lạng, ngươi mang tín vật của ta đến kinh thành tìm hoàng thượng, nói đã tìm thấy A Cửu, chỉ là tạm thời chưa thể quay về, thỉnh hoàng thượng khoan hồng hạn thêm thời gian, nếu mà được, thì quay về báo tin, ta sẽ cho ngươi thêm năm ngàn lạng nữa.”

Đại Đao Vương nhíu nhíu mày hỏi lại: “Liễu lão đại, ngươi không phải đang đùa với ta chứ?”

Liễu Dật liếc mắt ra hiệu cho Thập Kiệt Nhất, Thập Kiệt Nhất liền nhanh nhẩu ra một tờ ngân phiếu năm ngàn lạng: “Cầm lấy!”

Ngay lập tức khuôn mặt thô kệch của Đại Đao Vương liền nở nụ cười xiết bao rạng rỡ: “Ngươi hãy chờ xem, ta sẽ theo đúng như thế, từng lời từng lời mà thưa lên với hoa thượng.”

Nói rồi, chuyển mình ra phía cửa động mà đi.

Liễu Dật nhìn bóng Đại Đao vương đi mất thở dài sườn sượt: “Yên tâm à?”

----------------------------------------------------

(24) Trích Quan Thư - chương II (Chu Nam – Tạ Quang Phát dịch)

So le rau hạnh lơ thơ

Hái theo dòng nước ven bờ đôi bên

U nhàn thục nữ chính chuyên

Nhớ khi thức ngủ triền miên chẳng rời

(Nguồn: Thi viện Mai Hoa Trang)

-oOo-

Hồi 24: Hồi thủ Phong Ma, vọng quân Thần Môn hành

(Trở lại Phong Ma cùng tin dữ, Thần Môn một chuyến phải bôn hành)

Khi một cá nhân một khi quá nổi tiếng thì khó tránh khỏi rước quá nhiều phiền phức vào mình, nếu hắn muốn hoàn toàn thoát khỏi những phiền não này, cách triệt để nhất chỉ có một phương pháp đó là “chết”.

(Cổ Long - Luận)

Liễu Dật phe phẩy cây quạt, tảng đá trong lòng đã được cất đi, Cửu công chúa hiện đang do Lang vương hộ tống đến Miêu Cương, bây giờ sự tình đã đơn giản hơn nhiều, chỉ cần mau chóng đi đến Miêu Cương hội họp với bọn họ.

Bình thường lúc hai người nghỉ ngơi, đều là do Thập Kiệt Nhất chuẩn bị đồ ăn; còn Liễu Dật thì bay lên hạ xuống luyện tập “Ẩn Toàn Cửu Ảnh”. Tuy không biết lai lịch bí kiếp này như thế nào, nhưng Liễu Dật cảm thấy hữu dụng phi thường. Sau khi có quyển Ẩn Toàn Cửu Ảnh, lại thêm vào Bích Ngọc Hoa Chỉ nữa, cho dù không làm được đại hiệp thì ít ra cũng khỏi bị người khác tùy tiện chém chết, đương nhiên tại thời điểm này việc luyện tâm pháp để dung hợp nội đan là không thể tránh được nữa rồi.

Thập Kiệt Nhất cũng rất đảm đang trong công việc bếp núc. Cứ mỗi lần luyện công, Liễu Dật đều phải đánh vật rất vất vả với cái bao tử bởi các mùi nấu nướng thơm tho, mà thường thì Liễu Dật đành phải dừng việc luyện công vì sự mời gọi của các món ăn hấp dẫn kia.

Hai người cứ lúc đi lúc nghỉ thế này, qua hết vài ngày, cũng đã đến Phong Ma Trấn. Lúc Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất trước sau tiến vào đều có cảm giác khá kỳ lạ, ở đây dường như đã khôi phục lại sự nhiệt náo bình thường của một thị trấn.

Liễu Dật nhìn chừng bóng chiều, bàn bạc: “Trước hết chúng ta tìm Tửu thúc chào hỏi cái đã, sau hãy mua lấy hai thớt khoái mã, nhanh chóng lên đường.”

Thập Kiệt Nhất đương nhiên không có có ý kiến, chỉ gật đầu đồng ý, hai người liền đi về phía nơi ở của Tửu thúc.

Tửu thúc dáng vẻ già lão, nằm dài trên một chiếc ghế thái sư đã cũ mèm, tay cầm một hồ rượu, chậm rãi uống từng ngụm.

Liễu Dật bước đến trước, ôm quyền thi lễ: “Tửu thúc, đã lâu không gặp trông lão có vẻ hưởng thụ lắm nhỉ.”

Tửu thúc mở mắt ra ra nhìn, trông thấy Liễu Dật liền lập tức ngồi dậy: “Thiếu hiệp, ngài đã trở lại rồi, dạo này trong trấn yên tĩnh lắm, cũng không thấy Hắc Hùng Tinh lẫn Hồ ly tinh xuất hiện, các vị nhất định là đã giết chết chúng rồi.”

Thập Kiệt Nhất vỗ ngực khoe: “Đương nhiên, không thế làm sao chúng ta có thể quay trở lại được?”

Tửu thúc liền đứng dậy vào nhà lấy ra hai cái ghế, mời Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất ngồi xuống.

Tửu thúc uống một ngụm từ hồ rượu cầm trên tay rồi nói: “Thiếu hiệp, bản lãnh của ngươi quả là cao cường, đã trừ khử đại họa cho Phong Ma Trấn của chúng tôi. Thật là cám ơn ngươi lắm lắm. Thế là mọi người lại được hưởng thêm mấy ngày yên ổn nữa rồi.”

Liễu Dật phe phẩy chiếc quạt, hấp tấp hỏi ngay: “Yêu quái đã chết, sao Tửu thúc lại nói là chỉ được thêm mấy ngày yên ổn thôi?”

Tửu thúc lắc đầu thở dài: “Thiếu hiệp không biết đấy thôi, Phong Ma Trấn vốn dĩ là nơi đa tai đa nạn, trăm năm trước, có một vị cao nhân đã trấn áp một số lớn yêu ma tại Loạn Cương cách Phong Ma Trấn năm dặm. Không ngờ vài mươi năm gần đây, mấy con yêu đó bỗng nhiên phá vỡ sự phong tỏa, ban đêm mò đến Phong Ma Trấn bắt người ăn thịt.”

Liễu Dật kinh ngạc: “Vị cao nhân đó sao lại sơ ý như thế, sao lại đi phong bế yêu ma ở gần bên thị trấn chứ.”

Tửu thúc lắc đầu: “Cũng không thể trách vị cao nhân kia. Chỉ vì lúc bây giờ Phong Ma Trấn dân cư thưa thớt, ai mà có thể biết trước sẽ có hôm nay, cao nhân đó cũng có truyền lời lại rằng, chẳng may trăm năm sau yêu tà đột phá cấm chế, thì nên thỉnh người đến Thần Môn ở tại núi Côn Lôn mà tìm bảo vật khống chế bọn chúng.”

Liễu Dật hỏi tiếp: “Về sau thế nào?”

Tửu thúc uống thêm một ngụm rượu rồi tiếp tục: “Đến chừng mười hai năm trước, có người phát hiện hủ thi (xác chết thối rữa) bắt đầu đến thị trấn, tuy rằng mọi người đều nỗ lực ngăn cản, chỉ là số lượng hủ thi quá đông, sau này lại xuất hiện thêm cương thi cùng nhập bọn, người trong trấn càng thêm sợ hãi. Chỉ có điều sau khi hai con yêu quái đó xuất hiện, bọn tà ma cũng yên ắng bớt.”

Tửu thúc uống hết hớp rượu lại tiếp: “Hiện tại thiếu hiệp đã tiêu diệt hai tên yêu quái đó, lão tưởng, đám yêu tà sẽ lại xuất hiện trong nay mai...”

Liễu Dật tiếp tục truy vấn: “Tửu thúc, chẳng lẽ các người không phái ai đi đến Thần Môn tìm pháp bảo để chế ngự yêu ma sao?”

Tửu thúc đáp: “Có đấy, mười hai năm trước cảm thấy tình hình không ổn, đã phái người đi, nhưng đi một cái là liền mươi hai năm, đến một tin tức báo về cũng không có.”

Liễu Dật hỏi: “Lẽ nào lại không phái người đi nữa hay sao?”

Tửu thúc lắc đầu: “Người được phái đi không thấy thấy tin tức khẳng định đã gặp chuyện không may, người trong thôn cũng không ai dám đi nữa.”

Thập Kiệt Nhất xoa xoa nắm đấm nói: “Thập Kiệt Nhất ta sẽ giúp các người giải quyết đám quái vật kia.”

Tửu thúc lắc đầu: “Bọn yêu ma này và hai yêu quái kia không giống nhau, tuy rằng bọn chúng không phải là yêu ma lợi hại gì, chỉ là nhiều không đếm xuể, đừng nói lão đầu ta nói bậy hù người, thiếu hiệp có chết vì mệt cũng không giết hết bọn chúng đâu.”

Tửu thúc ngừng lại một chút rồi nói tiếp: “Thấy rằng người trong trấn chẳng còn phái được ai đi, lại gặp được thiếu hiệp là người hảo tâm, lão đầu ta thỉnh mong thiếu hiệp đi đến Thần Môn, chắc có khả năng lấy về pháp bảo phục yêu, vì Phong Ma Trấn mà trừ hại.” Nói xong, liền hạ mình quỳ xuống.

Liễu Dật vội vàng đỡ lấy Tửu thúc: “Tửu thúc, sao ông lại thế, mau đứng lên, mau đứng lên! Tiểu điệt xin đáp ứng, sau khi làm xong việc, sẽ đi ngay đến Thần Môn xin mượn bảo vật.”

Tửu thúc bèn đứng dậy: “Thiếu hiệp quả có lòng dạ bồ tát, người tốt tất sẽ có hậu báo.”

Liễu Dật thưa: “Tửu thúc nói quá lời, hiện tại tiểu điệt có chuyện gấp phải đi đến Miêu Cương, khi nào làm xong việc này, nhất định sẽ đến Thần Môn một chuyến.”

Tửu thúc mỉm cười gật gù: “Hảo hài tử, đi đi! Trước tiền diện khách sạn có rất nhiều ngựa, các ngươi hãy chọn lấy hai con, Tửu thúc chẳng có gì để đưa tiễn, chỉ có miếng ngọc này, ngươi hãy giữ lấy.”

Liễu Dật không thèm nhìn đến, lắc đầu nguây ngẩy: “Tửu thúc chẳng quá coi thường Liễu Dật rồi. Liễu Dật nào có phải hạng người chỉ vì tiền tài như thế?”

Tửu thúc lắc đầu nói: “Hảo hài tử, ngọc này nào có giá trị gì, vả lại chỉ có một phần, để làm kỷ niệm mà thôi, nếu như quả thật không nhận chính là thiếu hiệp có ý khinh chê Tửu thúc ta.”

Liễu Dật cúi đầu nhìn miếng ngọc trong tay Tửu thúc, tuyền một màu huyết hồng, chỉ lớn độ phần tư một miếng ngọc hoàn chỉnh, ở trên có khắc mấy hình người màu lục, không rõ là ai, nhưng trông rất sinh động, nhìn qua cũng biết là vật đặc biệt phi thường...

Liễu Dật gật đầu: “Tửu thúc đã nói thế thì tiểu điệt đành thu nhận.” Nói xong, liền tiếp lấy miếng ngọc hồng ngọc đặc biệt đó.

Tửu thúc nói tiếp: “Vả lại miếng ngọc này có một truyền thuyết thần bí rất phi thường...”

Liễu Dật càng lúc càng trở nên thích thú, dường như việc cấp tốc đi đến Miêu Cương chẳng còn quan trọng, lúc này chỉ muốn dông dài nghe chuyện

Tửu thúc bảo hai người cùng ngồi, tự mình cũng ngồi xuống, uống thêm hớp rượu: “Hài tử, hài tử, ngươi hãy đeo miếng ngọc lên cổ trước, nó vốn là vật đeo sát trên người mà.”

Liễu Dật gật đầu, dùng sợi dây đỏ xuyên qua khối hồng ngọc, đeo lên trên cổ, bỗng chốc cảm thấy thân thể tràn ngập vui sướng, thanh mát vô cùng, làm cho bản thân cảm thấy tinh thần thật hưng phấn. Liễu Dật kinh ngạc nhìn Tửu thúc hỏi: “Tại sao...?”

Tửu thúc kể: “Đó chỉ là một điểm thần kỳ của nó thôi. Truyền thuyết kể rằng, miếng ngọc này vốn nguyên vẹn, sau này không biết tại sao mà bị phân thành bốn mảnh, ta nghe nói chỉ còn sót lại có một miếng này thôi. Vì thế, sau này người nên để tâm lưu ý đến mấy mảnh kia, khi nào tìm được một mảnh, chỉ cần ngươi đặt nó dưới miếng ngươi đang có, chúng sẽ tự động dung hợp cùng nhau. Khi nào tìm được cả thảy bốn mảnh, chúng sẽ tựu hội hợp thành một khối ngọc hoàn chỉnh.”"

Ngừng lại nghỉ một lát, uống một hớp rượu, Tửu thúc lại kể tiếp: “Chính ra lão đầu không biết khi miếng ngọc được hòan chỉnh sẽ có công dụng gì hay không, nhưng dựa vào nhãn quang mấy mươi năm của lão đầu mà nói, miếng ngọc này nhất định không phải là vật tầm thường.”

Liễu Dật liền nói: “Tửu thúc, lễ vật của ông quả là vật trân quý, Liễu Dật sợ là...”

Tửu thúc thở dài: “Ngươi đã vì Phong Ma Trấn mà làm bao nhiêu chuyện, ta chỉ có thể tặng ngươi vật này, thôi thì đừng để cho lão đầu này cảm thấy bất an nữa.”

Liễu Dật lắc đầu đáp lời: “Việc này bất cứ nam nhân nhiệt huyết nào cũng nên làm như thế, Tửu thúc sao lại nói quá. Tiểu điệt phải lên đường thôi. Tửu thúc, khi xong việc tiểu điệt nhất định đi đến Thần Môn, mượn lấy bảo vật mà trừ hại cho Phong Ma Trấn.”

Tửu thúc gật đầu, uống một hớp rượu rồi nói: “Đi đi, hài tử! Tửu thúc đợi ngươi trở về.”

Liễu Dật không nói một lời, chuyển thân hướng về phía đối diện với khách sạn mà đi.

Một trận gió lớn thổi đến, thân ảnh Tửu thúc biến mất, thay vào đó là một bóng người mang chiến giáp màu đen, ngang hông tướng quân đeo một thanh trường kiếm, áo khoác màu đen lay động trong gió, dưới ánh mặt trời mãnh liệt không thấy rõ nhân dạng, chỉ nghe tiếng tướng quân thở dài: “Vị Linh Phong, hai mươi năm trước ngươi không nên chết đi, có lẽ đó là vận mệnh định sẵn, Liễu Dật là sinh mệnh của ngươi hai mươi năm sau, chỉ hy vọng ngươi không cần phải dùng đến Lãnh Kiếm...”

-oOo-

Hồi 25: Vấn tầm y nhân, đang hỏa lan san xứ

(Miêu Cương Liễu Dật cầu y, Tình cờ gặp được Lợi Nhi bên đường)

Vô luận việc gì rồi cũng có kết thúc. Việc càng dài dòng phức tạp, thì kết thúc càng đột ngột, bất ngờ.

(Cổ Long - Luận)

Lại nói Liễu Dật, Thập Kiệt Nhất sau khi rời khỏi Phong Ma Trấn, khoái mã phi như bay trên đường, hướng thẳng đến nơi ở của Mạc Anh tại Miêu Cương, chỉ trong khoảng thời gian ba thời thần, đã đến được vị trí Lang Vương đã chỉ sơ lược.

Liễu Dật nhìn quanh bốn phía, xung quanh chỉ thấy núi liền núi, phảng phất đỉnh núi như nhập hẳn trong mây thành một khối, một dòng sông nhỏ trong vắt dưới chân núi dồn nước tạo thành một thủy đầm nho nhỏ, chung quanh mọc đầy hoa dại, thêm vào bãi cỏ xanh ngát dưới đồi, bát ngát trải rộng cả một phương trời, cảnh tựa như tranh vẽ. Ở giữa bức tranh thủy mặc ấy là ba mái lều tranh liên tiếp nhau...

Liễu dật phe phẩy quạt nói: “Hà, cuối cùng cũng đã đến nơi. Không biết A Cửu thế nào rồi? Kỳ hạn ba tháng thời gian của hoàng thượng cũng đã qua, không biết tình hình phía Đại Đao Vương ra sao rồi?”

Thập Kiệt Nhất liền nói: “Chúng ta hãy đến xem tình hình của A Cửu trước đã."

Liễu Dật gật đầu, hai chân thúc ngựa, hai con tuấn mã hí một tràng dài rồi phi nhanh đến mấy căn nhà tranh.

Ngay lúc ấy, một đống cỏ bỗng chuyển động dữ dội, một bóng người màu lục chợt xuất hiện ngay trước đầu ngựa của Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất. Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất hốt hoảng ghìm mạnh cương ngựa, tuấn mã hí vang, hai vó trước hất tung lên không, đứng chựng lại.

May mắn là Liễu Dật đã học qua Ẩn Toàn Cửu Ảnh, ngay lúc con ngựa thất kinh liền lập tức sử bí quyết chữ “Triền” bám chắc vào thân ngựa. Thập Kiệt Nhất thì không được may mắn như vậy, mặc dù hai chân đã kềm chặt mình ngựa, nhưng tuấn mã đột ngột dừng lại ở tư thế hầu như đứng thẳng, lại với tốc độ thật nhanh, chỉ nghe “ọach” một tiếng, Thập Kiệt Nhất đã văng ra khỏi lưng ngựa.

Chỉ nghe một tràng cười trong trẻo vang lên: “Ha ha, ha ha, thật là tức cười quá, sao mà ngươi lại ngốc nghếch như thế?”

Thập Kiệt Nhất vừa nghiêng mình xoa mông vừa lớn tiếng thóa mạ: “Con bà nó, ngươi muốn dọa chết người hay sao...”

Mới mắng được nửa câu, Thập Kiệt Nhất đột nhiên dừng lại. Mặc dù Thập Kiệt Nhất coi việc chửi rủa người khác thường cơm bữa, thế nhưng tuyệt không đụng chạm đến nữ nhân (đương nhiên loài yêu tinh thì không kể), khi thấy người đứng phía trước là một nữ tử, hắn liền ngậm ngay mồm lại.

Liễu Dật ngồi trên lưng ngựa liền đưa mắt quan sát kỹ càng nữ tử này. Nàng độ hai mươi tuổi, tuy không thuộc loại thiên kiều bá mị, nhưng toàn thân toát ra một vẻ thanh nhã thoát tục, có lẽ là do sống lâu ở chốn thanh sơn nên cũng nhuốm linh khí của núi non.

Toàn thân nàng chỉ vận một màu xanh nhạt. Chiếc váy ngắn bên ngoài quấn theo kiểu trường khố. Ngang eo chỉ có một dải lụa trắng đơn giản quấn quanh. Trên đầu mang đồ trang sức bằng bạc, từng chuỗi từng chuỗi, thật là khả ái phi thường. Đôi mắt không lớn cũng không nhỏ linh hoạt như biết nói chuyện, khi thì nhìn Liễu Dật, lúc lại nhìn Thập Kiệt Nhất. Trên tay cầm một cây đoản đao dài độ hai thước, lăm lăm giơ ra phía trước; khuôn mặt nhỏ nhắn cố giữ vẻ trang nghiêm, nhưng không nhịn được lại phá lên cười khanh khách...

Liễu Dật liền nhớ đến một câu nói rất đúng đắn: “Nữ nhân chẳng phải nhờ xinh đẹp nên mới đáng yêu, nhưng chỉ cần đáng yêu là đã xinh đẹp rồi.”

Thế nhưng nữ tử trước mắt dáng vẻ chẳng những khả ái mà còn xinh đẹp, làm cho Liễu Dật phải trố mắt ra nhìn.

Lục y nữ tử mở miệng nói một tràng, thế nhưng Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất hồi lâu vẫn không hiểu nàng nói gì, theo kinh nghiệm của Liễu Dật, nha đầu này có lẽ đang dùng tiếng bổn địa...

Liễu Dật liền ôm quyền nói: “Cô nương, cô nương đang nói... có phải là tiếng người không?”

Lục y nữ tử vung vẩy đoản đao, gắt: “Nói nhảm, ta không nói tiếng người thì nói cái gì đây.”

Cuối cùng, lắng nghe Liễu Dật nói, nàng cũng đã có thể đáp lại bằng tiếng phổ thông, chỉ là có vẻ không được thành thục cho lắm.

Liễu Dật gật gù thầm nhủ: “Có thể hiểu được thì tốt, rủi mà tiểu nha đầu này không hiểu ta nói gì, chém ngay cho hai đao, thì chỉ biết tự trách mình xấu số thôi.”

Thập Kiệt Nhất chỉ thẳng vào mặt nàng, cất tiếng hỏi: “Giữa thanh thiên bạch nhật, ngươi giả quỷ hù người à?”

Lục y thiếu nữ mỉm cười bối rối đáp: “Kỳ thật... ta không có ý nhát các ngươi, nhưng đây là nơi tư gia, sao hai ngươi lại tự tiện xông vào?”

Liễu Dật vội trả lời: “Tại hạ là Giang Nam thư sinh Liễu Dật, ta có hai vị bằng hữu đến đây thỉnh thần y Mạc Anh tiền bối trị thương, chứ chúng ta tuyệt không có ý tùy tiện xâm nhập gia tư người khác.”

Lục y thiếu nữ nghe xong, liền tra đoản đao vào bao, cất ở sau lưng rồi nói: “Ồ, thì ra ngươi chính là kẻ mà Lang đại thúc gọi là Vô Lại Thư Sinh Liễu Dật à? Ta nói đúng không?”

Liễu Dật nghe xong, sầm mặt mắng thầm: “Làm thế nào mà cái tên Lang Vương khoe khoang khoác lác ấy lại trở thành đại thúc được chứ.”

Hắn chỉ còn biết gật gật đầu trả lời: “Chính là tiểu sinh.”

Thập Kiệt Nhất lấy làm lạ hỏi lại: “Vậy cô là người nào vậy?”

Lục y thiếu nữ le lưỡi cười hì hì: “Ta quên chưa tự giới thiệu, ở đây ai cũng gọi ta là Cát Lợi Nhi, đi nào, ta dẫn hai ngươi đi gặp cha ta.”

Liễu Dật cảm thấy kỳ quái nhảy phốc xuống ngựa: “Cô nương, tại hạ đang tìm Mạc Anh, Mạc tiền bối.”

Cát Lợi Nhi cười hì hì: “Không sai, đó chính là gia gia của ta, tên hán tự của ta là Mạc Lan San, nhưng dân quanh vùng họ đều gọi ta là Cát Lợi Nhi.”

Liễu Dật giờ mới minh bạch mọi sự, liền dẫn ngựa và Thập Kiệt Nhất lẽo đẽo đi theo sau Cát Lợi Nhi.

Liễu Dật rảo bước tiến lên cất tiếng hỏi: “Mạc cô nương, xin hỏi hiện giờ Lang Vương có ở đây không?”

Cát Lợi Nhân đáp: “Lang đại thúc à? Ông ta nói có việc phải làm, sau khi đặt A Cửu tỷ tỷ ở đây liền bỏ đi rồi, còn nói sau mấy ngày nữa sẽ có người đến chiếu cố nàng. Lang đại thúc nói đúng thật!”

Thập Kiệt Nhất bực tức nói: “Thế sao được? Tên đấy đưa người đến rồi thì chạy mất, chẳng bao giờ làm chuyện gì tốt lành cả.”

Cát Lợi Nhi bèn giải thích: “Cũng không thể trách Lang đại thúc đâu, gia gia giúp A Cửu tỷ tỷ trị bệnh, thúc thúc cũng chẳng làm được gì, nhờ ông ấy đi hái thuốc cũng không xong, gia gia liền nổi giận đã đuổi ông ấy đi.”

Liễu Dật phe phẩy quạt: “Lão già ấy là như thế đó, cũng may lúc trước ta không có bái hắn làm sư phụ. Ta nghĩ trong mấy ngày nay vất vả nhất chính là Mạc cô nương đây, không có ai hái thuốc, vậy thì cô nương nhất định phải cực khổ rồi.”

Cát Lợi Nhi vừa đi vừa vung vẩy bàn tay nhỏ, tay áo rộng cũng đong đưa theo trông thật là đáng yêu, khiêm tốn nói: “Thư sinh ca ca quá khen rồi, việc hái thuốc vốn là việc của Cát Lợi Nhi, nếu không A Cửu tỷ tỷ biết xoay xở thế nào.”

Mải ngắm nghía cử động của Mạc Lan San, Liễu Dật chợt cảm thấy một thứ cảm giác không thể miêu tả được bằng lời, ngay cả khi đối diện với A Cửu quyến rũ, điêu ngoa, Thủy Nhi lanh lợi, mỹ lệ, hắn cũng không có cảm giác này...

Trong lúc Liễu Dật còn đang thả hồn đâu đâu, chỉ thoáng nghe tiếng Mạc Lan San: “Hai vị ca ca hãy dừng ở đây, để muội đi báo với gia gia.”, nói xong liền đi vào trong nhà.

Độ chừng uống cạn một tuần trà, một ông lão toàn thân vận hán phục bằng vải bố sẫm màu bước ra, râu trắng, tóc bạc, mặc dù trông có vẻ già lão, nhưng lại tạo cho người khác có cảm giác tiên phong đạo cốt. Lão nhân tiến đến hỏi: “Hai vị chính là bằng hữu của A Cửu cô nương à?”

Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất liền gật đầu. Liễu Dật nói tiếp: “Chính phải, nhân vì sự tình khẩn cấp, chúng vãn bối chỉ có thể nhờ Lang Vương đưa người đi trước, sau đó mới đuổi theo đến đây.”

Lão nhân gật đầu bảo: “Các ngươi hai người đến thật đúng lúc, hiện tại có hai việc cần các ngươi làm, một là chiếu cố đến A Cửu, hai là đi hái thuốc. Ài, ta cũng nên nghỉ ngơi mới phải, mấy ngày nay mệt tưởng chết mất.”, nói đoạn liền vươn vai duỗi lưng.

Liễu Dật gật đầu, quay sang Thập Kiệt Nhất: “Ngươi hãy chiếu cố A Cửu, ta đi hái thuốc.”

Thập Kiệt Nhất có vẻ lo ngại: “Lão đại, để đệ đi hái lá thuốc, đệ không sợ mệt đâu.”

Liễu Dật cốc đầu Thập Kiệt Nhất mắng: “Cho ngươi cơ hội ngươi lại không biết trân quý. Như ta thì lại sợ mệt hay sao? Nếu để ngươi đi hái, ta chỉ sợ ngươi lại hái phải độc dược không chừng.”

Thập Kiệt Nhất suy suy nghĩ nghĩ về câu nói của Liễu Dật, hiểu rõ rồi thì cười hì hì nói: “Đa tạ lão đại.”, nói xong liền lẻn ngay vào trong nhà.

Mạc Anh nhìn nhìn Liễu Dật bảo: “Ngươi đi hái thuốc với Cát Lợi Nhi, đỡ cho ta khỏi phải quan tâm đến nó, nó có thể nói cho ngươi biết các loại thuốc cần hái. Ta phải đi vào để giải thích cho tên tiểu tử ngốc nghếch đó cách chăm sóc A Cửu.” Nói rồi chuyển thân đi vào bên trong.

Cát Lợi Nhi cười khúc khích nói: “Lát nữa huynh nên theo sát muội, nơi chúng ta sẽ đến hái thuốc rất là tịch mịch...”

-oOo-

Hồi 26: Tiền trần vãng sự, nhất sanh đích hạnh phúc

(Đồng hành kể chuyện năm xưa, Tưởng chừng chuyện của đôi ta bây giờ)

Một người bên ngoài càng tỏ ra vui vẻ thoải mái, thì bên trong lại thường rất cô độc.

(Cổ Long - Luận)

Chưa kịp gặp mặt xem A Cửu sống chết ra sao, Liễu Dật đã bị Mạc Anh sai đi hái lá thuốc, còn Thập Kiệt Nhất thì cho trở về làm công việc hộ hoa sứ giả như ý muốn của hắn.

“Này, cầm lấy cái xẻng này đi, có một số dược thảo rất quý hiếm cần phải chịu khó đào lên.”, Cát Lợi Nhi lên giọng kẻ cả bảo Liễu Dật.

Liễu Dật lúc đó chợt cảm giác như là “Hổ xuống đồng bằng”, mới hiểu được vì sao lão hổ lại phải cất tiếng than thở như vậy.

Cát Lợi Nhi thảy cho Liễu Dật một cái gói vải: “Bên trong là lương khô, nếu chúng ta gặp chuyện gì không thể về kịp, thế nào cũng phải qua đêm ở bên ngoài.”

Liễu Dật nghe xong liền hỏi: “Trước đây muội cũng vẫn làm như thế à?”

Cát Lợi Nhi gật đầu: “Muội đã chẳng nói là tịch mịch lắm ư?”

Liễu Dật nhìn Cát Lợi Nhi thầm nhủ: “Nha đầu này đúng là làm khó người khác.”

Cát Lợi Nhi vỗ tay: “Tốt lắm, tất cả đã chuẩn bị xong, chúng ta lên núi nhé. A Cửu tỷ tỷ cần dùng rất nhiều thảo dược nhằm tiêu diệt hết trùng độc bên trong huyết dịch, chúng ta phải nhanh lên mới được, số thảo dược còn dư chẳng còn được bao nhiêu nữa.”

Nói rồi, liền phủi mông đi trước dẫn đường

Liễu Dật xách theo lương khô, nhìn Cát Lợi Nhi lắc đầu nhủ thầm: “Làm thế nào mà nha đầu này trông lúc nào cũng vui vẻ như thế?”

Mang theo nghi vấn đó, hai người đi dần về phía ngọn núi ở phía sau lều tranh.

Đường lên trên núi rất dốc, không có mấy dấu chân người, Cát Lợi Nhi vừa đi vừa huyên thuyên: “Ngọn núi này cũng có tên đấy nhé.”

Liễu Dật không thông thuộc đường núi nên mỗi bước đi đều thật khó khăn: “Tên gọi là gì?”

“Nguyệt Thương Sơn”

Nghe qua ba chữ đó, Liễu Dật trong lòng chợt chấn động, tiềm thức báo cho Liễu Dật rằng ba chữ này dường như rất đỗi quen thuộc, chỉ là y không thể nhớ ra lai lịch của nó mà thôi.

Cát Lợi Nhi một mặt vẫn chăm chỉ leo núi, một mặt tiếp tục huyên thuyên: “Ngọn núi này có một truyền thuyết ái tình rất cảm động, người trong tộc chúng tôi ai ai cũng rất thích câu chuyện này.”

Liễu Dật chỉ sợ không trụ được nữa, nhìn xuống bên dưới, được lắm, vận khởi chân khí, dùng yếu quyết chữ “Trầm” của Ẩn Toàn Cửu Ảnh, tiếp tục leo núi, không cần phải nói cũng biết là cảm thấy dễ dàng hơn rất nhiều, tựa như bước trên đất bằng vậy.

Đột nhiên Cát Lợi Nhi quay ngoắt đầu lại hỏi: “Này, huynh có nghe muội nói gì không?”

Liễu Dật vội vã gật đầu: “Có nghe, chẳng phải nói truyền thuyết gì đó hay sao? Huynh chỉ nghe muội nói đến đó mà thôi.”

Cát Lợi Nhi tìm một cái cây rồi ngồi dựa vào đấy: “Hãy nghỉ một lát, mỗi lần leo núi thế này, muội đều phải dừng lại ba bốn lần, khá cao đấy.”

Một mặt nói một mặt phủi bụi bàn tay rồi vuốt mồ hôi trên mặt.

Bên cạnh chẳng có chỗ nào khả dĩ ngồi được, Liễu Dật đành ngồi xuống đối diện với Cát Lợi Nhi, dốc núi này chỉ có gốc cây đại thụ đó là chỗ tốt nhất mà thôi.

Liễu Dật phe phẩy quạt một hồi cho mát rồi nói: “Nhân tiện chúng ta cũng đang nghỉ chân, muội hãy kể luôn câu chuyện lúc nãy cho xong đi.”

Cát Lợi Nhi bèn kể: “Truyền thuyết này muội cũng không biết có từ bao giờ, lúc đó muội cũng chưa được sinh ra, chỉ sau này nghe gia gia và người trong tộc kể lại mới biết đã từng có một câu chuyện như thế.”

Liễu Dật cười giễu: “Mấy câu chuyện kinh điển kiểu này, lưu truyền từ rất lâu, chắc không phải lại có một nam một nữ cùng tự sát ở đây chứ?”

Cát Lợi Nhi liền quay đầu hỏi lại: “Huynh đã nghe rồi à? Làm sao mà huynh biết họ chết ở đây?”

Liễu Dật cười hì hì: “Huynh chỉ đoán thế thôi, những chuyện đó đều chỉ có một dạng như vậy thôi, chạy trốn bất thành, không còn lối thoát, đành phải tự sát.”

Cát Lợi Nhi nói tiếp: “Kết cục thì đúng là như vậy, nhưng diễn tiến thì không như huynh nói, nam nhân đó tên là Vị Linh Phong, nữ nhân chính là Quỳnh Diệp Ty.”

Vốn Liễu Dật định tiếp tục giễu cợt câu chuyện, nhưng nghe đến đây, trong đầu chợt xuất hiện những hình ảnh kỳ quái, mơ hồ, không thấy rõ ràng, Liễu Dật rất thắc mắc muốn biết đó là chuyện gì liền vội hỏi: “Muội kể tiếp xem.”

“Quỳnh Diệp Ty thuộc Tiên tộc tại Côn Lôn, là ái nữ của môn chủ Thần Môn, Vị Linh Phong là tộc trưởng của Ma tộc, cũng là đệ nhất cao thủ trong Ma Môn. Hai người một người ở chân trời, một người ở góc bể, căn bản vốn không có cơ hội để gặp gỡ... Thế nhưng, ai mà biết được bánh xe vận mệnh đưa đẩy về đâu? Cho nên chuyện người đời không thể tưởng được đã nảy sinh, cái gọi là ái tình đã đem hai người ở xa chân trời về ngay trước mắt, và họ đã đem lòng yêu nhau.”

Nói đến đây, Cát Lợi Nhi mơ màng mỉm cười: “Huynh có biết không, có lúc chỉ cần hai người gặp nhau thoáng chốc, thì đã đủ để phát sinh một tia sáng rực rỡ lóa mắt, đó chính là ái tình, không thể nào diễn tả được.”

Liễu Dật quay đầu lại, chạm ngay khuôn mặt hàm tiếu man mác buồn của Cát Lợi Nhi, nhãn thần bi thương ấy... có lẽ đó chính là tia sáng rực rỡ lóa mắt ấy hay chăng?

Cát Lợi Nhi vội vã quay đầu sang hướng khác, kể tiếp: “Vì một vài nguyên nhân, Thần Môn và Ma Môn trước giờ luôn có xung đột vì quyền lợi, Thần Môn môn chủ thấy ái nữ của mình yêu thương Vị Linh Phong của Ma Môn, liền dùng mọi cách để ngăn cản... Cuối cùng, dưới sự khiêu khích của môn chủ Thần Môn Quỳnh Bá, những kẻ quyền cao chức trọng của cả ba giới đều chĩa mũi dùi về phía Vị Linh Phong, chẳng lý gì đến chuyện Vị Linh Phong trước đó phạm phải tội gì, cứ đổ cho ông ta hàng đống tội trạng không có thực, và như thế, chuyện đáng sợ đã xảy ra...

Người trong tộc nói, đêm ấy trời không có trăng, ánh trăng như sợ nhìn thấy ái tình chân chính chố thế gian hư ảo này tiêu tán mất, đã kéo mây để che mắt mình...

Thế nhưng cho dù có không nhìn thấy thì chuyện vẫn cứ xảy ra, mọi người lòng đầy dục vọng ích kỷ, xông đến Nguyệt Thương Sơn, trong trận hỗn chiến, Quỳnh Diệp Ty vì cứu Vị Linh Phong, đã đỡ lấy một thương của phụ thân. Vị Linh Phong mất đi người yêu dấu nhất đời, chàng thấu hiểu nỗi bất lực chốn trần thế, liền tự vẫn trên đỉnh Nguyệt Thương Sơn...”

Trong đầu Liễu Dật bỗng nhiên dâng lên một nỗi cảm thông sâu sắc, không biết vì lẽ gì, như là quen thuộc lắm vậy, khẽ thở dài cất tiếng ngâm:

“Long khiếu mã tê kiếm như sương,

Tung hoành giang hồ thùy nhân kháng,

Huyết lệ than thở nhân vô trợ,

Cùng quân cộng ẩm Mạnh Bà Thang” (25)

“Đây đúng là một câu chuyện hay. Có lẽ ái tình trong tim của họ, không ai có thể chia lìa được. Có lẽ kiếp sau đoàn tụ cùng nhau, bọn họ có thể sẽ hạnh phúc hơn.”

Nói xong, Liễu Dật quay đầu nhìn về hướng Cát Lợi Nhi.

Đằng sau, Cát Lợi Nhi mắt rưng rưng lệ, dáng vẻ thật bi thương.

Liễu Dật quay đầu đi, hỏi tiếp: “Muội nhất định là rất thích câu chuyện này?”

Cát Lợi Nhi gật đầu: “Phải, mỗi lần muội nghe câu chuyện này phảng phất cảm thấy như là chuyện của chính mình đã trải qua, rất sống động, tưởng chừng vừa mới xảy ra hôm qua; cảm giác Vị Linh Phong và Quỳnh Diệp Ty lẽ ra phải được sống thật hạnh phúc mới phải, vì cớ gì mà lại không được như ý?”

Liễu Dật không hiểu tại sao bỗng nhiên cùng với Cát Lợi Nhi cũng có chung cảm giác tương tự như thế, phảng phất cảm thấy như đó là chuyện đã xảy ra với mình. Lắc đầu trấn tĩnh lại, Liễu Dật nói: “Dĩ nhiên là truyền thuyết được lưu truyền lâu như vậy, thì câu chuyện này cũng phải có một ngụ ý nhất định.”, Liễu Dật thận trọng vào đề, một mặt cố không suy nghĩ lung tung, một mặt không muốn làm cho Cát Lợi Nhi buồn thêm. Cát Lợi Nhi khẽ khàng dụi dụi mắt, giọng nói liền chuyển thành nhẹ nhàng ôn nhu: “Đương nhiên, người trong tộc nói, đôi tình nhân nào có thể đến được đỉnh núi cao nhất ở đây, nhất định sẽ được hồn thiêng của Vị Linh Phong và Quỳnh Diệp Ty phù hộ, sẽ được hạnh phúc suốt đời. ”

Liễu Dật phe phẩy quạt, mỉm cười bảo: “Tốt, vậy chúng ta chỉ cần cùng nhau đến nơi cao nhất ấy, là được hạnh phúc mãi mãi.”

Nguyên lai câu này vốn ban đầu chỉ có ý đùa cợt một chút, thế nhưng sự cởi mở hồn nhiên của nữ tử ngoại tộc này lại làm Liễu Dật thật chẳng biết nói thế nào.

Cát Lợi nở nụ cười, nhẹ nhàng tựa vào người Liễu Dật rồi bảo: “Hay quá, vậy thì chúng ta hãy trải nghiệm cái cảm giác hạnh phúc đó, muội chưa từng thử qua bao giờ.”

Nói rồi, quả quyết đứng dậy hướng về phía trước tiếp tục hành trình.

---------------------------------------------------

(25) Rồng ngâm ngựa hí kiếm như sương,

Tung hoành giang hồ ai dám chống.

Huyết lệ khóc than ai để ý,

Cùng người chung uống Mạnh Bà Thang.

-oOo-

Hồi 27: Giai nhân tương bạn, tiền thế tự tương thức

(Đầu non nói chuyện tâm tình, Nhìn nàng cứ tưởng như tình trăm năm)

Bóng trăng lung linh đáy nước, hẳn bạn có thể nhìn thấy rõ ràng, chỉ là, đợi đến khi bạn muốn bắt lấy nó, bạn không chỉ chắc chắn rơi mình vào khoảng không, hơn nữa có thể rơi xuống nước nữa

(Cổ Long - Luận)

Chỉ có kẻ chuyên leo núi mới có thể bám theo nàng được thôi. Không còn cách nào khác, Liễu Dật vận khởi Ẩn Toàn Cửu Ảnh, tiếp tục cố gắng bám sát theo Cát Lợi Nhi.

Cứ hướng thẳng phía trước mà đi mãi, đi mãi, cũng chẳng biết đã chạy được đã bao lâu rồi, nhìn bộ dạng nha đầu ấy cứ như muốn bò một hơi lên tận đỉnh núi vậy.

Liễu Dật cũng uể oải theo sau, dầu gì hiện tại chàng cũng đang cảm thấy rất thoải mái, từ khi có được nội đan ngàn năm, cũng như được Lang vương truyền thụ tâm pháp, chân khí trong người gia tăng đáng kể, chàng sử xuất Ẩn Toàn Cửu Ảnh nên đi trên đường núi như đi lại trên đất bằng vậy.

Nhìn thấy sắc trời dần dần chuyển tối, Cát Lợi Nhi lấy ra một chiếc khăn tay giắt ở lưng đưa cho Liễu Dật: “Thư sinh, lau mồ hôi nào! Đã đi được cả một chặng đường xa, chắc huynh cũng đã mệt rồi.”

Liễu Dật tiện tay cầm lấy chiếc khăn mới chợt nhận ra mình chẳng đổ một giọt mồ hôi nào, thế nhưng đã nhận rồi cũng khó mà trả về, sắc trời sẫm tối, chẳng thấy được mặt người nữa, thế rồi cũng làm bộ như đang lau mồ hôi, quệt vài cái rồi trả lại cho Cát Lợi

Cát Lợi Nhi dùng ống tay áo lau khuôn mặt đang đỏ hồng lên như táo chín, mỉm cười nói: “Thư sinh có phải đều là bọn ngốc hay không, huynh lau rồi còn trả lại cho muội làm gì? Hãy bỏ đi! Chúng ta phải lên đỉnh núi trước khi trời tối, bằng không nếu qua đêm ở giữa lưng chừng núi, nửa đêm không may trở mình ngã chết thì sao ?”

Liễu Dật ngửi ngửi chiếc khăn tay, thoang thoảng một mùi hương nhè nhẹ, chắc là u hương từ trên người Cát Lợi mà ra. Trên chiếc khăn có thêu một đôi uyên ương, trông có vẻ rất tinh tế, Liễu Dật nghĩ thầm: “Một vật đẹp đẽ như vậy, nếu bỏ đi thì thật phí.”, thế rồi tiện tay thu vào ống tay áo.

Cát Lợi vừa đi vừa hỏi: “Thư sinh, nghe nói huynh là tài tử tại Giang Nam, tranh của huynh rất nhiều người muốn và cả tập thơ của huynh cũng được rất nhiều người sưu tầm.”

Liễu Dật cười đáp: “Không đâu, đều là những lời phóng đại, chẳng phải Lang Vương đã nói, ta chỉ là một tên thư sinh vô lại, làm tài tử thế nào được.”

Cát Lợi Nhi liền dừng lại cười bảo: “Huynh còn lừa muội nữa, đại giang nam bắc có một câu truyền khẩu, huynh chưa nghe sao ‘Thiên hạ tài tử chẳng đáng đồng tiền, chỉ có Liễu Dật là đáng giá, nửa điên nửa rồ xông pha Phong Đà Động, Vô Lại Thư Sinh bôn tẩu giang hồ’, haha, thật là thú vị.“

Liễu Dật kinh ngạc hỏi: “Chuyện này có tự bao giờ? Ta đến Phong Đà Động cách đây có vài ngày, làm sao chuyện này lại lan truyền nhanh thế?”

Cát Lợi Nhi cười phá lên nói: “Huynh thật không biết sao ? Chuyện tốt chưa ra khỏi cửa, chuyện xấu đã đồn xa vạn dặm, huynh hiện tại kể như cũng đã làm một chuyện xấu, ha ha, người trong giang hồ, có ai lại còn không biết huynh chính là Vô Lại Thư Sinh.”

Liễu Dật nghĩ thầm “Vậy thì thật là thê thảm, Ma Môn nhất định không dễ bỏ qua cho mình đâu.”

Cát Lợi Nhi tiếp tục đi lên phía trước, nói vọng lại: “Sao thế? Huynh đang nghĩ gì... A...”

Chỉ nghe Cát Lợi kêu lên một tiếng, trượt chân một cái, rồi ngã người về phía sau.

Liễu Dật ngẩng đầu nhìn thấy, lập tức gia tăng yếu quyết chữ “Trầm” trong Ẩn Toàn Cửu Ảnh tay phải vươn ra, ôm lấy Cát Lợi Nhi vào lòng, khẽ vẫy chiếc quạt, một làn u hương thiếu nữ thoảng thoảng làm cho Liễu Dật cảm thấy thẫn thờ... không biết tại làm sao, Cát Lợi Nhi vốn không phải là một cô gái đẹp, so với mấy nàng gặp gỡ từ trước Thủy Nhi, A Cửu còn kém hơn nhiều, thậm chí ngay cả mấy ả nha hoàn hầu cận của mình là Băng Nhi, Thanh Nhi cũng không sánh bằng, thế nhưng lại có khả năng hấp dẫn Liễu Dật.

Cát Lợi Nhi bị mất thăng bằng, nhất thời không thể tự mình đứng dậy, ngẩng đầu đối diện với Liễu Dật: “Đúng là vô lại, ôm vậy đủ rồi. Nếu mà không mệt thì muội cứ dựa vào đây nghỉ một lúc.”

Liễu Dật đỏ ửng mặt, vội vã giúp Cát Lợi đứng dậy: “Nhất thời sơ ý! Nhất thời sơ ý, xin cô nương thứ lỗi.”

Cát Lợi Nhi khúc khích cười bảo: “Không thể tưởng được là thư sinh huynh lại vô dụng như thế, dựa vào người huynh thế mà huynh lại không biết tránh qua một bên, haha, thật buồn cười.”

Liễu Dật nhìn vẻ mặt ngây thơ của Cát Lợi Nhi đáp lại: “Nhìn kia, mặt trăng đã nhô lên, chúng ta hãy mau đi tiếp.”

Cát Lợi Nhi cười nói: “Chúng ta đã đến được đỉnh núi rồi, vừa nãy thật là hoảng hồn, bỗng nhiên trượt chân.”, nói rồi quay người đi tới trước.

Liễu Dật cũng gia tăng cước bộ, đi theo phía sau, chỉ thấy trước mắt một khoảng đất rộng, ngọn núi này không ngờ lại khá bằng phẳng, bốn bên có nhiều đá núi, cây cối, nếu như ở bên trên có thêm một cái lọng che, có thể tạo thành một căn nhà thiên nhiên to lớn, ngọn núi Nguyệt Thương Sơn này đúng là không tệ...

Cát Lợi Nhi chạy vội đến phía sau một tảng đá lớn, nói: “Ở đây này, hôm nay hãy nghỉ ngơi tại đây, ngày mai chúng ta đi theo đỉnh núi về hướng đông tìm Liên tâm thảo.”

Liễu Dật nhìn bốn phía rồi nói: “Khí trời có vẻ lạnh, muội hãy ở lại đây, để ta đi tìm củi để nhóm lửa.”

Cát Lợi Nhi gật đầu, bắt đầu dọn dẹp phía dưới bệ tảng đá rồi bắt đầu đào một cái hố nhỏ, chuẩn bị nhóm lửa.

Liễu Dật đi về phía bên kia của đỉnh núi, so ra nơi đây khá bằng phẳng, cây cối rậm rạp. Liễu Dật vừa định thu thập ít củi, bỗng nhiên phát hiện ở xa trong bóng tối có một đôi mắt màu xanh thẫm, chằm chằm nhìn về phía mình. Liễu Dật liền tập trung quan sát, chính là chó sói, nguyên lai Lang vương cũng có đôi mắt như thế, hèn chi mà lại thấy rất quen.

Hai mắt Liễu Dật chuyển động, cười thầm một tiếng: “Haha, hôm nay có thịt để ăn rồi.”

Nói xong liền vận khởi chân khí, ngón tay út bật ra, Bích Ngọc Hoa Chỉ , một đạo lam sắc sáng ngời, hòa quyện cùng hương thanh dịu của hoa lan, bắn vào khoảng giữa của đôi mắt xanh kia không phát ra một tiếng động nào, con sói bị trúng chỉ bể nát đầu.

Liễu Dật nhìn ngón tay út của mình nghĩ thầm: “Nếu như Lang Vương biết được ta lại dùng võ công của hắn là Bích ngọc hoa chỉ để sát thương đồng bào của hắn, haha, không biết hắn phản ứng thế nào.”

Liễu Dật đi lên phía trước, kéo chân con sói, thu thập một ít củi rồi quay trở về bình đài trên đỉnh núi. Cát Lợi Nhi ngồi đó đang ăn phần lương khô, trông thấy Liễu Dật tay ôm tay kéo đang đi đến, lại gần xem cho rõ, thì ra là đang kéo một con sói. Cát Lợi Nhi cao hứng nói: “Ha ha, hôm nay có thịt để ăn, không phải dùng thứ lương khô này”, nói rồi xòe bàn tay nhỏ nhắn ra sức ném phần lương khô còn dư đi.

Liễu Dật phân phối công việc: “Đưa cho huynh con dao, muội thổi lửa, huynh lột da.”

Cát Lợi Nhi rút con dao nhỏ ở lưng đưa cho Liễu Dật, sau đó lấy ra hỏa thạch, chuẩn bị nhóm lửa.

Hai chân phì nộn của con sói được chặt ra, lột da, lại chặt hai đoạn cây dài, rồi đặt hai chân sói vào đó, kê trên ngọn lửa, bắt đầu nướng thịt.

Liễu Dật không ngừng xoay trở hai chân sói, sợ chúng bị cháy. Cát Lợi Nhi liền lấy từ trong người một ống sáo dắt ở lưng ra đề nghị: “Cát Lợi Nhi thổi một khúc nhạc cho huynh nghe xem có được không nhé?”

Liễu Dật bị khói hun vào mặt không mở được cả mắt, nước mắt ràn rụa: “Được đó, đang lúc ta đang chán muốn chết đây.”

Cát Lợi Nhi đưa ống sáo đến gần miệng, bắt đầu thổi. Liễu Dật lắng nghe, không ngờ nàng lại tấu danh khúc “Hóa Điệp”; tuy là bắt chước không giống lắm, nhưng trong âm điệu, Liễu Dật có thể cảm thấy sự bi thương trong lòng nàng, nhưng trong sự thương tâm lại bàng bạc một tia hạnh phúc, không hiểu nguyên nhân là vì sao?

Một làn gió lạnh lướt qua thổi dạt cột khói, Liễu Dật làm công việc nướng thịt cũng đã tiến bộ, có thể vừa lơ là xoay trở vừa yên lặng lắng nghe điệu Hóa Điệp của Cát Lợi Nhi. Liễu Dật không nhịn được hồi tưởng lại cảnh tượng lúc nhỏ cùng với Thập Kiệt Nhất trốn học âm luật ra ngoài du ngoạn, lúc bấy giờ không biết Liễu Dật đã bị cha đánh biết bao nhiêu trận, bây giờ nhớ lại cha già nghiêm khắc, không biết mấy tháng trời nay sức khỏe thế nào.

Tiếng sáo vừa dứt, Cát Lợi Nhi ngồi xuống bên cạnh Liễu Dật, ngả đầu tựa lên trên bờ vai chàng, những mệt mỏi vừa mới rồi dường như biến đâu mất. Thân hình nhỏ bé quyến rũ tựa vào người y một cách hết sức tự nhiên, lên tiếng hỏi: “Này, nghe thế nào vậy, muội thổi có hay không?”

Liễu Dật bị Cát Lợi Nhi tựa vào người thì đâm ra mất tự nhiên, trả lời: “Đương... đương nhiên, hay lắm. Tuy không giống lắm, nhưng có thể đặt tâm tư mình vào bản nhạc như vậy là tốt rồi.”

Cát Lợi đổi vị trí chỗ tựa đầu để thoải mái nằm xuống rồi nói: “Thư sinh đúng là thư sinh, tài tử của Giang Nam, nói ra câu nào cũng có đạo lý, chỉ là... muội không hiểu nổi, Cát Lợi Nhi quả thật rất đói bụng mà thịt vẫn chưa chín.”

Liễu Dật bị Cát Lợi Nhi tựa vào người làm cho đầu óc phân tán, vội vàng coi đến hai cái chân sói, một cái đã chín tới tươm cả mỡ, còn một cái đã bắt đầu cháy xém, vội vàng lấy xuống, đưa cho Cát Lợi Nhi: “Của muội đây.”

Bản thân mình thì lấy phần đã có mùi khen khét, nhưng vẫn còn ngon lành, liền quệt mũi bảo: “Đói rồi, ăn đi thôi.”

Cát Lợi Nhi quay đầu lại nhìn, phá lên cười, chẳng là ở chỗ Liễu Dật quyệt vào khi nãy, vô tình đã để lại một vệt đen, giống như mặt của con mèo.

Liễu Dật xé một miếng thịt sói thơm phức, đưa lên miệng, ngơ ngác nhìn nàng hỏi lại: “Thế nào, sao lại cười như thế, trên mặt của ta nở hoa hay sao?”, nói rồi há miệng cắn một miếng lớn.

Cát Lợi Nhi gập người cười như nắc nẻ: “Thư sinh ngốc nghếch, mặt của huynh trông còn dễ thương hơn cả hoa đấy chứ. Đừng động đậy, để muội giúp huynh.”, nói rồi vén tay áo lên, xóa đi vệt đen dưới mũi của Liễu Dật.

Hai người mặt đối mặt, xuyên qua tay áo, Liễu Dật chẳng những có thể thấy rõ ràng gò má nhỏ xinh của Cát Lợi Nhi, mà còn thấy cả đôi mắt như biết nói ấy, có nhiều lúc, đôi mắt tựa hồ dấn theo mình, không biết tại sao đôi mắt thật quen thuộc, mường tượng như nó là một bộ phận của con tim, khiến Liễu Dật nhìn đến ngơ ngẩn.

Đồng thời khi Cát Lợi Nhi nhìn vào mắt Liễu Dật, đôi tay nàng bỗng dừng lại. Vì sao ? Vì sao đôi mắt này có vẻ rất quen thuộc ? Như đã gặp nhau từ trăm ngàn năm trước? Tựa hồ như cách đây lâu lắm, lâu lắm rồi, hình ảnh cặp mắt này đã ghi đậm trong tim nàng, dấu ấn đó mãi mãi không thể xóa mờ được, đó là...

-oOo-

Hồi 28: Ngộ nhập lang khẩu, khúc chung hóa kiếp nan

(Tình cờ gặp phải sài lang, Nhạc lòng một khúc tai nạn giải ngay)

Ánh sao tuy mờ nhưng vĩnh hằng, ánh lửa tuy ngắn nhưng mãnh liệt. Ái tình không có điều kiện, cũng không thể giải thích, si mê, cuồng nhiệt.

(Cổ Long - Luận)

Liễu Dật định thần lắc mạnh đầu, bối rối hỏi: “Này, bộ trên mặt huynh có gì à?”

Cát Lợi Nhi cũng lúc lắc đầu, cười nói: “Không, không có gì.”

Không muốn bối rối thêm nữa, Cát Lợi Nhi nhìn Liễu Dật hét lớn: “Duỗi chân ra!”

Liễu Dật giật mình duỗi thẳng chân ra, thật không biết trong hồ lô của con dã nha đầu này chứa thứ thuốc gì.

Cát Lợi Nhi ngồi xuống cười khúc khích, nói: “Muội mệt rồi, mượn cái chân của huynh một chút.”

Nói xong, thản nhiên nằm gối đầu lên chân Liễu Dật, cầm cái đùi sói, rồi há miệng cắn một cái.

Liễu Dật chỉ biết cười khổ nghĩ thầm: “Tiểu a đầu này thật ngây thơ... nhưng đôi mắt ấy, ta đã gặp ở đâu rồi nhỉ? Ta đã gặp qua nhiều mỹ nữ, nhưng không ai có đôi mắt như vậy cả.”

Liễu Dật nghĩ mãi không ra, cũng không thèm nghĩ ngợi gì nữa, bắt đầu khai chiến với cái đùi sói thơm tho trên tay. Thật ra thì hắn quả thật là quá đói, nên chăm chú ăn mà không nghĩ ngợi vẩn vơ nữa.

Cát Lợi Nhi cũng đang nhấm nháp miếng thịt trên tay, lúc này gương mặt của nàng đã quay tránh sang một bên, đầu hơi cúi xuống làm mấy lọn tóc đen xỏa xuống mơ man trên đùi Liễu Dật. Bề ngoài giả vờ bình tĩnh, nhưng nội tâm Cát Lợi Nhi lại luôn xao động. Những gì mắt thấy lúc nãy, làm nàng cảm thấy bất an, có hơi kinh hoảng nữa. Tuy nhiên khi được ở cùng một chỗ với nam nhân này, Cát Lợi Nhi cảm giác có chút hạnh phúc, bất giác buột miệng hỏi: “Nguyệt Thương Sơn này có thể nào cho ta được hạnh phúc trọn đời hay chăng?”

Liễu Dật phảng phất nghe Cát Lợi Nhi thầm thì gì đó, vừa ăn vừa cất tiếng hỏi: “Gì vậy? Muội nói gì thế?”

Cát Lợi Nhi trả lời: “Không, không có nói gì.”

Thời gian sao qua đi nhanh quá? Hạnh phúc sao qua nhanh quá.

Nàng vỗ nhẹ cái bụng, ngồi dậy, khoe ra vòng eo thon, nói: “Ngon quá, ăn no căng bụng thích ghê.”

Liễu Dật lúc này cũng đã giải quyết hơn nửa cái đùi sói, không thể ăn thêm được nữa, liền vươn tay lấy giấy dầu gói lại, vừa gói vừa nói: “Ngon tuyệt. Ăn thịt quả thật ngon hơn lương khô nhiều.”

Đột nhiên Cát Lợi Nhi chạy vọt đến sau lưng Liễu Dật, ôm chặt chàng, cúi đầu sát vào tai Liễu Dật nói: “Ăn no dĩ nhiên rất thoải mái, bất quá... muội nghĩ chúng ta gặp rắc rối rồi.”

Đồng thời với động tác của Cát Lợi Nhi, Liễu Dật cũng cảm thấy có điều gì đó không ổn. Một mùi rất khó chịu như đang vây chặt lấy Liễu Dật, nhìn xung quanh đã thấy xuất hiện hàng ngàn vạn cặp mắt màu xanh lục.

Cái gì đây? Đó là bầy sói, ngước mắt nhìn, nhìn mãi không thấy nơi tận cùng của chúng. Trong tầm nhìn, bầy sói đã vây chặt hai người vào giữa thành một vòng tròn dày đặc.

Nhiều, quá nhiều sói. Chúng có tới hàng ngàn vạn con. Trong trường hợp này, dù là cao nhân có khinh công tuyệt cao, cũng khó mà thoát khỏi vòng bao vây, bởi vì vòng vây này quả thật quá lớn. Đương nhiên, với cảnh giới tối cao của thuật ngự khí phi hành thì có thể vượt qua, nhưng Liễu Dật không có khả năng đó. Vì thế, nếu muốn thoát khỏi, có lẽ không có cơ hội nào.

Liễu Dật suy tính: “Không biết có thể sử dụng Bích Ngọc Hoa Chỉ sát thương bọn chúng được không? Đoán chừng không được rồi, cho dù ngón tay nhỏ bé này có điểm đến mỏi nhừ, thì cũng không giết hết được bọn chúng.”

Vòng vây của bầy sói từ từ khép lại nhỏ dần, nhỏ dần. Liễu Dật cả kinh nhìn thấy hình dạng con lang đầu đàn, răng trắng nhởn nhe ra, bọt mép chảy ròng ròng, con mắt ánh màu xanh lục tựa hồ như nhìn thấy mồi ngon.

Thân hình của Cát Lợi Nhi dường như có phần run run, nói: “Chúng ta đã ăn thịt thủ lĩnh của chúng, bây giờ chúng đến báo phục đấy!”

Liễu Dật vuốt nhẹ mái tóc của Cát Lợi Nhi, muốn giảm bớt nỗi sợ trong lòng nàng, nói: “Ăn thì đã ăn rồi, còn nghĩ ngợi gì nữa, bây giờ hãy nghĩ làm sao để bảo vệ tính mệnh đi thôi.”

Cát Lợi Nhi tựa hồ càng lúc càng sợ hãi, gấp rút nói: “Cát Lợi Nhi chưa từng gặp tình lang, Cát Lợi Nhi không muốn bị sói ăn thịt như thế này đâu.”

Liễu Dật nhìn vòng vây của lũ sài lang đang từ từ tiến tới dần, vừa cố tìm ra biện pháp, vừa an ủi Cát Lợi Nhi: “Sao, tiểu nha đầu, nghĩ đến tình lang hả?”

Cát Lợi Nhi tựa trên vai Liễu Dật, một sợi tóc phất phơ cọ vào mặt chàng, làm chàng có chút nhột nhạt, nhưng cũng rất là dễ chịu.

Cát Lợi Nhi hấp tấp nói: “Thì muội cũng đang tìm đây. Để cho muội gặp tình lang rồi chết cũng cam lòng, chết như thế này quá vô ích. Muội còn rất nhiều chuyện chưa từng làm qua, muội không cam tâm, không cam tâm!”

Hai người ở sát cạnh nhau, Liễu Dật có thể cảm giác được Cát Lợi Nhi đang run rẩy không ngừng, vừa sợ hãi, vừa khủng khiếp; đối mặt với đám sài lang tàn bạo, đứng trước biên giới của sự sống và cái chết, ai lại không sợ chứ?

Cái chết không đáng sợ, chỉ sợ quá trình đưa đến cái chết đó.

Bầy sói càng lúc càng tiến đến gần, vòng vây càng lúc càng thu nhỏ, quá trình này làm cho Cát Lợi Nhi sợ càng sợ thêm, nỗi sợ đã đến mức tột đỉnh.

Cự ly giữa con sói ở trước mặt và Liễu Dật với Cát Lợi Nhi giờ chỉ còn chưa tới trượng. Hiển nhiên, chỉ cần mấy bước nữa, chúng sẽ nhào tới, điên cuồng xé tan Liễu Dật và Cát Lợi Nhi.

Cát Lợi Nhi quá khẩn trương giữ chặt lấy Liễu Dật, hỏi: “Chúng ta... chúng ta phải chết ở đây sao?”

Liễu Dật không trả lời, như quả bình thường nếu gặp hàng chục con sói thì tốt quá rồi. Nhưng hiện giờ bọn lang sói này nhiều không đếm nổi, dù cho chúng đứng đó bất động không thèm tấn công đi chăng nữa, thì hai người cũng chết vì kiệt lực.

Liễu Dật không nén được tức giận chửi: “Mẹ nó, huynh đệ của Lang Vương sao mà nhiều thế này!” Bầy sói tiếp tục bao vây, tiếp tục từ từ ép sát vào, Liễu Dật dù không muốn cũng phải lùi lại từ từ, kéo Cát Lợi Nhi lùi về phía vách đá phía sau, điều này có thể làm giảm một hướng tấn công của bầy sói.

Đột nhiên “keng” một tiếng, cây sáo dài của Cát Lợi Nhi đã rớt xuống đất. Liễu Dật nhìn xuống, hai mắt sáng rực. Giờ phút này nhất định phải liều mạng một phen, nếu không một điểm hi vọng cũng không có.

Liễu Dật từ từ cúi người, nhặt lấy ống sáo. Chàng không dám làm nhanh, vì sợ kích nộ lũ sói nhất loạt công kích.

Cát Lợi Nhi không hiểu Liễu Dật định làm gì, nhưng nhìn chàng ngồi xuống, nàng cũng bò đến ngồi bên cạnh, dựa vào bờ vai của chàng.

Gió nhè nhẹ thổi. Mây chầm chậm trôi. Trăng tròn vành vạnh. Trên đỉnh núi cảnh tượng lại thật quá tàn nhẫn. Một nam một nữ kẹt tại trùng vây của hàng ngàn vạn con sói đói. Chỉ một tuần trà nữa thôi, họ cuối cùng cũng bị chúng xé nát, một đốt xương cũng chẳng còn.

Đột nhiên, một tiếng sáo du dương thoát tục giữa bầy sói từ từ vút lên. Đêm không còn tịch mịch nữa. Trăng hết cô độc rồi!

Âm thanh đó phảng phất như đến từ trời cao, từ một thế giới khác, như muốn ca ngợi sinh mệnh đẹp đẽ thế nào. Tiếng sáo lúc thì xuống thấp, tựa như dòng suối lặng lẽ trong thung lũng, thanh tịnh, không tranh đoạt gì với nhân thế. Tiếng sáo lúc lại thoắt vút cao, như cao sơn lưu thủy, vô cùng vô tận, ca tụng vẻ rực rỡ của tuổi thanh xuân. Bầy sói không tiến tới nữa, chúng nhắm cặp mắt xanh lục, cả bầy từ từ nằm xuống, như rơi vào giấc ngủ, phảng phất như thành kính thưởng thức âm điệu mỹ diệu này.

Tiếng sáo bắt đầu thay đổi, từ nhanh hóa chậm, giống như làn gió mơn man, vô cùng nhu hòa. Trong đầu người nghe không khỏi xuất hiện cảnh tượng tuyệt đẹp - Ánh dương quang chiếu xuống mặt đất, gió xuân mang theo từng làn hương hoa, chim chóc ríu rít về sự bắt đầu của sinh mệnh, cỏ cây vàng úa từ từ chuyển sang màu xanh tươi...

Đó là những biểu hiện hy vọng của đời người, là lời ca ngợi mùa xuân. Không khí ấm áp, làm người ta không còn cảm thấy lạnh lẽo nữa, thân thể thư thái, tâm hồn phơi phới. Đó chính là sự rung động trước sinh mệnh, rung động trước vạn vật dưới bầu trời xuân.

Thời gian bất tri bất giác trôi qua rất nhanh. Tiếng sáo cũng từ từ dừng lại, nhưng âm thanh mà nó tạo ra như phảng phất bồi hồi ở giữa thinh không, quấn quít không tan.

Liễu Dật hạ cây địch xuống, hướng mắt nhìn bầy sói lúc này vẫn còn nhắm mắt nằm trên mặt đất. Trên vai chàng Cát Lợi Nhi ràng rụa nước mắt. Nàng vốn đa sầu đa cảm, là một thiếu nữ có tình cảm phong phú, khi nghe tiếng sáo của Liễu Dật đã rút cục không nhịn được phải bật khóc.

-oOo-

Hồi 29: Linh tâm chi thảo, cơ quái đích ma cô

(Bỏ công tìm cỏ Liên Tâm, Nào ngờ hái được nấm thần vạn năm)

Mỗi cá nhân khi cùng ở với người thân thiết nhất của mình, thường cảm thấy một thứ tịch mịch thê lương nào đó. Nhưng thứ thê lương, tịch mịch này, không phải là tịch mịch chân chánh, thê lương chân chánh

(Cổ Long - Luận)

Sự tĩnh mịch cuối cùng cũng kết thúc. Mọi thứ đều kết thúc, sau khi âm thanh theo gió tiêu biến đi. Cùng lúc đó, bầy lang từ từ mở mắt, từ từ đứng dậy. Tuy nhiên, chúng lại không có ý công kích Liễu Dật và Cát Lợi Nhi, quay đầu chuyển thân, từ từ bỏ đi mất.

Bầy sói hàng ngàn hàng vạn con trong chốc lát đã lẩn đi bốn phía, trả lại không gian tuyệt mỹ cho riêng hai người.

Cát Lợi Nhi cũng từ từ tỉnh lại, rời tay Liễu Dật, ngồi xuống cạnh chàng, lau đi những giọt lệ trên khóe mắt, vẫn chưa tin vào mắt mình, hỏi lại: “Ôi, thật là hay quá, đó là loại võ công gì vậy?”

Liễu Dật ung dung trả trường địch trong tay chàng cho Cát Lợi Nhi, cười nói: “Cái này đâu phải võ công gì, chính là âm luật. Nếu nói con người và động vật không có khả năng giao lưu, ta nghĩ, đều sai cả! Chí ít giữa họ cũng có thứ để giao lưu, đó là âm luật.”

Cát Lợi Nhi kỳ quái nhìn Liễu Dật, hỏi: “Vậy lúc nãy huynh thổi khúc gì vậy? Làm sao mà giao lưu với bầy lang sói đó được?”

Liễu Dật phe phẫy cái quạt trong tay, nói: “Đó là khúc nhạc do ta sáng tác, gọi là Xuân Phong. Còn giao lưu làm sao à? Ta không giao lưu chút nào, ta tự trong tâm nghĩ đến khát vọng sinh mệnh, thông qua âm luật mà biểu đạt ra thôi.”

Cát Lợi Nhi nhìn Liễu Dật, ánh mắt như muốn nói gì đó, nhưng cuối cùng lại thôi.

Liễu Dật nói: “Lo sợ cả nửa ngày trời, giờ mệt rồi, ngủ thôi. Ngày mai còn đi kiếm thuốc nữa.”

Cát Lợi Nhi gật đầu, hai người lẳng lẳng ngồi xuống, dựa vào tảng đá lớn ở bên cạnh đống lửa.

Liễu Dật ngẩng đầu nhìn lên bầu trời đầy sao, nói: “Thế sự vô thường, có khả năng chỉ một bước là đã tới Quỷ Môn Quan, thế giới rộng lớn này thật huy hoàng, nhưng cũng dễ sợ thật.”

Đang lúc Liễu Dật tràn đầy cảm khái, hốt nhiên phát hiện vai phải nằng nặng, không cần nhìn cũng biết là tiểu cô nương đã gối đầu lên vai chàng, một làn gió nhẹ thổi tới, vài lọn tóc đen mơn man trên mặt chàng, êm ái, nhột nhạt...

“Đêm lặng, trăng chênh, gió nhẹ, một lọn tóc mềm sầu mấy độ....”

Ôm trong tay “báu vật” của Nguyệt Thương Sơn, Liễu Dật từ từ đi vào giấc ngủ.

oOo

Sau khi tỉnh dậy, Liễu Dật cảm thấy thân mình nóng như lửa đốt, chính là do vầng thái dương đã lên khá cao chiếu lên người. Hít thở không khí trong lành buổi sáng, cảm giác sung sướng không gì tả được. Nhưng một cảm giác khác cũng chợt đến với Liễu Dật. Sao vai hữu của chàng lại đau thế này? Giống như là...

Liễu Dật quay đầu nhìn xuống, liền nhớ đến tối hôm trước Cát Lợi Nhi gối đầu lên vai mình ngủ. Con người bằng thịt chứ đầu phải bằng sắt, máu huyết không lưu thông được không đau mới là chuyện lạ.

Cử động của Liễu Dật làm Cát Lợi Nhi tỉnh giấc, mở to cặp mắt biết nói nhìn chàng. Bộ dạng giống như một đứa bé, nàng vươn vai uốn éo thân mình một cái rồi đứng dậy hỏi: “Ngủ ngon không?”

Liễu Dật vừa nhăn nhó xoa vai vừa nói: “Muội thì thoải mái rồi, có cái vai của ta là đau muốn rụng xuống luôn đây nè!”

Cát Lợi Nhi vừa dọn dẹp vừa nói: “Hừ, không phải ai cũng được bản cô nương dựa vai đâu nhé!”

Liễu Dật lắc đầu cười khổ: “Ta thật là vinh hạnh, cũng nên nói vài lời cảm ơn muội mới phải.”

Cát Lợi Nhi cười hì hì nói: “Tốt lắm, bỏ qua chuyện đó đi. Hôm nay nhiệm vụ của chúng ta là đi thu thập mười nhánh Liên Tâm Thảo, nếu như vận khí tốt một chút, cũng có thể hái được một cây Lưu Ly Thảo.”

Liễu Dật vừa lấy lương khô và cái chân sói còn lại ra, vừa nói: “Có thực mới vực được đạo, ăn trước cái đã!”

Cát Lợi Nhi nhìn cái đùi sói, hơi sợ sệt nói: “Muội ăn lương khô thôi, sau khi gặp bầy sói quần tụ đó, không dám ăn thịt nó nữa rồi.”, dứt lời, cầm lấy lương khô, bắt đầu ăn.

Hai người tích cực ăn no bụng, xong nhắm hướng đỉnh núi phía đông tiếp tục đi.

Cát Lợi Nhi đi trước dẫn đường, vừa đi vừa nói: “Đi thẳng từ đây đến vách đá cao ở phía trước, trên đoạn đường rất dễ tìm Liên Tâm Thảo. Loại cỏ này thường mọc dưới những cây lớn, nhìn gần giống như hoa lan, có màu hồng phấn... ”

Liễu Dật quay đầu tùy tiện nhìn quanh, ngắt lời nói liến thoắng của Cát Lợi Nhi, hỏi: “Muội nói coi Liên Tâm Thảo có phải hình dạng thế này không?”, vừa nói vừa chỉ vào một cây đại thụ xù xì bên đường.

Cát Lợi Nhi quay đầu nhìn, liền khen: “Thư sinh, mắt của huynh lợi hại quá, chính là nó.... hì hì... ừ mà gọi bằng thư sinh khó nghe quá nhỉ, sau này muội sẽ gọi huynh là Liễu đại ca nhé?”

Liễu Dật vừa đi về phía cổ đại thụ, đáp lại một cách hóm hỉnh: “Liễu đại ca à? Bỏ chữ ‘đại’ đi nghe có vẻ hay hơn!”

Cát Lợi Nhi suy gẫm lầm thầm: “Liễu ca? Lời này sao giống dùng để gọi.... Này, huynh chờ đã, không thể dùng tay mà hái được đâu.” Vừa nói, vừa chạy gấp theo chàng.

Liễu Dật nghe thế, liền dừng tay hỏi: “Thế làm sao bây giờ? Có nhiều có như thế, sao lại không thể hái được?”

Cát Lợi Nhi nhìn quanh, lấy làm lạ hỏi: “Sao ở đây tự nhiên có nhiều Liên Tâm Thảo thế nhỉ? Có hơn cả trăm cây.”

Đến cạnh Liễu Dật, nàng lấy ra một con dao nhỏ nói: “Liên Tâm Thảo cành lá phía ngoài không có nhiều diệu dụng, chủ yếu là ở rễ của nó. Nó có rễ rất dài, dược liệu tập trung phần lớn ở đây.” Dứt lời, vừa dùng cái xẻng nhỏ đào xuống đất, vừa chỉ cho Liễu Dật cách làm thế nào.

Liễu Dật chung quy cũng minh bạch tại sao nàng muốn chàng mang cái xẻng nhỏ theo, nguyên lai cái quý của loại cỏ này nằm ở rễ của nó. Vừa nghĩ, vừa rút cái xẻng ra, học theo cách của Cát Lợi Nhi, cẩn thận đào bới.

Liễu Dật vừa đào vừa hỏi: “Ở đây loại cỏ này có hàng trăm, sao trước đây muội nói rằng rất khó kiếm?”

Cát Lợi Nhi đào xong một Liên Tâm Thảo, vừa bỏ vào hộp được đặc chế riêng để đựng thuốc, vừa lấy làm lạ đáp: “Ừ sao lạ quá, thường muốn kiếm một cây phải mất đến mấy canh giờ, không ngờ hôm nay ở đây lại có hàng trăm bụi?”

Liễu Dật vừa cẩn thận đào, vừa cười nói: “Xem ra hôm nay vận khí chúng ta không tệ rồi.”

Đào được nửa ngày trời, Liễu Dật vẫn chưa thấy rễ. Chàng hơi sốt ruột tăng tốc độ, cuối cùng cũng lần tới gốc, nhưng cái rễ này dường như nối với thứ gì đó...

Cát Lợi Nhi hớn hở: “Không sai, kiểu này A Cửu tỷ tỷ có thể xài thoải mái hai ngày.”

Liễu Dật không trả lời Cát Lợi Nhi, tiếp tục đào, càng đào càng thấy lớn, to cỡ một nắm tay. Cái chàng đào chung quy cũng lộ xuất hình dạng của nó, màu hồng, giống hình cái nấm. Liễu Dật nói thầm: “Ta nghĩ ngươi cũng khá lớn đấy, để coi ta có đào được ngươi lên không nào.”

Vừa nghĩ vừa gia tăng tốc độ đào của cái xẻng nhỏ trong tay, mở ra một lỗ hổng lớn...

“Ấy, huynh làm gì thế, xem huynh kìa, đào quá nhiều, lãng phí, loại thảo dược này rất khó tìm!”, Cát Lợi Nhi lớn tiếng nói.

Liễu Dật nói: “Muội xem, đây là cái gì?”

Cát Lợi Nhi cúi đầu nhìn xuống , dưới cái lỗ lớn đó có một cái nấm đỏ như lửa, không biết làm sao lại có thứ nấm to lớn như vậy? Linh chi? Không thể nào! Linh chi sao lại ở dưới đất chứ?

Cát Lợi Nhi lắc đầu: “Cái này muội không biết là gì? Huynh đào cứ đào tiếp xem sao, muội trước hết đào Liên tâm thảo xong rồi hẵng nói.” Dứt lời liền tiếp tục đi đào Liên Tâm Thảo.

Cái xẻng nhỏ của Liễu Dật tiếp tục công tác, chung quy cũng làm cho toàn bộ cái nấm lạ lộ xuất phần phía trên, đường kính dài khoảng một xích. Cái nấm màu hồng này tỏa ra một mùi hương rất hấp dẫn, mang theo một mùi vị đặc biệt, làm cho người ta có cảm giác thèm chảy nước bọt, muốn ngốn ngấu ăn ngay.

Liễu Dật lúc nãy có nghe Cát Lợi Nhi nói Liên Tâm Thảo hữu dụng phi thường, giờ nghĩ lại, vậy còn cái nấm lớn vừa đào lên này thì thế nào...

-oOo-

Hồi 30: Thiên chi dựng dục, tại vong phàm trần gian

(Nấm thần tinh túy đất trời, từ lâu quên lãng ở nơi phàm trần)

Có phải người càng thông minh, thì càng dễ dàng làm điều ngu ngốc không?

(Cổ Long - Luận)

Cát Lợi Nhi hình như đã ngửi thấy mùi hương thơm ngát phát ra từ cái nấm lạ, liền quay đầu lại hỏi: “Mùi gì vậy?”

Liễu Dật nỗ lực đào bới, lắc đầu đáp: “Huynh cũng không biết, do vật này phát ra, huynh nghĩ nó rất ngon, đang đào rễ nó đây.”

Chỉ thấy Liễu Dật càng đào càng sâu, chẳng mấy chốc đã sâu hơn mười tấc, nhưng không ngờ rễ của cái nấm đó giống như hình ngưới, phân ra rõ ràng hai tay hai chân.

Cuối cùng, sau khi Liễu Dật mồ hôi nhễ nhại đào đào bới bới, cái nấm lạ màu đỏ rực cũng được bứng lên. Hương thơm tiết ra thanh ngọt lạ thường, khiến Liễu Dật muốn cắn nó một miếng cho đã thèm. Nhưng khi nhìn lại toàn bộ hình dạng của cái nấm, Liễu Dật không khỏi ngây người kinh ngạc. Vật này trông giống như một đứa bé nhưng dài khoảng một tấc. Cái nấm trên đầu nhìn giống như cái nón. Dưới ánh mặt trời, loại thực vật dưới đất này bỗng nhiên phát ra hào quang màu đỏ, hấp dẫn vô cùng.

Cát Lợi Nhi sau khi đào được củ Liên Tâm Thảo cuối cùng, bỏ vào tay nải, chạy đến hỏi: “Vật này là cái gì, để muội xem kỹ chút coi.”

Liễu Dật tiện tay đưa cây nấm lớn đỏ rực cho Cát Lợi Nhi, nói: “Vật này nhìn có vẻ ăn được đó.”

Cát Lợi Nhi cười hỏi lại: “Sao huynh biết?” Nói xong chăm chú quan sát vật trong tay.

Nàng vừa nhìn vừa nói: “Trước đây muội có nghe cha nói trong Nguyệt Thương Sơn này có tinh linh, rất có thể sống ẩn trong các loại cây cỏ, loại cây cỏ này sẽ từ từ biến thành hình dạng của tinh linh đó, rồi hấp thu thiên địa linh khí. Ôi trời, nhìn cái nấm to này trông cứ như là người vậy, bên trong không biết có cư trú tinh linh nào không.”

Liễu Dật cảm thấy kỳ quái, lên tiếng hỏi: “Tinh linh là cái gì?”

Cát Lợi Nhi đang ngắm nghía cái nấm lớn đang phát sáng trong tay, trả lời: “Truyền thuyết kể rằng, kể từ Bàn Cổ khai thiên, tam giới rất hỗn độn. Tuy nhiên, sự hỗn độn đó cũng tạo ra loại sinh mệnh mới, đó là tinh linh. Chúng ở khắp nơi, có khi là lửa, là nước, là gió hoặc là đất nữa. Bàn Cổ rất thích dùng tinh linh làm vật thực, nhân vì chúng hấp thụ được thiên địa linh khí, nên có thể bổ sung cho sức mạnh của Bàn Cổ. Vì thế, Tinh Linh Môn là nguồn gốc xuất phát sức mạnh lớn nhất của Bàn Cổ. Chỉ là, sau khi Bàn Cổ tạo ra thần thú đầu tiên, Thiên Long, các tinh linh còn lại bị tiêu thất hết. Tiếp theo đó, khi Bàn Cổ cùng Nữ Oa tạo ra sinh mệnh, những loại tinh linh thế này rút vào sống tạm trong những loại cây cỏ thần kỳ. Khi các loại khí hỗn độn của thiên địa từ từ giảm sút, tinh linh không có cách gì sinh sôi, do đó số lượng của chúng còn lại trên thế gian này vô cùng ít.”

Liễu Dật lắc lắc đầu nói: “Nghe có vẻ thần kỳ quá, các loại tinh linh này có vẻ còn xuất hiện sớm hơn cả Yêu tộc nữa.”

Cát Lợi Nhi lắc đầu đáp: “Muội cũng không rõ, đó chỉ là truyền thuyết thôi mà, ai biết được vật này thực ra là cái gì... ”

“Xì” một cái, đột nhiên trong cái nấm đỏ bắn ra một vật thể màu trắng, giống như nước, nhưng có hình trạng hẳn hoi, chớp mắt bắn trúng mặt của Cát Lợi Nhi rồi nhanh chóng thấm vào trong.

Mọi vật trong chớp mắt đã trở lại bình thường, Liễu Dật cả kinh hỏi: “Lúc nãy là cái gì thế?”

Cát Lợi Nhi cũng kinh ngạc nhìn cái nấm phát sáng trong tay mình, lúc lắc đầu đáp: “Muội cũng không biết...”

Hốt nhiên, ở trong đầu nàng lại vang lên mấy lời nói: “Ăn cây Địa Linh Cô trong tay ngươi, nó sẽ làm cho ngươi sống mãi không già.”

Cát Lợi Nhi lớn tiếng hỏi lại: “Ngươi là ai, ngươi đang ở đâu?”

Liễu Dật nhìn biểu hiện của Cát Lợi Nhi, vội hỏi: “Muội bị sao thế? Đang nói chuyện với ai vậy?”

Trong đầu của Cát Lợi Nhi lại truyền tới thanh âm: “Ta giờ đã thành một bộ phận trong thân người ngươi, chúng ta có thể nói chuyện với nhau thông qua tư tưởng.”

Cát Lợi Nhi liền nhanh chóng trả lời Liễu Dật: “Không có gì.”

Nàng tiếp tục dùng trí não nói chuyện: “Ngươi là ai?”

Từ bên trong não nàng quả nhiên truyền đến âm thanh trả lời: “Như ngươi nói lúc nãy, Bàn Cổ không ăn tinh linh này.... cũng là tinh linh cuối cùng.”

Cát Lợi Nhi tiếp tục nghĩ: “Ô, ha ha, vậy là ngươi muốn ta ăn cái Địa Linh Cô này để ngươi có thể vĩnh viễn ở lại trong cơ thể ta hả?”

Bên trong não truyền lại tiếng cười của nữ tử, đáp: “Tiểu nha đầu, ngươi thật thông minh!”

Cát Lợi Nhi tỏ vẻ phẫn nộ, lập tức đáp lại: “Không được, mau ra khỏi cơ thể ta, không được ở trong đó.”

Nhìn biểu hiện của Cát Lợi Nhi, Liễu Dật nói thầm: “Chắc cô ả bị trúng phép tà gì đây? Sao lại như thế được chứ.”

Chỉ nghe tinh linh hồi đáp: “Ta chỉ chiếm một chỗ nhỏ xíu trong não của ngươi, mà chỗ đó cũng không có ích gì cho ngươi. Làm gì mà hung hãn dữ thế? Ngươi không muốn ta nói thì ta không nói, còn kêu ta rời khỏi đây hả? Đừng hòng!”

Cát Lợi Nhi dậm chân, hiển nhiên gặp phải tay không vừa gì. Nhưng so với ả tinh linh đó, nàng còn ương ngạnh hơn, bèn phẫn nộ phản pháo: “Ta nhất định không ăn, đợi đến khi ta già chết, ngươi cũng sẽ chết theo ta.”

Tinh linh ở trong não chẳng hoảng hốt chút nào, đáp lại: “Để cứu tính mệnh của ngươi, ngươi nhất định phải ăn, đó là số mệnh đã an bày, như quả hôm nay ngươi không ăn nấm Địa Linh Cô này, ngươi sẽ vĩnh viễn không thể sống chung một chỗ với Liễu Dật.”

Cát Lợi Nhi nghe vậy, bao nhiêu phẫn nộ đều mất hết, gấp gáp hỏi: “Ngươi nói cái gì?”

Liễu Dật đứng cạnh Cát Lợi Nhi, thấy nàng lúc thì dậm chân, lúc thì nổi nóng, hiện tại tự nhiên trên mặt lại ửng hồng, vò đầu không hiểu tại sao?

Tinh linh trả lời: “Đừng có coi thường ta, ta đây có thể nói là sinh mệnh xuất hiện sớm nhất trong thế gian này, đã hấp thu không biết bao nhiêu thiên địa linh khí. Mặc dù phải ngủ hàng nghìn năm trong lòng đất, nhưng mỗi nguyên tố trong không khí đều kể cho ta tất cả mọi sự tình diễn ra từng giây từng phút trên thế gian này!”

Cát Lợi Nhi vội hỏi lại: “Đó là những điều gì?”

Tinh linh liền đáp: “Thiên cơ không thể tiết lộ, nếu không ta sẽ liên lụy đến ngươi, bị trời khiển trách. Chỉ là, ta cảnh cáo người, ngươi sau này sẽ gặp nhiều kiếp nạn không thể tưởng tượng được. Nếu như ngươi quả muốn cùng Liễu Dật sống bên nhau, thì người hãy ăn nó đi.”

Cát Lợi Nhi vừa mắc cỡ, vừa lo lắng, tiếp tục truy vấn: “Làm sao ngươi biết ta... ta.... ta muốn được cùng ở với huynh ấy chứ? Ngươi không được lừa dối ta.”

Tinh linh không trả lời thẳng, chỉ thở dài nói: “Làm sao biết à? Đó là vận mệnh đã định trước, tình duyên ba đời giữa ngươi và hắn không thể trốn đi đâu được. Tương lai là do tự ngươi nắm lấy, ta chỉ có thể đề tỉnh ngươi thôi. Ngươi không ăn, khi ngươi chết ta sẽ tự tìm một sinh mệnh khác để sống tạm, nghĩ kỹ đi!”

Cát Lợi Nhi phát ra tiếng cười hì hì muốn giành tiên cơ, nói: “Ta ăn nó cũng không phải không tốt. Ngươi già quá rồi, không cần phải đi trả giá này nọ với tiểu nha đầu non nớt này đâu.”

Trú trong não của Cát Lợi Nhi rõ ràng là một nữ tinh linh. Những loài giống cái đều có chung một chứng bệnh. Đó là không cho phép người khác nói họ già, dù cho đó là sự thật đi chăng nữa, cũng không được. Chỉ nghe tinh linh đó hét lên một tiếng nói: “Ta quá già ư? Trời ơi? Già ư?”

Cát Lợi Nhi cảm giác trong đầu dường như mồ hôi đầm đìa, hình như là mình đã lỡ lời rồi.

Liễu Dật cũng đang chăm chú quan sát Cát Lợi Nhi, không biết làm sao mà nàng có vẻ hơi bất thường. Ngay lúc ấy, Cát Lợi Nhi đã cắn một miếng nấm to, sau đó quay sang Liễu Dật hỏi: “Huynh nhìn gì đó? Muội có gì không ổn sao?”

Liễu Dật lắc đầu xua tay nói: “Không có gì, muội đâu có chỗ nào bất thường, chỉ là trông muội không khỏe thế thôi.”

Cát Lợi Nhi đột nhiên nghĩ ra một chuyện, vội hỏi tinh linh trong não: “Đồ ăn à, ngươi còn đó không?”

Nữ tinh linh đó nói với giọng không vui: “Ta không phải là đồ ăn đồ iếc gì cả, ta là Na Lan, ta có tên họ đàng hoàng.”

Cát Lợi Nhi nhân đó hỏi tiếp: “Na Lan tỷ tỷ, ta hỏi tỷ, ta có thể đưa huynh ấy ăn cùng ta, để huynh ấy sống mãi cùng ta nhé?”

Hai từ “tỷ tỷ” ngọt lịm đó tựa hồ rất hữu dụng, Na Lan liền đáp: “Hắn có con đường riêng của hắn, muội cho hắn ăn là giết hắn đấy. Địa Linh Cô này đã theo tỷ hấp thu thiên địa linh khí hàng trăm vạn năm rồi, ở trong ẩn chứa lực lượng tự nhiên không thể tưởng tượng. Nếu không có tỷ trợ giúp, ai ăn vào sẽ vỡ kinh mạch mà chết.”

Cát Lợi Nhi: “Vâng, muội biết rồi.”

Lúc đó Địa Linh Cô trong tay của Cát Lợi Nhi đã biến thành nhỏ hơn lòng bàn tay, nàng há miệng ra bỏ hết vào miệng, mùi hương thơm lừng, ngon ngọt không thể tả.

Liễu Dật há hốc miệng, hỏi: “Muội... muội ăn gì nhanh thế, không chừa huynh miếng nào à?”

Cát Lợi Nhi lấy tay xoa bụng, đáp: “Huynh thấy đó, muội chỉ cắn có hai cái là hết hà!”

Liễu Dật lúc đó chỉ thiếu điều hỏi ông trời, có lời mà không thốt được tiếng nào.

-oOo-

Hồi 31: Thất chủng hoa hương, thủy tinh Lưu Ly Thảo

(Bảy mùi hương cỏ Lưu Ly, Mười năm một nhánh lung linh ánh hồng)

Sao những chuyện nên quên đi lại luôn không thể nào quên được? Những chuyện cần nhớ, lại không thể nhớ được?

(Cổ Long - Luận)

Cát Lợi Nhi cười hì hì: “Thôi được rồi, đừng có bủn xỉn như vậy nữa, chẳng phải đó chỉ là một cây nấm sao? Hãy mau đi tìm thảo dược đi, tìm đủ rồi về nhà muội sẽ nấu canh nấm cho huynh ăn.”

Liễu Dật còn nói thêm được gì nữa đành lắc đầu: “Còn phải tìm vị thuốc nào nữa?”

Cát Lợi Nhi nói: “Tìm thêm một cây Lưu Ly Thảo để làm thuốc dẫn, các thứ khác ở nhà đều có, không cần tìm thêm.”

Liễu Dật lại hỏi tiếp: “Chỉ cần một cây Lưu Ly Thảo thôi sao?”

Cát Lợi Nhi vừa đi về phía trước, vừa trả lời: “Đương nhiên rồi, Lưu Ly Thảo là thứ thuốc vô cùng quý hiếm, còn khó tìm hơn cả Liên Tâm Thảo cơ đấy, gia gia bảo loại cỏ này thường mọc ở những vách đá cheo leo trên núi đá, hơn nữa mười năm lại mới mọc được một cây. Rất khó tìm, phải tùy vào vận may của mình thôi.”

Liễu Dật gật gù: “Muội muốn nói là phải dựa vào vận may? Nếu như chúng ta không tìm được thì sao?”

Cát Lợi Nhi cười nói: “Sao lại không được cơ chứ? Nguyệt Thương Sơn lớn như vậy, mà người đến đây cũng ít, tuy là phải mười năm mới mọc được một cây Lưu Ly Thảo nhưng hàng trăm năm nay có rất ít người đến hái, chỉ cần chúng ta chuyên tâm đi tìm thì nhất định sẽ được.”

Liễu Dật vừa đi theo Cát Lợi Nhi vừa cười nói: “Thật không ngờ muội còn ít tuổi mà lại hiểu được nhiều như vậy.”

Cát Lợi Nhi vừa đi vừa cười: “Đó gọi là mỗi người đều có tài riêng, huynh ngạc nhiên thấy muội biết nhiều, còn muội thì lại ngạc nhiên vì huynh học nhiều hiểu rộng.”

Liễu Dật quả là không thể nào đối đáp được với tiểu nha đầu mồm mép lanh lợi này, nếu nói tiếp e là đương kim Trạng nguyên cũng không phải là đối thủ của nàng ta.

Cát Lợi Nhi bỗng nhiên dừng lại vươn tay chống nạnh.

Liễu Dật ngạc nhiên hỏi: “Sao lại không đi nữa?”

Cát Lợi Nhi cười: “Liễu đại ca, huynh cũng thật là ngốc, nhìn kìa đó chẳng phải là vách đá mặt đông Nguyệt Thương Sơn đó sao, cứ đi tiếp sẽ rơi xuống dưới đó.”

Lúc ấy Liễu Dật mới hiểu tại sao nha đầu này không đi tiếp nữa, hóa ra đã tận đường rồi, chỉ trách bản thân chỉ chăm chăm bám theo theo nha đầu này mà không để ý đường đi trước mặt.

Liễu Dật phóng tầm mắt nhìn xuống phía dưới vách núi, mây trắng lởn vởn trông như biển cả trào sóng, thật là hùng vĩ: “Thiên thượng kim tiêu, nhân giản thử địa, ngã thị phong tiền khách (26). Ha ha...”

Cát Lợi Nhi lên tiếng: “Thư sinh các anh phải chăng đều mắc chứng bệnh này, hễ cứ nhìn thấy cái gì hay hay là y rằng phải ngâm lên một vài câu.”

Liễu Dật nghe vậy bèn cười chống chế: “Quen rồi, ha ha!”

Cười đoạn Liễu Dật bỗng lặng im, không hiểu là vì sao, chàng đứng ở đó lại có cảm giác rất đỗi thân thuộc hệt như là mình vừa mới đến hôm qua, và điều càng làm cho chàng cảm thấy kinh ngạc là bức tranh hiện lên trong đầu: “Một trung niên, tay trái ôm lấy một nữ tử đã chết, tay phải cầm trường kiếm, đứng ngay tại vị trí của mình, đối mặt với đám đông hàng vạn người...”

Liễu Dật lắc mạnh đầu, chợt phát hiện thấy phía trên bên phải có ánh sáng lấp lánh phát ra trong bụng nghĩ thầm: “Không phải là lại đụng phải điều gì kỳ lạ gì nữa chứ?” Rồi ngoảnh đầu nhìn về hướng phát ra ánh sáng, nhưng cái vật phát ra ánh sáng ấy lại khuất sau một tảng đá, ít nhất cũng phải cao đến mười mấy trượng, ánh sáng phản chiếu lại gay gắt nên nhìn không rõ.

Liễu Dật vội gọi lớn: “Này, Cát Lợi Nhi... Cát Lợi Nhi...”

Chàng gọi liền hai tiếng, Cát Lợi Nhi không có phản ứng gì, rõ là đang nghĩ cái gì đó rất đăm chiêu, Liễu Dật nhẹ nhàng kéo áo của Cát Lợi Nhi: “Này, tỉnh lại đi.”

Cát Lợi Nhi vội dứt mình ra khỏi hình ảnh kỳ quái chợt xuất hiện trong đầu, hỏi: “Gì vậy?”

Liễu Dật chỉ về phía núi đá cao mười mấy trượng ở sau lưng: “Muội nhìn kìa, đó là cái gì vậy?”

Cát Lợi Nhi quan sát chăm chú một hồi rồi nói: “Tuy nhìn không được rõ lắm nhưng đó có thể chính là Lưu Ly Thảo. Mặc dù muội chưa từng trông thấy nhưng nghe cha nói qua, sau khi loại cỏ này trưởng thành, toàn thân giống thủy tinh, lấp lánh trong suốt, có thể phản xạ ánh nắng mặt trời, hơn thế nữa thân nó còn mang bảy mùi hương, chỉ vì nó không ra hoa nên người ta gọi là Lưu Ly Thảo.”

Liễu Dật gật gù: “Thật không ngờ muội lại hiểu biết về nó nhiều như vậy, để huynh leo lên hái nó xuống.”

Cát Lợi Nhi vội giữ chặt lấy Liễu Dật: “Để muội lên, huynh không biết cách sẽ rất dễ làm Lưu Ly Thảo bị héo đấy.”

Liễu Dật tỏ vẻ không hiểu: “Thứ cỏ này không yếu ớt đến vậy chứ?”

Cát Lợi Nhi vừa bỏ những đồ trên người mình xuống vừa nói: “Huynh không biết chứ, loại cỏ này thông thường gió táp mưa vùi cũng không sao nhưng sau khi ngắt nó ra khỏi núi đá, nó sẽ lập tức bị khô héo ngay. Vì thế phải có cách đặc biệt, dụng cụ đặc biệt mới có thể bảo quản nó được.”

Cát Lợi Nhi lấy ra một cái bình tròn màu đen giống như được làm bằng sắt và một cái xẻng nhỏ: “Muội leo lên đây.”

Liễu Dật dắt cái quạt gấp lên sau cổ và nói: “Lên đi, huynh ở dưới này trông chừng, nếu như muội rơi xuống huynh sẽ đỡ lấy muội.”

Cát Lợi Nhi cười: “Đúng là thư sinh chết tiệt, không biết nói những lời hay ho một chút.” Nói đoạn đi đến phía dưới phiến đá núi và bắt đầu trèo lên.

Hiển nhiên qua nhiều năm bị tự nhiên bào mòn, bề ngoài của phiến đá núi khổng lồ này đã không còn chắc chắn lắm, sau một hồi vật lộn cuối cùng thì Cát Lợi Nhi cũng đã đến gần được với cây Lưu Ly Thảo.

Chỉ nghe tiếng Cát Lợi Nhi nói vọng xuống cho Liễu Dật: “Đúng là Lưu Ly Thảo rồi, muội có thể ngửi thấy mùi hương của nó.” Nói đoạn, vui mừng quay đầu đi, tiếp tục trèo.

Liễu Dật nhìn bộ dạng vui mừng của Cát Lợi Nhi, trong lòng bỗng rung động, đây là một tinh linh của núi non, một nàng tiên không vướng bận thế tục, thế giới của nàng luôn là niềm vui, không có nỗi ưu tư đau khổ chốn hồng trần, có lẽ...đây là cảm giác không nói được thành lời của Liễu Dật vào lần đầu gặp gỡ Cát Lợi Nhi.

“"Rầm!”, một mảnh đá núi vỡ ra rơi xuống, Liễu Dật vội phóng vọt qua một bên, cấp tốc ngẩng đầu lên nhìn, lo lắng hỏi: “Sao vậy?”

Chỉ thấy Cát Lợi Nhi ở trên cao lắc lắc đầu: “Không có gì, cánh tay bị xước môt chút.” Nói rồi bắt đầu ra tay đào cây Lưu Ly Thảo. Cách đào này rất lạ, phải dùng cái bình tròn màu đen ấy chụp kín lên cây cỏ, sau đó dùng cái xẻng nhỏ đào từng chút từng chút ở gốc cây, đào được chút nào lại phải nhích cái bình ấy lên một chút để đảm bảo phần được đào lộ ra tuyệt đối không được hở ra ngoài.

Ánh sáng phản chiếu của Lưu Ly Thảo đã bị chụp lại, Liễu Dật có thể nhìn thấy Cát Lợi Nhi đang xoay trở rất khó khăn. Cuối cùng Cát Lợi Nhi cũng lau lau mồ hôi trên đầu, đậy nắp bình và gài vào lưng, ngoảnh đầu lại: “Xong rồi!”, sau đó, từ từ trèo xuống….

Đúng vào lúc Cát Lợi Nhi trèo xuống được nửa đường, cánh tay bị trượt không nắm được vào vách đá: “A!” một tiếng rồi rơi thẳng xuống dưới.

Liễu Dật đã có chuẩn bị sẵn sàng tiếp ứng từ trước, vừa thấy Cát Lợi Nhi bị trượt xuống đã vận mạnh chân khí, thi triển Ẩn Toàn Cửu Ảnh, nhảy vọt lên, cả người hóa thành ba cái bóng mờ, nhẹ nhàng đỡ lấy thân hình nhỏ nhắn của Cát Lợi Nhi, rồi từ từ hạ xuống.

Chỉ trong nháy mắt, cảm giác thời gian như ngừng lại, mây vởn vơ xung quanh, gió thổi qua nhè nhẹ bên tai, tựa hồ như một thế giới khác.

Yên ổn đáp xuống đất, ánh mắt của hai người đang dán chặt vào nhau, không biết họ đã nhìn thấy những gì.

Liễu Dật cảm thấy tay của mình có gì đó dính dính, vội cúi đầu xem thử thì thấy đó là máu ở tay phải của Cát Lợi Nhi không ngừng tuôn ra. Liễu Dật vén tay áo của Cát Lợi Nhi lên thì thấy một vết thương dài ở cánh tay, vội hỏi: “Sao lại không cẩn thận như thế, vết thương lớn quá? Có đau không?”

Cát Lợi Nhi lắc lắc đầu, cười: “Chỉ là vết thương ngoài da thôi, không sao đâu.”

Liễu Dật không cần biết, tay trái dùng lực xé bỏ nửa tay áo phải, nói: “Nào, hãy băng vết thương lại đã.” Nói rồi, vừa xắn tay áo của Cát Lợi Nhi lên vừa nhẹ nhàng băng bó vết thương.

Cát Lợi Nhi nhìn bộ dạng tỉ mỉ của Liễu Dật, trong lòng nghĩ: “Đây là hạnh phúc sao? Ở trước mặt chàng, đau đớn cũng là hạnh phúc.”

Bỗng nhiên, trong đầu Cát Lợi Nhi vẳng đến một trận cười: “Ha ha, nha đầu ngốc, hạnh phúc của ngươi còn ở phía sau cơ.”

Cát Lợi Nhi hấp tấp nói: “Na Lan tỷ tỷ, sao tỷ lại nghe trộm việc muội suy nghĩ chứ!”

Tinh linh Na Lan cười đáp lại: “Được rồi, được rồi, tỷ cũng không cố ý, tỷ đi ngủ đây.”

Liễu Dật kéo tay áo của Cát Lợi Nhi xuống, nói: “Xong rồi, huynh đã băng xong rồi.”

Cát Lợi Nhi cười vui vẻ: “Hôm nay chúng ta có thể xuống núi rồi. Ban đầu muội cho rằng lần lên núi này phải rất lâu mới có thể tìm đủ hai thứ thuốc, không ngờ chúng ta lại gặp may như vậy.”

Liễu Dật cười cười: “Đó là bởi có bổn công tử nên vận may mới tốt như thế.”

Cát Lợi Nhi lườm Liễu Dật: “Hừ, huynh nói như vậy rõ ràng là muốn được thưởng chứ gì?“

Liễu Dật lấy cái quạt gài sau gáy xuống, phe phẩy: “Hây a, Cát Lợi Nhi quả là thông minh tuyệt đỉnh, nghe nói có người định nấu canh nấm cho huynh ăn, hình như lại có chút đói bụng rồi?”

Cát Lợi Nhi cười vui vẻ, cầm tay nải lên: “Huynh đeo lấy này.”

Liễu Dật đỡ lấy tay nải, khoác lên lưng, hỏi tiếp: “Cát Lợi Nhi không phải là hạng quý nhân hay quên, đừng có quên việc nấu canh nấm đấy nhé.”

Cát Lợi Nhi thu nhặt đồ đạc, vung vẩy đôi tay nhỏ trong tay áo rộng: “Đi thôi, về nhà muội sẽ nấu canh nấm cho huynh ăn, haha.” Nói rồi, đi lên trước mở đường, có thể nhận thấy đó là một nha đầu rất có chủ kiến.

Liễu Dật trông theo nha đầu tinh quái đang đi phía trước, bỗng nhiên lại có một cảm giác mới đối với Cát Lợi Nhi? Đó là gì? Thật đúng với câu: “Người khác cười ta điên, ta cười người không nhận thấy.”

-----------------------------------------------

(26) Trên trời chỉ có đêm nay, nhân gian chỉ có đất này, ta là người đứng trước gió.

-oOo-

Hồi 32: Lan san y nhân, thanh hương ma cô thang

(Khó đo lòng dạ nữ nhi, Một tô canh nấm có khi là tình?)

Bởi vì những điều mà con người thực sự sợ hãi, thường đều không phải là bản thân của sự vật mà chẳng qua chỉ là tưởng tượng về sự vật ấy mà thôi.

(Cổ Long - Luận)

Lúc xuống núi đã là buổi chiều, tuy tiết trời có đôi chút oi bức, song xuống núi quả thật là nhẹ nhõm hơn rất nhiều. Cát Lợi Nhi ở phía trước, vừa ngâm nga khúc hát quê hương vừa đi như bay xuống núi.

Liễu Dật đi ngay phía sau, thấy Cát Lợi Nhi đi nhanh như vậy rất sợ nàng bị trượt chân lại trở thành chiếc vòng bánh xe lăn xuống dưới nên đã bảo mấy lần nhưng Cát Lợi Nhi đều không nghe, mà càng đi càng nhanh. Hai người lúc leo lên núi mất đến gần bốn canh giờ, xuống núi chỉ dùng không đến hai canh giờ.

Xuống đến chân núi, đã có thể trông thấy ba gian nhà cỏ, Cát Lợi Nhi vui mừng tót đến bên Liễu Dật: “Ha ha, chúng ta đi nhanh quá, chỉ mất có hai ngày, thông thường muội đi hái những thứ thuốc này, một mình lên núi phải ở mất nửa tháng.” Nói đoạn, cũng không chờ Liễu Dật trả lời đã chạy về phía ngôi nhà cỏ.

Liễu Dật chỉ còn biết lắc đầu, đi theo về phía ngôi nhà cỏ.

Vừa vào đến sân đã thấy Đại Đao Vương đang đánh cờ với Mạc Anh, vừa đánh cờ vừa uống trà, trông rất tự tại. Điều này khiến Liễu Dật cảm thấy hơi bực, mình vừa mới đến đây lão Mạc đã bắt đi hái thuốc, còn Đại Đao Vương đến thì lại nhàn hạ ngồi đánh cờ, rồi lại còn uống trà nữa.

Liễu Dật bước đến bên hai người, chào Mạc Anh, vừa định mở miệng thì Lão Mạc lên tiếng: “Ngồi đi!”

Liễu Dật ngồi xuống, nghĩ thầm: “Cũng không biết là do tính nết của lão ông này kì quái hay là do mồm mép của Đại Đao Vương này lợi hại, xem ra cả hai người đều có vấn đề.”

Đúng lúc ấy, Đại Đao Vương vừa chuyên tâm quan sát thế cờ vừa nói: “Liễu lão đại, việc huynh nhờ ta làm ta đã làm xong rồi, nếu như A Cửu cô nương không có ý kiến, ít nhất có thể ở đây ba tháng.”

Liễu Dật nhìn Đại Đao Vương một cách kinh ngạc, sao lại không sớm phát hiện một nhân tài như thế này nhỉ? Liễu Dật vội hỏi: “Sao ngươi lại về nhanh thế, chỉ muộn hơn chúng ta có hai ngày.”

Đại Đao Vương vừa tiếp tục nhìn nước cờ vừa nói: “Không phải là ta nhanh mà là các huynh chậm chạp, ta đã đi cả ngày lẫn đêm, đã thay mười hai con ngựa Hãn Huyết, ngày đi hàng nghìn dặm, đêm đi tám trăm dặm, huynh nói xem không nhanh sao được?”

Liễu Dật càng kinh ngạc hơn, cười nói: “Tốt, tốt, rất có trách nhiệm, sau này có việc gì ta nhất định thuê ngươi với giá cao.”

Đại Đao Vương vừa nghe nói đến giá cao, lập tức rời mắt khỏi bàn cờ, quay đầu lại: “Bao nhiêu?”

Liễu Dật toát mồ hôi, trả lời: “Điều này... phải xem tầm quan trọng của công việc như thế nào, nhưng lần này thực sự là ngươi đã rất nhanh nhẹn, ta rất vui.”

Khi ấy, Mạc Anh im lặng suốt từ nãy giờ mới lên tiếng: “Anh bạn trẻ, ngươi cũng rất nhanh đấy, mới có hai ngày mà đã cùng với Lan San hái đủ thuốc, khá lắm, ta cũng rất mừng, hà hà.” Nói đoạn lại làm một ngụm trà.

Liễu Dật xoa xoa tay khiêm tốn đáp: “Mạc thần y đã quá khen, chẳng qua là chúng ta gặp vận may đó thôi.”

Đại Đao Vương cũng làm một ngụm trà, vừa đánh cờ vừa nói: “Liễu lão đại này, Mạc đại ca khen huynh, huynh nhận là được rồi, khiêm tốn làm gì? Khiêm tốn quá mức sẽ thành giả tạo đấy.”

Mạc Anh cũng cười mà rằng: “Đại Đao huynh đệ nói rất phải, lão ghét nhất là những người giả dối.” Liễu Dật có chút bối rối, không hiểu ra làm sao, sao hai người lại xưng huynh đệ với nhau, hoàn toàn không xem mình ra gì? Liễu Dật đành phải đứng dậy nói: “Ta đi thăm Thập Kiệt Nhất và A Cửu đây, hai người cứ nói chuyện nhé.”

Mạc Anh gật gật đầu, vừa đi một nước cờ vừa nói: “Lần này thuốc đã hái đủ, nếu như không có gì, A Cửu nằm thêm bảy ngày nữa là không sao, không cần đến ba tháng.”

Liễu Dật cười giả lả: “Dạ, dạ, đa tạ Mạc tiền bối.”

Nhưng Mạc Anh lại không nói gì, rõ ràng là Mạc lão đầu không có ấn tượng tốt về Liễu Dật, còn Liễu Dật cũng không để ý, quay người đi về gian nhà cỏ ở giữa.

Thời gian hai ngày bảo dài cũng không dài, bảo ngắn cũng không phải ngắn, nhưng Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất từ nhỏ đến lớn chưa hề rời nhau, phải nói hai ngày này thực sự là rất nhớ tay tiểu tử ngốc Thập Kiệt Nhất này.

Khẽ vén bức rèm cửa bước vào, căn phòng rất gọn gàng, Thập Kiệt Nhất đang ngủ gục trên cái bàn bên cạnh giường A Cửu, Liễu Dật nghĩ thầm: “Tay ngốc này, xem ra hai ngày này đã thấm mệt rồi.”

Liễu Dật nhẹ nhàng chuyển bước ra ngoài, chợt thấy Thập Kiệt Nhất quay ngoắt đầu lại: “Ai?” Thật không ngờ mới hai ngày không gặp, võ công của hắn lại tiến bộ nhanh thế, không biết sư phụ hắn dạy hắn bằng cách nào, không luyện công mà cũng tiến bộ vượt bậc như thế.

Liễu Dật cười: “Là ta đây, không đến mức ngay cả đại ca ngươi ngươi cũng quên rồi à?”

Thập Kiệt Nhất dụi mắt: “Đại ca, huynh về rồi, thế nào, có hái được đủ thuốc không?”

Liễu Dật ngồi xuống bên bàn, tự rót cho mình một cốc trà: “Hây, đã hái đủ rồi. Mạc tiền bối nói A Cửu chỉ nằm thêm ba ngày nữa là có thể khỏi rồi”.

Uống thêm ngụm trà, Liễu Dật lại tiếp: “Nàng ta sao rồi? Sao lại cứ nhắm mắt mãi thế?”

Thập Kiệt Nhất đáp: “Mạc tiền bối nói phải phong kín phần lớn kinh mạch, huyệt đạo trên người nàng ấy, khiến nàng nằm yên như chết, như vậy Xích Long Trùng trong máu của nàng sẽ dần dần chết đi vì không có được chất dinh dưỡng và không khí cần thiết.”

Liễu Dật thiếu chút nữa thì phun cả nước trà ra ngoài, vội hỏi: “Như vậy nàng ta chẳng phải cũng sẽ chết sao?”

Thập Kiệt Nhất đáp: “Mạc thần y nói nếu như không muốn A Cửu chết thì phải xem các người có hái được Lưu Ly Thảo gì đó không.”

Khi ấy Liễu Dật mới hiểu ra vì sao Cát Lợi Nhi lại bảo Lưu Ly Thảo quý đến như vậy, hóa ra có thể quyết định sống chết của A Cửu là hoàn toàn dựa vào cây Lưu Ly Thảo ấy. Liễu Dật hỏi tiếp: “Vậy đệ đã nằm ở đây hai ngày rồi? Không mệt sao?”

Thập Kiệt Nhất cười hì hì: “Mệt chứ, sao lại không. Nhưng nhìn thấy người yêu quý của mình ở trước mặt, dù có vất vả nữa cũng hạnh phúc. Hì hì...”

Liễu Dật lắc lắc đầu, uống ngụm trà: “Đệ thật là...”

“Hai huynh đang nói gì mà vui thế?” Cát Lợi Nhi bưng một khay trên có đặt một cái bát lớn bốc hơi nghi ngút đi đến.

Liễu Dật nhắm mắt, vừa hít hà vừa khen: “Thơm quá, đó là món ngon gì vậy?”

Cát Lợi Nhi bưng ra một bát đầy, nói: “Canh nấm, đồ ngốc nhà huynh chẳng phải nằng nặc đòi ăn canh nấm do bản cô nương nấu sao? Đừng có nói là muội đã không nấu cho huynh đấy nhé.”

Thập Kiệt Nhất đứng phắt dậy, định giành ngay lấy bát canh trong tay Cát Lợi Nhi: “Thật đúng lúc, ta đói chết rồi đây, ha ha.”

Cát Lợi Nhi thấy Thập Kiệt Nhất có ý giành bát canh, hoảng hốt nói ngay: “Bát canh này không phải cho huynh, là mang cho Liễu đại ca, muốn ăn thì tự đi mà lấy.”

Nói rồi đưa bát canh đến trước mặt Liễu Dật, Thập Kiệt Nhất gườm gườm nói: “Đi lấy thì đi lấy, có gì là ghê gớm chứ, ta còn sợ trong bát canh của cô có độc cơ đấy.” Nói xong bèn đi thẳng qua căn phòng bên cạnh.

Cát Lợi Nhi vừa nghe vậy, sắc mặt trắng bệch, thúc: “Liễu đại ca, ăn đi cho nóng, đừng nghe gã hộ pháp ấy nói bừa.”

Liễu Dật nhìn vẻ mặt khác lạ của Cát Lợi Nhi, cho rằng Thập Kiệt Nhất đã chọc tức nàng, liền an ủi: “Đừng để ý đến Thập Kiệt Nhất, hắn tính thẳng ruột ngựa, nói nhưng không nghĩ gì đâu.”

Cát Lợi Nhi tươi tắn cười: “Đâu có, muội đâu có bực với Thập Kiệt Nhất đại ca, muội chỉ thấy huynh bảo là muốn ăn canh nấm, giờ muội đã nấu rồi, huynh lại không ăn.”

Liễu Dật vội đáp: “Ăn chứ, ăn chứ, bây giờ huynh sẽ ăn hết, món canh thơm ngon như vậy làm sao lại không ăn được chứ, hơn nữa lại là do đại tiểu thư Cát Lợi Nhi nấu.”

Nói rồi, cũng chẳng sợ bỏng, làm một mạch hết bát canh.

Nhìn Liễu Dật ăn hết canh trong bát, trên mặt Cát Lợi Nhi lộ ra vẻ thỏa mãn... dường như trong vẻ thỏa mãn ấy có chút gì đó giảo hoạt. Là cái gì đây? Chẳng lẽ trong canh thực sự có độc hay sao?

-oOo-

Hồi 33: Thiên niên chi chiến, Trảm Thiên Bạt Kiếm Thức

(Trận chiến nghìn năm, Thế kiếm chém trời)

Nếu như một người có thể chung sống với người mình yêu, dù là ở trong ngôi nhà chật hẹp cũng hơn sống trong nhà cao cửa rộng.

(Cổ Long - Luận)

Thập Kiệt Nhất bưng một bát to đi thật nhanh từ trong ra, bộ dạng như đã hai ngày rồi chưa ăn gì vậy.

Liễu Dật nhìn thấy liền lớn tiếng: “Ôi! Đệ đã bê cả cái nồi ra đây đấy à?”

Thập Kiệt Nhất cười hì hì: “Đâu có, đây chỉ là cái bát to nhất ở đây thôi. Ngày nào cũng là mấy thứ canh nhạt nhẽo lõng bõng ấy ăn chán chết đi được”, nói xong cũng chẳng để ý gì đến Liễu Dật và Cát Lợi Nhi, chỉ cắm cúi vào cái bát của mình.

Liễu Dật đặt bát canh đã hết nhẵn xuống hỏi: “Đại Đao Vương và Mạc tiền bối hai người họ đã ăn chưa?”

Cát Lợi Nhi tươi cười: “Việc này huynh không phải lo, trước khi đem đến cho hai người, muội đã mang qua cho họ rồi.”

Liễu Dật cười: “Muội đúng là nha đầu quỷ quái. Nhưng mùi vị của món canh này thật sự rất ngon, sau này ai lấy được muội thì thật là có phúc.”

Cát Lợi Nhi vừa thu dọn vừa nói: “Vậy thì huynh lấy muội đi, sau này ngày nào muội cũng nấu những món ngon cho huynh ăn, ha ha.”

Liễu Dật chưa kịp lên tiếng, Thập Kiệt Nhất ở bên cạnh vừa thò đầu ra khỏi cái bát vừa nói: “Tốt quá! Lão đại, huynh lấy cô ấy, sau này đệ lại có món ngon để ăn rồi”, đoạn lại tiếp tục chúi đầu vào cái bát trông giống như cái chậu ấy.

Liễu Dật lắc đầu bất lực, chẳng biết nói gì thêm.

Cát Lợi Nhi nhìn Liễu Dật, hỏi: “Thế nào? Mệt rồi phải không? Hai ngày nay không được nghỉ ngơi tử tế, người ta dọn phòng để huynh ngủ một giấc cho khỏe nhé?”

Liễu Dật gật gù: “Tốt lắm, muội nhắc ta mới thật sự thấy mệt, có cảm giác như toàn thân không còn chút lực nào cả.”

Cát Lợi Nhi nhìn Thập Kiệt Nhất hỏi: “Thế còn Thập Nhất huynh thì sao? Phòng không có nhiều, huynh ngủ chung một phòng với huynh ấy nhé?”

Thập Kiệt Nhất lắc lắc đầu: “Không, ta ở đây là được rồi, ngồi đây cũng có thể ngủ được, hì hì.”

Cát Lợi Nhi tò mò nhìn Thập Kiệt Nhất: “Như thế huynh không mệt sao? Hay là tìm một cái giường nằm nghỉ một chút vậy.”

Thập Kiệt Nhất đặt cái bát khổng lồ lên bàn, lấy tay áo chùi mép: “Không mệt, ta ở đây là tốt rồi, lại tiện cho việc chăm sóc A Cửu.”

Liễu Dật phe phẩy quạt vài cái rồi nói với Cát Lợi Nhi: “Được rồi, muội đừng làm khó Thập Nhất nữa, mau mau đi tìm cho huynh một chỗ để ngủ đi.”

Cát Lợi Nhi đảo mắt một vòng, cười hì hì: “Hiểu rồi, đi theo muội!”, rồi lại làm ra vẻ khệnh khạng dẫn đường.

Liễu Dật theo sau, đến một gian phòng sát mép ngoài cùng. Trong phòng mọi thứ đều rất gọn gàng, sạch sẽ. Không đợi Cát Lợi Nhi lên tiếng, hắn đã lao đến chiếc giường, đặt lưng xuống và rằng: “Tốt rồi, ngủ thôi!”, nói xong liền nhắm mắt lại.

Cát Lợi Nhi nhìn Liễu Dật nằm trên giường, thì thào: “Thư sinh chết tiệt! Được rồi, huynh ngủ đi, lúc ăn cơm tối muội sẽ đến gọi huynh.”, đoạn quay người đi ra cửa.

oOo

Lại nói về Liễu Dật, hắn cảm thấy rất mệt. Không biết vì sao nhắm mắt vào là không còn chút sức lực nào để cử động, toàn thân mềm nhũn, dần dần mất đi tri giác.

Nếu như lúc này có người bước vào phòng, chắc chắn sẽ trông thấy trên thân thể Liễu Dật đang phát ra ánh sáng màu đỏ thẫm. Theo như cường độ ánh quang mà nói thì nguồn phát sáng chính là một phần tư miếng hồng ngọc đeo trên cổ Liễu Dật, cũng là miếng ngọc thần bí mà Tửu thúc tại Phong Ma Trấn đã tặng.

“Đây là đâu? Tại sao nơi này lại toàn là một màu đen, không có mặt trời, không có mặt trăng, không có tinh tú, xung quanh chẳng có gì cả, thậm chí ngay cả dưới chân mình cũng là khoảng không, chẳng thấy bất kì một thứ gì?”

Dần dần, phía trên Liễu Dật xuất hiện một bức tranh. Đó là hai người, không, ít nhất cũng không phải là người thường. Người bên phải cao to khỏe mạnh vô song, tay cầm một cây búa cũng kì lạ như chính bản thân người ấy, dưới chân không có thứ gì, treo lơ lửng trên không; Liễu Dật cố gắng mở to đôi mắt của mình nhưng vẫn không nhìn rõ hình dạng của người ấy.

Phía sau người cầm búa khổng lồ ấy đột nhiên xuất hiện mười hai người cưỡi chiến mã màu đen, người nào cũng mũ giáp vàng, lưng giắt trường kiếm, dàn hàng phía sau người ấy, tựa như một vị thần bảo vệ đến từ một hành tinh xa xăm nào đó.

Nhìn người đối diện, toàn một màu đen, xem cũng không biết khôi giáp được làm từ chất liệu gì, giống như áo da, nhưng lại cứ phát ra tiếng động của kim loại; tay mang găng màu đen, chân đi một đôi ủng cũng màu đen, tấm áo bào màu đen phía sau phất phơ, tay trái lúc nào cũng để trên chuôi thanh trường kiếm màu đen đeo ở lưng; đôi mắt lúc thì đỏ rực lên, lúc thì lại trở lại bình thường.

Người cầm búa bắt đầu lên tiếng: “Từ khi ta tỉnh lại cho đến giờ đã làm sai hai việc... Thứ nhất, đã tạo ra một thú thần không nên có pháp lực giống như mình. Thứ hai, đã tạo ra Ma tộc, quên đi sự tồn tại của Ma tộc thực sự, từ đó đã phạm phải sai lầm như ngày hôm nay.”

Người vận hắc y đối diện cười, dáng vẻ dường như rất quen nhưng Liễu Dật lại nhìn không rõ hình dáng, chỉ có thể nghe: “Ngươi quá tự đại rồi đấy! Trong vũ trụ, trong cõi càn khôn hỗn độn hai cực âm dương, đâu là định lý không thể xoay chuyển, cho dù thần thánh cũng không thể. Ma tộc thực không phải do ngươi tạo ra, mà là cùng tỉnh dậy với ngươi.”

Liễu Dật có thể cảm nhận thấy vẻ kinh ngạc của người cầm búa, chỉ nghe được: “Ta không hiểu những gì ngươi nói, nhưng ta có thể cho ngươi biết, ngươi đã làm ảnh hưởng đến sự cân bằng của tam giới, vì thế người phải biến khỏi cái thế giới này, tam giới lục đạo cũng không thuộc về ngươi.”

“Ha ha ha, cái cớ, đúng là cái cớ! Ngươi không thể cho phép vị thần có sức mạnh như ngươi xuất hiện, vì để đảm bảo vị trí cho mình buộc phải giết chết ta, đó chẳng phải là cân bằng hay không cân bằng gì hết.”

Người cầm búa bình tĩnh mà rằng: “Mặc ngươi hiểu thế nào cũng được. Hôm nay, chỉ có một việc ngươi có thể làm là hồn siêu phách lạc.” Nói rồi tay trái vung lên. Mười hai con chiến mã chở trên lưng mười hai kị sĩ giáp vàng phía sau hí lên một tiếng dài, lao về phía người mặc áo đen. Không hiểu vì sao, Liễu Dật bỗng nhiên cảm thấy như máu của mình đang sôi lên.

Mười hai người đi đối phó một người, mà cảm giác tệ hại hơn là người mặc áo đen ấy lại hết sức quen thuộc, y hệt như chính mình đang trải qua vậy.

Nhìn mười hai con chiến mã dũng mãnh lao đến, người mặc áo đen đã quay người bốn mươi lăm độ, khuỵu gối xuống, bàn tay mang găng đen từ từ tiếp cận chuôi thanh trường kiếm màu đen. Mỗi khi bàn tay tiến gần thanh kiếm thêm một tấc, hắn có cảm tưởng như sức mạnh của cơ thể lại tăng lên, dường như mỗi một cử động đều có thể xuất kiếm bất cứ lúc nào. Lúc này quanh người hắn lại phát ra ánh sáng màu xanh lục, tấm áo choàng màu đen phần phật bay trong gió, càng lúc càng mạnh.

Đúng lúc ấy, người cầm búa hét lớn: “Dừng lại, quay trở về!”

Hiển nhiên là ông ta ra lệnh cho mười hai kỵ sĩ kia.

Tuy vậy, do tốc độ quá nhanh chỉ có sáu người giật mạnh dây cương, tiếng ngựa hí dài, miễn cưỡng dừng lại; còn lại sáu người kia đã vượt lên, lúc này đã đến cách người mặc áo đen kia chừng ba trượng, họ tất nhiên là không dừng lại được và cũng không chần chừ, trong nháy mắt tuốt ra trường kiếm đeo trên lưng, chuẩn bị chiến đấu.

Người mặc đồ đen quát lớn một tiếng: “Trảm Thiên Bạt Kiếm chiêu thứ tư!”, một luồng sáng xanh lóe lên trước mặt sáu con ngựa.

Lúc này Liễu Dật đang quan sát người mặc đồ đen, tay phải của ông ta vẫn đặt trên chuôi kiếm, y như lúc nãy chưa hề động thủ, còn sáu thanh kiếm trên đầu dường như không định dừng lại, cứ hướng về phía ông ta chém tới.

Liễu Dật thét lớn: “Không... Đừng...”

-oOo-

Hồi 34: Song diện nhân, đàm hoa vi thùy hiện

(Người hai mặt, hoa tặng cho ai? )

Trên đời này liệu có sức mạnh nào đáng sợ hơn sức mạnh của tình yêu?

(Cổ Long - Luận)

Phải tận hết sức Liễu Dật mới mở được mắt, bật tỉnh vùng dậy, cảm giác toàn thân ướt đẫm mồ hôi, hơi thở hồng hộc.

“Lão đại, huynh tỉnh lại rồi! Thật là làm chúng tôi sợ chết đi được.”, Thập Kiệt Nhất thảng thốt nói.

Liễu Dật còn đang lau mồ hôi đầm đìa trên trán, khi ấy mới phát hiện ra xung quanh giường mình đứng chật những người, nào là Mạc Anh, Cát Lợi Nhi, A Cửu, Thập Kiệt Nhất, Đại Đao Vương, tất cả đều có mặt.

Liễu Dật nhìn A Cửu lên tiếng: “Ôi chao... A Cửu đã khỏi bệnh rồi, nhanh vậy sao?”

Cát Lợi Nhi ngồi bên giường Liễu Dật phàn nàn: “Nhanh thế nào được, huynh đã ngủ suốt cả bốn hôm rồi, làm cho chúng tôi sợ chết đi được. A Cửu khỏi bệnh, huynh lại xảy ra chuyện...”

Mạc Anh cũng nói thêm vào: “Nếu như Liễu công tử không tự nhiên tỉnh lại, lão phu cũng hết cách. Xem ra mọi chuyện đều bình thường, chẳng có gì lạ cả, ta đúng là không có nơi để trổ tài.”

Mọi người bắt đầu bàn tán xôn xao, Liễu Dật vội hỏi Cát Lợi Nhi: “Muội bảo ta đã ngủ bốn ngày rồi sao?”

Cát Lợi Nhi liền gật đầu: “Đúng thế, huynh đã ngủ bốn ngày rồi, A Cửu tỷ tỷ cũng đã khỏi bệnh từ lâu.”

A Cửu chạy đến, ngồi xuống bên giường: “Ngốc tử, có phải huynh mệt quá không? Chúng ta lay gọi như thế huynh cũng phải biết chứ, cớ sao làm cách nào cũng không tỉnh là thế nào, khiến mọi người phải một phen sợ hãi.”, nói rồi lấy ra một chiếc khăn tay lau mồ hôi cho Liễu Dật.

Liễu Dật vội đỡ lấy chiếc khăn: “Để ta tự làm.”, liền cầm lấy tự lau mồ hôi trên trán.

A Cửu tiếp lời: “Lúc nãy hình như huynh mơ thấy ác mộng, miệng cứ hét lớn,‘không... đừng...’ cái gì đấy, phải thế không? Ngươi mơ thấy gì vậy?”

A Cửu vừa nhắc, Liễu Dật liền nhớ lại giấc mơ lúc nãy, cái người ấy rất đỗi quen thuộc, phải chăng chính là hắn?

Cát Lợi Nhi nghe thấy A Cửu vừa hỏi, Liễu Dật lại ngẩn người ra, vội lên tiếng: “Thư sinh! Thư sinh! Thôi đừng nghĩ ngợi nữa, dậy ăn chút gì đi.”

Liễu Dật vừa nghe nói đến ăn liền cảm thấy đói bụng, đã mấy ngày liền không ăn gì rồi, có thể không đói sao được.

Người trong phòng thưa dần, Đại Đao Vương và Mạc Anh tiếp tục ra ngoài đánh cờ, chỉ còn lại Liễu Dật, Cát Lợi Nhi, A Cửu và Thập Kiệt Nhất.

Liễu Dật bước xuống giường, lắc lắc đầu, uốn uốn lưng, ngồi xuống bên cạnh bàn, hỏi: “Cát Lợi Nhi lại nấu món ngon gì cho huynh ăn vậy?”

Cát Lợi Nhi bưng ra cơm canh đã được chuẩn bị từ trước: “Cơm canh này đều nấu từ sáng, bây giờ đã nguội mất rồi.”

Liễu Dật cười: “Không sao, huynh đang đói chết đi được đây, dù có nguội huynh cũng ăn được.”

Thập Kiệt Nhất nói: “Lão đại, huynh không biết đấy chứ, mấy ngày nay, hôm nào Cát Lợi Nhi cũng nấu món ngon cho huynh, nhưng huynh lại không tỉnh; đệ muốn ăn cô ấy cũng không cho, rốt cuộc đều đổ bỏ hết mà chẳng cho đệ; vì vậy mấy ngày này đệ đều phải húp cháo. Huynh nhìn này, có phải là đệ đã gầy đi không?”

Cát Lợi Nhi cười cười: “Thập Nhất ca, huynh phải chăng là có ý kể tội tôi?”

Vừa nghe, Thập Kiệt Nhất đỏ bừng cả mặt: “Ta... ta ... đâu có, ta chỉ cảm thấy bất công mà thôi, hê hê.”

A Cửu cũng ngồi xuống bên cạnh bàn, giọng hách dịch: “Chẳng qua là làm mấy món đơn giản này thôi sao, ngày mai hãy xem tôi trổ tài.”

Thập Kiệt Nhất xúc động: “A Cửu nấu ăn nhất định là rất ngon, hê hê.”

A Cửu nhìn Thập Kiệt Nhất, vừa đi vừa nói: “Tôi sẽ nấu cho anh ngốc này ăn, để xem món ăn của Cát Lợi Nhi muội muội với món do tôi nấu của ai ngon hơn. Hừm!”, nói đoạn quay ngoắt sang một bên.

Liễu Dật đang vội đút thức ăn vào miệng cũng dừng lại, nghĩ thầm: “Chuyện gì thế nhỉ? Mùi thuốc nổ sao lại đặc thế cơ chứ? A Cửu không biết lại đang giở trò gì nữa đây?”

Cát Lợi Nhi ngồi bên cạnh Liễu Dật cười cười, tuy thế xem ra cũng không giống cười, nói tiếp: “Được lắm, tiểu muội này cũng đang muốn xem tài nghệ nấu ăn của A Cửu tỷ tỷ. Thư sinh lúc nào cũng ăn món do muội nấu chắc cũng ngấy rồi, thay đổi khẩu vị cũng tốt.”

A Cửu cũng đáp lại một câu vẻ khinh miệt: “Cát Lợi Nhi muội muội, đến khi ấy anh ngốc này chỉ ăn món do tỷ nấu thì muội chớ có mà hối hận đấy.”

Liễu Dật càng nghe càng khó hiểu, hai người đang nói chuyện gì? Lẽ nào mình chính là con vật cưng, chỉ biết có ăn? Bọn họ lại nghiên cứu xem mình chỉ ăn món do ai nấu? Liễu Dật nuốt nốt miếng cơm cuối cùng trong miệng, đặt đũa xuống, nói: “Thật tuyệt, tôi no rồi.”

Cát Lợi Nhi hỏi: “Có ngon không?”

Liễu Dật gật gật đầu: “Cát Lợi Nhi nấu sao lại có thể không ngon được?”

A Cửu thấy hai người bắt đầu không còn để ý đến mình nữa, đứng dậy nói với Liễu Dật: “Đại ca ngốc, lần này A Cửu còn phải đa tạ ơn cứu mạng của huynh nữa đó, hôm sau nhất định sẽ có lễ vật hậu tạ.”

Liễu Dật vội lắc đầu, nói: “Ta chẳng qua chỉ đóng vai trò người dẫn đường thôi. Cô muốn cảm ơn thì cảm ơn Thập Nhất ấy, đệ ấy mới thực sự là đệ nhất công thần. Không có Thập Nhất, đừng nói đến chuyện cứu được cô, ngay cả ta và Đại Đao Vương đã phải bỏ mạng mấy lần trên núi rồi.”

Thập Kiệt Nhất vội cười: “Không cần... không cần đâu! A Cửu bình an vô sự là tốt rồi.”

Nói xong Liễu Dật quay sang cảm ơn Cát Lợi Nhi mấy ngày hôm nay đã chăm sóc cho mình.

A Cửu nhìn anh chàng ngốc không hiểu gì về sự đời, dậm chân: “Này, anh ngốc, tôi đã khỏe rồi, ngày mai chúng ta đi khỏi đây chứ?”

Liễu Dật vừa nghe nói thế vội nghĩ: “Phải rồi, A Cửu cô nương này là một trong các công chúa được Hoàng thượng yêu quý nhất, nếu như không đưa cô ấy về, sau này làm không được thì càng rắc rối to, tốt hơn là đưa cô ấy về trước đã.”

Liễu Dật gật gật đầu: “Ừ, được! Lát nữa cùng tôi đi bái tạ Mạc tiền bối, ngày mai trời sáng là chúng ta lên đường trở về Trung Nguyên.”

Sắc mặt Cát Lợi Nhi có chút thay đổi: “Thư sinh à, không ở thêm vài ngày nữa được sao? Làm gì mà vội đi thế?”

Liễu Dật ngoảnh đầu lại, đáp: “Không được, thực sự là việc rất gấp, không thể làm lỡ, ý tốt của Cát Lợi Nhi, Liễu Dật này xin ghi nhận.”

Cát Lợi Nhi đưa mắt qua nhìn A Cửu đang cười rất đắc ý.

Cát Lợi Nhi nghĩ bụng: “Cô nàng A Cửu này rõ ràng là có ý muốn giành anh chàng thư sinh này với mình.”

Đúng lúc Cát Lợi Nhi đang nghĩ, trong đầu vẳng đến tiếng của Na Lan: “Sao thế, gặp phải tình địch rồi hả?”

Cát Lợi Nhi đáp lại: “Nói lung tung! Tỷ không biết đâu, cái cô nha đầu đáng ghét này, thiên hạ biết bao nhiêu thư sinh lại cứ muốn tranh giành với người ta, thật tức chết đi được.”

Na Lan cười: “Yêu thật lòng phải có được cảm giác khắc cốt ghi tâm, không phải giống như điệu bộ của mấy người thế đâu. Ta đi ngủ đây, từ từ mà giành nhé.”

Liễu Dật nhìn Cát Lợi Nhi có những biểu hiện kì cục, liền hỏi: “Muội sao vậy?”

Cát Lợi Nhi lập tức trấn tĩnh lại, cười đáp: “Không sao! Mấy người đã vội vã như vậy thì Cát Lợi Nhi cũng không tiện nài ép nữa. Tối nay chúng ta phải uống một trận ra trò, nhân tiện thưởng thức xem tài nghệ nấu ăn của A Cửu tỷ tỷ.”

A Cửu nhìn ra ngoài trời, đáp lại: “Hừm, không còn sớm nữa, tôi đi chuẩn bị một chút, tối nay để mọi người thưởng thức tài nghệ của A Cửu tôi. Thập Nhất, đi theo tôi!”

Thập Kiệt Nhất chạy theo A Cửu ra ngoài.

Cát Lợi Nhi nhìn theo: “Xem ra nàng A Cửu này thực sự muốn chơi cả hai tay đây.”

Liễu Dật phe phẩy quạt: “A Cửu này là công chúa thứ chín được đương kim Hoàng thượng yêu chiều nhất. Vì sao Hoàng thượng yêu chiều cô ấy? Không chỉ bởi vì cô ấy biết cách làm cho Hoàng thượng vui, mà còn tinh thông cả cầm kì thi họa. Nghe nói, cái cô ấy giỏi nhất chính là nấu ăn, mà Hoàng thượng cũng thích ăn món ăn do A Cửu nấu nhất.”

Cát Lợi Nhi cười: “Xem ra lai lịch A Cửu tỷ tỷ cũng không vừa. Chúng ta đi thôi!”, đoạn kéo tay Liễu Dật chạy ra ngoài.

Liễu Dật vội hỏi: “Đi? Đi đâu cơ chứ?”

Cát Lợi Nhi kéo tay Liễu Dật, vừa chạy vừa cười: “Thư sinh ngốc này, chúng ta đi chuẩn bị cơm rượu, tối nay muội phải đấu với A Cửu, xem ai nấu ăn ngon hơn. Ha ha, huynh sẽ làm trọng tài.”

Liễu Dật theo sau, bỗng phía trước mặt bừng sáng, một khu đất bạt ngàn hoa vàng xuất hiện, cánh hoa bay ngập trời, không thể nhìn được biên giới của nó đến tận đâu nữa. Trong cánh rừng hoa ấy, Cát Lợi Nhi kéo tay Liễu Dật chạy, vừa chạy vừa cười.

Liễu Dật vội lắc lắc đầu, khung cảnh lúc nãy trong nháy mắt biến mất, mọi thứ lại trở lại bình thường, với cảnh bên ngoài ba gian nhà cỏ. Liễu Dật bắt đầu cảm thấy kì lạ.

Kể từ lúc đến đây, gặp Cát Lợi Nhi thì hắn bắt đầu cảm thấy có gì đó không bình thường, mơ thấy những giấc mơ không thể lý giải được...

-oOo-

Hồi 35: Hoa vi thùy khai, hựu vi thùy điêu tạ

(Hoa tàn, hoa nở vì ai? )

Nếu trông thấy đóa hoa trong tay mình héo úa, trong lòng khó mà tránh khỏi nuối tiếc, thậm chí sẽ cảm thấy có một nỗi buồn không nói thành lời

(Cổ Long - Luận)

Đi cùng với Cát Lợi Nhi đến phía sau ngôi nhà cỏ, Liễu Dật liền hỏi: “Sao lại đến đây làm gì?”

Cát Lợi Nhi tươi cười, lấy cái xẻng bên cạnh đó bắt đầu đào. Trong chốc lát, từng hũ từng hũ rượu theo cử động của nàng dần dần hiện lên trên mặt đất.

Cát Lợi Nhi phủi phủi hai tay rồi giao việc: “Hãy chuyển giúp số rượu này đến gian phòng bên cạnh là được, sau đó muội đi nấu ăn, huynh có thể nghỉ ngơi rồi.”

Liễu Dật vừa bắt tay vào làm vừa hỏi: “Hai tiểu thơ đều trổ tài nấu nướng một lượt, dụng cụ và nguyên liệu thế có đủ dùng hay không?”

Cát Lợi Nhi trả lời: “Đương nhiên là đủ, thường thì muội và gia gia vẫn thay phiên nhau nấu nướng, vì thế các thứ luôn được chuẩn bị sẵn cho cả hai nhà bếp.”

Liễu Dật vừa nói vừa cười: “Thật không ngờ, ba gian nhà cỏ trông không rộng lắm mà vật dụng lại đầy đủ như thế.”

Cát Lợi Nhi vừa bê một hũ rượu lớn vui vẻ đáp lời: “Là lẽ đương nhiên.”, nói rồi bước lên trước dẫn đường, hướng đến một gian nhà cỏ khác...

“Mười hai hũ, thật hay, chắc là sẽ đủ cho chúng ta uống tối nay.”, Cát Lợi Nhi tay đếm miệng nói.

Liễu Dật phe phẩy quạt bàn vào: “Muội thật biết nói chơi, hũ rượu lớn như vậy, mang cả mấy con ngựa kia lại cũng đủ uống nữa là huống hồ chỉ có mấy người chúng ta.”

Cát Lợi Nhi nhìn vẻ mặt nghiêm túc của Liễu Dật không nhịn được cười: “Sao thư sinh lại nói toàn những lời ngốc nghếch như thế, mấy con ngựa uống rượu thế nào được?”

Liễu Dật lại phe phẩy quạt, trả lời: “Huynh chẳng qua là làm một phép so sánh, ý nói mười hũ rượu thế này là đủ uống rồi.”

Cát Lợi Nhi gật gù, vỗ vỗ tay: “Thôi được rồi, được rồi, huynh ra ngoài đi để muội còn nấu nướng.”

Liễu Dật vội hỏi: “Sao thế? Muội không cần huynh giúp à?”

Cát Lợi Nhi lắc đầu: “Chỉ sợ huynh không biết làm gì, cứ lóng nga lóng ngóng trước mặt, càng giúp lại càng thêm bận. Đợi sau này khi nào chỉ có hai chúng ta ăn cơm riêng thì huynh phụ muội một tay cũng không muộn. ”

Liễu Dật gật đầu: “Thế cũng được, có lẽ huynh ở đây cũng chẳng làm được gì, sau này không có ai so tài với muội nữa thì huynh sẽ giúp, ha ha...”

Cát Lợi Nhi không nói gì chỉ gật đầu. Liễu Dật liền quay người đi ra ngoài.

Mặt trời đã lặn ở phía tây, hoàng hôn nhuộm đỏ chân trời, cầu con, suối nhỏ, nhà dân, quả là một bức tranh đặc sắc. Nhìn cảnh Mạc Anh và Đại Đao Vương đang chơi cờ; Thập Kiệt Nhất và A Cửu bận bịu đầu tắt mặt tối; Cát Lợi Nhi cũng đang khẩn trương tay dao tay thớt, tất cả dệt nên khung cảnh thật yên bình. Liễu Dật không cầm được cảm xúc: “Nếu đời người thực sự hoàn mĩ như vậy, ta nguyện sống nốt nửa cuộc đời còn lại ở nơi nước chảy qua cầu này.”

Liễu Dật men theo con sông nhỏ đến bên bờ hồ, lặng lẽ ngồi xuống, ngắm cảnh mặt trời từ từ lặn phía trời tây, hoàng hôn đỏ rực, thật là mỹ cảnh nhân gian …

Liễu Dật bỗng dưng nhìn xuống mặt hồ, chợt thấy trong làn nước hiện lên hình ảnh một bức tranh với hoa vàng bạt ngàn trải dài như vô tận, từ đây thả mắt nhìn không thể thấy được ranh giới của biển hoa ấy; nơi đó có hai người, một nam một nữ, đang ngồi bên nhau, tuy không trông rõ hình dáng song lại có thể cảm nhận nỗi bi thương lẫn hoan lạc chất chứa trong lòng họ. Bức tranh ấy rất dường như đỗi quen thuộc... phải chăng… lúc Cát Lợi Nhi kéo tay mình cùng chạy, cũng đã nhìn thấy bức tranh ấy... đúng không?

Liễu Dật chăm chú nhìn vào bóng nước, chàng muốn xem cho rõ hơn. Đúng lúc ấy, mặt nước "pưng" lên một tiếng rồi nổi lên mấy gợn sóng nhỏ, Liễu Dật quay đầu lại, nhìn thấy Cát Lợi Nhi đang cầm mấy viên sỏi nhỏ trên tay, miệng cười khúc khích.

Liễu Dật chạm phải ánh mắt của Cát Lợi Nhi thì dừng lại, bởi lẽ chàng chợt phát hiện đôi mắt của Cát Lợi Nhi dường như rất đỗi thân thuộc. Cuối cùng chàng cũng đã nhận ra, từ lúc đến nơi đây, những hình ảnh xuất hiện trước mặt chàng, trên vách Huyền Nhai, Nguyệt Thương Sơn, lúc Cát Lợi Nhi kéo tay mình chạy, chính là hai người xuất hiện trong bức tranh khi nãy.

Cát Lợi Nhi vui vẻ cười bước đến đến gần: “Này, thư sinh, sao lại ngẩn người ra vậy, huynh đang nghĩ gì thế?”

Lúc đi đến bên cạnh Liễu Dật, nàng lại thấy hai mắt của Liễu Dật cứ nhìn mình đau đáu không nhúc nhích, Cát Lợi Nhi liền lấy tay quơ quơ trước mặt Liễu Dật: “Này, thư sinh, đừng có dọa muội đấy nhé, sao huynh lại ngẩn người ra như thế?”

Liễu Dật chợt lắc đầu: “Đâu có gì.”

Nói rồi đưa tay lên vuốt nhẹ khuôn mặt bé nhỏ của Cát Lợi Nhi. Cảm giác ấy... phải rồi, chính là cái cảm giác quen thuộc, thân mật mà nữ tử trong bóng nước khi nãy đã gợi lên trong lòng chàng...

Bị bất ngờ, Cát Lợi Nhi cũng không biết nên làm gì, ấp úng hỏi: “Thư... thư sinh? Huynh ... huynh sao vậy?”

Cho dù Cát Lợi Nhi có là một người thoải mái, không câu nệ đi chăng nữa thì cũng không thể nào cảm thấy tự nhiên trước hành động của Liễu Dật.

Trong mắt Liễu Dật có vẻ ngân ngấn nước, không ai có thể nhìn rõ ánh mắt ấy của chàng, cũng không ai biết được có bao nhiêu bi thương và niềm vui trong đôi mắt ấy.

Cuối cùng Liễu Dật cũng buông tay xuống: “Tất cả đều đã qua rồi.”

Cát Lợi Nhi nhìn Liễu Dật vội hỏi: “Cái gì đã qua?”

Liễu Dật lắc đầu, hắn đã tỉnh táo hơn: “Cái gì đó đã qua, huynh cũng không biết nữa, đó là do miệng huynh thốt ra chẳng phải huynh nghĩ thế.”

Cát Lợi Nhi nhìn Liễu Dật, lắc đầu: “Thư sinh ngốc này thật là kì lạ. Đi thôi! Không hiểu tại sao lại có người ngồi một mình ở đây cả buổi thế, trời đã tối rồi, về ăn cơm thôi.”

Khi ấy Liễu Dật mới phát hiện trên đầu đã là cả một bầu trời sao. Không ngờ mình lại ngồi đây lâu như vậy, điều đó làm hắn có đôi chút phiền muộn, tự nhủ thầm: “Không hiểu mấy ngày nay làm sao ấy, hình như không giống với ta trước kia. Thế là thế nào nhỉ?”

Liễu Dật bừng tỉnh: “Vừa hay muội nói đến ăn cơm huynh mới thấy cũng đã đói bụng rồi.”

Cát Lợi Nhi kéo tay Liễu Dật, vừa đi vừa nói: “Thư sinh này, người ta không bảo ăn cơm thì huynh không thấy đói, người ta vừa nhắc đến ăn cơm thì huynh mới cảm thấy đói, nếu như không có ai ở bên cạnh, có phải là huynh sẽ bỏ ăn mà chết không nào?”

Liễu Dật cười xòa: “Vậy phải làm thế nào? Sau này không có người nhắc chắc huynh chết vì đói mất. Như vậy nhé, sau này Cát Lợi Nhi ngày nào cũng nhắc huynh ăn cơm nhé, ha ha...”

Cát Lợi Nhi vừa đi vừa cười: “Đựơc thôi, đến khi ấy nhất định phải để cho huynh ăn no béo mập mới được.”

Liễu Dật nghiêng đầu, trước mặt liền xuất hiện bức tranh “một chú lợn con béo mập đang nằm ngủ lăn trên đất, dãi rỏ dài đến ba tấc có dư”.

Hai người vừa đi vừa huyên thuyên, hướng về phía căn nhà cỏ. Đến nơi đã thấy mấy người họ đã bày sẵn một cái bàn lớn ở bên ngoài, bên cạnh còn chất một đống lửa to, ai cũng bận tới tấp, kẻ thì rót rượu, người thì bê thức ăn, thật là nhiệt náo.

A Cửu đang rót rượu cho Mạc Anh thì thấy Cát Lợi Nhi nắm tay Liễu Dật vừa cười vừa nói chạy đến, trong lòng tức tối, liền dậm chân, đặt mạnh hũ rượu xuống bàn: “Hừm, không cần ngươi phải phô trương.”, nói rồi đi về chỗ ngồi của mình.

Đại Đao Vương ghé sát Mạc Anh: “Mạc đại ca, sao đệ lại cảm thấy chua như dấm ấy?”

Mạc Anh khề khà: “Tuổi trẻ mà, bọn họ đều đang tuổi hoa niên, chuyện của chúng, ta cũng không nên quản thúc nhiều.”, xong tự đi rót rượu lấy.

Đại Đao Vương cũng tự cầm bát rót rượu cho mình.

Cát Lợi Nhi vừa kéo Liễu Dật đến trước bàn, Thập Kiệt Nhất vội lên tiếng: “Lão đại, huynh lại đi đâu vậy? Mấy ngày nay huynh có vẻ bất thường thế nào ấy? Hãy lại đây ngồi bên cạnh đệ, chớ có biến mất nữa nhé.”

Liễu Dật cười, cùng với Cát Lợi Nhi ngồi xuống. Đúng lúc ấy, A Cửu nói: “Thập Nhất, hai chúng ta hoán đổi vị trí cho nhau có được không?”

Thập Kiệt Nhất nhìn A Cửu, rồi lại nhìn Liễu Dật, vội vã gật đầu: “Được, được, được.”

A Cửu quả nhiên đổi chỗ cho Thập Kiệt Nhất, như thế tình hình đã phức tạp lên nhiều, Cát Lợi Nhi ngồi bên cạnh Liễu Dật, Liễu Dật ngồi cạnh A Cửu, còn A Cửu thì ngồi cạnh Thập Kiệt Nhất.

Đại Đao Vương xem tình thế cũng muốn hoán vị, bèn nói với Mạc Anh: “Hay là đệ ngồi bên phải huynh nhé, Mạc đại ca, đám trẻ thường dễ xúc động, lát nữa không chừng có ẩu đả cũng không phương hại đến huynh.”

Mạc Anh cười: “Ta có lòng tin đối với Cát Lợi Nhi. Thôi đừng để ý đến bọn chúng nữa, chúng ta uống rượu thôi.”

A Cửu đưa tay giành lấy hũ rượu Thập Kiệt Nhất đang cầm, quay sang rót cho Liễu Dật: “Liễu đại ca, nói thế nào thì A Cửu cũng hàm ơn cứu mạng của huynh. Nào, A Cửu kính huynh một chén.”, rồi lại rót cho mình một bát.

Thập Kiệt Nhất trố mắt nhìn A Cửu, lắc đầu: “Thập Nhất có ý với A Cửu, A Cửu lại vô tâm với Thập Nhất. Mệnh khổ, đúng là mệnh khổ!”, đoạn giành lấy tĩnh rượu trên tay Đại Đao Vương uống ừng ực.

Thập Kiệt Nhất tuy là con người thô lỗ nhưng theo Liễu Dật một thời gian lâu như vậy, ngày nào cũng được nghe không ít thơ văn, chỉ là nghe không đầy đủ vì thế sửa mãi lại sửa thành như vậy

Liễu Dật nâng bát lên: “Ta đã nói rồi, muốn cảm ơn thì phải cảm ơn Thập Nhất đây.”

A Cửu mỉm cười: “Thập Nhất đại ca, ta nhất định sẽ cảm ơn, nhưng ta muốn chúng ta cạn chung này, bởi vì hiện giờ người ta đang cảm ơn huynh cơ mà.”

Liễu Dật vội gật đầu: “Được.”, liền uống cạn rượu trong chén.

Uống xong chỉ cảm thấy trong miệng vừa cay cay, lại thơm thơm, quả là rượu quý đã được cất giữ nhiều năm, so với rượu ở Trung Nguyên còn mạnh hơn nhiều lần; huống hồ Liễu Dật thông thường cũng rất ít uống rượu, khi đó không thể không thốt lên hai chữ: “Hảo tửu.”

Cát Lợi Nhi lập tức gắp rau từ đĩa bên cạnh bỏ vào bát của Liễu Dật: “Nào, thư sinh, dùng thức ăn đi, nếm thử món do muội nấu xem.”

Có lẽ A Cửu không thích hợp với loại rượu này, chỉ nhấp nhấp một ngụm nhỏ, rồi cũng gắp một miếng cá, bỏ vào trong bát của Liễu Dật, vừa nhìn Cát Lợi Nhi vừa cười bảo: “Anh ngốc càng ăn rau sẽ càng ngốc đó. Nào, nếm thử món cá A Cửu ta làm xem nào.”

Cát Lợi Nhi cũng vội lại đưa đũa gắp một miếng thịt gà: “Thư sinh, hãy thử món gà hầm của muội xem.”

A Cửu: “...”

Cứ như thế, mỗi người một đôi đũa bắt đầu thi thố, trong khi đó bát của Liễu Dật càng lúc càng đầy; để thức ăn trong bát khỏi bị rớt ra ngoài, Liễu Dật chỉ còn có cách ăn cho thật nhanh.

Đại Đao Vương nhìn ba người rồi nói với Mạc Anh: “Đã có thể cảm nhận được sát khí rồi, xem ra tình hình thật không ổn cho lắm.”

Mạc Anh cười: “Ta đặt một nghìn lượng, Cát Lợi Nhi thắng.”

Đại Đao Vương nhìn Mạc Anh đáp: “A Cửu tương đối cũng có thực lực... đệ theo huynh, đặt A Cửu một nghìn lượng, A Cửu thắng.”

Hai người đã bắt đầu đặt cược cho tình cảm. Lại nói đến Thập Kiệt Nhất, hắn sớm đã ôm vò rượu gục xuống dưới bàn rồi.

Liễu Dật quả thật có chút không thể chịu đựng nổi nữa, liền giơ tay cản: “Dừng! Hức hức, không cần gắp thức ăn nữa đâu, ta sắp no đến vỡ bụng rồi đây.”

A Cửu vội cướp lời hỏi: “Ngốc tử nói mau, có phải mấy món ta nấu ngon hơn không?”

Liếu Dật gật gật đầu: “Rất ngon, rất ngon.”

Cát Lợi Nhi nào chịu kém: “Món của muội thì sao?”

Liễu Dật cũng gật gật đầu: “Rất tuyệt, rất tuyệt.”

A Cửu bực mình bảo: “Rốt cuộc là món của ai ngon hơn?”

Cát Lợi Nhi rót đầy rượu vào bát của mình, bưng lên mời: “Cát Lợi Nhi luôn cho rằng món ăn do mình làm không ai có thể sánh bằng, không ngờ mấy món do A Cửu tỷ tỷ nấu cũng rất tuyệt hảo. Tốt lắm, Cát Lợi Nhi này kính A Cửu tỷ một chung.”, nói xong liền nâng chén uống cạn.

A Cửu vốn đã bực mình, nay Cát Lợi Nhi lại công khai khiêu chiến với mình nên đâu chịu nhận thua, với lấy hũ rượu tự tay rót đầy: “Cát Lợi Nhi muội đã hào sảng như thế, A Cửu cũng kính muội một chung.”, rồi nín hơi cố uống cạn chén.

Cát Lợi Nhi lại rót đầy chén của mình: “A Cửu tỷ quả là chân nhân bất lộ tướng, tửu lượng khá như vậy thì đêm nay Cát Lợi Nhi sẽ uống với tỷ cho thỏa thích.”, đoạn lại cạn luôn một hơi.

A Cửu cũng không vừa, liền nghênh tiếp cuộc khiêu chiến của Cát Lợi Nhi. Còn phải nói, hai người đã bắt đầu vào cuộc.

Đại Đao Vương lắc đầu nghĩ thầm: “Cứ tiếp tục như thế này mình sẽ thua mất một nghìn lượng thôi. A Cửu chỉ một lát là bị chuốc say, đã say rồi thì còn hy vọng gì nữa chứ?”

Nghĩ thế, Đại Đao Vương liền nói: “Mạc đại ca, có thể thay đổi được không?”

Mạc Anh lắc lắc đầu: “Ngươi đổi ý hay sao, không có kẻ thua thì còn gì vui nữa? Hãy xem kìa!”

Quả nhiên không ngoài dự liệu của Đại Đao Vương, chưa được nửa canh giờ, A Cửu đã say bí tỉ, gục nốt xuống bàn theo Thập Kiệt Nhất.

Chỉ còn lại Cát Lợi Nhi, đương nhiên cũng đã uống không ít rượu, mặt nàng đỏ lựng như trái táo, bây giờ đã bắt đầu chỉ đông nói tây, lớn tiếng gọi: “A Cửu tỷ tỷ, phải chăng là không muốn uống nữa rồi? Tỷ biến đâu mất thế? Sao muội không thấy tỷ đâu cả.”

Liễu Dật vội lôi Cát Lợi Nhi lại: “Thôi được rồi, nha đầu ngươi sao lại như thế, đừng uống nữa nào.”

Cát Lợi Nhi bị Liễu Dật kéo lại thì dừng ngay, đăm đăm nhìn Liễu Dật, rồi bỗng nhiên lên tiếng: “Nào, hãy cùng muội đến một nơi.”, rồi cũng không cần biết hai chân có còn nghe lời nữa hay không, vội kéo Liễu Dật chạy đi.

Liễu Dật chẳng biết phải chăng là Cát Lợi Nhi đã uống quá nhiều, chỉ thấy mình bị kéo chạy ra phía sau ngôi nhà cỏ, bên cạnh một con suối nhỏ nơi góc núi, con suối này rộng chừng hai trượng, gọi là sông nhỏ cũng không sai.

Cát Lợi Nhi buông tay Liễu Dật ra, duỗi chiếc lưng nhỏ: “Nhìn kìa, nơi này chính là của riêng muội, từng con suối nhỏ, nhánh cây, ngọn cỏ, hòn đá đều là của Cát Lợi Nhi này.”

Liễu Dật cảm thấy hơi buồn cười: “Những thứ này vốn rất tầm thường, hơn nữa cũng rất tự nhiên, rất bình thường.”

Cát Lợi Nhi quay đi, nhìn trăng sáng trên trời, đột nhiên hỏi: “Thư sinh, huynh nói xem trong thế giới này thực sự có chân trời góc bể chăng?”

Liễu Dật đang ngồi xổm xuống bên bờ suối, đột nhiên nghe thấy Cát Lợi Nhi hỏi một câu như vậy. Đương nhiên, chân trời góc bể chàng cũng không biết liệu có thực sự tồn tại hay không, thế nhưng lúc gặp Hồ yêu, nàng ta cũng đã từng nhắc đến, vậy có lẽ là có.

Liễu Dật trả lời: “Có lẽ có đấy.”

Cát Lợi Nhi tiếp tục hỏi những câu không đâu vào đâu: “Vậy lần này huynh đi có còn trở lại thăm Cát Lợi Nhi không?”

Liễu Dật gật gật đầu: “Đương nhiên là có, phải chăng muội đã uống quá nhiều rồi? Sao lại hỏi những câu như thế chứ?”

Không thấy Cát Lợi Nhi có biểu hiện gì, chỉ nghe nàng tiếp tục hỏi: “Thế thư sinh có thích Cát Lợi Nhi không?”

Câu hỏi này tựa như ánh chớp từ trên trời xẹt xuống làm cho Liễu Dật không biết phải trả lời như thế nào, chỉ đành ấp a ấp úng: “Việc này...”

Liễu Dật biết mình cũng thích nha đầu này, nhưng bất cứ câu nói có trách nhiệm nào đều cần phải có dũng khí, vì thế Liễu Dật chỉ lặng im không nói gì.

Cát Lợi Nhi tiếp tục hỏi: “Như vậy nghĩa là thư sinh thích A Cửu tỷ tỷ rồi?”

Liễu Dật vẫn cứ nhìn nước suối chảy, khoảnh khắc yên tĩnh đã bị hai câu nói của Cát Lợi Nhi làm cho xáo động …

Cát Lợi Nhi ngẩng đầu lên, lặng im một hồi rồi nói tiếp: “Cát Lợi Nhi rất thích thư sinh, rất muốn được ở cùng thư sinh mãi mãi, cùng ngắm cảnh bình minh, hoàng hôn, cùng ngắm nhìn nước suối chảy, cùng ngắm sao thưởng nguyệt, cùng đi đến chân trời góc bể, cùng vui đùa dưới những cánh rừng hoa... Thật đấy!”

Không để ý đến Liễu Dật, Cát Lợi Nhi tiếp: “Cát Lợi Nhi không biết đó là cảm giác gì, chỉ biết rằng khi ở cùng thư sinh, Cát Lợi Nhi cảm thấy rất vui, rất vui. Thấy thư sinh cười là Cát Lợi Nhi cảm thấy hạnh phúc, nghe thư sinh nói là Cát Lợi Nhi cảm thấy cuộc sống thật tuyệt diệu. Không biết là từ khi nào đã bắt đầu có thứ cảm giác như thế, nếu đó là tình yêu, muội hy vọng nó sẽ hoàn mĩ, là của cả hai người. Nếu như hỏi tình yêu mà muội hy vọng là như thế nào, vậy muội nghĩ, đó là sự khắc cốt ghi tâm. Yêu huynh cũng không hề có lí do nào cả. Yêu huynh, muội cũng không thể kiềm chế được mình, tựa hồ như bước vào một sa mạc cát mà không thể cưỡng lại được; yêu huynh làm muội không biết phải làm gì, lo sợ vô cùng. Từng cử chỉ hành động của huynh đều lay động trái tim muội, làm cho muội cảm nhận được vẻ muôn màu của thế giới. Ngày mai, huynh sẽ rời xa nơi này, Cát Lợi Nhi có rất nhiều lời muốn nói với huynh...”

Liễu Dật thở dài: “Cát Lợi Nhi là một cô gái rất tốt...”

Cát Lợi Nhi quay mạnh đầu lại, hét lớn: “Không! Cát Lợi Nhi không phải là một cô gái tốt, Cát Lợi Nhi là một kẻ ích kỉ, huynh biết không? Lúc chúng ta xuống núi, muội đã nấu canh nấm cho huynh, nhưng... muội đã hạ độc vào trong canh. Đều tại Cát Lợi Nhi không tốt, là Cát Lợi Nhi sai, Cát Lợi Nhi thật xấu xa...”, nước mắt Cát Lợi Nhi cứ thế tuôn rơi, dưới ánh trăng tựa như những hạt thủy tinh trong suốt, long lanh.

Liễu Dật đứng dậy, nhìn Cát Lợi Nhi cười: “Cát Lợi Nhi là một cô gái tốt. Nói cho thư sinh biết, Cát Lợi Nhi đã hạ độc gì, sao lại không hại chết tên thư sinh ngốc nghếch như ta?”

Cát Lợi Nhi nhìn Liễu Dật, nàng rất muốn cười nhưng lại không cười được vì nàng biết, đây có thể sẽ là lần cuối cùng hai người nói chuyện, sau này có lẽ không còn cơ hội gặp mặt nữa... nghe xong lời của nàng, Liễu Dật có thể sẽ ra đi mà không bao giờ trở lại.

“Cát Lợi Nhi chỉ là một cô gái bình thường, chỉ muốn được hưởng thụ chút quyền lợi mà cuộc sống đã ban tặng, mở rộng lòng mình để yêu, để đau khổ, để bi thương, đểcảm nhận, để hưởng thụ tình yêu. Cát Lợi Nhi cũng là một cô gái ích kỉ, sợ mất đi tình yêu của mình, đã dám hạ độc lên cả tình yêu.

Trên người huynh không phải là thuốc độc mà là trùng, một loại “Tình Cổ” của dân tộc Miêu và chỉ có con gái Miêu mới có; chính là dùng máu và trùng để luyện thành, mỗi ngày dùng máu để nuôi, mười năm mới được một con “Tình Cổ”. Tình Cổ này có thể bỏ vào trong thức ăn, cũng có thể bỏ lên y phục, con gái Miêu đều thả vật này lên người tình lang của mình.”

Liễu Dật không nói gì, chỉ phe phẩy chiếc quạt rồi tiếp tục nghe.

Còn Cát Lợi Nhi thì nhìn Liễu Dật một cái, rồi lại nói tiếp: “Tình Cổ là do máu của muội luyện thành, nay đã kí sinh ở nơi sâu thẳm trái tim huynh, mỗi tháng Tình Cổ sẽ phát tác một lần, cái thứ cảm giác đó có thể nói là xé tim. Muội từng nghe người trong tộc kể lại, ai đã trúng phải Tình Cổ nếu như không uống thuốc giải, khi Tình Cổ phát tác, đại đa số những người không chịu được cơn đau đã tự sát.”

Cát Lợi Nhi tiếp: “Đương nhiên, nếu trúng phải Tình Cổ trong vòng một năm không uống thuốc giải, Tình Cổ sẽ chết khô trong sâu thẳm trái tim tình lang; và cùng với sự tan biến của Tình Cổ, chủ nhân của nó cũng sẽ biến mất trên thế giới này. Cái chết này vô cùng đau khổ, vì nếu như một ai đó có thể chịu đựng trong một năm, điều đó cho thấy một điều, hắn hoàn toàn không yêu cô ta, thà chết vì đau khổ cũng không chịu yêu cô ta. Tuy nhiên, thứ Tình Cổ này xem ra có vẻ rất lợi hại, nhưng thuốc giải của nó thì lại rất đơn giản, chỉ cần một giọt máu tươi của tình nhân, mỗi tháng một giọt là có thể giải bỏ cơn đau, hoặc là... huynh giết chết muội, Tình Cổ sẽ tự tan biến.”

Cát Lợi Nhi nói một mạch hết những lời này, đã khóc hết nước mắt, ngẩng đầu lên nhìn trăng sáng trên trời xanh, nàng còn có cách gì khác hơn?

Tình yêu vốn là một sự ích kỉ, một cái gì đó bất công, một cô gái đơn độc như vậy còn có thể làm gì được đây?

-oOo-

Hồi 36: Tiên tử phàm trần, A Cửu ngộ tình địch

(Tiên nữ hạ phàm, A Cửu gặp tình địch)

Muốn yêu cũng cần phải có dũng khí.

(Cổ Long - Luận)

Liễu Dật đứng dậy buông một tiếng thở dài, tay phe phẩy quạt rồi khẽ mỉm cười: “Sao Cát Lợi Nhi lại ngốc như thế? Nếu mất muội rồi, sau này ai sẽ nấu các món ngon cho ta?”

Đôi mắt chàng ngấn lệ nhìn Cát Lợi Nhi một cách trìu mến.

Dũng khí của Liễu Dật là do Cát Lợi Nhi đem đến, trái tim của Liễu Dật đã bị Cát Lợi Nhi ràng buộc. Tuy Cát Lợi Nhi không xinh đẹp như A Cửu, cũng không mỹ lệ bằng Thủy Nhi, thậm chí nhan sắc còn thua kém cả những a hoàn bên cạnh chàng như Băng Nhi, Thanh Nhi, thế nhưng Cát Lợi Nhi sở hữu một trái tim đã vì chàng mà lỗi nhịp, việc ngầm thả Tình Cổ trên người chàng đã tỏ rõ tấm chân tình của nàng, nhìn từ góc độ khác nàng chẳng phải là đáng yêu lắm sao? Những người đáng yêu chẳng phải là người đẹp nhất sao?

Cát Lợi Nhi kinh ngạc vội lau khô dòng lệ, chu miệng hỏi: “Thư sinh đang cảm thấy tội nghiệp cho Cát Lợi Nhi phải không?”

Liễu Dật lắc đầu: “Nếu những người tri tâm như vậy mà huynh không biết quý trọng, vậy Liễu Dật ta phải chăng là đã sống hoài trên cõi đời này?”

Sau khi chứng kiến mối tình của nhị yêu, Liễu Dật càng có thể nắm bắt được từng sợi tơ của cảm xúc, chàng không muốn bản thân mình cũng gặp phải những trắc trở như vậy.

Liễu Dật bước đến nhẹ nhàng ôm lấy Cát Lợi Nhi: “Huynh là người đọc sách Thánh hiền, nhưng từ nhỏ đã mơ ước cái mà người ta gọi là ái tình. Cũng lại có câu, hai người ở cùng nhau thì dễ, có thể chỉ là chuyện trong một khoảnh khắc, nhưng để được sống bên nhau thì lại khó, có thể chờ cả một đời.”

Cát Lợi Nhi ngẩng khuôn mặt đẫm nước mắt: “Huynh có sợ không? Sợ chúng ta sẽ không được sống bên nhau?”

Liễu Dật mỉm cười: “Cũng có thể, sự đời đâu phải đều như người ta muốn. Sau này cũng có thể xảy ra chuyện gì đó.”

Cát Lợi Nhi lau lau nước mắt: “Không sợ! Cát Lợi Nhi không sợ! Có thể được ở bên thư sinh, Cát Lợi Nhi không sợ gì cả.”

Liễu Dật gật đầu: “Vậy thì về sau làm phiền muội gọi ta dậy, ăn cơm rồi đi ngủ nhé.”

Cát Lợi Nhi cười vui vẻ: “Được thôi, được thôi! Thư sinh không nghe lời thì Cát Lợi Nhi sẽ đánh đòn đấy.”

Liễu Dật giúp Cát Lợi Nhi lau nước mắt nói: “Nha đầu ngốc, huynh còn phải đưa A Cửu trở về kinh thành... à phải rồi, huynh cũng đã nhận lời với Tửu thúc ở Phong Ma Trấn đi Thần Môn một chuyến, để giúp người ở Phong Ma Trấn trừ hại.”

Cát Lợi Nhi nhìn Liễu Dật mếu máo: “Vậy đến khi nào thư sinh mới có thể trở lại? Bắt Cát Lợi Nhi phải chờ bao lâu? Nếu chẳng may thư sinh vào hoàng cung làm phò mã thì Cát Lợi Nhi sẽ thế nào?”

Liễu Dật mỉm cười: “Sao lại có thể như vậy. Huynh đưa A Cửu về cung rồi sẽ quay lại lấy Cát Lợi Nhi làm thê tử kiếp này của Liễu Dật ta.”

Cát Lợi Nhi cười: “Nhưng A Cửu tỷ tỷ thích huynh như vậy, huynh không cảm nhận thấy sao? Lấy thêm một người nữa cũng đâu phải khó khăn gì.”

Liễu Dật liền nói: “Muội đừng đùa, một chút cảm giác với A Cửu ta cũng không có, nha đầu ấy ngang ngược muốn chết, hơn nữa Thập Kiệt Nhất cũng rất thích A Cửu... Đừng nhắc đến A Cửu nữa, như thể muội và nàng ta có thù với nhau vậy.”

Cát Lợi Nhi kiễng chân thơm Liễu Dật một cái: “Thật không? Nói như vậy là huynh có cảm tình với Cát Lợi Nhi, không có cảm tình với A Cửu rồi. Ha ha.”

Liễu Dật cười: “Đương nhiên rồi, nếu không muội thả Tình Cổ trên người ta, ta còn có thể chịu được sao?”

Cát Lợi Nhi cúi đầu xuống: “Muội sợ thư sinh đi rồi không trở lại nữa nên mới thả Tình Cổ, ai bảo muội lại thích huynh như thế chứ.”

Liễu Dật cười: “Được rồi, đừng nói nữa, ta đâu có trách muội, hơn nữa ta cũng chưa từng biết thế nào là đau lòng, lần này để ta thử chút cũng tốt mà.”

Cát Lợi Nhi vội lấy ra một cái bình sứ màu trắng: “Cho huynh này, muội mới không muốn huynh phải đau lòng, huynh đau lòng rồi, trái tim của Cát Lợi Nhi cũng sẽ đau.”

Liễu Dật cầm lấy chiếc bình rồi hỏi: “Thật không?”

Cát Lợi Nhi nói: “Đương nhiên rồi. Thứ Tình Cổ này dựa vào tâm huyết của muội mới có thể sống được, bây giờ nó ở trong trái tim huynh, nếu như huynh không uống máu của muội, thì hai chúng ta sẽ phải đau khổ.”

Liễu Dật chỉ chiếc bình sứ, hỏi: “Đây là cái gì thế?”

Cát Lợi Nhi đáp: “Là máu tươi của người yêu, mỗi tháng một giọt, đây là chiếc bình đặc biệt có thể đảm bảo cho huynh không bị đau trong vòng mười năm. Nhưng muội quên không nói với huynh, Tình Cổ này còn có một đặc điểm đó là vào ngày mùng bảy, nếu muội không ở bên huynh, nó sẽ phát tác một đêm, cho dù có máu tươi của người yêu cũng không ích gì.”

Liễu Dật cười: “Xem ra vật này cũng có tình với chủ nhân của nó lắm.”

Liễu Dật mở nắp bình ra, một hương thơm của hoa hồng thoảng tới, Liễu Dật cảm thấy lạ hỏi: “Đây chẳng phải là máu của muội sao? Sao lại có mùi hương hoa nhỉ?”

Cát Lợi Nhi cười: “Muội không muốn cho huynh uống thứ máu tươi đó, khó uống lắm. Đây là do muội luyện từ cách đặc biệt mà thành, trong đó có cánh hoa, phấn tằm, còn có cả huyết nữa. Mỗi lần một giọt, huynh đừng cho là thức uống mà uống hết đấy.”

Liễu Dật cười, đậy nắp bình lại, cất vào trong người: “Biết rồi, máu của người yêu, huynh cần phải giữ cẩn thận.”

Cát Lợi Nhi đi đến bờ suối, hai người ngồi xuống, Cát Lợi Nhi nói: “Nhìn kìa, đêm nay yên tĩnh quá!”

Liễu Dật đáp: “Đúng vậy, ngày mai lại bắt đầu dong ruổi khắp nơi rồi. Thật muốn nó sớm dừng lại, bây giờ huynh cảm thấy có chút mệt mỏi.”

Cát Lợi Nhi nhìn Liễu Dật: “Sao thư sinh lại sợ lao khổ, Cát Lợi Nhi ủng hộ huynh, mệt thì về nhà Cát Lợi Nhi sẽ đấm lưng cho huynh.”

Liễu Dật gật đầu: “Được, được.”

Cát Lợi Nhi tựa đầu vào vai Liễu Dật, nói: “Thư sinh, huynh nói xem, thế giới này thực sự có chân trời góc biển không?”

Liễu Dật lắc lắc đầu: “Huynh không biết, có lẽ có.”

Cát Lợi Nhi lại nói: “Người trong tộc nói, chỉ có những người thực lòng yêu đối phương mới có thể tìm thấy được chân trời góc biển, ở đó có hạnh phúc.”

Liễu Dật vuốt nhẹ mái tóc dài của Cát Lợi Nhi: “Làm xong những việc này, thư sinh ta nhất định sẽ đưa Cát Lợi Nhi đi tìm chân trời góc biển.”

Cát Lợi Nhi cười: “Muội còn muốn ngắm nhìn biển hoa, nơi mà chỉ có toàn là hoa thôi, muội cũng muốn đi ngắm trăng sao, nghe tiếng gió thổi. Ha ha, Cát Lợi Nhi đều muốn, đều thích...”

oOo

Dường như thời gian khi ấy lại trôi đi nhanh nhất, Cát Lợi Nhi tựa đầu vào vai Liễu Dật ngủ ngon lành. Liễu Dật cũng chợp mắt lúc nào không biết, đến khi tỉnh lại mặt trời đã quá đỉnh đầu.

Cát Lợi Nhi vẫn tựa trên vai chàng. Nhìn Cát Lợi Nhi say ngủ, Liễu Dật vòng tay ôm lấy nàng.

Đây là cái gì? Cảm tình ư? Nhưng đó không phải là tình yêu! Liễu Dật biết cảm giác của mình đối với Cát Lợi Nhi, đó chỉ đơn thuần là cảm mến, nhưng không phải yêu.

Trong cái tình cảm đó, chàng có thể tìm thấy được một cảm giác tương tự, cũng có thể tìm thấy hạnh phúc. Có lẽ chàng sẽ yêu Cát Lợi Nhi, nhưng điều đó cần có thời gian...

Khi ấy Cát Lợi Nhi cũng đã tỉnh dậy, nhìn thấy Liễu Dật đang ôm và nhìn mình, nàng cười, cười rất tươi, đó chính là hạnh phúc của Cát Lợi Nhi.

Hai người đứng dậy, lặng lẽ đi về phía ngôi nhà cỏ.

A Cửu thấy hai người chầm chậm đi về, quay lại nói với Thập Kiệt Nhất: “Bọn...bọn họ cả đêm không về!”

Thập Kiệt Nhất vò đầu: “Hình như là thế.”

A Cửu lấy sức dậm mạnh lên chân Thập Kiệt Nhất: “Hừm!”, rồi đi đến bên cạnh Mạc Anh, giọng bực tức: “Mạc thúc, bọn họ cả đêm không về.”

Mạc Anh dừng cuộc nói chuyện với Đại Đao Vương, quay lại: “Sao? Cát Lợi Nhi thường như vậy mà, nó lớn rồi cũng nên có cuộc sống riêng của mình, lẽ nào ta còn phải lo lắng suốt cả đời sao?”, nói xong lại quay đi, không biết là nói gì với Đại Đao Vương.

A Cửu dậm chân: “Hừm!”

Liễu Dật thấy mấy người đang tán ngẫu cũng bước lại chào...

A Cửu đi tới, mặt mày sầm sầm: “Ngốc ạ, đã đi đâu thế? Mọi người đều đang chờ, chuẩn bị khởi hành thôi.”

Liễu Dật gật đầu: “Ồ, vậy thì chúng ta chuẩn bị khởi hành.”

Thập Kiệt Nhất sớm đã dắt mấy con ngựa chuẩn bị sẵn đến, nói: “Lão đại, lương khô và nước đệ đều chuẩn bị cả rồi.”

Liễu Dật quay đầu lại nhìn Cát Lợi Nhi, cười: “Nha đầu, đợi huynh trở lại lấy muội nhé.”

Cát Lợi Nhi cười: “Được, được!”

A Cửu nghe thấy thế không thể chịu nổi, hai người lại có thể nói với nhau như vậy, rõ ràng là không xem cô ấy ra gì. Đang định nổi đóa, thì nghe thấy Đại Đao Vương nói: “A Cửu công chúa, mời lên ngựa, chuẩn bị khởi hành.”

A Cửu bực mình, quay người lên ngựa. Trong phút chốc bốn người đã chuẩn bị xong xuôi lên đường.

Cát Lợi Nhi muốn khóc nhưng lại nén không khóc ra, nhẹ nhàng nói: “Thư sinh, đừng quên trở lại thăm Cát Lợi Nhi nhé.”

Liễu Dật gật đầu: “Huynh không quên đâu.”

Rồi quay người, hai chân ép vào ngựa lao về phía đông để lại những đám bụi mờ mịt. Liễu Dật không dám tiếp tục chần chừ, chàng sợ, sợ phải nhìn thấy nước mắt của Cát Lợi Nhi, sợ thấy Cát Lợi Nhi đau lòng…

oOo

Ngựa phi thẳng một mạch, bụi bay mù trời. Đến gần Ngọ, Liễu Dật dừng lại: “Thế này vậy, chúng ta chia làm hai đường: “Đại Đao Vương đưa A Cửu về kinh thành, ta và Thập Kiệt Nhất đi đến núi Côn Lôn.”

Chưa đợi Đại Đao Vương lên tiếng, A Cửu đã không đồng ý rồi: “Ta không về kinh thành. Ta muốn cùng các người đi Côn Lôn chơi.”

Liễu Dật: “Chúng tôi không phải đi chơi, mà là đi mượn bảo vật giúp Phong Ma Trấn trừ hại.”

A Cửu: “Vậy ta cũng muốn đi, dù sao thì ta cũng chưa chơi đủ, không về kinh thành đâu.”

Liễu Dật nghe thấy vậy, có cái gì đó không tự nhiên, cô A Cửu này nếu không trở về, cả gia đình mình không khéo mất đầu, nhưng bây giờ cô ta không chịu về thì còn có cách nào khác? Nếu giữa đường xảy ra chuyện gì đó thì tội của mình càng lớn.

Khi ấy Đại Đao Vương lên tiếng: “Hoàng thượng đã nói rồi, A Cửu có thể ba tháng sau về Hoàng cung. Các người mỗi người lùi một bước, ba tháng sau đưa A Cửu về cung là được.”

A Cửu gật đầu: “Ồ, được, vậy thì ba tháng nữa trở về kinh thành vậy.”

Liễu Dật thấy đau đầu, bực mình: “Nhưng nếu sau ba tháng cô không chịu trở về thì sao?”

A Cửu cười: “Yên tâm đi, A Cửu này nói lời giữ lời, ba tháng sau nhất định trở về... Cùng lắm là về rồi lại trốn đi một chuyến nữa, vậy sẽ không liên can gì đến huynh nữa.”

Liễu Dật đành phải đồng ý: “Vậy thì đành thế thôi, nhưng cô đừng gây thêm rắc rối cho chúng tôi đấy.”

A Cửu vui mừng: “Chắc chắn rồi. Tôi vẫn chưa được thấy yêu quái lần nào cả, hi hi, lần này chắc được thỏa mắt rồi.”

Liễu Dật nhìn A Cửu, cảm thấy có gì lạ lạ làm sao ấy, lẽ nào cô ấy đến từ hành tinh khác? Sao vừa nói đến gặp yêu quái lại tỏ ra hạnh phúc như vậy?

Liễu Dật vung tay: “Chúng ta đi Côn Lôn.”

Cả đoàn người đổi hướng đi, họ hướng về phía tây bắc.

oOo

Núi Côn Lôn, còn gọi là Côn Lôn Hư, Côn Lôn Khâu hay Ngọc Sơn. Về quan niệm địa lý thì núi Côn Lôn bắt nguồn từ phía đông cao nguyên Paimil, bắc ngang qua vùng giữa Tân Cương và Tây Tạng, vươn dài đến vùng Thanh Hải, toàn bộ dãy núi dài khoảng hai ngàn năm trăm dặm.

Côn Lôn là từ mang đậm màu sắc thần bí, truyền kì, là nơi tộc Tiên cư trú hang triệu năm. Theo truyền thuyết thì trên Tiên tộc là Thần tộc, chúng thần ở trên núi Côn Lôn nhìn xuống mặt đất, còn những người trong tộc Tiên cũng có thể trở thành một thành viên trong Thần tộc.

Núi Côn Lôn trùng trùng điệp điệp. Trong rặng núi mênh mông ấy, có biết bao nhiêu kỳ trân dị bảo. Những thứ mà Tiên tộc cần, ở đây muốn gì được nấy, có cây bất tử, thuốc bất tử, nước bất tử, v...v... đồ trang sức thì dùng ngọc làm nguyên liệu chính. Song những điều này không phải là quan trọng nhất. Theo truyền thuyết, người trong Tiên tộc, chỉ cần tìm thấy cánh cửa thông với Thần tộc, sức mạnh sẽ được nâng lên gấp bội, sẽ trở thành những cao thủ tuyệt đỉnh. Nhưng cánh cửa ấy do Lục Ngũ Thần mình hổ chin đuôi, và con thổ lân bốn sừng, có vẻ giống con dê canh giữ. Tuy thế hàng triệu năm nay, thần môn chưa có ai đặt chân đến, vì vậy đã bắt đầu có người nghi ngờ thần môn không thực sự tồn tại.

“Lão đại, nơi này thật xa à, vừa mới đấy đã gần mười ngày rồi. Huynh nói xem, nếu chúng ta biết bay giống như Lang Vương thì hay biết bao.”, Thập Kiệt Nhất ngồi trên ngựa phàn nàn.

Liễu Dật cười: “Được rồi, đây cũng là lần cuối. Đợi sau khi làm xong việc này, đưa A Cửu về kinh thành, hành trình của chúng ta thế là kết thúc, lại còn yêu cầu cao như vậy, còn muốn biết bay?”

A Cửu chu miệng nói: “Huynh thích đưa tôi về như vậy sao?”

Liễu Dật cười: “Không đưa cô trở về, cả nhà tôi sẽ phải xui xẻo đấy.”

Đại Đao Vương gật đầu: “Đem cô theo bên cạnh như thể đem sinh mạng của cả nhà vậy.”

Bốn người vừa cười vừa nói, đã đến chân núi Côn Lôn, Liễu Dật hỏi: “Đại Đao Vương, núi Côn Lôn lớn như thế này, Thần Môn ở đâu?”

Đại Đao Vương: “Đây chẳng phải là có bậc thang sao? Có lẽ cứ theo bậc thang này là có thể nhìn thấy. Ta cũng chưa từng đến đây, đại môn phái này không phải là nơi mà những nhân vật nhỏ bé như chúng ta nên đến đâu. Thần Môn có lẽ ở phía ngoài núi này.”

Đúng lúc mọi người đang đoán già đoán non, thì phía trước mắt hoa lên, một cô gái từ rừng cây bên cạnh bay vụt ra, tay áo trắng phất phơ, tóc đen lùa theo gió, kéo theo từng đợt cánh hoa rụng xuống mặt đất. Một cô gái đẹp tuyệt mỹ xuất hiện trước mặt mọi người, khuôn mặt tròn, đôi mắt to, sống mũi cao, giống như là tiên nữ hạ phàm vậy, đẹp vô cùng.

Thập Kiệt Nhất thấy cô gái, vò vò đầu: “Lão đại, đệ thấy đệ hình như đã già rồi thì phải. Những người này sao đều biết bay cả nhỉ? Một cô gái nhỏ như vậy cũng biết bay, xem ra thế giới này thay đổi thật nhanh.”

Liễu Dật phe phẩy chiếc quạt, cười: “Ngươi vội cái gì, sớm muộn gì thì ngươi cũng có thể bay lên được thôi.”

Cô gái áo trắng kia vừa xuống đất, vui vẻ chạy đến nói: “Liễu công tử, sao lại là các huynh vậy? Đã lâu không gặp rồi, có còn nhớ Thủy Nhi không?”

Liễu Dật cười, vòng tay cung kính: “Thủy Nhi tiên tử, Liễu Dật làm sao quên được. Chỉ có điều tiên tử ngày càng xinh đẹp, ta thực sự có chút không dám nhận.”

Thủy Nhi cười: “Anh ngốc, tiên tử cái gì chứ, đã bảo gọi là Thủy Nhi được rồi.”

Liễu Dật cười và xuống ngựa

Ánh mắt của A Cửu dường như muốn giết người vậy, cô ấy xuống ngựa, giả bộ cười cười: “Ồ, vừa mới thoát khỏi chỗ Cát Lợi Nhi, bây giờ chẳng hiểu sao lại thêm cô Thủy Nhi nào nữa, sao không giới thiệu với tôi?”

Thủy Nhi trông bộ dạng đằng đằng sát khí của A Cửu, nói: “Vị này là ... ?”

Liễu Dật: “Bạn của tôi, A Cửu. Đừng để ý đến cô ấy, hai ngày vừa rồi không biết uống phải thứ thuốc gì, mùi thuốc rất nặng.”

Đột nhiên Liễu Dật cảm thấy eo của mình bị người ta châm cái gì vào, đau khủng khiếp. Thủy Nhi nhìn A Cửu, nói: “A Cửu tỷ tỷ phải bảo trọng thân thể, không nên ăn đồ linh tinh đó.”

A Cửu cứng họng không lời đáp trả: “Cô...”

Nói xong, Thủy Nhi quay sang Liễu Dật: “Liễu công tử, sao huynh lại đến núi Côn Lôn vậy?”

Liễu Dật lắc lắc đầu: “Nói ra thì dài lắm.”

Thủy Nhi nói: “Xem các người đã vất vả xuốt dọc đường rồi. Đã mệt lắm rồi phải không? Qua chỗ Thủy Nhi uống chén trà xanh đã, sau đó từ từ kể cho Thủy Nhi nghe.”

Liễu Dật gật đầu: “Cũng được.”, rồi đưa ngựa cho Đại Đao Vương dắt qua một bên. Mấy người đi theo Thủy Nhi lên núi.

A Cửu đi đằng sau phàn nàn: “Thư sinh đáng chết, thư sinh thối tha, sao lại số đào hoa thế không biết, vừa mới tiễn một cô Cát Lợi Nhi giờ lại xuất hiện một Thủy Nhi, phải chăng là nhất định muốn A Cửu này biến mất mới được? Ta càng phải tranh giành, ta không tin cái mà A Cửu này muốn lại có người cướp được của ta. Hưm!”

-oOo-

Hồi 37: Bái phỏng Thần Môn, phàm nhân phiền tâm sự

(Viếng Thần Môn, người phàm buồn chuyện lòng)

Chỉ có tình bạn thực sự mới mãi mãi sáng trong, mãi mãi tồn tại.

(Cổ Long - Luận)

Hương trà thật là thơm. Đúng là trà ngon, trà ngon.”, Liễu Dật vừa thưởng thức vừa khen trà của Thủy Nhi.

A Cửu nâng chén trà lên, làm một ngụm to, nói: “Hừm! Sao ta uống chẳng thấy mùi thơm gì cả, đây là trà gì vậy? Sao chán thế, thua xa trà ở Hoàng cung.”

Thủy Nhi nhìn A Cửu cố tình bới móc, mỉm cười: “A Cửu tỷ tỷ, đây chỉ là trà bình thường, có thể tỷ uống không quen, nhưng giữa nơi hoang vu này, Thủy Nhi cũng chỉ có loại trà này thôi, mong A Cửu tỷ tỷ bỏ quá.”

Liễu Dật nhìn A Cửu, không hiểu người gì nữa, rõ ràng là kẻ thích gây chiến mà; bên cạnh có mình Thập Kiệt Nhất là đủ rồi, bây giờ lại thêm cô A Cửu. Dường như tất cả những cô gái quen biết mình đều có thù oán với A Cửu vậy.

Liễu Dật chuyển chủ đề: “Không nói về trà nữa, khẩu vị của mỗi người không giống nhau. Nói một chút về mục đích lần này chúng ta đến núi Côn Lôn đi!”

Thủy Nhi bưng trà cho mọi người, rồi ngồi xuống bên cạnh Liễu Dật, hỏi: “Đúng rồi, Liễu công tử vẫn chưa nói đến đây có việc gì mà.”

A Cửu liếc Liễu Dật một cái, nói nhỏ: “Còn không phải tại cái tên ngốc này thích mua chuyện hay sao?”

Mặc dù mọi người đều nghe thấy hết, nhưng cũng không tiện nói gì nên đều vờ là không nghe thấy, đỡ phiền phức.

Lúc này Liễu Dật cảm thấy không được thoải mái cho lắm. Cô A Cửu này có phải oan gia không, nếu chẳng phải vì cô ấy thì đâu rắc rối nhiều chuyện như vậy, bây giờ còn mở miệng nói được mới tài chứ. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, thực ra chàng cũng không muốn đắc tội với Cửu công chúa ngang ngược này.

Liễu Dật nói: “Lúc chúng tôi đi ngang qua Phong Ma Trấn, gặp một ông cụ ở đó, chúng tôi gọi ông ấy là Tửu thúc, và Tửu thúc đã kể cho chúng tôi nghe rằng Phong Ma Trấn đang xảy ra một số chuyện.”

Thủy Nhi đặt cốc trà trong tay xuống, nói: “Ồ! Chuyện của Phong Ma Trấn, muội đã từng nghe sư phụ kể rồi. Nghe nói ở đó luôn không yên ổn, trăm năm trước, lúc sư phụ đi qua đó còn trấn áp được một số yêu quái nữa.”

Liễu Dật nghe thấy vậy cũng vội đặt chén trà trong tay xuống: “Người đó chính là sư phụ của muội à? Tửu thúc đã nói là người trấn áp lũ yêu quái ấy sợ trăm năm sau chúng sẽ giải được vòng cấm vì thế để lại một câu, trăm năm sau có thể cử người đến Thần Môn ở núi Côn Lôn để mượn pháp bảo trấn áp yêu quái.”

Thủy Nhi lắc lắc đầu: “Chuyện này muội lại không thấy sư phụ nhắc đến.”

Liễu Dật vội hỏi: “Vậy thì... mười hai năm trước hẳn có người đã đến Thần Môn mượn bảo vật rồi?”

Thủy Nhi lắc đầu: “Muội không nghe nói, nhưng khi ấy muội còn nhỏ, gần như ngày nào sư phụ cũng nhốt muội ở trong phòng, cho dù là có thì muội cũng không biết.”

Liễu Dật thôi không hỏi nữa, trầm tư: “Lẽ nào mười hai năm trước người được cử đi thực sự chưa hề đến Thần Môn? Hoặc là giữa đường gặp chuyện gì rồi?”

Thủy Nhi nhấp một ngụm trà, nhìn Liễu Dật đang ngẩn người ra nói: “Liễu công tử, huynh lần này đến Thần Môn phải chăng là mượn bảo vật đó?”

Liễu Dật gật đầu: “Thủy Nhi tiên tử nói không sai. Liễu Dật chính là nhận sự ủy thác của Tửu thúc đến Thần Môn cầu mượn bảo vật có thể trấn áp yêu ma, bằng không tà yêu ở Phong Ma Trấn hiện thế, thì không chỉ Phong Ma Trấn gặp xui xẻo, mà ngày càng mở rộng ra, người chịu khổ sẽ là lão bách tính.”

Thủy Nhi nhìn Liễu Dật, nhẹ nhàng: “Liễu công tử có thể lo nghĩ cho bách tính thiên hạ như vậy, Thủy Nhi thật là bội phục!”

A Cửu nhìn đôi mắt của Thủy Nhi, lập tức cảm thấy không tự nhiên cho lắm, vội nói: “Ta muốn nói, Thủy Nhi muội muội à, khi nào thì giúp chúng tôi diện kiến Môn chủ của Thần Môn? Cũng phải để cho A Cửu này được chiêm ngưỡng phong thái của bậc tiền bối trong tiên giới chứ.” Thủy Nhi đặt cốc trà xuống, nói: “Môn chủ có lẽ không biết chuyện này, tìm ông ấy chắc chắn sẽ càng phức tạp hơn. Chi bằng các người theo tôi đi gặp sư phụ, bọn tà ma mà người đã trấn áp, nếu hỏi thì chắc là sư phụ sẽ có cách thôi.”

A Cửu nói: “Hóa ra sư phụ của Thủy Nhi muội muội không phải là Môn chủ của Thần Môn à? Tôi lại cứ tưởng...”

Thủy Nhi đáp: “A Cửu tỷ tỷ hiểu lầm rồi. Sư phụ của Thủy Nhi là một trong tứ đại trưởng lão của Thần Môn, coi giữ Xích Sắc Hoa, tên sư phụ là Bạc Thương Cung, đã rất lâu không còn đi lại trong tam giới rồi, không biết các vị có biết người không?”

Thủy Nhi vừa nói xong thì Đại Đao Vương đã tiếp: “Ta biết, ta biết! Từ khi ta còn mới ra đời đã nghe nói, một gậy Li Tâm Thương, Bạc Thương Cung đã đi khắp giang hồ; một tấm Thiên Tâm Phù vang dậy khắp năm châu, câu chuyện này lưu truyền mãi. Nhưng... hình như sư phụ của Thủy Nhi cô nương còn nổi tiếng hơn cả Môn chủ của Thần Môn hiện nay.”

Thủy Nhi cười: “Đây chỉ là tân Môn chủ mới lên ngôi. Lâu dần, danh tiếng của Môn chủ sao lại không vượt qua sư phụ chứ.”

Đại Đao Vương uống một ngụm trà, than: “Thật là đáng tiếc! Hai mươi năm trước, không hiểu vì sao tiền Môn chủ lại quy ẩn không rõ lí do. Một Thần Môn lớn như vậy, thế mà lớp hậu sinh sau này lại để cho danh vọng của Thần Môn thua kém so với cả Ma Môn, càng không nói so sánh với Lãnh Kiếm của nhân gian.”

Thủy Nhi lắc đầu, thở dài: “Việc này đều không phải do chúng tôi quản. Sư phụ thường dạy Thủy Nhi rằng làm tốt những việc trong phận sự của mình, không hổ thẹn với trời đất, đó đã là tốt nhất rồi.”

Đại Đao Vương cũng gật gật đầu.

Thủy Nhi đứng dậy: “Liễu công tử, Thủy Nhi sẽ dẫn các vị lên gặp sư phụ trước, làm xong việc này rồi chúng ta lại nói chuyện tiếp, được không?”

Liễu Dật cười: “Đương nhiên rồi, không ngờ Thủy Nhi tiên tử không những xinh đẹp mà còn hiểu biết đại cục như thế. Liễu Dật này thật nể phục!”

Thủy Nhi cười: “Liễu công tử đừng có chế nhạo kẻo Thủy Nhi lại không tìm thấy hướng đi nữa bây giờ.”, nói rồi đi lên trước dẫn đường.

A Cửu đi theo phía sau, nói nhỏ: “Nhóc con, ta thấy bây giờ ngươi đã không tìm thấy hướng rồi đấy.”

Thập Kiệt Nhất thấy ánh mắt sát khí của A Cửu, giọng nghi ngờ: “Sao vậy? A Cửu, xem chừng cô không có ấn tượng tốt với Thủy Nhi cô nương.”

A Cửu nhìn Thập Kiệt Nhất nói: “Tốt mới lạ. Đi thôi!”

Đoàn người theo bậc đá đi lên phía trên. Ngẩng đầu nhìn lên đã thấy ẩn hiện đại điện của Thần Môn, cao ba mươi ba trượng, rộng mười sáu trượng, nhìn thấy rõ nhất là nóc của đại điện được mây bao phủ xung quanh.

Thủy Nhi chỉ: “Kia chính là đại điện, nếu không có việc gì thì người thường không thể vào. Nào, đi rẽ trái theo tôi!”

Nói rồi rẽ sang bậc thang bên trái ở giữa đường.

Thủy Nhi vừa đi vừa nói: “Người ở Thần Môn chúng tôi đều bố trí chỗ ở căn cứ theo chức vị, chức vị càng cao thì nơi ở càng cao, hiện giờ sư phụ ở ngay bên dưới đại điện.”

Liễu Dật cười: “Bạc lão tiền bối là trưởng lão của Thần Môn, không sống dưới đại điện hiển nhiên là không được rồi.”

Bỗng nhiên Thủy Nhi dừng lại trước một bức tường nhẵn bóng, khẽ nói: “Sư phụ thông thường không thích người khác quấy rầy, tôi đi trước xem thế nào, mọi người chờ ở đây nhé.”

Nói rồi, lấy từ thắt lưng ra một linh phù màu vàng, ép trong lòng hai bàn tay; một luồng sáng trắng phóng ra theo chiều kinh mạch ở tay, rồi hòa vào trong chiếc linh phù màu vàng; chỉ trong nháy mắt, tay phải của Thủy Nhi khẽ động, ép chiếc linh phù vào người mình và biến mất trước mắt mọi người.

Đại Đao Vương trợn trừng mắt, nói: “Thật thần kỳ! À, đây chính là Ẩn Thân Phù mà tôi vẫn thường ước ao, nếu mình học được, sau này có thể nhìn trộm mỹ nữ tắm thì khỏi lo buồn rồi.”

Bỗng một tiếng: “Thiên Lôi Chú”, trên trời phóng xuống một luồng sét, trong nháy mắt hướng thẳng xuống người của Đại Đao Vương.

Liễu Dật và mấy người khác kinh hãi nhìn Đại Đao Vương, khi ấy tiếng của Thủy Nhi vọng đến: “Bảo tên này đừng ăn nói lung tung, cho hắn một bài học. Yên tâm đi, thiên lôi của ta chưa luyện được một thành, sẽ không nguy hại lắm với hắn đâu. Ta đi đây, chờ ta!”

Vẫn chưa luyện được một thành? Tuy nói như vậy, nhưng nhìn Đại Đao Vương, toàn thân đã đen xì, tóc tai dựng ngược lên, cả người bốc lên một mùi khét lẹt. Trên mặt, ngoài hai con mắt ra, còn lại đều là màu đen. Miệng thì thỉnh thoảng phun ra một luồng khói đen, phều phào: “Cái gì? Đạo gì chứ? Ta nói cũng phạm tội sao?”, rồi đổ vật ra phía sau, không ho he thêm được tiếng nào nữa.

A Cửu nhìn thấy Đại Đao Vương ngã vật xuống đất, thầm nghĩ: “Tiểu nha đầu chẳng phải là để cho ta xem sao? Mình phải cẩn thận mới được, không thì bị tiểu nha đầu này cho một chưởng thì toi, thế không đáng.”

Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất đi lại bên cạnh Đại Đao Vương, ngồi xổm xuống, rồi cùng lắc đầu. Thập Kiệt Nhất nói: “Huynh đệ, ta chỉ có thể nói ngươi vận số quá tốt, sét đánh giữa trời quang, hai mươi năm nay ta mới lần đầu nhìn thấy, lại vừa khéo nhắm đúng vào ngươi. Thật may! Thật may!”

Liễu Dật không nói gì, nhìn thấy bộ dạng của Đại Đao Vương thực sự buồn cười, song lại không nỡ cười, đành bịt miệng lại.

Đại Đao Vương đờ đẫn nhìn lên trời, nói: “Ta biết các người muốn cười. Cười đi! Ta không trách các người đâu.”

Vừa nói xong, Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất đã cười lăn ra không đứng thẳng lên được.

Sau đó mấy người kéo hắn ta dậy, nhưng quần áo thì có thể thay được, tóc tai làm thế nào cũng không xẹp xuống, hễ động vào là y rằng phun ra một luồng khói đen. Liễu Dật lắc đầu: “Cứ như vậy đã, kiểu tóc ấy của ngươi, nói thật cũng không phải là tồi đâu.”

Đúng khi ấy, bức tường trơn bóng đi ra hai người, một người là Thủy Nhi, còn người kia mặc một bộ giáp màu bạc, tóc đen buộc chặt lên, trên đầu còn cài hai chiếc lông vũ phượng hoàng, mặt đầy chính khí, xem chừng cũng khoảng bốn mươi tuổi. Lẽ nào người đàn ông trung niên này lại là sư phụ của Thủy Nhi? Một trong tứ đại trưởng lão của Thần Môn, Bạc Thương Cung?

Liễu Dật trông người này sao cứ giống như là phường hát kịch vậy, chỉ cần xem cách trang điểm của ông ta cũng đã có thể thu hút được bao nhiêu người hâm mộ rồi.

Người đàn ông trung niên ấy lên tiếng: “Lão phu là Bạc Thương Cung. Lão phu vừa nghe Thủy Nhi nói Phong Ma Trấn cử người đến mượn bảo vật trấn áp tà ma? Không biết vị nào có thể nói chuyện được đây?”

Liễu Dật đứng ra, cung kính hành lễ: “Bạc tiền bối, vãn sinh là Liễu Dật, người Giang Nam, nhận sự ủy thác của Tửu thúc ở Phong Ma Trấn đến đây mượn bảo vật trấn áp tà ma.”

Bạc Thương Cung quan sát Liễu Dật một hồi rồi nói: “Ngươi là môn hạ của Lãnh Kiếm trong Nhân Gian Giới?”

Liễu Dật không biết lời của Bạc Thương Cung có dụng ý gì, nói: “Tiền bối, vãn sinh chỉ là bách tính bình thường, một thư sinh chứ không phải là người trong tam giới giang hồ; chỉ là nhận sự phó thác của Tửu thúc, lo sợ bọn tà ma ở Phong Ma Trấn làm hại nhân gian thôi ạ.”

Bạc Thương Cung không nói gì, hẳn là câu hỏi lúc nãy của ông ta là sợ Liễu Dật là phường vô lại đến lừa bảo bật của Thần Môn, nên thử xem chàng có tư cách đi mượn bảo vật hay không.

Liễu Dật hỏi tiếp: “Không biết tiền bối có điều gì khó nói?”

Bạc Thương Cung cười, rất tự tại tạo cho người ta cảm giác tín phục: “Tiểu huynh đệ, bảo vật trừ tà thì có, nhưng Càn Khôn Kính là một trong hai mươi bốn mật bảo của Thần Môn ta, cũng là đại bảo vật mà lão phu luyện được trong mười năm trở lại đây, chỉ dựa vào mình ngươi có thể sẽ rất dễ làm mất bảo vật của ta.”

Thủy Nhi đứng bên cạnh vội nói: “Sư phụ, Liễu công tử là người tốt, người hãy giúp huynh ấy đi.”

Bạc Thương Cung cười, nhìn Thủy Nhi nói: “Tiểu nha đầu, sư phụ cũng biết hắn là người tốt, lẽ nào bao năm như vậy sư phụ đã sống uổng hay sao? Thế nhưng tính tư dục của con người không ngừng lớn lên, lúc trước và sau là không thể so sánh được.”

Liễu Dật có vẻ không vui, nói: “Nếu như tiền bối không tin tưởng Liễu Dật, Liễu Dật có hai cách giải quyết.”

Bạc Thương Cung ngạc nhiên: “Thật sao? Cách gì, nói ra ta xem nào?”

Liễu Dật vẩy chiếc quạt, nói: “Cách thứ nhất, tiền bối có thể đích thân mang bảo vật đi Phong Ma Trấn tiêu diệt tà yêu, tốc độ lại nhanh vừa đỡ xảy ra chuyện, còn Liễu Dật cũng bớt thêm chuyện phiền phức. Cách thứ hai, nếu như tiền bối cảm thấy đi đến Phong Ma Trấn mệt, vậy thì Liễu Dật đi thay trong vòng một tháng sẽ giao trả lại bảo vật, nếu không thì Thần Môn có thể đến Giang Nam bắt Liễu Dật. Vãn sinh tuy chỉ là một thư sinh nghèo, song ở Giang Nam cũng có chút danh tiếng, khi ấy Thần Môn chỉ cần treo thưởng vạn lượng vàng là có thể dễ dàng bắt được Liễu Dật rồi.”

Bạc Thương Cung ngửa cổ cười: “Ha ha, thư sinh quả là lợi hại, ăn nói thật sắc bén. Khá lắm, khá lắm! Một thân chính khí, ta rất thích. Nghe nói thư sinh đều rất có chính khí, lão phu còn không tin, hôm nay quả là xấu hổ một phen rồi.”

Liễu Dật không biết ông già này đang có dụng ý gì, có chút nghi ngờ...

Bạc Thương Cung: “Tiểu huynh đệ nói có lý, nhưng lão phu thực sự có chỗ khó nói, nếu không đã đi Phong Ma Trấn một chuyến từ lâu rồi, nhưng cái cách thứ hai mà tiểu huynh đệ nói cũng là cách hay. Có điều... không biết Liễu công tử đang thầm cho rằng Thần Môn tam giới sao lại bủn xỉn như vậy, phải không?”

Liễu Dật cười: “Vãn sinh đâu dám, chỉ là nhất thời nóng tính mà thôi.”

Bạc Thương Cung cười nói: “Như vậy mới có thể nhìn ra được bản tính của công tử. Thế này vậy... để lão phu suy nghĩ thêm chút, sẽ bẩm báo việc này với Môn chủ, nội trong ba ngày sẽ trả lời công tử, được không?”

Liễu Dật cung kính, lễ phép nói: “Tạ ơn tiền bối đã lo nghĩ cho bách tính, mong rằng tiền bối đưa ra quyết định tốt.”

Bạc Thương Cung cười: “Khá lắm, khá lắm! Con mắt của Thủy Nhi thật không tồi.”

Câu nói nghe có vẻ thần bí, nhưng A Cửu và Thủy Nhi lại hiểu rõ, họ đều là phụ nữ mà, có gì mà không hiểu được cơ chứ.

Thủy Nhi mặt đỏ lên, vội lôi áo của Bạc Thương Cung: “Sư phụ...”

Bạc Thương Cung cười một cách thoải mái: “Được rồi, Thủy Nhi, con thay sư phụ mời mấy vị thiếu hiệp đây xuống núi nghỉ ngơi. Sư phụ cần suy nghĩ một chút rồi lên đại điện Thần Môn.”, nói rồi quay người và biến mất trên bức tường đá nhẵn bóng ấy.

Đại Đao Vương há hốc mồm: “Vị này càng thần kì hơn, nếu như học được cách xuyên tường, sau này vào phòng không cần qua cửa, có thể đi vào bao nhiêu khuê phòng a.”

Những câu sau vẫn chưa nói xong thì lại một luồng sét xẹt xuống cái đầu tóc vẫn dựng ngược lên của Đại Đao Vương.

Gió nhẹ thổi đến, trong gió mọi người ngửi thấy mùi gì khét khét, quay đầu lại nhìn thì thấy toàn thân Đại Đao Vương bốc đầy khói đen, tóc dựng lên càng thẳng hơn, giọng run rẩy: “Mẹ kiếp, sao lại chuẩn xác như thế?”

Thủy Nhi vội giải thích: “Đây không phải là do tôi, hình như là... sư phụ làm thì phải.”

-oOo-

Hồi 38: Kinh phong u u, luận tam giới giang hồ

(Gió thoảng luận bàn chuyện giang hồ tam giới)

Cho dù ai làm sai chuyện gì, đều phải trả một cái giá. Làm sai đều phải bị trừng phạt, cho dù là ai cũng vậy cả thôi.

(Cổ Long - Luận)

Chỉ thấy Đại Đao Vương chổng một chân lên trời, liên tục co giật và bốc khói đen. Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất lắc đầu. A Cửu nói: “Tự gây tội nghiệt, cho đáng đời.”

Liễu Dật nhìn Đại Đao Vương, nói: “Lần này xem ra là chín mềm rồi, Thập Nhất hãy cõng anh ta đi.”, nói rồi quay người đi theo Thủy Nhi. Thủy Nhi đi trước dẫn đường, vừa đi vừa nói: “Cái anh chàng Đại Đao Vương này thật thích đùa, tôi đã cảnh cáo rồi mà không chịu nghe, cứ phải để sư phụ tôi ra tay, lần này thì nghiêm trọng rồi.”

Liễu Dật cười: “Trước đây tôi chỉ nghe nói Lãnh Kiếm trong Nhân Gian giới là vô địch, vô cùng lợi hại, không ngờ bùa chú của Thần Môn lại thần uy đến như thế.”

Thủy Nhi cười: “Đó là vì huynh chưa thấy Li Tâm Thương của sư phụ muội, đến lúc ấy huynh sẽ có cảm nhận còn khác nữa.”

Liễu Dật gật đầu: “Ô, sau này có cơ hội nhất định phải chiêm ngưỡng Li Tâm Thương của Bạc lão tiền bối mới được.”

Câu nói này như thể được vận mệnh sắp đặt vậy, mười năm sau, Trảm Thiên Bạt Kiếm của Liễu Dật đả bại Li Tâm Thương làm kinh động tứ đại môn phái ở tam giới, đây là chuyện sau này, tạm thời không nhắc đến.

Mấy người đi chừng nửa canh giờ, Thủy Nhi dừng lại, đi tới căn nhà bằng đá bên cạnh, nói: “Bốn gian nhà đá này là chuẩn bị cho các vị. Thủy Nhi ở ngay bên trên, nơi mà lúc nãy các vị uống trà đó, có việc gì các vị có thể tìm Thủy Nhi.”, nói rồi mở cửa từng gian phòng ra.

A Cửu vừa xem phòng vừa nói: “Thủy Nhi muội thật chu đáo, e là chúng tôi không cần tìm, Thủy Nhi muội ngày nào cũng sẽ ở đây thôi.”

Thủy Nhi nhìn A Cửu, mỉm cười: “Thủy Nhi cảm ơn lời khen ngợi của A Cửu tỷ tỷ. Nghe tỷ tỷ nói như vậy, Thủy Nhi mới chợt nghĩ, nên ở đây cùng với các vị thì hơn, nếu không sư phụ trách tội, Thủy Nhi không gánh được đâu.”

A Cửu đần mặt ra nhìn Thủy Nhi, đột nhiên phát hiện cô tiểu nha đầu này còn lém lỉnh hơn cả Cát Lợi Nhi, mình nói cái gì hình như cũng là giúp cô ta vậy. A Cửu vội nói: “Không sao, cô có việc bận thì cứ đi làm đi, sư phụ cô sẽ không trách đâu, chúng tôi cũng không cần cô ở bên cạnh.”

Thủy Nhi vẫn mỉm cười: “Vừa khéo Thủy Nhi mấy ngày nay không bận gì cả, tốt hơn là nên chăm sóc cho các vị khách phương xa vậy.”

Đại Đao Vương ở trên lưng của Thập Kiệt Nhất vừa mở miệng đã bốc lên mộtluồng khói: “Vậy thì cô nên chăm sóc ta trước đi, giúp ta điều trị một chút.”

Thủy Nhi nhìn Đại Đao Vương, cố gắng nhịn cười: “Thập Nhất đại ca, hai người theo tôi.”, nói rồi đi vào gian phòng phía trong.

Liễu Dật không có việc gì, ngồi xuống chiếc bàn đá giữa nhà, rót cho mình cốc trà, chậm rãi thưởng thức.

A Cửu cũng ngồi đến bên cạnh, vừa uống trà, vừa nói: “Anh ngốc, khi nào chúng ta rời khỏi đây? Tôi hết hứng thú rồi.”

Liễu Dật nhìn A Cửu, cười: “Cô đúng là nha đầu điên, tôi cũng muốn sớm rời khỏi đây, ở thêm một ngày, người ở trấn Phong Ma sẽ thêm một phần nguy hiểm, nhưng không mượn được pháp khí của Thần Môn, chúng ta làm sao đi được?”

A Cửu vội hỏi: “Thật không? Anh ngốc cũng muốn sớm rời khỏi đây à?”

Liễu Dật cười: “Tôi cần thiết phải lừa dối cô sao?”

A Cửu uống ngụm trà, nói: “Vậy anh nỡ rời xa Thủy Nhi?”

Liễu Dật nhìn A Cửu một cách kì lạ, sờ đầu cô, nói: “Có phải cô bị sốt không? Thủy Nhi và tôi có quan hệ gì chứ?”

A Cửu nhìn Liễu Dật, bực mình: “Hưm! Đúng là đồ ngốc, ngay cả điều đó mà cũng không nhận ra.”

Liễu Dật ngớ người không hiểu gì cả.

Đúng lúc ấy Thủy Nhi từ trong phòng bước ra. Đại Đao Vương đã khôi phục trở lại hình dạng lúc trước, mặc một chiếc quần thùng thình màu đen, thân trên thì không mặc gì cả, vác một thanh đại đao. Nhưng… Liễu Dật luôn cảm thấy có gì đó là lạ. A... là tóc, tóc của Đại Đao Vương dài đến hơn hai thước, dựng thẳng đứng, chừng như mỗi sợi tóc đều muốn tranh giành vươn lên, không ai nhường ai vậy.

Đại Đao Vương đi tới trước mặt Liễu Dật, cố ý làm ra vẻ, lắc lắc cái đuôi kim cứng đờ của mình. Liễu Dật nhìn thấy, tức thì một ngụm trà như núi lửa nhắm đúng vào người Đại Đao Vương, ôm bụng cười sặc sụa.

Đại Đao Vương nhìn Liễu Dật, vừa lau nước trên người, vừa nói: “Có gì buồn cười chứ? Thủy Nhi cô nương gọi đây là mốt mới, các tiểu cô nương đều rất thích. Phải không?”, nói rồi nhìn sang Thủy Nhi.

Thủy Nhi bỏ tay bịt miệng xuống, gật gật đầu: “Đúng thế!”

Thập Kiệt Nhất đi lại, ngồi xuống cạnh Liễu Dật, vừa rót trà vừa nói: “Tôi thà để các tiểu cô nương không thích cũng không thèm để tóc của mình dựng ngược hết cả lên, nhìn ngứa mắt khủng khiếp.”

Liễu Dật cuối cùng cũng tự kềm lại được: “Được rồi, được rồi! Ngồi xuống nghỉ chút, dù sao thì chúng ta cũng đang chờ tin, nói chuyện gì đi.”

Thủy Nhi nhìn A Cửu, nói: “Liễu công tử, muội thấy muội nên về thì hơn, ở đây, muội sợ... có người không hoan nghênh.”

Đại Đao Vương vội nói: “Không được, người không thể đi nhất chính là cô nương. Ở đây ngoài tôi ra, cô nương là người hiểu về tam giới nhất. Hơn nữa cô lại là đệ tử của Thần Môn, Đại Đao Vương tôi thích nghe nhất là những câu chuyện li kì về những cao thủ này. Chúng ta giao lưu một chút, dù sao thì mọi người cũng không việc gì làm mà.”

Thập Kiệt Nhất vừa nghe thế cũng hứng lên: “Phải đấy! Thủy Nhi, tôi cũng thích nghe chuyện về những cao thủ này, cô kể cho chúng tôi nghe đi, không biết chừng sau này gặp phải thì cũng có sự chuẩn bị. Hà hà... Cô nói có phải không? Ái!”.

Tiếng cuối cùng hẳn là bị ai đó tấn công rồi. Còn phải nghĩ? Nhắc các bạn nhớ bên cạnh Thập Kiệt Nhất chính là A Cửu.

Thủy Nhi nhìn A Cửu cười cười: “Mọi người đã không có việc gì làm, vậy thì chúng ta vừa thưởng thức trà, vừa phơi nắng, nhân tiện đàm luận về võ lâm thiên hạ ngày nay, giang hồ tam giới...”, nói rồi nhẹ nhàng ngồi vào chỗ giữa Liễu Dật và Đại Đao Vương.

Thủy Nhi nhấp một ngụm trà, nói tiếp: “Thực ra, những điều này đều là tôi nghe sư phụ kể lại. Thủy Nhi muốn nói về các danh kiếm nổi tiếng trong thiên hạ bây giờ, không biết các vị có muốn nghe hay không?”

Đại Đao Vương vội reo lên: “Hay lắm, hay lắm!”

Thủy Nhi nói tiếp: “Hiện nay thiên hạ phân làm ba, trong tam giới có sáu đại cao thủ về sử dụng kiếm, hơn nữa thanh kiếm trong tay họ đều là bảo vật hiếm có cả... Đứng đầu phải kể đến Lãnh Kiếm của Kiếm Môn ở Nhân Gian giới, ba mươi năm trước đã từng giao chiến nhiều lần với Ma tộc Vị Linh Phong nhưng chưa phân thắng bại, hai mươi năm này kiếm chưa hề tuốt khỏi bao, càng ít thấy bóng dáng ông ta trong tam giới; thanh kiếm trong tay có tên là Lưu Vân, thân kiếm dài ba thước mốt, rộng bốn phân, chuôi kiếm dài bốn tấc, kiếm nặng mười sáu cân, là một thanh kiếm hết sức tinh xảo, kiếm pháp sở trường là Chân Võ Kiếm Ý.”

Đại Đao Vương uống ngụm trà, lắc lắc túm tóc dựng đứng trên đầu, nói: “Lãnh Kiếm là thần tượng của tôi đấy, cả một đời chỉ làm quen với một thanh kiếm, thật đúng là kiếm si à.”

Thủy Nhi: “Kiếm Si không phải là Lãnh Kiếm, người đó xếp thứ hai, là đồ đệ của Lãnh Kiếm, tên Thiết Tiêu, là đồ đệ đầu tiên của Kiếm Môn, cũng là Môn chủ Kiếm Môn hiện nay. Thiết Tiêu là kiếm khách trẻ tuổi nhất, năm nay mới hai mươi lăm, lúc bốn tuổi đã theo Lãnh Kiếm, mười tuổi thành tài, mười hai tuổi được Huyền Quang bảo kiếm, mười bảy tuổi nổi danh trong tam giới, phiêu bạt khắp giang hồ, hai mươi ba tuổi trở về Kiếm Môn tiếp nhận ngôi vị Môn chủ, xưng hiệu là Kiếm Si. Thanh kiếm trong tay là Huyền Quang, kiếm dài ba thước ba, thân kiếm rộng một tấc mốt, nặng hai mươi tám cân, là thanh bảo kiếm hấp thụ được linh khí của trời đất.

Xếp thứ ba phải kể đến là Ngạo Thiên Ma Quân của Ma Môn Ma tộc, hai mươi năm trước tiếp nhận chức vị Môn chủ Ma Môn, từ đó đóng cửa luyện kiếm, không ai biết được kiếm của ông ta lợi hại như thế nào, nhưng tương truyền đã vượt hơn cả Môn chủ tiền nhiệm là Vị Linh Phong. Thanh kiếm trong tay là La Sát, một thanh tà kiếm lưu truyền hàng trăm năm, thân kiếm dài ba thước tư, rộng chín phân, chuôi kiếm dài bốn tấc, nặng hai mươi cân, kiếm pháp sở trường là Cửu Linh Kiếm Quyết.

Đứng thứ tư là đệ tam môn của Ma tộc, Huyết Môn Môn chủ, không biết người này tên gì, hàng trăm năm trước đã bắt đầu tiếp nhận Huyết Môn, chưa từng lộ diện; thanh kiếm trong tay là Thị Huyết, thân kiếm dài ba thước hai, rộng một tấc ba, chuôi kiếm dài bốn tấc, nặng ba mươi hai cân, một thanh ma kiếm được lưu truyền từ thời thượng cổ, vô cùng lợi hại; chỉ có điều gần mấy chục năm nay chưa thấy ông ấy xuất hiện, vì thế cũng trở thành một truyền thuyết rồi.

Đứng thứ năm lại trở về với Nhân Gian giới, Lý Lăng, đệ tử tục gia của Phật Môn; ba mươi năm trước gia nhập Phật Môn, là tục gia đệ tử, lấy kiếm làm thầy, tự sáng tạo ra Đại Từ Bi Kiếm, vào giang hồ mười năm chưa hề gặp địch thủ; thanh kiếm trong tay tên Liệt Dương, thân kiếm dài ba thước mốt, rộng một tấc hai, chuôi kiếm dài bốn tấc, kiếm nặng hai mươi bảy cân. Thanh kiếm này mãnh liệt dị thường, và cũng có rất nhiều điểm thần bí, có điều những năm gần đây người này không xuất hiện, cũng biến mất tăm như là Lãnh Kiếm vậy.”

Đại Đao Vương cười: “Cao nhân đều như vậy cả, lên trời xuống đất, không có gì là không làm được.”

A Cửu cười: “Đúng thế, Đại Đao Vương nếu như học được những thứ ấy, thì không biết bao nhiêu cô nương phải gặp tai ương đây.”

Thủy Nhi nhìn Đại Đao Vương, rồi giọng nhỏ nhẹ nói tiếp: “Đứng thứ sáu chính là một vị trưởng lão khác của Thần Môn chúng tôi, Dương Vân Phong; ba mươi tuổi đã ngồi vào vị trí trưởng lão của Thần Môn, hai mươi năm nay chưa từng ra khỏi Thần Môn; người này tính lạnh như băng hệt như thanh Ngưng Tuyết Kiếm trong tay ông ấy; kiếm dài ba thước ba, rộng một tấc mốt, nặng ba mươi mốt cân, nếu người trúng kiếm công lực không cao có thể bị đông thành băng đá; thanh kiếm này cũng rất thần bí; còn về kiếm pháp sở trường của ông ấy thì tôi không rõ lắm.”

Thập Kiệt Nhất vội hỏi dồn: “Thần Môn các người cũng không ổn rồi. Sao lại chỉ xếp ở vị trí thứ sáu chứ?”

Thủy Nhi cười: “Đây là chỉ tính riêng về kiếm, nếu như thêm đạo pháp và khí pháp của Thần Môn vào, huynh xem có thể xếp thứ mấy?”

Thập Kiệt Nhất vội đánh mắt sang Đại Đao Vương, gật gật đầu: “Lợi hại, nếu như lại dùng cả đạo pháp, khí pháp, có lẽ còn lợi hại hơn cả Ma Môn nữa chứ.”

Thủy Nhi nhìn bộ dạng buồn cười của Thập Kiệt Nhất, nói: “Thực ra, vốn có bảy thanh bảo kiếm...”

A Cửu vội hỏi: “A, có bảy thanh kiếm, vậy sao cô chỉ nói có sáu thanh?”

Thủy Nhi trả lời: “Thanh thứ bảy này là thanh kiếm được lưu giữ lại từ khi trời đất mới sơ khai.”

Đại Đao Vương: “Thời gian lâu như vậy à? Vậy thanh kiếm đó nhất định có linh tính rồi, chắc chắn là thanh kiếm tốt nhất.”

Thủy Nhi lắc lắc đầu: “Điều này lại không đúng, thanh kiếm thứ bảy này rất thần bí, có tên là Bi Mộng, thân kiếm dài ba thước chín, kiếm gồm có ba lưỡi, không giống như kiếm bình thường, chuôi kiếm dài chín tấc, có hình tròn được điêu khắc từ thân một con rồng, từ miệng con rồng thò ra ba lưỡi kiếm, gần như cái miệng rồng kia chính là kiếm cách.”

Đại Đao Vương: “Đó chẳng phải là một cái gậy sao? Dài như vậy, gần bốn thước rồi còn gì, dùng sao được?”

Thủy Nhi gật đầu: “Đây cũng là một trong những nguyên nhân. Thanh kiếm này không biết vì sao lại dài như vậy. Cần biết rằng khi vung kiếm, kiếm dài là rất dễ bị trĩu xuống, mà thanh kiếm này thực sự là quá dài, lúc rút kiếm ra rất nhiều chiêu thức không thể thi triển được. Ngoài ra, xung quanh thân thanh kiếm này còn bị bọc bởi một lớp khí màu đen, nếu người dùng kiếm là một cao thủ thì có thể miễn cưỡng điều khiển; còn nếu là người có võ công kém, ngược lại sẽ bị thanh kiếm điều khiển.”

Thập Kiệt Nhất uống một hớp trà, nói: “Thanh kiếm như vậy thì sao lại còn gọi là bảo kiếm?”

Thủy Nhi cũng uống ngụm trà, rồi liếc nhìn Liễu Dật, nói: “Đó là vì chủ nhân của Bi Mộng Kiếm đã từng là Vị Linh Phong.”

Đại Đao Vương vội nói: “Cô muốn nói, thanh kiếm mà năm xưa Vị Linh Phong sử dụng chính là thanh kiếm này?”

Thủy Nhi gật gật đầu: “Tôi nghĩ cũng chỉ có Vị Linh Phong mới có khả năng làm cho thanh Bi Mộng Kiếm tìm lại được cảm giác kiếm của nó. Sau này, cùng với cái chết của Vị Linh Phong, Bi Mộng cũng biến mất trên thế giới này.”

Nước miếng của Đại Đao Vương như muốn trào cả ra, nói: “Nhiều bảo kiếm như vậy, tùy ý cho ta một thanh thì phát tài rồi.”

Thủy Nhi nói: “Nếu anh không có khả năng thắng được sáu vị cao thủ ấy, thì đừng hòng có được bảo kiếm nào, bằng không anh sẽ bị truy sát đấy.”

Đại Đao Vương quay đầu lại: “Nói đùa đấy hả? Thắng được sáu đại cao thủ ấy, như thế vẫn không bằng bảo tôi nghiên cứu làm cách nào để thành thần tiên cho rồi.”

A Cửu bỏ hai tay chống mặt ra, nói: “Hây, không biết sáu đại cao thủ này còn có theo đuổi gì nữa?”

Thủy Nhi cũng gật đầu: “Có lẽ, sáu vị đại cao thủ này chẳng còn theo đuổi gì nữa”.

Nói rồi nhìn ra bốn xung quanh, nói nhỏ: “Nói cho mọi người biết một bí mật, đây là do lúc sư phụ tôi bốc quẻ tôi xem trộm được.”

Mấy người kia đều như dán mặt xuống bàn: “Bí mật gì?”

Thủy Nhi: “Sáu vị đại cao thủ này cũng chỉ là tạm thời thôi, mười năm sau, tam giới đại loạn, khi ấy những truyền thuyết bây giờ sẽ hoàn toàn bị vùi lấp, một cao thủ thực sự sẽ xuất hiện như một vị thần vậy, hơn nữa có cả năm môn phái cùng tồn tại cơ.”, nói xong ngồi thẳng lưng lên.

Đại Đao Vương lắp bắp hỏi: “Cô muốn nói... muốn nói, thực sự... thực sự có người có thể thắng được những người này?”

Thủy Nhi: “Không phải là có người, mà là rất nhiều người, kiếm thuật của mười năm sau sẽ đạt đến một cảnh giới khác, tôi nghĩ Lãnh Kiếm biến mất cũng là bởi vì suy tính ra điều này, nên mới đóng cửa tu luyện thêm rồi.”

Đại Đao Vương tiếp: “Hãy kể cho chúng tôi về Lãnh Kiếm đi!”

Thủy Nhi: “Được...”

Sắc trời dần tối đen lại, mấy người vẫn chìm đắm trong thế giới giang hồ đầy màu sắc ấy.

-oOo-

Hồi 39: Đầu sáp kê mao, dữ thanh thiên bỉ cao

(Đầu giắt lông gà, so tài với trời xanh)

Con người trong thế giới giang hồ giống như một cành hoa vậy, muốn nở muốn tàn, muốn hợp muốn tan, đều không do mình quyết định được.

(Cổ Long - Luận)

Uốn uốn cái lưng, dụi dụi hai mắt, Liễu Dật từ trên giường nhảy xuống. Tối qua mấy người họ nói chuyện đến rất khuya, Thập Kiệt Nhất lại còn kiên quyết không chịu ngủ một mình, cứ nằng nặc đòi ngủ cùng với hắn. Liễu Dật luyện xong tâm pháp mà Lang Vương dạy cũng ôm Thập Kiệt Nhất ngủ một mạch. Vì thế còn dư ra một phòng, Thủy Nhi đêm đó cũng không về.

Liễu Dật vừa mở cửa phòng, một mùi thơm bay xộc vào mũi, ánh nắng ấm áp chiếu thẳng lên người, Liễu Dật ve vẩy chiếc quạt, nói: “Thời tiết hôm nay thật tuyệt, không khí ở đây quả là trong lành.”

“Đương nhiên rồi, Côn Lôn là nơi có thể liên kết với cửa lớn của Thần giới, ở đây không khí không tốt thì ở đâu tốt đây?”, người nói chuyện chính là tiên tử xinh đẹp Thủy Nhi.

Liễu Dật cười: “Thủy Nhi cũng dậy sớm vậy sao?”

Thủy Nhi cười rất tự nhiên, thế giới dường như dừng lại đôi chút, nói tiếp: “Không thể ngủ tiếp được nữa rồi, phải giúp mọi người chuẩn bị điểm tâm sáng chứ.”

Khi ấy Liễu Dật mới phát hiện trên bàn đá đã chuẩn bị xong một mâm điểm tâm thịnh soạn, lại còn có cả hoa quả nữa. Liễu Dật lắc lắc đầu: “Cứ nghĩ Thủy Nhi tiên tử xinh đẹp, không ngờ lại có tấm lòng chu đáo như vậy, xem ra mắt Liễu Dật này có vấn đề rồi.”

Thủy Nhi bảo: “Thôi được rồi, đừng có khen ngợi Thủy Nhi nữa. Mau đi xúc miệng rồi ăn sáng. Muội đi gọi mọi người dậy.”, nói rồi lần lượt đi vào các phòng khác.

Liễu Dật tìm thấy bên cạnh ngôi nhà một con suối nhỏ, thầm nghĩ: “Thần Môn này thật là lạ, phương thức sinh hoạt không giống ở Giang Nam.”

Lúc Liễu Dật ngoảnh đầu lại, Thập Kiệt Nhất vẫn bộ dạng cũ, vừa lẩm bẩm chưa tỉnh ngủ, vừa đi về phía đồ ăn. Đại Đao Vương thì làm ra vẻ rất đặc biệt, đầu tóc dựng ngược lắc lắc mấy cái, đi đến chỗ Liễu Dật. A Cửu thì phàn nàn là ngay một ả a hoàn cũng không có, phải tự mình đi tìm nước rửa mặt.

Tánh xấu gì cũng lộ hết cả ra, Liễu Dật chẳng còn cách nào khác đành lắc đầu, vừa uống nước vừa nói chuyện và ăn sáng. Rốt cuộc, một bữa cơm ăn làm ba đợt.

Mấy người lần lượt ăn xong, Liễu Dật vỗ vào bụng: “No rồi.”

“Tiểu huynh đệ cảm thấy cơm canh hợp khẩu vị không?”, một giọng nói sang sảng vẳng đến.

Liễu Dật đứng dậy, thấy từ chỗ ngoặt của ngôi nhà, Bạc Thương Củng đi tới, chàng ta gật đầu nói: “Tiền bối, cơm canh Thủy Nhi nấu rất hợp khẩu vị của Liễu Dật, còn hoa quả của Thần Môn thì còn phải nói.”

Liễu Dật không biết tại sao Bạc Thương Củng đến đây, ông ấy nói phải suy nghĩ ba ngày, lẽ nào đã có thay đổi?

Bạc Thương Củng cười một cách sảng khoái: “Ô, hợp khẩu vị là tốt rồi. Có biết hôm nay lão phu đến đây có việc gì không?”

Liễu Dật lắc đầu: “Vãn sinh ngu muội, không biết tiền bối...”

Bạc Thương Củng đáp: “Chiều qua ta đã lên đại điện gặp Môn chủ, đã thương lượng qua với ông ấy. Lão phu thì không có nghi ngờ gì, nhưng… Môn chủ muốn gặp mặt tiểu huynh đệ.”

Liễu Dật thầm nghĩ: “Ông già này lại đang giở trò gì nữa đây? Môn chủ của Thần Môn chẳng phải là một tên tiểu tử vừa mới tiếp vị hay sao? Gặp mình làm gì nhỉ?”

Liễu Dật lắc đầu: “Vãn sinh không hiểu lắm.”

Bạc Thương Củng cười: “Cho dù lão phu muốn cho ngươi mượn bảo vật, thì cũng phải được sự phê chuẩn của Môn chủ, vì thế... bây giờ đã hiểu chưa?”

Liễu Dật gật đầu: “Tiền bối muốn nói, chỉ cần Môn chủ đồng ý, vãn sinh có thể mượn chiếc gương đó đi Phong Ma Trấn phải không?”

Bạc Thương Củng cười: “Ngươi vẫn chưa ngốc đến mức không thuốc chữa đâu. Ha ha... đã ăn no chưa?”

Liễu Dật gật đầu: “Đa tạ lão tiền bối quá khen, đã no rồi ạ, Liễu Dật có thể chờ Môn chủ triệu kiến bất cứ khi nào.”

Bạc Thương Củng gật đầu, rồi nhìn Thủy Nhi: “Môn chủ bảo con cũng đi cùng với Liễu công tử luôn.”

Thủy Nhi trễ mồm ra, nói nhỏ: “Sao lại gọi con đi chứ? Con không muốn gặp cái tên háo sắc ấy tí nào.”

Tuy nói nhỏ song Liễu Dật và Bạc Thương Củng ở gần ngay đấy nên đều nghe thấy. Bạc Thương Củng bèn xuống giọng: “Nghe lời nào, Thủy Nhi, ông ấy là Môn chủ, lời của ông ấy chúng ta không thể không theo.”

Thủy Nhi phụng phịu, gật gật đầu: “Vâng ạ.”

Khi ấy A Cửu, Đại Đao Vương và Thập Kiệt Nhất đều chạy cả ra: “Chúng tôi cũng muốn lên đại điện.”

Bạc Thương Củng chợt đổi sắc mặt, nghiêm nghị nói: “Đại điện Thần Môn là nơi có thể tự ý ra vào sao? Các người ở đây chờ, nếu ai chạy nhảy bừa bãi, hậu quả tự gánh lấy.”, đoạn quay lưng đi ra ngoài.

Liễu Dật quay đầu lại nói: “Mọi người ở đây chờ ta, ta sẽ sớm quay lại.”, nói rồi cũng đi theo lên.

Thủy Nhi tiếp: “Các người đừng đi lại lung tung, Thần Môn có rất nhiều trận phù, nguy hiểm lắm, ở đây chờ chúng tôi.”, rồi cũng bước theo.

A Cửu dậm chân: “Hừm! Đều là bọn người đáng chết, coi thường chúng ta quá.”

Thập Kiệt Nhất vội khuyên A Cửu: “Được rồi, được rồi, A Cửu đừng giận. Chúng ta đi ăn hoa quả đi, nghe nói hoa quả ở Thần Môn có tác dụng kéo dài tuổi thọ gì đó, hình như còn có thể khiến cho làn da mịn màng hơn nữa thì phải.”

Những điều này đều là do Thập Kiệt Nhất học được từ chỗ Liễu Dật cả. Phụ nữ thích đẹp, đó là thiên tính, nói có thể dưỡng sắc đẹp là khiến các cô nương quên hết mọi chuyện, vậy sao còn không thành thực nói ra cho cô nàng nghe. Thế nhưng từ miệng của Thập Kiệt Nhất nói nên thành ra loạn cả lên. May mà A Cửu là một người thông minh, nghe thấy vậy mọi phiền não đều biến đi đâu hết, lao vội đến mâm hoa quả.

Liễu Dật cùng với Bạc Thương Củng và Thủy Nhi đi lên đại điện của Thần Môn. Vừa đi Bạc Thương Củng vừa hỏi: “Tiểu huynh đệ đã từng học qua võ công phải không?”

Liễu Dật gật gật đầu: “Không biết có được gọi là võ công hay không, chỉ là tùy tiện học được chút ít thôi.”

Bạc Thương Củng cười: “Để leo lên đại điện của Thần Môn, người thường phải cần một canh giờ, tiểu huynh đệ đã đi cùng lão phu lâu như vậy, mà mặt vẫn chưa đỏ, không thở dốc, xem ra không chỉ là tùy tiện học được chút ít đâu, ha ha.”

Liễu Dật thấy ông ấy nhắc như vậy cũng mới bắt đầu cảm thấy. Sao mình leo lâu như vậy rồi, không vận tâm pháp hay nội lực gì cả mà không mệt chút nào, lẽ nào trong mấy ngày này đã có tiến bộ mới sao?

Liễu Dật gật đầu: “Một người bạn đã dạy cho vãn bối chút võ công, bằng không trong thế giới hỗn loạn này không chừng đã bị sơn tặc chém chết rồi.”

Bạc Thương Củng vừa đi vừa nói: “Lão phu thấy, sơn tặc thông thường bây giờ cũng chém không nổi tiểu huynh đệ rồi.”

Liễu Dật cười: “Ô, thì ít ra vãn sinh vẫn còn sống đến giờ cũng đã nói lên điều đó.”

Bạc Thương Củng vừa đi vừa hỏi Liễu Dật những câu hỏi ngoài lề, chẳng mấy chốc ba người đã đến trước cửa đại điện. Nó cao ngập kín trong mây, căn bản không thể nhìn thấy được toàn bộ đại điện vì bị mây phủ kín, cửa lớn cao mười hai trượng, trông rất bề thế.

Bạc Thương Củng giơ nhẹ cánh tay phải lên phất một cái, chỉ thấy cánh cửa lớn ấy như có người đẩy ra, từ từ mở toang, bên trong cửa phát ra những ánh sáng màu vàng chói chang, nhất thời làm cho người ta không thể nào mở nổi mắt.

Bạc Thương Củng giơ tay lên: “Liễu công tử, mời vào trong.”

Liễu Dật gượng mở hai mắt. Sau khi đã quen được với ánh sáng vàng này thì mới phát hiện ra bên trong đại điện rộng thênh thang, hai bên trái phải là hai hàng trụ đá cao vút, trong đại điện không có ai, nhìn lên phía trước thì thấy xa đến hàng trăm trượng, một người đang ngồi chễm chệ trên bảo tọa.

Liễu Dật nghĩ thầm: “Đây hẳn là Môn chủ của Thần Môn.”, vừa nghĩ vừa đi vào phía trong.

Đến dưới bảo tọa, Bạc Thương Củng vòng tay: “Bẩm Môn chủ, đã đưa Liễu công tử và tiểu đồ đến.”

Liễu Dật trộm ngẩng lên nhìn chỉ thấy người trên bảo tọa xem chừng không đến ba mươi, trên mặt viết đầy chữ "gian trá", mặc một bộ chiến giáp bạc, đầu đội thất tinh quan, cũng gài thêm hai chiếc lông phượng hoàng. Có lẽ tự nhận mình là anh tuấn, phong độ chăng? Thế nhưng Liễu Dật không hiểu tại sao trên đầu những người ở Thần Môn này đều phải gài thêm hai chiếc "lông gà hoang". Lẽ nào họ cảm thấy như vậy là đẹp trai sao?

Liễu Dật và Thủy Nhi bước lên trước.

Liễu Dật nói: “Thư sinh Giang Nam Liễu Dật xin bái kiến Môn chủ Thần Môn.”, nói rồi cung kính thi lễ.

Thủy Nhi cũng tiếp: “Thủy Nhi bái kiến Môn chủ.”

Gã Môn chủ trên đầu cắm lông gà nhìn nhìn Liễu Dật rồi lại ngắm Thủy Nhi, nói: “Nào lại đây Thủy Nhi, đến chỗ Quỳnh ca ca. Sao lần trước về Thần Môn cũng không đến thăm ca ca vậy?”

Thủy Nhi quay đầu nhìn Bạc Thương Củng, ông này nháy mắt ra hiệu bảo cô đi. Thủy Nhi đành phải cúi đầu bước lên.

Môn chủ vừa thấy vội nói: “Ồ, phải rồi, phải rồi, Quỳnh Phong Lôi tiếp đón không chu đáo, mời hai vị ngồi đi.”

Bạc Thương Củng và Liễu Dật cùng ngồi xuống chiếc ghế đá ở bên cạnh.

Liễu Dật nghĩ thầm: “Xem bộ dạng ngươi, lại dám xưng là Quỳnh Phong Lôi? Ta thấy giống Cùng Phong Lạc thì đúng hơn, vậy mà ngươi cũng có thể làm Môn chủ của một môn phái cơ đấy.”

Đột nhiên trong đầu Liễu Dật truyền đến giọng của Bạc Thương Củng: “Tiểu huynh đệ, trong đầu có thể nghĩ, song không được nói ra.”

Liễu Dật nhìn qua Bạc Thương Củng, tuy tên Môn chủ này chẳng ra làm sao, nhưng trưởng lão bên cạnh hắn lại cao thâm khó lường.

Liễu Dật đâu có biết khi nãy Bạc Thương Củng đã dùng Độc Tâm Chi Thuật và Truyền Âm Thuật của Thần Môn với mình.

Thủy Nhi cuối cùng cũng đã đi lên tới bên cạnh tên Môn chủ "Cùng Phong Lạc". Chỉ thấy đôi mắt dâm tặc của hắn đảo lia lịa, đột nhiên nắm lấy tay Thủy Nhi, cười lên một cách dâm đãng: “Thủy Nhi, bao nhiêu ngày rồi không đến thăm Quỳnh ca ca, để ca ca nhớ muốn chết.”

Liễu Dật thấy lạnh cả người, rùng mình một cái, thầm nghĩ: “Sao lại như thế được, cứ như thế này thì ta nôn ra mất.”

Bạc Thương Củng dùng thuật truyền âm nói: “Tiểu huynh đệ, cố gắng nhịn! Chi bằng học lão phu đây, nôn này nôn này, nôn vài năm là quen thôi.”

Liễu Dật vội lắc lắc đầu.

Tiếp đến tên Môn chủ đầu giắt lông gà kia nói: “Thủy Nhi, ta thấy... hay là chúng ta thành thân đi.”

Thủy Nhi vội lùi lại sau, trộm nhìn sang chỗ Bạc Thương Củng, ánh mắt cầu cứu. Bạc Thương Củng vội đứng ra, vòng tay nói: “Môn chủ, xin suy nghĩ lại, Thủy Nhi đã có ý trung nhân rồi ạ.”

Tên Môn chủ quay phắt đầu lại: “Ý trung nhân của Thủy Nhi? Là ai thế?”

Bạc Thương Củng mặc nhiên quay người lại lấy tay chỉ vào Liễu Dật nói: “Là cậu ấy.”

Liễu Dật đứng bật dậy, vốn định thanh minh mình đã có vị hôn thê, nhưng khi nhìn thấy ánh mắt đảo lia lịa của Bạc Thương Củng thì lại không nói được gì.

Liễu Dật đương nhiên hiểu được ý của Bạc Thương Củng, như thế Thủy Nhi có thể thoát khỏi sự quấy nhiễu của gã Môn chủ lông gà kia, bản thân mình cũng gián tiếp làm một việc tốt, song lại cảm thấy việc tốt này sao lại phiền phức đến vậy.

Gã Môn chủ lông gà kia cuối cùng cũng khôi phục được trạng thái bình thường, ho gặng hai tiếng, nói: “Đã như vậy thì... Thủy Nhi, hãy lui xuống dưới ngồi đi.”

Thủy Nhi vừa nghe thấy thì như được đặc xá vậy, chạy vù xuống dưới ngồi bên cạnh Liễu Dật với tốc độ nhanh gấp ba lần lúc lên.

Môn chủ trừng mắt lên, nhìn Liễu Dật một cách lạnh lùng: “Ngươi chính là tay thư sinh đến từ Phong Ma Trấn? Đến mượn bảo vật phải không?”

Liễu Dật bước lên trước: “Chính là tiểu sinh.”

Ánh mắt hắn cứ thế đảo liên tục, gật gật đầu, nói: “Liễu công tử quả nhiên là bậc hiệp nghĩa, có điều... nếu bảo vật của Thần Môn bị Liễu công tử mang đi như vậy, mà sau này lọt đến tai người trong thiên hạ thì Thần Môn ta còn gì là quyền uy nữa."

Liễu Dật rút chiếc phiến ra thầm nghĩ: “Gã dâm tặc này rõ ràng là đang kiếm cớ.”

Rồi nói tiếp: “Môn chủ, vậy ý của ngài là...”

Quỳnh Phong Lôi cười, mâm mê hai viên dạ minh châu trong tay, nói: “Bổn tọa nghe nói, Liễu công tử là bậc tài tử Giang Nam, cầm kì thi họa cái gì cũng hay, ngay cả đến Hoàng đế ở chốn nhân gian cũng vô cùng tâm đắc với tài nghệ của Liễu công tử...”

Liễu Dật lắc đầu: “Tiểu sinh không hiểu ý của Môn chủ.”

Quỳnh Phong Lôi dừng vẻ tươi cười trên mặt, nói: “Vì thế, bổn tọa cảm thấy trong lòng không phục, ta phải thưởng thức tài năng của Liễu tài tử mới được.”

Rồi hắn lại tiếp: “Như thế này, ta muốn thi thố cổ cầm với Liễu công tử. Bổn tọa tự cho rằng cũng có chút am hiểu về âm luật, nếu không may mà bổn tọa thắng, vậy thì xin mời Liễu công tử trở về đường cũ, và hãy quên chuyện của Phong Ma Trấn đi.”

Liễu Dật ve vẩy chiếc quạt, thầm nghĩ: “Tên Cùng Phong Lạc này rõ ràng là muốn mình bẽ mặt rồi. Thần Môn là địa bàn của hắn, ở đây đều là người của hắn, làm sao mà thắng được; nhưng nếu không thi đấu, đừng nói không giúp được Phong Ma Trấn mà ngay cả Thủy Nhi ở bên cạnh cũng chẳng thể giúp được.”

Liễu Dật hỏi: “Nếu như tiểu sinh may mắn được thắng thì sao?”

Quỳnh Phong Lôi ngẩng mặt cười lớn: “Được, nếu ngươi thắng, ngươi đưa ra bất cứ yêu cầu nào, bổn tọa đều chấp nhận.”

Liễu Dật nhìn tên Môn chủ rồi cười: “Được, xem ra Môn chủ rất chắc chắn về phương diện âm luật, vậy thì Liễu Dật bất tài này bạo gan tiếp nhận lời thách đấu của Môn chủ.”, nói đoạn ngồi trở lại chỗ cũ.

Quỳnh Phong Lôi phất nhẹ ống tay áo, bên cạnh lập tức xuất hiện hai người mặc áo giáp trắng, hình như là hộ vệ cận thân của hắn. Quỳnh Phong Lôi nói: “Các người đi chuẩn bị cổ cầm!”

Hai người lĩnh mệnh lui ra.

Quỳnh Phong Lôi tiếp: “Cuộc đấu này, hai hộ vệ, Bạc trưởng lão, Thủy Nhi sẽ làm trọng tài.”

Liễu Dật gật gật đầu: “Không vấn đề gì.”

Vừa cười vừa thầm nghĩ: “Cái gã Cùng Phong Lạc này xem chừng thực sự có thực lực, bằng không sẽ không mời bốn người này làm trọng tài rồi. Lẽ nào hắn thực sự muốn dùng âm luật để đánh bại ta? ”

Thực ra, Quỳnh Phong Lôi sở trường nhất chính là âm luật, Liễu Dật mới đến Thần Môn đương nhiên không biết chuyện này. Quỳnh Phong Lôi muốn dùng âm luật để đánh bại Liễu Dật, để cho tài tử Giang Nam này bẽ mặt trước mặt Thủy Nhi, không thể hoàn thành ủy thác của Tửu Thúc ở Phong Ma Trấn, để cho chàng hoàn toàn thân bại danh liệt, từ đó mà truất bỏ cái danh tài tử.

Hai tên hộ vệ đã mang đàn tới đặt giữa đại sảnh.

Liễu Dật lắc chiếc quạt trong tay: “Xin mời Môn chủ.”

Quỳnh Phong Lôi không chút nhường nhịn, cũng có thể là hắn nôn nóng muốn cho Liễu Dật mất mặt, vì thế muốn bắt đầu nhanh hơn. Hắn tung người một cái, bay từ bảo tọa ngất ngưỡng phía trên xuống dưới, ngồi bên cạnh cây đàn.

Liễu Dật ve vẩy chiếc quạt, vừa đi đến bên cạnh Thủy Nhi, vừa chầm chậm nói: “Nhân ngoại hữu nhân, thiên ngoại hữu thiên.”(27)

Rồi nhẹ nhàng ngồi xuống, chuẩn bị thưởng thức tiếng đàn của gã Môn chủ lông gà kia.

-------------------------------------------------------

(27) Núi này cao còn có núi khác cao hơn

-oOo-

Hồi 40: Chiêu phong dẫn điệp, phù hoa nhân sanh mộng

(Dẫn ong dụ bướm, giấc mộng nhân sinh phù hoa)

Trên chiến trường, trong mối quan hệ giữa sự sống và cái chết, người càng sợ chết, ngược lại sẽ chết càng nhanh, cũng giống như một sòng bạc, người càng ít tiền, càng sợ thua lại thường thất bại nhất.

(Cổ Long - Luận)

Trong đại điện yên tĩnh đến mức tưởng như không một âm thanh nào tồn tại, Quỳnh Phong Lôi đã bắt đầu từ sự lên xuống dìu dặt như cao sơn lưu thủy, cùng với động tác của đôi tay, cây đàn cũng phát ra những âm thanh hết sức mĩ miều.

Âm thanh ấy như khúc nhạc tiên trên trời, lại như những tinh linh nhỏ bé biết hoạt động thì thầm vào tai mọi người, làm cho người ta có cảm giác được thả hồn bay bỗng giữa từng khung nhạc. Trong âm luật tuyệt vời ấy, mọi người như thể bước vào một thế giới khác, từng làn hương hoa xuất hiện trong đầu họ như ảo giác.

Liễu Dật phe phẩy chiếc quạt, chăm chú lắng nghe, đương nhiên hắn biết khúc nhạc mà Quỳnh Phong Lôi đang tấu chính là danh khúc “Ám hương”. Xem ra tên Quỳnh Phong Lôi này thực sự là một cao thủ về âm luật, hẳn là đã nắm bắt được điểm tuyệt diệu của khúc nhạc... Chỉ đáng tiếc... nóng lòng hấp tấp... Một khúc nhạc vốn có thể phát huy được đến cực điểm, nhưng trong hoàn cảnh này, gã Môn chủ lông gà đã bỏ sót mất vài phần.

Cùng với thời gian trôi đi, những ngón tay của Quỳnh Phong Lôi lướt nhanh trên phím đàn, khúc nhạc kết thúc. Quỳnh Phong Lôi đứng dậy, chắp hai tay ra phía sau, nói với Liễu Dật: “Liễu đại tài tử thấy khúc nhạc của bổn tọa có thể chấp nhận được không?”

Khi ấy những người khác mới tỉnh lại từ trong bản nhạc, người nào người ấy ánh mắt đầy vẻ kinh ngạc. Nếu như khúc nhạc ban nãy đúng là do Quỳnh Phong Lôi tấu... vậy thì... không biết Liễu Dật có bản lĩnh gì để so tài với thứ âm giai tuyệt vời đó đây?

Tuy mọi người không ai nói gì, nhưng khúc nhạc khi nãy quả là đã đạt đến độ tuyệt đỉnh, thật không biết để thắng được khúc nhạc đó thì cần phải đạt đến cảnh giới nào.

Liễu Dật phe phẩy chiếc quạt, vòng tay nói: “Bội phục, bội phục! Liễu Dật sớm đã nghe Môn chủ Thần Môn tuổi trẻ tài cao, đúng là một bậc đại tài tử, người trong tam giới giang hồ ai mà không biết, ai mà không hay cơ chứ.”

Dường như mấy câu nói của Liễu Dật rất có tác dụng, Quỳnh Phong Lôi cười: “Liễu công tử quá khen rồi, không biết Liễu công tử có còn...”

Quỳnh Phong Lôi vốn định hỏi Liễu Dật có còn muốn thi đấu tiếp không, rõ rang là hắn vô cùng hài lòng với khúc nhạc của mình.

Mấy người xung quanh đương nhiên đều hiểu ra ý trong lời nói của Quỳnh Phong Lôi, muốn cho Liễu Dật thấy khó mà lui, cũng đỡ phải mất mặt.

Liễu Dật nhìn vẻ mặt ngần ngại của Bạc Thương Củng, có lẽ ông ta cũng cho rằng Liễu Dật hoàn toàn không phải là đối thủ của Môn chủ; rồi lại nhìn sang Thủy Nhi, ánh mắt nàng đầy thất vọng, cho rằng Liễu Dật không có hy vọng thắng; rồi nhìn qua hai tên hộ vệ, ánh mắt chúng lộ vẻ coi thường, chắc chúng nghĩ Liễu Dật chẳng qua là loại thùng rỗng kêu to mà thôi.

LIễu Dật cười lên ha hả, vung vẩy chiếc quạt, nói: “Liễu Dật thực sự khâm phục khả năng âm luật của Môn chủ.”

Rồi đột nhiên thay đổi sắc mặt, trở nên lạnh lùng nghiêm túc hơn, chầm chậm nói: “Nhưng Môn chủ cần biết,

Trường Giang sóng sau đè sóng trước, thế giới bây giờ rất hiện thực, nếu như Môn chủ chỉ dừng trên khúc nhạc của người khác, cho dù có nỗ lực thì cũng vẫn là của người khác mà thôi, vì thế hôm nay chắc chắn Môn chủ sẽ thua.”

Quỳnh Phong Lôi dường như bị những lời của Liễu Dật làm cho kinh hãi, mãi không nói ra được câu nào.

Liễu Dật vẩy tay áo, nhẹ nhàng ngồi xuống, nói: “Khúc nhạc mà Liễu Dật muốn tấu là ‘Tiếu Thương Hải’ do Liễu Dật sáng tác khi mới mười tám tuổi, để mọi người phải chê cười rồi.”

Nói rồi, mười đầu ngón tay khẽ động, âm thanh dần vút lên, chầm chậm đi sâu vào trong tim mỗi người; rồi bỗng nhiên âm đàn tăng tốc, tựa như chỉ trong nháy mắt đã đi đến điểm cuối của cuộc đời, đã là thời điểm trăm tuổi, đầu tóc bạc trắng vậy. Tất cả mọi người đều không khỏi kinh ngạc, không còn nhận ra đó là ảo giác hay là thực tại.

Nghe tiếp, tiếng đàn lại trở nên ấm áp, như gió xuân thổi đến, ùa vào lòng mỗi người. Ở nơi điểm kết của cuộc đời, trong khoảnh khắc sắp kết thúc ấy, tất cả mọi người đều bị làn gió xuân ấm áp làm cho cảm động, họ nhớ lại cuộc đời của mình, họ bận rộn bôn ba dưới vòng danh lợi cho đến giây phút chết đi ấy thì ngay một người để mình nhớ thương cũng không có, nói gì đến người nhớ thương mình.

Tiếng đàn lại thay đổi, lúc nhanh lúc chậm, những trải nghiệm của hơn nửa cuộc đời dường như hiện lên trước mắt, nhìn thấy mình trong quá khứ thật là ấu trĩ, thật là vô tri, đã bỏ qua mọi tình cảm của người thân, tình bạn bè của chính mình chỉ để bận rộn. Cái gọi là niềm vui là gì chứ? Khi ấy, lúc sắp rời khỏi cái thế giới này, hỏi còn có thể làm được gì, nó tựa hồ như “phù hoa nhân sanh nhất mộng, ngưỡng thiên trường tiếu thương hải”(28) vậy.

Khúc nhạc đã hết, tất cả mọi người đều dần dần từ trong ảo giác bước ra, trong mắt của mỗi người đều vương lệ. Bi thương!

Liễu Dật khẽ đứng dậy, một cánh bướm vàng từ phía ngoài cửa lớn bay vào đậu trên vai Liễu Dật.

Liễu Dật trở lại chỗ ngồi, tự rót cho mình một cốc trà, nhẹ nhàng uống một ngụm rồi gật gật đầu: “Trà ngon.” Khi ấy mọi người như đã tỉnh ra rất nhiều, Bạc Thương Củng lau lau mắt, khẽ nói: “Lão phu một đời tung hoành giang hồ, không ngờ rằng lại hư không như vậy, xem ra... phải thay đổi mình một chút rồi.”

Hai tên hộ vệ phía sau Quỳnh Phong Lôi cũng nhỏ tiếng bàn luận: “Nên xin phép Môn chủ cho về nhà chăm sóc mẹ và vợ đi thôi.”

Lúc ấy Quỳnh Phong Lôi cũng tỉnh lại, nhẹ một cái trở về trên bảo tọa, hai thuộc hạ cũng trở về đứng sau hắn. Quỳnh Phong Lôi nhìn hai tên hộ vệ, rồi lại nhìn xuống dưới. Hẳn là hắn biết khúc nhạc khi nãy của Liễu Dật rõ ràng trên tài khúc nhạc của mình, nhưng lại không tiện nói ra, vì thế cười cười: “Liễu công tử thật đúng là cao nhân, nghe xong khúc nhạc của công tử như mới gặp được tri kỉ, còn nói gì đến thi đấu nữa. Bạc trưởng lão!”

Bạc Thương Củng đứng ra: “Có lão.”

Quỳnh Phong Lôi ra lệnh: “Hãy đưa Càn Khôn Kính cho Liễu công tử, suy cho cùng thì Liễu công tử cũng là làm chuyện tốt mà.”

Bạc Thương Củng gật đầu: “Vâng.”, nói rồi quay người, lật bàn tay một cái, trong lòng bàn tay đã hiện ra một chiếc gương màu hoàng kim óng ánh, cán được làm bằng đồng cổ. Bạc Thương Củng lại đưa gương cho Thủy Nhi.

Bạc Thương Củng nói tiếp: “Tuy Môn chủ đồng ý rồi, song chúng ta cũng vẫn nên cẩn thận một chút. Ta cử Thủy Nhi cùng đi đến Phong Ma Trấn một chuyến với ngươi. Càn Khôn Kính tạm thời giao cho Thủy Nhi giữ, tiểu huynh đệ thấy thế nào?”

Quỳnh Phong Lôi hỏi gặng: “Sao, Thủy Nhi cũng phải đi cùng à?”

Bạc Thương Củng gật đầu: “Đúng thế, đây cũng là vì muốn tốt cho bản môn. Hơn nữa Thần Môn chúng ta tất phải cử người ra tay giúp đỡ Phong Ma Trấn.”

Quỳnh Phong Lôi ậm ừ gật gật đầu: “Thôi được, việc này cứ như thế. Các người lui xuống đi!”

Hắn cũng muốn mau chóng kết thúc sớm chuyện này bởi vì cuộc đấu khi nãy hắn bại quá thê thảm.

Bạc Thương Củng, Thủy Nhi và Liễu Dật đứng dậy hành lễ, rồi quay người đi ra khỏi đại điện.

“Làm muội sợ chết đi được, cứ nghĩ rằng Liễu công tử không thắng nổi Môn chủ cơ đấy.”, Thủy Nhi vừa vỗ vỗ vào ngực, vừa nói.

Bạc Thương Củng chấp hai tay phía sau, cười lên sảng khoái: “Ha ha, ta có lòng tin với tiểu huynh đệ đây, nếu không, sao có thể làm ý trung nhân của Thủy Nhi được, ha ha.”

Liễu Dật đột nhiên dừng lại nói: “Tiền bối, Liễu Dật đã có vị hôn thê rồi, vãn sinh cho rằng... tiền bối không phải nói thật, đúng không?”

Bạc Thương Củng kéo Liễu Dật đứng lại, dùng Truyền Âm Thuật nói: “Đừng nói linh tinh nữa, Thủy Nhi sẽ đau lòng đó, có gì lát nữa đưa Thủy Nhi xuống dưới trước rồi hãy nói.”, nói rồi nhìn Thủy Nhi đang vừa đi vừa cười ở bên trên.

May mà cô ấy đi ở trước, nghe không rõ những lời Liễu Dật nói, mà cũng phải cảm ơn Bạc lão đã nhanh nhẹn chặn Liễu Dật lại.

Chẳng mấy chốc ba người đã xuống đến cửa dẫn vào ngôi nhà đá, Bạc Thương Củng nói: “Thủy Nhi, con vào trước đi, ta có chuyện muốn nói với tiểu huynh đệ đây.”

Thủy Nhi nghe lời gật đầu: “Dạ.”, rồi quay người đi về phía ngôi nhà.

Bạc Thương Củng kéo Liễu Dật qua một rừng cây bên cạnh bậc đá, hỏi: “Tiểu tử, cậu còn trẻ như vậy mà đã có thê thất rồi à? Không phải đang lừa ta chứ?”

Liễu Dật gật đầu: “Liễu Dật đâu cần phải nói dối? Yêu thì nói là yêu, không yêu thì nói không yêu, lẽ nào còn phải lừa dối tiền bối?”

Bạc Thương Củng bối rối: “Vậy Thủy Nhi phải làm như thế nào? Ngươi không thích nó sao?”

Liễu Dật phe phẩy chiếc quạt, mặt lộ vẻ khó nói: “Thủy Nhi quả thật là xinh đẹp, lại hiểu biết, những người gặp Thủy Nhi mà có dũng khí nói không thích cô ấy, vãn sinh nghĩ không có mấy người. Nhưng tiền bối nên hiểu, thích không đồng nghĩa với yêu, không có tình yêu làm sao hai người có thể tình nguyện đến bên nhau chứ? Nếu vãn sinh không nói, thì chính là đang lãng phí tình cảm của Thủy Nhi.”

Bạc Thương Củng vò đầu, hiện giờ ông ấy đâu có giống một tiền bối, rõ ràng là một cậu bé đang gặp phải vấn đề khó khăn.

“Thế nhưng nếu là nói với Thủy Nhi thì nhất định con bé sẽ rất đau lòng. Nó là một đồ đệ ngoan của ta, ta không nỡ để nó như vậy.”, Bạc Thương Củng vừa nghĩ vừa nói.

Nhưng Liễu Dật phản đối: “Nếu như vãn sinh không nói, đó mới thực sự là làm đau lòng cô ấy, sau này cô ấy càng cảm thấy bứt rứt hơn.”

Bạc Thương Củng lại vò đầu: “Thôi được rồi, không bàn đến nữa, vừa nói đến tình cảm là ta lại hồ đồ rồi. Cậu muốn nói như thế nào thì nói, nhưng... tuyệt đối không được làm cho nó tức giận bỏ chạy đấy.”

Liễu Dật gật đầu, rồi đi theo sau Bạc Thương Củng.

Cách đó mười hai trượng, cành cây khẽ động, trong không trung bỗng xuất hiện hai cô gái, đúng là Thủy Nhi và A Cửu, trên tay hai người cầm hai tờ Ẩn Thân Phù.

A Cửu hỏi: “Sao, đã nghe thấy rồi chứ? Ta thấy cô vẫn chưa từ bỏ thì phải?”

Thủy Nhi tuy là có chút biểu hiện khó chịu, khẽ gật đầu: “Liễu công tử là một người tốt, Thủy Nhi không hề yêu cầu điều gì cả. Thủy Nhi chỉ muốn thấy Liễu công tử hạnh phúc, vui vẻ, bởi đó cũng là hạnh phúc, là niềm vui của Thủy Nhi.”

Sắc mặt A Cửu có đôi chút khó coi: “Như thế không đáng, cô nên tìm một người mình yêu và cũng yêu mình ấy.”

Thủy Nhi nhẹ quay đầu lại: “A Cửu tỷ tỷ! Tỷ cho rằng thế nào là đáng, thế nào là không đáng? Vậy tại sao tỷ còn theo bên cạnh Liễu công tử? Vậy thì tỷ cho rằng, khi trong tim của tỷ đã in sâu hình bóng của huynh ấy, thì còn có thể chứa đựng hình bong của ai khác sao?”

A Cửu ngượng nghịu giải thích: “Ta... ta... ta đó chẳng qua là vì ham chơi nên mới theo cạnh thôi.”

Thủy Nhi cười, một nụ cười rất đẹp, cho dù là A Cửu nhìn thấy cũng phải thích. Chỉ nghe Thủy Nhi khẽ nói: “Như vậy xem ra, Thủy Nhi thành công hơn A Cửu tỷ tỷ rất nhiều rồi. Chí ít thì Thủy Nhi cũng dám yêu, cho dù phía trước có là vách đá vạn trượng, vực sâu không đáy đi chăng nữa, chỉ cần Thủy Nhi thực sự đã từng yêu, thì Thủy Nhi không hề oán hận gì.”, nói đoạn nhẹ nhàng nâng váy áo đi ra bên ngoài.

A Cửu nhìn bóng khuất dần của Thủy Nhi, thầm nghĩ: “Có lẽ ta làm người thực sự thất bại, không dũng cảm như Cát Lợi Nhi, không chân thành như Thủy Nhi, vậy thì bây giờ ta nên làm gì? Theo đuổi thứ hạnh phúc mà mình mong muốn cũng đã sai rồi sao? Hừm! Cái tên ngốc đáng chết kia, sao lại được nhiều cô gái yêu thế không biết? Vừa mới ra ngoài được mấy tháng mà đã như vậy rồi, sau này không biết còn thế nào nữa.”, nghĩ rồi cũng cười lên.

Lại nói về Liễu Dật, cuối cùng cũng đã mượn được Càn Khôn Kính, đi tới chỗ bàn đá, chỉ không thấy A Cửu và Thủy Nhi, còn Thập Kiệt Nhất và Đại Đao Vương đang nằm soài trên bàn phơi nắng.

Liễu Dật ngồi xuống, đập đập bàn: “Tốt rồi, tốt rồi, dậy thôi! Sau giờ Ngọ chúng ta trở về Phong Ma Trấn.”, nói rồi lấy trà tự rót cho mình một chén.

Vương Đại Đao lắc lắc cái đầu thời thượng của mình, nói: “Liễu đại ca, huynh đã lấy được bảo bối rồi? Trông thế nào, cho tôi mở rộng tầm mắt một chút.”

Liễu Dật uống ngụm trà, nói: “Ồ, lấy được rồi, ở chỗ Thủy Nhi cô nương. Thủy Nhi sẽ cùng chúng ta đi đến Phong Ma Trấn để trừ yêu.”

Vương Đại Đao: “Hì hì, Thủy Nhi cũng đi? Tốt lắm tốt lắm, vừa khéo tôi có thể theo cô ấy học Ẩn Thân Phù, hì hì.”, rồi hắn cười càng dâm đãng hơn.

“Thiên lôi chú.”, Thủy Nhi quát lớn.

Một tiếng sét giữa trời xanh, một quả đại lôi rơi xuống, nhằm thẳng người Vương Đại Đao, tiếp theo đó là một luồng sáng; gần như xương cốt của Vương Đại Đao đều hiện cả lên, hắn nằm vật ra đất, chân liên tục co giật, toàn thân đen như than, miệng còn bốc lên từng luồng khói, mắt trợn ngược, nói: “Tại sao người bị thương luôn là tôi vậy?”

Thập Kiệt Nhất vội đổi chỗ ngồi, nói khẽ: “Sau này phải tránh xa tên này ra một chút, ngộ nhỡ Thủy Nhi giáng không chuẩn, mình chẳng phải xui xẻo là gì.” Thủy Nhi phủi phủi tay: “Ai bảo hắn cứ vớ vẩn, nghĩ một lần tôi đánh một lần.”

Liễu Dật lắc đầu, làm ngụm trà, nói: “Thủy Nhi à, muội nên biết rằng, lấy bạo trừ bạo chỉ tổ càng trừ càng bạo mà thôi, ta thấy muội nên suy nghĩ tìm cách khác đi.”

A Cửu phá lên cười chạy từ bên cạnh tới, đứng cạnh Thủy Nhi: “Cách tốt nhất là ngày nào cũng theo sát Đại Đao Vương, chỉ cần hắn nghĩ bậy bạ là nướng đen hắn luôn, để xem hắn còn càng ngày càng bạo được hay không.”

Liễu Dật gật gật đầu: “Có lý, đây quả là biện pháp hay, tuy vậy... hơi tàn nhẫn một chút.”

Thủy Nhi cười cười, nhìn qua A Cửu: “Chủ ý của A Cửu tỷ tỷ không phải không tốt, nhưng Thủy Nhi lại không muốn ngày nào cũng phải theo sát hắn.”

A Cửu cười gượng: “Thôi được rồi, không đùa nữa. Mọi người nghỉ ngơi đi, một lát còn phải lên đường nữa, ta đang nóng lòng muốn thấy lũ yêu quái kia trông ra sao đây.”

Thủy Nhi cũng gật gật đầu. Tất cả mọi người, trừ Đại Đao Vương đang nằm dưới đất ra, đều ngồi xung quanh bàn uống trà và nghỉ ngơi.

---------------------------------------------

(28) Một giấc mộng nhân sinh phù hoa, ngửa mặt lên trời cười biển xanh

-oOo-

Hồi 41: Khu Ma đại trận, phục ma tâm dục tĩnh

(Khu ma đại trận, tâm phải tĩnh mới diệt được ma)

Muốn biết bí mật của người, cách tốt nhất là tiết lộ bí mật của mình trước

(Cổ Long - Luận)

Một hàng năm người, năm khoái mã, cuốn theo bụi mù rời khỏi Thần Môn, hướng về phía Phong Ma Trấn phi nhanh. Có được pháp khí, Liễu Dật tự nhiên thấy lòng nhẹ nhõm, chỉ cần đến Phong Ma Trấn chế trụ yêu tà, sau đó hộ tống A Cửu về hoàng cung, vậy là có thể đi tìm Cát Lợi Nhi, có thể nghỉ ngơi thoải mái...

Những người khác đều có những suy nghĩ riêng tư. Như Thập Kiệt Nhất, trong những ngày này chỉ quanh quẩn bên cạnh A Cửu, nghĩ rằng không lâu nữa sẽ phải chia tay nên cứ nhìn mãi A Cửu. Nhưng yêu hay không yêu chẳng phải do hắn quyết định mà được.

Mấy ngày qua, cả năm người đều vui vẻ nói nói cười cười; đôi lúc A Cửu và Thủy Nhi tranh chấp từng câu từng chữ, cuối cùng phải nhờ Đại Đao Vương phân giải hộ.

Nhìn qua mọi người, Đại Đao Vương nói: “Sau này mấy người chúng ta lập một nhà tranh sống cạnh đại ca, có được không?”

Liễu Dật gật đầu nói: “Tốt lắm, sẽ rất nhiệt nháo. Lúc đó ta sẽ bảo cha ta dẹp bỏ công việc kinh doanh, chúng ta sẽ đến nơi thế ngoại đào viên an cư ở đó, cuộc sống nhất định sẽ rất khoái lạc.”

Thủy Nhi gật đầu nói: “Vâng, Thủy Nhi lúc đó sẽ không học tiên pháp, đạo thuật gì nữa, sẽ đến sống tại nơi thế ngoại đào viên đó.”, nói xong không nhịn được liền bật cười.

A Cửu cười nói: “Tốt quá, ta sẽ đến đó xây vài tòa nhà, ha ha, để bồi tiếp các người.”

Thập Kiệt Nhất ngớ ngẩn cười hề hề: “A Cửu bồi tiếp chúng tôi, thật là tốt quá.” Liễu Dật cười cười nói: “Ta thấy trước tiên nên đưa A Cửu đến địa điểm an toàn, sau đó tiếp tục nhiệm vụ tại Phong Ma Trấn, rồi đón A Cửu, về sau cô có chạy đi đâu cũng không phải việc của ta, chứ hiện giờ ta thấy như đang dâng A Cửu vào miệng hùm vậy.”

“Ha ha ha ha”, đoàn người phá lên cười, thanh âm vang vọng ra xa, giục khoái mã buông vó, hướng Phong Ma Trấn nhanh chóng phi tới...

oOo

Cuối cùng, sau mấy ngày hành trình mệt mỏi, năm ngườii cũng đến được Phong Ma Trấn. Nhìn mặt trời đã đến chánh Ngọ, Liễu Dật xuống ngựa, nói: “Đại Đao Vương, trước tiên hãy đem ngựa đến khách sạn.”

Đại Đao Vương gật đầu, dẫn mấy con ngựa bước đến trước cửa khách sạn.

Liễu Dật đứng sững giữa Phong Ma Trấn, một cơn gió thổi đến, cỏ dại trên đường bay loạn vào không trung. Phong Ma Trấn trong cơn gió bụi, phong cảnh thật thê lương.

Trên đường không bóng người qua lại, Liễu Dật tự nói với mình: “Xem ra Phong Ma Trấn đã trở thành một thị trấn chết. Đi! Chúng ta đến gặp Tửu thúc!”, nói xong, đi về phía góc tường.

Y phục là thứ quần áo rách nát, người là một lão đầu già nua tay cầm hồ rượu không ngừng trút vào miệng, Tửu thúc nằm trên một cái ghế gãy.

Tửu thúc vừa gặp Liễu Dật, liền hỏi: “Ngươi đã về, cuối cùng cũng về rồi. Thế nào? Có mang được thứ có thể cứu Phong Ma Trấn không?”

Liễu Dật nhìn Thủy Nhi đang đứng ở phía sau. Thủy Nhi liền bước lên một bước. Liễu Dật nói: “Có ở đây.”

Tửu thúc tròn mắt nói: “Có phải ta uống nhiều rượu quá không? Sao ngươi lại mang một nữ oa nhi về đây?”

Liễu Dật cười cười nói: “Tửu thúc, cô ta chính là người của Thần Môn, hơn nữa cô ta có mang theo bảo vật có thể thu phục yêu tà.”

Tửu thúc hỏi gấp: “Thật không? Vậy là tốt quá rồi. Mấy ngày nay, người trong trấn không dám ra khỏi cửa, chỉ ở trong nhà nhìn ra, ai nấy đều mang tâm trạng bàng hoàng sợ hãi.”

Thủy Nhi bước tới, chăm chú nhìn Tửu thúc, đột nhiên hỏi: “Tửu thúc vì sao không sợ mà lại ra ngoài này?”

Tửu thúc cười nói: “Ta chỉ còn bộ xương già, vả lại hiện giờ đang là ban ngày, sao lại phải sợ? Không ra phơi nắng, lão đầu ta chết ở trong nhà mất.”

Thủy Nhi cười nhẹ nói: “Xem ra... cho dù người ở đây có chết hết chăng nữa, Tửu thúc cũng sẽ không mệnh hệ gì.”

Tửu thúc uống tiếp một hớp rượu nói: “Tiểu oa nhi nói thế, tuy chẳng có chút đạo lý, nhưng Tửu thúc cũng không giận đâu. Nào đến đây, ngồi xuống nghỉ một lát. Tối nay các ngươi sẽ bận rộn đấy.”

Thủy Nhi và mọi người cùng tiến đến bên chiếc bàn gỗ, Liễu Dật hỏi tiếp: “Thế nào? Tối có việc gì?”

Tửu thúc mơ màng hớp rượu, đưa cặp mắt say sưa nhìn từng người một, nói: “Phong Ma Trấn hiện tại xuất hiện ba loại tà vật: hủ thi, cương thi, khô lâu. Hủ thi không sợ đao thương, cương thi sức mạnh vô cùng, khô lâu nhanh nhẹn mẫn tiệp. Ba loại tà vật này mỗi tối tụ họp tại năm dặm phía trong Phong Ma Trấn gây họa cho bách tính, làm cho dân trong trấn hiện giờ sợ đến không dám rời khỏi phòng một bước.”

Liễu Dật hỏi gấp: “Tửu thúc nói vậy... chúng đã tiến vào trấn rồi ư?”

Tửu thúc lắc đầu nói: “Vẫn chưa. Không biết vị cao nhân nào đã lập một trận pháp xung quanh trấn, lũ tà vật đó không xâm nhập vào được, tạm thời trấn được an toàn. Nhưng... người dân trong trấn thật sự đã quá kinh hãi, không dám ra khỏi nhà.”

Thủy Nhi gật gât đầu nói: “Trận pháp này, khi vào trấn ta đã thấy, giống như ‘Khu Ma Đại Trận’ mà sư phụ đã nói, nhưng... trận pháp này người của tam giới không thể bố trí hoàn chỉnh được.”

Liễu Dật cảm thấy kỳ lạ: “Nếu không ai có thể bố trận, vậy trận này do ai tạo nên?”

Thủy Nhi nói tiếp: “Chỉ có một khả năng: Thần tộc có người tỉnh lại, và đã đến Nhân Gian giới.”

Tửu thúc như không nghe thấy, tiếp tục uống rượu.

Liễu Dật liền hỏi tiếp tục: “Thần tộc? Tiên tộc? Không phải cùng nguồn gốc sao? Các người không phải cùng một chủng tộc sao?”

Thủy Nhi lắc đầu nói: “Thần tộc là do Bàn Cổ, Nữ Oa tạo ra, là chủng tộc cao cấp nhất. Truyền thuyết hàng vạn thế kỷ trước, Thần tộc, sau khi tạo ra Nhân Gian này, tiếp tục chìm trong giấc ngủ sâu, từ từ biến mất. Nhưng trận pháp này, theo hiểu biết của Thủy Nhi, trong tam giới không ai có thể bố trí được, ngoại trừ người của Thần tộc.”

Liễu Dật cảm thấy kỳ quái, hỏi: “Nếu đúng như cô nói, người này hoàn toàn có thể tiêu diệt được bọn yêu tà đó, vì sao hắn chỉ lập trận xung quanh trấn?”

Thủy Nhi cười cười nhìn Tửu thúc, nói: “Điều này, phải thỉnh cầu Tửu thúc giải thích mới được.”

Tửu thúc uống thêm một ngụm rượi nói: “Tiểu oa nhi, tại sao cứ nói trên đầu lão thế? Ta thật sự không biết gì hết. Ta chỉ mong các ngươi đến sớm một chút, trừ khử lũ quái vật đó để ta còn có thể yên tâm uống rượu. Ta chỉ có thể nói thế thôi.”

Thủy Nhi vẻ mặt nghiêm nghị nhìn Tửu thúc, bí ẩn nói: “Ông có biết đã phạm sai lầm gì không?”

Liễu Dật gật đầu nói: “Bất kể thế nào, chúng ta đã đến Phong Ma Trấn rồi, nếu người đó không diệt trừ lũ yêu tà, vậy thì... tối nay chúng ta sẽ thử.”

A Cửu vỗ tay nói: “Tốt lắm, tốt lắm! Ta thật mốn xem lũ yêu quái hình dạng ra sao.”

Đại Đao Vương đứng ngoài thò đầu vô, nói: “Ha ha, sợ là đến lúc bị yêu quái ăn thịt rồi mà cũng chưa biết đó.” A Cửu vỗ vai Thập Kiệt Nhất nói: “Có Thập Nhất bảo hộ ta, yêu quái nào ăn thịt được. Phải không, Thập Nhất?”

Thập Kiệt Nhất gật đầu lia lịa: “Đúng, yêu quái nào dám đến gần A Cửu, ta sẽ cho nó đi đầu thai luôn, hãy thử xem...”

Tửu thúc hớp một ngụm rượu nói: “Kỳ thật những thứ này, chỉ có thể gọi là quái, không thể gọi là yêu. Yêu là chỉ những sinh vật tu luyện ngàn năm có thể hóa thành người; giống như chúng ta, yêu cũng có tim. Quái thì vô tình, do đó quái còn đáng sợ hơn yêu nhiều.”

Thủy Nhi nhìn Tửu thúc, cười ngọt ngào nói: “Tửu thúc, người tuyệt đối không phải là một lão đầu bình thường.”

Tửu thúc lắc lắc đầu: “Ngươi nói đúng, ta không phải là một lão đầu bình thường, ta là một tửu quỷ lão đầu, ha ha.”

Mọi người thấy vậy đều cười ha hả.

Tửu thúc chiêu thêm một ngụm rượu nói: “Các ngươi đều còn rất trẻ, đường đi còn dài, thấy các ngươi đều là những người có tâm thiện lương, lão già này cũng vui mừng.”

Liễu Dật cười nói: “Tửu thúc, tối nay chúng tôi đi diệt trừ yêu tà của Phong Ma Trấn, sau đó hộ tống A Cửu về hoàng cung, ta phải tới Miêu Cương để tìm Cát Lợi Nhi, chúng tôi sẽ thành thân, rồi sống một cuộc sống vui vẻ. Nhưng trước khi thật sự được như vậy, chúng ta chỉ có thể mơ về nó.”

Liễu Dật nói ra những lời này, mỗi người đều có sắc mặt khác nhau. Thủy Nhi, A Cửu, Thập Kiệt Nhất, Đại Đao Vương, đều có tâm sự của mình.

Nhưng Tửu thúc đã hớp một ngụm rượu lớn nói: “Hài tử, cái gì đến sẽ đến, là nhân sinh cũng tốt, là số mệnh cũng tốt, ngươi không thể trốn tránh. Có lẽ, với những kinh lịch của ngươi, cuộc sống chỉ mới bắt đầu.”

Liễu Dật có cảm giác hụt hẫng, những người khác thì cảm thấy kỳ quái. Liễu Dật hỏi dồn: “Tửu thúc nói gì vậy?”

Tửu thúc cười cười nói: “Lão đầu ta là một tửu quỷ có tài tiên đoán, theo ta thấy, cuộc sống của ngươi chỉ mới bắt đầu.”

Liễu Dật hỏi gấp: “Chỉ mới bắt đầu? Sau đó thì sao? Sau đó là gì?”

Tửu thúc hớp một ngụm rượu, nói tiếp: “Sau đó? Ta không biết. Ta chỉ biết, con đường của ngươi chỉ mới bắt đầu thôi.”

-oOo-

Hồi 42: Phong Ma trừ quái, kinh tẩu thiên thượng nhân

Gió thổi ngoài cửa, lá vàng từng chiếc từng chiếc rơi xuống khung cửa, giống như bàn tay mệt mỏi gảy lên những tiếng đàn buồn; tuy có thanh âm, nhưng trầm buồn hơn cả sự thinh lặng.

(Cổ Long - Luận)

Màn đêm từ từ buông xuống, ngôi sao sáng nhất cũng bắt đầu xuất hiện trên trời cao. Nó sáng nhất, nhưng cũng cô độc nhất, tịch mịch nhất; vì ánh sáng của nó, đã được định trước là cô độc, tịch mịch.

Liễu Dật vừa uống rượu của Tửu thúc, vừa nói: “Trời đã bắt đầu tối, lũ quái vật chắc sắp xuất hiện rồi...”

Tửu thúc gật đầu nói: “Ừm, cũng sắp xuất hiện rồi. Tạm thời chúng không thể vào trấn được, chỉ phá phách ở ngoài trận thôi.”

Liễu Dật hớp một ngụm rượu, đứng dậy nói: “Chúng ta ra ngoài xem thử, nếu thành công, tối nay Phong Ma Trấn sẽ ổn định trở lại.”, nói xong xoay người bước ra ngoài.

Thủy Nhi, A Cửu đi thành hàng theo sau Liễu Dật.

Tửu thúc hớp một ngụm rượu rồi nói: “Đây mới chỉ là sự bắt đầu của ngươi, sau này ngươi sẽ không phải chỉ đối mặt với mấy con quái vật đơn giản thế này đâu...”

Liễu Dật không nói gì, dẫn mọi người bước ra ngoài trấn. Chân chưa đến trấn khẩu đã nghe một thứ âm thanh ken két rợn người và một mùi hôi thối khôn tả xộc thẳng vào mũi, Liễu Dật nói: “Có vẻ như Khu Ma Đại Trận này thật là diệu dụng, không hiểu sao vị thần đó không thu phục đám yêu quái này luôn đi.”

Thủy Nhi lắc đầu nói: “Đúng là không thể hiểu nổi.”

Đoàn người vừa đi vừa nói, phút chốc đã đến trấn khẩu. Vừa nhìn thấy, nét mặt mọi người bổng như trơ cứng lại. Những con quái vật này thật sự khiến ai cũng phải khiếp đảm. Hủ thi thì da thịt toàn thân rửa nát, phía trên còn có thể thấy được dòi bọ đang bò lúc nhúc, phát ra một mùi hôi thối không thể tả được. Nhìn qua cương thi, tốt hơn một chút, nhưng thấy cặp mắt đỏ tươi, răng dài lòi ra ngoài, làm người ta có cảm giác khiếp sợ đồng thời nghĩ ngay đến hai chữ “khủng khiếp”. Nhìn đến khô lâu, hơi hoạt kê, toàn thân đều là xương, nhưng lại không ngừng nhún nhảy một cách kỳ quái.

Năm người đứng tại trấn khẩu nhìn lũ quái vật. Lũ quái vật này cũng không thể tiếp cận chu vi năm mươi thước bên ngoài trấn được, dù chúng đã cố gắng xung phá nhưng đều bị đẩy lùi bởi những lực vô hình.

Thủy Nhi nói: “Nếu như trận pháp này được thiết lập xung quanh quái vật thì hiệu quả hơn, không hiểu sao vị thần nhân này lại lập trận xung quanh trấn.”

A Cửu nhìn lũ quái vật, la lớn: “Kinh khủng quá! Không nhìn nữa, không nhìn nữa!”, rồi quay mạnh đầu ra sau, úp mặt vào lòng Thập Kiệt Nhất.

Thập Kiệt Nhất bị bất ngờ khiến người cứ trơ ra.

Liễu Dật quay sang Thủy Nhi hỏi: “Thủy Nhi, Càn Khôn Kính có thể thu phục được nhiều quái vật như vậy không?”

Thủy Nhi gật đầu nói: “Những quái vật này hoàn toàn nhờ sở hữu một năng lực phi sanh mệnh, là oán khí khi chết đi vẫn còn lưu lại đã giúp chúng. Tùy theo oán khí nhiều hay ít, chúng cũng trở nên hung dữ hay không. Còn Càn Khôn Kính là do sư phụ dung vật thiên địa chí cương chí dương để luyện, trong kính có càn khôn, gọi là Càn Khôn Kính, có thể hút được âm giới oán khí.”

Liễu Dật thắc mắc: “Cái kính này nhỏ quá. Muội xem... phía trước khí đen cuồn cuộn, làm sao hút hết được?” Thủy Nhi rút tấm kính ra, đặt xuống mặt đất, mặt kính hướng về phía lũ quái vật. Đồng thời cũng rút ra tám cây hoàng sắc tiểu kỳ, nói: “Các người hãy lùi ra sau ba trượng.”

Liễu Dật và mọi người cùng lùi ra sau.

Thủy Nhi ngước mặt lên trời nhìn vầng nguyệt đang lên, song thủ tách ra, tám cây cờ nhỏ cùng xuất, mỗi lá cờ cách nhau một khoảng nhất định, tạo thành một hình bát quái bao quanh Càn Khôn Kính.

Thủy Nhi ngón trỏ và ngón giữa tay kẹp một đạo linh phù màu vàng, miệng lâm râm niệm thần chú. Đột nhiên, đạo hoàng sắc linh phù “bùng” một tiếng bốc cháy, ngọn lửa bao quanh hai ngón tay của Thủy Nhi, lửa từ từ phủ trùm bàn tay của Thủy Nhi. Tay phải Thủy Nhi tại thành song chỉ đâm mạnh tới, một đạo ánh sáng vàng bay thẳng đến một hoàng sắc tiểu kỳ.

Lá cờ nhỏ đột nhiên tỏa ánh vàng rực rỡ, từng lá cờ nối tiếp nhau, cuối cùng cả tám đều tỏa sáng. Luồng sáng từ từ dâng cao, hướng lên trời, càng lúc càng cao. Đột nhiên... một luồng sáng bạc như ánh trăng xuất hiện, dung nhập tám đạo hoàng quang của tám lá tiểu kỳ ở trên không.

Đạo hào quang dung nhập lại chiếu ngược trở xuống, nhắm ngay giữa Càn Khôn Kính tiến tới. Chỉ thấy Càn Khôn Kính tỏa ánh sáng cực mạnh, ụp xuống lũ quái vật.

Hiện tượng kì quái bắt đầu diễn ra. Chỉ thấy một luồng khói màu xám đen bị hút vào mặt kính; một cơn gió thổi qua, bọn khô lâu, cương thi, hủ thi đột nhiên biến thành bụi, tan biến vào không trung. Chỉ trong vòng một tuần trà, bọn quái vật đã bị tiêu diệt, biến thành cát bụi, tiêu biến tại cổng vào Phong Ma Trấn.

Thủy Nhi phất tay, bàn tay như có hấp lực, tám lá hoàng sắc tiểu kỳ rời mặt đất, bay vào tay nàng. Thủy Nhi cuối xuống, nhặt Càn Khôn Kính lên, chỉ thấy trong kính đầy oan hồn, bay vật vờ, rất đáng sợ. Bàn tay phất lên, mặt kính trở lại trong sáng như thường.

Đại Đao Vương lắc đầu, chạy đến nói: “Thật lợi hại, không tưởng được Thủy Nhi cô nương lại có thân thủ như thế.”

Thủy Nhi cười nói: “Đừng có tâng bốc ta, đây toàn là do sư phụ ta dạy thôi.”

Liễu Dật phe phẩy chiếc quạt nói: “Thần Môn hiện tại có quyền lực cao nhất ở thượng giới, võ công cũng cao nhất thì đệ tử chân truyền cũng không thể khác được, ha ha.”

Thủy Nhi cất tấm kính vào người, nói: “Xong rồi. Ngoại trừ sư phụ, người có quyền lực nhất, võ công tối cao là Tứ trưởng lão Dương Vân Phong.”

Liễu Dật hỏi tiếp: “Thật à? Mấy con quái vật này chết hết rồi chưa?”

Thủy Nhi lắc đầu nói: “Muội chỉ hủy diệt nhục thể của chúng thôi, oan hồn thì ở trong kính. Không tưởng được Phong Ma Trấn oán khí quá nhiều, tồn tại kéo dài hang ngàn vạn năm, Càn Khôn Kính cũng không thể luyện hóa được chúng.”

Liễu Dật hỏi tiếp: “Vậy phải làm thế nào?”

Thủy Nhi lắc đầu nói: “Muội không biết. Nếu cứ như thế này... Muội nghĩ Càn Khôn Kính chỉ tạm thời áp trụ oán khí, nhưng một ngày nào đó, oán khí nhất định sẽ xuất hiện trở lại.”

Liễu Dật bắt đầu lo lắng, bước tới bước lui, nói: “Làm thế nào cho tốt đây? Hiện tại Càn Khôn Kính của Thần Môn cũng không thể tiêu diệt được chúng, như quả có một ngày oan hồn thật sự xuất hiện, thì nó sẽ đáng sợ hơn nhiều so với bây giờ.”

Thủy Nhi đột nhiên vừa cười vừa nói: “Có rồi! Nếu muội đoán không sai, Tửu thúc nhất định sẽ nói cho chúng ta biết. Muội luôn nghĩ Tửu thúc không phải là một người bình thường.”

Liễu Dật cảm thấy kì quái, Tửu thúc không phải là lão đầu say rượu đó sao? Ông ta có gì để nói với chúng ta? Nhưng nếu đúng như Thủy Nhi nói, ông ta nhất định sẽ có chuyện muốn nói.

Thủy Nhi nói: “Chúng ta đi thôi, đến gặp Tửu thúc.”, nói xong hướng vào trong trấn bước tới. Liễu Dật và mọi người lo lắng bước theo sau, không biết trong hồ lô của Thủy Nhi có chứa thứ thuốc gì.

Đoàn người nhanh chóng quay về nhà của Tửu thúc. Ghế thì vẫn cái ghế gãy đó, sàn nhà vẫn đầy những hồ rượu không thay đổi, nhưng, điều kì quái là mọi người ngó khắp phòng Tửu thúc mà không thấy người, thậm chí những căn nhà phụ cận cũng đã được tìm qua cũng không có.

Thủy Nhi lo lắng hỏi: “Sao rồi, Tửu thúc đâu?”

Liễu Dật trấn an: “Đừng lo lắng quá, hiện vẫn chưa tìm thấy.”

Thủy Nhi nói tiếp: “Không lo sao được? Có thể những oan hồn này sẽ mang đến một tai họa lớn hơn, cần trở về báo với sư phụ tìm biện pháp tiêu diệt chúng, bọn này thật quá đông.”

Đột nhiên, Thập Kiệt Nhất chạy đến, nói: “Lão đại, có thư, huynh nhìn xem!”

Liễu Dật bước đến. Quả nhiên, Thập Kiệt Nhất trên giường phát hiện một phong thư.

Liễu Dật mở phong thư ra, bắt đầu đọc: “Khi nhìn thấy bức thư này, Tửu thúc đã đi trước một bước, nhưng các con cũng phải tiếp tục bước trên con đường của mình. Ta chỉ là một người dẫn đường mà thôi. Sau này, các con phải tự quyết định phải bước đi như thế nào, có lẽ chúng ta cũng còn cơ hội gặp lại. Tiểu hài tử Thủy Nhi, nhãn lực khá lắm, và cũng xinh đẹp lắm, ha ha. Ta tưởng con có thể tiêu diệt lũ quái vật này, nhưng oán khí của bọn quái vật này lại sinh ra oan hồn, con không thể diệt trừ được. Tửu thúc cho con một hướng dẫn cuối cùng, từ đây đi về hướng bắc, ngoài ngàn dặm, ở đất Thục, có ngọn Nga Mi Sơn, trong núi có núi, tên gọi là Nhạc Sơn, là Nhân Gian giới, là đất Phật. Tới đó, con có thể thỉnh cao tăng siêu độ cho oan hồn. Tửu thúc đã mệt rồi, cần phải nghỉ ngơi, chúng ta có duyên sẽ gặp lại.”

Liễu Dật đặt bức thư xuống, nói: “Mọi người nghe hết rồi chứ?”

Liễu Dật nhìn mọi người, rồi nhìn A Cửu nói: “Tốt rồi, A Cửu, cô hãy cùng Thập Kiệt Nhất hồi cung. Ta và Đại Đao Vương, Thủy Nhi đến Phật Môn.”

A Cửu lắc đầu nói: “Không muốn, ta còn chơi chưa đủ, ta cũng muốn đến Phật môn.”

Liễu Dật kiên quyết nói: “Không được, nếu cô còn chút trách nhiệm, hãy nghĩ đến người nhà của Liễu Dật này, tại sao cô bướng bỉnh quá vậy? Cô có biết đang mang trên người mạng sống toàn gia hơn ngàn người của Liễu Dật? Cô còn có trái tim không?”

A Cửu lo lắng nói: “Không phải, ta...”

Liễu Dật ngắt lời A Cửu: “Nếu như cô coi Liễu Dật là bằng hữu, Liễu Dật thay mặt cả nhà, thỉnh công chúa hồi cung!”

A Cửu lo lắng, quay đi, nói: “Hừ! Chết tiệt, ta đi không tốt sao?”, nói xong hướng về phía bóng tối bước đi. Khi A Cửu quay đi, Thủy Nhi thấy mắt A Cửu lấp lánh ánh lệ.

Liễu Dật thở dài nói: “Thập Nhất, ngươi phải bảo vệ A Cửu cho tốt, nhất định phải đưa cô ấy hồi cung, sinh mạng toàn gia Liễu Dật nằm trong tay ngươi đó, ngươi không được để cô ta trốn nữa.”

Thập Kiệt Nhất gật đầu nói: “Đệ đi đây, lão đại, huynh hãy bảo trọng! Đệ đưa cô ấy hồi cung rồi sẽ lập tức đến Phật Môn cùng huynh hội hợp.”

Liễu Dật gật đầu.

Thập Kiệt Nhất quay người đuổi theo A Cửu.

Thủy Nhi nhìn hai người, trong lòng xuất hiện một câu hỏi: “Đây có phải là yêu không? Tình yêu vị kỷ, hoàn toàn chỉ biết có đối tượng của mình, thậm chí gia đình cũng không thiết đến.”

Liễu Dật quay người đi nói: “Tối nay chúng ta qua đêm tại nhà Tửu thúc, sáng mai lên đường đến đất Thục.” Đại Đao Vương cầm một hồ rượu, nếm thử, nói: “Vị Tửu thúc lai lịch thế nào? Xem chừng cũng lợi hại như Thủy Nhi vậy.”

Thủy Nhi cũng cầm một hồ rượu nhỏ nói: “Nếu ta đoán không lầm, ông ta là người của Thần tộc trốn xuống nhân gian, xong việc rồi lại quay về giấc ngủ dài.”

Liễu Dật cũng cầm một bình rượu lớn nói: “Cứ để ông ta làm những gì ông ta muốn, chúng ta giải quyết tốt việc này là được rồi. Nào, trước tiên hãy uống cho thống khoái đã.”

Nói xong mở lớn miệng ra uống.

Thủy Nhi cười nói: “Tửu thúc từng nói đây mới chỉ là bắt đầu của huynh, sẽ còn nhiều việc xảy ra nữa, vì thế huynh đừng nên ôm hy vọng quá lớn, hy vọng càng nhiều thất vọng càng cao.”

Ba người mỗi người một câu nói về mỹ tửu. Trong căn nhà cỏ, dưới ánh trăng sáng, thống khoái uống rượu. Có lẽ sau mười năm, đây là hồi ức không thể quên của mỗi người...

-oOo-

Hồi 43: Mộng nhuyễn phao ảnh, tử sắc phát tùy phong

Một người nếu không thể ở bên người mà mình thật lòng yêu thương, dẫu họ có được tất cả những vinh quang và của cải trên thế gian thì khi đêm về họ cũng không tài nào yên giấc được, họ vẫn sẽ rơi nước mắt.

(Cổ Long - Luận)

Để đám bụi mù cuộn về phía trước, bọn Liễu Dật ba người giảm dần tốc độ; dù người không cần nghỉ thì ngựa cũng cần phải nghỉ ngơi, nếu không bọn chúng sẽ chết vì kiệt lực mất.

Liễu Dật ngồi trên lưng ngựa, nói: “Thủy Nhi, muội nói tại đất phật thật có cao tăng có thể siêu độ oan hồn không?”

Thủy Nhi gật đầu nói: “Có thể. Chỉ không biết có tìm được vị nào đạo hành đủ cao để làm việc này hay không.”

Liễu Dật gật đầu, đột nhiên cười nói: “Để Thủy Nhi cô nương đi cùng Liễu Dật xa thế này, thật có lỗi quá.”

Thủy Nhi cười nói: “Không cần xin lỗi muội đâu, muội ở mãi trong Thần Môn đến phát chán rồi, giờ cũng nên bôn tẩu giang hồ một thời gian.”

Đại Đao Vương ở bên cạnh ngắt lời: “Ta nghe nói người trong Phật Môn rất ít khi giao tiếp với người ngoài, không biết lần này chúng ta đến, có thể đến gần cổng không nữa.”

Liễu Dật lắc đầu nói: “Chúng ta vì thiên hạ chúng sanh, phật vốn từ bi, tin rằng họ không xua đuổi chúng ta.”

Thủy Nhi nhìn Liễu Dật nói: “Có vẻ Liễu công tử đối với Phật Môn cũng có tìm hiểu qua.”

Liễu Dật vừa cười vừa nói: “Chỉ là lúc còn nhỏ có xem vài quyển kinh phật, không thể gọi là nghiên cứu. Chúng ta hãy nhanh lên, đã ba ngày, ta nghĩ chúng ta gần đến Phật Môn rồi.”

Thủy Nhi cũng gật đầu nói: “Phải.”

“Đi!”, ba người phi nhanh, hướng về Phật Môn tiếp tục tiến tới.

Đột nhiên trong bụi cỏ rậm bên đường xuất hiện ba người vận Hồng y bịt mặt cầm trường kiếm, một người trong số đó đứng trước hai người khác nói: “Tên thư sinh đó là Liễu Dật, nhiệm vụ của chúng ta là lấy đầu hắn xuống.”

Hai người ăn mặc giống nhau ở phía sau đồng thanh nói: “Rõ!”

Ba người cùng phát động. Trường kiếm rời tay, lơ lửng trên không trung, họ nhẹ nhàng bước lên, ngự kiếm phi hành, nhắm hướng Liễu Dật bay tới.

Lại nói Liễu Dật cùng Thủy Nhi, Đại Đao Vương thúc ngựa phi nhanh, cuối cùng cũng đến dòng thác dưới chân núi. Liễu Dật nhìn dòng thác nói: “Dựa theo địa đồ thì vượt qua con thác này, vượt thêm một ngọn đồi nữa, chúng ta đã đến đất phật.”

Đại Đao Vương thở dài một tiếng nói: “Cuối cùng cũng tống khứ được lũ oan hồn này. Chứ để chúng ở trên người Thủy Nhi, trái tim ta lúc nào cũng như muốn rơi xuống đất nhảy đành đạch.”

Thủy Nhi vừa định lên tiếng thì “vút” một cái, trên trời xuất hiện ba luồng sáng đỏ bay về phía ba người.

Đại Đao Vương chỉ tay lên nói: “Nhìn kìa, nhìn kìa, có người bay trên không trung. Vừa tới đất phật là đã thấy thần tiên, vui quá, ha ha.”

Thủy Nhi nhìn tốc độ, thân ảnh của ba người bay đến, nói: “Họ không phải thần tiên, cũng không phải người trong Phật Môn, người họ đầy sát khí, hiển nhiên là vì muốn giết ba người chúng ta mà đến.”

Đại Đao Vương hét lớn: “Nói sao? Chúng ta và họ vô oán vô cừu, vì sao lại muốn giết người?”

Thủy Nhi lắc đầu nói: “Đừng có suy nghĩ ngây thơ quá như vậy, trong giang hồ, giết người cũng cần lý do sao?”, đoạn liền tháo cương, bước xuống ngựa.

Liễu Dật và Đại Đao Vương cũng nhảy xuống ngựa. Thủy Nhi nói tiếp: “Tốc độ của chúng ta không thể bì kịp tốc độ ngự kiếm của họ, còn biện pháp nào không?”

Liễu Dật lắc đầu nói: “Chạy thì không thể rồi. Chỉ còn một cách là: Đánh!”

Ba người vừa xuống ngựa, mấy bóng nhân ảnh màu đỏ cũng xuất hiện cách độ tám trượng. Ba cặp mắt lạnh băng hướng thẳng về phía bọn Thủy Nhi, Liễu Dật và Đại Đao Vương.

Liễu Dật ôm quyền nói: “Ba vị đại hiệp, tại sao lại cản đường chúng tôi?”

Hồng y nhân đứng đầu cất giọng băng lãnh: “Muốn lấy đầu ngươi!”

Liễu Dật thất kinh, hỏi tiếp: “Ta cùng tam vị có thù chi chăng?”

Hồng y nhân nói: “Không có.”

Liễu Dật hỏi tiếp: “Ta cùng tam vị có oán?”

Hồng y nhân y vẫn lạnh lẽo đáp: “Vô oán.”

Liễu Dật gập chiết phiến lại nói: “Vậy chúng ta vô cừu vô oán, lý do nào ba vị muốn lấy đầu Liễu Dật?”

Lúc Liễu Dật và Hồng y nhân đang đối thoại, Thủy Nhi phát hiện trên ngực trái của ba Hồng y nhân này đều có một huy hiệu màu xám, phía trên là một hình giống một con tắc kè nhưng không phải. Thủy Nhi từng nghe sư phụ nói qua, biểu tượng của Ám Môn có hình giống như thế.

Thủy Nhi nói tiếp: “Liễu công tử, không cần hỏi họ nữa, họ là người của Ám Môn trong Ma tộc, là một tổ chức sát thủ, chỉ biết có tiền, không hề nói lý do gì cả.”

Hồng y nhân đứng đầu đưa một mắt nhìn qua Thủy Nhi, lạnh lẽo nói: “Cô nương, nhãn lực khá lắm! Nhiệm vụ lần này của chúng ta là lấy đầu Liễu Dật, còn hai người, hiện giờ có thể đi được rồi. Chúng ta không làm những việc không kiếm ra tiền, vì không ai muốn cái đầu của hai ngươi hết.”

Đại Đao Vương hoành đao, nói: “Tổ bà nó, đồ rắm thối! Ngươi xem Đại Đao Vương là người thế nào hả?”

Hồng y sát thủ nhìn Đại Đao Vương, đột nhiên thấy tóc trên đầu Đại Đao Vương dựng đứng cả lên, nhất thời không ngờ gặp được một nhân vật như thế này ở đây.

Hồng y sát thủ xử trường kiếm trong tay múa một đường, mũi kiếm chỉ thẳng vào Đại Đao Vương, nói: “Nếu hai ngươi không chịu rời đi, ta nghĩ chúng ta không còn gì để nói, chúng ta sẽ thuận tay giải quyết luôn hai cái mạng nhỏ của các ngươi là được rồi.”

Ba người cùng vung mạnh trường kiếm, một đối một, nhắm vào bọn Liễu Dật xông tới.

Ba sát thủ lừng danh cực kỳ nhanh nhẹn, hơn xa những cao thủ hạng nhất thong thường, thậm chí cả hai Phì Trư hộ pháp của Phong Đà Động cũng không sánh kịp. Chỉ thấy ba thanh trường kiếm phát xuất ba đạo kiếm hoa khác nhau, vây lấy ba người vào giữa.

Liễu Dật vội vàng thi triển Ẩn Toàn Cửu Ảnh, chỉ miễn cưỡng có thể tránh được đòn công kích của Hồng y sát thủ. Qua đó có thể thấy tốc độ của đối phương thật quá phi phàm, hắn căn bản không có cơ hội hoàn thủ; thậm chí mỗi lần tránh đều nguy hiểm vạn phần, thanh kiếm của Hồng y sát thủ như chỉ chậm hơn hắn có một sát na.

Sau vài chiêu, toàn thân Liễu Dật toát mồ hôi lạnh, lòng nghĩ: “Nếu có Thập Nhất ở đây thì tốt quá.”

Nhìn sang Thủy Nhi, nguyên lai vũ khí của Thủy Nhi là hai dải lụa dài, nhưng dưới sự tấn công dồn dập của Hồng y sát thủ, Thủy Nhi đã mất đi tiên cơ; hiện tại cô hoàn toàn lạc vào thế hạ phong, ứng phó rất vất vả.

Nhìn qua Đại Đao Vương, may mắn là sau khi lấy được Thiên Tật Tâm Pháp và Hỏa Diễm Đao Pháp tại Phong Đà Động, chỉ trong một thời gian khổ luyện, không ngờ hai quyển sách này thật lợi hại: Thiên Tật Tâm Pháp trong một tháng ngắn ngủi đã làm cho nội lực của Đại Đao Vương tăng nhanh phi thường, tiến nhập vào cảnh giới mới; còn Hỏa Diễm Đao Pháp, cùng với bảo đao trong tay, đã phát huy uy lực vô cùng, than đao phát ra luồng hồng quang của lửa, đánh vào Hồng y sát thủ bất phân thượng hạ.

Ngay lúc đó, Thủy Nhi “A” lên một tiếng, hai người cùng quay đầu lại nhìn. Chỉ thấy Thủy Nhi bị Hồng y sát thủ một chưởng đánh bay ra xa mười trượng, trong miệng máu không ngừng trào ra chứng tỏ đã thụ nội thương rất nặng.

Trong lúc Đại Đao Vương bị phân tâm, một cảm giác đau đớn mãnh liệt xuất hiện trên vai; cùng lúc đó, eo lưng cũng nhận một cước như trời giáng, một lực khủng khiếp đã hất Đại Đao Vương bay đến bên cạnh Thủy Nhi.

Dù Liễu Dật vẫn dùng Ẩn Toàn Cửu Ảnh để tránh né, vì hai người bị thương nên phân tâm, đã bất tri bất giác làm cho động tác chậm lại; chỉ cảm thấy bụng dưới bị một lực mạnh đập vào, tiếp theo là một cảm giác đau thấu tâm can, thân thể như diều đứt dây, bay thẳng đến rơi xuống kế bên Thủy Nhi và Đại Đao Vương.

Ba sát thủ cùng giơ kiếm lên, người đứng đầu nói: “Đừng trách chúng ta, hãy trách người mà ngươi đã đắc tội đó.”, nói xong liền động thủ.

Nhìn thanh kiếm sát thủ từng tấc từng tấc đâm tới, cảm giác tử vong cũng từ từ đè lên ba người …

“Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn phao ảnh. Như lộ diệc như điện, ứng tác như thị quan.”(29)

Mọi người sợ hãi nhình về hướng phát ra âm thanh. Thanh âm phát xuất như xa như gần, không ai phát hiện được nó phát ra từ đâu, có thể thấy người đó võ công thật không tầm thường.

Đại Đao Vương ôm vết thương, ráng chịu đau, la lớn: “Là thần tiên, đúng là thần tiên rồi. Thần tiên đến cứu chúng tôi với!”

Chỉ thấy ngoài sáu mươi trượng, trên mặt hồ nước dưới chân thác, một thiếu niên áo xám đứng trên mặt nước, xung quanh người hai xích có một vầng sáng trắng, do đó nước không thể nào chạm vào người y được, bên hông có đeo một thanh kim kiếm, bồng bềnh bồng bềnh.

Thiếu nhiên áo xám, người mặc trường bào, thắt lưng màu đen được quấn ngay ngắn quanh eo, mái tóc đen dài xõa ra sau, trên trán thả xuống một món tóc bay pất phơ theo gió, một đôi kiếm my hổ mục, mũi huyền đảm, trông rất quyến rũ, toàn thân khí chất thoát tục, có cảm giác như người trời.

-------------------------------------------

(29) Tất cả pháp hữu vi, như chiêm bao, ảo thuật, bóng nước, ảnh tượng, sương mai, điện chớp, rất cần phải có cái nhìn như thế. (Kinh Kim Cương)

-oOo-

Hồi 44: Nhân sinh khổ đoản, ức mộng sổ bách niên

(Đời người ngắn ngủi bình thường, Tàn cơn mộng ảo đã tròn trăm năm)

“Siêu việt” không phải là một việc bình thường, càng không phải là là một việc dễ dàng, bất kể ngươi muốn được “siêu việt” trong bất kỳ khía cạnh nào, nhất định phải trả một cái giá nào đó.

(Cổ Long - Luận)

Nhìn thiếu niên áo xám từ từ bay đến, thanh kim kiếm đung đưa theo nhịp bước, Thủy Nhi nén đau nói: “Người đó không phải thần tiên, chỉ là một tuyệt đỉnh kiếm giả mà thôi.”

Lại nói ba sát thủ thấy người đến là một cao thủ phi phàm khó bề đối phó, liền đưa mắt nhìn nhau, lập tức quyết định: Trước khi thiếu niên đó đến, phải giết ba người này trước đã. Vì thế, thân động, trường kiếm tăng tốc, đâm thẳng đến yết hầu ba người Liễu Dật.

“Keng” một tiếng, một đạo hoàng quang lóe lên rồi biết mất, ba thanh kiếm cùng lúc rơi xuống đất, còn cổ tay của ba sát thủ đồng thời xuất hiện một đường máu. Cái đau đã làm cho họ đình chỉ mọi động tác.

“Vù” một tiếng, khi ba thanh kiếm vừa chạm đất, một luồng gió thổi tới, thiếu niên áo xám chỉ còn ba xích là xuất hiện trước mặt ba Hồng Y sát thủ, thanh kiếm đeo bên hông, không ngừng lay động.

“Tam vị nếu không ngừng tạo sát nghiệt, xin rời khỏi đất phật.”, thiếu niên áo xám nhẹ nhàng nhìn ba sát thủ nói.

Ba sát thủ nhìn vết thương trên cổ tay mình, người đứng đầu tức giận nói: “Ngươi là ai? Có gan thì lưu lại danh tính, Ám Môn sẽ không để yên cho ngươi đâu.”

Thiếu niên áo xám tả thủ đưa ra, trường kiếm đã lọt vào tay, ôm quyền nói: “Phật Môn tục gia đệ tử, Lý Lăng.”

Lời vừa nói ra, không những ba sát thủ, mà Liễu Dật, Thủy Nhi và Đại Đao Vương đều giật mình. Lý Lăng là cao thủ kiếm thuật hiện nay, nằm trong sáu người đứng đầu, thành danh cách đây ba mươi năm với Đại Từ Bi Kiếm. Tính ra đến nay Lý Lăng tuổi đã cao, làm sao mà trông còn rất trẻ, như một thiếu niên hai mươi tuổi? Hay ông ta đã thấu suốt chuyện sinh tử?

Ba sát thủ cùng một ý nghĩ, hiện tại người cần giết đã không giết được, có Lý Lăng tại đây, trừ phi Ám Môn tứ đại hộ pháp đến, bằng không không thể giết được Liễu Dật. Nghĩ đoạn, ba người vận khởi ngự kiếm chân khí, bay mất vào mây.

Nhìn ba người mất dạng trong không trung, Lý Lăng quay đầu nhìn bọn Liễu Dật, nhẹ nhàng nói: “Tam vị thương tích không trầm trọng lắm, xin đi cùng ta vào Phật Môn dưỡng thương.”, ngữ khí tuy tùy hòa, nhưng ẩn ước một lực lượng làm người khác không thể kháng cự được.

Đại Đao Vương cố nén đau, nói: “Ngài là đệ tam cao thủ của Nhân Gian giới sao lại trẻ thế? Ta cứ nghĩ ngài là một lão già kia.”

Lý Lăng ôn hòa cười nói: “Một ngày trong núi như mười năm bên ngoài, ta còn già hơn một ông già nữa, dưới dung mạo thiếu niên là một trái tim đã thấy bao sự thương hải tang điền.”

Liễu Dật dìu Thủy Nhi dậy, nói: “Lý Lăng tiền bối hiển nhiên còn lớn tuổi hơn sư phụ tại hạ nữa, nhưng lại rất từ hòa, giống như... giống như người trong một nhà vậy.”

Thủy Nhi đứng một bên nói: “Người trong tam giới, đông đến ngàn vạn, được xếp vào hàng sáu vị kiếm giả hàng đầu, tự nhiên phải có lai lịch rồi.”

Đại Đao Vương như quên cả đau, chạy đến phía sau Lý Lăng nói: “Lý lão tiền bối, ngài xem tại sao ngài lớn tuổi mà lại trông trẻ thế này? Nói cho tại hạ biết đi, để tại hạ cũng học được chút ít.”, nói xong, mắt nhìn Lý Lăng với vẻ mong chờ.

Lý Lăng nhìn Đại Đao Vương cười nói: "Đừng gọi ta là tiền bối. Trải nghiệm cuộc sống của ta rất ít. Từ lúc sinh ra đến giờ, đã qua trăm năm mà ta chỉ biết có kiếm đạo, đời người ngắn ngủi, đau khổ cũng ngắn. Một người ít kinh nghiệm như ta, sao có thể xưng là tiền bối được? Nếu không phiền, cứ gọi ta là ‘Lăng ca’ được rồi.”

Đại Đao Vương nhìn nhìn vị kiếm giả mà tam giới coi như thần nhân này, thật sự không thể tin được, một người vì truy cầu kiếm đạo, bỏ qua một bên tất cả, con người như thần nhân trước mắt này, chỉ là một kiếm giả không có ký ức.

Đại Đao Vương nói: “Tại hạ chỉ muốn hỏi... muốn hỏi... sao trông ngài lại trẻ như thế?”

Lý Lăng vừa cười vừa nói: “Thuận theo tự nhiên, khi võ học đạt đến cực điểm, có thể đột phá giới hạn của sinh mệnh, đạt đến truyền thuyết trường sanh bất lão của con người.”

Đại Đao Vương mặt như chảy ra: “Đạt đến cực điểm? Đột phá giới hạn sinh mệnh? Nói cho ta biết đi, ta đang mơ hay đang tỉnh?”

Lúc này, Lý Lăng dừng lại, lấy trong người ra một viên đan dược màu đỏ, bước tới Liễu Dật và Thủy Nhi. Chỉ thấy mặt Thủy Nhi trắng bệch, hiển nhiên vết thương càng lúc càng nặng.

Lý Lăng nhìn Thủy Nhi cười nhẹ, nói: “Cô nương, vết thương của cô rất nặng, lúc nãy ta không chú ý. Đây là Bách Hoa Lộ do ta luyện chế trong nhiều năm, không những trị được nội thương, ngoại thương, cầm máu, còn có thể tăng gấp đôi công lực, xin cô nương nhận cho.”

Thủy Nhi nhìn nụ cười dưới ánh mặt trời của Lý Lăng, mặt thoáng ửng hồng. Khi nãy đánh nhau với bọn sát thủ, hiển nhiên tự thấy công lực không đủ, những chiêu thức có sức sát thương mạnh hoàn toàn không thể dùng được, bại một cách thê thảm; nếu bây giờ được tăng gấp đôi công lực, sau này bất cứ chiêu thức nào cũng có thể sử dụng được.

Nhưng cái người tự xưng Lý Lăng này không có lý do gì để tặng nàng một thứ quý trọng như vậy, Thủy Nhi hơi do dự.

Lý Lăng hiểu ý nói tiếp: “Tam thiên đại thiên thế giới chỉ là cát bụi, không cần phải có lý do, cô nương cũng không nên coi thuốc này trân quý.”

Thủy Nhi biết Thần Môn có một thứ gọi là Độc Tâm Chi Thuật, có thể đọc được những ý nghĩ trong lòng đối phương; thật không thể tưởng được Lý Lăng lại biết được những ý nghĩ trong lòng cô, có thể thấy người này tu vi cực cao, đã đạt tới một cảnh giới không thể đo lường được. Nhìn Lý Lăng, Thủy Nhi lại nhìn qua viên đan dược màu đỏ, rồi cầm lấy bỏ vào miệng.

Một cảm giác mát lạnh, hòa quyện với hương trăm hoa, hóa thành dòng nước mát, chảy xuống bụng; luồng thanh khí chạy khắp toàn thân kinh mạch, huyệt đạo. Trong một tuần trà, Thủy Nhi phát hiện thấy toàn thân thông suốt. Kiểm tra nội lực tu vi, thật sự gia tăng gấp đôi. Thủy Nhi vui mừng nói: “Thuốc này hiệu nghiệm thật.”

Đại Đao Vương chạy nhanh đến nói: “Này, hảo nhân, ngài xem thương thế tại hạ cũng không nhẹ, nếu còn thuốc, xin cho tại hạ một viên.”

Lý Lăng tay trái cầm kiếm, tay phải chắp sau lưng, nói: “Hết rồi. Thuốc này ta phải luyện trong sáu năm, mỗi sáng sớm phải thu gom linh khí của bách hoa mà luyện, cho nên, sáu năm ta chỉ luyện được một viên.”

Đại Đao Vương ngửa mặt lên trời kêu lớn: “Tại sao những thứ thuốc quý như vậy không bao giờ đến lượt tôi vậy?”

Lý Lăng nhìn Đại Đao Vương, cười nhẹ nói: “Duyên phận chưa tới, hà tất cưỡng cầu?”, nói xong hướng về phía trước bước tiếp.

Liễu Dật rút tay đỡ Thủy Nhi lại. Thấy Thủy Nhi ngơ ngẩn nhìn theo thân ảnh của Lý Lăng, Liễu Dật phe phẩy chiết phiến, thầm nhủ: “Làm sao tiểu nha đầu này thích một ông cụ được nhỉ?”

Cảm tình là một thứ gì đó, rất kì quái, yêu một người, có thể chỉ cần một giây, cũng có thể cần cả đời người.

Ba người theo sau Lý Lăng. Đột nhiên trước mắt sáng lên, phía trước xuất hiện hai đại phật tượng cao ngất, thân phật cao bốn mươi sáu trượng, rộng hai mươi mốt trượng, ngồi trên tòa sen. Giữa hai tượng phật cao ngút tầng mây là một cánh cổng lớn, cao mười sáu trượng, rộng mười hai trượng, liên kết hai đại phật tượng.

Liễu Dật há hốc mồm: “Ôi trời! Thật hùng vĩ, phật là núi, núi cũng là phật. Hay thật, hay thật!”

Lý Lăng cười nói: “Liễu công tử xuất khẩu thâm thúy, thật làm người ta ngạc nhiên.”

Liễu Dật nhìn lại nói: “Quá lời, quá lời rồi.”

Lý Lăng phất nhẹ tay, đại môn từ từ mở ra. Lý Lăng cùng Liễu Dật, Thủy Nhi, Đại Đao Vương hướng về đại điện bước tới.

“Phật Môn tổng cộng có cộng mười điện, mười tám sảnh, có ba ngàn đệ tử, tục gia đệ tử có tám mươi mốt người. Ta đang dẫn mọi người tới Tu Tâm Điện để điều trị các vết thương trên người.”, Lý Lăng một mặt dẫn đường, một mặt giải thích cho mọi người hiểu.

Đi qua nhiều đại điện, mọi người dừng lại tại gian ngoại đình thứ bảy, Lý Lăng nói: “Đây là Tu Tâm Điện, các vị cứ vào, ta sẽ đợi bên ngoài này.”, nói xong quay người lại, hai tay chắp sau lưng.

Liễu Dật ngẩng đầu lên nhìn, quả nhiên thấy ba chữ vàng lớn “Tu Tâm Điện”, chỉ có thể nhìn, mà không thể chạm tới. Không sao, chỉ cần nhìn cũng đủ lắm rồi.

Ba người mở cửa bước vào trong. Ngay lập tức cánh cửa tự đóng lại sau lưng mọi người.

Lý Lăng vẫn đứng yên, hai tay vẫn chắp sau lưng, mắt nhìn lên trời xanh bao la, lẩm nhẩm: “Rốt cuộc thì ta sống vì cái gì? Mộng đạt được cảnh giới tối cao của kiếm đạo. Lý Lăng ơi Lý Lăng, si kiếm trăm năm, có phải là đang truy cầu thanh danh không?”

Nhìn thanh kiếm trong tay, Lý Lăng ngàn lần cảm khái.

Khoảng hai khắc sau, Liễu Dật và Đại Đao Vương, Thủy Nhi cùng bước ra khỏi Tu Tâm Điện. Ba người sắc diện hồng nhuận, tinh thần dâng cao. Đại Đao Vương vừa đưa tay sờ mái tóc dựng đứng của mình vừa nói: “Thật lợi hại, những chổ bế tắc trong kinh mạch của ta đều được đả thông cả rồi.”

Lý Lăng quay đầu lại nhìn mọi người, mục quang dừng lại trên người Thủy Nhi, cười nhẹ nói: “Xem ra các vị đều phục nguyên cả rồi, xin mời theo ta đến Đại Hùng Bảo Điện để gặp mặt trụ trì và các vị trưởng lão.”

Liễu Dật gật đầu nói: “Đa tạ Lý tiền bối tương cứu.”

Lý Lăng mỉm cười, quay đầu bước về trước, nói: “Gọi ta là Lăng ca được rồi. Một người không kinh lịch, không ký ức như ta làm sao làm tiền bối được? Nói ta là tiền bối chi bằng nói ta là cỗ máy luyện kiếm cho rồi.”

Lời nói của Lý Lăng, không nhanh không chậm, nhưng mỗi câu mỗi từ lọt vào tai đều làm cho người nghe không thể phản bác được, cảm nhận được một áp lực khó diễn tả thành lời.

Quay lại đường cũ, dừng chân trước tòa đại điện thứ nhất, Lý Lăng nhẹ khom người, miệng không động, một thanh âm như truyền đến từ bốn phương tám hướng: “Tục gia đệ tử, Lý Lăng.”

Tiếp đó, một âm thanh xuất ra từ cánh cửa đóng kín của tòa đại điện: “Lý Lăng à? Vì sao con quay lại?”

Từ không trung xuất ra một thanh âm: “Nhân duyên.”

Âm thanh từ đại điện truyền đến: “A di đà phật, ta nghĩ kiếm thuật của con đã đạt đến một cảnh giới mới.”

Lý Lăng ngẩng đầu lên, ngắm tấm biển trên đại điện nói: “Kiếm đạo vô biên, vượt qua cảnh giới này cũng chỉ là bắt đầu của một cảnh giới mới.”

Âm thanh từ đại điện truyền ra: “Trong lời nói của con có vẻ như mệt mỏi, có việc gì vào rồi hãy nói.”

Âm thanh vừa dứt, cổng Đại Hùng Bảo Điện mở mạnh về hai phía.

Lý Lăng quay đầu lại nói: “Các vị hãy theo ta vào trong.”

Mọi người tiến vào Đại Hùng Bảo Điện, đưa mắt nhìn quanh, tuyệt không nhỏ hơn đại điện Thần Môn của Tiên tộc. Hai bên điện mỗi bên có sáu cây cột lớn, cùng chống đỡ trần điện trên cao, mỗi cột điêu khắc một hình người bằng đá, hình dáng kỳ lạ, toàn thân vận hoàng kim chiến giáp. Liễu Dật đưa mắt nhìn, cảm thấy mười hai hình người điêu khắc trên thân cột trông rất quen, nhưng không thể nhớ được là đã gặp ở đâu.

Trong đại điện, mười vị tăng nhân phân làm hai nhóm ngồi ngay giữa điện. Hai bên vái điện mỗi bên có chín tăng nhân đứng đối diện nhau, tổng cộng mười tám người. Niên kỷ mỗi người đều trên một trăm. Mười người chính giữa ngồi trên các đóa sen tím, mười tám tăng nhân ở hai bên điện thì ngồi trên các đóa sen xanh. Không biết các đóa sen này được làm bằng gì mà các cánh hoa khẽ rung rung theo từng cơn gió.

Lý Lăng nhìn hai mươi tám vị tăng nhân, khẽ quỳ xuống, hai tay chấp thanh Liệt Dương Kiếm nói: “Lăng nhi bái kiến các vị sư bá, sư thúc.”

Một lão tăng ngồi giữa trong số mười người cất tiếng nói: “Đứng dậy đi! Hai mươi năm không gặp... hày, thời gian như nước trôi qua cầu.”

Lý Lăng từ từ đứng dậy nói: “Lần này rời núi con gặp được ba người bọn họ. Nhìn bọn họ Lăng nhi dường như không thấy được quá khứ của chính mình, cho nên con quyết định không tu luyện nữa.”

Tăng nhân đứng đầu trong mười người, tức lão tăng ngồi giữa, nói: “Duyên tức là nghiệp, như thế buông bỏ cũng là một cảnh giới của kiếm đạo.”

Lý Lăng nói tiếp: “Khi con hạ sơn thì gặp ba người bọn họ bị người của Ám Môn truy sát. Bọn họ nói là muốn cầu cao tăng của Phật Môn siêu độ oan hồn của Phong Ma Trấn.”

Lão tăng vừa rồi nói tiếp: “Thì ra có việc như thế. Ám Môn là một tổ chức sát thủ có liên quan đến Ma tộc, không có tiền thì không thể sai khiến được sát thủ của Ám Môn.”

Liễu Dật phe phẩy quạt nói: “Bọn vãn bối không biết đã đắc tội với thần thánh phương nào. Khi đến đây, Liễu Dật chỉ muốn hoàn thành ủy thác của người khác, hy vọng cao tăng Phật Môn có thể giúp siêu độ các oan hồn.”, đoạn quay qua lấy Càn Khôn Kính của Thủy Nhi.

Lão tăng khẽ gật đầu nói: “Thật là người có tâm hồn cao đẹp. Lăng nhi, con hãy mang Càn Khôn Kính qua đây để lão nạp xem thử.”

Lý Lăng cầm lấy Càn Khôn Kính bước đến trao cho lão tăng.

Lão tăng xem xong khẽ lắc đầu rồi đưa cho lão tăng ngồi bên cạnh. Lão tăng này xem xong cũng lắc đầu rồi đưa cho một người khác. Cứ thế cả hai mươi tám lão tăng trong đại điện đều xem qua nhưng tuyệt không ai nói một tiếng nào. Cuối cùng cũng chuyền ngược về tay lão tăng đầu tiên.

Lý Lăng hỏi: “Sao rồi, sư bá? Không biết các vị sư bá, sư thúc có cách nào siêu độ oan hồn trong đó không?”

Lão tăng nhìn các oan hồn bay lượn trong mặt kính, lắc đầu nói: “Oán khí của các oan hồn này quả thực quá nặng, được tích tụ từ hàng ngàn vạn năm. Lão nạp phật pháp có hạn, không thể bảo đảm hoàn toàn siêu độ.”

Liễu Dật nói nhanh: “Nếu như Phật Môn không giúp được, vậy khi các oan hồn này rời khỏi kính thì thế nhân sẽ gặp một tai nạn cực kỳ khủng khiếp rồi.”

Lão tăng nhìn Liễu Dật nói: “Thí chủ không cần gấp vậy, lão nạp không có khả năng siêu độ, không có nghĩa là Phật Môn không có ai làm được.”

Lý Lăng nhẹ nhàng hỏi tiếp: “Sư bá muốn nói đến sư phụ con?”

Lão tăng gật đầu nói: “Đúng vậy. Phật học của Giác Quy sư đệ cao như người trời. Lão đệ đã diện bích hai mươi năm để tham ngộ Thiên – Địa – Nhân tam đạo. Thiết tưởng oan hồn trong Càn Khôn Kính không làm khó được lão đệ.”

Lý Lăng gật đầu nói: “Vậy khi nào thì sư phụ xuất quan?”

Lão tăng trả lời: “Nếu như lão nạp nhớ không sai thì Giác Quy sư đệ trong hai ngày nữa sẽ xuất quan.”

Lý Lăng gật đầu nói: “Vậy thì tốt quá.”, nói rồi đưa tay nhận lại Càn Khôn Kính.

Lão tăng nói tiếp: “Lăng nhi, con dẫn ba vị khách ra ngoài, chuẩn bị ba gian phòng thật tốt, phải làm sao để khách nghỉ ngợi thật thoải mái nhé.”

Lý Lăng gật đầu nói: “Vâng, thưa sư bá.”

Nói đoạn quay qua đưa Càn Khôn Kính cho Thủy Nhi, rồi cười nhẹ nói: “Yên tâm đi, sư phụ ta phật pháp cao minh, nhất định có thể hóa giải oán khí này.”

Nhìn nụ cười của Lý Lăng, trong lòng Thủy Nhi tự nhiên dâng lên nhiều cảm giác lạ lùng, như tỉnh như mê, vội vàng cầm lấy Càn Khôn Kính, gật đầu nói: “Đa tạ, ngài...”, vừa nói được mấy chữ nàng bất giác không dám ngước lên nhìn Lý Lăng, không dám nhìn vào nụ cười của hắn.

Lý Lăng quay qua Liễu Dật nói: "Tiểu huynh đệ, trước tiên phải nghỉ ngơi cái đã, hành trình dài như thế, thiết tưởng mọi người cũng đã mệt lắm rồi. Xin đi theo ta.”

Lời nói không khách khí cũng không khiêm nhường, Liễu Dật có cảm giác như Lý Lăng là một người thân trong nhà vậy.

Ba người theo sau Lý Lăng bước ra Đại Hùng Bảo Điện đi thẳng về hướng các sương phòng.

Trên đường đi, tim của Thủy Nhi cứ đập thình thịch. Nàng không hiểu tại sao mình lại như vậy? Không biết đây là thứ cảm giác gì? Có thể là... có thể là cảm giác yêu một người không? Đối với Liễu Dật đó là cảm giác tự nhiên, thân thiết. Còn đối với nụ cười của Lý Lăng, nàng không thể kháng cự được. Vậy rốt cuộc là vì sao? Làm thế nào mà nàng lại để mắt đến hai người con trai một lúc được?

Đương nhiên là Thủy Nhi không biết, trên thế giới trừ những người si tình ra, còn lại là những người đa tình, không lẽ đa tình là độc quyền của nam nhân hay sao? Nhưng nàng Thủy Nhi đa tình này dù có nghĩ đến nát óc cũng không biết là một nửa nguyên nhân không phải tại hai nam nhân kia.

Nói lại Đại Đao Vương nhanh nhảu theo sau Lý Lăng nói: “Lăng ca, đệ muốn học ngự kiếm thuật của huynh, nhất định có thể bay tới nơi này nơi khác, đó không phải là võ học Phật Môn phải không huynh?”

Lý Lăng cười nói: “Đương nhiên không phải, ta có thể dạy đệ. Với nội lực hiện tại của đệ phải luyện trên hai mươi năm mới đủ chân khí để phi hành, nhưng để bay xa thì ta không dám chắc.”

Đại Đao Vương nhìn thanh đại đao, đầu tóc từ từ dựng đứng lên, nói: “Lăng ca, đừng trêu chọc đệ nữa, hãy vì sự quen biết giữa chúng ta mà giúp đệ đi. Đệ nghĩ đệ có thể bay lên trời một cách oai oai phong phong.”

Lý Lăng đột ngột dừng bước, những người khác cũng bất giác dừng theo. Liễu Dật và Thủy Nhi không biết Lý Lăng muốn gì, không biết có thực sẽ dạy ngự kiếm thật cho Đại Đao Vương không?

Lý Lăng khẽ nhất tay phải, chỉ thấy một đạo hoàng quang xuất hiện trước mặt Đại Đao Vương, lơ lững giữa Lý Lăng và Đại Đao Vương, chính là Liệt Dương Kiếm.

Lý Lăng cười nhẹ nói: “Có một cách có thể giúp đệ tiết kiệm được hai mươi năm thời gian, đó là dùng Liệt Dương Kiếm. Liệt Dương Kiếm là do thiên địa linh khí kết hợp sinh ra, kiếm có linh hồn, là một thanh kiếm thông linh. Nếu như đệ có thể cầm được nó thì đệ có thể tiết kiệm được hai mươi năm thời gian. Thanh kiếm này có uy lực rất mạnh, các loại kiếm pháp thông thường thi triển bằng Liệt Dương Kiếm lập tức có uy lực như một pho tuyệt kiếm.”

Liễu Dật tự đánh mình một cái, xem mình có nằm mơ không. Thủy Nhi nhìn Lý Lăng có vẻ không tin tưởng, nhưng kẻ nghi ngờ nhất lại chính là Đại Đao Vương. Hắn lắc lắc cái đầu to của mình, tự nhéo vào mặt mình nói: “Đệ có phải đang nằm mơ không?”

Lý Lăng cười ha hả nói: “Không phải mơ. Là thật đó.”

Đại Đao Vương cười lớn nói: “Lăng ca, đừng có cười đệ, đệ chỉ muốn học ngự kiếm thuật, nếu thấy đệ không học được cũng không cần dùng cái thứ này để dọa đệ đâu.”

Lý Lăng mỉm cười, tuy nhiên trong nét cười lại thể hiện một thần sắc nghiêm túc, nói tiếp: “Nhìn ta giống đang đùa lắm hả? Nếu thanh kiếm này chọn đệ, điều đó chứng tỏ nó và đệ có duyên. Hiện tại đối với ta, nó không còn là lẽ sống, cũng không còn là mơ ước nữa, nó chỉ là một lợi khí giết người.”

Đại Đao Vương vẫn lúng túng cười nói: “Được rồi, huynh thu thanh kiếm lại đi, đệ không học nữa được không? Đại Đao Vương tuy tham, nhưng lòng tham cũng có nguyên tắc của nó, đừng có khinh thường Đại Đao Vương như vậy.”

Lý Lăng vẫn cười nhẹ, nhãn quan bỗng lộ xuất kim quang, rồi từ từ nhạt dần, nhạt dần. Từng trận, từng trận gió thổi qua, tà áo của mọi người giũ phần phật. Đại Đao Vương cảm thấy một luồng kình lực cuốn lấy cánh tay phải và buộc nó phải cầm lấy thanh Liệt Dương Kiếm. Hắn liền dùng tay trái nắm tay phải kéo lại nhưng vô phương ngăn trở.

Đại Đao Vương liền minh bạch đó là Lý Lăng động tay động chân vào, nói gấp: “Lăng ca, huynh đang làm gì vậy? Đại Đao Vương tuy tham tài háo sắc nhưng quyết không đoạt vật yêu thích của người khác. Mau buông đệ ra, buông đệ ra!”

Lý Lăng vẫn cười nhẹ.

Cuối cùng, tay phải của Đại Đao Vương cũng vươn tới chuôi Liệt Dương Kiếm, rồi từ từ cầm lấy Liệt Dương Kiếm.

Đột nhiên, Liệt Dương Kiếm bay thẳng lên không, tại không trung xoay một vòng rồi kéo Đại Đao Vương bay nhanh qua sương phòng, đại điện.

Lý Lăng cười ha hả nói: “Đệ có ký ức, không cô độc, Liệt Dương Kiếm đã chọn đệ, từ nay nó là của đệ. Sau này đệ không cần học ngự kiếm thuật nữa, muốn bay xa bao nhiêu thì có thể bay xa bấy nhiêu.”

Trên không, đầu tóc của Đại Đao Vương dựng đứng lên, chỉ nghe Đại Đao Vương run rẩy la lớn: “Mẹ ơi, cha ơi, cứu con với...”, nói xong lại hét lớn: “Trời ơi, nhanh quá, sợ quá... sợ quá... sợ...”, sau đó không nghe gì nữa. Bỗng “phịch” một tiếng, Liệt Dương Kiếm tiếp tục bay vòng vòng trên không, còn bóng dáng của Đại Đao Vương thì không thấy đâu cả.

Thủy Nhi hỏi gấp: “Đại Đao Vương đâu? Hắn đâu rồi?”

Liễu Dật phe phẩy quạt gấp nói: “Còn sao nữa? Dùng cái mông mà nghĩ là ra liền, có gì khó khăn đâu.”

Thủy Nhi nổi giận nói: “Huynh... huynh... vô lại.”

Lý Lăng cười nói: “Thôi, bỏ qua đi, đừng giận nữa. Ta cảm thấy bây giờ mình mới thật sự bắt đầu sống.”

-oOo-

Hồi 45: Tĩnh dạ thâm đàm, tha hương ngộ cố nhân

(Đêm khuya bàn chuyện, xa xứ gặp người xưa)

Qua một ngày tăm tối nhất sẽ bắt đầu một ngày tươi sáng nhất.

(Cổ Long - Luận)

Liễu công tử, khuya rồi vẫn chưa ngủ sao?”, Lý Lăng nhẹ nhàng ngồi xuống một chiếc đôn đá trong gian khách xá, là nơi bọn Liễu Dật ba người được sắp xếp nghỉ ngơi.

Liễu Dật phe phẩy chiếc quạt gấp, nói: “Vâng ạ. Huynh cũng chưa ngủ sao?”

Lý Lăng cười nói: “Trời tối như thế này, Liễu công tử vẫn chưa ngủ, có phải đang nhớ tới người nào đó không?”

Đột nhiên Liễu Dật nghĩ tới một việc liền hỏi: “Lăng ca, huynh đem Liệt Dương Kiếm giao cho Đại Đao Vương, sau này huynh dùng gì?”

Lý Lăng xoay xoay chung trà, mắt nhìn vầng trăng trên cao, nói: “Vì sao ta phải dùng đến kiếm?”

Liễu Dật đột nhiên bị lời nói của Lý Lăng làm cho đờ cả người ra, hoang mang nói: “Huynh là một kiếm giả có tiếng, đương nhiên là phải dùng kiếm.”

Lý Lăng cười nhẹ đáp: “Từ nay trở đi, Lý Lăng không còn là một kiếm giả nữa, thế nên không cần phải dùng kiếm. Từ hôm nay, Lý Lăng là Lý Lăng, chỉ là một người rất bình thường như muôn vạn những người bình thường khác.”

Liễu Dật hỏi tiếp: “Huynh nói... huynh làm một người bình thường ư?”

Lý Lăng gật đầu nói: “Ngày mai sư phụ xuất quan, ta sẽ thưa với sự phụ tâm ý của ta, rồi thoái xuất giang hồ. Có lẽ ta sẽ trở thành một giang hồ lang trung, hoặc giả trở thành một người coi bói, sống một cuộc sống bình thường.”

Liễu Dật gật đầu, nói tiếp: “Huynh không cảm thấy đang tiếc lắm sao? Huynh dễ dàng vứt bỏ thành tựu bao nhiêu năm qua ư?”

Lý Lăng cười nói: “Thật ra... ta luôn cho mình là một người không màng danh lợi. Thế nhưng, sau hai mươi năm bế quan, ta phát hiện mình đã sai, sai trầm trọng. Trăm năm qua, ta chính là vì danh lợi mà sống, hôm nay vứt bỏ tất cả, chẳng phải ta đã tự cho mình một sinh lộ đó sao? Có gì đáng tiếc chứ?”

Liễu Dật phe phẩy quạt gấp, cười nói: “Ha ha, Lăng ca, đệ thấy cái gì giang hồ, cái gì kiếm giả, tất cả đều không hợp với huynh. Nghe huynh nói, đệ có cảm giác huynh giống như một vị hòa thượng vậy.”

Lý Lăng cười nói: “Sư phụ luôn luôn nói ta còn nợ trần chưa trả, vô duyên với phật môn, chỉ có thể thu ta làm tục gia đệ tử.”

Liễu Dật lạ lùng hỏi: “Phật môn không phải mở cửa cho mọi người sao? Đến yêu ma quỷ quái còn thu nhận được, sao lại từ chối huynh? Ha ha, xem ra huynh còn không bằng chúng nữa.”

Lý Lăng chỉ cười cười, không nói tiếng nào.

Liễu Dật nói tiếp: “Ngày mai đại sư xuất quan?”

Lý Lăng gật đầu nói: “Ừ, đúng vậy.”

Liễu Dật nói: “Nếu hôm nay đại sư có thể siêu độ oan hồn trong Càn Khôn Kính, bọn đệ sẽ xuống núi trước.”

Lý Lăng hỏi: “Đệ có việc gấp cần giải quyết à?”

Liễu Dật lắc đầu nói: “Cũng không gấp lắm, khi chúng đệ đến đây, thấy cách trăm dặm dưới chân núi Nga Mi có một thôn trấn tên là Lạc Tuyết, không ngờ đã quấy nhiễu Phật Môn thanh tịnh, bọn đệ sẽ đến đó tạm trú.”

Lý Lăng cười nói: “Sao lại quấy nhiễu?”

Liễu Dật cười nói: “Không nói về việc làm phiền. Thật ra... một ngày ba bữa cơm chay làm bọn đệ gần như không chịu nổi, bọn đệ chỉ muốn dỗ dành cái bao tử của mình thôi.”

Lý Lăng ha hả cười lớn: “Rượu thịt qua ruột rồi ra ngoài, đừng nghĩ Lý Lăng sống trên trăm năm, ngoại trừ cháo ra, ta chưa hề ăn một thứ gì khác.”

Liễu Dật cười nói: “Nếu huynh có hứng thú, chúng ta cùng đi uống rượu ăn thịt đi.”

Lý Lăng lắc đầu nói: “Ta có việc cần phải nói với sư phụ, ngoài ra còn phải ở lại Phật Môn một thời gian nữa. Nếu như sau này có duyên, bất kể mười năm hay trăm năm, ta sẽ cùng các đệ uống một trận túy lúy càn khôn.”

Liễu Dật gật đầu, đột nhiên nghĩ đến việc gì đó, liền nói tiếp: “Bọn đệ có một bằng hữu to to, cao cao, trông rất khỏe mạnh, từ kinh thành đang đến đây. Nếu như bọn đệ đi rồi, xin Lăng ca báo cho hắn biết, nói là bọn đệ đang ở Lạc Tuyết Trấn cách chân núi Nga Mi một trăm dặm.”

Lý Lăng gật đầu nói: “Yên tâm đi, chỉ cần hắn đến đây ta nhất định sẽ chuyển lời dùm đệ.”

Liễu Dật ôm quyền nói: “Đa tạ huynh.”

Hắn khẽ nhìn lên trời rồi nói tiếp: “Xem ra trời cũng tối rồi, đệ ngủ trước đây, huynh cũng nên ngủ sớm đi.”

Lý Lăng gật đầu không nói. Liễu Dật liền bước vào phòng trong ngơi nghỉ.

Lý Lăng hớp một ngụm trà, ngắm vầng trăng sáng trên không, nói nhỏ: “Trần duyên là gì? Rốt cuộc thì nó ở nơi nào?”

Đêm tĩnh mịch, một đêm ngắn từ từ trôi qua, thế có phải đã là quá khứ không?

oOo

Liễu Dật vặn mình lồm cồm bò dậy, đẩy cửa nhìn ra ngoài. Thủy Nhi và Đại Đao Vương đều đã thức dậy, đang ngồi ăn cháo trên bàn đá.

Người nổi bật nhất dĩ nhiên là Đại Đao Vương, đầu tóc dựng đứng, lưng đeo Liệt Dương Kiếm của Lý Lăng, nhưng lại dùng vải bố quấn lại, hông đeo đại đao; người không biết nhất định cho hắn là một người buôn bán binh khí.

Liễu Dật đến bên ao nước rửa mặt, rồi bước đến nói: “Sao sớm thế? Hôm nay hai người dậy sớm nhỉ.”

Thủy Nhi cười cười nói: “Không phải bọn muội dậy sớm, mà là huynh dậy muộn. Huynh nhìn xem, mặt trời đã lên ba con sào rồi đó.”

Liễu Dật múc một bát cháo, húp một miếng rồi nói: “Xem ra ta ngủ quá nhiều nhỉ.”

Đại Đao Vương nãy giờ không nói câu này liền xen vào: “Húp cháo mà ta cứ tưởng mình ăn đất, làm sao mà người trong cửa phật có thể ăn nó hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm. Thật không biết làm sao bọn họ quen được.”

Ngay khi Đại Đao Vương nói nhăng nói cuội, Lý Lăng không biết từ chỗ nào chui ra, cười nói: “Sao, không quen với đồ ăn ở đây à? Nếu không có việc gì, khoảng giờ Ngọ các đệ có thể xuống núi.”

Thủy Nhi vui mừng hỏi: “Đại sư xuất quan rồi à?”

Lý Lăng gật đầu, cười nhẹ nói: “Sư phụ đã xuất quan, người nói chỉ gặp một mình Liễu Dật thôi. Xin Thủy Nhi cô nương đưa Càn Khôn Kính cho Liễu công tử mang đến cho sư phụ.”

Thủy Nhi gật đầu nói: “Được.”, nói rồi thò tay vào áo lấy kính ra đưa cho Liễu Dật.

Đại Đao Vương không phục nói: “Tại sao chỉ gặp một mình Liễu lão đại? Tại sao chúng ta không được yết kiến?”

Lý Lăng cười cười nhìn Đại Đao Vương, lắc đầu chịu thua. Quay qua Liễu Dật nói: “Liễu công tử, xin mời theo ta.”

Liễu Dật theo sau Lý Lăng, sau khoảng một khắc thời gian, đã đến đại điện hôm qua, nhưng không bước về hướng đại điện mà hướng về phía một căn phòng ăn nhỏ nằm bên cạnh rồi dừng lại đó.

Lý Lăng cúi mình cung kính nói: “Thưa sư phụ, Liễu công tử đã đến.”

Chỉ nghe bên trong cửa truyền ra một âm thanh già nua nhưng có vẻ hòa ái, nói: “Con lui đi, thỉnh Liễu công tử vào trong.”

Lý Lăng nói: “Vâng, thưa sư phụ.”

Xong quay qua Liễu Dật nói: “Sư phụ bảo đệ vào trong, ta đi trước đây.”, nói xong liền xoay người bước đi.

Liễu Dật đột nhiên có cảm giác rất hồi hộp, tuy đây chỉ là một căn phòng ăn nho nhỏ, nhưng hắn có cảm giác nó uy nghiêm như tòa đại điện. Không biết vị cao tăng Phật Môn trong truyền thuyết có hình dạng như thế nào?

Liễu Dật mang theo nghi vấn, nhẹ đẩy cửa, thuận tay nắm lắy cánh cửa …

“Thí chủ đã tới, lão nạp đã chờ thí chủ hai mươi năm.” Một giọng nói cất lên từ phía bên phải căn phòng.

Liễu Dật nhìn sang phải, chỉ thấy một tấm chăn màu vàng vuông vức, không gió mà lay, một hòa thượng ngồi trên tấm chăn đó, lưng hướng về phía Liễu Dật, thân vận một tấm cà sa thông thường.

Liễu Dật hỏi: “Xin hỏi, người có phải là Giác Quy đại sư không ạ?”

Hòa thượng nhẹ nhàng trả lời, giọng nói có vẻ hòa ái: “Phải tức không phải, không phải tức là phải.”

Liễu Dật hỏi tiếp: “Đại sư vừa rồi là nói chờ vãn bối? Đã chờ hai mươi năm?”

Hòa thượng hồi đáp: “Đúng vậy. Liễu thí chủ, nước chảy mây trôi, nháy mắt đã hai mươi năm, người đến đây thật là đúng lúc.”

Liễu Dật cảm thấy có chút kỳ quái. Đại hòa thượng này không điên, mà sao ăn nói chẳng hiểu gì hết.

Liễu Dật nói: “Không biết đại sư muốn nói gì? Liễu Dật thật nghe mà không hiểu.”

Hòa thượng lắc đầu, nói nhỏ: “Mạnh Bà Thang vĩnh viễn là cách giải thoát tốt nhất.”

Tuy âm thanh quá nhỏ, nhưng Liễu Dật vẫn nghe được, đó là nhờ hắn chăm luyện tâm pháp dung hợp nội đan do Lang Vương dạy, làm công lực càng tăng cao.

Hòa thượng nói tiếp: “Liễu công tử, hãy đến ngồi kế bên lão nạp để lão nạp xem qua Càn Khôn Kính.”

Liễu Dật chầm chậm bước qua, ngồi trên một góc tấm chăn. Hòa thượng từ từ quay người lại. Trong một khắc, thời gian như ngừng lại, Liễu Dật chỉ cảm thấy hòa thượng trước mắt đầy vẻ thông thái, hòa ái, dường như đã gặp qua ở đâu đó rồi, nhưng hắn không tài nào nhớ được.

Hòa thượng có đôi mày trắng dài chừng một xích, hàm râu trắng dài phủ ngực, khuôn mặt hòa ái thân thiết, cặp mắt có thần, thân hình rất tráng kiện, bên ngoài chỉ mặc một chiếc cà sa bình thường.

Cặp mắt Liễu Dật dừng lại trên mặt lão hòa thượng. Hình dạng khuôn mặt này, vẻ thông thái, hòa ái này, ta đã gặp qua ở đâu rồi nhỉ? Không phải mộng, không phải thực. Không biết cảm giác này từ đâu mà có?

-oOo-

Hồi 46: Phật pháp vô biên, thập niên đích thừa nặc

(Phật pháp vô biên, lời hứa mười năm)

Người ta thường kết bạn với người mà mình không ngờ nhất ở vào thời điểm kì lạ nhất và tại nơi kì quái nhất, thậm chí ngay cả bản thân họ cũng không hiểu được thứ tình cảm ấy không hiểu do đâu mà có.

(Cổ Long - Luận)

Liễu Dật ngồi thần người ra đối diện với Giác Quy, nhìn ông kiểm tra Càn Khôn Kính.

Giác Quy vừa xem vừa thở dài: “Oan nghiệt, đúng là oan nghiệt! Nhiều vong linh oan hồn như thế làm sao có thể về chốn cực lạc chuyển kiếp đầu thai cho được? Lại bị trấn giữ ở tại Phong Ma Trấn, rốt cuộc là vì sao chứ?”

Liễu Dật vội hỏi: “Đại sư, có thể hóa giải những oan hồn trong gương được không?”

Giác Quy gật đầu: “Đương nhiên là được. Nhưng Liễu thí chủ cũng nên biết hai chữ ‘nhân quả’, mọi việc đều có khởi đầu và kết thúc, một cái kết thúc thay thế cho một khởi đầu khác. Ta có thể hóa giải cho những oan hồn này, song điều làm ta lo ngại là tam giới sẽ có một đại kiếp nạn.”

Liễu Dật phe phẩy chiếc quạt: “Đại sư quá lo nghĩ rồi. Cũng nên biết rằng trời đất sinh vạn vật, vạn vật sinh âm dương, tất cả mọi việc đều có hai mặt chính phản, có ma đạo mới có chính đạo, có kẻ xấu mới có người tốt, mọi thứ tất có tương khắc, cũng giống như những oan hồn hôm nay, tất có Càn Khôn Kính khắc chế, đại kiếp nạn sắp tới cũng ắt sẽ có hai mặt chính diện của nó.”

Giác Quy nhìn Liễu Dật, gật đầu: “Liễu thí chủ tâm tính lương thiện, lão nạp có câu ngoài lề muốn hỏi Liễu thí chủ.”

Liễu Dật liền đáp: “Mời đại sư cứ nói.”

Giác Quy nhìn Liễu Dật như thể đang suy nghĩ vấn đề gì đó, cũng giống như cố gắng đưa ra một quyết định nào đó, nói: “Lão nạp biết, Liễu thí chủ được người giang hồ gọi là tài tử Giang Nam, vậy Liễu thí chủ đã từng học qua thứ võ công cao thâm nào chưa?”

Liễu Dật không hiểu tại sao Giác Quy lại hỏi mình câu hỏi như vậy, nghĩ một hồi rồi trả lời: “Nên nói là chưa từng tiếp xúc với võ công. Nhưng thời gian gần đây, vì một số việc nhỏ đã cuốn vãn sinh vào cái vòng giang hồ thị phi này, cũng vô tình học được một chút võ công thô thiển.”

Giác Quy gật gật đầu: “Ô, là như vậy! Mong Liễu thí chủ đừng trách lão nạp nhiều chuyện, lão nạp còn có một câu muốn hỏi.”

Liễu Dật cười, gật đầu: “Mời đại sư, chỉ cần Liễu Dật biết, nhất định sẽ trả lời đại sư.”

Giác Quy cũng mỉm cười, nhìn Liễu Dật, nói: “Liễu thí chủ đã từng nghe nói đến Ma Môn của Ma tộc hai mươi năm về trước có người tên là Vị Linh Phong?”

Liễu Dật gật đầu: “Đã từng nghe nói.”

Giác Quy gật đầu: “Vậy thí chủ có biết vì sao mà Vị Linh Phong chết không?”

Liễu Dật nhìn Giác Quy, không biết vì sao ông ấy lại hỏi mình điều này, trả lời: “Vãn sinh cũng không rõ lắm, nghe nói là vì một người con gái.”

Giác Quy gật gật đầu: “Đúng thế, cả đời Vị Linh Phong vừa chính vừa tà, làm việc gì cũng đều dựa vào sở thích của mình, nhưng hắn ta không nên yêu con gái của Môn chủ Thần Môn.”

Giác Quy đột nhiên dừng lời, nhìn về phía Liễu Dật, nói: “Nếu thí chủ là Vị Linh Phong, thí chủ sẽ làm gì?”

Liễu Dật bị hỏi bất thình lình, không biết nên trả lời như thế nào, ấp úng: “Việc này... việc này... Đại sư, vãn sinh đâu phải là anh ta.”

Giác Quy bỗng tỏ ra nghiêm trang: “Nếu như chính là anh ta, thí chủ sẽ làm gì?”

Liễu Dật nhìn vẻ mặt nghiêm trang của Giác Quy, trầm xuống một hồi, nói: “Vãn sinh nghĩ... vãn sinh sẽ giết tất cả những người ngăn cản mình yêu.”

Chỉ một câu nói, tuy là không dài, song lại hết sức kiên định, khiến người ta có cảm giác không thể phủ nhận. Giác Quy lắc lắc đầu, nhẹ giọng: “A di đà phật! Oan nghiệt, oan nghiệt! Không ngờ oan khí của tam thế lại nặng như thế, lại còn ngốc hơn cả Vị Linh Phong nữa.”

Liễu Dật không hiểu tại sao Giác Quy lại nói như vậy, nhưng cũng không biết nên hỏi như thế nào.

Giác Quy ngừng lại một chút: “Lão nạp có một thỉnh cầu cuối cùng, mong Liễu thí chủ nhất định phải nhận lời.”

Liễu Dật vội nói: “Mời đại sư nói, chỉ cần Liễu Dật có thể làm được, nhất định sẽ nhận lời.”

Giác Quy gật gật đầu: “Lần chia tay này giữa chúng ta, có thể sẽ không còn cơ hội gặp lại nữa, ta muốn mười năm sau Liễu thí chủ đến Phật Môn gặp ta một chuyến, coi như là hàn huyên chuyện của ngày trước, xem xem Liễu thí chủ của mười năm sau có có thay đổi gì.”

Liễu Dật gật đầu: “Xin đại sư yên tâm, chỉ cần Liễu Dật có thời gian nhất định sẽ tới thăm hỏi đại sư.”

Giác Quy cười. Bỗng nhiên phát hiện trên cổ Liễu Dật có đeo một miếng ngọc màu đỏ sẫm, tuy chỉ lộ ra một phần nhỏ song vẫn có thể nhận thấy đó là miếng ngọc màu đỏ sẫm. Giác Quy thôi không cười nữa, nói: “Liễu thí chủ, có thể cho lão nạp xem miếng ngọc trên người được không?”

Liễu Dật biết trên người mình ngoài miếng ngọc đeo trên cổ ra thì không còn miếng ngọc khác nữa. Liễu Dật vội tháo xuống, đưa cho Giác Quy. Giác Quy cầm lấy miếng ngọc, quan sát một cách hết sức tỉ mỉ. Một lúc lâu sau, chỉ thấy ông lắc lắc đầu, không nói gì, rồi tay trái cũng lấy ra một miếng ngọc hệt như vậy, thậm chí bên trên cũng điêu khắc giống nhau, nhưng lại hoàn toàn ngược chiều. Giác Quy ghép hai miếng ngọc ấy lại, định nhìn xem bên trên rốt cuộc là hình gì. Bỗng nhiên một luồng ánh sáng đỏ vụt lên, hai miếng ngọc đó lại dính chặt vào nhau, giống như một miếng ngọc tự nhiên vậy, tuyệt đối không nhìn thấy một vết rạn nào, tạo thành đúng một nửa.

Giác Quy kinh ngạc: “Sao lại như vậy?”

Nhưng ông lập tức trấn tĩnh lại, bởi vì sau khi hai miếng ngọc ấy kết hợp với nhau có thể nhìn thấy nửa trên của một hình người.

Liễu Dật trông thấy hai miếng ngọc kết hợp với nhau, nhớ đến lời Tửu thúc nói, nghĩ thầm: “Lẽ nào miếng hồng ngọc này chính là một trong ba phần khác kia?”

Giác Quy nhìn hình vẽ bên trên, nhưng không nhìn ra, lắc lắc đầu: “Liễu thí chủ đã có duyên với miếng ngọc này, vậy lão nạp tặng nó cho thí chủ, hy vọng Liễu thí chủ giữ gìn tốt.”, nói rồi đưa miếng ngọc đã ghép lại với nhau cho Liễu Dật.

Liễu Dật nhìn miếng hồng ngọc, nó to gấp đôi so với trước, hơn nữa bên trên còn khắc rõ ràng nửa trên một hình người. Người này là ai? Sao lại trông quen thế nhỉ? Đã từng gặp ở đâu rồi? Đúng! Trong giấc mơ, cái người bị sáu người cưỡi ngựa tấn công ấy, chính là ông ta, tuy là nhìn không rõ mặt của người ấy, nhưng cảm giác thì không sai, đúng là thứ cảm giác đó.

Giác Quy nhìn Liễu Dật ngẩn người ra, hỏi: “Liễu thí chủ, có điều gì không đúng sao?”

Liễu Dật vội lắc đầu, đeo trở lại miếng ngọc lên cổ, nói: “Không có, chỉ là vãn sinh đột nhiên nghĩ đến một chuyện.”

Giác Quy vội hỏi: “Có liên quan đến miếng ngọc này sao?”

Liễu Dật lắc đầu: “Không phải, là mười hai người bên trên mười hai cột trụ trong Đại Hùng Bửu Điện, không biết là...”

Giác Quy nhẹ nhàng: “Nói ra, đây phải coi như một câu chuyện thần thoại, cũng là một truyền thuyết. Trận chiến đó là trận giao đấu đầu tiên giữa chính và tà; mười hai người đó chính là túc chủ của mười hai tinh túc ngoài trời. Khi Bàn Cổ, Nữ Oa giao chiến với Ma Thần Niết Nhân, họ đã bị tiêu diệt hồn phách, chặt hết thịt, sau này được Như Lai tôn giả ở Tây phương thu nhận làm mười hai hộ pháp, trở thành người bảo vệ của Phật giáo.”

Liễu Dật không nói gì. Nhớ đến giấc mơ đó, giấc mơ ở Miêu Cương ấy, người mặc áo đen đó, lẽ nào ông ta chính là Ma Thần? Nhưng tại sao câu chuyện truyền thuyết ấy lại xuất hiện trong giấc mơ của chàng, tại sao lại như vậy chứ?

Liễu Dật định thần lại, gật đầu: “Thật không ngờ trên đời lại có những truyền thuyết như vậy.”

Giác Quy nhìn Liễu Dật, hỏi: “Nếu thí chủ là Ma Thần, thí chủ sẽ làm như thế nào?”

Liễu Dật cười: “Sao lại như thế được, nếu vãn sinh là Ma Thần thì sớm đã bị những thần tiên chính phái kia đuổi chạy khắp núi rồi.”

Giác Quy nhìn Liễu Dật: “Được rồi, câu hỏi của lão nạp đã hết. Bây giờ ta dùng Kim Cương Bán Nhược Kinh để siêu độ cho những oan hồn này, xin Liễu thí chủ chờ ở bên ngoài cửa.”

Liễu Dật gật gật đầu: “Đại sư khách khí rồi.”, nói xong đi ra ngoài cửa rồi đóng cửa lại.

Giác Quy nhìn Càn Khôn Kính trong tay thở dài.

oOo

Lại nói Liễu Dật nghĩ về những câu hỏi mà Giác Quy hỏi thật không hiểu ra làm sao cả. Nhìn miếng ngọc bội đeo trên cổ mình, trước đây khi còn là một miếng thì chẳng có cảm giác gì cả, bây giờ hai miếng ghép vào một, Liễu Dật lại cảm thấy có một luồng khí ấm truyền vào trong ngực.

Đúng lúc ấy, Liễu Dật nghe trong thiền phòng truyền đến những tiếng tụng kinh; ngoảnh đầu lại, thấy trong phòng phát ra từng mảng ánh sáng vàng, Liễu Dật than: “Giang hồ thật là thần kì, người nào cũng có. Thế nhưng trong giang hồ này rốt cuộc ai là vô địch nhỉ?”

Liễu Dật đứng bên ngoài, vừa nhìn mặt trời phía trên, vừa tính thời gian. Bây giờ đã là giờ Ngọ rồi, nếu như có thể, trước khi trời tối có thể đến trấn Lạc Tuyết. Thật sự muốn chúc mừng một cái, cuối cùng thì cũng đã không còn chuyện phiền phức nữa rồi.

Rốt cuộc cửa cũng đã mở, Giác Quy từ bên trong đi ra, trên trán còn có mấy giọt mồ hôi, hẳn là lần này tiêu hao không ít công lực. Giác Quy đưa Càn Khôn Kính cho Liễu Dật, nói: “Các oan hồn bên trong đã không còn tồn tại nữa, thí chủ có thể yên tâm rồi.”

Liễu Dật nhận lấy chiếc gương, vui mừng hành lễ: “Đa tạ đại sư, Liễu Dật cả đời không dám quên.”

Giác Quy mỉm cười từ hòa: “Không phải cảm ơn, thí chủ cũng vì bách tính mà làm, nhưng thí chủ phải nhớ lời hứa với ta đó, mười năm sau nhất định phải đến Phật Môn một chuyến.”

Liễu Dật gật đầu, cười: “Khi ấy vãn sinh sẽ đem cả thê tử cùng đến thăm đại sư, đại sư chớ có trách tội. Liễu Dật xin cáo từ.”, nói rồi quay người đi về phía phòng bên cạnh.

Giác Quy mỉm cười, gật đầu nhìn theo Liễu Dật, lắc đầu: “Hy vọng khi ấy hắn thực sự không phải đến một mình.”

Liễu Dật trở lại khách phòng, thu dọn đồ đạc, đưa chiếc gương cho Thủy Nhi rồi mấy người theo Lý Lăng cáo từ các vị sư ở Đại Hùng Bửu Điện.

-oOo-

Hồi 47: Bạt kiếm vô tình, Toái tinh khởi kiếm thức

Tình bạn phải được bồi đắp dần dần, nhưng tình yêu lại diễn ra hết sức đột ngột. Tình bạn nhất định phải trải qua sự khảo nghiệm của thời gian, nhưng tình yêu thì thường xảy ra trong một khoảnh khắc.

(Cổ Long - Luận)

Lại nói sau khi từ biệt Lý Lăng, nhóm ba người Liễu Dật hỏa tốc cưỡi ngựa quay về Lạc Tuyết Trấn.

Trên đường đi, người nào cũng đầy tâm sự. Thủy Nhi đương nhiên là mẫu thuẫn, nhưng nàng vẫn quyết định mang Càn Khôn Kính về Thần Môn trước rồi mới tính đến chuyện khác. Đại Đao Vương trong lòng cũng không dễ chịu chút nào; Lý Lăng tặng kiếm, tuy chỉ vẻn vẹn mấy ngày, song hắn đã phục con người này sát đất rồi. Còn Liễu Dật, trong lòng cũng rối bời; lời hứa mười năm với Giác Quy đại sư có ý gì? Tuyệt đối không phải là một cuộc gặp gỡ bình thường rồi. Hơn nữa, nửa miếng hồng ngọc kia dường như tượng trưng cho cái gì đó. Và còn giấc mơ ấy nữa...

Đoàn người mang nặng tâm sự cứ thế rong ruổi trên đường dài gió bụi. Chẳng mấy chốc trời đã tối. Tính toán thời gian, Liễu Dật lên tiếng: “Ta nghĩ đi như thế này thêm mấy khắc nữa là có thể đến Lạc Tuyết Trấn rồi. Đến đó chúng ta phải ăn mừng một bữa mới được.”

Thủy Nhi và Đại Đao Vương đương nhiên không phản đối gì, gật gật đầu. Ba người tiếp tục tăng tốc thẳng hướng đến Lạc Tuyết Trấn.

Cuối cùng thì họ cũng đã dừng lại trước cửa Lạc Tuyết Trấn. Liễu Dật ước đoán có lẽ là giờ Dậu. Cảnh tượng trong trấn hết sức nhộn nhịp, phồn hoa. Hai bên đường hàng quán san sát bày bán đầy đồ ăn vặt, người qua kẻ lại như nêm, hết sức sôi động. Những quán rượu lớn một chút thì treo đèn kết hoa, khiến cả thị trấn càng trở nên hào nhoáng hơn...

Liễu Dật nhìn qua hai người, nói: “Ha ha, thị trấn này quả là không tồi. Hôm nay chúng ta phải uống một trận đã đời mới được.”

Đại Đao Vương cũng cười, gật đầu. Họ dừng lại trước một quán trọ tên là Tân Tích Nguyệt Tửu Lầu. Sau khi tiểu nhị dắt ngựa đi, Liễu Dật đặt ba gian phòng thượng hạng và gọi một mâm rượu thịt thịnh soạn.

Ba người lên lầu, ngồi ở vị trí sát với cửa sổ. Lầu hai tuy là gian sang trọng song người cũng không phải là ít, xem chừng tửu lầu này làm ăn cũng khá là phát đạt.

Một chén rượu vào bụng, cuối cùng thì Liễu Dật cũng cảm thấy nhẹ nhõm hơn nhiều. Bây giờ chẳng còn chuyện gì phải làm nữa rồi, trận phong ba cùng nàng A Cửu rốt cuộc cũng đã kết thúc, chỉ cần đợi Thập Kiệt Nhất quay lại là có thể vĩnh viễn rời khỏi cái mảnh đất hoang tàn này rồi.

Thủy Nhi cũng cúi đầu uống rượu. Rượu vừa mát lại lạnh lại vừa cay nồng, trôi xuống đến bụng thì trở nên nóng hổi khiến máu huyết tòan thân như muốn sôi lên. Nghe nói rượu có thể giúp quên đi phiền não nên Thủy Nhi lại tự rót cho mình một chén nữa.

Còn Đại Đao Vương, cũng cầm chén lên rót cho mình, một ngụm hết sạch. Mấy tháng nay cùng Liễu Dật chạy đông chạy tây, hắn bỗng nhiên phát hiện mình không hoàn toàn là người vô dụng, mà cái thế giới này cũng không hề khô khan, trái lại còn chứa đầy những điều mới lạ, kích thích.

“Có lẽ đây là lần cuối cùng được uống rượu cùng nhau. Liễu Dật cũng sắp về nhà rồi...”, nghĩ đến đó, Đại Đao Vương lại cảm thấy buồn bã.

Liễu Dật nhìn vẻ mặt của hai người, ngạc nhiên hỏi: “Này, hai người sao vậy? Chúng ta chẳng phải nói là đến để say sưa một trận ăn mừng sao? Sao mặt mũi ai nấy như cái bánh bao chiều thế kia, còn gọi là ăn mừng gì nữa.”

Thủy Nhi liếc nhìn Liễu Dật, nói: “Muội... muội có chút không khỏe, muốn về phòng nghỉ trước.”, rồi đứng dậy chạy thẳng về phòng.

Thủy Nhi đột nhiên cảm thấy, Liễu Dật đối với nàng có lẽ còn quan trọng hơn cả Lý Lăng nữa. Khi chia tay với Lý Lăng, nàng chẳng hề nhỏ một giọt lệ, vậy mà giờ đây sắp phải rời xa Liễu Dật... nàng thật không kiềm chế nổi mình nữa, tim nhói đau. Không muốn Liễu Dật thấy mình khóc, nàng đành phải kiếm có trở về phòng trước.

Đại Đao Vương thấy Thủy Nhi đi rồi thì quay sang Liễu Dật nói: “Liễu đại ca, tôi cũng buồn ngủ rồi, tôi đi ngủ trước đây.”, đoạn vác thanh đại đao đi lên lầu.

Liễu Dật ngẩn người không hiểu tại sao. “Hành trình phiền phức này cuối cùng cũng sắp kết thúc, sao mọi người lại chẳng vui vẻ chút nào? Trở về nhà sống cuộc sống an nhàn không tốt sao?”, rồi cầm cả hũ rượu lên tu ừng ực.

Không biết đã uống bao lâu, cũng không rõ đã uống hết bao nhiêu rượu, Liễu Dật mơ hồ gọi tính tiền rồi đi về phòng mình. Khi đó hắn chỉ cảm thấy mình lâng lâng, choáng váng, trong đầu không còn nghĩ được gì, ngã vật ra giường ngủ ngay lập tức...

oOo

Một vầng sáng màu đỏ bao phủ toàn thân Liễu Dật, càng lúc càng dày đặc, tự hồ như những giọt máu tươi vậy. Nếu như khi ấy có người vào phòng Liễu Dật, nhất định thấy ngay thân thể của hắn đang bị luồng sáng kia nuốt chửng.

“Đây là đâu?”

Liễu Dật lò mò trong bóng tối mông lung, không thấy được trời, cũng không nhìn được đất, xung quanh toàn một màu đen kịt, trống rỗng chẳng có gì.

Liễu Dật hét lên: “Đây là đâu?”

Thế nhưng xung quanh vẫn vắng lặng như tờ, không một ai hồi đáp.

Bỗng nhiên một tiếng thét lớn: “Trảm Thiên Bạt Kiếm Thức chiêu thứ tư!”

Trên đầu Liễu Dật mây đen cuồn cuộn, không khí từ bốn phía ngưng đọng lại. Liễu Dật nhìn ra phía trước. Là ông ấy. Ông ấy chính là Niết Nhân. Đó, lại là giấc mơ, là giấc mơ đó.

Chỉ thấy một luồng sáng xanh lóe lên, tay trái của người mặc áo đen vẫn nắm chắc chuôi kiếm, dường như vẫn đứng yên chưa hề cử động.

Liễu Dật vội ngẩng đầu nhìn lên. Chỉ thấy vị thần tướng từ trên trời bay xuống, chớp mắt đã tiến sát người mặc áo đen, bao nhiêu mây khói đều tan biến hết.

Liễu Dật nhớ rõ ràng, giấc mơ lần trước, sáu người này vẫn chưa hạ xuống... Lẽ nào lại là nối tiếp của giấc mơ trước sao?

Bỗng nghe thấy người khổng lồ đối diện kinh hãi quát: “Trảm Thiên Bạt Kiếm? Tiêu diệt linh hồn, hủy diệt thân xác. Niết Nhân, ngươi quá tàn độc rồi đó.”

Người áo đen được gọi là Niết Nhân kích động, hơi run run đáp: “Vậy sao? Là ta tàn độc ư? Là các ngươi, đây đều là do các ngươi ép ta! Tại sao từ đầu đến cuối ta chỉ muốn chân thành yêu một người, sao ngay cả đến một lần cơ hội ngươi cũng không cho, liên tục gây hấn? Bàn Cổ, ngươi làm thần kiểu gì vậy?”

Bàn Cổ tay cầm cây rìu khổng lồ, nói: “Thần và Ma vốn luôn là đối địch, làm sao có thể dung nạp sự xuất hiện mà ngươi gọi là tình yêu? Đây rõ ràng là phản nghịch.”

Niết Nhân có vẻ xúc động, lắc đầu đáp trả: “Đây là quy định của ai? Đây rõ ràng còn tàn nhẫn hơn những lời nguyền rủa độc ác nhất trên thế gian nữa. Tình yêu vốn không phân chia ranh giới, chỉ cần hai người sống cùng nhau vui vẻ, ta có thể bỏ qua tất cả, thậm chí là rời khỏi hành tinh này. Vậy mà... ngươi tại làm sao? Tại sao lại lôi những lời nguyền rủa độc ác ấy ra để chia cắt chúng ta?”

Bàn Cổ thở dài: “Muốn oán thì hãy oán ngươi yêu nhầm người.”

Niết Nhân khẽ lắc đầu, có lẽ để trấn tĩnh lại, chậm rãi nói: “Đem lòng yêu nàng, ta không oán trách điều gì. Đem lòng yêu nàng, ta không hề hối hận.”

Rồi đột nhiên giọng nói lại chuyển sang lạnh lùng vô tình: “Thế nhưng... bọn chân thần các ngươi, ta sẽ cho các ngươi lời cảnh báo độc địa nhất. Cho dù phải chịu khổ ba đời ba kiếp, ta cũng sẽ phá bỏ quy định của bọn chân thần các ngươi, ta phải để cho các ngươi biết rằng giữa bất kỳ ai cũng có thể có tình yêu chân thật.”

Đột nhiên một trong số những người cưỡi ngựa hét lên: “Niết Nhân to gan, chân thần đâu để cho ngươi thóa mạ như vậy.”

Cả sáu người phóng vụt xuống ngựa, thần kiếm từ trong tay phóng ra, dùng linh lực siêu phàm khống chế kiếm bắn thẳng về phía Niết Nhân.

Nhìn thấy sáu thanh thần kiếm lao đến, Niết Nhân ngửa mặt cười vang. Tiếng cười đó không phải là cuồng vọng, cũng không phải tự đại, mà ẩn chứa chút bi thương ưu sầu.

Sau tiếng cười, Niết Nhân quỳ gập một gối xuống, tay phải đeo găng màu đen dần tiếp cận chuôi kiếm. Khi ấy, cũng chính từ bàn tay phải của ông ta, mây đen trên trời tụ lại càng nhanh, càng mạnh; chiếc áo khoác trên người tung bay phần phật theo tốc độ mây đen tụ. Chỉ thấy Niết Nhân lớn tiếng quát: “Là các ngươi ép ta. Đừng trách Niết Nhân này vô tình. Bi Tứ Thức Toái Tinh Khởi Kiếm!”

Một tiếng sấm vang động. Tại khoảng khắc sáu thanh kiếm hợp lại, Niết Nhân lao vút lên không trung với tốc độ mắt không thể thấy được, vọt lên ba mươi trượng.

Sau một cái chớp mắt ngắn ngủi, một đạo hào quang màu tím phóng từ trên cao vụt xuống. Không! Không nên gọi đó là đạo hào quang, bởi tốc độ như vậy có lẽ còn nhanh hơn ánh sáng nữa. Nhưng vừa chạm vào sáu thanh kiếm nó liền lập tức biến mất.

Một bóng đen lóe lên, Niết Nhân xuất hiện bên cạnh sáu thanh kiếm như thể chưa xảy ra chuyện gì. Thế nhưng, khi ngón tay phải của Niết Nhân chạm vào sáu thanh kiếm thì bi kịch đã xảy ra...

“A...”, một tiếng kêu thảm khốc vang lên. Liễu Dật bị ân thanh đó kéo ra khỏi giấc mơ kì lạ, ngồi bật dậy.

-oOo-

Hồi 48: Tái ngộ sát thủ , băng lãnh đích ôn nhu

Những việc nguy hiểm, đáng sợ nhất trên đời thường ẩn dấu dưới những gì tĩnh lặng nhất.

(Cổ Long - Luận)

Tiếng kêu đó thật thảm khốc. Là gì vậy? Liễu Dật lau mồ hôi trên trán, lao nhanh xuống giường, mở toang cửa ra, chỉ thấy Thủy Nhi và Đại Đao Vương đã đứng ngoài cửa.

Liễu Dật liền hỏi: “Hai người cũng nghe thấy tiếng kêu khi nãy phải không?”

Đại Đao Vương gật đầu: “Tiếng kêu đó ở gần đây, hình như là có người bị giết thì phải.”

Liễu Dật phẩy quạt nói: “Chúng ta đi ra ngoài xem sao. Ta nhớ lúc đến, bên ngoài Lạc Tuyết Trấn ba mươi dặm về phía nam có một ngôi miếu đổ, nếu có chuyện gì xảy ra thì chia nhau mà chạy rồi sẽ tập họp ở đó.”

Thủy Nhi và Đại Đao Vương gật đầu rồi cùng đi ra ngoài.

Đại Đao Vương nói: “Nghe tiếng kêu ban nãy, hình như là ở gần tửu lầu, sao tìm mãi mà không thấy gì cả?”

Thủy Nhi cũng gật đầu: “Đúng thế, tiếng kêu đó... phải ở gần đây mới đúng.”

“A...” lại là một tiếng kêu thảm khốc vang lên, giống như là đến từ chín tầng địa ngục vậy, người nghe thấy không khỏi dựng tóc gáy, run lên cầm cập. Đại Đao Vương lo lắng hỏi: “Âm thanh ban nãy cũng như vậy, vậy âm thanh này có nghĩa là... lại chết thêm một người nữa sao?”

Thủy Nhi gật đầu đáp: “Nghe tiếng kêu này là ở bên ngoài trấn. Đi thôi!”

Ba người nhanh chóng đuổi theo hướng tiếng kêu, cuối cùng phát hiện ra hai người chết ở trong một cánh rừng nhỏ ngoài thị trấn. Cả hai người đều mặc khôi giáp màu trắng, tay cầm trường thương, Thủy Nhi kinh hãi nói: “Là huynh đệ đồng môn của ta.”

Liễu Dật nhìn thấy hai người cổ họng đều bị cắt đứt, hẳn hung thủ đã ra tay phải là cao thủ về dùng kiếm, một nhát lấy mạng.

Vào lúc ba người đang xem xét vết thương của người chết, bỗng hai luồng ánh sáng đỏ lóe, tiếp đó trước mặt ba người xuất hiện hai tên bịt mặt, mặc áo đỏ tay cầm trường kiếm.

Thủy Nhi giật mình nói ngay: “Là sát thủ của Ám Môn.”

Liễu Dật nhìn tiêu ký vẽ trên ngực hai người đó, điều kì lạ là dưới tiêu ký đó có thêm ba ngôi sao màu trắng, không hiểu có ý nghĩa gì.

Đại Đao Vương nhún vai, xoa xoa túm tóc dựng ngược của mình, vác đại đao bước lên trước: “Hai người của Thần Môn này là do các ngươi giết?”

Tên sát thủ bên trái gật đầu, tuy không nói ra nhưng đã gián tiếp trả lời Đại Đao Vương.

Thủy Nhi từ từ bước lên trước một bước, nói nhỏ với Đại Đao Vương: “Hai tên sát thủ này lợi hại hơn lần trước rất nhiều, hai người chết kia có lẽ là sư huynh trong Thần Môn.”

Đại Đao Vương vung ngang đao lên, nói: “Còn sợ chúng không chịu nổi đấy chứ. Hai người tránh ra một bên xem ta thu dọn bọn chúng.”, rồi làm ra vẻ chuẩn bị tấn công.

Đúng lúc đó, tên sát thủ bên phải phất nhẹ tay trái, phía sau lưng lại xuất hiện thêm mười hai tên sát thủ khác, bên dưới tiêu ký trên ngực chỉ có hai ngôi sao màu trắng.

Đại Đao Vương dần đứng thẳng người lại, vừa lùi xuống vừa cười nói: “Lúc nãy là ta nói đùa vậy, hai vị đừng tưởng là thật. A, gọi nhiều huynh đệ như vậy đến làm gì? Muộn như vậy rồi, về đi ngủ thôi...”

Liễu Dật thấy tình hình không ổn, xem ra sát thủ của Ám Môn cố ý dùng tử thi của hai người trong Thần Môn để dụ ba người ra đây, hẳn là chúng đã sớm có chuẩn bị.

Đại Đao Vương quay đầu lại hỏi: “Liễu đại ca, bây giờ huynh... huynh có... có cao kiến gì không?”

Đối mặt với mười bốn tên đang áp sát gần, Đại Đao Vương cũng đã bắt đầu run

“Ba mươi sáu kế, chuồn là thượng sách. Hãy nhớ địa điểm tụ họp...”, nói xong câu cuối, bóng dáng Liễu Dật đã chạy mất tăm rồi.

Đại Đao Vương quay đầu nhìn theo hướng mà Liễu Dật biến mất, vò đầu than: “Liễu đại ca chạy nhanh như vậy từ khi nào nhỉ? Thật là bội phục, bội phục.”

Tên sát thủ bên trái ra lệnh: “Bảy người bọn ngươi đuổi theo gã thư sinh đó, sống phải thấy người, chết phải thấy xác!”

Bảy tên kia nghe lệnh, thi triển thân pháp đuổi theo hướng của Liễu Dật.

Thủy Nhi thấy bảy tên còn lại dần dần áp sát, nói: “Chúng ta phải làm gì đây?

Đánh với chúng thì căn bản không có khả năng thắng.”

Đại Đao Vương gài đao vào thắt lưng, nói: “Cô chẳng phải nói phí lời sao? Không có khả năng thắng thì chúng ta còn đánh cái gì chứ? Làm thế nào à? Để ta nói cho cô biết...”

Bỗng nhiên, Thủy Nhi cảm thấy tay trái mình bị nắm chặt, một bàn tay mạnh mẽ nhưng vẫn rất dịu dàng giữ chặt lấy, tiếp đó thấy người nhẹ hơn, lao nhanh về phía trước...

Hóa ra Đại Đao Vương túm chắc lấy tay của Thủy Nhi, vận Thiên Tật Tâm Pháp, còn lợi hại hơn cả khinh công bình thường nữa, thân hình nhẹ bổng mượn lực đạp vào lá cây, bay nhanh về phía trước.

Mấy tên sát thủ phía sau không hề nghĩ rằng hai người phía trước lại giở trò giống như gã thư sinh kia, hèn nhát trốn chạy, nên khựng người lại đôi chút mới định thần lại. Tên cầm đầu quát: “Đuổi theo!”

Ánh trăng bao phủ lên toàn bộ cánh rừng, những vì sao trên trời dường như hòa lẫn vào với Đại Đao Vương và Thủy Nhi, hai người như thể đang bay giữa biển sao vậy, gió nhè nhẹ thổi qua kẽ tay, tiếng gió vùn vụt, mây bềnh bồng trôi quanh thân thể hai người, chẳng khác như trong giấc mộng vậy.

Sát khí phía sau đang lan tỏa dưới ánh trăng bàng bạc, đuổi sát theo hai người họ. Bỗng một vệt sáng đỏ vụt lên, tên sát thủ cầm đầu đã đuổi đến, dùng trường kiếm chém một nhát vào Thủy Nhi.

Đại Đao Vương thấy tình thế không ổn, ôm chặt lấy Thủy Nhi, quay vòng rồi hạ xuống mặt đất, nhưng vẫn chậm một bước, vai phải của Đại Đao Vương bị trúng một kiếm của tên sát thủ.

Vừa đáp xuống đất, bảy tên sát thủ áo đỏ đã lập tức vây kín lấy họ. Thủy Nhi giẫy giụa thoát khỏi vòng tay của Đại Đao Vương, mặt đỏ bừng hỏi: “Bây giờ... bây giờ phải làm thế nào?”

Đại Đao Vương rút đao ra: “Hãy giở chiêu phóng điện mà cô đã dùng với ta ra, đánh chết chúng đi là được.”

Hai tay của Thủy Nhi khẽ động, Phất Thiên Tiên Lăng xuất hiện, đó chính là vũ khí của nàng. Thủy Nhi vội nói: “Cái bùa đó của ta dùng phóng điện với ngươi thì được, với họ thì chẳng có tác dụng gì cả... chỉ biết trách ta thường ngày không chịu khó luyện tập mà thôi.”

Khi ấy vòng vây của bảy tên sát thủ dần khép lại, Thủy Nhi và Đại Đao Vương chỉ còn cách quay lưng vào nhau quan sát động tĩnh của bọn chúng.

Nghe Thủy Nhi nói vậy, Đại Đao suýt nữa thì ngã vật ra, nói: “Lý Lăng chẳng phải đã gia tăng công lực cho cô rồi sao? Vậy thì bây giờ khẳng định phải lợi hại hơn nhiều rồi chứ.”

Thủy Nhi giải thích: “Công lực thì đã được tăng lên, nhưng đạo thuật của tôi vẫn chưa luyện kịp, vì thế... vì thế, cũng như vậy thôi.”

Đại Đao Vương nghĩ một lúc rồi bảo: “Lát nữa nếu có cơ hội, cô hãy chạy nhé, tuyệt đối không được quay đầu lại.”

Thuỷ Nhi lắc đầu: “Như vậy sao được, muốn đi thì cùng đi.”

Đúng lúc ấy, bọn sát thủ bắt đầu ra tay tấn công, bảy thanh kiếm giống như những con rắn độc cùng lao nhanh tới. Đại Đao Vương vung đao lên thi triển Hỏa Diệm Đao Pháp, nhắc nhở: “Thủy Nhi, cẩn thận đó!”

Thủy Nhi đâu còn thời gian trả lời anh ta, múa Phất Thiên Tiên Lăng như thể tiên nữ hạ phàm, tấn công trở lại bảy tên sát thủ. Mỗi một lần xuất chiêu đều tạo cho người ta cảm giác ngưỡng mộ; đây căn bản chẳng giống võ công một chút nào, đó chính là vũ đạo, mỗi một tư thế, vị trí của chiêu thức đều đạt đến cảnh giới hoàn mĩ, khiến người ta không khỏi ca ngợi.

Hiển nhiên, bảy tên sát thủ này lợi hại hơn rất nhiều so với lần gặp trước; tên cầm đầu, sát thủ có ba ngôi sao trắng trước ngực, càng lợi hại hơn, tuy chiêu thức của Đại Đao Vương vừa mạnh vừa độc, song dưới đường kiếm nhanh như chớp của hắn chẳng thể phát huy được tác dụng.

Còn Thủy Nhi bị ba tên sát thủ tấn công, tuy đối phương là những sát thủ được huấn huyện bài bản, nhưng Thủy Nhi cũng là cao đồ của danh môn, trước mắt còn có thể ứng phó được. Song suy cho cùng sát thủ vẫn là sát thủ, bọn chúng lạnh lùng vô tình, mục đích chỉ là giết chết đối phương, do đó bọn chúng không hề sợ chết, vậy nên Thủy Nhi gặp phiền phức lớn rồi...

-oOo-

Hồi 49: Nhất cá thuấn gian, vĩnh viễn hữu đa viễn

(Trong nháy mắt, vĩnh viễn là bao xa)

Con người ta sao luôn phải đợi đến những khoảnh khắc cuối cùng mới có thể hiểu được một số chuyện mà lẽ ra họ nên hiểu từ sớm hơn?

(Cổ Long - Luận)

Hai người càng đánh càng vất vả, Đại Đao Vương dựa vào sự dũng mãnh của Hỏa diệm đao pháp vẫn còn có thể miễn cưỡng chống đỡ được, còn Thủy Nhi dưới sự công kích của ba tên sát thủ thì chân tay rối loạn, ba tên đó dường như đã được huấn luyện rất kỹ lưỡng, phối hợp với nhau rất ăn ý, ba tên chia nhau tấn công trên, giữa và dưới nhằm thẳng vào các trọng huyệt của Thủy Nhi. Không những phối hợp mật thiết, mà kiếm pháp của chúng cũng nhanh đến kinh người, so với bọn sát thủ lần trước, ba tên này lợi hại hơn nhiều, cho dù công lực của Thủy Nhi đã tăng lên khá nhiều, cũng chỉ có thể tạm thời cầm cự ngang hàng với chúng mà thôi.

Đã nói là tạm thời cầm cự thì đâu thể cố gượng mãi được, do đó dần dần Thủy Nhi bị thất thế, vốn cho rằng sau khi công lực được nâng lên thì cho dù đánh không thắng thì cũng có thể chi trì được một trăm tám chục hiệp, nhưng bây giờ mới chỉ được có hơn ba mươi hiệp mà Thủy Nhi đã toát hết cả mồ hôi rồi!

Đột nhiên Thủy Nhi cảm thấy vai phải của mình đau nhói, thì ra khi nãy tên sát thủ tấn công Thủy

Nhi vào trung lộ đã bất ngờ biến đổi chiêu thức, cùng phối hợp với tên sát thủ tấn công phía trên cùng vây công hai bên vai Thủy Nhi, do nhất thời sơ ý, vai phải của Thủy Nhi bị đâm một kiếm, khi kiếm được rút ra, Thủy Nhi cảm thấy một cơn đau dữ dội từ vùng bụng truyền tới, vẫn chưa kịp phản ứng, Thủy Nhi đã bị bắn ra xa ngoài sáu trượng, ngã ngục xuống đất, cổ họng thấy ngòn ngọt rồi phun ra một búng máu tươi từ nội thương ở bụng.

Ba tên sát thủ thấy cơ hội đã đến, đâu chịu bỏ qua, bay người theo, đồng thời hướng Thủy Nhi đang nằm dưới đất đâm tới, định giải quyết xong đối phương.

Đại Đao Vương quay phắt sang nhìn, hắn không còn để ý đến bốn tên sát thủ đang tấn công phía trước, xách đao lao tới ba tên sát thủ kia.

“Choang, choang...”. binh khí va đập vào nhau, Đại Đao Vương giở chiêu Hỏa diệm đao pháp nhằm mượn đao khí nóng bỏng để tạm thời đẩy lui ba tên sát thủ kia.

Nhưng đúng lúc ấy Đại Đao Vương phát hiện phía sau vẫn còn bốn tên đang nhằm mình đâm vụt tới, không nghĩ nhiều, hắn quạt mạnh một đao... Đây là chính là chiêu thức mà Đại Đao Vương đã nhìn thấy Vi Thiên Đà sử dụng, đến giờ hắc mới hiểu được ý nghĩa của chiêu thức này, tuy đây là một chiêu thức rất ngớ ngẩn, nhưng cần biết rằng, thanh đao nặng như vậy, cộng với lực vung nhanh, người bình thường muốn chống đỡ cũng đã rất khó, còn bọn chúng nếu không chống đỡ được thì tất phải lùi về sau hoặc tránh ra, phân tán ra các phía, kiếm thêm được ít thời gian để mà lấy hơi...

Quả nhiên, ba tên sát thủ thấy khí nóng hừng hực từ đại đao phát ra, đều nhảy sang một bên để tránh...

Đại Đao Vương đang thấy mừng rỡ, thì bỗng cảm thấy có gì đó không ổn, sao lại là ba tên? Rõ ràng mình ứng phó với bốn tên! Sao bây giờ chỉ còn ba tên? Khi còn đang suy nghĩ bỗng hắn cảm thấy một luồng khí lạnh, xuyên từ sau lưng lên bụng...

Là... là gì vậy? Kiếm! Là kiếm của sát thủ, của tên sát thủ thứ tư, ngay từ lúc Đại Đao Vương vung đao lên, hắn đã thay đổi hướng, tấn công từ phía bên cạnh, rồi dùng trường kiếm lạnh lẽo đâm một nhát vào bụng Đại Đao Vương.

Đại Đao Vương từ từ quay đầu lại, trong mắt của hắn đầy sợ hãi, đau đớn thấu xương, nhưng nhìn thấy ánh mắt khinh thường của kẻ địch, Đại Đao Vương điên tiết lên, tay phải rút ngay thanh Liệt Hỏa kiếm ở sau lưng, đúng vào lúc tên sát thủ cảm thấy có gì đó không ổn thì một vệt sáng vàng lóe lên giữa hai người, trong mắt tên sát thủ hiện lên vẻ kinh hãi, không dám tin vào mắt mình nữa, đến lúc chết hẳn vẫn không biết mình chết dưới thanh Liệt Hỏa kiếm.

Đại Đao Vương tiếp tục nhờ vào Liệt Hỏa kiếm mà tả xung hữu đột trước mặt sáu tên sát thủ còn lại, hắn không dám rút thanh kiếm đang cắm trong bụng ra vì sợ không cầm được máu, sáu tên sát thủ kia nhất thời ngớ người ra, tên chỉ huy đã chết thảm như vậy, kẻ máu me đầm đìa tóc dựng ngược vẫn múa may thanh kiếm loang loáng trong tay khiến bọn chúng có phần lo ngại, trong nhất thời chưa dám ra tay.

Cố nhịn cơn đau dữ dội, Đại Đao Vương từ từ lê đến cạnh Thủy Nhi, quỳ một gối xuống đất, lắc lắc đầu Thủy Nhi: “Này, nha đầu, cô không sao chứ?”.

Nội thương và ngoại thương của Thủy Nhi đều không nhẹ, nhưng khi nhìn thấy thanh trường kiếm xuyên qua bụng Đại Đao Vương, Thủy Nhi thần người ra, thật đúng là một nam nhi dũng mãnh.

Thủy Nhi lắc đầu: “Không sao”.

Đại Đao điểm huyệt đạo cầm máu cho Thủy Nhi, yếu ớt nói: “Lát nữa, ta đi cản sáu tên kia, cô...... cô hãy chạy thật nhanh, chạy càng xa càng tốt, nhớ lấy, tuyệt đối không được quay đầu lại!”.

Thủy Nhi cảm thấy rối bời, tại sao hắn ta lại nói như vậy chứ? Sao lại không muốn mình quay đầu lại? Quay đầu lại thì thấy cái gì chứ? Nhìn thấy anh ta? Nhìn thấy... Thủy Nhi không dám nghĩ tiếp nữa, vội lắc đầu: “Đừng, chẳng phải là huynh có Liệt Hỏa kiếm sao? Chúng ta cùng bỏ chạy, cùng bay lên”.

Đại Đao Vương gượng cười, lắc đầu: “Về sau Lăng nói cho ta... ta mới biết, Liệt Hỏa kiếm chỉ chọn ra một chủ nhân có duyên với nó trong vòng một trăm năm, và nó chỉ theo người chủ nhân đó thôi. Nếu muốn bay thì không thể mang... mang nàng theo, trừ phi ta… ta có phép ngự kiếm. “.

Thủy Nhi lắc mạnh đầu, nhìn bộ dạng buồn bã của Đại Đao Vương, nói: “Vậy huynh đi đi, huynh có thể đi được mà, ta ở lại. “.

Đại Đao Vương nhìn Thủy Nhi, gượng cười: “Đại Đao Vương ta cả đời tham tiền, háo sắc, chưa từng làm việc tốt nào cả, lần này cô hãy nghe ta nhé, biết không? Một người bình thường như ta, trải qua những chuyện như ngày hôm nay, ta cũng có thể nhắm mắt được rồi, chí ít thì... thì ta cũng không uổng phí, chí ít thì ta cũng không phải là người vô tình vô nghĩa, những trải nghiệm ngắn ngủi này, ta sẽ nhớ mãi…” Nói đoạn nhịn đau đứng dậy.

Đại Đao Vương múa thanh Liệt Hỏa kiếm trong tay, quay đầu lại, thều thào nói: “Hãy nghe lời ta, ta đếm đến ba, cô hãy ra sức chạy. Tuyệt đối... tuyệt đối không được quay đầu lại, ặc... ặc...” Nói câu nói cuối cùng, Đại Đao Vương phun ra một búng máu tươi.

Thủy Nhi không cầm được nước mắt, lắc đầu phản đối: “Đừng, nếu cứ tiếp tục như vậy, huynh sẽ chết mất, đừng có ra vẻ anh hùng nữa...”

Đại Đao Vương hướng về phía sáu tên sát thủ, vừa đi vừa cười lên đau khổ, lắc đầu nói: “Ta đâu phải là ra vẻ anh hùng, là một nam nhi, ta chỉ muốn bảo vệ, bảo vệ... người mà ta muốn bảo vệ, lẽ nào cũng là sai sao?”

“Một”.

Khoảnh khắc đó như lắng đọng, tại sao lại có nước mắt, tại sao rơi lệ lại cảm thấy hạnh phúc, tại sao hạnh phúc ngắn ngủi vậy, tại sao người muốn bảo vệ nàng phải chết chứ?

“Hai”.

Quên hết mọi thứ xung quanh, thời gian như dừng lại, trong lòng Thủy Nhi chợt trở nên bình tĩnh hơn bao giờ hết, ngay cả bản thân nàng cũng không biết được khoảnh khắc tiếp theo sẽ ra sao nữa! Sai rồi, có lẽ rất nhiều chuyện cũng đều hồ đồ sai lầm cả.

“Ba”.

“Mau chạy đi, nhớ kỹ đừng có quay đầu lại.” Đại Đao Vương đếm đến ba, dũng mãnh vung Liệt Hỏa kiếm thi triển Hỏa Diệm đao pháp lao tới sáu tên sát thủ. Tuy dùng kiếm để thi triển đao thức có vẻ rất kỳ quặc, nhưng bởi sự bá đạo của thanh Liệt Hỏa kiếm, sáu tên sát thủ nhất thời không thể phân thân ra được để đối phó với Thủy Nhi.

Thủy Nhi đứng mạnh dậy, ra sức chạy về phía sau, không cần biết đường hướng là gì, chỉ biết phải cố sức chạy thật xa, vĩnh viễn không được quay đầu lại!

Sáu tên sát thủ thấy một người bỏ chạy, vốn định chia ra đuổi theo, song gã đại hán trước mắt cứ liều mạng cản trở, thà để cho kiếm đâm xuyên thân mình, cũng không để cho ai vượt qua... Sau nhiều lần không thể thoát khỏi vòng chiến, đám sát thủ điên tiết, cũng không đuổi theo cô gái kia mà muốn kết thúc sớm gã trước mặt, vì thế chúng đẩy nhanh tốc độ tấn công...

Ánh trăng dần xạm xuống, dù là có Liệt Hỏa kiếm bảo vệ, song bất cứ tên sát thủ nào cũng đều lợi hại hơn Đại Đao Vương rất nhiều, huống hồ bọn chúng lại cùng phối hợp tấn công...

Một thanh kiếm đã chém trúng vào người Đại Đao Vương, vết thương rất sâu, điều làm sáu tên sát thủ kinh ngạc là dù bị thương nặng như vậy song người đó vẫn đứng vững, hắn sao lại có sức cầm cự được đến như vậy chứ?

Cuối cùng, Đại Đao Vương lùi mạnh về sau hai bước, tay cầm kiếm quỳ gục xuống đất…

- o O o -

Hồi 50: Bất ly bất khí, tình tại tâm thâm xứ

(Không nỡ rời đi, tình ở nơi sâu thẳm trong lòng)

Con người khi ở vào lúc không còn bất cứ thứ gì để dựa giẫm thường trở nên kiên cường hơn.

(Cổ Long - Luận)

Đại Đao Vương nhẩm tính thời gian, hắn đã chống đỡ được chừng hai khắc, Thủy Nhi có lẽ đã chạy thoát khỏi vòng nguy hiểm rồi. Cuối cùng hắn cũng không thể kiên trì được nữa, ngã gục xuống, toàn thân đẫm máu, đầu tóc thì vẫn dựng ngược, trông như một con huyết quỷ vừa thoát khỏi địa ngục vậy. Hình dáng thì đáng sợ vậy chứ Đại Đao Vương đã không còn chút sức lực gì nữa, thậm chí đến nhúc nhích một ngón tay cũng không làm nổi, bởi ý nghĩ cuối cùng giúp hắn có thể chống chịu lại cũng đã tan biến...

Thanh Liệt Hỏa kiếm là điểm tựa duy nhất của hắn lúc này, giúp cho Đại Đao Vương vẫn quỳ thẳng người chứ không chịu ngã gục xuống, một trang nam nhi cứng rắn như thép vậy mà giờ đây chẳng còn gì để chống chọi nữa, chỉ biết quỳ ở đó chờ thần chết đến...

Sáu tên sát thủ từ đầu đã biết nếu cứ tiếp tục như vậy, sớm muộn gì Đại Đao Vương cũng mất sức mà chết... thế nhưng chúng không hiểu được là tại sao người này phải làm như vậy, tại sao thà chết chứ không chịu để bọn chúng tiến lên trước nửa bước.

Có lẽ bọn chúng mãi mãi cũng không thể hiểu được, không thể giải thích được, nhưng bây giờ những điều đó không còn quan trọng nữa rồi, bởi... thanh kiếm vốn lạnh lùng, sát thủ vốn vô tình, chúng đang lấy danh nghĩa của thần chết để đe dọa một Đại Đao Vương đã không còn ra hình người nữa.

Sáu thanh kiếm đồng thời đâm tới, nếu đâm vào như thế, trên người Đại Đao Vương hẳn là sẽ bị thủng lỗ chỗ như tổ ong, khi ấy thì dù có là thần tiên cũng không cứu được.

“Keng......! “ binh khí chạm vào nhau rổn rảng, Đại Đao Vương mắt đã nhắm nghiền không dám tin vào tai mình nữa, hẳn mở mạnh mắt ra, thì ra là nàng... Thủy Nhi.

Đại Đao Vương muốn đứng dậy, nhưng toàn thân đau nhức ê ẩm, chẳng còn chút sức lực nào, bây giờ chỉ còn mi mắt có thể cử động được mà thôi.

Phất thiên tiên lăng đang uốn lượn xung quanh Thủy Nhi, thân hình tuyệt trần của nàng nổi bật dưới trăng, nếu không phải vào thời điểm này, tại nơi này thì Đại Đao Vương thực sự nghĩ mình đang nhìn thấy tiên nữ hạ phàm.

Thủy Nhi cảnh giác lùi dần về sau, tiến đến sát cạnh Đại Đao Vương, rồi từ từ ngồi xuống, đỡ lấy hắn, còn Đại Đao Vương thì cũng muốn nói gì đó nhưng không mở miệng nổi nữa, hắn đã không còn chút sức lực nào nữa rồi...

Một giọt nước mắt chát đắng nhỏ xuống, là nước mắt của Thủy Nhi, nàng gắng gượng lắc đầu, đau xót nói: “Ta biết, huynh bảo ta phải chạy một mạch về phía trước, mãi mãi không được quay đầu lại, nhưng... ta đã thử rồi, ta làm không được, thật đấy”.

Đại Đao Vương lấy hết sức mở miệng nói: “Cô... thật ngốc, lẽ ra cô... có thể... chạy thoát được. “.

Sáu tên sát thủ cũng đứng đờ người ra, chúng không hiểu vì sao cô gái kia rời đi rồi lại quay trở lại, lẽ nào nàng ta thực sự không sợ chết hay sao?

Thủy Nhi đã khóc hết nước mắt, thút thít: “Ta sẽ không bỏ cuộc, nếu như đúng là vận mệnh định sẵn, thì chúng ta sẽ chết cùng nhau, tuy là ta đã không nghe theo lời huynh, nhưng ta biết mình đã làm đúng. “.

Cuối cùng thì một tên sát thủ trong bọn lấy trường kiếm chỉ vào hai người, ánh mắt hằn học: “Các ngươi lôi thôi như vậy, muốn trách chỉ có thể trách các ngươi hay quản chuyện thiên hạ thôi. “.

Bỗng không hiểu Đại Đao Vương ấy đâu ra sức lực, lớn tiếng chửi lại: “Thối lắm!” rồi phun một búng máu tươi thẳng vào mặt tên sát thủ đối diện.

Gã sát thủ đang định động thủ thì chợt nghe thấy một giọng nói tựa như sấm rền vang trên không trung: “Thối lắm, hay, hay. Người giang hồ quản chuyện giang hồ, đó mới là nam nhi nhiệt huyết, hảo hán chốn Thần châu, chỉ cần dựa vào hai chữ của ngươi ngày hôm nay thôi, Lang Vương này sẽ không để ngươi chết đâu.”

Vừa dứt lời, một luồng gió xẹt mạnh qua giữa mấy người, khi luồng gió biến mất, một người ăn mặc theo kiểu nho sinh, đầu quấn khăn tiêu dao, tay cầm quạt xuất hiện trước mặt bọn họ.

Đại Đao Vương ngẩng đầu nhìn Lang Vương, cố gắng mở miệng nói: “Có biết... không? Lúc... lúc này nhìn thấy ngươi... là lúc duy nhất... duy nhất ta không ghét ngươi”.

Lang Vương xòe chiếc quạt ra, nhìn Đại Đao Vương, mỉm cười: “Thật đúng là con người không chỗ nào là không thể gặp được nhau, Đại Đao Vương, cậu đã làm ta được mở tầm mắt rồi, chỉ mấy tháng ngắn ngủi mà bên cạnh vừa có mỹ nữ, vừa có danh kiếm, lại còn thêm một kiểu đầu mới nữa chứ, phải rồi, là làm ở đâu thế, nói cho ta biết, ta cũng phải làm một kiểu đầu thời trang như vậy mới được.”

Thủy Nhi đứng bên cạnh tức tối: “Ngươi là người gì vậy? Huynh ấy sắp chết đến nơi rồi mà ngươi còn đứng đó đùa được sao?”

Sáu tên sát thủ đang lúc định ra tay thì gặp một người lạ xuất hiện đột ngột, không khỏi sợ hãi trố mắt ra nhìn.

Lang Vương nhìn Thủy Nhi, nói: “Cô rất quan tâm đến sống chết của anh ta ư? Trông bộ dạng hắn như thế này, lẽ ra đã sớm ngất đi từ lâu rồi... Ô, phải rồi, phải rồi, ta nghĩ ra rồi, Đại Đao Vương, ngươi phải chăng là muốn nhìn thấy ta giết chết mấy tên này?”

Đại Đao Vương không nói gì, chỉ gật gật đầu, không ngờ cái giúp Đại Đao Vương chống đỡ cho đến cùng lại là thù hận...

Khi ấy một tên sát thủ lên tiếng: “Ngươi là ai lại ngang nhiên dám xen vào chuyện của Ám môn chúng ta?”.

Ngay lập tức, mắt phải của Lang Vương chuyển mạnh sang màu xanh, lóe lên rồi vụt tắt, nhanh như chớp Lang Vương giơ tay trái lên, xoẹt một tiếng từ ngón tay giữa phóng ra một thanh đao cong màu trắng dài chừng hơn hai thước, mà trông giống móng vuốt hơn là giống đao.

Hào quang trắng lóa lóe lên trước mắt sáu tên sát thủ, Lang Vương bỏ tay xuống, thư thả phe phẩy chiếc quạt, nói: “Các ngươi không xứng để nói chuyện với ta, bởi lẽ các ngươi chỉ là kẻ thừa hành lệnh mà thôi”.

Sáu tên sát thủ không dám tin vào mắt mình, chúng không còn nói thêm được lời nào nữa, bởi vì luồng sáng trắng ban nãy đã cắt đứt toàn bộ yết hầu của chúng.

Nhìn thấy đám sát thủ đã chết, Đại Đao Vương cuối cùng cũng can tâm nhắm mắt lại, gục xuống...

Thủy Nhi không dám tin, dụi dụi mắt, hoang mang hỏi: “Ngươi là ai? Sáu đại kiếm khách ngày nay không ai có bề ngoài giống ngươi cả”.

Lang Vương nhìn Thủy Nhi: “Ta chỉ là một người nhàn rỗi, giống như Đại Đao Vương vậy, thích quản chuyện của thiên hạ, nếu cô không muốn Đại Đao Vương chết, vậy thì hãy cõng hắn đi theo ta... đừng có hỏi nhiều như thế.” Nói rồi quay người đi về phía trước, nhưng Lang Vương cũng kịp nhìn thấy

Thủy Nhi đang ra sức cõng Đại Đao Vương lên, trong lòng không khỏi lấy làm buồn cười...

Mồ hôi từng giọt từng giọt ròng ròng nhỏ xuống, nhưng Thủy Nhi không nản lòng, nàng tự nhủ nhất định phải cố gắng hết sức. Cuối cùng, Lang Vương dừng lại ở một ngôi miếu đổ nát, nói: “Hãy đặt hắn xuống trước đã, nghỉ một chút để ta chữa cho hắn”.

Thủy Nhi bước vào trong miếu, nhẹ nhàng đặt Đại Đao Vương xuống, nhưng cuối cùng nàng cũng không đứng vững được nữa, ngất đi cùng với Đại Đao Vương... Thủy Nhi vốn cũng bị thương rất nặng, chỉ vì cảm động trước sự hi sinh của Đại Đao Vương nên mới trụ lại được đến giờ, cũng chính niềm tin đó giúp nàng không bỏ cuộc giữa chừng. Bây giờ cuối cùng cũng đến được nơi an toàn, nàng không còn chịu đựng tiếp được nữa...

Lang Vương lắc lắc chiếc quạt: “Nha đầu tội nghiệp...”.

Lang Vương từ từ bước tới, đặt hai người nằm ở hai bên, rồi lấy một túi màu trắng, một túi màu vàng đeo trên người xuống, vừa mở ra, vừa tự nói: “Tên Đại Đao Vương này may mắn lắm mới gặp được kim vàng của ta, bằng không thần tiên cũng không cứu nổi nữa rồi. Còn ả nha đầu ngốc này nữa, ta sẽ dùng kim bạc để cứu chữa”.

Lang Vương lẹ làng châm kim vàng, kim bạc lên hai người, cơ thể của Thủy Nhi không có phản ứng gì, nhưng cứ mỗi một cây kim vàng đâm vào cơ thể Vương Đại Đao, thì ánh sáng vàng trên cơ thể y lại mạnh thêm lên, sau khi châm xong, tòan bộ cơ thể của Đại Đao Vương phát ra thứ ánh sáng vàng óng ánh, làm cho ngôi miếu đổ rạng lên hệt như nơi cửa Phật đất Thánh vậy.

Lang Vương phủi phủi tay, nói: “Bài Phật hải chi quang này đã học ở Thánh Sơn bao nhiêu năm rồi, xem ra lần này đã có dịp dùng đến, chỉ đáng tiếc là kim vàng của ta phải luyện lại từ đầu, lần này lỗ to rồi...”

- o O o -

Hồi 51: Thất Nguyệt lưu hỏa huy kiếm trảm bạc lang

(Thất Nguyệt nộ hỏa, vung kiếm chém bạc tình lang)

Người trên giang hồ, nhiều chuyện không phải do mình quyết định, tình cừu khó ngăn, ân oán vô tận

(Cổ Long - Luận)

Sau nhiều ngày ngơi nghỉ, vết thương của Thủy Nhi đã dần khép miệng. Với tác dụng phụ trợ thêm của ngân châm châm cứu, nội thương của nàng cũng đã phục hồi lại như ngày nào. Chỉ có điều Đại Đao Vương vẫn còn trong trạng thái hôn mê, chưa hề mở mắt lần nào.

Thủy Nhi lo lắng dò hỏi Lang Vương, chỉ biết rằng thương thế của Đại Đao Vương rất nặng. Do mất quá nhiều máu, nên ít nhất nửa tháng nữa hắn mới tỉnh lại. Hiện tại sinh mệnh của hắn ta chính là dựa vào kim châm để duy trì...

Lang Vương phe phẩy quạt, quay đầu hỏi: “Còn hai người kia sao rồi?”.

Thủy Nhi đáp: “Liễu công tử lúc ấy chạy trước, không biết tình trạng hiện tại thế nào?”.

Lang Vương gập mạnh quạt lo lắng thốt lên: “Không ổn rồi, cái tên tiểu tử thúi ngốc nghếch này... “ Trong lòng Lang Vương chợt có cảm giác bất an, có thể tình trạng của Liễu Dật so với Đại Đao Vương còn thê thảm hơn...

o0o

Lại nói chuyện Liễu Dật ngày ấy ngay khi thấy tình hình bất ổn đã quyết định chia nhau bỏ chạy, sau khi thoát khỏi đám sát thủ đó thì hẹn gặp ở tòa miếu đổ nát cách đó ba mươi dặm, vừa dặn dò xong, không nói thêm tiếng nào lập tức dùng yếu quyết chữ “Tật” của Ẩn toàn cửu ảnh bỏ chạy.

Trong lúc hoảng hốt không nhận định rõ phương hướng, sau khi đã chạy được một đoạn, Liễu Dật phát hiện ra mình đã quay trở về Lạc Tuyết trấn, ngoái đầu nhìn lại thì thấy sáu tên sát thủ đang đuổi rát theo sau.

Liễu Dật phất mạnh cái quạt trong tay, thầm kêu: “Hỏng bét rồi! Sao lại đuổi theo xa thế. “ Không dám nghĩ ngợi nhiều, Liễu Dật triển khai tiếp yếu quyết chữ “tật” nhắm chạy thẳng vào bên trong trấn...

Tuy đang là nửa đêm, nhưng trong trấn người đi lại xuôi ngược không ngớt, xem ra sự phồn hoa của Lạc Tuyết trấn không phải tầm thường.

Sáu tên sát thủ cũng gia tăng tốc độ, bám sát theo sau...

Liễu Dật một mặt tháo chạy, một mặt la làng: “Tránh đường, tránh đường! Xin lỗi... tránh đường! “.

Cả con đường gây nên cảnh gà bay chó chạy, người kêu ngựa hí nhốn nháo loạn cào cào cả lên. Liễu Dật không hề do dự, chạy thẳng đến Tân Tích Nguyệt Tửu Lâu, nhủ thầm: “Lạc Tuyết Trấn này lớn như vậy, ta tùy tiện chọn một phòng ẩn nấp xem các ngươi làm sao mà tìm được. “.

Nghĩ là làm, Liễu Dật chân không dừng bước, nhắm ngay một phòng ở dãy nhà ba gian, đẩy thử cửa thấy bị khóa bên trong, bèn theo đường cửa sổ mà vào...

Thơm quá... Căn phòng này không ngờ tràn ngập hương hoa như vậy. Lúc bấy giờ, dưới lầu đã truyền đến thanh âm: “Lục xét hết một lượt cho ta, tiểu tử đó vừa chạy vào đây. “.

Liễu Dật trong lúc gấp rút, nhìn quanh quất, giường, bàn, tủ, màn, bình phong, bên phải, phía sau bình phong,... Chàng nhanh chóng nhắm phía sau bình phong chạy vào, liền thấy trước mặt có một thùng gỗ thật to, chính là dùng để tắm.

Liễu Dật chạy tới gần rồi co giò nhảy vào trong thùng

Sau tiếng nước động, Liễu Dật ngay lập tức cảm giác phía sau lưng đụng trúng một vật gì đó ở trong nước, chính lúc đó một giọng nữ tử lạnh lùng cất lên: “Ngươi là ai?”.

Số là, trong thùng tắm vốn có người, nhưng người này trầm mình trong nước, nhưng Liễu Dật ngốc nghếch cứ tưởng không có ai nên nhảy đại vào.

Liễu Dật vội quay đầu nhìn, khẩn cấp giải thích: “Ta.... “ Vừa nói được một chữ, y há hốc miệng không còn nói tiếp được lời nào nữa. Không phải là không nói được, mà là y căn bản đã quên mất mình phải nói gì với người ở dưới đó, thậm chí, y đến thở còn không thở nổi nữa.

Nữ tử đối diện hiện ra trước mắt Liễu Dật không một mảnh vải che thân. Nàng mày liễu, mắt hạnh, mũi cao, má tròn, hai gò má đỏ hây hây, làn da rám nắng. Thân thể đầy đặn quyến rũ, vẻ đẹp ma mị không gì sánh được. Toàn thân nàng toát ra khí tức thanh xuân hoạt bát, nhưng đôi mắt thì ẩn tàng cái nhìn băng lạnh ghê người.

Hắc cô nương quét mắt nhìn từ đầu tới chân Liễu Dật, rồi từ chân lại nhìn lên đầu, mắt hạnh giận dữ hỏi: “Nhìn đủ chưa?”

Liễu Dật không suy nghĩ gì, lắc đầu trả lời ngay: “Chưa!”.

Hốt nhiên, ngoài phòng có tiếng người nói lớn: “Còn phòng này là chưa xét, vào trong tìm xem”.

Lúc này, cạnh hắc cô nương xuất hiện một thiếu nữ vận áo xanh mang trường kiếm, tóc dài chấm vai, dung diện dễ nhìn. Thiếu nữ thấy Liễu Dật ở trong bồn tắm thì vô cùng kinh ngạc, nhưng vẫn hỏi sang vấn đề khác: “Tôn chủ, ở ngoài chính là sát thủ của Ám môn, xem ra là đang tìm giết... hắn! “

Hắc cô nương nhìn từ đầu đến chân đánh giá Liễu Dật rồi nói: “Một thư sinh tự nhiên bị Am môn truy sát, xem ra hắn không phải là thư sinh bình thường. Sương Nhu, ra ngoài ngăn sáu tên sát thủ đó lại”.

Thiếu nữ được gọi là Sương Nhu đó gật đầu tuân lệnh: “Vâng, tôn chủ”. Nói xong quay lưng đi ra ngoài...

Liễu Dật vội vàng định thần lại, lắp bắp: “Đa... đa... đa tạ cô... cô nương!”.

Hắc cô nương nhìn Liễu Dật một hồi, giọng nói đã ôn tồn hơn một chút, dù vẫn còn lạnh lùng: “Nhìn đã chưa? Tính sao đây?”

Liễu Dật lắc đầu, rồi gật đầu nói: “Nhìn đã rồi, nhìn đã rồi... đang quay người lại đây”.

Tiếng nước rổn rảng khuấy động, sau đó trở lại yên tĩnh, không còn một tiếng động nào, lúc Liễu Dật không còn để ý lắng nghe nữa thì bỗng nhiên y nghe một tiếng la “A...”. thảm khốc ở bên ngoài. Liễu Dật thầm nghĩ: “Không biết ả Sương Nhu đó có đối phó được sáu người không? Nếu ả lợi hại như vậy, chắc họ phải có xuất thân đáo để lắm”.

Trong lúc Liễu Dật còn nghi hoặc, đã nghe tiếng Hắc cô nương từ phía sau: “Giờ thì ngươi có thể quay đầu, nhân tiện giới thiệu với người, cô nương bị ngươi nhìn hết trơn này tên là Thất Nguyệt.”

Liễu Dật từ từ quay đầu lại... trước mặt sáng bừng. Mắt y tán loạn một hồi, kỹ càng quan sát hình dạng của thiếu nữ đó. Nữ tử trước mắt, mái tóc đen dài chưa chải, còn đọng lại những giọt nước, thân vận kình trang màu đỏ rực, thân thể lung linh hiện ra rõ ràng trước mắt Liễu Dật. Trang phục nàng mặc không có tay dài, thay vào đó trên cánh tay chỉ quấn một cái bao cổ tay màu tím. Mặc dù được xem là y phục, nhưng cái gọi là y phục này chỉ đủ che đậy những chỗ quan trọng mà thôi.

Bờ eo thon của nàng hờ hững đeo một thanh trường kiếm tử sắc, áo choàng cột chéo từ dưới tay trái lên vai phải. Đôi chân đẹp với hai đùi thon không gì che đậy xỏ đôi giày da trâu xinh xắn. Tuy da nàng có đen, nhưng thân thể toát lên mị lực khó tả. Rất may là thân người tuyệt mỹ đó còn có cái áo choàng che đậy bớt...

Nhìn áo quần và trang bị của nàng, rõ ràng không phải là con gái ở Trung nguyên, chỉ là... Liễu Dật nghĩ rằng cách ăn mặc của nàng mười phần bắt mắt, tuy nhiên nữ nhân ăn bận thế này đi ra đường rất dễ bị người ta cho là thương phong bại tục!

Thất Nguyệt nhìn Liễu Dật đứng như trời trồng ở đó, lập tức tay phải xuất động, rút ra trường kiếm, một đạo ánh sáng màu tía chớp ngời, thùng tắm bị trường kiếm chẻ làm đôi... “bụp ủm” một tiếng, dòng nước chảy tràn ra đất, Liễu Dật giật mình tĩnh lại, kêu lên: “Ngươi làm thế này là hại chết người ta đó”.

Thất Nguyệt chậm rãi thu thanh trường kiếm màu tía đeo lại vào eo lưng, thuận miệng nói: “Ta muốn làm cho ngươi tỉnh hồn lại, ai ngờ ngươi lại ngốc vậy chứ”.

Liễu Dật rút ra cái quạt, khom lưng chấp tay nói: “Rất tiếc, rất tiếc, đa tạ Thất Nguyệt cô nương tương cứu, Tại hạ Liễu Dật, vì có việc trọng đại, xin cáo từ”.

Vào lúc Liễu Dật chuyển thân, một đạo hào quang màu tía đã kề ngay yết hầu. Liễu Dật cảm giác lành lạnh, lại có chút đau đớn, bèn lấy tay sờ thử, phát hiện ra trên cổ đã có vết thương nho nhỏ. Rất may vết thương này không sâu, nếu không là đã cắt đứt yết hầu, cái mạng nhỏ của chàng chắc chắn đã ô hô ai tai rồi.

Liễu Dật vội quay đầu nhìn lại, chỉ thấy Thất Nguyệt đang vừa lấy một miếng vải bố màu xám lau vết máu vương trên kiếm, vừa khinh khỉnh nói: “Nói đi là đi, đây là nhà của ngươi chắc? Xem bổn cô nưong ta không ra gì phải không?”.

Liễu Dật lắc đầu nói: “Thất Nguyệt cô nương, ta hiện tại trên người có vài đồng ngân lượng, toàn bộ tiền bạc huynh đệ ta giữ hết rồi”.

Cực nhanh, tử kiếm của Thất Nguyệt đã lần nữa kề sát cổ Liễu Dật, nói: “Ta muốn tính mạng ngươi”.

Dứt lời, trường kiếm vung lên…

- o O o -

Hồi 52: Trữ tử bất thú, tối độc phụ nhân tâm

(Thà bị giết chết còn hơn phải thành hôn, lòng của phụ nữ là độc ác nhất!)

Chỉ cần là người, ai ai cũng có quyền bình đẳng. Không ai có quyền tước đoạt sự tôn nghiêm và sinh mạng của họ.

(Cổ Long - Luận)

"A"

Một tiếng kêu thảm thiết cất lên.

Tiếng kêu này hiển nhiên không phải là của Liễu Dật, bởi vì Liễu Dật vẫn còn đang đứng đối diện với Thất Nguyệt, gườm gườm nhìn thanh kiếm lạnh băng đang kề sát cổ, nàng ta vừa vung kiếm ra đã nhanh chóng thu về giắt ở eo.

Liễu Dật đột nhiên phát hiện ra một chuyện, nữ nhân này còn cao hơn mình nữa, không biết có phải là giống dị chủng không?

Thất Nguyệt mặt lạnh tanh, cất tiếng hỏi: “Có chuyện gì vậy Sương Nhu?”.

Lúc này, từ ngoài cửa truyền vào: “Bẩm tôn chủ, là hai thám tử của Thần môn, Sương Nhu sau khi xử lí xong bọn người của Ám môn thì phát hiện chúng đứng nghe ngóng ngoài cửa”.

Thất Nguyệt đổi hẳn sắc mặt, vội hỏi: “Là người nào của Thần môn? Có tiêu diệt được không?”. Sương Nhu ngập ngừng một chút, rồi hồi đáp: “Giết được một tên, tên khác thọ thương chạy mất rồi”.

Thất Nguyệt giậm mạnh đôi giày da trâu, tức khí gầm lên: “Đáng chết”.

Liễu Dật vội cúi đầu hành lễ cung kính nói: “Cô nương, nếu không giết ta nữa, thì Liễu Dật xin cáo từ vậy, bằng hữu của ta chắc đang mong chờ ta trở về đây”. Sau khi nói xong, dáng vẻ tỏ ra nôn nóng vô cùng.

Thất Nguyệt nhìn vẻ sốt ruột của Liễu Dật, mắt hạnh trợn trừng hung ác, quát: “Đừng nghĩ rằng ta không dám giết ngươi”.

Liễu Dật vội cúi đầu nói: “Dám, dám lắm chứ, là do tiểu sinh thất lễ trước, chứ không phải là vì cô nương không dám giết ta”.

Thất Nguyệt thấy vẻ lo lắng của Liễu Dật, dường như đúng là có việc rất gấp, nhưng không muốn bỏ qua quá dễ dàng, bèn lạnh lùng nói: “Ta cho ngươi hai con đường để chọn, một, là chịu chết, hai, là cùng thành thân với ta”.

Liễu Dật phe phẩy cây quạt, thốt: “Con đường thứ nhất, ta khẳng định không thể đáp ứng được. Tại hạ chính là kẻ phàm phu tục tử, không thoát khỏi hồng trần dục vọng, tự nhiên đối với cuộc sống sung mãn ở hồng trần này vô cùng quyết luyến, không thể dễ dàng tự tận được. “.

Thất Nguyệt nhìn Liễu Dật, nói: “Vậy thì ngươi chọn con đường thứ hai? Cưới ta làm vợ! “.

Liễu Dật lập tức huơ quạt, đáp ngay: “Điều này cũng không được, vạn vạn lần không được, tiểu sinh đã có vợ hứa hôn rồi, sao còn lấy vợ được nữa, xin cô nương nghĩ lại, cho tiểu sinh rút lui, hoặc là cô nương xuống lầu tìm người nào đó mà cưới, chứ người này thì không được rồi! “.

Thất Nguyệt lập tức rút ngay trường kiếm, tức khí nói: “Thư sinh chết bầm kia, ngươi giỡn mặt với ta sao, làm như bổn tôn chủ phải cầu xin ngươi cưới vậy! Hôm nay ta phải lấy đầu ngươi mới được”.

Đột nhiên, cửa bị đẩy mạnh mở ra, Sương Nhu tiến vào nói: “Tôn chủ, không được...”.

Thất Nguyệt tức giận hỏi: “Tại sao không được?”.

Sương Nhu đến cạnh bên Thất Nguyệt, nhỏ giọng đáp: “Tôn chủ, chuyện này bị thám tử của Thần Môn nhìn thấy, nhất định sẽ đồn ra giang hồ, một truyền mười, mười truyền trăm. Chuyện xấu truyền đi nghìn dặm, nếu quả như giết người này...chỉ sợ ảnh hưởng đến danh tiết của tôn chủ.”

Thất Nguyệt hạ kiếm, giậm chân, tức giận nói: “Người của Thần môn nếu như dám nói bậy, Thất Nguyệt nhất định sẽ san bằng Côn Lôn Sơn”.

Sương Nhu nói: “Không phải là nô tỳ nịnh nọt, chủ ý của tôn chủ lúc nãy đúng là diệu kế. Nếu Tôn chủ cùng hắn thành thân, người của Thần môn dù có trăm ngàn cái miệng cũng không thể vũ nhục được danh tiết của Tôn chủ một chút xíu nào”.

Thất Nguyệt nhìn Sương Nhu, rồi quay sang nhìn Liễu Dật, tức mình nói: “Ngươi chắc cũng đã nghe hắn nói rồi, tên thư sinh ngốc này thà chết chứ không lấy ta, lại có vợ rồi nữa, đường đường Ma môn tôn chủ như ta sao lại không cưới được chồng chứ? Chuyện này nói ra không phải làm người ta cười chết hay sao?”

Liễu Dật nghe thế, liền nghĩ thầm: “Ma môn tôn chủ? Ma chủ là Ngạo Thiên, nàng này nhất định là con gái của Ngạo Thiên, Ngạo Thất Nguyệt? Chết rồi, sao tự nhiên đụng phải người của Ma môn vậy trời. Ám môn đã không nên chọc vào rồi, người của Ma môn lại càng không nên rớ tới! Không biết sao tự nhiên lại đụng phải người của Ma môn thế này? Hôm nay mạng của Liễu Dật coi như xong rồi!”

Lúc này, Sương Nhu đã nhanh chóng lạng người đến trước mặt Liễu Dật, rồi lại quay về cạnh Thất Nguyệt, nói: “Tôn chủ, Sương Nhu thấy có cách tốt hơn có thể làm cho không ai trên giang hồ lời ra tiếng vào cả, mà còn làm cho tên thư sinh này từ đây biến mất luôn”. Hiển nhiên, Sương Nhu sợ Liễu Dật chạy mất, nên đã chế trụ huyệt đạo của y trước.

Thất Nguyệt thu lại trường kiếm, ngạc nhiên nhìn Sương Nhu hỏi: “Là cách tốt nào, mau nói nghe thử”.

Sương Nhu lấy ra một bình tròn tròn bằng bạc, nói: “Loại thuốc này được gọi là “Xuyên tràng”, khi uống vào sẽ bị thủng ruột mà chết. Đối với vết thương ngoài da, có thể làm cho nó vĩnh viễn không thể lành miệng, cho đến khi nào máu chảy hết thì thôi”.

Ngừng một chút, Sương Nhu từ nơi eo thon lấy ra một thanh trủy thủ dài khoảng gang tay, từ từ tiến đến cạnh Liễu Dật, nắm lấy ngón tay giữa của chàng, khứa nhẹ một cái, một chút máu tươi ứa ra.

Sương Nhu thấy ánh mắt Liễu Dật lộ vẻ sợ hãi, bèn lấy ra cái bình bằng bạc, nhỏ ra một giọt dịch thể trong suốt, rưới lên miệng vết thương ở ngón tay y...

Sương Nhu quay lại bên cạnh Thất Nguyệt, cười nói: “Trước đây ta đã làm điều này, người đó chết như vậy sau không quá hai canh giờ, không có gì thống khổ, chỉ là vì mất quá nhiều máu mà chết chứ không có vết thương nào. Thế rất hợp với câu: “Không chết vì thiên tai, cũng là do bệnh lạ”.

Thất Nguyệt đột nhiên mỉm cười, gật đầu nói: “Ta minh bạch rồi, sau khi hắn và ta bái đường, thì hắn chết được rồi. Ta có thể nói phu quân bệnh mà chết, kế lưỡng toàn kỳ mỹ này, ai dám nói gì chứ”.

Sương Nhu khom lưng hô: “Tôn chủ thánh minh!”.

Thất Nguyệt nhìn Liễu Dật, dùng thân kiếm nâng mặt chàng lên, cất tiếng cười yêu mị nói: “Nhìn xem phu quân tội nghiệp của ta kìa, hai khắc nữa thôi là chàng đã rời khỏi thế giới này, hà hà, quả là tội nghiệp”.

Liễu Dật phẫn nộ nhìn Thất Nguyệt, nếu bằng ánh mắt mà có thể giết người được, nhất định Thất Nguyệt sẽ chết dưới cái nhìn của chàng! Thất Nguyệt nghẹo đầu nhìn lại Liễu Dật, nói: “Muốn nói lắm phải không?” Dứt lời, trường kiếm liền điểm liên tiếp vào hai bên dưới yết hầu của chàng.

Liễu Dật ho lên vài tiếng, rồi nói: “Ta không tội nghiệp, người đáng tội nghiệp chính là ngươi. Ngươi tự xưng là thuộc dòng chính thống Ma tộc, thủ tọa Ma môn, nhưng từ nhỏ chỉ biết giết người, gạt người. Ngươi tính xem, bao nhiêu năm đó ngươi thu hoạch được gì, ngươi có bao giờ được vui vẻ thoải mái không? Ngươi chẳng phải là đáng thương lắm sao? Ha ha...!”

“Liễu Dật ta tuy chỉ là một con người bình thường, nhưng đã sống qua hai mươi năm thung dung tự tại, ngắm hoa thưởng mưa, rượu ngon uống đến say mềm. Cạnh ta có bằng hữu, có huynh đệ, chúng ta cùng nhau vượt qua mưa gió, ngắm ráng hồng, cuộc đời này chuyện gì đều cũng trải qua rồi, đã biết hết rồi. Liễu Dật không cô độc, Liễu Dật có Cát Lợi Nhi, các ngươi có biết cái gì là ái tình không? Có lẽ hàng chục năm sau, các ngươi cái gì cũng không hiều, cá ngươi chỉ là những công cụ, công cụ sát nhân, các ngươi mới là kẻ đáng thương nhất trên đời, đáng cười nhất, đáng khóc hận nhất...”.

“Câm miệng!” Thất Nguyệt không chịu được nữa, vung kiếm phong bế huyệt đạo của Liễu Dật, rồi thuận miệng ra lệnh: “Sương Nhu, chuẩn bị y phục tân nương cho ta, trước khi hắn chết, ta phải bái đường với hắn”. Dứt lời, quay người đi ra...

Sương Nhu nhìn theo bóng của Thất Nguyệt ra khỏi phòng, đến bên cạnh Liễu Dật, nhìn y lạnh lùng nói: “Ta cũng muốn sống như ngươi, nhưng mà, vận mệnh đã sắp bày sẵn con đường mà ta phải đi, ta không có quyền chọn lựa”. Dứt lời, chuyển thân đi ra ngoài.

Liễu Dật nhìn hai người, trong lòng cảm thấy đau đớn, nghĩ thầm: “Vận mệnh nằm trong bàn tay của ngươi. Ai cũng có quyền chọn con đường đi riêng cho mình. Nếu ngươi có dũng khí rời bỏ Ma môn, tự nhiên sẽ thoát khỏi vận mệnh...”.

Trong khoảnh khắc hai nàng đi ra ngoài, Liễu Dật chợt nhớ đến Cát Lợi Nhi, hiện giờ nàng ra sao? Có khỏe không? Liễu Dật đột nhiên nghĩ ra điều gì đó khiến chàng ngơ ngẩn. Biết đến chừng nào chàng mới đưa được Cát Lợi Nhí đến cùng trời cuối đất, hàng ngày ngắm mặt trời lặn mọc cùng nhau, rồi cùng ngắm trăng sao, cùng đón gió biển... Đó có lẽ chỉ là giấc mơ hão huyền mà thôi? Thần trí Liễu Dật bắt đầu trở nên mơ hồ…

- o O o -

Hồi 53: Thiên nhai hải giác, vô lực nặc ngôn

(Chân trời góc bể, có hứa cũng bằng không)

May mắn không phải từ trên trời rơi xuống. Nếu mỗi cá nhân đều biết nắm lấy cơ hội của mình thì may mắn của kẻ đó sẽ vĩnh viễn bất tận.

(Cổ Long - Luận)

“Bẩm tôn chủ, mọi chuyện đã chuẩn bị xong, chỉ chờ người thay y phục tân nương nữa thôi.”

Dưới ánh trăng, Sương Nhu vòng tay bẩm báo.

Thất Nguyệt đứng trên mái nhà của “Tân Tích Nguyệt tửu lâu”, trường kiếm đeo sau lưng, để ánh trăng bao phủ lấy toàn thân của nàng. Thất Nguyệt hỏi lại: “Đã bao lâu rồi?”

Sương Nhu thầm tính toán một chút, đáp: “Còn khoảng nửa khắc nữa, hiện tại phải tranh thủ bái đường thôi, chẳng bao lâu là hắn sẽ mất mạng rồi.”

Thất Nguyệt ngẩng đầu hỏi: “Nhu nhi, ngươi nói xem chúng ta có thật là đáng thương hay không?”

Sương Nhu sờ đốc kiếm, trả lời: “Tôn chủ, đừng nghe thư sinh ngu ngốc đó nói bậy, hắn chỉ muốn chọc tức tôn chủ mà thôi.”

Thất Nguyệt lắc đầu nói: “Có lẽ lời thư sinh đó là hoàn toàn đúng!”

Sương Nhu an ủi: “Tôn chủ, bất tất thương tâm. Không phải Ma chủ đã đáp ứng cho tôn chủ rồi sao? Bất đầu từ giờ, tôn chủ muốn gì là có đó, cứ yên tâm vui vẻ, những chuyện buồn trước kia hãy quên sạch, làm lại từ đầu.”

Thất Nguyệt gật gật đầu nói: “Ừ... cũng tốt, chúng ta trước hết hãy làm xong việc này đã.” Dứt lời liền chuyển thân, nhẹ nhàng hạ mình xuống đất.

Sương Nhu vừa mở cửa phòng bước vào, chợt phát hiện ra căn phòng trống không, thư sinh ngốc không còn ở đó nữa.

Thất Nguyệt nhìn vết máu dưới đất, nói: “Căn cứ vào vết máu để lại, nhất định chưa thể chạy xa được.”

Sương Nhu gật đầu, cùng Thất Nguyệt chạy ra ngoài đuổi theo....

o0o

Thực sự mà nói, kế cạnh căn phòng này, sát ngay bên, còn có một căn phòng nữa. Trong phòng đó, hiện có một người nam và một người nữ....

Nam mặc áo quần thư sinh, đầu quấn khăn tiêu dao, nếu không là Liễu Dật thì còn là ai nữa! Chàng đang nằm bất động trên giường, sắc mặt càng lúc càng trắng nhợt, hiển nhiên đã mất quá nhiều máu!

Nữ nhân áo quần toàn một màu lam nhạt, lưng thắt một dải lụa trắng, giắt theo một loan đao hình bán nguyệt. Trên đầu nàng có vài món trang sức màu trắng và lam, tai đeo dây bạc rất tinh xảo, đó chính là Cát Lợi Nhi trong trang phục Miêu cương.

Cát Lợi Nhi ngồi đợi ở nhà, nhưng không nhận được tin tức gì của Liễu Dật, trong lòng lo lắng, liền chiếu theo lộ trình của Liễu Dật mà tìm kiếm, cuối cùng cũng đến được Lạc Tuyến trấn. Nàng vào trấn đã quá nửa đêm, trên đường không có ai, vô tình lại đến “Tân Tích Nguyệt Tửu lâu”, phát hiện Sương Như đang chuẩn bị y phục tân nương, giống như có người chuẩn bị kết hôn, nhất thời hứng thú đã lẻn vào trong phòng xem thử...

Thời gian gần đây Cát Lợi Nhi như đã biến thành người khác hẳn, hàng ngày ngoại trừ việc nấu cơm, hái thuốc, thời gian còn lại đều tập trung luyện đạo thuật mà Tinh linh Na Lan chỉ cho. Na Lan bảo nàng thân thể hư nhược, rất thích hợp cho việc luyện đạo thuật.

Khi nãy Cát Lợi Nhi đã dùng “Ẩn thân phù” để cứu Liễu Dật, nhưng chẳng qua là nàng gặp may mà thôi. Cần biết rằng “Ẩn thân phù” tuy lợi hại, nhưng gặp người có công lực cao cường, nó chẳng có tác dụng gì!

Lúc đầu, Cát Lợi Nhi muốn rời khỏi đó ngay, nhưng nghĩ lại Liễu Dật đã hôn mê, theo tình huống lúc đó mà nói, khi họ phát hiện ra sự tình, khẳng định sẽ đuổi theo kịp ngay. Đột nhiên Cát Lợi Nhi nảy sinh ý lạ, nhủ thầm nơi nguy hiểm nhất cũng chính là nơi an toàn nhất, bèn đem Liễu Dật sang phòng bên cạnh, rồi dùng “Ẩn thân phù” ngụy tạo ra vết máu làm ra vẻ là bọn họ đã chạy ra bên ngoài....

Cát Lợi Nhi nhìn Liễu Dật đang nằm mê man trên giường, nàng đã cố gắng cầm máu cho chàng, nhưng mọi chuyện xem ra quá trễ. Liễu Dật đã mất quá nhiều máu, hiện tại đang trong giai đoạn cực kỳ nguy hiểm, có thể chết bất cứ lúc nào. Ngay cả Cát Lợi Nhi thân là danh y cũng không cách nào bắt lượng máu trong người tăng lên được. Xem ra chiêu này của Ma môn đúng là vô cùng độc ác.

Cát Lợi Nhi ngồi cạnh giường, nhìn đăm đăm Liễu Dật trong cơn hôn mê, lòng tràn ngập nỗi đau đớn không sao tả xiết. Nàng nhìn Liễu Dật bảo: “Thư sinh, sao chàng ngốc thế, chàng chỉ cần đáp ứng ả thì cũng không sao mà? Sao lại ngốc thế này.”

Liễu Dật từ từ hé mắt, nhìn Cát Lợi Nhi, nói: “Là nàng sao? Cát Lợi Nhi.”

Cát Lợi Nhi vội gật đầu, cúi xuống gần chàng, nói: “Là muội, Cát Lợi Nhi đây.”

Liễu Dật giơ cánh tay vô lực, âu yếm vuốt ve gương mặt nhỏ nhắn của nàng, cười nói: “Hạc đỉnh hồng màu sắc tuy đẹp.... nhưng là vật tuyệt độc.... Ma nữ tuy mỹ lệ... nhưng lại mang lòng rắn rết... Huống chi trong tim Liễu Dật khắc ghi hình bóng một người... sao còn tưởng nghĩ đến kẻ khác được chứ?” Mặc dù thanh âm yếu ớt, nhưng lời nói mười phần kiên định.

Cát Lợi Nhi vội nắm chặt tay chàng, bi thương nói: “Thư sinh, chàng ngốc lắm.”

Liễu Dật dùng hết khí lực bản thân mở to mắt, nhẹ thốt: “Đời này... điều ta hối tiếc nhất... là không thể cùng .... Cát Lợi Nhi... đi... đi đến cùng trời cuối đất.... cùng ngắm trăng sao.... cùng thưởng gió biển ở Hoa Hải.....”

Nói một chữ lại phải nghỉ một lúc, nghe lời hứa yếu ớt của Liễu Dật, trong tim Cát Lợi Nhi nhỏ từng giọt máu, nàng không thể chịu nổi nữa, thốt: “Đừng nói, đừng nói nữa, như thế này là Cát Lợi Nhi hạnh phúc lắm rồi. Chàng đừng nói nữa.”

Liễu Dật nhìn Cát Lợi Nhi, nỗ lực nhìn cho rõ nàng, tựa hồ như... chỉ chốt lát nữa thôi là ly biệt... Tựa hồ như... chỉ chốt lát nữa thôi là vĩnh viễn rời xa...

Cát Lợi Nhi nhìn gương mặt trắng xanh của chàng, miễn cưỡng cười bảo: “Thư sinh trong tim đã có “Tình cổ” của Cát Lợi Nhi rồi, thư sinh lỡ có chết đi, Cát Lợi Nhi cũng sẽ theo cùng, vĩnh viễn, vĩnh viễn không bao giờ ly biệt, cùng nhau đến nơi tận cùng của thế giới, vậy có được không?”

Liễu Dật tuy không thể nói nên lời, chỉ có thể biểu đạt bằng dòng lệ ứa ra nơi khóe mắt. Hạnh phúc tuy ngắn ngủi, nhưng chỉ cần thế thôi là đã là quá đủ. Liễu Dật vốn thỏa mãn lắm rồi, bởi vì chàng có hạnh phúc, chàng có tình yêu của Cát Lợi Nhi, chàng sẽ không buông tay, chàng phải nhanh chóng nắm chặt lấy. Liễu Dật tự dưng cảm thấy mình có tất cả, nhẹ nhõm... nhẹ nhõm chìm vào cơn mê...

Cát Lợi Nhi cảm thấy trong lòng đau xót cùng cực, chẳng khác gì như mất tất cả mọi thứ. Thế giới đột nhiên biến đổi qua mãnh liệt, không cho con người ta đủ thời gian để kịp thích ứng. Cát Lợi Nhi ôm chặt lấy Liễu Dật, nói: “Thư sinh, đừng có ngủ... cầu xin chàng... đừng ngủ.... xin đừng ngủ....”

“Thật là cảm động đến phát khóc lên được... Trời mà có tình, trời hẳn cũng già thôi, người mà vô tình thì có thể sống ngang trời đất! Muốn cứu hắn ta, ta chỉ cho ngươi một cách, không biết ngươi có dám thử không.” Na Lan bên trong não của Cát Lợi Nhi cất tiếng.

Cát Lợi Nhi ngồi bật dậy, hỏi: “Cách nào?”

Na Lan nói: “Ngươi có nghe về “độ huyết” bao giờ chưa?

Cát Lợi Nhi lắc đầu đáp: “Chưa nghe.”

Na Lan liền giải thích: “Chỉ cần cắt cổ tay của hai người, sau đó ngươi truyền cho hắn phân nửa máu của ngươi. Tuy nhiên, khả năng thành công không lớn, vì huyết dịch của hai người có thể không tương hợp với nhau.”

Cát Lợi Nhi nhìn gương mặt trắng bệch của Liểu Dật, khẽ nói: “Bất chấp cơ hội thành công nhiều hay ít, hễ có một tia hy vọng, là ta nhất định phải thử. Dù cho Thiên thần bảo Cát Lợi Nhi có chết mà có thể vãn hồi tính mệnh của thu sinh, Cát Lợi Nhi cũng không hối hận!”

Na Lan thở dài nói: “Hừ, si tình như vậy, chẳng trách lại gặp tam thế tình duyên....” Thanh âm càng lúc càng nhỏ, sau đó thì im bặt không hó hé gì nữa.

Cát Lợi Nhi cũng chẳng thèm để ý, tâm thần của nàng hoàn toàn tập trung vào trên người của Liễu Dật. Nàng đỡ người Liễu Dật xích vào trong, rồi từ từ nằm xuống, cánh tay trái áp chặt lên tay phải của Liễu Dật.... sau đó, rút thanh loan đao....

Mọi vật chung quanh đều êm ắng. Bên ngoài, ánh trăng vẫn yên lặng soi sáng Lạc Tuyết Trấn, gió mây phiêu động. Bên trong, là cuộc tìm kiếm kỳ tích một cách tuyệt vọng của trái tim đôi nam nữ...

- o O o -

Hồi 54: Duyên diệt duyên khởi, toái tâm tình vô ngôn

(Duyên đến duyên đi, lòng đau như cắt nói không nên lời)

Nước biển tuy xanh, tuy đẹp nhưng người chết khát trên biển nhiều chẳng kém gì người chết khát trên sa mạc.

(Cổ Long - Luận)

Không biết trải qua bao lâu, Liễu Dật chợt mở mắt, không biết mình đang ở chốn nào, chỉ cảm thấy hơi ấm của ánh dương quang chiếu lên thân người. Ấm lắm, rất ấm! Trong thời khắc ấm áp đó, Liễu Dật biết mình vẫn chưa chết, bởi vì còn có ánh mặt trời!

Liễu Dật ra sức ngồi dậy, nhưng, thân thể y quá yếu nhược, y đã mất quá nhiều máu, sau một hồi chật vật, không làm được gì đành nằm im. Nhẹ cử động tay phải, Liễu Dật cảm thấy hơi đau. Cúi đầu nhìn, y phát hiện ở cổ tay tự nhiên có một vết thương khá sâu. Liễu Dật không biết mình bị thương tự lúc nào, nhưng hiện giờ thì không còn chảy máu nữa.

Vào lúc đó, Cát Lợi Nhi đẩy cửa bước vào...

Cát Lợi Nhi đang mặc một bộ miêu trang toàn thân màu lam sắc, trên đầu đính đầy trang sức rất khả ái, eo lưng không còn mang thanh bán nguyệt đao nữa, chỉ là.... sắc diện của nàng trắng bạch, bợt bạt không có huyết sắc, nhưng ánh mắt thì vẫn rất kiên định.

Cát Lợi Nhi nhìn Liễu Dật cao hứng nói: “Thư sinh, huynh đã tỉnh rồi, muội biết rằng huynh sẽ không sao mà. Nào, nếm thử món cháo hạt sen này đi, ngọt, ngon lắm đấy! ” Cát Lợi Nhi hiển nhiên vì vui sướng nên cứ huyên thuyên không ngừng.

Cát Lợi Nhi đặt bát cháo lên bàn, ngồi xuống cạnh giường, ra sức nâng Liễu Dật dậy, bảo: “Thư sinh, đây là món cháo muội nấu từ sớm, huynh phải ăn....” Lời chưa nói hết thì Cát Lợi Nhi bỗng ngã chúi về phía trước, không nói thêm gì nữa.

Liễu Dật nhìn Cát Lợi Nhi bất tỉnh gục đầu vào vai mình, thấy trên tay trái của nàng có một vết thương thật sâu, rất giống với vết thương trên cổ tay mình, trong đầu Liễu Dật chợt lóe sáng. Thì ra là thế!

Liễu Dật cuối cùng cũng minh bạch tại vì sao mà Cát Lợi Nhi lại yếu nhược gần như vô lực đến mức bất tỉnh. Đồng thời, Liễu Dật cũng hiểu rõ tại làm sao y có thể sống được đến bây giờ...

Liễu Giật nhẹ nâng cánh tay trái lên, ôm chặt lấy Cát Lợi Nhi đang hôn mê, trong tim nhói lên nỗi đau không thể gọi tên. Không phải là “tình cổ”, so với “tình cổ” còn đau đớn gấp trăm nghìn lần, đau đến mức tê dại! Liễu Dật biết rằng, hiện tại trên người y đang tuôn chảy dòng máu của Cát Lợi Nhi, y biết rằng Cát Lợi Nhi vì cứu y mà sẵn sàng hy sinh cả sinh mệnh!

Trong lòng y cảm thấy rất ấm cúng, rất cảm động! Nhìn gương mặt nhỏ nhắn xanh lét của Cát Lợi Nhi, Liễu Dật chỉ biết ôm chặt nàng vào lòng, mắt ứa lệ, giọt lệ vừa nhỏ xuống thì từ trên trời cao cũng đột ngột vang động tiếng sấm. Trời đang trong xanh không gợn chút mây, đột nhiên tối sầm lại mây đen dày đặc, mưa ào ạt đổ xuống! Có lẽ, trời cao cũng phải nhỏ lệ trước nỗi đau của đôi tình nhân này!

Liễu Dật nhìn bát cháo ở trên bàn, lắc đầu nói: “Cát Lợi Nhi, muội sao mà khờ thế, sao không nghỉ cho khỏe, lại còn mất công nấu cháo làm gì. Muội phải biết rằng muội vốn đã rất yếu ớt rồi, muội cứ thế này thì Liễu Dật ta đau lòng đến phát điên mất!”

Bên ngoài mưa rơi rào rào, gió rét căm căm, sấm vang chớp giật chấn động cả đất trời. Nhưng, trong lòng Liễu Dật vẫn rất ấm áp. Y cảm thấy rất hạnh phúc, trong hạnh phúc có thêm mấy phần cảm động, quên rằng Cát Lợi Nhi đang thiếp đi trong lòng mình, nhẹ giọng nói: “Liễu Dật không thể cho Cát Lợi Nhi lời hứa, lời hứa chân chính đều là những lời vu vơ khó mà giữ được. Liễu Dật cũng không thể mang lại cho Cát Lợi Nhi sự lãng mạn. Trong thể giới hỗn loạn này, lãng mạn chỉ tồn tại được trong một giây phút ngắn ngủi rồi mau chóng tiêu biến mất! Liễu Dật chỉ có thể ôm Cát Lợi Nhi vào lòng, như thế này, mãi ôm Cát Lợi Nhi, không cần biết sắp tới sẽ xảy ra chuyện gì, chỉ biết điều này thôi, vĩnh viễn... vĩnh viễn...”

Một giọt lệ từ từ rơi xuống, rớt trên gương mặt của Cát Lợi Nhi, khóe miệng nàng nhẹ cử động, đó là một nụ cười, một nụ cười hạnh phúc....

Tại thời khắc đó, đột nhiên rầm mọt tiếng, cánh cửa bật mở, sáu nữ nhân thân vận hồng y xăm xăm bước vào, tay lăm lăm trường kiếm, tóc dài chấm vai, xinh đẹp dị thường. Có điều bọn chúng mắt lạnh lùng không lộ chút biểu tình nào, phảng phất như là một người gỗ vậy.

Tiếp đó, lại có hai nữ tử tiến vào...

Một nàng toàn thân vận kình trang tử sắc, màu tím của y phục làm lộ rõ thân hình tuyệt mỹ, vòng eo thon mịn màng không gì che đậy lộ ra làn da ngăm đen khỏe mạnh và rắn chắc. Phía dưới nàng vận một váy dài chật bó, bên trái được xẻ cao tới eo, mỗi bước đi lộ ra cặp chân dài tuyệt mỹ. Dưới chân mang đôi giày da trâu màu tím, nhìn rất hoang dã. Thân người nàng được che hờ hững dưới cái áo choàng màu tím, trường kiếm lấp ló bên hông.

Tiếp theo tử y nữ tử là một thiếu nữ vận thanh y, tay cầm trường kiếm, đi theo sát gót.

Liễu Dật mở choàng mắt còn vươn mấy giọt lệ. Nữ tử trước mặt không phải Thất Nguyệt thì còn là ai khác nữa? Ai dám cả gan có nhưng hành động bạo liệt như thế được?

Thất Nguyệt cười cười thốt: “Ngươi cũng trốn giỏi đấy chứ, mấy ngày nay ta cứ tưởng ngươi chết rồi.” Liễu Dật ơ hờ đáp: “Tháng bảy mọc thấp sao Đại hoả, Tháng chín thì áo đã trao rồi. Ngày xuân ấm áp vui tươi. Thương canh cất tiếng khắp nơi hót chào. Cô gái mang giỏ sâu và đẹp, Lại noi theo lối hẹp tiến chân, Dâu non tìm hái xa gần... Tháng bảy này không như tháng bảy khác, tại sao khoảng cách giữa sinh mệnh và sinh mệnh lại khác biệt lớn như vậy?”

Thất Nguyệt nắm chặt trường kiếm, lom lom nhìn Liễu Dật đang ôm trong lòng một cô nương bận lam y, thấy gương mặt nàng trắng xanh, không chút huyết sắc, nhưng mặt phảng phất nét cười, hạnh phúc vô biên. Lại nhìn xuống cánh tay của nàng đang nằm trong tay Liễu Dật, cổ tay hai người đều có vết thương giống nhau. Gương mặt Thất Nguyệt biến sắc, vừa như bất lực, vừa như điên cuồng, trường kiếm choang một cái, đã chỉ ngay vào yết hầu của Liễu Dật, quát: “Con nhỏ này là hôn thê của ngươi à, mau nói cho ta biết... ả có gì tốt chứ? Luận về thân hình, dung mạo, nó có điểm nào sánh được với ta? Mau nói cho ta biết, cái gì là hứa hẹn, cái gì là lãng mạn, cái gì là hạnh phúc... nói cho ta biết vĩnh viễn... vĩnh viễn cái gì?” Trước hai người chẳng có sức chống cự, Thất Nguyệt không ngờ lại nổi điên lên.

Liễu Dật vội dùng cánh tay vô lực cố ôm chặt Cát Lợi Nhi, cười nhẹ giương mắt nhìn Thất Nguyệt, bảo: “Yêu một người, không phải vì dung mạo, thân hình của người đó, sao ngươi tầm thường quá vậy.”

Dường như Liễu Dật đã quá nặng lời, trường kiếm của Thất Nguyệt rít lên một tiếng nhắm chém vào cánh tay phải của Cát Lợi Nhi. Liễu Dật sử dụng chút sức lực còn lại quay mạnh người qua một bên, trường kiếm trượt qua đâm vào lưng chàng. Tuy vết thương không sâu, nhưng máu ra thấm đẫm cả y phục.

Liễu Dật từ từ quay người lại, tay phải nhẹ nhàng gỡ nhẹ mấy sợi tóc vương trên mặt Cát Lợi Nhi!

Thất Nguyệt thu hồi trường kiếm, có chút áy náy, hỏi: “Có đáng không?”

Liễu Dật đáp: “Có gì là đáng hay không đáng. Yêu nàng, là không muốn nàng chịu bất cứ tổn hại nào. Tuy ta không có khả năng bảo vệ nàng, nhưng ta nhất định không để nàng chết như vậy trước mắt ta. ”

Thất Nguyệt tức giận hỏi: “Đây là lời hứa? Đây là lãng mạn? Đây là cái mà các ngươi gọi là vĩnh viễn đó sao?”

Liễu Dật cố chịu cơn đau sau lưng, ho khan một tiếng, đáp: “Ái tình chân chính không cần lời hứa, cũng không cần cố ý làm trò lãng mạn. Cái gọi là vĩnh viễn, chính là những phút giây hạnh phúc ngắn ngủi mà ái tình mang lại, vĩnh viễn khắc sâu trong tim. Ngươi chưa yêu, ngươi đương nhiên không thể hiểu được nó là gì...” Lời càng lúc càng nhỏ, cuối cùng y không thốt được lời nào nữa, y quá yếu rồi...

Tuy thanh âm rất nhỏ, nhưng Thất Nguyệt nghe không sót lời nào. Nhìn ánh mắt khinh miệt của Liễu Dật, lại nhìn sang nụ cười hạnh phúc của Cát Lợi Nhi, tự nhiên nàng cảm thấy trong thế giới này mình sao quá cô độc, bất định, mất phương hướng.

Thất Nguyệt đột nhiên xốc mạnh trường kiếm, thốt: “Tốt, hôm nay ta thành toàn cho đôi tình nhân bọn ngươi, đưa hai ngươi vào cõi u minh.”

Đột nhiên, một luồng gió mạnh thổi tới, lướt qua người Thất Nguyệt. Trước mặt nàng bỗng xuất hiện hai người... Tốc độ của họ rất nhanh, Sương Nhu đứng bên cạnh không kịp ra tay chặn lại!

- o O o -

Hồi 55: Lạc Tuyết tương tụ, na nhất trích nhãn lệ

(Gặp nhau tại Lạc Tuyết trấn, giọt nước mắt long lanh)

Con người đôi khi rất kỳ quái, cứ nghe theo lời đồn mà không thèm biết sự thật !

(Cổ Long - Luận)

“Con mẹ nó, con nhỏ nào dám tống tiễn lão đại ta đi về cõi u minh chứ? Có tiểu gia Thập Kiệt Nhất ở đây, muốn tống tiễn lão đại ta thì hỏi qua hai nắm đấm của ta trước đã!” Một tia sét nhoáng lên, Thập Kiệt Nhất đã xuất hiện khiến Thất Nguyệt ngẩn cả người.

Bên cạnh Thập Kiệt Nhất còn có một thiếu nữ vận hoàng y, đến ngồi cạnh Liễu Dật, cầm máu và băng lại vết thương cho y, nhoáng một cái đã băng bó xong.

Liễu Dật vội quay sang Thập Kiệt Nhất hỏi: “Thập Nhất đệ, sao đệ lại cùng A... A Cửu đến đây được?”

Không đợi Thập Kiệt Nhất trả lời, A Cửu đã cười hì hì nói trước: “Ta đã quay về hồi báo, lần này không phải trốn đi, mà quang minh chính đại đến đây đấy!”

Liễu Dật nhìn Thập Kiệt Nhất như dò hỏi, thấy hắn gật gật đầu.

A Cửu một mặt chăm sóc vết thương cho Liễu Dật, một mặt cười nói: “Đã lâu không gặp, ngươi tại sao đi tới chỗ nào cũng bị đàn bà con gái bao quanh cả vậy, có ta và Cát Lợi Nhi rồi cũng không đủ sao.”

Dứt lời, A Cửu đứng dậy, nhìn từ đầu đến chân Thất Nguyệt thầm đánh giá, không khỏi à lên thán phục: “Chà chà, quả là hợp chuẩn, quả là hấp dẫn, có điều, nữ nhân càng hấp dẫn thì lại càng thâm độc. Chàng ngốc ạ, thứ nữ nhân này ngươi chớ nên đụng vào!”

Liễu Dật chỉ biết lắc đầu cười đáp: “Ta vốn không có ý này, chẳng qua là tình huống bắt buộc mà thôi.”

Chợt Sương Nhu đứng phía sau Thất Nguyệt giận dữ nói: “Con ả xấc láo kia, dám xúc phạm đến tôn chủ nhà ta, muốn chết sao.” Trường kiếm liền phóng ra, đâm thẳng vào tim A Cửu.

A Cửu không hề hoảng hốt lùi lại một bước, ra lệnh: “Thập Kiệt Nhất, bẻ gãy kiếm của ả cho ta.”

Thập Kiệt Nhất gật đầu nói: “Ta xem con quỷ này chẳng thuận mắt chút nào.” Lời thô tục khó nghe vừa thốt ra, cánh tay cũng không chậm trễ vận khởi Thiên Cương Đấu Quyền không theo chiêu thức nào, biến quyền thành trảo, chộp thẳng vào trường kiếm của Sương Nhu.

Sương Nhu không thể ngờ được lại gặp một gã nam nhân hung hãn như thế, lại dám ngang nhiên sử dụng hai bàn tay bằng xương bằng thịt để đoạt kiếm cầm trong tay. Trong lòng cảm thấy kỳ quái vô cùng, cũng có ý muốn thử xem song trảo của đại hán này thế nào, liền lẳng lặng xoay kiếm đâm thẳng vào gan bàn tay của Thập Kiệt Nhất.

Thập Kiệt Nhất cũng không thua kém, hai tay gia tăng tốc độ, nhanh nhẹn chộp trúng trường kiếm...

Bấy giờ thì Sương Nhu mới nếm mùi lợi hại của Thập Kiệt Nhất. Hai bàn tay của hắn vô cùng cứng rắn, giống như kềm sắt giữ chặt trường kiếm của ả. Lúc bấy giờ Sương Nhu muốn thu hồi trường kiếm cũng không thể được. Hiện tại ả mới biết mình đã sơ sót, chỉ qua lại một chiêu thôi, không ngờ tên thư sinh vô dụng này lại có bằng hữu giỏi võ đến vậy.

Thập Kiệt Nhất quát to một tiếng: “Gãy!”, “rắc” một tiếng, thanh kiếm gãy vụn rớt xuống đất.

Nhưng Thập Kiệt Nhất vẫn chưa chịu ngừng tay, hữu thủ chộp vào cổ Sương Nhu, hắn nhất định phải bắt cho được ả ta....

Sương Nhu đột nhiên cảm thấy không ổn, nhưng muốn tránh thì đã quá trễ rồi. Trảo của Thập Kiệt Nhất quá nhanh, đã đến tận sát cổ cô nàng....

Ngay lúc này, chợt nghe ở ngoài cửa có người lớn tiếng thét: “Tránh ra, tránh, tránh, tránh...” Thanh âm càng lúc càng lớn, càng lúc càng gần... Đột nhiên có một người bay vèo qua đầu họ...”xoạt”... một cái, xảo diệu đụng trúng vào người của Sương Nhu. Nguyên Sương Nhu vốn đang lùi lại nhưng lực đẩy phía sau quá mạnh, khiến ả bật tới ngả ngay vào lòng Thập Kiệt Nhất. Tuy Thập Kiệt Nhất đã nắm được ả, nhưng không ngờ lực đẩy quá lớn, không phản ứng kịp, hai người ôm chầm lấy nhau, ngã lăn quay ra đất...

Người bay vụt vào chính là tên thư sinh giả hiệu Lang Vương.

Lang Vương khi đáp xuống xoay ba vòng, rồi nhìn xung quanh, hồ nghi hỏi: “Ta nhớ lúc nãy khi rơi xuống có đụng phải vật gì đó, sao giờ không thấy nữa?”

Lúc này, A Cửu bước ra nói: “Ở dưới chân ngươi đấy.”

Lang Vương nhảy lùi lại nhìn, khéo làm sao lại đứng cạnh Thất Nguyệt, cả kinh bảo: “Mẹ ơi, Thập Nhất, giữa ban ngày ban mặt mà ngươi làm gì thế? Không thấy trong phòng này còn có bao nhiêu là người sao?”

Quả thật, nãy giờ gian phòng này đúng là rất náo nhiệt...

Thập Kiệt Nhất không màng đến Sương Nhu nằm đè lên người, nhanh chóng xoay người bò dậy, chỉ Lang Vương chửi bới: “Mẹ nó, ngươi suốt ngày không nghĩ được một điểm nào tốt, miệng lại nói toàn lời dơ bẩn, xem quyền đầu của lão tử này.” Dứt lời, liền vận khởi “Thiên cương đấu quyền” đánh thẳng tới Lang Vương.

Nói về Thất Nguyệt, khi nhìn thấy Lang vương, ấn tượng đầu tiên của nàng là địch chứ không phải là bạn. Tuy không biết chắc chắn, nhưng đến chín phần mười Lang Vương đến đây là để giúp tên thư sinh này. Thấy Lang Vương vô tình không đề phòng chút nào ở bên cạnh mình, không thèm nói tiếng nào, rút trường kiếm tử sắc ra khỏi vỏ, nhắm thẳng vào Lang vương.

Lang Vương lúc này đang mở tung quạt giấy, rầm một tiếng, đã ngăn được quyền đầu cương liệt của Thập Kiệt Nhất. Đúng là kỳ lạ, chỉ với một cây quạt mỏng manh, Lang Vương đã đẩy lùi được quyền đầu của Thập Kiệt Nhất. Lang Vương vừa khẽ hất một cái, Thập Kiệt Nhất đã văng mạnh về phía sau ba bốn bước.

Lang Vương tỏ vẻ tán thưởng: “Thập Kiệt Nhất à, khá lắm, tiến bộ nhanh đấy, mấy tháng không gặp mà gần như đã làm rách quạt ta rồi.” Đang ba hoa, đột nhiên cảm giác một đạo kình phong đâm thẳng vào người...

Vốn Thất Nguyệt thấy Lang vương phân tâm nói chuyện, nghĩ rằng lần này nhất định sẽ chém chết gã gây náo loạn này, nhưng khi kiếm của nàng vẫn còn cách yết hầu Lang Vương ba tấc thì đột nhiên bị kéo trì xuống! Thấy tên thư sinh chỉ dùng ngón tay ung dung kẹp chặt lấy Tử Hiệp kiếm của mình, Thất Nguyệt không rét mà run lập cập.

Phải biết rằng kiếm của Thất Nguyệt chính do Ma môn môn chủ Ngạo Thiên đích thân đúc ra, là loại cực kỳ phi phàm, khác xa với các loại binh khí thông thường, có thể chém vàng chặt ngọc như chơi.

Nhưng mà tên trung niên thư sinh chỉ cần vung hai ngón tay đón lấy, thì lợi thế sắc bén của thanh kiếm trên tay nàng liền biến mất hẳn.

Lang Vương phe phẩy quạt giấy, nhưng chẳng hề có ý buông tay, nhìn từ đầu đến chân Thất Nguyệt, lắc đầu nói: “Đẹp, quả là đẹp. A Cửu, Thủy nhi, Cát Lợi nhi đều không thể sánh bằng. Đây là đệ nhất mỹ nhân mà lão già này từng gặp được.”

Thất Nguyệt tức mình rút mạnh kiếm về, Lang Vương thuận thế buông tay ra, làm Thất Nguyệt phải lùi lại mấy bước liền, thu lại trường kiếm rồi gườm gườm nhìn lại. Những lời Lang Vương vừa nói xem ra cũng có tác dụng, có nữ nhân nào mà không thích được khen đẹp, có nữ nhân nào lại không muốn trở thành nữ nhân xinh đẹp nhất chứ!

Lang Vương đến cạnh Liễu Dật, lấy quạt gõ gõ lên vai y, bảo: “Thư sinh ngốc, ngươi bị điên rồi à, người đẹp như thế sao không cưới?”

Liễu Dật nhìn Lang Vương, cười nói: “Ngươi không thấy bộ dạng của ta bây giờ hay sao? Không cưới ả còn đỡ, nếu cưới ả thực, ta chết xanh cỏ mất rồi.”

Thập Kiệt Nhất tiếp lời: “Không sai, lão đại còn nói rằng, nữ nhân càng đẹp tâm địa càng độc. Nhìn cái cách mà nó hại lão đại, Thập Nhất ta phải đập cho nó bầm dập không thở ra hơi mới hả được giận.”

Dứt lời, liền xoa xoa hai nắm đấm.

Lang Vương phe phẩy quạt giấy, bảo: “Đúng vậy, ta thà nuôi cọp trong nhà, chứ không muốn nuôi độc xà dưới gối đâu!”

Thất Nguyệt chỉ thẳng trường kiếm, quát: “Các người bàn tính xong chưa? Ta biết hai vị vốn là cao nhân, nhưng ta xin hai vị đừng xen vào chuyện của người khác, nếu không chuyện này hai vị gánh không nổi đâu.”

Lang Vương quay sang nhìn A Cửu tiếp lời: “A Cửu cô nương, cô chắc cũng nghe gần đây giang hồ đồn đãi về việc tôn chủ của Ma Môn chứ?”

A Cửu nhớ dọc đường cũng có nghe chuyện này, liền đáp: “Trong lúc uống trà có vài người nói rằng tôn chủ gì gì đó bị phu quân của nàng đuổi đi, không biết là đúng hay sai.”

Thập Kiệt Nhất không nhịn được xen vào: “Ta lại nghe không giống vậy. Ả tôn chủ này đang tắm thì bì người ta nhìn lén, nhưng người nhìn lén đó không thèm cưới ả làm vợ.”

Lang Vương cười hì hì nói: “ Ta lại nghe khác cơ, dường như là tôn chủ đang tắm chung với tình lang...”

Cánh tay của Thất Nguyệt không ngớt run rẩy, hét lớn: “Đủ rồi, đã biết lai lịch của bổn tôn chủ, ta khuyên các ngươi tốt nhất nhanh nhanh mà trốn đi thôi.”

Thập Kiệt Nhất cùng A Cửu nghe vậy giả bộ giật mình bật lùi lại phía sau, đồng thanh nói: “Không thể nào!”

A Cửu lại quay phắt sang nhìn Liễu Dật, nổi cơn tam bành, đay nghiến: “Mọi việc cũng do ngươi mà ra, đi dòm trộm con gái người ta đang tắm, hèn gì mới bị con người ta bức hôn, giờ A Cửu ta không thèm quản nữa, đó là do ngươi làm sai.”

Thập Kiệt Nhất kéo mạnh A Cửu sang một bên, nói: “Này này, cô muốn quản hay không cũng đâu có được! Có Thập Nhất ở đây, đừng nói cô nương kia bị nhìn trộm, cho dù là... dù là... là gì đi nữa, cũng đừng nghĩ tới lấy đại ca ta!”

Lang Vương đập cái quạt vào đầu Thập Kiệt Nhất, bảo: “Ngươi im miệng coi “

Dứt lời, Lang Vương liền nhìn Liễu Dật, rồi quay sang Thất Nguyệt, đột nhiên phất tay áo rộng, chân lực cực mạnh phóng ra đóng sầm hai cánh cửa lại.

Lang Vương gật gật đầu trầm giọng nói: “Hiện tại có hai cách để giải quyết chuyện này.”

Mọi người vội im bặt dỏng tai nghe xem Lang Vương an bài thế nào.

“Cách thứ nhất, ta xuất thủ, tiêu diệt toàn bộ người của Ma môn ở đây, một mống cũng không tha. Làm vậy tuy đắc tội với Ma môn thật, nhưng nếu chuyện này sau đó chúng ta không hé răng, thì có trời biết được Ma môn tôn chủ bị ai giết chết.”

Thập Kiệt Nhất vỗ tay bồm bộp khen: “Điều này tốt, tốt lắm. Ngươi không làm nổi thì ta sẽ giúp ngươi.”

Phản ứng của bọn Thất Nguyệt, Sương Nhu thì ngược lại, bạt kiếm thủ thế, tựa hồ bọn họ nhận thấy Lang Vương đủ sức giết hết người của Ma Môn ở đây, công lực của Lang Vương thế nào mọi người cũng đã thấy qua, tựa hồ còn cao hơn một bậc so với hộ pháp của Ma môn nữa.

Vào lúc này thì Cát Lợi Nhi nằm trong lòng Liễu Dật đã tỉnh lại, nghe đề nghị của Lang Vương, từ trong lòng Liễu Dật liền khẽ chuyển thân, nhẹ giọng nói: “Lang đại thúc, không được. Đây là do lỗi của thư sinh, chúng ta không thể lạm sát người vô tội được.”

Cát Lợi Nhi ngẩng lên nhìn Thất Nguyệt, cùng lúc đó Thất Nguyệt cũng giương mắt dò xét nàng.

Thất Nguyệt không thể ngờ người nói lên lời đó lại là người nằm trong lòng Liễu Dật.

Cát Lợi Nhi cất tiếng cười trong trẻo nói: “Vị tỉ tỉ này quả thật là xinh đẹp hơn Cát Lợi Nhi nhiều. Dù là do lỗi của thư sinh, nhưng tỉ cũng gần như đã đoạt lấy tính mạng của huynh ấy, điều này vẫn còn chưa đủ sao?”

Thất Nguyệt to tiếng quát: “Chưa đủ!”

Lang Vương phe phẩy quạt giấy, nói: “Điều thứ nhất không được, vậy thì cách thứ hai, thư sinh nhất định phải cưới Thất Nguyệt cô nương.”

“Không được!”

“Không được!”

Đây là lần đầu tiên Liễu Dật và A Cửu tâm ý tương thông, cùng lúc phát ra lời phản đối.

Thất Nguyệt trợn trừng mắt chằm chằm nhìn A Cửu, không hiểu cô nương này có quan hệ thế nào với Liễu Dật. Rồi nàng quay sang nhìn Liễu Dật, cuối cùng cũng không chịu nổi, tức giận bảo: “Cớ làm sao mà không được? Là vì nữ nhân nằm trong lòng ngươi đó chăng? Tốt lắm, Thất Nguyệt ta đã nhớ kỹ, ngày tháng còn dài, chúng ta sẽ còn có dịp gặp lại...” dứt lời, chuyển thân bỏ đi.

Thập Kiệt Nhất liền hét lớn: “Yêu nữ khoan đi đã.” Rồi định đuổi theo đại khai sát giới.

Cát Lợi Nhi lắc đầu nói: “Thập Nhất đại ca, để họ đi đi.”

Thập Kiệt Nhất tức muốn xì khói, nhưng do Cát Lợi Nhi đã lên tiếng, hắn không còn cách nào phải nghe theo, nhưng bực bội giậm chân thở dài một tiếng, “.. ầy.....”

Lang Vương nhìn Thất Nguyệt đi ra khỏi cửa, trong lúc nàng quay người vô tình phát hiện từ khóe mắt nàng một giọt lệ long lanh rơi xuống. Có lẽ, con tim nàng đã bị tổn thương, dù đó là lòng tự tôn, hay là sự háo thắng, nhưng đứng ở góc độ một vị tôn chủ hô phong hoán vũ của Ma môn mà nói, điều này quả thật là một đả kích rất lớn!

Lang Vương phe phẩy quạt giấy, quay người sang bảo Liễu Dật và Cát Lợi Nhi: “Oan nghiệt, đúng là oan nghiệt! Sau này hai ngươi còn gặp rắc rối dài dài.”

- o O o -

Hồi 56: Bôi trung liệt tửu, minh nguyệt vị thùy khuyết

(Rượu nồng đầy chén, trăng vì ai mà khuyết)

Mộng tưởng tuyệt không phải là mộng, giữa hai thứ đó có một sự cách biệt phi thường mà tự trong thâm tâm mỗi người đều hiểu rõ !

(Cổ Long - Luận)

“Nào, đến đây, chúng ta cùng cạn chén! ”

“Mừng thư sinh và Cát Lợi Nhi bình phục, vì sức khỏe của Đại Đao Vương và Thủy Nhi , vì... tương lai của Thập Kiệt Nhất và A Cửu, cạn ly!” Lang Vương uống một hơi cạn ly rượu, mọi người cũng đồng thanh hưởng ứng.

Từ khi Liễu Dật bị thương đến giờ, đã hơn nửa tháng, Đại Đao Vương và Thủy Nhi thương thế đã tốt hơn nhiều, Liễu Dật và Cát Lợi Nhi cũng vậy. Cả bọn lưu lại tửu lâu này được nửa tháng, ngày ngày thưởng thức cao lương mỹ tửu, khoái hoạt không gì tả xiết.

Hôm nay đồ ăn thức uống của tiệc khánh chúc toàn là do Thập Kiệt Nhất xuất ngân phiếu mang theo từ Liễu Phủ ra mua, chỗ ngân lượng đó thừa đủ để sống ở đây hàng chục năm.

Lang Vương hớp một ngụm rượu, nói: “Các ngươi giờ đều đã khỏe lên nhiều rồi, sắp tới các ngươi định làm gì?”

Câu hỏi của Lang Vương khiến tiếng ồn ào nhiệt náo của mọi người nhất thời trầm xuống, không một ai mở miệng.

Thủy Nhi nghĩ tới nghĩ lui, rồi lên tiếng trước: “Tiểu nữ trước hết trở về môn phái, mang bảo vật giao trả cho sư phụ, sau đó sẽ tính tiếp...”

A Cửu nhìn Lang Vương, làm mặt quỷ nói: “Phụ vương tôi đã bảo, sau này cứ việc đi cùng Thập Nhất.”

Thập Kiệt Nhất vội nói: “Ta thì nhất mực đi theo lão đại, lão đại đi đâu, ta theo đó.”

Liễu Dật nhìn Thập Kiệt Nhất, suy nghĩ một lúc rồi nói: “Ta nghĩ hiện tại không nên về nhà vội, chúng ta vừa đi lại trong giang hồ đã cùng một lúc đắc tội với hai đại môn phái của Ma tộc, nếu cứ thế về nhà sẽ liên lụy đến toàn gia.”

Lang Vương gật đầu đáp: “Đúng đấy. Ám Môn đã phái ra hai nhóm sát thủ, nhưng cả hai nhóm sát thủ này có đi mà không có về. Ám Môn không nhận được tiền, sắp tới đây thế nào cũng tìm ngươi thanh toán. Ngoài ra, còn có Ma Môn, sát thủ của Ám Môn cũng chính là hộ pháp của Ma tộc, với cách thức hành động trước giờ, lúc trước ngươi đắc tội với Vi Thiên Đà, nhất định họ không thể bỏ qua cho ngươi đâu.”

“Chỉ một mình Ám Môn cũng đã quá phiền nhiễu rồi, sát thủ vô số, cao thủ cũng nhiều như lông bò. Giờ ngươi lại đắc tội với Ma môn tôn chủ, xem ra, sau này ngươi chắc chắn sẽ gặp nhiều kiếp nạn!”

Thập Kiệt Nhất vỗ bàn đáp: “Có Thập Nhất ở đây, lũ chuột nhắt đó sao dám trèo vào nồi? Mẹ nó! Chúng đến một con ta giết một con, đến hai con ta giết cả hai con, cho chúng biết thế nào là lợi hại.”

Lang Vương nhìn Thập Kiệt Nhất, tiếp lời: “Xem ra cũng chỉ có thể dựa vào Thập Nhất để đối phó những tai họa này thôi.”

Đại Đao Vương nhấp một ngụm rượu, xoa đầu, bảo: “Tại sao lại quên đao của ta thế? Ta hiện giờ cũng bị người tứ xứ truy sát, ta thấy chúng ta cùng hợp lại thì tốt hơn.”

Lang Vương nhìn Đại Đao Vương, cười nói: “Đao nếu không cần, sao có thể gọi là Đại Đao Vương? Ta chẳng đã dạy ngươi một bộ kiếm pháp rồi sao? Nếu như có thể phối hợp tốt với “Liệt hỏa” kiếm, việc đối phó với Ám Môn ngũ tinh sát thủ không thành vấn đề.”

Cát Lợi Nhi thấy mọi người nói xong, bối rối không biết cất lời thế nào....

Lang Vương bảo Cát Lợi Nhi: “Tiểu nha đầu, ngươi không cần nói nữa, trước hết hãy yên tâm an ủi thư sinh, sau này kiếp nạn sẽ còn rất nhiều.”

Liễu Dật hỏi Lang Vương: “Còn ngươi tính thế nào?”

Lang Vương nhìn mọi người một lượt, lại nhấp một ngụm rượu, nhấm nháp chút đồ ăn, rồi nói: “Ta à... ha ha... bí mật, ta có việc trọng yếu cần làm.”

Đại Đao Vương cũng uống cạn chén rượu rồi mới cất lời hỏi: “Bí mật? Không phải là đi thăm tiểu cô nương nào đấy chứ?”

Lang Vương liếc nhìn Đại Đao Vương, cười nói: “Ai giống như ngươi, ta dùng thời gian này đi đào một bảo tàng.”

Thập Kiệt Nhất ực một ngụm rượu lớn, nói: “Cứ việc, hay ho gì chứ. Ngươi cứ việc đi đào bảo tàng nào đó đi, sẵn tiện đào luôn cho ngươi chỗ yên nghỉ, như vậy tốt hơn, đỡ mất công.”

Lang Vuơng tợp tiếp một chút rượu, từ từ nói: “Ngươi lo cái gì, chuyện của ta đâu cần ngươi quản! Tin tức này ta lấy được từ chỗ Bạch Hổ, không biết có chuẩn xác hay không. Chỉ biết rằng vào ngày mồng một tháng chín, người trên giang hồ tam giới, có khả năng bao gồm cả các nhân vật chính giới, đều đến tập hợp tại Kiếm Môn quan tại Liên Hoa Trấn, là nơi theo truyền thuyết có cất giấu bảo tàng.”

A Cửu cũng uống cạn chén rượu của mình rồi xen vào: “Có gì hay không? Bên trong đó có những gì?”

Lang Vương nhón tay bốc chút gỏi, phe phẩy quạt giấy, từ từ kể: “Truyền thuyết nói rằng bảo đồ này là từ thượng cổ truyền lại, trong đó ngoài việc ghi địa điểm bảo tàng của tiền triều, còn chỉ ra nơi giấu danh kiếm đứng hàng thứ tám trong thiên hạ, cùng tuyệt thế kiếm quyết, có thể sánh với các đại môn phái của tam giới. Vì thế, bảo tàng này rất có giá trị đối với người trong giới giang hồ.”

A Cửu không nhịn được liền hỏi tiếp: “Thế ông tính làm gì, đã thành tinh rồi, còn muốn đi đoạt bảo tàng hả?”

Lang Vương bực mình bảo: “Ta vốn là thủ hộ thần thú, chứ không phải yêu quái thành tinh!”

A Cửu vội xin lỗi: “Tôi trót lỡ lời, thật bậy quá...”

Lang Vương nói tiếp : “Phải biết rằng, thanh danh kiếm truyền thế này không phải ai cũng lấy được, hà huống còn có kiếm quyết nữa, ta chỉ muốn đi xem một trường tranh đoạt đầy khốc liệt thôi.”

A Cửu tính toán: “Mồng một tháng chín... Hôm nay là ngày hai mốt tháng bảy, vậy còn hơn tháng nữa.” rồi ngẩng đầu nói: “Hay là chúng ta đến đoạt bảo tàng đó đi, dù gì chúng ta cũng đang rảnh mà...”

Liễu Dật nhìn A Cửu nói: “Đang nhàn hạ chẳng hơn rước lấy phiền nhiễu sao? Cần gì phải tranh đoạt bảo tàng? Bất quá.... ta có nghe qua Kiếm Môn quan tại Liên Hoa Trấn là địa phương phong cảnh tuyệt mỹ độc đáo, cũng nên đến xem một lần.”

Cát Lợi Nhi sau một hồi bị mọi người luân phiên mời rượu, gương mặt đã ửng hồng, liền hỏi: “Có thật không? Nơi đó đẹp lắm à? Vậy chúng ta hiện tại cũng không làm gì, đến đó chơi qua cho biết.”

Liễu Dật nhìn tiểu nha đầu đó, cười nói: “Cũng tốt..., ta có nghe nói đặc sản của Liên Hoa Trấn lại chẳng phải hoa sen, mà là một thứ hoa trắng có nhiều cánh, mỗi đóa hoa được tạo thành từ ba mươi chín cánh hoa, mỗi khi chúng đua nhau nở, khắp nơi ngập tràn một màu trắng như tuyết, do đó được tặng cho mỹ danh là “Phiêu tuyết”!”

Thủy Nhi đột nhiên nói: “Hay nhỉ, bất quá trong bản môn sắp khai hội, nên lần này chắc là không đi cùng mọi người được.

Đại Đao Vương nhìn Thủy Nhi cười cười nói: “Mấy người bọn ta đang gặp nguy hiểm phi thường, ma đạo hai phái đều muốn giết chúng ta sớm chừng nào tốt chừng ấy. Ngươi cứ tạm thời ở lại bên cạnh sư phụ của ngươi đi, ngốc ạ.”

Liễu Dật đột nhiên nhìn A Cửu, A Cửu biết ngay có điều không ổn, vội nói: “Phụ hoàng nói rằng, miễn là ta ở bên cạnh Thập Kiệt Nhất, người đã yên tâm rồi, nên ngươi không cần phải lo cho ta.”

Liễu Dật nhìn Thập Kiệt Nhất, vẻ như muốn kiểm chứng lời A Cửu.

Thập Kiệt Nhất vội gật đầu bảo: “À, hoàng đế lão tử đúng là đã nói như vậy, ta cũng sẽ cứ theo vậy mà làm.”

Liễu Dật gật gật đầu nói: “Tốt, vậy mai chúng ta cùng xuất phát, Thủy Nhi trở về Thần Môn, còn chúng ta nhắm hướng đông nam, thẳng đến Liên Hoa trấn.”

Lang Vương nhìn mọi người, bảo: “Ta không thể đi với các ngươi được, các ngươi đi chậm quá, ta phải bay trước vậy.”

Liễu Dật nhìn Lang Vương, cười nói: “Ngươi thích đi kiểu gì thì đi? Nào, đêm nay chúng ta phải uống cho thống khoái, mọi người cùng nhau vui vẻ, cạn chén!”

Mọi người cùng lớn tiếng tiếp lời: “Cạn chén!”

Liễu Dật uống một ngụm rượu lớn xong, thở dài ngâm: “Trần thế như triều, nhân như thủy, trích thán giang hồ kỷ nhân hồi” (30). Vốn chẳng nghĩ giang hồ thần bí đến thế, lúc lỡ chân bước vào, không hay không biết, khi muốn rút chân ra, đã thành than bất do mất rồi. Giả như đến lúc trở thành thiên hạ vô địch, liệu còn ai có thể ngăn ta thoái xuất giang hồ”

Lang Vương ngắm nghía Liễu Dật một lúc, rồi cười nói: “Như quả ngươi có một ngày trở thành thiên hạ vô địch, người còn có thể rút lui khỏi giang hồ không?”

Tựa hồ, vấn đề này vô cùng quan trọng...

-----------------------------------------------

(30) Trần thế như triều, người tựa nước. Giang hồ lỡ bước mấy ai về

- o O o -

Hồi 57: Thanh Âm Nhã Các, Lục Châu đích uy hiếp

Miễn là vẫn còn chưa chết, thì ở bất cứ tình huống nào cũng đều phải nhẫn nại! Ta luôn thấy đây là điều kiện căn bản để làm người!

(Cổ Long - Luận)

Liễu Dật dõi theo Lang Vương cùng Thủy Nhi rời xa dần, rồi ngước nhìn trời, xem vầng thái dương đang mọc, nói tiếp: "Ta cũng lên đường thôi, hãy đến Liên Hoa trấn, xem phong cảnh nhân sinh rốt cuộc như thế nào?"

Cát Lợi Nhi vỗ tay nói: "Tốt quá, tốt quá, muội như đã thấy tuyết rơi ở Liên Hoa trấn a!"

Thập Kiệt Nhất bước đến, nói: "Lão đại, ngựa đã chuẩn bị xong, đệ nghĩ chúng ta có thể lên đường trở về Trung Nguyên được rồi."

Liễu Dật nhìn lên trời nói: "Đúng rồi, lần này ra vực ngoại bôn ba một trận, chúng ta đã vượt qua Kiếm Môn Quan là phần đất Trung Nguyên, không biết mấy tháng nay có chuyện gì xảy ra chăng?"

A Cửu nhìn Liễu Dật, cười nói: "Ngốc tử, lần đầu xa nhà à, ta cũng lần đầu như ngươi thôi, bất quá hiện tại không nhớ nhà được, thế giới bên ngoài phong phú đẹp đẽ quá!"

Liễu Dật lườm A Cửu, nói: "Ai mà giống ngươi, nha đầu ngốc." nói xong, nắm lấy tay Cát Lợi Nhi, bước tới tàu ngựa.

Mấy người cười cười nói nói lên ngựa, bắt đầu tiến về phía Kiếm Môn Quan.

Liên tiếp mấy ngày, đoàn người không vào thị trấn, không ở trọ, đều luôn tá túc ở bên ngoài, có Thập Kiệt Nhất và Đại Đao Vương hai đại cao thủ ở đó, việc săn bắt dã vị về ăn cũng không phải là chuyện khó.

Không uổng công sức bỏ ra, đến gần trưa hôm ấy, bọn Liễu Dật rốt cuộc cũng tới được Kiếm Môn Quan!

"Xin các vị thiếu hiệp dừng bước!" Tiếng nói từ đâu vọng lại, không xa cũng không gần, nghe rất êm tai, chắc chắn là giọng nói của một cô gái!”

A Cửu nói gấp: "Ngốc tử, không phải là bà vợ hung dữ của ngươi lại đuổi đến chứ."

Liễu Dật liếc nhanh qua Cát Lợi Nhi, nạt ngang: "Đừng nói bậy, cái gì mà bà vợ chằng tinh của ta."

A Cửu dường như không nghe thấy, nói tiếp: "Lại là Thất Nguyệt a, Ma Môn tôn chủ, ả đó bị ngươi...... à, may quá, không phải!" Cuối cùng, từ trên không trung chợt hiện ra ba cô gái đồng thời nhẹ nhàng đáp xuống trước mặt mọi người. A Cửu lấy tay bịt miệng mình lại.

Cát Lợi Nhi thấy Liễu Dật cứ liếc trộm, bèn cười nói: "Thư sinh, huynh lấm la lấm lét gì đấy, sợ muội nghĩ bậy à?"

Liễu Dật vội nói: "Đâu có, hà hà."

Năm người ngừng chân lại, thầm xét đoán ba cô gái trước mặt.

Cô gái đứng đầu mặc chiếc áo đơn bằng lụa mỏng màu xanh biếc, mái tóc đen cột lại chỉnh tề, chia đều hai bên vai, da thịt nõn hơn tuyết, trắng như mỡ đông, đôi mắt to lấp lánh như sao, sống mũi cao cao đẹp đẽ tuyệt vời, đôi môi mỏng hơi hé, đôi tay dài trắng muốt, ôm chiếc cổ cầm ở trước ngực.

Hai cô gái đứng phía sau mặc áo đơn màu xanh, cũng dễ nhìn, đều vào độ ngoài hai mươi, cả ba người có một điểm tương đồng duy nhất là trước ngực đều ôm một cây cổ cầm.

Thiếu nữ áo lục nói tiếp: "Xin hỏi trong các vị thiếu hiệp đây, có Giang Nam thư sinh Liễu Dật không?"

A Cửu lẹ miệng chen vào: "Cát Lợi Nhi, cô phải trông chừng ngốc tử này kỹ một chút, năm nay coi bộ hắn gặp vận đào hoa, toàn gặp người đẹp, nếu coi không kỹ là hắn chạy theo người ta mất."

Cát Lợi Nhi cười với A Cửu, nói: "Có phải là A Cửu tỷ tỷ muốn giúp muội quản giám thư sinh chăng?"

A Cửu cũng cười đáp: "Được đó, để ta coi hắn liền cho muội, cho mấy ả táo gan này lao công nhọc sức."

Trong lúc hai người cười đùa, Thập Kiệt Nhất ngồi ở trên mình ngựa, lớn giọng hỏi: "Cô là ai?"

A Cửu nhìn Thập Kiệt Nhất, cười nói: " Không ngờ Thập Nhất cũng oai phong thế!"

Hiển nhiên, Thập Kiệt Nhất được A Cửu khen một câu, đã bay bổng lên mây, cho nên những gì lục y nữ tử nói sau đó đều không nghe lọt!

Lục y nữ tử nhẹ nhàng tiến lên phía trước một bước, nói: "Tiểu nữ tử, Lục Châu, môn hạ thủ tịch của nhân gian giới "Thanh Âm Nhã Các", đã đợi Liễu công tử ở Kiếm Môn Quan này khá lâu."

Đại Đao Vương khẽ nói: "Thanh Âm Nhã Các là một trong ba đại môn phái tại nhân gian giới, cao thủ trong phái như mây, lấy âm luật làm chủ, nghe nói môn phái này không tham dự vào chuyện giang hồ, người trong Thanh Âm Nhã Các cũng đều do nữ nhân tổ chức thành, dựng lên đã được vài trăm năm nay, từ đó đến giờ chưa từng giết qua một người, có thể nói là tiên cảnh duy nhất trong nhân gian giới."

Liễu Dật phe phẩy chiếc quạt, ôm quyền nói: "Lục Châu cô nương, không biết kiếm Liễu Dật vì chuyện chi, tại hạ chính là Liễu Dật."

Lục Châu nhìn lấy Liễu Dật, tay phải cong thành trảo, hướng sang bên vẫy một cái, một khúc cây nhỏ nâu sẫm bị hút qua trong nháy mắt, Lục Châu nhẹ nhàng chuyển người ngồi xuống, nhè nhẹ đặt cây cổ cầm lên đùi, rồi nói: "Công tử, người trong Thanh Âm Nhã Các chúng tôi đều là kẻ yêu đàn, tiểu nữ tử nay có một khúc nhạc mới "Tư Dạ", xin mời công tử nghe thử."

Liễu Dật xoay xoay chiếc quạt xếp, ôm quyền nói: "Lục Châu cô nương, cô kiếm sai người rồi, tại hạ chỉ là một thư sinh bình thường, làm sao nghe thử nổi......"

Lời chưa nói dứt, mười ngón tay xinh của Lục Châu đã bắt đầu di động......

Thanh âm đó, tựa hồ đến từ bốn phương, hội tụ về một chỗ, rồi rót vào tai từng người, thâm nhập vào lòng họ...

Mưa rơi lắc rắc, cùng với tiếng đàn mỗi lúc một nhanh, mưa càng rơi càng nặng hạt, đêm khuya khó ngủ, dường như lúc này mỗi người đều có tâm sự, từ từ ngồi xuống.

Tiếng đàn chợt chuyển sang thật nhu hòa, đêm thật tịch mịch, trống rỗng, tự hồ như mỗi người đều đã trải qua, song không ai xa lánh đêm đen, bởi vì nó yên bình lặng lẽ, sau một ngày bận bịu trong trần thế phồn hoa, đây là lúc duy nhất để nghỉ ngơi!

Âm thanh càng lúc càng uyển chuyển, càng lúc càng mê ly, ai nấy như cảm thấy thân thể mình nhẹ dần đi, rất nhẹ, bay bổng, bay lên bờ đê, lên ngọn cây, như trời đêm, và trong biển sao mênh mông ấy, bồng bềnh đùa giỡn…

Tất cả mọi người đều bị tiếng đàn tuyệt diệu làm say mê, thế nhưng, chỉ có một người lại không tỏ vẻ mê đắm, là ai? Đương nhiên là Liễu Dật, nghe qua khúc "Tư Dạ" của Lục Châu, ban đêm quả thật mỹ miều, chỉ là, ở trong tiếng đàn mỹ diệu ấy, Liễu Dật nghe ra được âm mưu của Lục Châu, lòng của ả vốn không bình tĩnh, hoàn toàn không tập trung, khiến cho khúc "Tư Dạ" trở nên không hoàn mỹ...

Liễu Dật vận sức, thúc động "Bích Ngọc Hoa Chỉ", chuẩn bị tùy thời ứng phó thế công đột xuất của Lục Châu, Liễu Dật biết rằng vào lúc này những người bên cạnh đều không thể kêu dậy được, bởi vì hắn hiểu rõ rằng, âm luật không khác gì những võ công cao đẳng!

Quả nhiên, ngay lúc đó, Lục Châu ra tay, tiếng đàn vừa ngừng trong tích tắc, Lục Châu đã nhanh nhẹn bay thẳng về hướng Liễu Dật!

Liễu Dật đã sớm chuẩn bị, ngay lúc Lục Châu vừa đến gần, hắn cũng ra tay, tay phải nhẹ nhàng giơ lên, một đạo tiểu chỉ màu bích ngọc kèm theo mùi hương hoa lan, bắn đến Lục Châu.

Thế nhưng đạo ánh sáng màu bích ngọc kia lại đi trật mục tiêu, bởi cùng lúc Liễu Dật phóng ra đạo "Bích Ngọc Hoa Chỉ" thì Lục Châu cũng biến mất, trong không khí, chỉ còn lại làn hương lan thơm ngát.

Chợt bên cạnh Liễu Dật lóe lên một ánh chớp, Lục Châu thình lình từ không trung đáp xuống, Liễu Dật liền vận "Bích Ngọc Hoa Chỉ", nhắm Lục Châu chuẩn bị phát chỉ lần nữa, nhưng Lục Châu vừa hạ thân xuống cạnh Liễu Dật là liền động thủ, nàng vuốt nhẹ cây cổ cầm trong tay, một đạo cầm âm theo đó vang lên, một luồng chân khí hình bán nguyệt theo tiếng đàn bay ra, nhắm vào Liễu Dật công tới, Liễu Dật thấy tình thế không hay liền phi người lên không, né tránh đạo cầm kình của Lục Châu!

Lục Châu khi ấy mỉm cười, mưu kế của ả đã thành công, mục tiêu của ả không phải là Liễu Dật, mà là Cát Lợi Nhi ở bên cạnh Liễu Dật, Lục Châu ôm lấy Cát Lợi Nhi đang ngất ngây vì tiếng đàn, xoay người bay ngược lại.

Liễu Dật dừng lại trong không trung, định vận dụng "Bích Ngọc Hoa Chỉ" lần nữa, nhưng lại không dám bắn ra, vì sợ đả thương cả Cát Lợi Nhi. Liễu Dật thấy lòng nhũn lại, đành nhẹ nhàng đáp xuống mình ngựa, giương mắt nhìn Cát Lợi Nhi đang ở bên cạnh Lục Châu!

Liễu Dật quát lớn: "Cô có ý gì đây?"

Câu nói của hắn vang vang đánh thức Đại Đao Vương, Thập Kiệt Nhất và A Cửu. Họ ngơ ngác nhận ra Cát Lợi Nhi đã không còn ở bên họ, mà lại đổi sang đứng cạnh Lục Châu.

Thập Kiệt Nhất giận dữ: "Con bà nó, lão tử ghét nhất là kẻ lập lờ thế này." Nói dứt lời, liền muốn động thủ xông qua.

Liễu Dật gọi gấp: "Đứng lại, Thập Nhất."

Thập Kiệt Nhất nghe đặng lời Liễu Dật, đành giằn cơn giận xuống, ngừng ngay động tác.

Lục Châu cười nói: "Xem ra Liễu công tử thật là người si tình, chúng tôi tuy không giết người, song chúng tôi giữ người, nếu như có ai bên công tử xông qua, tôi không dám bảo đảm là gò má của tiểu cô nương xinh đẹp này không bị hủy đi, hoặc là làm đứt đi gân tay của cô ta, hoặc......"

"Đủ rồi, rốt cuộc các người muốn thế nào?" Liễu Dật sớm không muốn nghe thêm, nóng nảy cắt lời.

Gương mặt Lục Châu trở nên nghiêm túc, nói: "Các chủ chúng tôi nghe Giang Nam có một thư sinh, đã từng so cầm nghệ cùng Thần Môn môn chủ, do đó, đối với Liễu công tử vô cùng hứng thú, đặc biệt kêu ba tỷ muội chúng tôi đến mời công tử đến Thanh Âm Nhã Các một chuyến!"

Đại Đao Vương cũng quát rằng: "Con bà nó, thiệt ép người ta mà, ngươi mời mà vậy ư? Rõ ràng là uy hiếp mà!"

Lục Châu nhanh nhẹn lấy từ trong túi đeo bên hông ra một viên dược hoàn màu hồng, kề miệng Cát Lợi Nhi bóp nhẹ một cái, tống vào. Lập tức huyệt đạo trên người Cát Lợi Nhi vừa bị phong bế liền được giải khai, Lục Châu nói: "Chỉ cần Liễu Dật công tử đáp ứng, về đến Thanh Âm Nhã Các, Lục Châu tự mang roi thỉnh tội."

Cát Lợi Nhi cử động được rồi liền hỏi: "Vừa rồi ngươi cho ta ăn thứ chi?"

Lục Châu cười nói: "Một hoàn độc dược, có thể duy trì trong mười ngày, nếu như không có giải dược độc môn của Thanh Âm Nhã Các, sau mười ngày thì cô bị đui, sau mười lăm ngày thì bị câm, sau hai mươi ngày thì chân bị phế, sau hai mươi lăm ngày thì tay bị liệt, nhưng cô sẽ không chết, ba mươi ngày sau thì toàn thân cô sẽ già nua."

Cái Lợi Nhi nghe xong, chạy nhanh qua cạnh Liễu Dật, leo lên ngựa trở lại, nói: "Thư sinh, chúng ta đi, Cát Lợi Nhi đây không sợ những thứ đó đâu." Nói xong liền muốn giục ngựa đi!

Liễu Dật ghì tay Cát Lợi Nhi lại, nói: "Cát Lợi Nhi không sợ, nhưng thư sinh sợ, thư sinh thật không muốn Cát Lợi Nhi bị chút thương hại nào."

Liễu Dật xoay sang A Cửu, Đại Đao Vương và Thập Kiết Nhất bảo: "Hôm nay ta theo bọn họ đến Thanh Âm Nhã Các một chuyến, các người muốn đến Liên Hoa Trấn trước hay là đi theo ta?"

Không một ai hồi đáp, Lục Châu phì cười, nói: "Tiên sinh, Thanh Âm Nhã Các chúng tôi đều là những cô nương yêu thích âm luật, mừng vì người đến còn chưa kịp! Nghe lời nói của người coi bộ xem chúng tôi không khác gì lang sói, sợ chúng tôi ăn thịt người sao?"

Liễu Dật nổi nóng: "Các cô không phải sói, các cô là rắn, rắn độc, sao lại đưa độc dược cho Cát Lợi Nhi, còn thì đưa ta một viên để ta nếm luôn."

Lục Châu thấy bộ dạng nóng nảy của Liễu Dật, liền nói: "Xin đắc tội, ta chỉ mang có một viên độc dược, nhưng người đừng lo, đợi đến Thanh Âm Nhã Các gặp được quý phu nhân trao giải dược, thì lúc đó tiên sinh muốn uống bao nhiêu sẽ có bấy nhiêu."

Liễu Dật nói thầm: "Vậy không phải chơi ta sao? Giải xong chất độc cho Cát Lợi Nhi rồi, còn bảo ta muốn uống bao nhiêu có bấy nhiêu."

Lúc ấy Đại Đao Vương cười lớn: "Các cô nương Thanh Âm Nhã Các nhiều như vậy, Đại Đao Vương đương nhiên muốn đi."

Thập Kiệt Nhất nói nhanh: "Lão đại đi đâu, ta đi theo đó."

A Cửu nói theo: "Ta cần giúp Cát Lợi Nhi trông chừng Liễu Dật, nhất định phải đi, bằng không với mấy ngàn người của Thanh Âm Nhã Các, còn không điên lên hay sao?"

Lục Châu nhìn phản ứng kỳ quái của bọn họ, liền nói: "Các vị không cần phải nghĩ xấu về Thanh Âm Nhã Các vậy, Lục Châu quả thật không còn biện pháp nào khác nên đành dùng hạ sách này mà mời tiên sinh thôi, chỉ cần tiên sinh chỉ điểm tốt cho chúng tôi trong một tháng. Chúng tôi bảo chứng rằng mỗi ngày đều đối xử tử tế với các vị thiếu hiệp đây!"

Cát Lợi Nhi nhìn Liễu Dật, bổng bật cười ròn rã nói: "Được á, là cơ hội ta cho thư sinh kiếm thêm mấy vị cô nương xinh đẹp......"

"A......"

"A......"

"A......"

- o O o -

Hồi 58: Cửu Liên phong hạ, Thanh Âm Nhã Các trung

(Thanh Âm Nhã Các dưới chân núi Cửu Liên )

Người giỏi vẫn có người khác giỏi hơn, thông thường thì người được mệnh danh là thiên hạ đệ nhất cao thủ lại chết sớm hơn hẳn người khác.

(Cổ Long - Luận)

"Các vị thiếu hiệp nhất định phải đến Liên Hoa Trấn hay sao? Có phải vì bảo tàng hay không?”, Lục Châu ngồi trên lưng ngựa lên tiếng hỏi.

Liễu Dật gật gật đầu, nói: “Thì cứ đi xem thử, hơn nữa chúng tôi đến Liên Hoa Trấn để ngắm hoa, không hẳn là vì bảo tàng”.

Lục Châu liền mỉm cười, tiếp lời: “Thật hay là Thanh Âm Nhã Các chúng tôi lại ở Cửu Liên Phong, ngay sau Liên Hoa Trấn, cách trấn không xa lắm”.

Kỳ thực Liễu Dật chỉ muốn tìm nơi trốn tránh, nếu phải về nhà, người của Ma tộc đến tìm tận cửa chắc chắn sẽ liên lụy đến người nhà; còn ở lại Thanh Âm Nhã Các lánh mặt một tháng, có khi sau đó chả có mấy người còn nhớ đến y, ai nấy cũng vì tấm bảo đồ mà lên trời xuống đất vất vả một phen rồi.

Đại Đao Vương hỏi tiếp: “Lục Châu cô nương, có phải Thanh Âm Nhã Các của cô cũng nhắm đến bảo tàng này phải không?”

Lục Châu lại cười đáp: “Phải tóm lấy bằng được chứ, trong bảo tàng tài bảo không biết bao nhiêu mà kể, lại có thêm thanh thượng cổ bảo kiếm, tuyệt thế kiếm pháp, toàn là kỳ vật, nếu đoạt được, nói không chừng Thanh Âm Nhã Các chúng tôi có thể ngoi lên vị trí đệ nhất chốn Nhân gian này rồi”.

Xem ra Thanh Âm Nhã Các thật lòng mời Liễu Dật đến chỉ điểm âm luật cho các nữ tử. Trên dường đi, bọn Lục Châu tỏ ra cực kỳ khách khí, hoàn toàn không có vẻ gì là giả tạo cả.

Từ khi rời khỏi Kiếm Môn Quan đã được ba ngày, mọi người đi đường đều vui vẻ cười nói nên cảm thấy thời gian trôi qua thật nhanh. Chỉ có một người không mãn ý là Thập Kiệt Nhất, gã thấy Lục Châu cô nương cứ liên tục cười cười nói nói nhưng lại chẳng để ý gì đến mình, trong lòng không khỏi ấm ức.

Chiều hôm đó, cuối cùng họ cũng đến được nơi Lục Châu vẫn gọi là Thanh Âm Nhã Các. Thanh Âm Nhã Các này bốn bề núi non bao bọc, có đến hơn trăm tòa tiểu ốc, tụ họp lại như một thôn trang nhỏ, mỗi tòa tiểu ốc đều dùng đá cẩm thạch xây thành, nhìn qua chẳng khác nào cả thôn trang toàn bộ được dát cẩm thạch, tráng lệ phi thường. Thanh Âm Nhã Các này đúng là lộng lẫy, xứng đáng là nơi cho các cô nương mỹ lệ trú ngụ.

Đám Liễu Dật xuống ngựa, cầm cương đi bộ đến trước thôn trang rồi được Lục Châu dẫn đường, tiến thẳng vào trong...

Trên đường đi, hình ảnh đập vào mắt là những gian phòng nhỏ sạch sẽ, trước cửa phòng đều có một vị cô nương đánh đàn, nhạc khúc khác nhau, thủ pháp cũng khác nhau, tấu lên thì âm điệu cũng khắc hẳn. Đi đến phía sau những gian thạch ốc thấy các vị cô nương cầm kiếm múa theo tiếng đàn, có cả tiếng tiêu cùng hòa tấu! Đại Đao Vương vừa đi vừa tấm tắc khen ngợi: “Nơi này thật là tuyệt quá, Đại Đao Vương này có thể làm gì đây? Ngày ngày nhìn ngắm những vị cô nương đáng yêu này cũng đủ bổ mắt rồi”.

Lục Châu mỉm cười nhìn Đại Đao Vương nói: “Tiên sinh không nhận thấy rằng luyện kiếm theo đàn ở nơi này chẳng phải là hay lắm sao? Hãy tu luyện một chút cũng tốt! “.

Đại Đao Vương hưởng ứng ngay: “Lang Vương đã dạy ta Thu Hiệp Kiếm Pháp mà chưa có dịp luyện tập, nhân dịp này mà ôn luyện vậy, nếu không thì sau này sẽ bị người ta đánh cho tơi bời nữa”.

Theo sau bước chân Lục Châu, đoàn người cuối cùng cũng đến được đáy cốc, nơi tận cùng của Thanh Âm Nhã Các. Trước mắt liền hiện lên một tòa thạch lâu hai tầng, bên ngoài rất cao nhã, nhưng trước cửa lâu hoàn toàn không có người gảy đàn luyện kiếm.

Lục Châu nói: “Tứ vị trưởng lão của chúng tôi bế quan không ra ngoài, đợi ta vào thỉnh sư phụ ra”. Nói đoạn mở cửa đi vào bên trong.

Không lâu sau, Lục Châu từ phía trong đi ra, nói: “Gia sư thỉnh các vị vào trong”. Nói xong, nàng đi trước dẫn đường.

Đám Liễu Dật theo Lục Châu đi vào, tiến vào tòa thạch ốc liền phát hiện bên trong là một bầu trời mới. Ở bên ngoài, không ai chú ý rằng tòa thạch ốc khá lớn, bước vào bên trong mới thấy rộng rãi phi thường, tuy không được lớn như Phật môn hay Thần môn nhưng cũng không thể coi là nhỏ. Hai bên có bày hai hàng ghế cùng mấy cái bàn bằng gỗ, đám Liễu Dật theo thứ tự ngồi xuống.

Lục Châu lại nói: “Các vị đợi một chút, tôi vào thỉnh gia sư ra tương kiến”. Nói xong liền bước vội ra sau tấm bình phong ở phía trước.

Chừng cạn tuần trà, từ phía sau bình phong bước ra một trung niên nữ tử, tóc dài búi ngược, toàn thân vận trang phục màu vàng, hai tay buông thõng phía trước. Bà ta ngồi xuống phía đối diện với tấm bình phong.

Lục Châu mở lời: “Đây là Các chủ của chúng tôi, lão nhân gia trước nay chưa có gặp qua người ngoài bao giờ”.

Liễu Dật thầm nhủ: “Xem ra nữ tử này không thể từ bề ngoài mà nhìn ra tuổi tác, những người có tu vi cao thâm có thể lưu giữ được thanh xuân cũng không phải là việc khó!”.

Lúc đó, trung niên nữ tử lên tiếng: “Lần này thỉnh các vị thiếu hiệp đến Thanh Âm Nhã Các làm khách thật là đường đột, hà hà, khiến cho lão bà tử ta rất lấy làm áy náy!”.

Liễu Dật ôm quyền nói: “Xin hỏi Các chủ Thanh Âm Nhã Các có phải là thuộc giới chính đạo ở Nhân gian hay không?”.

Trung niên nữ tử đáp lời: “Đương nhiên, Thanh Âm Nhã Các là một trong tam đại môn phái của Nhân gian giới, đương nhiên là chính đạo rồi. “.

Liễu Dật hỏi tiếp: “Vậy xin hỏi Các chủ, việc dùng độc ép bức bọn tại hạ đến Thanh Âm Nhã Các phải chăng là hành vi của chính đạo các người hay sao?”.

Trung niên nữ tử cau mày hỏi: “Lục Châu, việc này là thế nào đây? Con dùng loại độc nào?”.

Lục Châu nhìn trung niên nữ tử rồi liếc sang Cát Lơi Nhi, đáp: “Bà bà, đó không phải là độc đâu, Thanh Âm Nhã Các chúng ta có lý nào lại dùng độc, con chỉ dùng Thập Hương Hoa Lộ Hoàn để dọa tên thư sinh này thôi”.

Trung niên nữ tử liếc nhìn Lục Châu cười nói: “Con nha đầu này thật là!”, đoạn quay đầu nhìn Liễu Dật nói: “Liễu công tử, thứ mà nha đầu Lục Châu dụng trên người cậu không phải là độc dược mà chỉ là thuốc bổ giúp luyện công mà thôi”.

Liễu Dật nhìn Cát Lợi Nhi rồi lại nhìn sang Lục Châu, chỉ thấy tia mắt Lục Châu đảo qua đảo lại, không biết là đang tính toán cái gì!

Trung niên nữ tử đột nhiên nhớ ra chuyện gì đó, vội cất tiếng: “Các vị xem ta đúng là già cả thật rồi, vẫn chưa tự giới thiệu. Các vị thiếu hiệp, lão thái bà ta là chủ nhân Thanh Âm Nhã Các, các người gọi ta là Cầm bà bà được rồi”.

Bọn Liễu Dật đều lễ phép cúi đầu nói: “Xin chào bà bà”.

A Cửu lanh chanh hỏi ngay: “Vì sao phải gọi người là bà bà, ta xem bà vẫn còn trẻ lắm, chắc không lớn hơn chúng ta bao nhiêu đâu”.

Cầm bà bà lắc đầu cười nói: “Tiểu nha đầu, ta đã gần hai trăm tuổi rồi, sao có thể so sánh với thanh niên các người”.

Lời vừa thốt ra, không chỉ A Cửu mà tất cả mọi người đều kinh ngạc, một người trông bề ngoài chỉ khoảng ba mươi mà lại bảo mình gần hai trăm tuổi, thật khó khiến người ta tin được.

Lục Châu đứng sau đấm bóp cho Cầm bà bà, nói với vào: “Bà bà biết thuật trụ nhan nên có thể bảo trì được vẻ ngoài thanh xuân như vậy”.

Liễu Dật lúc ấy không muốn dây dưa chuyện tuổi tác nữa, bèn hỏi tiếp: “Xin hỏi Cầm bà bà, như vậy là bà bà không hề có ý giam giữ chúng tôi phải không?”.

Cầm bà bà vội lắc đầu nói: “Chàng thiếu niên, không nên nói vậy, lão thái bà ta một đời yêu đàn nhưng đã trăm năm nay mà chưa gặp được kẻ tri âm, gần đây nghe nói Liễu công tử tại Thần môn phủ đã đàn một khúc thật là... thật là thần diệu, vì vậy mà lão thái bà ta mới nghĩ đến chuyện mời Liễu công tử đến Thanh Âm Nhã Các một chuyến”.

Liễu Dật đáp ngay: “Lời truyền ngôn trong giang hồ, mười phần đến tám chín là khoa trương, bà bà không nên tin làm gì”.

Cầm bà bà mỉm cười nói: “Đương nhiên ta vốn không tin, nhưng Thần môn môn chủ thì ta đã lĩnh giáo qua, vì vậy mới tin lời đồn đại trong giang hồ. “.

Lục Châu vội chen vào: “Tiên sinh không cần quá khiêm nhường như vậy, chúng tôi chỉ muốn mời tiên sinh đến chỉ điểm trong một tháng thôi, sau thời gian một tháng tiên sinh hoàn toàn có thể rời khỏi đây lúc nào cũng được”.

Cầm bà bà tiếp lời: “Hơn nữa ta còn nghe rằng tình cảnh của Liễu công tử hiện nay không được suôn sẻ. Ma tộc, Ám môn không ngừng phái sát thủ truy sát các vị, lại còn vị tôn chủ Ma tộc nghe đồn cũng có chuyện lằng nhằng với công tử nữa...”.

Liễu Dật không đợi cho Cầm bà bà dứt lời, hấp tấp nói: “Không, không... chẳng qua chỉ là đắc tội với người của Ám môn và Ma môn mà thôi”.

A Cửu kéo tay Cát Lợi Nhi, khúc khích cười nói: “Ha ha, hiện giờ tên ngốc này đối với Thất Nguyệt sợ đến chết luôn, nghe đến tên là bộ dạng trở nên chết nhát như thế”.

Cát Lợi Nhi nhìn A Cửu đoạn thấp giọng nói: “Phải tìm cách giải quyết chuyện này thôi, vốn cũng tại thư sinh làm hại danh dự cô nương người ta”.

A Cửu nghe vậy lo lắng hỏi: “Giải quyết thế nào? Muội không phải là bị ấm đầu chứ? Hừ, kêu tên thư sinh này phải cưới con ma nữ đó, muội mau tỉnh lại đi. Muội xem, bình thường con ma nữ đó cứ ẹo qua ẹo lại đi dụ dỗ người khác, coi chừng thư sinh lại mê ả thì khổ”.

Cát Lợi Nhi không đáp.

Cầm bà bà tiếp tục nói: “Vì vậy, một tháng này mời tiên sinh ở lại Thanh Âm Nhã Các lánh nạn. Thanh Âm Nhã Các cùng với Phật môn, Lãnh Kiếm môn liên minh với nhau, Ám môn, Ma môn thế lực tuy lớn nhưng chắc cũng không dám đến Thanh Âm Nhã Các làm loạn đâu”.

Đại Đao Vương gật gật đầu nói: “Được lắm, ít nhất thì trong một tháng này cũng có thể nghỉ ngơi một phen, có cơm ăn no, được uống thỏa thích, với chúng ta thế là được rồi. “.

Lục Châu lại nói: “Hơn nữa, Thanh Âm Nhã Các chúng tôi tọa lạc tại Cửu Liên Phong, phong cảnh thực là mê đắm lòng người, nếu tiên sinh cảm thấy buồn tẻ, có thể đi đây đó thưởng ngoạn. “.

Liễu Dật nhìn mọi người đi cùng, rồi quay sang Cầm bà bà nói: “Hai vị đưa ra nhiều lý do hấp dẫn như vậy, Liểu Dật ta mà không ở lại, thì chắc là một tên thư sinh xuẩn ngốc rồi, nhưng mà ta chỉ sợ về trình độ âm luật lại khiến bà bà và các vị cô nương thất vọng thôi”.

Cầm bà bà cười nói: “Tiên sinh không cần khiêm nhượng như vậy, Châu nhi, theo ta đi lấy Phi Bộc Liên Âm để mời tiên sinh tấu một khúc cho chúng ta nghe. “.

Lục Châu gật đầu, cao hứng đáp: “Vâng ạ.”

Liễu Dật nhìn hai người một già một trẻ, chỉ còn biết lắc đầu cười khổ.

- o O o -

Hồi 59: Phiêu tuyết hoa hải, hạnh phúc đích bi thương

(Biển hoa trắng như tuyết, hạnh phúc hay là bi thương)

Thế sự gian nan, đời người có vô số việc không như ý. Quá khứ chẳng khác nào giấc mộng xuân đã tàn, chẳng thể nào tìm lại!

(Cổ Long - Luận)

Ánh dương quang vẫn như mọi ngày chiếu sáng khắp mặt đất, nuôi dưỡng vạn vật, làn gió nhẹ mãi đuổi theo áng mây trắng đang phiêu lãng trôi trên nền trời xanh thẳm, thật thư thái tiêu dao.

"Thư sinh, huynh nói chúng ta có thể vĩnh viễn, vĩnh viễn bên nhau như thế này không?" Tựa vào vai Liễu Dật, Cát Lợi Nhi hỏi khẽ.

Liễu Dật ôm nàng vào lòng nói: "Trên đời này, mọi sự có thể theo ý người được hết ư? Ta không thể ước vọng xa xôi cho ngày mai, nhưng ta chắc chắn có hiện tại của ngày hôm nay."

"Thư sinh, huynh xem một biển hoa đẹp chưa kìa" Cát Lợi Nhi bỗng khẽ kêu lên.

Hai người đứng ở trên cao, từ phía đông nam của Liên Hoa Trấn nhìn lại, chỉ thấy rợp trời những đóa hoa trắng bay phất phơ nhẹ nhàng trông như một biển hoa tuyết trải dài vô tận. Toàn bộ chỗ hoa này nở trên những bụi cây nho nhỏ cao bằng nửa thân người, đặc biệt mỗi bông có ba mươi sáu cánh trắng, nhị hoa màu tím nhạt, đẹp đẽ vô cùng, một cơn gió nhẹ thổi qua, trăm ngàn cánh hoa trắng xóa theo gió tung bay lên tận trời cao, phảng phất như tuyết mùa đông rơi lả tả.

Hai người vai kề vai giữa trời hoa trắng bay, hưởng thụ ánh dương quang, hưởng thụ hạnh phúc và thế giới riêng của lứa đôi...

"Thư sinh, nếu có một ngày Cát Lợi Nhi không may chết đi, xin huynh đừng bi thương... Huynh xem ánh dương quang nồng ấm, bầu trời rộng thênh thang, nhìn biển hoa trắng bay như tuyết, nghe tiếng gió thổi, ngửi mùi hương thơm ngát. Ôi thế gian này thật vô cùng rực rỡ. Dẫu Cát Lợi Nhi có ra đi cũng không thể mang theo thế giới của thư sinh đi cùng. Xin hãy chôn vùi hình ảnh Cát Lợi Nhi dưới tận cùng ký ức, được không?" Cát Lợi Nhi dụi đầu vào lòng Liễu Dật cất giọng thật bi thương.

Liễu Dật nhẹ nhàng vuốt mái tóc đen huyền của Cát Lợi Nhi an ủi: "Sao tự nhiên muội lại nói những lời u ám như vậy? Tương lai ai mà biết trước được sẽ như thế nào chứ?"

Cát Lợi Nhi lắc đầu: "Muội cũng không biết, nhưng muội rất sợ. Đối với hạnh phúc hiện tại, Cát Lợi Nhi luôn hết tâm hết sức mà níu giữ. Nhưng hạnh phúc là thứ thật mong manh, lúc nào cũng có thể tan biến mất. Cát Lợi Nhi rất sợ nó sẽ biến mất, quả thật rất sợ. "

Liễu Dật ngắm Cát Lợi Nhi một lúc, cúi xuống hái một đóa hoa dại sáu cánh đỏ rực cài lên đầu Cát Lợi Nhi nói: "A đầu khờ khạo, muội nói nghe thật đơn giản quá, nhưng nếu quả có ngày muội rời xa huynh, huynh có thể nào không bi thương được sao? Muội nói nghe thật dễ dàng. Cái ngày mà muội rời xa huynh, muội sẽ hoàn toàn mang thế giới của huynh đi theo, chỉ còn lại u ám trống rỗng, không có ánh dương quang, biển hoa kia cũng sẽ khô héo, sao muội nỡ tàn nhẫn kêu huynh chôn vùi khối tình dưới tận cùng ký ức chứ? Huynh sẽ tan nát cõi lòng, sẽ thống khổ vô cùng, muội biết không?" Nói xong những lời đó, Liễu Dật thấy lòng đau như cắt, không cầm được nước mắt.

Cát Lợi Nhi nhẹ nhàng vòng tay qua người Liễu Dật nói: "Thư sinh, cảm giác ở bên huynh thật vui vẻ, chúng ta đừng nói đến những chuyện không vui đó nữa, được không? Muội nghe lời huynh không ước vọng xa xôi, vậy chúng ta hãy hết sức tận hưởng ngày hôm nay đi."

Liễu Dật khẽ gật đầu...

Cánh hoa rơi nhẹ nhàng theo gió tựa như tuyết mùa đông bay phất phới, hương thơm ngào ngạt tỏa khắp không gian, Liễu Dật ôm chặt Cát Lợi Nhi giữa biển hoa ấy.

Không gian như nín thở, thời gian như ngừng trôi... không biết là trải qua như vậy bao lâu, đột nhiên có một giọng nói vang lên: "Tiên sinh, các ngươi quả là đã chạy đến đây. Nơi này hiện nay rất loạn. Người trong tam giới hầu như đều tụ tập cả về Liên Hoa trấn, chỉ nội trong hai ngày tới là kéo lên núi tìm bảo vật. "

Liễu Dật cùng Cát Lợi Nhi quay đầu lại thấy Lục Châu đứng đó, Liễu Dật cười nói: "Hôm nay là ngày thứ ba mươi rồi, ta nghĩ chúng ta cũng nên rời khỏi đây thôi. "

Lục Châu cười đáp: "Trí nhớ của tiên sinh quả rất tốt, Lục Châu muốn lừa thêm một ngày cũng không được rồi. Tiên sinh có muốn lên núi tìm bảo vật chăng?"

Liễu Dật lắc đầu: "Ta chỉ muốn xem nhân sinh phong cảnh mà đến, giờ xem thì đã xem rồi, ta muốn tạm dừng bước giang hồ một thời gian, nếu không có vấn đề gì thì quay về Giang Nam thôi."

Lục Châu gật đầu đồng ý: "Bà bà mời tiên sinh ghé qua một chuyến, người có chuyện muốn nói cùng tiên sinh. "

Liễu Dật gật gù cười nói: "Thật phiền Lục Châu cô nương."

Lục Châu lắc đầu đáp: "Lục Châu vẫn chưa tạ ơn tiên sinh đã chỉ giáo mấy ngày nay, giúp Lục Châu thực sự đạt được tâm cảnh mới. "

Liễu Dật vội vàng lắc đầu khách khí nói: "Lục Châu cô nương quá khen rồi."

Đôi tay Lục Châu vung lên, cây đàn trong lòng bỗng nhiên vụt lớn lên, trải ra dài rộng như một chiếc thuyền con trên sông, Lục Châu nói: "Thỉnh tiên sinh và tiểu thư lên thuyền."

Liễu Dật kéo tay Cát Lợi Nhi cùng đi lên thuyền cười hì hì: "Đây đúng là phi thuyền mà, ha ha.... "

Đợi hai người lên thuyền xong, Lục Châu nhẹ nhàng nhảy lên, dùng Ngự khí thuật bay thẳng lên mây hướng về Thanh Âm Nhã Các.

Chỉ mất khoảng một khắc, ba người đã đến Thanh Âm Nhã Các, từ ngoài cửa truyền đến những tiếng gọi ồn ào: "Tiên sinh đã về, tiên sinh đã về... "

Mọi người ùn ùn kéo tới, Lục Châu vội chặn lại quát: "Các người không được làm loạn, bà bà mời tiên sinh đến có việc. "

Trong suốt một tháng, Liễu Dật dựa vào hai mươi năm thành tựu âm nhạc của mình, đã thiết lập được một tượng đài ở Thanh Âm Nhã Các, làm bọn nha đầu ở đây ngưỡng mộ y vô cùng.

May nhờ có Lục Châu chỉnh sửa cho một trận, những a đầu này mới khỏi náo loạn được một chút.

Lục Châu theo gót Liễu Dật và Cát Lợi Nhi đi vào bên trong.

Đẩy cửa vào, bên trong Đại Đao Vương, Thập Kiệt Nhất và A Cửu đang ngồi trò chuyện với Cầm bà bà. Trong suốt một tháng nay, Đại Đao Vương cũng được Cầm bà bà chỉ điểm thêm về kiếm pháp, hiển nhiên bây giờ đã thoát thai hoán cốt không còn kém cỏi như trước. Còn Thập Kiệt Nhất thì càng cảm tạ

Cầm bà bà hàng ngày giúp gã và A Cửu hòa hợp hơn, khiến tiểu A Cửu bây giờ ngày ngày quấn quýt quanh Thập Kiệt Nhất không rời.

Mọi người đang cười cười nói nói, nhìn thấy Liễu Dật, Cát Lợi Nhi theo Lục Châu đi đến bất giác dừng hết cả lại.

Cầm bà bà nhìn Liễu Dật nói: "Tiên sinh, người theo lão thái bà vào trong. Lão thái bà có một vật này cho người xem".

Liễu Dật gật đầu, theo Cầm bà bà đi về phía đằng sau tấm bình phong... Một tháng qua Liễu Dật không hề đến chỗ này, hiểu nhiên không biết đằng sau tấm bình phong là cái gì. Giờ y thất đây chỉ là một gian phòng bình thường thông đến cầu thang nối hai tòa nhà.

Cầm bà bà liền nói: "Tiên sinh, theo ta lên lầu trên. "

Vừa theo bước Cầm bà bà, Liễu Dật vừa thầm nghĩ không hiểu có vấn đề gì mà thần bí đến thế.

May thay, chẳng bao lâu sau, Cầm bà bà dừng lại trước một căn phòng lầu hai, nhẹ nhàng ngồi xuống trước bàn trang điểm.

Cầm bà bà mở một cái hộp sắt, bên trong đột nhiên hiện ra một khối ngọc hồng lựu. Bà bà cầm viên ngọc đó lên nói: "Vật đời đời tương truyền nhà lão thái bà chỉ có khối đá nhỏ này, ngày đó ta thấy tiên sinh có đeo trước ngực một viên hồng ngọc tương tự, cho nên hôm nay muốn đem ngọc này tặng lại tiên sinh. "

Liễu Dật vội lắc đầu từ chối: "Ngàn lần không được, đây là vật đời đời tương truyền vô cùng trân quý, Liễu Dật không thể thu nhận. "

Cầm bà bà nói tiếp: "Ta đã nhìn xem, ngọc này dường như là một phần của ngọc mà người đeo trước ngực. Lão thái bà nghĩ chúng thực chất đều là của tiên sinh. "

Liễu Dật vội đáp: "Ngọc này cũng là do người khác tặng, tịnh không phải vật của Liễu Dật. "

Cầm bà bà lắc đầu nói: "Đã tặng cho tiên sinh thì cũng là vật của tiên sinh. Phiền tiên sinh vất vả cả tháng nay, mong tiên sinh nhận viên ngọc này cho lão bà bà ta đỡ áy náy."

Liễu Dật thấy sắc mặt nghiêm túc của Cầm bà bà đành nói: "Thôi được, nếu nửa miếng ngọc này quả là một phần của khối ngọc ta mang bên mình, Liễu Dật xin thu nhận. Còn như không phải, Liễu Dật không thể lấy được. "

Cầm bà bà gật gù: "Tốt, vậy tiên sinh hãy đến xem thử. "

Liễu Dật tiếp lấy miếng hồng ngọc từ Cầm bà bà, mặt trên không ngờ lại có khắc hình một cái chân người, bèn tháo miếng ngọc trên cổ xuống nhẹ nhàng ráp hai miếng lại với nhau... Sự tình kỳ quái phát sinh, khi hai khối ngọc lại gần nhau, đột nhiên một đạo hồng quang nhẹ nhàng phát ra, hai miếng ngọc nhập vào làm một, tạo thành một khối hoàn chỉnh.

Đúng là thần khí, không ngờ lại có thể tự dung hợp lẫn nhau, chỉ còn thiếu một khối ngọc nữa thôi là đầy đủ rồi, nhưng mà... đầy đủ hết rồi sẽ ra sao? Nếu chỉ là một vật kỉ niệm, thì vật kỉ niệm này quả thật là rất quý báu.

Cầm bà bà nhìn Liễu Dật cười nói: "Xem ra tiên sinh và khối ngọc này quả là có duyên với nhau, ha ha... nào đi, chúng ta xuống lầu thôi. Ta vẫn còn một cố sự cần nói cho các người nghe, nghe xong thì tiên sinh có thể đi được rồi. "

Liễu Dật cất hồng ngọc vào người, trong lòng không khỏi xao động, có được khối ngọc thứ ba mà tưởng như đang nằm mơ. Một lúc sau bình tĩnh lại, Liễu Dật theo Cầm bà bà quay xuống sảnh ở lầu dưới.

- o O o -

Hồi 60: Bảo tàng chi hành, hà xứ bất tương phùng

(Cất tiếng ca bi tráng, mỉm cười dấn bước cõi u minh)

Người sống trên đời, được làm những việc mình muốn là đủ mãn nguyện rồi!

(Cổ Long - Luận)

Cầm bà bà mời mọi người ngồi xuống quanh bàn rồi hắng giọng nói: “Phải nói rằng, người của tam giới đang tranh nhau kéo tới đây e là chỉ vì bảo tàng mà thôi”.

Đại Đao Vương liền hỏi: “Bảo tàng đó thật sự quan trọng đến thế sao? Đến mức trưởng tộc của tam giới đều phải cử người đi tranh đoạt?”.

Cầm Bà Bà gật đầu đáp: “Đương nhiên rồi, một trăm bảy mươi năm trước, khi ta tiếp nhận Thanh Âm Nhã Các, sư phụ ta đã nói rằng tại Cửu Liên Phong trong Liên Hoa Trấn có cất giấu bí mật trọng đại, đó là một kho tàng của một đại tông phái có thể giúp kiến lập cả một triều đại, tài bảo cất giấu bên trong còn lớn hơn kho vàng của triều đình, bảo vật và bí kíp thì hơn xa bất cứ đại tông phái nào”.

Đại Đao Vương hỏi ngay: “Vậy tại sao bây giờ mới có người vào núi đi tìm bảo vật?”.

Cầm bà bà dừng lại một chút rồi nói: “Trước kia cũng có, nhưng vì không biết đích xác địa điểm, Cửu Liên Phong lại vô cùng rộng lớn, cho nên mọi người đều bó tay, đến tận hôm nay, có người cuối cùng đã tìm được vị trí của bảo tàng, đồng thời lại vẽ lại được sơ đồ bảo tàng nữa”.

Thập Kiệt Nhất cảm thấy kỳ quái hỏi lại: “Hắn đã tìm được vị trí kho báu, tại sao không lặng lẽ lấy đi, mà còn vẽ được bản đồ lại đem cho thiên hạ coi? Rõ ràng là định giở trò gì rồi!”.

A Cửu nhìn Thập Kiệt Nhất kinh ngạc nói: “Ngươi đã trở nên thông minh từ lúc nào vậy?”.

Cầm Bà Bà nhìn hai người cười nói “Không, không phải là giả đâu, đó chính là bản đồ thực, chỉ là vì hang động chứa bảo tàng này rất là thần bí, nếu chỉ dựa vào sức của một mình hắn, có tìm đến già chết cũng không tìm được gì đâu”.

Liễu Dật ngạc nhiên hỏi: “Lẽ nào sơn động này quả thực cổ quái đến thế chăng?”.

Cầm bà bà gật đầu đáp: “Đúng thế, sơn động này nằm ở giữa chín đỉnh núi, trong động có động, động núi này nối sang núi khác, uốn khúc ngoằn ngoèo, bên trong lại chia thành chín động, có thể nói sơn động này là một mê cung vô cùng rộng lớn dưới lòng đất, kể cả khi đã có bản đồ, vào động rồi vẫn phải dựa vào vận may của mình mà thôi”.

Cát Lợi Nhi liền thở dài: “Thì ra là vậy, chẳng phải động này là do người tạo ra hay sao?”

Cầm bà bà gật đầu đáp: “Đúng là do người làm nên, nhưng động này sâu không thấy đáy, nghe đồn là thông đến cả trung tâm trái đất”.

Đại Đao Vương cuối cùng cũng gật đầu hiểu ra: “Hèn gì có nhiều người đến đây giở trò náo nhiệt như vậy, lúc trước nghe nói chỗ nào có bảo đồ đều bị người ta sống chết gì cũng phải xông vào giành giật, nhưng giờ lại rất là hòa hoãn yên bình, thì ra là vì nguyên nhân này”.

Cầm Bà Bà gật đầu nói “Không biết các thiếu hiệp có muốn đi tìm kho báu không, ta thấy các ngươi phúc duyên thâm hậu, nói không chừng lại có thể tìm được bảo tàng thì sao?”

Thập Kiệt Nhất vặn cổ xoay đầu một vòng nói: “Việc này rất nguy hiểm, xông vào rủi mà không tìm được đường ra thì sao chứ”.

Cầm bà bà gật đầu nói: “Bây giờ người Ma môn đang dồn toàn lực tranh đoạt tìm kiếm bảo tàng, các ngươi bây giờ đã an toàn hơn nhiều, dù có gặp phải người của Ma môn, chỉ cần không phải nhân vật cỡ hộ pháp trở lên, thì ta tin rằng với sức của Đại Đao Vương và Thập Kiệt Nhất là đủ để ứng phó rồi”.

Liễu Dật phe phẩy quạt nói: “Ta vốn không màng gì đến bảo tàng, hơn nữa cái động này lại là một mê cung rộng lớn dưới lòng đất, nếu chúng tôi vào được, làm sao thoát ra đây?”

Lục Châu đột nhiên lên tiếng “Huynh đúng là thư sinh, sao lại khờ khạo như vậy, dùng dao khắc dấu là có thể biết đường ra, sao lại sợ vớ vẩn như vậy chứ?”.

Cát Lợi Nhi gật đầu tiếp: “Hay đó, cứ theo như Lục Châu tỷ tỷ nói, chúng ta nên vào trong chơi một chuyến, có nhiều người như vậy, chúng ta lại mang thêm nhiều lương thực, trên đường vừa đi vừa làm ký hiệu thì chẳng phải thế đã đủ yên tâm lắm rồi sao?”.

Liễu Dật gật đầu đồng ý: “Vậy thì làm theo ý muội đi”.

Quay đầu lại nhìn Cầm Bà Bà hỏi “Bà bà không định đi sao?”.

Cầm Bà Bà lắc đầu: “Tổ tiên Thanh Âm Nhã Các có dặn lại, không cho phép tham gia vào những việc như thế này!”.

Liễu Dật gật đầu nói: “Được, có điều chúng tôi không biết sơn động đó cụ thể nằm ở vị trí nào?”.

Liễu Dật đang băn khoăn thì ai nấy đồng loạt rút ra mấy tấm bảo đồ, Liễu Dật kinh ngạc nói: “Nhiều như thế này à, đều là đồ thật cả sao?”.

A Cửu cười nói: “Ngươi thật ngốc, tấm bảo đồ này đã được in thành nhiều bản, bán với giá hai lạng bạc một tấm đó”.

Liễu Dật nhìn mọi người, đột nhiên hiểu ra liền cười lớn: “Haha, hóa ra các ngươi đã bàn với nhau cả rồi, ta đã biết ngay mà!”.

Đó chính là tính cách hiếu kỳ, thích những điều mạo hiểm, luôn tìm kiếm bất ngờ của người trẻ tuổi.

Cuối cùng, bọn Liễu Dật đã chuẩn bị đủ lương khô, vật dụng cần thiết tại Thanh Âm Nhã Các, mỗi người một tay nải, tạm biệt Cầm Bà Bà, rồi mỗi người cầm một tấm bản đồ, tiến về phía cửa động chứa bảo tàng.

Không ai hay biết tương lai sẽ ra sao, cũng không ai có thể thay đổi được nó, mỗi người trong nhóm của Liễu Dật háo hức cùng nhau tiến thẳng tới bảo tàng trong truyền thuyết kia.

Trời dần dần tối, Liễu Dật và mọi người dần dần đến gần hang động chứa bảo tàng, khi đi ngang qua một khu rừng nhỏ, đột nhiên có một bóng đen lóe lên lao thẳng tới Liễu Dật.

Thập Kiệt Nhất ở bên cạnh ứng biến nhanh nhất, vận Thiên cương đẩu quyền, quyền phong bach sắc vù vù công thẳng đến hắc y nhân. Hiển nhiên Thập Kiệt Nhất đã nhanh hơn hắc y nhân một bước, nếu hắn tiếp tục vươn tới tóm lấy Liễu Dật thì chưa kịp tóm lấy đã bị Thiên cương nhất quyền của Thập Kiêt Nhất đánh cho tan xác rồi.

Thật kỳ lạ, khi quyền đầu của Thập Kiệt Nhất vừa đến gần, hắc y nhân bỗng nghiêng mình qua một bên khiến cho quyền của Thập Kiệt Nhất bay sượt qua, xem ra đã tóm được Liễu Dật trong tay...

Đột nhiên một đạo kim quang lóe lên, một luồng kiếm khí vung lên đâm về phía hắc y nhân, nếu hắn không dừng lại, ngay lúc chạm vào Liễu Dật thì sẽ bị chém đứt ra làm hai mảnh.

Càng kỳ lạ hơn, người áo đen bất chợt đứng sựng lại giữa không trung, nhẹ nhàng xoay người tránh luồng kiếm khí, rồi tiếp tục lao về phía Liễu Dật. Đại Đao Vương và Thập Kiệt Nhất cùng xuất chiêu mà chỉ có thể giảm tốc độ lao tới của hắn nhưng không thể ngăn hắn lại được, xem ra hắn đã tóm được Liễu Dật rồi...

Đại Đao Vương và Thập Kiệt Nhất kinh ngạc vô cùng, bởi trên thiên hạ này ngoài nhân vật cỡ trưởng lão và hộ pháp của cửu đại môn phái, ai có thể đỡ nổi đòn phối hợp của hai người? Hắc y nhân này quả thật thần bí.

“Đủ rồi. Lệ thúc thúc, dừng tay”. Một thanh âm lạnh lẽo nhưng đầy quyền lực cất lên, hắc y nhân ngay trong giây phút sắp chụp trúng Liễu Dật bèn lật người bay về phía sau, hạ xuống bên cạnh nơi phát ra tiếng nói.

Trời vẫn chưa hòan tòan tối, Liễu Dật nhìn kỹ người trước mặt, không phải là Thất Nguyệt thì còn ai nữa, có thể lờ mờ thấy Thất Nguyệt mặc một cái áo bó sát người màu vàng nhạt, tay trái đeo cái bao tay bằng da màu tím trông như chiếc tay áo, trong khi cánh tay mảnh dẻ bên phải chỉ đeo một cái vòng tay bằng bạc, eo lưng nhỏ nhắn, mặc một chiếc quần ngắn màu vàng nhạt làm lộ tòan bộ đôi chân đẹp của Thất Nguyệt, đi một đôi giày da nhỏ cùng màu với quần, bên ngoài khoác một chiếc áo choàng màu vàng nhạt, nhưng vẫn không che được sức sống mơn mởn, trên đầu dùng một dải khăn tím cuốn chặt mái tóc đen nhánh.

Xem ra quần áo của Thất Nguyệt lúc nào cũng chỉ một kiểu như vậy, duy chỉ có màu sắc là không giống nhau thôi.

Đại Đao Vương thở phì một tiếng, than: “Liễu lão đại, người con gái này cũng khá đó, lại bị huynh nhìn thấy hết rồi, tại sao không...”.

Chưa dứt lời, chỉ nghe hai tiếng “bốp bốp” vang lên và một bóng đen nhoáng lên rồi bay vút lại đứng sau lưng Thất Nguyệt.

Lúc này, Đại Đao Vương – người vừa bị hai cái tát – mới để ý thấy phía sau lưng Thất Nguyệt có bốn người đang đứng, bốn người này đều khoác áo choàng đen từ đầu đến chân, không nhìn thấy rõ mặt mũi thế nào.

Thất Nguyệt liếc nhìn Liễu Dật bằng nửa con mắt, quay người nói “Chúng ta đi”, bốn người thần bí kia không nói một lời, quay người theo sát Thất Nguyệt đi mất.

Khi bóng năm người đang khuất dần, đột nhiên có một tiếng nói cất lên: “Đó là tứ đại hộ pháp của Ma môn, các ngươi chắc ăn no rửng mỡ, chọc đến bọn họ thì không có tốt lành gì đâu”.

Tiếng nói vừa dứt thì đã thấy Lang Vương xuất hiện trước mắt mọi người.

- o O o –

Hồi 61: Độc trung cơ quan, tối nan biệt ly nhân

(Cơ quan trong động, trên đời khó nhất là biệt ly)

Một nữ nhân nếu đem lòng yêu mến một người, thì dù người đó là kẻ thế nào thì cũng không phải lỗi của nàng ta!

(Cổ Long - Luận)

Đại Đao Vương dường như không nghe rõ ràng, tiếp tục hỏi: “Ngươi vừa mới nói cái gì? Bọn theo đuôi con ả đó lại là tứ đại hộ pháp của Ma môn hay sao?”

Lang Vương phe phẩy quạt nói: “Thế ngươi nghĩ ai có thể ung dung né tránh quyền đầu của Thập Kiệt Nhất và thần kiếm của ngươi chứ”.

Đại Đao Vương gật gật đầu nói: “Con bé đó đúng là lợi hại thật”.

Liễu Dật nhìn vào hai người nói: “Chúng ta gấp rút lên đường nào, trời đã gần tối, chúng ta nhân lúc trời chưa hoàn toàn tối tiến vào hang động, bằng không trời tối rất khó tìm ra đường đi”.

Lang Vương vung quạt vênh vang nói: “Đi theo ta, ta vừa mới từ chỗ ấy đi ra, thì gặp các người, người khác đã vào trong đó mấy canh giờ rồi, chỉ có các ngươi là chậm chạp nhất”.

Liễu Dật vừa đi theo Lang Vương, vừa hỏi: “Ngươi làm sao mà ra được chứ?”

Lang Vương chỉ vào cái mũi của mình: “Cái này, dựa vào cái này, rất linh hoạt”.

A Cửu đột nhiên nói: “Như vậy đi, Lang Vương làm người dẫn đường cho chúng ta, có y làm ký hiệu thì sẽ tốt hơn”.

Thập Kiệt Nhất gật gật đầu đồng ý: “Có lý, cái mũi của anh ta sử dụng cũng khá tốt, chúng ta đi ra không còn khó khăn nữa”.

Qua một hồi A Cửu thuyết phục, Lang Vương cuối cùng cũng đã chịu tham dự tìm kiếm bảo vật cùng với bọn Liễu Dật, một đoàn người nối đuôi nhau mà đi, nhìn kỹ lại, số người cũng không ít.

Đi khoảng hơn nửa canh giờ, cuối cùng, ngừng lại tại khoảnh đất trống bốn bề là núi, Lang Vương chậm rãi nói: “Đông, Nam, Tây... một, hai, ba…”

Đột nhiên Lang Vương chỉ vào một ngọn núi, nói: “Chính là ở dưới ngọn núi này”.

Mọi người nghe vậy bèn đi thẳng đến ngọn núi đó, quả nhiên, tại một góc rừng rậm rạm ven núi đã tìm ra một sơn động, chỉ thấy tại cửa sơn động dựng một tấm bảng lớn, viết bốn chữ đỏ thẫm: “Xông vào phải chết”.

Lang Vương nói: “Mặc kệ nó, bọn ta cứ vào đi”.

Mấy người châm lửa lên, bám sát Lang Vương tiến vào bên trong, sơn động rất rộng lớn, chỉ là toàn một màu đen kịt, cộng thêm một ít hơi ẩm, mọi người đi chầm chầm về phía trước, cảm giác con đường dưới chân dường như hơi dốc xuống, cảm giác mỗi bước chân càng lúc càng tiến sâu xuống, xem ra sơn động này chính là thông xuống đất thật...

Bàn tay nhỏ của Cát Lợi Nhi nắm chặt lấy Liễu Dật, dường như sợ Liễu Dật bay mất.

Không biết đã đi được bao lâu, bỗng nhiên phía trước lộ ra một tia sáng, sơn động lại trở nên rộng rãi sáng sủa, trước mắt mọi người lại xuất hiện ra một tòa đại sảnh, phía trên trần khảm đầy dạ minh châu, chiếu sáng rực rỡ làm cho đại sảnh sáng choang như ban ngày.

Nhưng mà, một vấn đề nữa lại đến, đại sảnh hình tròn, xung quanh tổng cộng có tám mươi mốt cửa động, trước mỗi cửa hoàn toàn chẳng có đề chữ gì, Liễu Dật vội hỏi Lang Vương: “Chúng ta đi lối nào đây?”

Lang Vương chỉ chỉ vào cái mũi của mình nói: “Ta ngửi xem chỗ nào chưa có người đi qua, chúng ta đi vào con đường đó, bên trong có rất nhiều lối rẽ, do đó, mọi người dù sao cũng đừng có phân tán ra, bằng không thì không thể nào ra khỏi đây được đâu”.

Mọi người cùng gật đầu đồng ý.

Lang Vương đi một vòng quanh sảnh, sơ sơ cũng đã được ba khắc, cuối cùng dừng lại tại một cửa động nói: “Nơi này chưa có người đi qua, chúng ta đi vào đây thôi”.

Liễu Dật gật đầu nói: “Được!”

Mọi người người này nắm lấy người kia, chỉ sợ lơ là rồi bị thất lạc.

Bước vào một tiểu sơn động, không hề rộng rãi chút nào, chỉ có thể đi song song một lúc được có hai người, Lang Vương dẫn đầu và Đại Đao Vương đi sau chót, mỗi người cầm một cây đuốc lớn, chiếu rọi xung quanh.

Thập Kiệt Nhất đi bên cạnh nói: “ta cứ cảm thấy chúng ta đang càng ngày càng đi xuống hay sao ấy, đi một lúc lâu như thế này, không biết đã đi vào lòng đất hay chưa? “

Liễu Dật lắc đầu đáp: “Ta cũng không biết, cứ đi tiếp đi”.

Không biết đi được bao lâu, phía trước lại ló ra ánh sáng, đây là một đại sảnh hơi nhỏ hình bầu dục, có tất cả chín cái cũng sẽ không thể nào tìm ra được cái cửa nào mà mình mới bước ra khỏi.

Lang Vương chỉ vào cửa chính giữa: “Cái này chưa có người qua, chúng ta đi vào trong”. Nói xong, dẫn nhóm người tiến vào cửa chính giữa.

Cứ như thế lặp đi lặp lại vài lần, mọi người không còn biết đã đi được bao lâu rồi, cũng không biết đã đi qua bao nhiêu cái đại sảnh, đã chọn biết bao cái cửa, nhưng mà có thể khẳng định, mọi người đều đã mệt mỏi lắm rồi.

Cuối cùng, trong một đại sảnh hình bầu dục, Lang Vương nói: “Nghỉ đi, ăn một ít lương khô, sau đó mọi người ngủ ở đây một lúc, chờ mọi người nghỉ ngơi xong, chúng ta sẽ gấp rút lên đường”.

Đại Đao Vương lập tức ngồi xuống tại chỗ, lấy ra một chiếc bánh lớn, ăn xong nói: “Nên nghỉ ngơi sớm thôi, chúng ta đi cũng đã năm sáu canh giờ rồi, cứ đi vòng vòng thế này mãi mà chẳng đi được đến đâu cả”.

Lang Vương cũng lắc đầu nói: “Ta thật bội phục cái người đã đào nên cái sơn động này, y chắc không phải là kẻ đặt bảo tàng ở đây đâu, đoán chừng cũng là một vị kỳ nhân đây, cái mê cung dưới lòng đất vĩ đại này, chỉ có kẻ kỳ tài mới có thể làm được”.

Mấy người họ ngồi xuống nhấm nháp đồ ăn và trò chuyện, chỉ A Cửu là không chịu ngồi yên, mỗi cái cổng đều đi bộ qua một lần, vừa ăn vừa nghiên cứu những sơn động trước mặt, nhưng mà đi được vài vòng, A Cửu trở nên thất vọng, mấy sơn động cái nào cũng giống hệt nhau, không có gì khác biệt.

A Cửu thở dài đến bên cạnh dựa vào Đại Đao Vương, ngẩng đầu chuẩn bị ngủ, nhưng mà, A Cửu nhìn vào dạ minh châu ở phía trên đột nhiên tự nhiên có cảm giác rất đặc biệt, rất đặc biệt, mấy hạt trân châu thì cũng bình thường thôi, chỗ đặc biệt nằm ở giá đỡ xung quanh!

A Cửu vụt ngồi dậy, nói: “Lang Thúc Thúc, thúc nhìn dạ minh châu trên đầu đi”.

A Cửu nói xong, cả đám ngẩng đầu lên nhìn, chả thấy gì đặc biệt cả...... A Cửu nói tiếp: “Mọi người nhìn bên cạnh hạt minh châu đi, đừng nhìn hạt minh châu, ta cảm giác cái giá đỡ vòng tròn đó dường như có thể chuyển động được”.

Lang Vương quăng ngay cái bánh trong tay xuống, đứng bật dậy nói: “Hình như là vậy”. Nói xong, đạp vào cán quạt bay lên phía trên. Lang Vương tỉ mỉ nhìn vào cái vòng tròn này, chỉ thấy nó được khảm sâu vào trong thành động, chỉ còn một nửa lộ ra bên ngoài, Lang Vương dùng tay thử chuyển động cái vòng tròn, quả nhiên vòng tròn đó chuyển động nhè nhẹ......

Rầm một tiếng, việc kỳ quái liên tiếp xảy ra, chín cái cửa động trong nháy mắt đã sáng lóa lên, đổng thời chuyển động rất nhanh, tiếp đó không biết một cơn gió mạnh ở đâu thổi về phía mọi người, mọi người chưa kịp phản ứng gì thì từ mỗi cửa động đều phát ra một sức hút, dường như muốn hút lấy tất cả những người trong đại sảnh vực sâu không đáy.

Trong chớp mắt, tất cả mọi người đều bị hút vào những hạng động khác nhau, Lang Vương lơ lửng trong không trung lớn tiếng nói: “Không hay rồi, e rằng đây là cái cơ quan của cái tên kỳ nhân chết tiệt đó lưu lại...”. Lời nói chưa dứt thì đã bị hút vào một sơn động.

Trong đại sảnh chỉ còn lại Liễu Dật và Cát Lợi Nhi, Liễu Dật nắm chặt lấy tay Cát Lợi Nhi, hai người lơ lửng ở chính giữa không trung, Cát Lợi Nhi bị hút về phía sau, Liễu Dật cũng bị hút về phía sau, cho nên cuối cùng hai người nắm chặt lấy tay nhau nên đều không bị hút vào, nhưng lại lơ lửng trong không trung như vậy. Liễu Dật nghĩ thầm: “Thì ra ở chính giữa không có lực hút nào, cho nên mình và Cát Lợi Nhi mới như thế này”.

Cát Lợi Nhi nhìn Liễu Dật, bỗng nhiên rơi nước mắt, nói lớn: “Thư sinh, chúng ta có bị mãi mãi chôn vùi tại cái sơn động tối tăm này không? Chúng ta có phải vĩnh viễn không còn được gặp mặt nhau nữa không?” Liễu Dật nhìn vào gương mặt của Cát Lợi Nhi, lớn tiếng nói: “Vì sao vận mệnh lại trêu đùa chúng ta như thế, tại sao không để chúng ta rơi vào chung một sơn động cơ chứ”.

Từng người trong hai người đều bị hút bật về phía sau, hiển nhiên là không thể nào cùng rơi vào một sơn động được.

Cát Lợi Nhi cố hết sức nắm chặt lấy tay Liễu Dật nói: “Thư sinh, muội rất sợ, muội sợ bóng tối, muội sợ vĩnh viễn không thể nhìn thấy huynh nữa”.

Liễu Dật nhìn vào bộ dạng thương tâm đó của Cát Lợi Nhi, trong lòng đột nhiên có cảm giác rất đau đớn... Đột nhiên, Liễu Dật cảm giác bàn tay của Cát Lợi Nhi hơi buông lỏng ra, vội nói: “Cát Lợi Nhi, nắm chặt lấy tay ta, tuyệt đối không được buông tay”.

Cát Lợi Nhi lắc lắc đầu nói: “Muội không thể níu được nữa rồi, thư sinh, còn nhớ lời chúng ta đã nói ở tại Phiêu Tuyết Hoa Hải không? Nếu như huynh còn sống, xin huynh hãy tiếp tục sống thật hạnh phúc, nếu như chàng chết đi, “tình cổ” trong tim cũng khô héo, Cát Lợi Nhi sẽ cùng chàng đi đến suối vàng”.

Mắt Liễu Dật đỏ lên, y muốn nắm chặt lấy Cát Lợi Nhi, níu lấy tình yêu của mình, nhưng mà, y không thể làm được, y cảm giác khí lực của mình đang giảm đi từng chút một, tay của Cát Lợi Nhi cũng từ từ buông lỏng ra.

Liễu Dật nhìn Cát Lợi Nhi, khàn giọng nói: “Muội thật tàn nhẫn, bỏ lại huynh với cuộc sống cô đơn vô tận, đau lòng vô tận, chẳng còn gì là khoái lạc nữa”.

Cát Lợi Nhi nhìn Liễu Dật, từng giọt từng giọt nước mắt từ từ rơi xuống: “Thư sinh, muội sắp không thể nắm được huynh nữa, tuy rằng chúng ta chỉ mới chung sống với nhau một thời gian ngắn, nhưng Cát Lợi Nhi rất hạnh phúc, nếu như có kiếp sau, Cát Lợi Nhi nhất định sẽ lại làm vợ chàng”.

Liễu Dật muốn nắm lấy Cát Lợi Nhi, nhưng mà, y cũng không còn khí lực nữa, tay cứ buông dần buông dần, bỗng nhiên, một luồng hấp lực kéo vụt anh ta về phía sau, và Cát Lợi Nhi cũng cũng mất hút nhanh chóng trước mắt...

Tại sơn động vô đáy này, chỉ còn vang vọng thanh âm gào thét xé lòng: “Lão thiên thối tha, vì sao lại đối xử với ta như vậy, nhất định rồi sẽ có ngày Liễu Dật ta sẽ vung kiếm chém trời”.

- o O o –

Hồi 62: Địa hạ đảo tự, nguyên lai duyến thử thời

(Đảo ngầm dưới đất, chuyện gì cũng có nguyên cớ của nó)

Một người nếu như dụng tình quá mức, xem ra lại như rất vô tình!

(Cổ Long - Luận)

Gió không ngừng rít bên tai, Liễu Dật hôn mê dần đi, ở vực sâu bất tận này y không thể chống cự được, sức hút từ lòng đất cứ kéo y xuống, chỉ thấy cảm thấy mơ mơ hồ hồ rồi dần dần chìm vào giấc ngủ.

Không biết đã rơi đến tận chốn nào, không biết đã bao lâu trôi qua, Liễu Dật gắng gượng mở mắt thì thấy mình đang lơ lửng giữa không trung. Liễu Dật mông lung suy nghĩ tìm lời giải.

Trong mênh mông vô tận, Liễu Dật cuối cùng cũng nhìn thấy hai người đứng đối diện nhau phía trước, lập tức nhận ra y đang chìm trong giấc mộng, một giấc mộng vẫn chưa đến hồi kết.

Niết Nhân khẽ chạm ngón tay phải vào sáu thanh kiếm đang bị giữ chặt, chỉ trong chớp mắt, sáu thanh kiếm đã tan ra thành bột, trong giây phút ấy, sáu vị thần tướng cũng đồng thời tan ra thành bột.

Bàn Cổ nắm chặt chiếc rìu khổng lồ, thét lên: “Thị kiếm sát hồn!”.

Niết Nhân tay trái nắm kiếm, cười phá lên ngông cuồng: “Ha ha, Bàn Cổ, tất cả những điều này đều là bọn tự xưng là thần tiên các ngươi ép ta vào đường cùng, điều ta cần vốn rất đơn giản, các ngươi tham lam ích kỷ nên đã không cho ta thỏa nguyện, nên bọn thần tướng phải trả giá”.

Bàn Cổ giận dữ khôn cùng, lớn tiếng đáp trả: “Ma cũng chỉ là Ma, không đủ tư cách bàn chuyện với Thần, ta sẽ đánh cho ngươi biến thành tro bụi mới thôi”.

Tay trái Niết Nhân vẫn nắm chặt trường kiếm, cười nói: “Người cứ thử xem”.

Bàn Cổ vung mạnh tay chém lưỡi rìu khổng lồ xuống, chỉ nghe ba tiếng “rầm rầm rầm”, dường như cả không gian hắc ám đông đặc lại, ba luồng ánh sáng hình bán nguyệt lan theo mặt đất bắn thẳng vào mặt hắc y Niết Nhân.

Niết Nhân tức khắc chuyển thân, hữu thủ từ từ nắm lấy kiếm ở tay trái, tấm áo choàng tung bay phần phật, toàn thân Niết nhân chợt phát ra một luồng sáng xanh lục, lớn tiếng thét: “'Bi tứ thức' 'Phá nguyệt lạc kiếm'“.

Cùng lúc đó, một luồng bạch sắc vung ra từ bàn tay phải của Niết Nhân chỉ trong chớp mắt vô hình hóa ba nhát trảm của Bàn Cổ, nhưng Niết Nhân vẫn chưa dừng tay mà tiếp tục thét lớn: “Bàn Cổ, đi chết đi. 'Bi tứ thức' 'Vô thức quy kiếm'“.

Chỉ nghe một tiếng “rắc”, trong giây phút kiếm đã tra vào vỏ, kiếm khí nhanh hơn cả ánh sáng bắn thẳng về phía Bàn Cổ, mọi thứ chỉ diễn ra trong vòng một cái chớp mắt, nhưng ngay lúc đó bỗng nghe một tiếng vỡ vụn, kiếm khí va vào vật gì không rõ, kéo liền theo một loạt tiếng vỡ vụn khác, rồi kiếm khí bỗng chốc biến mất chẳng còn tăm tích gì.

Niết Nhân nhận ra ai đã ngăn cản mình, thét lớn: “Nữ Oa, ngươi lại xuất hiện ở đây... Không ngờ ngươi cũng còn đi theo tên Bàn Cổ ngu si này, hắn tự tay giết con gái của các ngươi, không lẽ các ngươi chỉ là gạch đá, các ngươi không thấy đau khổ sao?”.

Chỉ thấy một luồng kim quang lóe lên, một nữ tử mỹ lệ nửa người trên là người, nửa dưới là rắn xuất hiện bên cạnh Bàn Cổ. Nữ tử lặng lẽ lắc đầu, nói: “Không, con gái ta vẫn chưa chết, chẳng qua đang chịu nỗi khổ tam thế tình duyên chốn nhân gian, hy vọng trái tim của nó sẽ tỉnh ngộ ra được”.

Niết Nhân giương nhìn hai người trước mặt, dường như chợt hiểu ra điều gì, bèn hấp tấp hỏi lại Nữ Oa: “Ngươi nói là... Thiên nữ quay về trần thế luân hồi rồi sao?”

Nữ Oa gật đầu đáp: “Đúng vậy”.

Bàn Cổ vội lay Nữ Oa, khẽ nói: “Tại sao lại nói cho hắn biết chuyện này, nếu hắn cũng quay về luân hồi thì chúng ta biết làm gì đây?”

Niết Nhân tự hồ nghe được câu nói của Bàn Cổ, ngửa cổ nhìn trời cười nói: “Bàn Cổ, chết đến nơi mà ngươi không tỉnh ngộ sao, cho dù có Nữ Oa bên cạnh, ta cũng có thể dễ dàng giết chết cả hai người bọn ngươi. Chẳng qua Niết Nhân ta vốn là người tâm tính không hẹp hòi nên không muốn làm vậy mà thôi!”

Nói rồi toàn thân Niết Nhân phát ra luồng hồng quang, từ từ tán phát ra ngòai. Luồng hồng quang mỗi lúc một tỏa rộng, sáng rực lên.

Bàn Cổ hỏi lớn: “Niết Nhân, ngươi định làm gì?”

Niết Nhân ngửa cổ nhìn trời cười lớn: “Chẳng phải ngươi chỉ mong ta chết đó sao? Được, giờ đây ta sẽ đến tam giới luân hồi, ta không thể để muội ấy cô đơn được, tam thế chi khổ, Niết Nhân ta có hóa thành ma cũng sẽ mãi mãi bên cạnh muội ấy, dù cho thế giới có vỡ tan, thiên hà có bị hủy diệt, Niết Nhân ta cũng vô oán vô hối! Sớm muộn sẽ có ngày ta sẽ phá vỡ những luật lệ của bọn thần tiên các ngươi”.

Niết Nhân trong phút chốc chìm trong luồng sáng đỏ rực, từ từ, từ từ rơi xuống.

Liễu Dật hét lớn: “Ngươi đi đâu, đi đâu...”, vừa hét vừa vụt tỉnh dậy, tự hỏi không biết tên Niết Nhân này là ai, sao lại quen thuộc đến vậy, rồi nhìn viên ngọc đang phát sáng ở cổ mình, thầm nhủ: “Một khối cuối cùng, chỉ cần cầm được khối ngọc cuối cùng thì toàn bộ bí mật sẽ được hé lộ”.

Liễu Dật nhìn quanh bốn phía, hóa ra nơi vực sâu không đáy này không ngờ lại có một hồ nước lớn như vậy, không biết là biển hay là hồ, ánh sáng từ phía trên tỏa xuống lờ mờ, không thấy được rõ ràng.

Đây có vẻ là một hòn đảo nhỏ. Phát hiện ra điều đó, Liễu Dật vô cùng kinh ngạc không hiểu sao ở tận nơi thâm sâu bí hiểm này lại có một dạng mật thất và một hòn đảo như vậy, đúng là kỳ lạ khó thể tưởng tượng được.

Liễu Dật ngồi bên bờ hồ, kinh hãi nghĩ thầm: “Vừa nãy nếu bị rơi vào giữa lòng hồ, bị sóng nước nhấn chìm thì ta đã chết chắc rồi”. Y bỗng cảm thấy lạnh, bèn đứng dậy, chợt phát hiện bên cạnh mình có một con vật lạ bò ngoằn ngoèo. Cúi đầu nhìn kỹ mới thấy vật đó màu đỏ rực nhỏ bằng nắm tay, không thấy đầu cũng không thấy đuôi”.

Liễu Dật nhân lúc kỳ vật đỏ rực này đang truy đuổi vật gì phía trước, liền chạy theo nó khoảng một khắc đồng hồ, cuối cùng cũng biết được vật này là thứ gì. Quả nhiên đó là một con điêu xà màu đỏ rực, bề ngang chỉ bằng nắm tay, nhưng thân mình ước chừng dài khoảng trăm mét.

Liễu Dật thấy kinh ngạc, con rắn này vừa đi ngang qua người y, tại sao không tấn công chứ? Một con rắn dài như vậy y quả chưa từng nghe nói tới.

Bỗng Liễu Dật phát hiện thân rắn quẫy động kịch liệt, uốn lượn rồi đột nhiên quất lên cao. Lúc này Liễu Dật mới nghe thấy tiếng người kêu thét lên, y chợt hiểu ra, hồng xà không tấn công y là do nó phát hiện ra con mồi khác rồi.

Liễu Dật chợt nghĩ: “Con rắn này nếu đã nuốt xong kẻ đó, thì chắc sẽ quay lại đối phó với ta? Không ổn, khó khăn lắm mới sống được đến giờ, chẳng lẽ lại để con súc sanh này ăn thịt chứ?” Liễu Dật vội vàng suy nghĩ tìm cách đối phó.

Con rắn này dài quá, chưa từng nhìn thấy trên mặt đất, rõ ràng là một dị chủng. Đúng rồi, Liễu Dật chợt nghĩ ra, con rắn dài như vậy, sao không tìm đuôi của nó, dùng cành cây sắc nhọn găm chặt đuôi xuống đất, sau đó dùng Bích ngọc hoa chỉ bắn cho nó nát như tương. Nghĩ đến đó, Liễu Dật không khỏi tự khen mình tài giỏi nhanh trí.

Liễu Dật xông vào rừng cây ngay cạnh, tìm được vài cành cây vừa nhọn vừa cứng, liền chạy về chỗ cũ thì nghe thấy tiếng một nữ tử đang quần đả cùng hồng xà. “Không biết chừng lại là Cát Lợi Nhi!” Liễu Dật chợt nghĩ. Nghe một hồi thì biết không phải là Cát Lợi Nhi, bèn chạy thật nhanh về phía đuôi rắn theo đúng kế hoạch, cho dù nữ tử này không chống nổi, thì ít ra thân mình cũng ko phải bị chui vào bụng rắn.

Liễu Dật cắm đầu chạy về phía sau theo dấu thân mình của con rắn, nhưng khi nhìn thấy cái đuôi của nó thì Liễu Dật sửng sốt kêu trời, thì ra con rắn không có đuôi, mà lại có thêm một cái đầu, chỉ có điều cái đầu này đang ngủ, ở giữa lưỡi thè ra có một viên đá màu đỏ rực.

Liễu Dật vội hấp tấp lùi lại phía sau, may mà cái đầu súc sinh này vẫn chưa tỉnh giấc. Liễu Dật rối loạn, không biết nên làm gì, nhìn cành cây trên tay mình, có nên đâm xuống không? Nếu bị hai cái đầu rắn tấn công một lúc thì xui xẻo rồi. Dùng “Bích ngọc hoa chỉ” đánh vào đầu rắn ư? Nhưng ra chiêu này mà nó vẫn không chết thì sẽ gặp phiền phức to rồi. Chạy ư? Sau khi nữ tử đó bị nuốt trọn, mình thì có thể chạy đến đâu trên hòn đảo bé xíu này chứ?

Liễu Đạt mãnh vận chân khí, định dùng Bích ngọc hoa chỉ ra liền hai chiêu, thầm nhủ: “Đánh cược liều một chuyến vậy, viên bảo thạch đỏ rực trên đầu rắn có thể là điểm yếu để đánh vào”. Chân khí y mỗi lúc một mạnh dần, nhìn làn nước đen sẫm phía sau lưng, Liễu Dật thầm nghĩ: “Phía sau không có đường lùi, không thắng thì chết, tiến lên!”

Vút vút, hai đạo chỉ khí màu bích ngọc lẫn mùi mai côi bắn thẳng vào hồng xà, chỉ nghe một tiếng vỡ vụn, đầu rắn động đậy, mở choàng mắt, rít lên một tiếng, cái lưỡi lập tức rũ xuống, đầu rắn như đầu thanh roi, quật mạnh bốn phía, có vẻ như con rắn này đã bị một vố chí mạng, đây chẳng qua là dấu hiệu trước lúc chết mà thôi.

Kỳ thực Liễu Dật vốn không biết con rắn này chính là kỳ thú từ thời thượng cổ, gọi là Tuyến Xà, khi trưởng thành dài ba trăm mét, có tới hai đầu, đều có viên bảo thạch màu đỏ rực ở giữa, chính là điểm trí mệnh của nó, bởi vậy cho dù Tuyến xà có tới hai cái đầu nhưng chỉ dùng được một, nếu dùng đầu phía trước thì đầu phía sau phải dừng, nếu dùng đầu phía sau thì đầu phía trước phải dừng. Để tránh cho cái đầu nằm yên bị tấn công đột ngột, Tuyền xà thường phải giấu một cái đầu.

Có thể hôm nay Tuyến xà cho rằng nơi đây không có người, nên mới để lộ cái đầu đằng sau, không ngờ phía sau lại có một người chờ sẵn!

Vậy nên con Tuyến xà này mới thảm tử dưới Bích ngọc hoa chỉ của Liễu Dật.

Liễu Dật lùi lại một bước, ngắm nghía con rắn đang vùng vẫy, bỗng một tiếng nói quen thuộc cất lên: “Là ngươi...”

- o O o –

Hồi 63: Ân oán tình cừu, lưỡng nhân đích y kháo

(Ân oán tình cừu, đành phải dựa giẫm vào nhau mà sống)

Một người nếu yêu thương một người khác, luôn luôn là chuyện thập phần hạnh phúc!

(Cổ Long - Luận)

Liễu Dật lạc giọng: “Mẹ ơi!” rồi hấp tấp nhảy lùi về phía sau. Người trước mặt chính là kẻ muốn giết y, Thất Nguyệt.

Thất Nguyệt nhìn khắp người gã thư sinh ướt như chuột lột này, hỏi: “Ngươi từ trên kia rớt xuống đây à?”

Liễu Dật liền gật đầu: “Đúng vậy, bọn ta sơ ý động vào cơ quan rồi ta bị hút vào chỗ này.”

Thất Nguyệt chăm chăm nhìn Liễu Dật, lại nhìn con rắn nằm dưới đất, nói: “Còn phải cảm tạ ngươi đã cứu ta lúc nãy.”

Liễu Dật lúc này mới biết kẻ con rắn tấn công khi nãy chính là nàng ta.

Liễu Dật nói ngay: “Không cần cảm tạ, đợi sau khi thoát ra được, cô chém ta bớt hai nhát kiếm là may rồi.”

Thất Nguyệt liếc Liễu Dật, lạnh lùng nói: “Ngươi còn muốn thoát đi à, ta từng dùng phi kiếm thử qua, chỉ bay đến được một mức nhất định, sức hút mạnh mẽ bên dưới sẽ kéo ngươi xuống ngay.”

Liễu Dật vội hỏi: “Chả lẽ không có biện pháp gì thoát khỏi chỗ này ư?“

Thất Nguyệt đảo mắt nhìn quanh: “Đây là một hòn đảo bị cô lập, không rõ là trôi nổi trên mặt biển nào, ta nghĩ tạm thời chúng ta không có cách nào rời khỏi đây cả”.

Liễu Dật đột nhiên hỏi: “Còn những người khác? Họ có giống như chúng ta, bị hút đến đây không?“

Thất Nguyệt lắc đầu: “Theo tính toán của ta, trận pháp này biến hóa từ lưỡng nghi, có được có mất, có vào có ra, chúng ta bị hút vào thì ngược lại cũng có người bị đẩy ra.”

Liễu Dật đột nhiên nói: “Nói vậy Cát Lợi Nhi có thể vẫn còn sống, hoặc giả nàng đã thoát khỏi sơn động. Hà hà.”

Thất Nguyệt thấy bộ dạng của Liễu Dật, cười lạnh nói: “Cứ cho nàng ta sống sót thì sao? Còn ngươi? Ngươi không có cách thoát được, đời này kiếp này các người đừng hòng gặp mặt được nhau, so với chết còn thống khổ hơn.”

Liễu Dật nghe qua lời Thất Nguyệt, thình lình ngồi phệt xuống mặt cát, trong lòng dâng lên nỗi bi thương vô hạn. Thất Nguyệt nói không sai, cứ cho là Cát Lợi Nhi sống sót thì sao, nếu y không thể thoát ra, hai người đời này kiếp này vĩnh viễn không thể gặp mặt.

Thất Nguyệt thấy bộ dạng bàng hoàng của Liễu Dật, nói tiếp: “Thư sinh, ngươi đốt một đống lửa đi, rồi hong khô quần áo, chỉ cần còn sống là còn hi vọng thoát ra được, dù rằng hi vọng này hơi mờ mịt”.

Nói rồi chuyển thân đi vào phía trong.

Liễu Dật nhìn Thất Nguyệt rời đi, thầm nhủ: “Đúng, chỉ cần ta còn sống là nhất định còn cơ hội thoát ra, dù rằng rất mong manh nhưng không phải là tuyệt đối không thể, chỉ cần còn một tia hi vọng nhất định không được buông xuôi”.

Liễu Dật đứng lên, hòn đảo này tịnh không lớn, thậm chí còn nhỏ hơn đại điện của Phật môn, nhưng trên hòn đảo không lấy gì làm lớn này lại mọc lên một ngọn núi cao phi thường. Liễu Dật nhìn bốn bề, cuối cùng thấy một sơn động nằm dưới chân núi.

Liễu Dật tìm cỏ khô, lá khô đem vào dọn dẹp lại sơn động xong, thốt lên: “Sau này đây chính là giường của Liễu Dật ta”. Nói rồi lại đi tìm củi khô, mài gỗ lấy lửa.

Bởi vì lương khô và hỏa tập mang theo đều bị ướt nên Liễu Dật đành dùng phương pháp cổ xưa nhất để tạo lửa, chật vật nửa ngày cuối cùng y cũng đốt được lửa lên, dựa mình vào cỏ khô êm ái, ánh lửa ấm áp bập bùng, Liễu Dật cảm thấy thoải mái vô cùng, không rõ bao lâu thời gian, y phục của y đã khô, y lần tìm lương khô, thầm nhủ: “Hỏng rồi, lương khô ướt sạch, làm sao mà ăn nổi chứ?“

Liễu Dật ngẩng đầu nhìn ra ngoài, nhìn con hồng xà trên mặt đất, lại nhìn thanh kiếm đeo trên eo Thất Nguyệt, bước vội lại nói: “Thất Nguyệt cô nương, có thể mượn kiếm của cô dùng một lát chăng?“

Thất Nguyệt chăm chú nhìn Liễu Dật, gật đầu, lấy thanh trường kiếm trên lưng xuống đưa cho y.

Liễu Dật tiếp lấy thanh kiếm, nhắm chuẩn xác vào mình rắn chém xuống, chặt đứt luôn một đoạn thân dài chừng nửa cánh tay, quay đầu lại hỏi: “Thất Nguyệt cô nương, tôi thấy áo quần lương khô của cô cũng bị ướt rồi, cô nên ăn một chút thịt rắn đi.”

Thất Nguyệt đanh mặt lại, lạnh lùng thốt: “Bất tất.”

Liễu Dật tuy nghe Thất Nguyệt nói vậy vẫn cầm thanh tử sắc kiếm chặt hai khúc thịt rắn, vừa cắm vào cành cây vừa nói: “Ở đây chỉ có hai người chúng ta, cô hà tất phải tỏ ra quật cường, bộ muốn chết đói chắc.”

Cầm hai khúc thịt đã được xâu vào cành cây, Liễu Dật dùng trường kiếm lột da rồi đưa trả kiếm cho Thất Nguyệt. Cũng lúc đó, bầu trời âm ám đột nhiên vẳng lên tiếng sấm, sấm vừa dứt thì mưa trút xuống.

Liễu Dật cầm hai khúc thịt vừa chạy vừa nói: “Sao vậy, trong sơn động cũng có mưa nữa!”.

Liễu Dật chạy vào sơn động, thình lình nghĩ đến Thất Nguyệt còn ở ngoài liền quay ra nhìn. Chỉ thấy nàng ta đang trú mưa dưới một gốc cây, hai tay khoanh trước ngực, bộ dạng co ro vì lạnh. Vốn thân mình nàng đã ướt, hiện giờ đứng dưới mưa không lạnh mới là lạ.

Liễu Dật đưa hai khúc thịt nướng trên lửa, xoay xoay cho chín đều rồi gọi lớn: “Thất Nguyệt cô nương, vào trong động đi, ở ngoài lạnh lắm”.

Thất Nguyệt chỉ lườm Liễu Dật, không động đậy, hai tay vẫn ôm lấy ngực, đứng im tại chỗ cũ.

Liễu Dật lắc đầu, cáu tiết nói: “Nha đầu này quật cường quá, không biết sống được mấy hôm mà còn giữ cái tính trẻ con ấy”. Y chạy ra cầm lấy tay Thất Nguyệt kéo vào trong sơn động.

Vừa vào đến sơn động, Thất Nguyệt đã giật mạnh tay ra, tức giận nói: “Ngươi làm gì vậy?“

Liễu Dật nhìn nàng nói: “Thì kêu cô vào sưởi ấm, ăn cái gì đó. Cô cứ đứng ở ngoài đấy, chắc chắn sẽ mắc bệnh đó”.

Thất Nguyệt nhẹ nhàng ngồi xuống đống cỏ khô, bên trong sơn động gió không lọt vào được, toàn thân cảm thấy ấm áp, nhìn bộ dạng nướng thịt của Liễu Dật, hỏi: “Ngươi không sợ ta giết ngươi ư?“

Liễu Dật nhìn sang Thất Nguyệt rồi nhìn xuống miếng thịt, đáp: “Sợ chứ, sao lại không sợ, bất quá ở đây quá cô tịch như sống trong địa ngục, nếu cô không sợ tịch mịch đến chết thì cứ giết ta đi vậy.”

Tịch mịch thật sự là điều đáng sợ, để một người chết trong tịch mịch cũng thống khoái như tự tay giết chết hắn ta vậy, bởi vì cứ ở một mình đếm thời gian trôi qua, thì nhất định sẽ phát điên lên.

Thất Nguyệt đưa tay hơ trên lửa, không nói gì thêm...

Liễu Dật một mặt xoay miếng thịt rắn trên lửa, một mặt hỏi: “Thất Nguyệt cô nương, chuyện đó không có cách giải quyết nào khác ư?“

Thất Nguyệt nghe qua, mắt hạnh mở lớn, giận dữ nhìn Liễu Dật hỏi: “Cách khác? Danh tiết của ta hoàn toàn bị hủy trong tay ngươi, trừ phi giết chết ngươi thì còn cách nào nữa đây?“

Liễu Dật đớ lưỡi, tiếp tục nướng thịt: “Cô nên biết là... tôi, tôi không muốn như vậy, đó là ngoài ý muốn mà thôi...“

Thất Nguyệt lườm lườm nhìn Liễu Dật, nếu như ánh mắt có thể giết người chắc y đã chết từ đời nào rồi. Thất Nguyệt tức giận trả miếng: “Ngoài ý muốn? Nếu ngươi là ta, ngươi sẽ làm gì?“

Liễu Dật đột nhiên hoang mang, lần đầu tiên y nghĩ đến việc này, Thất Nguyệt nói đúng, nếu như mình là nàng thì sẽ phải làm sao? Giết kẻ đó? Gả cho hắn? Làm sao đây để gió yên sóng lặng, không phát sinh chuyện gì.

Liễu Dật không nhịn được thở dài một tiếng.

Thất Nguyệt đột nhiên hòa hoãn nói: “Bỏ qua đi, ngược lại chúng ta đằng nào cũng bị khốn tại nơi chốn chết tiệt dưới đất này, không biết còn sống mấy ngày nữa còn tính đến chuyện đó làm gì.”

Liễu Dật gật đầu rồi lại lắc đầu: “Không, làm sao coi như xong được, tuy rằng chúng ta phải chết, Liễu Dật vĩnh viễn ghi nhớ còn thiếu Thất Nguyệt cô nương một món nợ mãi mãi không thể bồi thường.”

Thất Nguyệt nhìn Liễu Dật lắc đầu nói: “Đã không thể bồi hoàn thì thiếu đến bao giờ? Một đời, hai đời, hoặc là vĩnh viễn thiếu nợ ta sao?“

Liễu Dật không biết nói gì, đành ấp úng: “Liễu Dật sẽ nhớ cả đời”.

Thất Nguyệt nhìn Liễu Dật, tức giận nói: “Ngươi có thể nợ ta cả đời, ân hận cả đời nhưng không thể lấy ta?“

Liễu Dật đột nhiên dừng lại, buông tiếng thở dài: “Thất Nguyệt cô nương, cô có biết chuyện này không? Nếu cô đã yêu một người thì trái tim cô không thể dung nạp thêm một người khác, nếu như tôi cưới cô chẳng qua là xoa dịu cô mà thôi, tôi tịnh không hề yêu cô, cô sẽ không thể có hạnh phúc. Chả lẽ chỉ vì một lời bịa đặt về danh tiết mà chúng ta phải hy sinh hạnh phúc cả đời hay sao?”

Thất Nguyệt nghe qua, dừng lại một hồi rồi nói: “Ta tịnh không biết cái gì là ái tình, bao nhiêu năm nay trong thế giới của ta chỉ có người chết, ta không cầu xin ngươi yêu ta, ta cũng không biết có yêu ngươi không, ta chỉ cần bảo toàn danh dự của ta mà thôi. “

Liễu Dật vừa nướng thịt vừa nói: “Nhưng, Thất Nguyệt cô nương, cô dùng hạnh phúc cả đời để đổi lấy chút danh dự hão, có đáng không?“

Thất Nguyệt lắc đầu: “Ta không rõ, ta chưa từng yêu, ta không biết ái tình, hạnh phúc là cái chi, ta chỉ biết ta là tôn chủ của Ma tộc Ma môn cao cao tại thượng, tuyệt đối không chịu được một thư sinh bình phàm lại sỉ nhục ta như vậy. “

Liễu Dật thực lòng không thể nói gì, đối với nàng là một sự sỉ nhục, nhưng trong mắt hắn, đó chỉ là việc ngoài ý muốn mà thôi.

Liễu Dật hít hà khúc thịt rắn đang nướng, mùi vị thật thơm, ngày còn ở nhà mỗi khi phụ thân đi vắng, y thường lén bỏ ra ngoài ăn thịt rắn, không ngờ đến hôm nay đó lại là thứ duy trì sinh mệnh của hắn.

Liễu Dật gỡ bỏ lớp mỡ rắn, đưa cho Thất Nguyệt: “Thịt rắn hương thơm tươi ngon, phải ăn ngay thôi.”

Thất Nguyệt thấy dáng vẻ chân thành của Liễu Dật, nhận lấy khúc thịt.

Liễu Dật bóc một miếng thịt lớn, nhai nhồm nhoàm rồi nói: “Thất Nguyệt, cô nương, y phục của cô quả thật là đẹp lắm...“

Thất Nguyệt vừa cắn một miếng, nghe vậy ngây ngẩn cả người, trước mắt như hiện lên tình cảnh ngày đó, một tên thư sinh ngốc liều mạng lao thẳng vào nơi nàng tắm, sau đó cứ giương mắt nhìn nàng không chớp mắt…

- o O o -

Hồi 64: Ngộ hiểm trung hiểm, tiếu tử vong chi mỹ

(Trong nguy hiểm lại gặp nguy hiểm, mỉm cười trước tử vong)

Ái tình là thứ khó nắm bắt nhất, có lúc thống khổ, có lúc ngọt ngào, có lúc khiến người ta hạnh phúc, cũng có lúc khiến người ta bi thương.

(Cổ Long - Luận)

"Mùi vị hấp dẫn thật”, Liễu Dật vừa giơ miếng thịt rắn trong tay lên vừa tự ca ngợi tài năng nấu nướng của mình.

Thất Nguyệt thì vừa ăn vừa đáp: “Một kẻ nếu như đói gần chết lại không có lương khô thì ta nghĩ là ăn thịt người sống cũng sẽ rất ngon lành.“

Liễu Dật đang ăn đột nhiên cảm thấy ghê sợ, nhìn sang Thất Nguyệt thầm nhủ: “Ma nữ rốt cuộc vẫn là ma nữ, nói câu nào cũng chói cả tai”. Chủ ý đã định, Liễu Dật không nói thêm gì nữa, một mặt nhâm nhi khúc thịt rắn trong tay, một mặt hân thưởng mưa rơi ngoài động.

Thình lình, Thất Nguyệt lên tiếng hỏi: “Ngươi có thể cho ta biết ái tình là gì không?“

Liễu Dật bị câu hỏi đột ngột của Thất Nguyệt làm cho bối rối, chỉ biết há hốc miệng nhìn nàng.

Thất Nguyệt chằm chằm nhìn Liễu Dật, ánh mắt băng lãnh không lộ ra chút tình cảm gì, hỏi tiếp: “Ngươi không biết sao?“

Liễu Dật lắc đầu: “Sách thánh hiền không có ghi rõ ràng, mỗi người phải tự mình cảm nhận nó mà thôi.”

Thất Nguyệt lấy ra một vuông khăn lau miệng, nói: “Ta ăn xong rồi, ngươi cứ nói ra cách lý giải của mình.“

Liễu Dật tiếp tục cắn một miếng thịt, đáp: “Nói thế nào đây, vì quá mông lung và mơ hồ. Sau khi ái tình phát sinh ta nghĩ là bất cứ lực lượng nào cũng không thể cản trở được, có thể là hạnh phúc, cũng có thể là bi thương đau đớn, khi tình yêu đến, có thể cô không hay biết gì, nhưng khi nó mất đi rồi, cô nhất định sẽ biết rõ”.

Thất Nguyệt lắc đầu: “Thật là lờ mờ quá, vì sao hạnh phúc lại còn có bi thương, không biết khi nào đến, nhưng lại biết ngay khi tình yêu ra đi chứ?“

Liễu Dật lấy tay áo lau miệng, nhìn mưa rơi bên ngoài nói: “Ta không rõ lắm, khi hai người ở cùng một chỗ với nhau thì sẽ vô cùng hạnh phúc, một lời ngắn ngủi của người ấy, thậm chí là một động tác nhẹ nhàng đều làm cho thế giới của cô rực rỡ lên ngay, nhưng khi không gặp được đối phương sẽ là nỗi nhớ thương vô tận, thống khổ đau đớn... Hà hà, kỳ thật ta cũng không biết nhiều lắm đâu”.

Thất Nguyệt lại hỏi tiếp: “Nói xem ngươi và Cát Lợi Nhi làm sao mà nhận ra tình yêu chứ?“

Liễu Dật thấy vẻ háo hức tò mò của Thất Nguyệt, bèn kể: “Chuyện này... đúng là cần cảm tạ bàn tay của vận mệnh. Ta vốn là một thư sinh lười biếng ở Giang Nam, nhân con gái của hoàng đế là Cửu công chúa làm mất bức tranh của ta rồi bị cuốn vào chốn giang hồ...” Liễu Dật đem chuyện giữa y và Cát Lợi Nhi ra giảng giải tường tận, đến lúc nhìn sang Thất Nguyệt thì nàng đã dựa vào tường ngủ từ lâu rồi.

Xem sắc mặt có phần nhợt nhạt của Thất Nguyệt thì nàng ta thật sự đã mệt mỏi lắm rồi.

Liễu Dật chụm lửa lại, rồi nằm xuống, vừa nhắm mắt lại thì nụ cười tươi tắn của Cát Lợi Nhi như lại hiện trước mắt...

Ở dưới lòng đất không có ánh dương quang, thứ chiếu sáng duy nhất là ánh phản xạ không biết từ đâu xuống chốn hôn ám này. Không rõ Liễu Dật đã ngủ bao lâu và cũng biết là mấy giờ, y lặng lẽ mở mắt, ngồi dậy.

Liễu Dật không thấy Thất Nguyệt đâu cả, không biết nha đầu này đã đi đâu nữa, y cũng chẳng để tâm tới, cũng chẳng cần đi tìm, hòn đảo này nhỏ như vậy, có đi cũng đâu đi được bao xa chứ.

Liền đó, một cơn gió thổi bay bay mái tóc Liễu Dật, trận gió mát này hấp dẫn y lập tức vì gió không phải từ ngoài sơn động thổi vào mà từ phía trong thổi ra, như thế là sao? Trong sơn động có thể có mật thất, hoặc giả là đường đi bí mật gì đó. Liễu Dật chậm chạp đứng dậy, dựa vào cảm giác mà lần theo phương hướng trận gió hồi nãy thổi đến.

Liễu Dật cúi xuống nhặt lấy một bó đuốc, lần vào phía trong tìm kiếm. Lần theo làn gió nhè nhẹ thổi, cuối cùng y cũng tìm được một lỗ hổng nhỏ cỡ ngón tay trong góc động. Đưa mắt nhìn vào lỗ hổng, ngoại trừ ánh sáng trắng lóa, y không thấy gì.

Liễu Dật ra sức đẩy mạnh nhưng vách núi này thủy chung vẫn trơ ra, y chạy ra khỏi cửa động, tất tả khắp nơi tìm Thất Nguyệt.

Bầu trời ảm đạm, vài tia sáng lờ mờ soi sáng thân hình một thiếu nữ áo vàng, đeo trường kiếm bên hông, đang nhìn về hải dương vô tận dưới lòng đất, ánh mắt dường như mênh mang nỗi thất vọng và bi thương.

Liễu Dật gọi lớn: “Thất Nguyệt cô nương, cô lại mà xem này, ta phát hiện phía sau sơn động có lỗ hổng, có khi là lối ra, chúng ta có thể thoát rồi.“

Thất Nguyệt nghe thấy, chạy nhanh tới, gấp gáp hỏi: “Ở đâu?“

Liễu Dật liền chỉ về phía trong sơn động rồi nhanh nhẹn dẫn đường.

Thất Nguyệt dùng nắm đấm gõ gõ, đột nhiên lên tiếng: “Bên trong này là khoảng trống, ta nghĩ chắc nếu không là mật thất thì cũng là ám đạo chi đó.“

Liễu Dật tiếp lời: “Hồi nãy ta đã thử qua, vô luận thế nào ta cũng không đẩy được vách đá này, chủ yếu là tu vi của ta không đủ.“

Thất Nguyệt liếc nhìn Liễu Dật, tay lần vào chiếc bao nhỏ màu vàng đeo bên hông lấy ra một chiếc hộp tròn, đại khái to bằng nắm tay, dài chừng hai thốn, mặt trước và mặt sau điêu khắc hình thượng cổ ma thú, trông hết sức khủng bố.

Liễu Dật hỏi: “Đó là thứ gì vậy?“

Thất Nguyệt đặt chiếc hộp tròn xuống dưới chân vách đá, nói: “Chỉ có Ma môn chúng ta mới có được vật này, gọi là Thị Thần Lôi, tuy nó không lớn nhưng uy lực cực kỳ kinh nhân, ngươi nên tin rằng thạch môn như thế này, nó cũng có thể dễ dàng nổ tung ra.“

Thất Nguyệt nói: “Chúng ta lui ra thôi.“

Liễu Dật vội vàng theo chân Thất Nguyệt lui ra, dường như sợ rằng nếu chậm chân sẽ bị Thị Thần Lôi nổ tan xác.

Rời khỏi môn khẩu sơn động khoảng mười trượng, Thất Nguyệt rút thanh tử kiếm, nói: “Hy vọng lần nổ này có thể mở được, nếu không chúng ta thật sự không còn đường thoát rồi.“

Liễu Dật hỏi: “Cô chỉ mang theo một trái nổ sao?“

Thất Nguyệt đáp: “Thị Thần Lôi ta mang theo không ít nhưng muốn khu động sức nổ của nó cần phải ngưng tụ chân khí cường liệt, đủ khí đủ lực thì mới làm được, chân khí của ta có hạn, chỉ cần dẫn nổ một lần là ta đã kiệt sức rồi.“

Liễu Dật im lặng, chỉ biết gật gù...

Thất Nguyệt thuận tay múa một đường kiếm, chỉ thấy những kiếm thức kỳ quái múa may không ngừng, thanh kiếm của nàng từ từ tỏa ra tử quang. Liễu Dật nhìn đến ngây ngẩn, những động tác quá đẹp tựa như đang múa, thêm vào phục trang của Thất Nguyệt, dáng điệu thân hình còn đẹp hơn là đang múa nữa.

Thất Nguyệt đột ngột dừng lại, đứng thẳng lên, hữu thủ giơ ngang thanh trường kiếm, ngón giữa tả thủ chầm chậm vuốt dọc thân kiếm, chỉ thấy tử quang liên tục tụ tập, càng lúc càng dày và sáng rực, tả thủ Thất Nguyệt hơi rung rẩy, trên trán lấm tấm mồ hôi, cách ngưng tụ chân khí như thế này vô cùng khó khăn.

“Soạt”, thanh kiếm trong tay Thất Nguyệt phát ra tử quang bắn thẳng vào Thị Thần Lôi, vừa va chạm vào nhau thì “ầm” một tiếng, mặt đất rung lên bần bật, cả hòn đảo tựa hồ đổ sụp.

Thất Nguyệt đã hao phí quá nhiều chân lực, mặt đất rung lên, nàng không đứng vững nổi, lảo đảo ngả về phía sau... Lập tức một cánh tay vững chắc ôm lấy eo nàng, đỡ nàng dậy, eo Thất Nguyệt để hở, không có gì che chắn nên bàn tay Liễu Dật đồng thời tiếp xúc với vòng eo nhỏ nhắn của nàng, miễn cưỡng giữ cho nàng đứng thẳng giữa cơn rung chấn. Mặt đất vừa ngừng rung, Liễu Dật vội vàng rụt lại như thể bị điện giật.

Sắc mặt Thất Nguyệt có phần nhợt nhạt, nhìn Liễu Dật nói: “Chúng ta cùng tiến vào xem thử có thông đạo không.“

Liễu Dật đi trước dẫn đường, Thất Nguyệt chầm chậm theo sau. Trong sơn động vẫn còn vương khói bụi, Liễu Dật vượt qua đá vỡ lăn lóc trên mặt đất đi vào bên trong.

Liễu Dật dừng lại tại cửa vào, đó là một thông đạo hình vuông, không biết tường tạo thành từ chất liệu gì mà phát ra bạch quang. Thông đạo này lại dẫn xuống dưới lòng đất khiến Liễu Dật sinh lòng hoài nghi, người sáng tạo ra mê cung này dường như muốn đào một lối đi để thoát ra khỏi thế giới này.

Liễu Dật nói: “Không thấy điểm cùng tận, thông đạo này dài lắm đó.“

Liễu Dật bước tới mấy bước, thốt lên: “Hơn nữa, hướng xuống dưới lại dựng đứng. Ta cảm thấy tổng thể có gì đó không ổn, những nơi có bí đạo thường có cơ quan, đúng, phải có cơ quan, rất nhiều cổ thư đều viết như vậy.“

Thất Nguyệt cũng bước tới, hỏi: “Vậy sao?“ Đột nhiên, bàn chân nàng vừa đặt xuống dường như giẫm phải vật gì đó, sơn động sau lưng nàng vang lên tiếng ầm ầm, từ bên trên hạ xuống một thạch môn rồi đóng lại ngay. Thạch môn vừa hạ xuống, tựa như mặt đất trắng tinh đồng thời chuyển động, trở thành mỗi lúc dựng đứng, Liễu Dật kêu lên: “Không ổn rồi”, rồi dán sát mình vào thông đạo để giữ thăng bằng.

Thất Nguyệt rút mạnh thanh tử sắc trường kiếm chém ngập vào thạch bích, vừa lúc đó thì thông đạo đã biến thành một miệng giếng thăm thẳm, nhìn không thấy đáy, nếu như rơi xuống không biết xương cốt có còn nguyên vẹn hay không.

Thất Nguyệt nhìn Liễu Dật ở phía dưới: “Tử thư sinh, cổ thư còn nói gì nữa không? Chúng ta giờ phải xoay sở thế nào?“

Liễu Dật nỗ lực bám vào hai bên, trên trán dầm dề mồ hôi, nói: “Cổ thư không có dạy cách phá cơ quan, ta làm sao biết cách, đành phải kiên trì chống đỡ không để rơi xuống may ra có thể thoát được cảnh thịt nát xương tan mà thôi”.

Thất Nguyệt thấy biểu tình của Liễu Dật, đột nhiên nở nụ cười.

Liễu Dật không nói, ngẩng đầu lên thấy khóe môi Thất Nguyệt khẽ động, thuần khiết ngây thơ, tràn đầy dụ hoặc, hàm răng đều đặn trắng bóng, nàng vừa cười, y đã có phần si dại. Từ khi gặp Thất Nguyệt đến giờ, chưa từng thấy nàng nở nụ cười, không ngờ được vào lúc này nàng có thể cười nổi.

Liễu Dật nhìn Thất Nguyệt nói: “Cô cao hứng quá nhỉ? Chúng ta chắc sẽ nhanh chóng xong đời mà cô còn cười được.“

Sắc mặt Thất Nguyệt vẫn còn nhợt nhạt nhưng không che lấp nổi dung nhan tuyệt thế, nở nụ cười khuynh thành nói: “Bao nhiêu năm nay ta chưa từng thử để mình vui vẻ thoải mái, ta không hiểu vì sao hôm nay trước cái chết lại có thể cười như vậy, ta sớm không còn khí lực, chắc sẽ chết trước ngươi thôi”.

Mồ hôi Liễu Dật tong tong nhỏ xuống, nhìn Thất Nguyệt ở phía trên, nói: “Không đúng, ta ở dưới này nên sẽ chết trước.“

Thất Nguyệt đột nhiên lại cười, xem ra nàng thật sự vui sướng, ở bên bờ tử vong, nụ cười của nàng vô cùng thánh khiết, ai dám bảo nàng là ma nữ đây. Thất Nguyệt nói tiếp: “Thật sự rất hay, chúng ta đều nhanh chóng phải chết vậy mà vẫn thảo luận xem ai chết trước.“

Cũng lúc đó, Liễu Dật trượt tay, rớt phịch xuống dưới, thân ảnh tấn tốc biến mất trong thông đạo, chỉ thấy tiếng nói của y vọng lại: “Thất Nguyệt cô nương, ta còn có lời muốn nói với cô...”, sau đó không nghe thấy gì nữa, chẳc là y đã rơi xuống sâu lắm rồi.

Chỉ chớp nhoáng sau khi Liễu Dật rơi xuống, Thất Nguyệt không cần suy nghĩ, không hề do dự, buông lỏng bàn tay đang nắm chuôi kiếm, nhanh chóng lao thẳng xuống rồi gào lớn: “Như thế này có lãng mạn không?“ Gió ràn rạt thổi vào tai nàng, dường như đây chính là một vực sâu không đáy.

Một hồi sau Thất Nguyệt đã thấy được thân ảnh của Liễu Dật. Nàng y phục gọn ghẽ, do đó rơi xuống rất nhanh, ngay lúc đến sát Liễu Dật, nàng vội nắm chặt lấy tay y, lớn tiếng hỏi: “Trả lời ta đi”.

Gió lớn thổi vù vù, Liễu Dật cố gắng lắm mới nghe được lời nói Thất Nguyệt, y ngước nhìn vách đá phía trên, cười lớn nói: “Nếu như thế này mà lãng mạn thì là lãng mạn tử vong, có thể gọi là lãng mạn tối hậu cũng được”.

Thất Nguyệt khẽ mỉm cười: “Hồi nãy ngươi có chuyện muốn nói với ta mà”.

Liễu Dật nói lớn: “Tôi muốn nói là cô nên cười nhiều vào, cô nên biết là nụ cười của cô rất đẹp, nếu như cô không cười, thế gian này thiếu đi một thứ đẹp biết bao.“

Dần dần, thông đạo trở thành rộng rãi, mỗi lúc một rộng rãi, chúng quanh có mây trắng bay lên sát vào thân hình hai người.

Thất Nguyệt không chịu đựng được nữa, thân thể dần quay cuồng, trong tiềm thức, nàng cảm thấy bản thân thật vui vẻ. Giữa đám mây trắng vô tận liên tục bay lượn, nàng đang bay dần về phía tử vong, nàng không còn lo nghĩ gì đến thế giới hư huyễn này, bên cạnh nàng lại có một người bạn đồng hành, đột nhiên nàng cảm giác được niềm hạnh phúc mông lung.

Liễu Dật bị bạch sắc vân vụ ràng rịt cũng dần mê man, mất đi ý thức. Trong ký ức của y chỉ thấy mỗi nụ cười của Cát Lợi Nhi nhưng càng lúc càng xa xăm, càng lúc càng mờ, thậm chí hơi mơ hồ…

- o O o -

Hồi 65: Na nhất trích lệ, khả tri vị thùy lạc

(Giọt lệ ấy có thể rơi vì ai)

Muốn yêu, cũng cần có dũng khí.

(Cổ Long - Luận)

Vừa mở mắt, Liễu Dật ngồi phắt dậy, không cảm thấy đau đớn gì, y chết rồi chăng? Hoặc đây chỉ là cơn mộng mị? Vì sao y rơi xuống từ một nơi cao như vậy mà đến một nửa vết thương cũng không có?

Liễu Dật quan sát chung quanh, nơi này là một gian phòng đá hình vuông, bốn mặt có khảm bốn viên dạ minh châu ở trên cao chiếu sáng cả căn phòng; trừ bốn viên minh châu đó ra gian phòng hoàn toàn trống không, không có vật gì khác. Y định đứng dậy, đột nhiên phát giác tay y đang bị người khác nắm lấy, chính là Thất Nguyệt đang nằm trên mặt đất.

Sắc mặt nàng nhợt nhạt, không có chút huyết sắc nào, hư nhược đến cực điểm, Liễu Dật mất rất nhiều sức lực cuối cùng cũng gỡ được tay nàng ra nhưng nàng không phản ứng gì, y nhè nhẹ thở dài một hơi, thử đặt tay lên trán nàng, nóng quá, những người tu luyện như nàng làm sao lại sinh bệnh được?

Liễu Dật làm sao biết được từ lúc vào đây Thất Nguyệt chưa được nghỉ ngơi tí nào, lúc rơi xuống hòn đảo dưới mặt đất thì bị con hồng xà quấn lấy, sau đó gặp mưa lạnh ở khu rừng phía ngoài, rồi lại dùng hết chân lực mở lối vào sơn động này, giờ đây những mệt mỏi khiến nàng sốt cao.

Liễu Dật đột nhiên hơi hoảng hốt, bốn mặt gian phòng này không có gì, nhìn chẳng thấy trên đầu có gì, bên trong không có nước hay đồ ăn, Thất Nguyệt giờ lại sốt cao như vậy, y biết làm sao đây?

Lúc này Thất Nguyệt mới từ từ mở mắt, câu đầu tiên là: “Thư sinh? Thư sinh? Ngươi ở đâu?”

Liễu Dật liền bước tới: “Đây, ta ở đây.”

Thất Nguyệt hỏi: “Chúng ta chưa chết, đúng không?”

Liễu Dật đáp: “Tuy rằng không chết nhưng không dễ chịu hơn bao nhiêu, ở đây bốn phía đều là vách đá, không có nước, không có thức ăn, ta nghĩ chúng ta sẽ chết khó coi lắm đây.”

Thất Nguyệt nhìn Liễu Dật, cố gắng ngồi dậy nhưng nàng không còn tí khí lực nào. Liễu Dật bước đến bên, đỡ lấy vai nàng, dìu nàng ngồi dậy.

Thất Nguyệt hỏi tiếp: “Thư sinh, đáp ứng ta một chuyện được chăng?”

Liễu Dật nhìn lại Thất Nguyệt: “Chuyện gì vậy, chúng ta không còn sống được mấy hơi, cô không phải bảo ta cưới cô chứ?”

Thất Nguyệt nhìn y, làn môi khô nẻ tựa hồ nở một nụ cười tự trào: “Không phải, vì chúng ta nhanh chóng xong đời nên ta muốn trong những ngày còn lại này để ta yêu ngươi, được không? Chỉ là một ngày, một ngày thôi, ta thật sự muốn biết cảm giác yêu đương là như thế nào?”

Liễu Dật nhận thấy dáng vẻ chân thành của nàng, không phải là nói đùa, nhất thời không biết phải nói gì mới đúng.

Tiếp đó Thất Nguyệt lại hỏi: “Ở đây không có nước, tối đa chúng ta chỉ sống được ba đến bốn ngày. Ta nghĩ tình hình của ta hiện giờ sợ rằng hai ngày cũng không qua nổi, ta muốn biết yêu một người cần bao nhiêu thời gian?”

Liễu Dật thoáng suy nghĩ rồi đáp: “Yêu một người có khi chỉ cần một khoảnh khắc, cũng có khi phải mất cả đời, hai chữ ái tình vô cùng kỳ diệu, ta thật sự không biết phải nói thế nào.”

Thanh âm Thất Nguyệt càng lúc càng lí nhí: “Ngươi hãy đáp ứng ta, trong thời gian còn lại để ta yêu ngươi, được không? Đây là thỉnh cầu cuối cùng của ta.”

Liễu Dật nhìn Thất Nguyệt, trong lòng đột nhiên thoáng qua nỗi thương cảm, một nữ nhân như vậy trước lúc lâm tử chỉ có nguyện vọng duy nhất là thử qua mùi vị của ái tình. Nhưng ái tình làm sao giản đơn như vậy, đâu phải cứ nói yêu một người là yêu được ngay.

Thất Nguyệt thấy được vẻ lúng túng của Liễu Dật, đột nhiên buồn bã thốt lên: “Ta có yêu cầu gì ngươi đâu, lại càng không mơ tưởng đến việc ngươi yêu ta, ta chỉ cần ngươi mở lòng ra, cần một chút lòng thương của ngươi để ta trước khi lâm tử được thử qua cái gì gọi là ái tình. Cũng không thể được sao? Ngươi tàn nhẫn như vậy ư?”

Liễu Dật liền lắc đầu: “Không phải, ta sợ là...là ngộ nhỡ cô mất cả đời cũng không thấy yêu ta thì cô lại thất vọng.”

Thất Nguyệt lắc đầu: “Chúng ta chưa thử làm sao biết được, ngươi chỉ cần không cự tuyệt ta, ta sẽ thử yêu người xem sao, như vậy có được không? Thời gian của chúng ta không nhiều, ta không muốn vương lại di hận gì cả.”

Liễu Dật thấy bộ dạng hư nhược của Thất Nguyệt, tự nhiên gật đầu. Y vừa gật đầu, Thất Nguyệt liền lảo đảo ngã vào lòng y, thấy nàng yếu ớt như vậy, y thốt lên: “Cô ngất đi như vậy, cũng chẳng cần ái tình để làm gì, còn ta, phải chịu đựng mọi nỗi giày vò cho đến chết mới được yên”.

Liễu Dật đặt Thất Nguyệt nằm xuống, chỉnh cho nàng nằm thật thoải mái, y cũng tự đặt mình xuống. Tuy trong gian phòng sáng rực nhưng y ngủ rất ngon, không rõ qua bao lâu...

Ánh sáng chói mắt đánh thức Liễu Dật dậy, y nghe thấy Thất Nguyệt ở bên đang rên rỉ: “Nước, nước, nước...”. Liễu Dật sờ lên trán Thất Nguyệt, nóng quá, từ lúc rớt xuống đây y cũng chưa được uống nước, miệng đã khô ran nhưng cơn sốt của Thất Nguyệt khá nặng cần phải có nước nhưng nhìn quanh đều không có, biết đi đâu tìm nước đây?

Liễu Dật lấy bầu nước vẫn đem theo bên mình ra lắc lắc nhưng đã cạn khô từ lâu, bầu nước của Thất Nguyệt vướng lại ở bên trên không mang theo xuống, nếu mang thì thật quá tốt, Thất Nguyệt nóng như vậy chắc không sống được bao lâu nữa, y biết đi đâu tìm nước? Trong lúc y đang nóng lòng thì nhìn thấy ở lưng Thất Nguyệt có đeo một lưỡi tiểu chủy thủ.

Liễu Dật nhìn cây chủy thủ rồi lại nhìn bầu nước trong tay, đột nhiên kêu lên: “Có rồi.”

Cứ thế, không biết trôi qua bao lâu, cơn sốt của Thất Nguyệt bất ngờ hạ nhiệt, sắc mặt nàng có chuyển biến, trông khá lên nhiều. Liễu Dật cố gắng lê thân thể hư nhược dựa vào bức tường ngồi xuống.

Thất Nguyệt mở mắt ra, nhẹ nhàng ngồi dậy, hỏi: “Thư sinh, ta cảm thấy khá hơn nhiều, chúng ta ở đây chắc đã lâu rồi.”

Liễu Dật lắc đầu, cười đáp: “Ở đây làm gì có khái niệm thời gian, ta nghĩ chúng ta ở đây chắc cũng hai ngày rồi, không thể ít hơn được.”

Lúc đó Thất Nguyệt khúc khắc ho mấy tiếng, Liễu Dật hỏi: “Sao vậy, cô vẫn còn khó chịu à?”

Thất Nguyệt lắc đầu: “Không, chỉ hơi khát, ta nghĩ chúng ta không kiên trì nổi đâu, ở đây không có nước, chúng ta sẽ chết khát.”

Liễu Dật cười: “Sao lại không có nước, chiếc bầu bên cạnh cô có nước đó thôi, nếu không có nước, sợ là cơn sốt của cô không hết được, sớm đã bị nóng đến chết rồi.”

Thất Nguyệt thấy nụ cười nhẹ của Liễu Dật, cảm thấy không thoải mái lắm, cầm lấy bầu nước bên mình hỏi: “Ngươi không khát sao?”

Liễu Dật nhìn bầu nước, nuốt nước bọt, lắc đầu đáp: “Tôi không khát, cô uống đi.”

Thất Nguyệt cầm bầu nước lên, mở nắp, nhẹ nhàng dốc xuống, uống liền... Vừa ngọt ngào, hơi đằng đặc lại thoang thoảng vị tanh, Thất Nguyệt đặt ngay bầu nước xuống, nhìn vào bên trong, chỉ thấy bên mép bầu bật lên màu đỏ tươi, màu sắc này, mùi vị này nàng rất quen thuộc, đó không phải là nước, là máu, máu người.

Thất Nguyệt vụt nhìn sang Liễu Dật, chỉ thấy lúc đó y vì mất máu quá nhiều đã hôn mê, sắc mặt trắng nhợt, môi khô ran. Nhìn y đang hôn mê, Thất Nguyệt thừ ra, những ấn tượng bắt đầu từ giây phút gặp y đến giờ từng việc từng việc một hiện rõ ràng trí óc của nàng, từ khóe mắt của nàng, một giọt nước mắt từ từ rơi xuống, nàng không thể tin nổi trên đời này lại có loại người như vậy: “Thư sinh ngốc, sao ngươi lại phải làm vậy? Sao lại khờ đến thế!”

Đó là giọt nước mắt cảm động, đó là giọt nước mắt vương vấn, cũng là giọt nước mắt hạnh phúc, giọt nước mắt đau đớn. Thoáng chốc, giọt nước mắt ấy khiến nàng đem lòng yêu thương một người nàng không nên yêu, một người mãi hư vô xa xăm không thể trở thành hiện thực, lại là tình lang của một nữ nhân khác, bị chú định cả đời phải trải qua thống khổ của ái tình; nhưng lúc này nàng không bận tâm đến những chuyện đó…

- o O o -

Hồi 66: Vũ nguyệt thần kiếm , loạn kiếm thập tam thức

Con người ta thường hay nhớ đến những việc không nên nhớ vào những thời điểm không thích hợp, đây vốn là nỗi thống khổ nhất của nhân loại

(Cổ Long - Ngữ)

Thất Nguyệt nhẹ nhàng đặt Liễu Dật nằm xuống cho thật thoải mái, rồi nhìn lưỡi chủy thủ y vẫn nắm chắc trong tay cùng vết thương đáng sợ trên cổ tay y, bỗng cảm thấy trong lòng dâng lên một nỗi đau quặn thắt, nhưng cũng rất đỗi ngọt ngào.

Nàng cũng nhẹ nhàng nằm xuống bên cạnh, cứ như thế, không ai quấy nhiễu, hai người lẵng lặng chìm vào giấc ngủ, có thể họ sẽ vĩnh viễn không tỉnh lại, nhưng cũng có thể…

Liễu Dật hốt hoảng mở choàng mắt. Thất Nguyệt bị cử động của y đánh thức, ngồi phắt dậy, hỏi: “Sao rồi, ngươi không sao chứ?”

Liễu Dật mỉm cười nhìn Thất Nguyệt đáp: “Không sao, cô xem thường ta quá, ta hơi khó chịu một chút nhưng đã ngủ được một giấc ngon nên không sao. Chỉ hiềm nỗi bốn viên dạ minh châu này chói mắt quá khiến ta ngủ không được sâu.”

Thất Nguyệt đứng dậy, bước tới chỗ bốn viên châu, vì nàng khá cao lớn, chỉ cần giơ tay ra đã có thể dễ dàng lấy được bốn viên dạ minh châu ấy, nàng bèn lần lượt gỡ tất cả xuống.

Vừa gỡ xong viên thứ tư, gian phòng tối hẳn lại, đồng thời nghe “ầm” một tiếng, mặt đất chấn động, cả gian phòng rung lên.

Liễu Dật nói nhanh: “Chắc chúng ta không thể nào rơi xuống nữa được, ta nghĩ chỗ chúng ta đây còn sâu hơn mười tám tầng địa ngục nữa.”

Thất Nguyệt cầm bốn viên ngọc ngắm nghía, chật vật lắm mới đến được bên Liễu Dật, ngồi xuống đáp: “Hay lắm, cứ để chúng ta rơi xuống tiếp, xem nơi sâu hơn mười tám tầng địa ngục là chỗ nào?”

Tuy nhiên, sự tưởng tượng thường không sát thực tế, lần này cũng không ngoại lệ, mặt đất tuy chấn động nhưng không nứt toác ra, Liễu Dật cùng Thất Nguyệt cũng không rơi xuống dưới.

Thất Nguyệt nói: “Vừa rồi chắc ta đã chạm phải cơ quan ở chỗ nào đó, nhưng mà tại nơi chúng ta đây lại không có biến hóa gì.”

Lúc này, ánh sáng trong phòng do bốn viên dạ minh châu Thất Nguyệt bỏ trên mặt đất phát ra, vì sấp bóng hai người nên chỉ chiếu sáng được một khoảnh nhỏ chung quanh.

Liễu Dật yếu ớt đáp lời: “Ta không biết, cổ thư chưa hề nói qua, bất quá có một câu ta đã từng nghe.”

Thất Nguyệt hỏi ngay: “Câu gì?”. Bất giác, nàng bỗng lại rất muốn ỷ lại vào thư sinh này.

Liễu Dật miễn cưỡng cười đáp: “Gặp đại nạn mà không chết, tất về sau sẽ được hưởng phúc! Giờ cô cầm minh châu đi khắp nơi tìm kiếm thử xem, nói không chừng lúc trước cô đã chạm đúng vào trận pháp nào đó làm lộ ra bí đạo cũng nên.”

Thất Nguyệt đứng dậy cầm ngay một viên dạ minh châu, giơ lên quá đầu…

Muôn vàn đạo bạch quang chiếu ra mọi phía, Thất Nguyệt trông phảng phất như một tiên nữ hạ phàm, dưới vầng quang hoa càng thêm chói lọi.

Đột nhiên Thất Nguyệt ngây người ra, bật thốt: “Không phải thật đâu...”

Liễu Dật hỏi luôn: “Sao thế?”

Thất Nguyệt liền chỉ vào một góc nói: “Ngươi xem kìa…”

Liễu Dật lúc này đã yếu lắm, miễn cưỡng quay đầu nhìn lại liền ngớ ra, quả đúng như lời y vừa nói lúc nãy, ở phía đó thật sự có một khung cửa rộng chừng hai trượng, cao lối một trượng, bên trong tối om.

Liễu Dật cầm lấy một viên dạ minh châu rồi gắng gượng đứng dậy, nói: “Chúng ta vào đó xem sao!”

Thất Nguyệt gật đầu: “Ngươi có đi nổi không?”

Liễu Dật biết là Thất Nguyệt muốn nói đến tình trạng hư nhược của y, liền cười đáp: “Không sao đâu. Đi thôi.”

Hai người từ từ bước vào trong gian phòng tối đó, để nhìn được xa hơn, cả hai đều đưa dạ minh châu lên cao quá đầu nhưng vẫn không nhìn thấy gì ở bên trong…

Thình lình Thất Nguyệt nói: “Ngươi nhìn kìa, ở đây có đuốc.”

Liễu Dật đáp: “Chúng ta không có đá đánh lửa, làm sao châm được.”

Thất Nguyệt nở nụ cười thần bí: “Không sao, ta làm được.” Nói đoạn nàng giơ lên phất mạnh, một mũi tên nhỏ màu vàng mang theo ánh lửa bắn thẳng vào bó đuốc, “phụt” một tiếng bó đuốc đột ngột bừng cháy. Bó đuốc vừa sáng lên thì từ bên cạnh âm thanh “phụt phụt” liên tục vang lên, tứ phía toàn là đuốc, bó đầu tiên vừa cháy không hiểu tại sao tất cả đều cháy rạng, chỉ trong một chốc cả gian phòng bừng sáng.

Liễu Dật liền hỏi: “Thứ vừa rồi cô dùng là ám khí gì mà lợi hại vậy, có thể chứa cả lửa nữa.”

Thất Nguyệt đáp: “Là tụ tiễn, thân tiễn do ta chế luyện theo một cách riêng, bên trong gia cố thêm cơ quan, chỉ cần dùng chân khí thôi động là cơ quan sẽ vận hành, thân tiễn tự bốc cháy rồi bắn ra, ta gọi nó là Lưu Hỏa.”

Liễu Dật gật gù, bắt đầu quan sát gian phòng. Gian phòng này rõ ràng lớn hơn gian phòng ngoài khoảng năm sáu lần, phía trước có một bức tượng bằng đá dường như điêu khắc một vị chân nhân, nét khắc sống động như thật, nếu như không vì ngọn đuốc đủ sáng thì y không chừng đã coi bức tượng đá là người thật.

Bên dưới bức tượng có một chiếc bàn đá, mặt bàn trống trơn nhưng bên cạnh chiếc bàn có một thạch đầu to lớn cao chừng nửa thân người, phía trên khối đá cắm ngập một thanh kiếm.

Phóng mắt nhìn khắp tứ phía, bốn góc tường có bày sẵn mấy vò rượu, bên trên vò còn thấy cả lương khô được lưu trữ từ lâu cùng thịt muối.

Cũng lúc đó, Thất Nguyệt buột miệng kêu lên: “Vũ Nguyệt Kiếm.”

Liễu Dật tiện thể liếc sang, chỉ là một thanh kiếm mỏng mảnh không có gì đặc biệt, so với những thanh kiếm bình thường thì có đẹp hơn, trên kiếm khảm hai viên hồng sắc bảo thạch nhìn khá trân quý, nhưng y không cảm thấy thanh kiếm này có gì hay ho.

Thất Nguyệt lại không như vậy. Biết bao tân khổ mới đến được đây cũng vì thanh kiếm này, tuy rằng bảo tàng còn chưa thấy nhưng thanh kiếm này cũng có giá trị không kém gì bảo tàng. Vũ Nguyệt Kiếm đứng vị trí thứ tám trong các thanh thần kiếm đương nhiên có chỗ kỳ diệu của nó, không chỉ giống những thanh thông linh bảo kiếm ở chỗ có thể đề cao tu vi của nàng lên mức cực điểm mà còn có linh khí, thậm chí hình thành được kiếm hồn, đối với việc tu luyện nhân kiếm hợp nhất, thiên nhân chi cảnh sẽ có sự bang trợ không biết đâu mà lường. Nhưng thần kiếm là thứ chỉ có thể may gặp chứ không thể cầu mà được, hiện tại Thất Nguyệt gặp được thần kiếm, không kích động sao được?

Liễu Dật lại không có tí hứng thú nào đối với thanh kiếm, y hư nhược lắm rồi, cần phải ăn, phải uống, sớm đã không chịu đựng nổi, bèn không quản đến Thất Nguyệt, tự đi đến bên chân tường, lấy ra một tảng thịt muối, mở một vò rượu, ăn ngay một miếng, uống một ngụm. Thịt muối thì không còn mùi vị gì, nhưng rượu thì mùi hương tinh thuần đến mức không thể tinh thuần hơn nữa, chắc phải lưu trữ qua hàng trăm năm, xem ra chưa có ai đặt chân đến đây.

Thất Nguyệt liếc nhìn Liễu Dật rồi tự đi đến trước thanh kiếm, chỉ thấy Vũ Nguyệt Kiếm găm sâu vào trong đá, dưới ánh sáng của bó đuốc chuôi kiếm màu bạc sẫm phản chiếu ánh sáng đẹp mê người, trên kiếm khảm hai viên bảo thạch màu hồng, sau khi Thất Nguyệt đến gần liền lúc mờ lúc tỏ như thể cũng có sinh mệnh. Nên biết rằng, một cây thông linh bảo kiếm có sức dụ hoặc rất lớn đối với người tu kiếm, khi đã thông linh qua bách niên, hấp thụ linh khí từ chín tầng trời hình thành kiếm hồn, có thể giúp cho người tu kiếm qua được thiên nhân chi cảnh, đạt đến mức tối cao của kiếm: phiêu diêu chi cảnh. Có biết bao người vì muốn đạt được mức đại thành của kiếm đạo, khổ tâm tìm đoạt thần kiếm để đến mức thân bại danh liệt, thê tử ly tán. Nhưng cũng phải thấy rằng trong tam giới có được mấy thanh thần kiếm đây?

Thất Nguyệt nhè nhẹ nắm lấy chuôi kiếm màu bạc sẫm, cảm giác một cỗ kình lực hết sức mãnh liệt truyền tới, một tiếng “bịch” vang lên trầm buồn, nàng bị lực từ thân kiếm đẩy lùi liền mấy bước. Nhưng mấy bước lui này không làm nàng bỏ cuộc, lại càng khiến nàng si mê thanh kiếm hơn. Thanh kiếm này có thể kháng cự lại nàng, hiển nhiên chứng tỏ kiếm không chỉ thông linh mà còn có nhiều khả năng đã đạt đến kiếm hồn chi cảnh, nếu như xuất hiện đúng lúc không chừng nó được xếp ở vị trí thứ nhất.

Liễu Dật liếc nhìn Thất Nguyệt, rồi không để ý đến nàng nữa, tiếp tục ăn thịt uống rượu, rượu từ miệng chảy xuống dạ dày thật là ấm áp, y có phần hơi say. Đột nhiên, y lạ lùng nhìn qua bức tường đối diện, trên tường có bóng người, y lúc lắc đầu, xác thực trên tường có bóng người đang động đậy, trong tay người đó cầm kiếm – là đang luyện kiếm.

Liễu Dật liền gào lên: “Thất Nguyệt cô nương, cô xem này, trên tường có người.”

Thất Nguyệt nhìn sang bức tường Liễu Dật chỉ, hơi bực bội, nói: “Ngươi uống nhiều quá rồi, trên tường làm gì có ai.”

Liễu Dật lắc lắc đầu, lại nhìn lên bức tường lần nữa, vẫn thấy có bóng người đang chuyển động, y tự nói với mình: “Có khi mình thực sự uống nhiều quá rồi.”

Thất Nguyệt nhìn Liễu Dật, rồi không lý gì đến y nữa, chuẩn bị tiếp tục rút kiếm.

Liễu Dật vừa ăn vừa uống, hết sức vô tư, lại nhìn bóng người trên tường luyện kiếm, một chiêu lại một thức, tổng cộng có mười ba thức, mỗi nhát kiếm đều từ những chỗ không ngờ đến công kích ra.

Liễu Dật uống sạch một vò rượu, rồi vì khát quá y lại mở tiếp vò nữa để uống, vừa hạ vò xuống thì bóng người trên tường không thấy tăm hơi đâu, thay vào đó là một hàng chữ. "Loạn thập tam thức" do lão phu sáng tạo ra hồi trăm năm trước, hôm nay truyền lại cho người hữu duyên , hy vọng có thể tạo phúc thương sinh, thay lão phu trảm yêu trừ ma.

Liễu Dật lại lắc đầu, chắc vì mình đã uống hơi quá đà, nhưng hàng chữ trên tường bỗng tự mất đi, một hàng chữ khác đã thay vào. "Loạn thập tam thức", kiếm thức lăng loạn vô chương, có thể gọi là Vô Vi kiếm thức, bao hàm mười ba loạn thức, lấy chân khí, thần kiếm làm chủ khu động mười ba loạn kiếm có thể khiến địch nhân loạn tâm, loạn ý, loạn mạch, loạn kiếm, loạn bộ, loạn khí, loạn thần, loạn mục… cộng lại là mười ba chiêu loạn địch.

Liễu Dật vừa ăn uống, vừa tự nhủ: “Thế này cay độc thật, loạn như vậy rồi thì đối phương có gì cũng không đem ra sử dụng được, chẳng phải chỉ còn đợi người đến cắt xẻo ư?”

Nhìn lên trên tường, hàng chữ đã lại mất đi, một hàng khác xuất hiện: “Loạn thập tam thức” tịnh không phải không thể phá được, nếu như chân khí đối phương cao hơn người quá nhiều, chân nguyên cường đại có thể cách ly được loạn kiếm đạt đến cảnh giới không gì quấy nhiễu được. Đương nhiên tùy thuộc vào tu vi của ngươi mà loạn kiếm ý càng phát huy.

Liễu Dật nhấp một ngụm rượu, nói thầm: “Nguyên lai thế gian còn có loại kiếm pháp kì diệu như vậy, chỉ cần đối phương không có tu vi cao hơn mình quá nhiều, dùng loại kiếm pháp này không phải sẽ vô địch sao?”

Trên tường lại xuất hiện bóng người nọ nhưng Liễu Dật không buồn nhìn đến, bản lĩnh nhìn qua là không quên của y đã ghi nhớ toàn bộ vào óc, đem loại kiếm pháp này phối hợp với thần kiếm chắc sẽ khó khăn nhiều, để sau khi có được bảo kiếm sẽ luyện… Hơn nữa, y giờ đang ở nơi sâu hơn cả mười tám tầng địa ngục, cho là có mọc cánh đi nữa, muốn bay thoát chắc cũng mệt chết.

Do uống nhiều rượu, Liễu Dật cuối cùng đã ngủ say sưa…

Còn về Thất Nguyệt, sau khi đối mặt với những lần kháng cự liên tục của Vũ Nguyệt Kiếm, tính khí quật cường lại nổi lên, quyết phải lấy bằng được thanh kiếm không thể rút ra này.

- o O o -

Hồi 67: Linh kiếm trạch chủ, phảng tự nhân vô tình

(Linh kiếm chọn chủ, dường như người vô tình)

Vận mệnh là gì? Vận mệnh chẳng phải chính là những sự kiện vốn nằm trong một chuỗi mà ta không nhìn ra được ư?!

(Cổ Long - Ngữ)

Nơi đây không hề tối tăm. Thay cho ánh dương quang, đã có ánh sáng bập bùng của những ngọn đuốc. Liễu Dật lúc lắc đầu, vẫn còn cảm thấy choáng váng, hy vọng tự mình có thể tỉnh hẳn lại...

Nhưng y vừa động đậy, những hình ảnh về Loạn Thập Tam Thức khắc trên vách chừng như đã in sâu vào não bộ lại lập tức hiện ra. Liễu Dật nói thầm: "Không phải chứ? Lẽ nào cái thứ quái quỷ ấy đã chạy vào đầu ta rồi ư?"

Chừng như sau khi ăn xong, nghỉ ngơi một lúc, tinh thần Liễu Dật đã khá hơn, bèn đứng dậy, quay nhìn lại, thấy Thất Nguyệt vẫn đang gắng sức rút thanh Vũ Nguyệt kiếm ra. Thế nhưng, mỗi khi bàn tay nàng chạm vào chuôi kiếm bạc đã xỉn màu, liền có phản chấn từ thanh kiếm kháng cự lại.

Liễu Dật thấy Thất Nguyệt quật cường như vậy, bèn bước lại chỗ nàng, nói: "Thanh kiếm này đối với nàng quan trọng vậy sao? Trong lòng nàng lẽ nào chỉ có mỗi thanh kiếm này ư?"

Vài giọt mồ hôi lấm tấm trên khuôn mặt Thất Nguyệt, hổ khẩu cũng bị sức phản chấn của Vũ Nguyệt kiếm làm tóe máu. Nhìn Liễu Dật và nghe y nói xong, sắc mặt Thất Nguyệt hốt nhiên thay đổi, nàng nói: "Trong lòng ta chẳng có gì khác thì đã sao? Người ta yêu lại yêu một người khác, đối với hắn ta chẳng là gì cả, vậy thì còn mong cầu điều gì nữa chứ?"

Liễu Dật nghe Thất Nguyệt nói vậy, lắc đầu nói: "Riêng về ái tình, ta không đủ tư cách luận bàn, vì chính ta cũng đang trong mê đạo, nhưng thanh kiếm này là thân ngoại chi vật, nếu đã không có duyên phận, sao cô nương lại quá cưỡng cầu?"

Thất Nguyệt nghe Liễu Dật khuyên, ngẫm nghĩ một chút, sắc mặt bỗng thay đổi phức tạp, gắt lên: "Ta đã muốn điều gì, nhất định phải đạt cho bằng được, dù có phải cưỡng bách, ta cũng sẽ làm".

Liễu Dật thấy Thất Nguyệt quật cường như thế, cũng nổi hào khí, bèn bước lại gần vươn tay ra nắm lấy thanh kiếm, nói: "Được, cô nương muốn có thanh kiếm này chứ gì? Dù sao chúng ta cũng không thể thoát khỏi chỗ này, thôi để ta giúp cô nương, chơi đùa với thanh kiếm này cho đến chết." Nói xong, dụng lực kéo lên ...

Trên đời thật sự có nhiều chuyện thật khó đoán trước, chuyện mình nghĩ đến lại không xảy ra, điều không ai nghĩ đến lại xảy ra tức thời.

"Keng", cùng với tiếng ngân trong trẻo của Vũ Nguyệt kiếm, một lớp bụi mỏng bay lên, đuôi kiếm bạc vốn xỉn mờ vụt sáng lên rực rỡ trong ánh đuốc. Đúng lúc thân kiếm rời khỏi tảng đá, hai viên bảo thạch đột nhiên phát ra hai luồng quang hoa màu phấn hồng, quấn quýt quanh thân kiếm, khiến phút chốc cả gian thạch thất bỗng ngập hồng trong sắc kiếm quang thập phần diễm lệ.

Liễu Dật còn đang ngẩn người kinh ngạc, Thất Nguyệt lại càng thêm sửng sốt. Từ trong lòng bàn tay của bức tượng đá bắn ra một vật gì đó, rồi một tiếng "cách" vang lên thật êm tai như tiếng reo mừng khi được hợp nhất cùng thanh kiếm.

Thì ra là một vỏ kiếm màu xám sẫm, bề dày cỡ bằng ngón tay cái, làm thành hình ống, đáy vỏ kiếm được bọc trong một loại chất liệu màu bạc xỉn trông thật hài hòa với cán kiếm.

Liễu Dật lắc đầu nói: "Không được rồi, Kiếm đại ca, xin đừng đùa với tiểu sinh chứ, cả đời ta chưa cầm qua kiếm, ngươi đừng trông đợi ở ta". Nói xong, Liễu Dật ném mạnh thanh kiếm xuống đất, rồi lùi lại hai bước.

Thất Nguyệt nhìn Liễu Dật với ánh mắt đầy vẻ hiếu kỳ, như vừa kinh ngạc, lại vừa không tin, khi Liễu Dật ném thanh kiếm xuống đất, nàng nhẹ nhàng ngồi xuống, định nhặt lấy thanh kiếm, nàng thực sự thích thanh Vũ Nguyệt kiếm này, vài giây trước đó ánh hồng quang chói lọi thực sự rất quyến rũ, vì thế, nàng không thể tự kiềm chế ngồi xuống, nhưng, ngay khi nàng chạm vào chuôi kiếm, liền bị sức phản chấn mãnh liệt của thanh kiếm đẩy bắn ra.

Thất Nguyệt nhìn thanh Vũ Nguyệt kiếm nằm dưới đất, trong mắt ngập đầy nỗi thất vọng, bất lực, thấy rõ thanh kiếm này thực không nguyện ý nhận nàng làm chủ.

Thất Nguyệt không thể kiên trì hơn, lùi lại vài bước, thở dài một tiếng, với tay lấy vò rượu dốc một ngụm lớn, nói với Liễu Dật: "Thư sinh, có lẽ ngươi nói đúng, đã không duyên phận có cưỡng cầu cũng vô ích."

Liễu Dật đến đối diện với Thất Nguyệt, cũng vớ lấy vò rượu ngồi xuống uống và nói: "Kỳ thực vừa rồi ta rất lo lắng, chỉ muốn khuyên cô một câu, giờ thử nói nhé, cô xem thanh Vũ Nguyệt kiếm này có chỗ nào so sánh được với thanh Liệt Hỏa kiếm của Đại Đao Vương chứ. Ta nói cho cô biết nhé, cầm Liệt Hỏa kiếm có thể bay lượn trên bầu trời, còn thanh Vũ Nguyệt kiếm này, nhìn mà xem, tầm thường quá, thật không đáng ..."

Liễu Dật chê bai thanh Vũ Nguyệt kiếm, kỳ thực chỉ muốn an ủi Thất Nguyệt, bỗng nghe Thất Nguyệt cuống cuồng nói "Cẩn thận!"

Thời gian này Liễu Dật tu luyện tâm pháp của Lang Vương, nội đan đã dung hợp được khá nhiều rồi, cảm giác của thân thể cũng linh mẫn hơn, đúng lúc Thất Nguyệt thét bảo cẩn thận, Liễu Dật vụt cảm thấy sau lưng mình có kình phong ập tới. Trong lúc khẩn cấp, y vội thấp đầu xuống. Một đạo ánh sáng xám mờ kéo theo một cái đuôi dài màu hồng phấn, bay lướt qua trên đầu y, xông thẳng lên mái nhà.

Liễu Dật ngoảnh đầu nhìn lại, thấy đúng là thanh Vũ Nguyệt kiếm đang bay lượn trên không trung, hai viên bảo thạch không ngừng phát ra những tia hồng quang chói lọi đến cực điểm.

Liễu Dật bật đứng dậy, mở miệng chửi: "Mẹ nó chứ, đừng có tưởng thư sinh ta không biết mắng người khác, có giỏi thì xuống đây, đánh lén sau lưng người khác liệu có thể được coi là anh hùng không? Có làm cho người ta phục được không? So với ngươi, Liệt Hỏa đúng là tốt hơn."

Thất Nguyệt vốn hay cáu kỉnh, nhưng nhìn bộ dạng ngớ ngẩn của Liễu Dật cũng bất giác mỉm cười, lần đầu tiên nàng nhìn thấy một người chỉ vào thanh kiếm mà xỉ vả, nếu không tận mắt nhìn thấy, chắc là không thể tin được.

Đúng vào lúc này, Vũ Nguyệt kiếm hung dữ lao thẳng xuống, Liễu Dật liền động thân thủ, bắt lấy thanh kiếm trong tay, ngay khi thu được kiếm, một cảm giác ôn nhu xuất hiện, hai viên bảo thạch màu hồng hệt như đôi mắt biết nói, nhấp nháy nhấp nháy.

Liễu Dật ngồi xuống, lấy vẻ mặt nghiêm túc, nhìn thẳng vào thanh kiếm, nói: "Kiếm huynh đệ, người xem, có gì mà thư sinh ta không thể làm được, ngươi tốt hơn cả là đừng theo ta, ngươi coi nàng ta kìa, chẳng phải rất xinh đẹp sao?" Nói xong, trỏ lưỡi kiếm thẳng về phía Thất Nguyệt.

Liễu Dật dừng lại một chút rồi nói tiếp: "Cô ta rất thích ngươi, võ công lại cao, con người lại hấp dẫn thú vị, sau này ngươi ở cùng với cô ta nhé."

Liễu Dật nói xong, hai viên bảo thạch màu hồng ở thanh kiếm lóe sáng, nhưng không hiểu có ý tứ gì. Liễu Dật tiếp tục tự biện hộ: "Ngươi không cần phải nhúc nhích để thuyết minh là ngươi đồng ý, bây giờ ta trao ngươi cho cô nương Thất Nguyệt xinh đẹp này, sau này hãy cứ ở cùng với cô ta, đừng có chạy lung tung các nơi". hNói xong, đưa thanh kiếm cho Thất Nguyệt và nói: "Cho nàng đây!".

Thất Nguyệt nhìn bộ dạng nghiêm chỉnh của Liễu Dật, cười sặc sụa: "Được rồi, đừng làm trò nữa, Vũ Nguyệt kiếm đã chọn ngươi, ngươi nên nhận lấy, ta không phiền gì đâu."

Liễu Dật nghiêm chỉnh nói: "Ta không nói đùa, ta rất nghiêm túc đấy, thanh kiếm này vừa dài vừa mỏng manh lại hấp dẫn rất hợp cho ngươi sử dụng. Ta lấy bảo trân thiên vật cũng vậy mà, nàng hãy nhận lấy thanh kiếm này đi."

Thất Nguyệt không còn cách nào, đành lắc đầu, chìa tay ra chuẩn bị tiếp lấy thanh kiếm, cố nói thêm một câu: "Sự chân thành của ngươi là vô ích, thanh kiếm đã chọn ngươi rồi, ta thực sự là muốn nó, nhưng... " Thất Nguyệt bỗng dưng nghẹn lời, vì bất chợt, đúng lúc này nàng chợt có một cảm giác xúc động không nói thành lời được, một cảm giác vui sướng khôn cùng khi cầm được thanh Vũ Nguyệt kiếm trong tay. Hơi ấm dịu dàng của nó mới chân thật làm sao!

Thất Nguyệt nhẹ nhàng rút Vũ Nguyệt kiếm ra khỏi vỏ, hồng quang lập tức nhấp nháy trên lưỡi kiếm, lấp lánh như pha lê, trong suốt, quyến rũ vô cùng, như thể những đốm sao trên bầu trời...

Thất Nguyệt nhìn Liễu Dật xuyên qua ánh sáng lấp lánh màu hồng phấn ấy, nói: "Thư sinh, xin đa tạ!"

Liễu Dật uống vội một ngụm rượu, lắc đầu nói: "Đa tạ cái gì, cơ bản là ta không dùng kiếm."

Thất Nguyệt lắc đầu nói: "Không, ta phải cảm tạ ngươi là vì đã khiến ta trước lúc chết, cảm nhận được thế nào là hạnh phúc khi yêu một người."

Nghe qua câu nói của Thất Nguyệt, Liễu Dật cũng không thể nào uống rượu được nữa, y vừa bàng hoàng, vừa bối rối, lại chừng như có chút không hiểu mình đã làm sai chuyện gì.

Thất Nguyệt nhìn thấy thần tình của Liễu Dật, bèn hỏi: "Thế nào, ngươi sợ ư? Nếu không có máu huyết của ngươi, Thất Nguyệt ta sớm cũng đã chết rồi, đâu còn có thể nếm thử mùi vị ái tình chốn nhân gian được nữa."

Liễu Dật nhìn Thất Nguyệt, lặng im không nói, chỉ thấy trong ánh sáng màu hồng phấn, long lanh những giọt lệ của nàng...

- oOo –

Hồi 68: Ly động thoát hiểm, túy nhân đích khinh vẫn

(Rời động thoát hiểm, nụ hôn nhẹ khiến người ngây ngất)

Ái tình là thứ khó nắm bắt nhất, có lúc thống khổ, có lúc ngọt ngào, có lúc khiến người khoái lạc nhưng cũng có lúc khiến người bi thương.

(Cổ Long - Ngữ)

Thời gian cứ lẳng lặng trôi qua, vật thực trong phòng dần dần giảm đi, nguy cơ tử vong cũng từ từ đến gần hai người.

Liễu Dật quan sát bức tượng, dường như đang suy tưởng chuyện gì. Thất Nguyệt thì lại nhìn Liễu Dật, tựa hồ cũng đang suy tư gì đó, cả gian phòng chìm trong yên lặng.

Đột nhiên, trong óc Liễu Dật lóe lên một tia sáng, một vấn đề xuất hiện: "Rõ ràng mục đích của chủ nhân gian phòng này là để cất giữ thần kiếm, vậy chắc chắn phải để lại lối ra, chả lẽ nếu có người nào đó lấy được thần kiếm lại không thể thoát ra?"

Liễu Dật tự nhiên nói to lên: "Không đúng, gian phòng này nhất định phải có lối ra."

Thất Nguyệt tỏ ra rất kinh ngạc, hỏi: "Căn cứ vào đâu? Ta đã tìm qua rồi mà, chỗ này thật là một nơi kỳ quái, không có cơ quan nào cả."

Liễu Dật gục gặc đầu nói: "Không thể nào, một khi người ấy tàng trữ kiếm ở đây, hẳn không định để người hữu duyên lấy được thần kiếm phải mất mạng luôn trong này, nhất định phải chừa lối ra."

Trong mắt Thất Nguyệt tựa hồ thoáng qua một tia hy vọng, gật gật đầu nói: "Nói rất có lý, nhưng lối ra ấy ở đâu cơ chứ?"

Liễu Dật đứng dậy, cầm đuốc nhìn quanh một lượt, tịnh không thấy chỗ nào đặc biệt, căn phòng này tương đối hẹp, nơi thần bí nhất chỉ có bức điêu tượng.

Liễu Dật bước đến trước bức điêu tượng rồi dừng lại, quan sát tỉ mỉ.

Bức điêu tượng này dường như là một lão nhân, hữu thủ buông xuôi trước mặt, hoàn toàn không có gì đặc biệt, nhưng tả thủ của ông ta ở đâu? Ở phía sau lưng chăng? Liễu Dật bước nhanh về phía sau lưng bức tượng tìm kiếm thử, quả nhiên tả thủ ở phía sau, trên tay lấp lánh một khối ngọc màu hồng sẫm.

Liễu Dật thầm kinh ngạc, có lẽ nào tại đây lại gặp được miếng ngọc thứ tư?

Liễu Dật đưa tay lấy khối ngọc xuống nhưng chưa nghĩ đến chuyện lấy ba miếng ngọc đeo trên cổ xuống. Sau khi so sánh tỉ mỉ thì thấy quả nhiên miếng ngọc này giống hệt với mấy miếng trên mình y.

Liễu Dật cũng không vội vàng dung hợp mấy miếng ngọc với nhau, có thể miếng hồng ngọc kia chính là chìa khóa cơ quan, ngộ nhỡ dung hợp đi rồi, dù có tìm thấy cơ quan, có lối ra, cũng không dễ dàng thoát đi.

Cuối cùng Liễu Dật cầm mảnh ngọc nhỏ màu hồng từ phía sau bức tượng bước ra, nói với Thất Nguyệt: "Cái này tìm thấy đằng sau pho tượng, chúng ta hãy tra xét cẩn thận xem xung quanh đây có chỗ nào tra vừa miếng ngọc này không!"

Thất Nguyệt nhìn chằm chằm vào khối ngọc màu hồng sẫm trên tay Liễu Dật, hỏi: "Ngươi đang nói là... miếng hồng ngọc này có thể là chìa khóa lối ra ư?"

Liễu Dật gật đầu đáp: "Cũng có thể, ta cũng chỉ đoán thôi mà, chúng ta đi kiếm thử xem ..."

Dĩ nhiên vì lẽ sinh tồn, chỉ cần còn một tia hy vọng, cả hai người lập tức tìm kiếm.

Thời gian trôi qua từng ngày, vật thực dần dần vơi đi, chỉ còn lại một vò rượu, Liễu Dật cùng Thất Nguyệt ngồi dựa vào bức tường một cách vô lực. Thất Nguyệt không nén được nói: "Chúng ta đã tìm khắp rồi cũng chẳng thấy gì, ta thấy chắc chúng ta phải chết tại đây thôi."

Liễu Dật lắc đầu nói: "Không thể nào, chỗ này nhất định phải có lối ra, nếu không ông ta đã không tàng trữ thần kiếm tại đây."

Liễu Dật nhìn chằm chằm vào bức tượng, đột nhiên y nhìn thấy hữu thủ của bức tượng hơi giơ lên, tựa hồ có gì đó không hợp lý, càng nhìn càng thấy không ổn. Liễu Dật lại bước lại, tuy bụng đói cồn cào, bản năng sinh tồn không cho phép y bỏ qua bất kỳ cơ hội thoát hiểm nào.

Liễu Dật đứng lên mặt bàn, hướng về hữu thủ của bức tượng nhưng vì bức tượng quá cao nên y phải kiễng chân, rồi lại do hồi hộp thành ra y giậm chân hơi mạnh, tất nhiên phải ngã xuống. Liễu Dật chộp lấy hữu thủ bức tượng, một tiếng "cách" vang lên tựa như thanh âm hai phiến đá ma sát vào nhau phát ra.

Miễn cưỡng đứng vững, Liễu Dật lại nhìn vào hữu thủ bức tượng, thấy hơi trễ xuống, trong óc y lóe lên ý tưởng "có khi cánh tay của bức tượng chính là cơ quan". Thế là, Liễu Dật vận dụng hết khí lực toàn thân kéo mạnh hữu thủ bức tượng, "cách" một tiếng, hữu thủ lại chấn động rồi rất từ từ, hữu thủ bức tượng bị Liễu Dật kéo rời, rớt khỏi thân thể.

Cùng lúc đó, mặt đất đột nhiên vẳng lên tiếng chấn động tựa như tiếng băng lở, Liễu Dật đáp mạnh xuống mặt bàn đá, gắng gượng đứng vững, cố không để ngã xuống. Thất Nguyệt cũng đã đứng lên, hỏi: "Chuyện gì vậy?"

Liễu Dật lắc đầu đáp: "Ta cũng không biết, có khi ta đã làm động đến cơ quan nào đó".

Lúc đó, chấn động ngừng lại, bên cạnh bức tượng xuất hiện một khung cửa rộng chừng hai trượng, cao một trượng. Liễu Dật vừa kinh ngạc vừa vui mừng kêu lên: "Nhanh xem này, nhanh xem này, có lối ra".

Thất Nguyệt gật đầu nói: "Chúng ta tiến vào xem thử, có khi là một bí thất khác". Nói xong, nàng cầm thanh Vũ Nguyệt lên, tiến vào bên trong.

Liễu Dật cũng chuyển thân, hướng theo khung cửa bước vào.

Nhưng khung cửa này lại không dẫn đến một mật thất khác mà giống như một sơn động, càng đi càng u ám, đột nhiên một trận thanh phong thổi mạnh tới mang theo cả làn hương hoa thơm ngát.

Liễu Dật vội nói: "Đây chính là lối ra, cơn gió vừa nãy chắc là từ phía ngoài thổi vào". Theo lẽ thường, Liễu Dật lập tức phán đoán sơn động nhiều khả năng chính là lối ra.

Thất Nguyệt nghe xong, chỉ gật đầu.

Không biết thời gian đã qua bao lâu, đột nhiên trước mắt tối sầm, liền đó rào rạt một luồng khoan khoái, hai người cuối cùng cũng đến được lối ra khỏi sơn động. Núi cao trập trùng, gió mơn man thổi, trên trời cao lơ lửng một vầng trăng treo.

Liễu Dật nhìn ra tứ xứ, tâm tình vui vẻ trở lại, có phần kích động không thể nói ra. Bị giam khốn tại gian phòng đá tựa như địa ngục đó đã lâu ngày, cuối cùng cũng thoát được, tâm tình tựa như chim sẻ vàng sổ lồng, thư sướng không ngôn từ nào diễn tả được.

Thất Nguyệt nhìn Liễu Dật, kích động nói: "Chúng ta không chết, chúng ta vẫn sống để thoát ra, đúng là có lối ra."

Liễu Dật cũng kích động gật đầu nói: "Nhưng ta không hiểu nổi vì sao chúng ta rơi xuống rất sâu, mà giờ lại thoát ra được đến đây."

Thất Nguyệt nói: "Biết đâu đây là một trận pháp, những gì chúng ta trải qua chỉ là ảo giác."

Cũng lúc đó đột nhiên Liễu Dật hét lớn: "Đứng im."

Thất Nguyệt quả nhiên không động đậy, đoạn hỏi: "Sao vậy?"

Liễu Dật thận trọng bước tới, nhẹ nhàng đến bên cạnh Thất Nguyệt, hai tay chộp nhanh ra nhưng vẫn chậm mất một bước. Một làn ánh sáng xanh lục đột nhiên bay vút lên, hai tay Liễu Dật vừa đưa ra thì từ mặt đất cũng có vô số lục quang bay lên.

Thất Nguyệt xoay người, mắt mở lớn, kêu lên kinh ngạc: "Cái gì vậy? Nhiều quá, đẹp quá!"

Liễu Dật cũng ngẩng đầu lên nhìn, thốt: "Là... Huỳnh Hỏa Trùng (đom đóm). Rất nhiều, rất đẹp."

Hai người lặng lẽ bị đám Huỳnh Hỏa Trùng hấp dẫn, rồi không rõ là vật gì đó đồng thời bay len vào giữa ánh mắt Liễu Dật và Thất Nguyệt. Cùng với lúc Huỳnh Hỏa Trùng bay qua, ánh mắt hai người giao nhau tại một điểm...

Thất Nguyệt chầm chậm cất bước, thấp giọng nói: "Ta thấy chúng ta nên chia tay ở đây."

Liễu Dật gật đầu đáp: "Đúng rồi, cô có việc cần làm, còn tôi cũng phải đi tìm bằng hữu của tôi cùng Cát Lợi Nhi."

Vào lúc đó, Thất Nguyệt nghe thấy có tiếng bước chân rất gấp, tựa hồ có đến bốn năm người, chắc đó là bằng hữu của Liễu Dật đang ở bên ngoài chờ y. Sóng mắt Thất Nguyệt thoáng chuyển động, ý niệm báo phục xuất hiện trong đầu.

Liễu Dật tựa hồ chưa phát hiện điều gì khác lạ, Thất Nguyệt nói ngay: "Ta tưởng ngươi sẽ đáp ứng ta một chuyện".

Liễu Dật gật đầu nói: "Chuyện gì vậy? Cô nói đi."

Thất Nguyệt nói một cách bình tĩnh: "Tôi muốn công tử thân mật với tôi một chút, được chăng?"

Liễu Dật loạng choạng thối lui một bước dài...

Đúng lúc, Thất Nguyệt tiến lên một bước, hai người ngã vào vòng tay nhau, hai làn môi cùng chạm vào nhau, Liễu Dật trợn mắt tưởng chừng rách cả mí, cảm giác không thể nói thành lời.

Trong một tích tắc, phảng phất như cả thế giới đã ngừng lại. Một tích tắc, nhưng với hai người tựa như là vĩnh viễn. Một nụ hôn dịu dàng, một cảm giác vĩnh hằng. Vô số lục quang len lỏi vào giữa vòng tay của đôi nam nữ, khiến người ta có cảm giác bay bổng...

Cũng lúc đó, Liễu Dật nghe thấy âm thanh quen thuộc vang lên bên tai: "Đừng..."

Liễu Dật vội đẩy Thất Nguyệt ra, quay đầu nhìn lại, chỉ thấy sau lưng là Đại Đao Vương, Thập Kiệt Nhất, Lang Vương và A Cửu. Còn có một thân ảnh thấp thoáng bóng áo ở xa, chính là người đã phát ra âm thanh vừa rồi, tuy sắc trời tối đen, song Liễu Dật vẫn nhận ra là Cát Lợi Nhi.

Liễu Dật không suy nghĩ nhiều, xoay người đuổi theo Cát Lợi Nhi.

Đám người Đại Đao Vương, tựa hồ vẫn còn ngơ ngác, nhìn Thất Nguyệt đứng yên giữa vô số tia lục quang.

Thất Nguyệt nhìn theo tà áo của Liễu Dật khuất dần vào xa xăm, chùng giọng than: "Sao không ai nói với ta rằng yêu một người lại thống khổ đến thế!"

- oOo -

Hồi 69: Ma kiếm bi mộng, bồi hồi trung quyết trạch

Nếu một người vĩnh viễn không thể hiểu nổi bí mật gần gụi nhất của chính bản thân mình, đó có thể là điều tàn nhẫn nhất, bi thảm nhất trên thế gian.

(Cổ Long - Ngữ)

"Lão đại, đừng quá đau lòng, đệ thấy Cát Lợi Nhi chỉ nhất thời nóng giận, không quá hai ngày sẽ nguôi ngoai và quay lại thôi mà". Thập Kiệt Nhất cố khuyên giải Liễu Dật, lão đại của hắn mà buồn, hắn tất cũng không thoải mái gì.

Liễu Dật không đáp, lòng ngập đầy hối hận, nàng vừa cất bước là khuất bóng, y có van cầu thế nào, nàng cũng nén lòng mà đi.

Lang Vương liếc nhìn y rồi nói với mọi người: "Ài, những chuyện tình cảm này ta hoàn toàn mù tịt, ta ra ngoài trước đây". Dứt lời, lắc đầu buồn bã, chân đạp lên phiến quạt gấp, lướt gió mà đi.

A Cửu ngó Liễu Dật, đoạn nói với Thập Kiệt Nhất: "Được rồi, ngươi đừng phí hơi khuyên nữa, chuyện mà lão đại còn không hiểu thì ngươi hiểu làm sao được, Cát Lợi Nhi có khi sẽ vĩnh viễn không quay lại thì sao?"

"Đủ rồi, cô ngậm miệng lại cho ta". Đại Đao Vương không chịu nổi mấy lời A Cửu lải nhải nên mắng át đi.

Liễu Dật nhìn mọi người buông lời: "Đa tạ các vị. Giờ thì mọi sự cũng xong, dù Cát Lợi Nhi đã bỏ đi, nhưng tại hạ nhất định khiến nàng quay về."

Đại Đao Vương nhìn y lắc đầu: "Huynh nghĩ được thế thì tốt quá, trời không còn sớm nữa, chúng ta tìm lấy một chỗ nghỉ chân cái đã".

Mọi người vừa cất bước thì bốn chiếc bóng trắng toát từ trên trời đáp xuống, chặn trước mặt.

Bọn Liễu Dật liếc nhìn mấy người vừa tới, chỉ thấy bọn họ đều mặc khôi giáp trắng bạc, đầu đeo Phượng Hoàng Linh, tay cầm trường kiếm, tuổi độ trên dưới ba mươi, trông dáng bên ngoài tựa như người của Thần môn.

Kẻ đứng đầu là một gã da đen ngòm, lại gần cất tiếng: "Xin hỏi các hạ có phải là Liễu Dật, Liễu công tử?"

Liễu Dật đáp: "Chính là tại hạ"

Gã trung niên vòng tay trình bày: "Bốn người bọn tại hạ là môn hạ Thần Môn, hộ vệ của tứ trưởng lão Dương Vân Phong. Tại hạ Phong Thần."

Những kẻ đứng sau lần lượt giới thiệu: "Tại hạ là Thủy Thần, Hỏa Thần, Lôi Thần."

Liễu Dật gật đầu: "Không hiểu... các vị lại đây với mục đích gì? Hà cớ lại ngăn cản bước đường của bọn tại hạ."

Phong Thần giải thích: "Tháng trước, hai vị sư đệ của Thần Môn chúng tôi khi ngang qua Tuyết Sơn, không may gặp phải yêu nữ của Ma tộc, một người bất hạnh vong thân, một người ôm trọng thương quay về. Vị sư đệ đó bẩm báo rằng Liễu công tử và ma nữ có quan hệ mật thiết, vì vậy Dương trưởng lão phái bốn người chúng tôi mời công tử lên Thần Môn giải thích sự tình cho rõ ràng."

Thập Kiệt Nhất tức giận nói: "Quan hệ cái gì mà quan hệ, quan hệ gì thì các ngươi cứ việc đi tìm yêu nữ, tìm bọn ta làm gì?"

Phong thần cười lạnh: "Vị huynh đệ này chớ nổi nóng, Thần Môn chúng tôi và Ma Môn vốn thủy hỏa bất dung, sớm muộn gì cũng phải tìm ra yêu nữ, chẳng qua hiện tại gặp được Liễu công tử nên tiện thể mời công tử về giải thích cho rõ ràng."

Đại Đao Vương bắt đầu nổi nóng: "Giải thích rõ ràng cái gì? Yêu nữ giết người của các ngươi, các ngươi đi mà tìm cô ta, tìm công tử ta làm cái gì, công tử ta đâu có giết người."

Thuỷ Thần trước giờ vẫn một mực im lặng mới tiến lên trước một bước đoạn nói: "Không giết người thì phủi sạch quan hệ sao? Hắn thân là người nhân gian giới lại ngang nhiên có quan hệ với yêu nữ Ma môn, dẫu không giết người thì Thần Môn chúng ta cũng không đời nào dễ dàng bỏ qua."

Liễu Dật vòng tay nói: "Lần này quả là có sự hiểu lầm, vốn Liễu mỗ cũng đang bị Ám Môn truy sát, vì thế mới chạy bừa vào chỗ của... Ma Môn, nhưng đó không phải là chủ ý của mỗ."

Thuỷ Thần có vẻ nóng nảy hơn Phong Thần, quát liền: "Đừng lôi thôi, bọn ta phụng mệnh phải đưa ngươi về, có hiểu lầm gì thì đến gặp Dương trưởng lão mà giải thích."

Thập Kiệt Nhất nói liền một hơi: "Các ngươi mà là người chánh phái ư? Sao nào, định cậy võ công cao thì có thể tùy tiện bắt người chắc, hôm nay muốn bắt lão đại thì phải hỏi quyền đầu của Thập Kiệt Nhất này đã."

Thuỷ Thần nhếch mép cười lạnh: "Tốt, hãy để ta thử xem nắm đấm của ngươi cứng đến đâu."

"Muốn đánh hả? Làm gì có chuyện Đại Đao Vương ta thiếu phần." Nói rồi, Đại Đao Vương tuốt Liệt Hỏa kiếm ra. Dưới vùng ánh sáng vàng, Đại Đao Vương trông như chiến thần đứng ngay trước mặt bốn người.

Hoả Thần buột miệng: "Liệt Hỏa kiếm!"

Mặc dù cả bốn người đều kinh ngạc, nhưng Thuỷ Thần không dằn được tính khí bộp chộp, thốt lên giận dữ: "Lại đây, để ta thưởng thức quyền đầu của ngươi". Nói rồi vung trường kiếm lao tới, một đạo kiếm khí màu lam biếc xẹt thẳng về hướng Thập Kiệt Nhất.

Đại Đao Vương vung Liệt Hỏa kiếm lên, một mặt quan sát trận đấu giữa Thập Kiệt Nhất với Thuỷ Thần, một khác trông chừng quan sát ba người còn lại, đề phòng họ tập kích bắt Liễu Dật. Trong một tháng tu luyện tại Thanh Âm nhã các, hắn đã lĩnh hội được nét tinh yếu của Thu Diệp kiếm pháp, lại được Liệt Hỏa kiếm trợ giúp nên đạt được thành tựu rõ rệt. Bây giờ hắn có thể coi là cao thủ trong các cao thủ.

Giờ nói về Thập Kiệt Nhất, thân thể hắn tuy rất to lớn nhưng tốc độ không chậm chút nào, đạo kiếm khí màu lam vừa bắn tới, hắn lách mình tránh thoát, tá lực lao tới, hữu quyền vung lên xuất ra một thức Thiên Trùy cương mãnh trong Thiên Cương Đẩu Quyền, quyền phong như mũi dùi đâm trực diện vào Thuỷ Thần. Với tu vi của Thuỷ Thần, đương nhiên nhận thấy một quyền này của Thập Kiệt Nhất không thể ngạnh tiếp. Điều khiến người ta kì quái là muốn luyện thành loại quyền pháp cương mãnh thế này tất mất hàng trăm năm, vậy thì tên tiểu tử ngốc này luyện thành bằng cách nào.

Nhưng tình thế hiện tại không cho phép lão nghĩ vẩn vơ, trường kiếm bạt ngang quét vào Thiên Truỳ của Thập Kiệt Nhất. Trong sát na trường kiếm và quyền phong va chạm, Thuỷ Thần chuyển thân, mượn lực của Thập Kiệt Nhất tác động vào lưỡi kiếm mà búng mình lên không, ném mạnh trường kiếm xuống, cao giọng quát: "Long Thần, đi nào!"

Trong tích tắc, thanh trường kiếm xanh lam trong tay lão biến thành một con trường long. Quanh con rồng tỏa ra khí tức màu trắng, thoáng sau cây cỏ xung quanh đều đóng thành một dạng vật chất như băng. Con rồng tịnh không ngừng lại mà trực tiếp bổ xuống Thập Kiệt Nhất.

Đại Đao Vương kêu to: "Cẩn thận, con rồng này có vẻ cổ quái lắm!"

Nhưng Thập Kiệt Nhất lại không buồn để tâm đến con rồng, quát vang một tiếng rồi tung Phong Dương Liệt Hỏa Quyền trong Ngũ Hành Quyền, tay phải tạo thành một góc chín mươi độ, cả cánh tay đỏ rực như đồng nung tỏa ra một luồng quang mang màu đỏ rực rỡ, quyền đầu rực lửa đập thẳng vào băng long, quang mang đại thịnh, thân hình Thập Kiệt Nhất hơi run rẩy.

"Ầm!"

Trường long biến mất, một thanh kiếm cự đại rớt xuống đất...

"Ọe..."

Thuỷ Thần thổ huyết, miễn cưỡng duy trì tư thế nhân kiếm hợp nhất. Sau khi trường long bị Thập Kiệt Nhất phá, thân kiếm bị đánh trúng, toàn bộ lực đạo truyền vào người lão. Phong Thần vội chạy tới đỡ lấy Thuỷ Thần, tức giận kêu lên: "Hỏa Thần, Lôi Thần, thu thập thằng lỏi kia cho ta."

"Được!"

Hai người xông lên tấn công Thập Kiệt Nhất.

"Ai dám?" Một giọng nghiêm nghị cất lên, âm thanh như từ trên chín tầng trời, như trong phút giây tỉnh dậy sau ngàn năm say ngủ vọng về, chứa đựng vẻ uy nghiêm vô hạn và ma lực không thể cưỡng lại, khiến Hỏa Thần, Lôi Thần lập tức ngừng lại.

Thập Kiệt Nhất ngoẹo đầu hỏi: "Là Lang Vương? Sao còn quay lại? Phải chăng lão biết bọn ta đang gặp nguy hiểm?"

Liễu Dật lắc đầu: "Đó không phải là Lang Vương. Giọng nói này ngập đầy tang thương, lại phảng phất như cụm mây lướt qua trước mắt, như thăng trầm qua hàng thế kỷ, ẩn ước niềm bi thống vô hạn, mà uy nghiêm vô bỉ, khiến người ta không thể kháng cự được. Lang Vương không có được khí thế này."

Đại Đao Vương chen vào: "Là ai nhỉ?"

Mọi người còn đang đoán già đoán non, một vòng sáng trắng loé lên giữa đám đông rồi từ từ ảo hóa thành một trung niên khoảng trên ba mươi tuổi nhưng trong đôi mắt chan chứa bi ai, áo quần trắng tinh theo kiểu du hiệp, tay cầm một thanh kiếm khác thường, mỏng hơn nhiều trường kiếm thông thường.

Khuôn mặt y như được điêu khắc mà thành, đường nét gân guốc đem lại cho người khác cảm giác an toàn, làn da hơi vàng càng khiến người ta thấy thân cận. Ấn tượng sâu nhất là ánh mắt, như thể trong đó ẩn giấu muôn sự thương tâm.

Mọi người chưa kịp phản ứng, Thập Kiệt Nhất đã tung người nhảy tới, "bịch" một tiếng, quỳ xuống gọi: "Sư phụ". Đoạn dập đầu lạy.

Bạch y trung niên nhìn Thập Kiệt Nhất, thoáng nở một nụ cười: "Đứng lên đi". Nói xong, tay phải phất khẽ, một luồng đại lực kéo Thập Kiệt Nhất đứng dậy.

Đại Đao Vương bước lại gần, nhìn người trung niên như nhìn quái vật, nói: "Ông là sư phụ của tên ngốc này? Tôi thật sự bội phục ông đấy, lại có thể biến loại đầu đất vô dụng như hắn thành lợi hại đến vậy."

Thập Kiệt Nhất cười hề hề, nhưng hắn bỗng cảm thấy có điều không ổn, vội nói: "Sư phụ, hắn đang nhục mạ con."

Bạch y trung niên mỉm cười: "Đừng có hồ đồ, để ý đến lời nói của hắn ta làm gì!"

Liễu Dật cuối cùng cũng được gặp sư phụ của Thập Kiệt Nhất, mặc dù y và Thập Kiệt Nhất đã gắn bó từ thủa ấu thơ nhưng chưa bao giờ gặp sư phụ của tên đầu đất ấy, vì thế y luôn cảm thấy vị sư phụ này thật thần bí, không ngờ hôm nay đột nhiên được gặp mặt.

Hoả Thần và Lôi Thần giận dữ quát: "Ngươi là kẻ nào?"

Bạch y trung niên xoay xoay thanh kiếm, lắc đầu nói: "Ta là ai không quan trọng, quan trọng là ta không cho phép các người được đả thương bất kỳ ai ở đây, lại càng không cho phép ngươi đem ai đi."

Mấy câu này hoàn toàn không nể mặt Hoả Thần và Lôi Thần, nhất thời hai lão đớ lưỡi. Cùng lúc Phong Thần đã giúp Thuỷ Thần áp chế được nội thương, bèn tiến đến, chỉ trường kiếm vào bạch y trung niên nói: "Ngươi đã biết thân phận của bọn ta, tất biết rằng nếu đắc tội, không ai đỡ hộ cho ngươi đâu."

Liễu Dật giờ đã hiểu hơn về giang hồ, biết rằng nếu ai cố tình can thiệp vào việc của người khác, chắc sẽ lãnh đủ, bèn vội bước lên nói với bạch y trung niên: "Vị huynh... à tiền bối này, họ là người của Thần Môn, tại hạ thấy tiền bối nên phủi tay mà đi, đừng đắc tội với họ."

Bạch y trung niên tuyệt không để một lời của Liễu Dật vào tai, ngược lại, dõi ánh mắt nhìn y, ánh mắt sao mà thân thuộc. Hai mươi năm trước trên đường xuống cõi U Minh, bên chân cầu Nại Hà, cũng khuôn mặt này, hai người đã uống rượu sinh ly tử biệt, anh hùng lệ rơi, mỉm cười bàn chuyện bể dâu, luận đàm nỗi khổ của nhân gian, nỗi hận của tình ái...

Liễu Dật nhìn người trung niên, gọi: "Tiền bối, tiền bối."

Người trung niên định thần lại, lắc lắc đầu, nói: "Không sao đâu tiểu huynh đệ, đừng nói Thần Môn, cả Tiên tộc xúm lại đây, lão phu cũng không coi ra gì."

Người trung niên quay phắt lại, khí thế vô hình trên thân thể lập tức biến đổi, vẻ hoà ái không còn tồn tại, trở thành một vị thiên thần mang trên mình vô thượng chi lực, hoàn toàn có thể bóp nát mấy kẻ nhỏ nhoi đứng trước mặt này.

Trung chỉ, thực chỉ trên tay phải người trung niên cong lại, tạo thành một đạo bạch sắc kiếm khí dài ba xích, kiếm khí quay ngược một trăm tám mươi độ, xuyên qua trường kiếm của Phong Thần theo đường vòng cung.

"Xoảng!"

Trường kiếm của Phong Thần đã bị kiếm khí chém gẫy.

Phong Thần giật mình, lùi lại một bước, lão không thể tin nổi là kiếm của mình lại bị kiếm khí bất ngờ chém gãy dễ dàng như thế, dầu gì đó cũng là bảo kiếm hắn tự luyện, tuy không thể sánh với tám thanh thần kiếm, nhưng tuyệt đối không phải loại tầm thường.

Trung niên bạch y thốt từng lời lạnh lẽo: "Trước mặt ta, ngươi không có tư cách cầm kiếm". Ngữ khí cuồng ngạo hết mức, nhưng y có đủ tư cách để cuồng ngạo như thế.

Bởi vì mọi người đều biết, kiếm đạo không có cảnh giới cuối cùng, đạt đến nhân kiếm hợp nhất là điều đại đa số mong mỏi, "thiên nhân chi cảnh" tất phải tiếp tục tu luyện mới mong vươn tới. Khi đạt đến đỉnh cao thì những thứ truy cầu vô cùng hư vô, phiêu diêu; cái gọi là vô kiếm thắng hữu kiếm, kiếm ở trong tâm, chỉ là tiểu thành, còn kiếm khí phải đạt đến phiêu diêu chi cảnh mới vận dụng được, tuy không được như thần kiếm, song uy lực vô bỉ. Nên biết trong số những kiếm giả có tiếng đương thời chưa từng có người nào đạt tới cảnh giới này, lão không thể ngờ một trung niên lại đạt tới, thật khiến người ta khiếp phục.

Phong Thần hơi run rẩy: "Ngươi, ngươi là ai? Báo danh đi, Thần... Thần Môn tuyệt đối sẽ không buông tha ngươi."

Bạch y trung niên cười nhạt, tay phải rung mạnh, một đạo bạch quang chớp lên, tra thanh kiếm vào bao rồi trả lời: "Thần Môn ghê gớm lắm sao? Nếu quả có một ngày Thần Môn dám chọc đến ta, ta sẽ huỷ diệt toàn bộ."

Những lời đại ngôn đó, mấy ai dám nói ra miệng? Thần Môn là môn phái thủ tịch (đứng đầu) của Tiên tộc, đệ tử hơn nghìn, cao thủ như mây, tứ đại trưởng lão lại là cao thủ của cao thủ, ai dám bạo miệng thốt ra những lời chống lại một thế lực lớn đến thế?

Phong Thần giận tràn hông: "Ngươi..."

Chưa dứt lời, lão bỗng cảm thấy có điều không ổn, cúi đầu xuống thấy quần của cả bốn người bất ngờ tuột khỏi thắt lưng. Bốn người kinh sợ, đạo kiếm quang vừa quét qua cả bốn, cắt đứt dây lưng một cách vô cùng chuẩn xác, bởi vì tốc độ quá nhanh nên quần không kịp tuột xuống đất.

Bởi Phong Thần nổi giận, nên quần của lão rơi xuống trước, bốn người cúi xuống kéo quần lên, cường địch trước mặt quả thật từ khi bôn tẩu giang hồ, chưa từng gặp đối thủ nào mạnh đến vậy, họ chỉ có hai con đường để chọn: hoặc chạy trốn hoặc chết.

Phong Thần tức giận: "Được, thanh sơn bất cải, lục thủy trường lưu. Ta không tin tiền bối có thể vĩnh viễn bảo vệ bọn chúng, sớm hay muộn bọn chúng sẽ lọt vào tay ta."

Trung niên lạnh lùng đáp: "Ta đếm ba tiếng, nếu như bọn ngươi vẫn không cút cho khuất mắt ta, ta sẽ tặng cho bọn ngươi một kiếm."

"Một!"

"Hai!"

"Chúng ta đi." Không đợi người trung niên đếm đến ba, cả bốn người đều kéo quần lên chạy thật xa, tựa hồ thực sự e sợ nhát kiếm sẽ xuất ra.

Thập Kiệt Nhất chạy tới, nói: "Sư phụ quả thực uy phong, kiếm thuật của người như thần, làm cho đệ tử nhìn mà bay bổng, thực lòng mong muốn được học kiếm thuật của người."

Nháy mắt, vẻ ngoài lạnh giá của trung niên biến thành thân thương, cười nhẹ vỗ vỗ vào vai của hắn, nói: "Con không thích hợp để luyện kiếm, ta đã dạy con Ngũ Hành Quyền và mấy bộ quyền pháp đó, chỉ cần con quán thông tự nhiên sẽ thành cao thủ đương thế."

Liễu Dật tiến về phía trước, cất giọng đầy cảm thán: "Hôm nay tại hạ mới được đại khai nhãn giới, không ngờ kiếm pháp có thể luyện được đến mức độ như vậy, quả là kỳ diệu."

Đại Đao Vương hỏi A Cửu: "Cô biết ông ta là ai không?"

Dù Đại Đao Vương trực tiếp hỏi riêng A Cửu, nhưng tất cả đều nghe rõ, dường như hắn nói với mọi người. Liễu Dật muốn biết, Thập Kiệt Nhất càng muốn hơn, Đại Đao Vương hỏi như vậy, A Cửu cũng muốn biết, nên lắc mạnh đầu nói: "Tôi làm sao biết được?"

Đại Đao Vương cười lớn: "Chủ nhân của Lưu Vân kiếm là ai?"

A Cửu chợt nhớ lại lời của Thuỷ Nhi, đáp ngay: "A, ngươi bảo người trẻ tuổi này là đệ nhất kiếm giả trong tam giới, Lãnh Kiếm sao? Trông không giống, làm sao ít tuổi thế được?"

Tuy A Cửu thuận miệng nói bừa nhưng Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất vẫn tin, nhìn khắp tam giới, ai có được khí thế cuồng ngạo mà băng lãnh như Lãnh Kiếm. Chỉ có loại người như Lãnh Kiếm mới dám thốt ra những lời đã nói với Phong Thần.

Thập Kiệt Nhất chạy bổ tới, hỏi: "Sư phụ, có phải người là Lãnh Kiếm?"

Bạch y trung niên nhìn Thập Kiệt Nhất, cười nhẹ không đáp, ngược lại cười hỏi Đại Đao Vương: "Tiểu huynh đệ cũng biết nhìn người đấy, Liệt Hỏa kiếm chọn ngươi làm chủ nhân cũng là có thâm ý riêng, tin rằng không đến mười năm, ngươi chắc chắn sẽ có thành tựu."

Đại Đao Vương cười bước lại nói: "Tiền bối nói vậy tức là tự thừa nhận mình là Lãnh Kiếm?"

Bạch y nhân gật đầu: "Đúng, vốn cũng không có gì phải giấu diếm, chẳng qua vừa nhìn bốn gã đó đã làm ta phát bực, xưng tên tuổi với chúng làm gì. Gặp được các người ở đây, đúng là duyên phận, hơn nữa ta có việc cần tìm Thập Kiệt Nhất, chi bằng chúng ta tìm một nơi thanh tịnh đàm đạo."

Thập Kiệt Nhất nói: "Hay lắm, con và sư phụ đã lâu không gặp, hôm nay nhân dịp đại ca vừa thoát khỏi tử động, chúng ta nên tìm chỗ nào hay hay một tí để nghỉ ngơi."

Đại Đao Vương gật gù: "Gần đây đồng không mông quạnh, không có chỗ nào nghỉ ngơi, chúng ta nên tìm một nơi cao ráo, đốt một đống lửa rồi ngồi nghỉ, tại hạ sẽ phụ trách việc ăn uống."

A Cửu cao hứng vỗ tay: "Tốt, tốt, ta rất thích thư giãn ngoài trời."

Liễu Dật gật đầu: "Cũng tốt, mọi người hãy nghe theo Đại Đao Vương."

Không bao lâu sau, mọi người đã tìm được một nơi an tĩnh, nhanh chóng đốt một đống lửa, rồi vây quanh chờ Đại Đao Vương đem thức ăn về.

Đại Đao Vương quay lại, mang theo hai con thỏ béo mập, A Cửu vừa nhìn thấy đã trêu chọc: "Đại Đao ca ca, công phu dùng Liệt Hỏa kiếm hạ gục thỏ quả nhiên cao siêu."

Đại Đao Vương cười ngượng nghịu, rút chuỷ thủ ra, bắt đầu cạo lông xẻ thịt thỏ, rồi tìm hai chạc cây dài để nướng.

Lãnh Kiếm nói: "Kỳ thật, lần này ta tới đây chủ tâm tìm Thập Kiệt Nhất và Liễu Dật công tử."

Thập Kiệt Nhất hỏi trước: "Sư phụ tìm con có việc gì?"

Lãnh Kiếm nói: "Ta nghe nói các ngươi đắc tội với Ám môn, Ma môn, cả Thần Môn cũng phái người săn đuổi. Rõ ràng trong tam giới, các ngươi đã đắc tội với toàn bộ, vi sư lo lắng nên đến xem xét."

Đại Đao Vương đang làm thịt thỏ, chõ vào: "Thế thì đã sao, chỉ cần có tiền bối ở đây, ai dám động tới chúng tôi."

Lãnh Kiếm chỉ biết cười trừ: "Ta còn có chuyện của ta, lúc trước Phong Thần của Thần Môn có nói, ta không thể vĩnh viễn ở bên cạnh bảo hộ cho các ngươi, vì thế sau này các ngươi phải tự lo."

Lãnh Kiếm thoáng dừng rồi nói tiếp: "Thập Kiệt Nhất, ta cho con vật này". Nói xong, móc một cái hộp màu trắng bạc từ trong ngực áo ra, sau khi mở nắp, bạch sắc quang hoa chói lọi từ bên trong tỏa ra, là một viên đan dược to bằng ngón tay cái.

Đưa cho Thập Kiệt Nhất và bảo: "Con nuốt đi."

Thập Kiệt Nhất không nói một lời, cầm chiếc hộp, lấy viên đan dược ra và bỏ vào miệng.

Lãnh Kiếm giải thích: "Đây không phải là đan dược, lúc ta ngang qua Thiên Sơn Băng Phong phát hiện ra Vạn Niên Hàn Thiền, con hàn thiền này tu luyện vạn năm, đã trở thành tinh linh nên ra tay thu phục, hôm nay ta đặc biệt tặng nó cho Thập Kiệt Nhất."

Thập Kiệt Nhất đã ăn xong bạch sắc hàn thiền, run như cầy sấy, nói: "Sư phụ, sao con lạnh quá vậy?"

Lãnh Kiếm trả lời: "Đương nhiên, giờ con cần phải sử dụng Ngũ Hành chân khí trong người, Liệt Hỏa chân khí sẽ từ từ hoá giải khí băng lãnh, dung hợp nó vào đan điền thì trong vòng một thời thần sẽ tăng thêm một giáp tý công lực."

Đại Đao Vương đang nướng thỏ, nói lớn: "Cái gì, một giáp tý, tức là sáu mươi năm công lực? Tôi vẫn thắc mắc làm sao thằng lỏi Thập Kiệt Nhất này lợi hại thế, nguyên lai là tiền bối ban cho tiên đơn diệu dược, tiền bối còn nữa không? Cho tôi đi."

Lúc này Thập Kiệt Nhất đã phong bế lục thức, bắt đầu dung hợp khí băng lãnh của hàn thiền.

Lãnh Kiếm cười nhẹ, lắc đầu: "Tiểu huynh đệ, ngươi nên biết rằng, Thập Kiệt Nhất luyện ngoại gia công phu, Ngũ Hành Quyền cần đến chân lực cường đại, nếu không khó lòng phát huy tới cực hạn, bởi vậy mới phải gia tăng công lực cho nó. Ngươi bây giờ đã có thần kiếm trong tay, công lực không cao nhưng kiếm pháp tuyệt diệu, thần kiếm lại không phải phàm vật, có thể bổ khuyết cho phần công lực không đủ."

Đại Đao Vương gật đầu, nhưng trong lòng thầm nhủ: "Ông mà cho ta tiên đơn, ta lại không lợi hại hơn sao?"

Lãnh Kiếm lại nói với Liễu Dật: "Liễu công tử, ta cũng có một vật muốn tặng cho công tử". Nói đoạn, tay đặt lên trên môi, huýt một tiếng dài.

Tiếng huýt vừa dứt, chỉ thấy trên không trung một thân ảnh thật lớn, một con thương ưng cự đại bay về phía mọi người.

Đại Đao Vương thấy bất an, chợt nghe Lãnh Kiếm nói: "Đừng sợ, đó là bằng hữu của ta". Thương ưng bay đến trên đầu mọi người, hai chân duỗi ra, thả rơi một vật. Đoạn nó vỗ cánh bay vút lên trên tầng mây, biến mất vào trời đêm.

Lãnh Kiếm vung tay tóm lấy vật đó, đặt trước mặt rồi nói: "Bi Mộng Kiếm, kiếm dài ba xích chín thốn, nặng ba mươi tư cân, kiếm có ba mũi, không có lưỡi, bao kiếm hình trụ dài chín thốn, cán kiếm được điêu khắc từ thân rồng, miệng rồng có thể xuất ra ba mũi kiếm."

Liễu Dật nhìn thanh kiếm trong tay Lãnh Kiếm, chợt cảm thấy rất quen thuộc, như thể gặp lại lão bằng hữu, tựa hồ kiếm đã theo chân y từ ngàn vạn năm trước. Y định thần rồi hỏi: "Cái này... Tiền bối có ý gì vậy?"

Lãnh Kiếm nhìn Liễu Dật nói: "Công tử có thiên tư trở thành cao thủ dụng kiếm, đáng tiếc là công tử chưa có cơ hội cầm đến kiếm, lại thêm có ác cảm với kiếm, nhưng công tử nên biết rằng hiện tại Ma Môn, Ám Môn, Thần Môn đều muốn bắt ngươi, công tử không nghĩ cho bản thân, thì cũng phải nghĩ cho người nhà, hãy nhận lấy đi, thanh kiếm này sẽ cho công tử sức mạnh, trở thành bạn tốt của người."

Liễu Dật nhìn thanh trường kiếm màu đen, Loạn Thập Tam Thức bất ngờ hiện lên trong đầu. Y lắc đầu, cảm thấy tỉnh táo hơn, bao nhiêu ngày nay y toàn dựa vào những người đi cùng bảo hộ, không có họ chắc y đã chết từ lâu. Còn cả Cát Lợi Nhi, y còn phải bảo hộ cho nàng, nếu lần trước Thanh Âm Nhã Các thật sự muốn giết nàng, y biết làm sao? Còn gia đình của y nữa, nếu có một ngày, người của Ma tộc, Tiên tộc tìm đến hạ thủ, bản thân y có năng lực chống đỡ không?

Trong lòng y do dự, y vẫn ghê tởm việc phải cầm kiếm giết người, nhưng bây giờ giang hồ đã dạy y rằng: có thực lực là có thế lực. Mắt thấy Lãnh Kiếm chỉ bằng một cây Lưu Vân kiếm hạ nhục tứ hộ vệ của Thần Môn đã khiến y động tâm, có lẽ y thật sự đã đến lúc phải cầm kiếm.

Nhìn vẻ mặt biến chuyển của Liễu Dật, Lãnh Kiếm mỉm cười, nụ cười không hề ôn hoà, thân thiết, ngược lại đầy vẻ âm mưu thần bí. Không ai để ý đến biểu tình của ông ta. Ông ta nhìn Liễu Dật mà trong lòng réo gọi: "Cầm lấy nó, cầm lấy nó, đó là túc mệnh, là bằng hữu của ngươi, một lần nữa ngươi hãy dùng thanh kiếm này tạo nên thần thoại, để ta hoàn thành được tâm nguyện cuối cùng."

Liễu Dật chăm chăm nhìn thanh hắc kiếm, cán kiếm dài giương cao nhưng đang nhìn y, nói với y... cảm giác sao mà quen thuộc.

Ai biết được thanh Bi Mộng Kiếm này đúng là vật của Niết Nhân, tổ tiên Ma tộc? Có lẽ, Liễu Dật rồi cũng sẽ biết, nhưng đó là chuyện của tương lai, chuyện hiện tại là gì đây? Liễu Dật có thể thay đổi bản thân, từ bỏ sách thánh hiền, đầu thân vào giang hồ tam giới, vì gia quyến, vì tình ái, vì bằng hữu của mình mà cầm thanh ma kiếm đó lên không?

- oOo -

Hồi 70: Ám môn sát thủ, hà xứ bất tương phùng

Khi một người luôn mở lòng mình ra, y sẽ sống vui vẻ hơn người khác.

(Cổ Long - Ngữ)

Liễu Dật nhìn thanh hắc kiếm trong tay Lãnh Kiếm, Bi Mộng Kiếm phảng phất có một hấp lực quyến rũ vô hình, mê hoặc Liễu Dật, khiến y từ từ giơ tay ra với lấy thanh kiếm, khoảng cách mỗi lúc một gần hơn.

Lãnh Kiếm quan sát cử động của Liễu Dật, khoé miệng hé nụ cười bí ẩn.

Đột nhiên, Liễu Dật rụt tay lại, lắc mạnh đầu: "Không, tại sao phải cầm kiếm? Ta chỉ là một kẻ bình phàm thôi mà."

Biểu hiện của y, tựa hồ khiến Lãnh Kiếm phẫn nộ phi thường: "Công tử vừa nói cái gì? Không cầm kiếm thì bảo vệ người yêu dấu của mình bằng cách nào? Không cầm kiếm thì bảo vệ thân nhân được sao? Còn có bằng hữu của công tử, chả lẽ công tử định cả đời núp bóng họ sao? Cầm kiếm ngay! Thanh kiếm này vốn thuộc về công tử."

"Công tử cho rằng sách thánh hiền có thể bảo hộ được nữ nhân của mình, cầm kỳ thi họa có thể bảo hộ cho người nhà?" Lãnh Kiếm tiếp lời, giọng điệu trở nên băng giá, thậm chí lộ rõ ý châm biếm.

Liễu Dật trong lòng chấn động, đúng vậy, lý lẽ của Lãnh Kiếm quả xác đáng, sách thánh hiền không thể cứu người, cầm kỳ thi họa không thể bảo vệ nổi người, hiện giờ đang là lúc bị truy sát, tại sao lại không cầm kiếm phản kháng?

Liễu Dật vươn tay cầm Bi Mộng Kiếm, ngay sát na chạm vào cán kiếm, trước mắt y tối sầm, hình ảnh Niết Nhân lóe lên rồi vụt tắt, tiếp đó là hình ảnh một nam tử cầm trường kiếm, tay ôm nữ nhân đứng trên vách đá cheo leo ... Hình ảnh đó là gì? Y lắc mạnh đầu, từ thân kiếm truyền lên cảm giác bi thương, cảm giác thật gần gũi, đó là chi? Là cảm giác bi thương của tình ái, của tình ái trải qua mất mát.

Cảm giác bi thương lan tỏa toàn thân Liễu Dật, cuối cùng dừng lại ở con tim y, đột ngột biến đổi thành ấm áp, hóa thành sức mạnh vô hạn, tưởng như có cây kiếm là có được cả thế giới.

Lãnh Kiếm nhận ra biến chuyển của Liễu Dật, quay mình thốt: "Tốt lắm, việc ta cần làm đã hoàn thành, ta phải đi thôi."

Đại Đao Vương kêu lên: "Tiền bối đi vội thế, thịt thỏ đã quay xong ngon lắm, ở lại thưởng thức trù nghệ của tôi đã chứ."

Lãnh Kiếm mỉm cười lắc đầu: "Ngày sau nếu có duyên, chúng ta sẽ tái ngộ". Dứt lời, vung tay lên, Lưu Vân kiếm lao vào trong mây, nhất đại kỳ nhân lẫn mất giữa trời đêm.

Đại Đao Vương nhìn theo hình bóng khuất xa của Lãnh Kiếm, lắc đầu thở dài sườn sượt: "Hỡi ơi, cao nhân vẫn là cao nhân, lúc bay lên chắc đều tiêu sái như vậy."

Liễu Dật ngó Bi Mộng Kiếm trong tay, cảm giác kỳ quái nãy giờ vẫn vấn vít không dứt trong đầu, y giơ ngang thanh trường kiếm trước mắt, nhẹ nhàng xoay cán rồi đột nhiên tuốt ra.

Một đạo ngân quang loé lên, lưỡi kiếm ba cạnh hiện lên trước mắt, quanh thân kiếm bao bọc một tầng hắc sắc khí thể như thật chất. Y không biết đó là gì nhưng thấy thật đẹp đẽ. Ánh kiếm phản xạ lên mặt, y thấy một đôi mắt, nhìn xuyên qua đó là một con rồng, một con rồng uốn lượn trong thân kiếm. Con rồng mang theo nỗi cảm thương vô hạn, truyền lên thân mình y.

Đột nhiên, y bị Đại Đao Vương kéo thoát khỏi ảo giác, tra kiếm vào bao. Đại Đao Vương nhìn thanh kiếm và nói: "Bi Mộng Kiếm này quả là kỳ quái, dài như cây côn, lại có ba lưỡi kiếm, sử dụng chắc tốn lực lắm, chả trách trong tám thanh thần kiếm, danh khí của nó bị xếp thấp thế."

Liễu Dật cắm kiếm xuống đất, đứng thẳng dậy, lắc lắc đầu, trấn tĩnh lại đoạn cất tiếng: "Sao, thỏ đã quay xong chưa? Ta đang đói kinh khủng đây, mau ăn thôi, ăn xong rồi đi ngủ, ngày mai còn phải lên đường tìm Cát Lợi Nhi."

Dứt lời, không để ý đến phản ứng của mọi người, y vồ lấy đùi thỏ nhai ngấu nghiến...

Thấy vẻ háu ăn của Liễu Dật, không ai nghĩ ngợi gì nữa, tự đi lấy phần thịt của mình rồi đánh chén.

Thời gian thấm thoát trôi qua mà bạn không để ý, nhưng khi nó đã đi thì sẽ khiến bạn hoặc khoái lạc hoặc sầu bi.

Vầng thái dương đã treo cao, mọi người đang loay hoay tìm chỗ rửa ráy, may sao, Đại Đao Vương tìm ra một chỗ cách đó không xa có một dòng suối chảy từ trên núi xuống.

Liễu Dật rút Bi Mộng Kiếm cắm dưới đất lên, đột nhiên nhớ đến điều gì đó, lục y phục lấy ra viên ngọc nhỏ màu đỏ sẫm, đồng thời tháo luôn viên ngọc đeo trên cổ xuống, đặt chúng lại gần nhau. Bất ngờ hai viên ngọc dung hợp làm một, mắt y tối sầm, sau đó lại trở về trạng thái bình thường. Y lắc đầu nhìn viên ngọc đã biến thành toàn vẹn, thở dài sườn sượt rồi bỏ vào trong y phục.

Y nhìn thanh kiếm cầm trên tả thủ, tâm tư muôn vàn cảm khái, mấy tháng trước y là người ghét võ công cùng cực, vậy mà sau mấy tháng, giờ đây y lại cầm kiếm trên tay. Con người đúng là loài động vật có tư duy, đổi thay đến là nhanh.

Lúc này, ai nấy đều thu dọn xong xuôi. Liễu Dật vừa nhìn quanh vừa nói: "Ta thấy chúng ta đến Liên Hoa trấn trước, sau đó đi đến Miêu Cương tìm Cát Lợi Nhi, xem nàng đã về nhà chưa. Không biết các vị thấy thế nào?"

Thập Kiệt Nhất gật đầu: "Đệ sẽ đi với lão đại."

A Cửu nhìn Thập Kiệt Nhất nói: "Phụ hoàng có dặn, ta phải theo chân Thập Kiệt Nhất."

Liễu Dật nhìn Đại Đao Vương, hắn lắc đầu: "Đừng nhìn ta, ta không có việc gì nên cũng muốn đi chơi".

Liễu Dật bỗng thấy thật khôi hài, ràng y đi tìm thê tử, vậy mà phải cậy nhờ bằng hữu đi theo, xem ra bản thân y quả là vô năng.

Đoàn người vượt núi băng rừng, nhanh chóng đến Liên Hoa trấn, tuy đã hỏi thăm nhiều người nhưng Cát Lợi Nhi vẫn bặt tăm. Thậm chí Liễu Dật vẽ chân dung nàng nhưng thủy chung không ai đã gặp qua.

Mọi người đều ngã lòng, mua ngựa rồi tiếp tục tiến về Miêu Cương, hy vọng có thể gặp được Cát Lợi Nhi ở đó. Nhìn dáng vẻ Liễu Dật, nếu không gặp được Cát Lợi Nhi, có lẽ y đến phát điên mất.

Cả bọn mới rời khỏi Liên Hoa trấn chưa lâu, định cho ngựa chạy nước đại bỗng một toán phi hành qua đỉnh đầu ào tới. Chúng gồm mười người, không, mười một người, vì trước mắt mọi người xuất hiện một kẻ, chính là kẻ đã bắt A Cửu: Vi Thiên Đà. Mười người đứng sau lưng hắn, có tứ tinh sát thủ của Ám môn. Lần này Vi Thiên Đà có vẻ rất tự tin, nhược bằng không hắn đã không dám lộ diện ngang nhiên như vậy.

Bọn Liễu Dật ghìm cương thắng ngựa. Đại Đao Vương quắc mắt nhìn Vi Thiên Đà quát lớn: "Ngươi có phải là nam nhân không? Giờ ngươi lại chường mặt ra, phá bỏ lời thề thốt ở động phủ lần trước rồi sao?"

Vi Thiên Đà mỉm cười với Đại Đao Vương, nụ cười gượng gạo nên khó coi vô cùng, cất giọng nói rin rít: "Kìa... Không phải Đại Đao Vương suýt chết dưới đao của ta đó sao? Hắc hắc, kiểu đầu tóc của huynh thú vị thật, thửa ở đâu vậy, tại hạ cũng muốn được như thế."

Thập Kiệt Nhất vung vẩy quyền đầu, gầm vang: "Không cần phải lôi thôi, ta sẽ cho ngươi cầu được ước thấy". Đoạn tung mình lên, Thiên Trùy trong Thiên cương đẩu quyền nhằm mặt Vi Thiên Đà đánh tới.

- oOo -

Hồi 71: Kim phi tích bỉ, kiếm ma thị nhân tâm

(Nay chẳng như xưa, ma kiếm chính là lòng người)

Một người sống trên cõi đời này, cũng có lúc phải làm việc mà mình không muốn. Tạo hóa trêu ngươi, vận mệnh an bài, vô luận là bao nhiêu anh hùng hào kiệt đều không thể thay đổi được.

(Cổ Long - Ngữ)

Cần phải rõ rằng Thập Kiệt Nhất đã từng phục Băng Thiền của Lãnh Kiếm, hiện giờ công lực đã bước sang một giai đoạn khác, dưới cuồng bạo chân lực, Thiên Trùy trong Thiên Cương Đẩu Quyền tụ tập lại, thoáng chốc ngưng tụ thành một luồng bạch sắc khí thể hình chiếc thiết trùy dài hai xích, trực tiếp đánh tới Vi Thiên Đà.

Vi Thiên Đà nhận thức được sự lợi hại của gã thiếu niên, thân hình loáng lên, ẩn sau lưng mười tên sát thủ rồi nói: "Giết hết bọn chúng cho ta."

Mười tên rút mạnh trường kiếm ra, tựa hồ sắp xếp sẵn, khoảnh khắc đã bao vây tất cả mọi người lại.

Đại Đao Vương tuốt Liệt Hỏa Kiếm từ sau lưng ra, quát lớn một tiếng: "Được, để ta có dịp dợt xem Thu Diệp Kiếm Pháp lợi hại đến đâu."

Mười tên lập tức tách ra thành năm tổ, mỗi tổ hai tên đối phó với một người. Lúc này ba người Liễu Dật, Đại Đao Vương, A Cửu tựa lưng vào nhau, chuẩn bị ứng phó với thế tiến công của sáu tên.

Một mình Thập Kiệt Nhất đấu với bốn tên vẫn ung dung chiếm thế thượng phong, chỉ chừng không quá một khắc nữa đám địch nhân sẽ bị đánh ngã hết.

Lúc đó, sáu tên bao vây nhóm ba người Liễu Dật bắt đầu tấn công.

Liễu Dật bây giờ có thể coi là lão giang hồ rồi, đối mặt với tình thế như vậy không vội vàng hay hoảng hốt, chân phải bước một bước, trực tiếp triển khai chữ "huyễn" trong Ẩn Toàn Cửu Ảnh, dễ dàng tránh thoát thế công của hai tên sát thủ.

Về phần Đại Đao Vương, sau khi lao thẳng vào giữa hai tên sát thủ, Liệt Hỏa Kiếm trên hữu thủ chuyển động mãnh liệt, xoay tròn thành kiếm hoa rực rỡ, tiếp theo là một tiếng hô vang dội: "Thu Phong".

Chỉ thấy Liệt Hỏa Kiếm dữ dội hóa thành điểm điểm kiếm hoa, kim quang cuồn cuộn, chỉ trong chớp mắt, Đại Đao Vương đã xuất ra hai mươi mốt kiếm, kiếm khí toát ra từ mỗi đường kiếm lưu lại tàn ảnh chừng ba xích trên không trung, bức bách hai tên sát thủ căn bản không có cơ hội đến gần, chỉ loanh quanh phía ngoài tìm thời cơ.

Đại Đao Vương thấy cơ hội đã đến, xoay ngược chuôi kiếm, ném Liệt Hỏa Kiếm về phía trước, song chỉ phất ra, hô: "Diệp Lạc". Chớp mắt, Liệt Hỏa Kiếm giống như lá vàng trong tiết thu chầm chậm phiêu đãng rơi xuống, xạ thẳng về phía hai tên sát thủ, tốc độ không nhanh nhưng cứ phiêu phưởng tả hữu trước mắt, khiến hai tên này không biết chiêu thức nhằm vào phương hướng nào. Trong lúc hai tên sát thủ còn đang lưỡng lự, "soạt" một tiếng vang lên, Liệt Hỏa Kiếm đã cắt qua yết hầu bọn chúng. Nguyên lai, một thức Diệp Lạc này nhìn thì chậm nhưng đó là ảo giác, thực ra tốc độ cực nhanh, hai tên sát thủ chỉ chần chừ thoáng chốc đã mất mạng dưới Liệt Hỏa Kiếm.

Lại nói hai tên sát thủ đang chuẩn bị xông vào A Cửu, thấy hai huynh đệ bên cạnh trong nháy mắt đã bị đường kiếm kì quái sát tử, liền chuyển ngay mục tiêu, quay đầu xông tới Đại Đao Vương.

Đại Đao Vương cười hắc hắc, thu hồi Liệt Hỏa Kiếm, thân kiếm chuyển động mãnh liệt, lật tay lại nắm lấy chuôi kiếm, quét ngang một đường, một đạo hoàng kim kiếm khí sát sạt mặt đất xạ ra. Hai tên sát thủ chưa kịp phản ứng liền cảm thấy dưới chân đau đớn kịch liệt, khi bọn chúng ngã xuống mới phát hiện kim sắc kiếm khí đã tiện đứt chân.

Đại Đao Vương vỗ về thanh Liệt Hỏa Kiếm, nhìn bốn kẻ ngã xuống rồi nhìn Thập Kiệt Nhất vẫn chưa giải quyết xong xuôi, cười nói: "Xem ra ta không tệ nhỉ, cũng được tính là một cao thủ rồi đấy."

Về phần Liễu Dật, hai tên một trước một sau không ngừng công kích y. Y dựa vào chữ "huyễn" trong Ẩn Toàn Cửu Ảnh nhanh nhẹn tránh thoát, y toan dùng Bích Ngọc Hoa Chỉ nhưng cự ly quá xa, hiệu quả khẳng định không cao. Thấy thanh trường kiếm cầm trên tả thủ, y thầm nhủ: "Đúng, thử qua lưỡi kiếm này vậy, xem Loạn Thập Tam Thức có tác dụng gì không."

Một mặt Liễu Dật tiếp tục tránh né, một mặt dùng hữu thủ nắm chắc chuôi kiếm, chớp mắt từ thân kiếm truyền lại một nỗi bi thương, khiến y đột nhiên nhớ đến Cát Lợi Nhi, trong lòng y luôn canh cánh câu hỏi vì sao, vì sao lại phải ly khai, phải chăng ái tình chân chính cứ phải nổi sóng nổi gió, trải qua khảo nghiệm mới được?

Chuôi kiếm khe khẽ chuyển động, y chém mạnh một nhát ra phía ngoài, một đạo bạch quang xen lẫn khí thể thực chất màu đen rời khỏi vỏ bao, một luồng âm thanh ngân lên như thể mới tỉnh lại sau giấc ngủ dài, mũi kiếm lặng lẽ xuất một thức Loạn tâm trong Loạn Thập Tam Thức nhắm thẳng vào một tên sát thủ. Thanh trường kiếm mạnh mẽ hướng tới với góc độ xuất kiếm không ai tưởng nổi, khi lưỡi kiếm tiếp cận phạm vi cách người tên sát thủ ba xích, từ thân kiếm xạ ra một đạo bạch quang, đó chính là "Loạn tâm thức" trong Loạn Thập Tam Thức, đạo bạch quang rực rỡ lóe lên trên thân thể tên sát thủ.

Tên sát thủ lùi mấy bước dài, đột nhiên dừng công kích, đứng đần ra.

Liễu Dật lại xuất thủ, vẫn là "Loạn ý thức" trong Loạn Thập Tam Thức, thanh trường kiếm của tên sát thủ theo góc độ từ dưới quét lên. "Cảng", hai lưỡi kiếm chạm vào nhau, khoảnh khắc một đạo bạch quang xạ vào trong thân thể tên sát thủ. Gần như đồng thời, tên sát thủ tựa như phát cuồng, xuất chiêu một cách hết sức vu vơ, chỉ theo thói quen mà thôi.

Liễu Dật nắm chắc trường kiếm, quét mạnh một nhát, hắc sắc khí thể quanh thân kiếm xen lẫn bạch quang xạ ra, "ầm" một tiếng như sấm nổ, tên sát thủ điên cuồng chớp mắt đã bị phân thây.

Liễu Dật cho Bi Mộng kiếm vào bao, đeo vào bên hông, nhớ lại một kiếm vừa rồi, nhát kiếm đó khiến y nhớ lại thanh kiếm của người trong giấc mộng giống hệt như Bi Mộng kiếm.

Tả thủ của y lại đặt lên chuôi kiếm, bước đến bên Đại Đao Vương cùng A Cửu, lúc đó Thập Kiệt Nhất đã giải quyết xong bốn tên địch thủ, mười tên sát thủ giờ chỉ còn lại một, là ai? Trừ Vi Thiên Đà thì còn ai nữa.

Thập Kiệt Nhất cũng bước đến bên Liễu Dật, nhất thời bốn người đối địch với mình Vi Thiên Đà nên bầu không khí đột nhiên yên lặng. Vi Thiên Đà không bao giờ tưởng nổi võ công của bốn người lại đột nhiên tiến bộ thần tốc như vậy, nhất là Đại Đao Vương, thanh quái kiếm trong tay hắn lợi hại hơn hẳn, còn quyền đầu của tên tiểu tử ngốc Thập Kiệt Nhất lại càng cương ngạnh.

Vi Thiên Đà nhìn mọi người, hắc hắc cười lên một cách ngốc ngếch rồi nói: "Tôi nghĩ các người sẽ không hạ thủ với người tay không tấc sắt." Nói xong từ từ lùi lại.

Liễu Dật gật đầu: "Đương nhiên chúng ta không thể."

Vi Thiên Đà vội vàng quay người chạy trốn.

Thập Kiệt Nhất nhìn Liễu Dật nói: "Lão đại, chúng ta không thể tha cho hắn, tên tiểu tử này sẽ phái thêm bọn sát thủ nữa tới."

Lúc này, Bi Mộng Kiếm trên tả thủ Liễu Dật đột nhiên rung động, từng trận ham muốn sát lục truyền vào thân thể y. Y nhìn Vi Thiên Đà đang chạy ra xa nói: "Đương nhiên chúng ta không thể tha cho hắn." Liền đó, hữu thủ nắm lấy chuôi kiếm nhẹ nhàng xoay chuyển rồi nghiêng người rút kiếm ra, ẩn sâu trong ý thức của Liễu Dật là Bi Tứ Thức y học được của người trong giấc mộng, chỉ thấy song thủ nắm chặt cán kiếm quát lớn một tiếng, một đạo hắc sắc khí tức mang theo bạch quang bắn ra. Có lẽ kiếm khí quá mạnh nên tiếp đó tiếng ầm ầm vang lên, thân thể Vi Thiên Đà chỉ trong khoảnh khắc bị phân thành vạn mảnh, nội tạng bên trong cùng gan ruột rải rác khắp mặt đất.

Liễu Dật lại tra kiếm vào bao, dường như hơi cảm khái khi nhìn thi thể Vi Thiên Đà, y không nói gì, chỉ gọi: "Chúng ta đi." Nói đoạn chuyển thân đi về chỗ buộc ngựa.

Đại Đao Vương nhìn Liễu Dật đoạn nhìn thi thể bị phân thành vạn mảnh, lắc đầu rồi cũng đi về chỗ buộc ngựa.

- oOo -

Hồi 72: Ma môn báo phục, bi thương đích thế giới

Một khi không phát giác được nguy hiểm, đó là điều đáng sợ nhất.

(Cổ Long - Ngữ)

Dưới bầu trời an tĩnh đầy sao, bàn tay của vận mệnh chung quy cũng không thể ngăn được sự tàn phá của dòng thời gian cuồn cuộn, cuối cùng đã an bài cho mệnh vận của Liễu Dật, có lẽ, đây cũng chính là nỗi tuyệt vọng vĩnh hằng...

Liễu Dật nằm dài trên đống cỏ khô, hai tay ôm lấy thanh kiếm "Bi Mộng", đôi mắt chăm chăm nhìn các vì sao trên trời, thế nhưng trái tim của y không biết đã lạc đến chốn nào rồi.

Đại Đao Vương cũng nằm ôm lấy thanh kiếm, chỉ bất quá hắn dường như quá yêu thích thanh Liệt Hỏa, cứ không ngừng ngắm nghía vuốt ve.

Riêng Thập Kiệt Nhất và A Cửu lẩn sang một bên, không biết nói chuyện gì, nhưng nhìn hai người đều rất vui vẻ.

Không ai làm phiền Liễu Dật, vì trong mấy ngày hành trình vừa qua, họ đã quen với việc y chẳng mấy khi nói chuyện, có lẽ y đang nghĩ đến Cát Lợi Nhi, đã nhiều ngày trôi qua, mà nàng vẫn như bóng chim tăm cá, hơn nữa thời tiết dần chuyển lạnh, một mình nàng lưu lạc bên ngoài khiến mọi người đều không khỏi lo lắng.

Đột nhiên, trong lúc Liễu Dật đang trầm tư suy nghĩ, một đạo bạch quang xẹt vào y, vừa nghe thấy tiếng gió cảnh báo, y lăn qua một bên, đứng phắt dậy quan sát xung quanh, nhưng tịnh không thấy bóng dáng ai.

Đại Đao Vương vùng đứng dậy, quát lớn: "Ai đó?" Nhưng chung quanh vẫn an tĩnh, không có một bóng người.

Liễu Dật cúi xuống nhìn vào vật màu trắng vừa bay đến, đó là một mảnh giấy được gấp lại cắm sâu xuống mặt đất, qua thủ đoạn như vậy, có thể kết luận công phu của người ném ra tuyệt đối không hề thấp, vậy sao lại không chịu hiện thân?

Liễu Dật rút tờ giấy lên, mở ra xem, chỉ thấy trên mặt giấy viết chi chít chữ, vừa đọc xong nội dung, y bật lùi một bước, vào giây phút đó, thời gian tưởng như ngừng hẳn lại, đột nhiên, y gầm lên như nổi cơn điên: "Không..."

Buông rơi tờ giấy, y tung mình nhảy lên ngựa, co chân thúc mạnh, ngựa hí một tiếng dài, bụi bốc lên mờ mịt, rồi biến mất trong ánh sáng lờ mờ của trời đêm.

Mọi người không hiểu tại sao Liễu Dật đột nhiên nổi điên, Đại Đao Vương nhặt lấy tờ giấy, đọc: "Khi đọc bức thư này, xin công tử đừng quá bi thương, toàn bộ một ngàn một trăm lẻ tám nhân mạng của Liễu phủ tại Giang Nam cách đây ngàn dặm, đều đã bị ta tiêu diệt, chỉ vì điệt nhi của ta là Vi Thiên Đà đã thảm tử dưới tay công tử, bức thư đầu tiên này xem như là lễ vật của ta gửi công tử, xin hãy chờ đón món lễ vật thứ hai sắp tới. Hộ pháp của Ma tộc Ma môn _ Vi Phong kính gửi."

A Cửu tức giận nói: "Hỏng rồi, gia quyến Liễu Dật gặp chuyện chẳng lành, chúng ta nên nhanh chóng đến xem". Ba người không kịp suy nghĩ nhiều, lên ngựa phi thẳng, đuổi theo Liễu Dật.

Lại nói về vùng biên cảnh, vượt qua Kiếm Môn quan, phải đi hàng ngàn dặm, mới về tới Giang Nam, dù có thiên lý bảo mã, cũng phải mất khoảng ba ngày mới có thể đến được, huống gì ngựa của Liễu Dật đang cưỡi chỉ là loại ngựa thông thường. Nhưng tâm trạng y lúc này đang lo âu, khẩn cấp đến cực điểm, bất chấp tính mạng liên tục thúc ngựa, sau ba ngày ba đêm, chết mất ba con ngựa, cuối cùng vào chiều tối ngày thứ tư, y cũng về tới Liễu phủ ở Giang Nam.

Vừa nhảy xuống ngựa, y tựa như bị thiên lôi đánh trúng, thời gian như dừng hẳn lại, đầu óc choáng váng, cảnh tượng trước mắt làm y bị đả kích đến mức không thể tưởng tượng được.

Nhiều tháng không về nhà, những tưởng chỉ là tạm biệt không ngờ lại thành tuyệt biệt, những tưởng chỉ không thấy nhau một lúc ai ngờ lại là nhìn nhau lần cuối, mọi chuyện xảy ra quá đột ngột, trái tim y trở nên trống rỗng, đã xảy ra chuyện gì? Tại cửa chính của Liễu phủ, mấy chục thi thể nằm la liệt, tất cả đều được che phủ bằng vải bố trắng.

Liễu Dật lê từng bước, từng bước tiến tới trước cửa, đột nhiên có hai bổ đầu chặn ngang trước mặt y, nói: "Đây là nơi xảy ra trọng án, người không liên quan không được vào."

Liễu Dật đẩy mạnh hai người, xé toạc tờ giấy có dấu niêm phong, mở cửa lớn bước vào bên trong...

Cảnh tượng vừa đập vào mắt, y kinh hãi cùng cực, chỉ nhìn một lần mà khắc cốt ghi tâm, vĩnh viễn không bao giờ quên được.

Bên trong sân lớn, còn đâu cây cỏ xanh um, trăm hoa đua sắc, mà chỉ thấy trên mặt đất đâu đâu cũng là thi thể cùng máu tươi chảy tràn, tựa như đọng thành một dòng sông máu, thân người và chân tay đứt đoạn vung vãi, thê thảm không nỡ nhìn. Y chạy thẳng vào đại sảnh, trong đó cũng la liệt thi thể, máu đọng thành vũng...

Liễu Dật dừng chân lại, y nhìn thấy phụ thân, người đã dưỡng dục y suốt hai mươi năm qua, nằm dài trên mặt đất, bên cạnh là vị ca ca nhiều năm nay không gặp mặt, và vị tỷ tỷ không biết về nhà lúc nào mà cũng phải chịu kiếp nạn. Trong sát na đó, y như hóa điên, tung người nhảy tới, ôm chặt lấy thi thể đã lạnh cứng của phụ thân.

Hai mắt y đỏ ngầu như máu, trong lòng không ngừng tự hỏi tại sao, tại sao! Y ôm lấy phụ thân, điên cuồng gào lớn: "Tại sao, tại sao lại tàn nhẫn như thế này, chuyện Liễu Dật đã làm sai sao lại trút hết lên người bọn họ, tại sao vậy?"

Nhìn thân thể phụ thân đã lạnh ngắt, công ơn dưỡng dục suốt hai mươi năm trời như hiện ra trước mắt y, cha già có đôi lúc nghiêm khắc, đó chỉ là mong muốn y lớn lên thành tài mà thỉnh thoảng trách phạt, tuy ngoài mặt ít khi mỉm cười, nhưng trong lòng vẫn rất cao hứng. Một gia đình ấm êm hạnh phúc, chỉ trong khoảnh khắc đã trở nên tan nát, thi thể khắp nơi, thảm khốc không nỡ nhìn.

Thinh không bỗng nhiên đổ mưa. Từng giọt, từng giọt rơi xuống trên người Liễu Dật, y vẫn ôm chặt lấy thi thể của phụ thân, trong lòng cảm thấy hối lỗi, hai mươi năm nay phụ thân cực khổ vất vả, vừa là cha, vừa là mẹ, công lao hai mươi năm dưỡng dục, chưa được báo hiếu, không ngờ ngày nay lại bị đứa con bất hiếu gây ra thảm họa sát thân. Liễu Dật nước mắt ròng ròng, khóc rống lên, nghẹn ngào nói: "Phụ thân, là hài nhi bất hiếu, là hài nhi không phải, cha tỉnh lại đi, cha ơi, chỉ cần cha tỉnh lại, Dật nhi sẽ không bướng bỉnh nữa, Dật nhi sẽ không trốn ra ngoài chơi nữa, Dật nhi sẽ không chọc giận cha nữa, cha ơi, cha tỉnh lại đi... Chỉ cần cha tỉnh lại, cha nói gì Dật nhi cũng sẽ nghe lời, con sẽ ra ứng thí công danh, sau đó sẽ cưới con dâu cho cha, cha, cha tỉnh lại đi... Cha vẫn chưa được bồng cháu mà!"

Thế nhưng, thi thể vẫn lạnh như băng, mặc cho Liễu Dật có hô hoán như thế nào, cũng không có ai trả lời, Liễu Dật đứng bật dậy, giơ cao Bi Mộng kiếm, ngửng đầu nhìn trời, gầm lên: "Trời già xấu xa, tại sao ngươi lại đối đãi với Liễu Dật như vậy, tại sao? Ngươi thấy buồn cười lắm sao? Tại sao, ngươi hãy trả lời ta, tại sao..." Tiếng gào từ từ nhỏ dần, tựa như bị tiếng sấm trên trời khỏa lấp, phảng phất như đang đáp lời Liễu Dật.

"Bịch", Liễu Dật quỳ xuống, tay vẫn nắm chặt Bi Mộng kiếm, cảm thụ nỗi bi thương của thế gian, y không nói tiếng nào, chỉ chăm chăm nhìn vào thi thể của phụ thân, của mọi người trong Liễu Phủ.

Mưa mỗi lúc một lớn, phảng phất như trời đất cũng bi thương, gió càng lúc càng lạnh, phảng phất như sự lạnh lùng của nhân thế, một tia chớp lóe lên, tiếng sấm đùng đoàng tiếp nối, tựa như là lời cảnh cáo của thế nhân, thiên lý tuần hoàn, số mệnh đã định, không ai có thể chống lại...

- oOo -

Hồi 73: Khắc cốt minh tâm, ná nhất cá vĩnh hằng

Con người ta không ai tránh khỏi bị lừa dối cũng như không tránh khỏi cái chết.

(Cổ Long - Ngữ)

Ai có thể hiểu nổi nỗi thống khổ của một con người trong khoảnh khắc mất toàn bộ người thân trong gia đình? Nó giống như một thế giới đang hoàn mỹ, bỗng chốc sụp đổ không còn tồn tại.

Mưa không ngừng rơi xuống, gió thổi mãnh liệt, tất cả, tất cả hòa cùng tâm trạng của Liểu Dật.

Đột nhiên, y cảm thấy phía sau có một luồng kình phong ập tới, vội lách đầu, mặc cho đạo bạch quang sượt qua gáy, "bụp" một tiếng, một vật màu trắng cắm phập vào cột của đại sảnh.

Liễu Dật đứng bật dậy, nhìn bốn phía hét lớn: "Ra đây, muốn nói gì thì bước ra đây, ra giết luôn cả ta đi, giấu đầu giấu đuôi như thế thì là hảo hán nỗi gì."

Tiếng vọng lồng lộng trong sân rồi dần tắt lịm, sau đó chỉ có tiếng mưa, hoàn toàn không thấy có động tĩnh gì. Liễu Dật hồi tưởng nội dung của tờ giấy thứ nhất, có vẻ đối thủ không muốn y chết một cách dễ dàng, mà muốn y phải chịu đủ giày vò trước đã.

Y lao bổ đến cột trụ găm tờ giấy, mở tờ giấy ra, chỉ thấy trên mặt có những chữ lớn viết bằng bút lông đập vào mắt: "Ta gửi cho công tử món lễ vật thứ hai, mời đến Lam Ngọc đình bên bờ Tây Hồ thu nhận kết quả, Ma tộc Ma môn, Hộ pháp _ Vi Phong kính bút." Mặc dù không biết đó là cái gì, nhưng y có cảm giác bất tường.

Y ném tờ giấy đi, đoạn rời khỏi Liễu phủ. Dưới trời mưa nặng hạt, y cứ chạy thục mạng, trong Lam Ngọc đình bên bờ Tây Hồ có gì? Trong đầu lướt qua vô số suy nghĩ mà y không dám nghĩ tới, bây giờ chỉ còn biết chạy thật nhanh đến Lam Ngọc đình, càng nhanh càng tốt, lúc đến đó, tất cả sẽ rõ ràng, đáp án cũng sẽ được phơi bày.

Cuối cùng, y cũng đến nơi, theo những gì y nhớ được đó là một ngôi đình bình thường, bên trong chỉ có mỗi một cái bàn, bốn cái ghế đá, nhưng tối nay thì không như vậy, xung quanh bốn góc đình có treo bốn đĩa đèn. Dưới ánh đèn, y nhìn thấy một người mà y luôn canh cánh trong lòng và đã bôn ba tứ xứ tìm kiếm.

Đó là... Cát Lợi Nhi. Liễu Dật không nghĩ gì nữa, lao ngay vào trong đình, nhìn khuôn mặt nhợt nhạt của Cát Lợi Nhi, y hỏi: "Tại sao nàng lại ở đây?"

Thấy y tới, Cát Lợi Nhi đột nhiên mỉm cười nói: "Muội đợi huynh, vài ngày trước có một vị bá bá đến tìm muội, nói là huynh cần gặp muội, và dẫn muội đến chỗ này."

Liễu Dật loạng choạng lùi lại, trong tâm chỉ vang lên một chữ: "Không, không, không". Đó không phải là sự thật, y thật không đủ can đảm để tin, mục tiêu thứ hai của Vi Phong lại chính là Cát Lợi Nhi.

Cát Lợi Nhi thấy y lùi lại, thất kinh hỏi: "Huynh làm sao vậy..." Chưa dứt câu, chợt nàng thấy bụng đau đớn kịch liệt, đau đến không thể đứng nổi, ngã vật xuống.

Điều lo sợ rút cục cũng xảy ra, Liễu Dật dù đã nghĩ tới nhưng không dám đối diện, y chạy nhanh tới ôm Cát Lợi Nhi, lắc mạnh đầu, nói: "Đừng, đừng, xin nàng đừng như vậy..." Nước mắt y đã cạn rồi, thứ duy nhất chảy ra được từ đôi mắt ráo hoảnh của y lại là máu.

Cát Lợi Nhi không dám nhìn y, lắp bắp: "Sao lại... sao lại như vậy?"

Liếu Dật thấy cổ họng nghẹn đắng, khàn khàn cất tiếng: "Vị bá bá đó chính là hộ pháp Ma tộc Vi Phong, thúc thúc của Vi Thiên Đà, hắn muốn trả thù ta, tại sao nàng lại tin tưởng hắn? Hắn đã sát hại toàn gia của ta, giờ lại còn muốn đoạt luôn cả sinh mệnh của nàng."

Cát Lợi Nhi nhìn y, dường như muốn nói điều gì đó. Chợt khóe miệng nàng trào máu, khúc khắc ho lên mấy tiếng, nàng nói: "Muội chỉ muốn... muốn nhìn thấy huynh, lúc muội quay lại tìm... tìm mọi người thì mọi người đã... đã không còn ở đó nữa."

Liễu Dật lắc mạnh đầu nói: "Tại sao lại như vậy, chúng ta chẳng đã thề ước rồi ư? Tại sao nàng muốn ly khai, lẽ nào tình yêu của chúng lại không thể qua được khảo nghiệm này hay sao?"

Cát Lợi Nhi mỉm cười, sắc mặt càng lúc càng nhợt nhạt, thậm chí ngả dần sang màu tái xanh, có phần hơi đáng sợ, cất giọng yếu ớt: "Có lẽ, tình ái là thứ không... kiên trinh, không thể tin được nhất trên cõi đời. Nhưng muội lại có được, hạnh phúc là như thế nào? Chính tay muội đã tự đã huỷ hoại... hạnh phúc của mình. Xin chàng tha thứ cho Cát Lợi Nhi, tha thứ cho Cát Lợi Nhi đã tự tư, đã không tin vào tình yêu của chàng..." Âm thanh nhỏ dần, về sau, y tựa hồ không nghe được nàng nói gì.

Liễu Dật nhìn vẻ hư nhược của Cát Lợi Nhi, đau lòng nói: "Đừng làm ta sợ, trong một đêm, ta đã mất tất cả, nàng là bây giờ là hi vọng duy nhất của ta, đừng chia lìa ta, có được không?"

Cát Lợi Nhi nhè nhẹ lắc đầu, bỗng bụng lại đau đớn kịch liệt, nàng cố nén đau nói: "Cát Lợi Nhi biết mình sắp chết, thư sinh, huynh còn nhớ những điều muội nói không? Những điều muội đã nói với thư sinh trong Hoa Hải phiêu tuyết."

Liễu Dật không thốt nên lời, chỉ gật đầu liên hồi...

"Nếu một ngày nào đó, Cát Lợi Nhi mất đi, xin huynh đừng bi thương... Huynh hãy nhìn ánh nắng ấm áp, ngắm bầu trời bao la, nhìn tuyết bay trong Hoa Hải, ngửi mùi hương ngào ngạt trong gió. Thế giới này vẫn rực rỡ như thế, dù cho Cát Lợi Nhi có ra đi, cũng không ảnh hưởng gì đến thế giới của thư sinh cả, xin hãy chôn vùi sâu Cát Lợi Nhi trong ký ức của thư sinh, được không?" Cát Lợi Nhi nhắc lại những lời nói đó để động viên Liễu Dật, nàng sợ rằng sau khi mình chết đi, tên ngốc này sẽ làm chuyện dại dột.

Liễu Dật ôm Cát Lợi Nhi chặt hơn, như thể sợ nàng bỗng nhiên biết mất, lắc mạnh đầu cất giọng run rẩy: "Không được, nàng thật là tàn nhẫn, ta đã mất tất cả, mất nốt mất tình yêu của nàng, thế giới của ta cũng tan biến theo, nàng bảo ta làm sao chôn vùi tình yêu đối với nàng? Nàng tàn nhẫn lắm, tàn nhẫn lắm..." Y nỗ lực vãn hồi, nỗ lực thay đổi ý định của nàng, như thể nàng vẫn sống khỏe mạnh.

Nhưng, y nào hiểu nổi tâm ý của nàng! Nàng chỉ muốn y có thể tiếp tục sống vui vẻ, không vì cái chết của nàng mà buông bỏ tương lai, buông bỏ thế giới của y, mặc dù thời gian bên nhau không lâu, nhưng nàng hiểu rất rõ con người y.

Khóe miệng nàng lại tiếp tục trào máu, nàng toan nói gì đó mà không thể cất lời, chỉ còn biết dùng ánh nhìn Liễu Dật, tựa như muốn khắc sâu mãi mãi hình bóng y trong tâm.

Nhìn dáng vẻ của Cát Lợi Nhi, tim Liễu Dật như tan làm muôn mảnh, nỗi đau đớn đó, không có lời lẽ nào miêu tả nổi, nỗi thống khổ đó, không có từ ngữ nào biểu đạt nổi. Y nhìn nàng, gào đến lạc giọng: "Cát Lợi Nhi, đừng làm ta sợ, nàng có nhớ những lời chúng ta từng thề không? Chúng ta sẽ cùng đi đến chân trời góc bể, cùng ngắm trăng sao, cùng hứng gió trong Hoa Hải. Chúng ta còn chưa thực hiện được, nàng không thể không giữ lời."

Cát Lợi Nhi miễn cưỡng lắc đầu, cơ hồ tận dụng chút khí lực cuối cùng thốt lên những lời trăng trối: "Không được rồi... hãy... để cho... tình yêu của thiếp... vĩnh viễn... vĩnh viễn... bồi bạn... bên... chàng..." Nói xong lời cuối cùng, nàng nhẹ khép rèm mi, chìm vào giấc ngủ vĩnh viễn, không bao giờ tỉnh lại.

Liễu Dật ôm chặt lấy thân thể mảnh dẻ của Cát Lợi Nhi, gào to: "Không... Đừng tàn nhẫn như vậy, ta xin nàng... mở mắt ra đi..." Nhưng y có hô hoán như thế nào, Cát Lợi Nhi cũng không thể nghe thấy, giây phút đó đã trở thành vĩnh hằng.

- oOo -

Hồi 74: Sanh vô tha luyến, phong đới bi thương tẩu

(Đời còn lưu luyến điều chi, để cho cơn gió cuốn đi nỗi buồn)

Dù ngươi có không phải là kẻ đa sầu đa cảm, ngươi cũng không thể ngăn tiếng thở dài. Tại sao sinh mệnh mỹ lệ luôn ngắn ngủi?

(Cổ Long - Ngữ)

Một người từng có được người mình thực sự thương yêu, lúc mất đi người thương, có lẽ người đó thấy tất cả thế gian này đều vô nghĩa. Ái tình vĩ đại như thế, cũng lại không thể hiểu nổi như thế.

Trên thinh không, mưa không ngừng trút xuống, gió lùa qua Liễu Dật và Cát Lợi Nhi. Liễu Dật ôm lấy thân thể đã lạnh giá, trong lòng chỉ còn một cảm giác duy nhất - thống khổ.

Thời gian lặng lẽ qua, gió thổi bay mái tóc dài của Liễu Dật, dưới ánh đèn âm u đó, mái tóc nhạt dần màu đen; bi thương, thống khổ, âu sầu, phẫn nộ vô hạn giao thoa lại, chỉ trong một đêm đã nhuộm bạc trắng mái đầu y.

Mưa ngớt dần, gió thổi mây tan khiến bầu trời hửng lên, vầng thái dương mọc lên từ đằng Đông, chiếu sáng vạn vật, ánh nắng ấm áp như tiếp sức sống cho mọi sinh mệnh trên mặt đất, nhưng thi thể Cát Lợi Nhi vẫn lạnh giá, bởi vầng dương không thể làm cho nàng ấm lại.

Liễu Dật ôm Cát Lợi Nhi, chậm rãi đứng lên, quay người rời khỏi ngôi đình, đi về "nhà".

Cũng lúc đó, Đại Đao Vương, Thập Kiệt Nhất, A Cửu, tất cả đã đến nơi, chứng kiến cảnh tượng ở Liễu phủ, mọi người toả ra đi tìm Liễu Dật, cuối cùng đã nhìn thấy tờ giấy tại cửa đại sảnh, biết là y tới đây, ba người sợ rằng y gặp chuyện chẳng lành, liền chạy hết tốc lực đến nơi.

Nhưng, khi đến nơi, đập vào mắt lại là cảnh tượng bi thương vô hạn: y đang ôm thân thể lạnh giá của Cát Lợi Nhi, mái tóc bạc trắng chỉ trong một đêm, đang lất phất trong gió nhẹ, ánh mắt trống rỗng, trong đầu chỉ có mỗi một suy nghĩ, là đưa Cát Lợi Nhi về nhà.

Lê từng bước, từng bước, không biết đã đi mất bao lâu, cũng không biết được bao xa, cuối cùng Liễu Dật về đến "nhà".

Bọn Thập Kiệt Nhất lẽo đẽo theo sau, không biết y làm thế để làm gì?

Y nhẹ nhàng đặt Cát Lợi Nhi xuống đất, rồi ôm lấy thi thể đã lạnh cứng của Liễu Mục Tịch, phụ thân y, đặt ông ngồi thẳng lên trên chiếc ghế cạnh bàn.

Liễu Dật quay lại, ôm lấy xác Cát Lợi Nhi, cùng quỳ xuống trước mặt thi thể Liễu Mục Tịch, nhìn người cha đã chết từ lâu, Liễu Dật nhẹ nhàng đỡ lấy Cát Lợi Nhi, nói: "Đứa con bất hiếu Liễu Dật, khấu đầu lạy tạ cha". Nói xong, đỡ Cát Lợi Nhi để cả hai cùng cúi lạy ba lần.

Cúi lạy xong, Liễu Dật cười vô hồn: "Cha, cha ơi, cha nhìn đi, hài nhi đã dẫn con dâu của cha về rồi kìa, hôm nay, chúng con thành thân trước sự chứng kiến của người, cha có đồng ý không?"

Y nhìn thân thể người cha, nói tiếp: "Cha không lên tiếng, tức là đồng ý, chúng con bái đường thành thân đây." Dứt lời, y ôm lấy Cát Lợi Nhi bắt đầu cúi xuống lạy.

Thập Kiệt Nhất, Đại Đao Vương, A Cửu đều muốn khuyên giải Liễu Dật, nhưng ai cũng hiểu tính cách của y, lúc này bi thương đã làm y mất hết lý trí, vì vậy, cả ba chỉ còn biết đứng bên chứng kiến.

Khi Liễu Dật và Cát Lợi Nhi đang khấu đầu lần thứ hai, đột nhiên có một tiếng kêu kiều mỵ vang lên: "Không được."

Mọi người đều giật mình, quay về hướng phát ra âm thanh, trước mắt hiện lên một người quen, chính là tôn chủ của Ma tộc Ma môn: Thất Nguyệt. Lúc này nàng bận bộ đồ màu đỏ bó sát thân thể, vòng bảo hộ tay trái màu phấn hồng, tay phải để trần, để lộ hoàn toàn ra ngoài nước da ngăm đen, hạ thân vận một chiếc váy ngắn đỏ, cặp chân dài xinh đẹp, thon thả mang đôi giày da trâu cao tới đầu gối, chiếc áo choàng đơn màu đỏ bao phủ toàn thân. Nàng ăn vận hết sức đồng bộ, trang phục vẫn thế nhưng màu sắc đã đổi thay.

Tay trái nàng cầm Vũ Nguyệt kiếm dài mảnh, đẹp đẽ, tiến tới trước mặt mọi người.

Liễu Dật đặt nhẹ nhàng thi thể Cát Lợi Nhi trên mặt đất, rút phắt Bi Mộng kiếm ra hỏi: "Sao lại không thể?"

Thất Nguyệt dừng bước, trả lời: "Cô ta đã chết rồi, ngươi muốn lạy tạ trời đất bái đường thành thân với một người vừa mới chết à?"

Liễu Dật nhìn Thất Nguyệt, ha hả cười vang, tiếng cười ngập tràn bi thương, phẫn nộ, đột nhiên, y ngừng tiếng cười, quát to: "Câm miệng, ngươi mở to mắt ra mà nhìn, tất cả những gì ở đây đều là Ma môn các người ban cho, bây giờ, chắc ngươi đang cao hứng lắm? Ta bây giờ chẳng còn gì hết, chẳng còn gì hết."

Thất Nguyệt chết lặng, ấp úng: "Ta không biết, ta không nghĩ rằng..." Chưa nói hết lời, bỗng nhiên ngực đau nhói.

Nháy mắt, Bi Mộng Kiếm trong tay Liễu Dật vung lên nhanh như cắt, đâm thẳng vào tim nàng. Mắt y vằn máu.

Tất cả chỉ xảy ra trong chớp nhoáng rồi ngừng lại, khoảnh khắc ấy nào biết ai ngưng thị nhìn ai, nhưng trong mắt họ vĩnh viễn đọng lại cố sự này.

Thất Nguyệt nhìn Liễu Dật, không ngăn được dòng lệ, nàng từ từ quỵ xuống, cố nén đau đớn, dịu dàng nói: "Mặc dù sự thể này không phải do ta gây ra, nhưng, nếu giết ta, công tử cảm thấy thoải mái hơn thì ta chết cũng đáng."

Tình yêu chân thật là không quan tâm phải trả giá bao nhiêu, không đòi hỏi phải được đáp lại, thậm chí, có kẻ si cuồng đến nỗi chỉ vì một nụ cười của người ấy mà hiến dâng cả sinh mệnh - Thất Nguyệt là cô gái như thế.

Liễu Dật phẫn nộ: "Được, ta giết ngươi luôn."

Đại Đao Vương và A Cửu hét lên: "Không được." Họ thực sự không muốn Liễu Dật bị cừu hận che mờ đôi mắt.

Đúng lúc y định ra tay, một đạo hàn quang từ trên trời lao tới, cắm thẳng vào tim Liễu Dật, luồng đại lực đẩy y kéo tuột Bi Mộng kiếm cắm trên mình Thất Nguyệt, loạng choạng lùi lại mấy bước, "huỵch" một tiếng, ngã quỵ xuống, máu từ dưới bụng phún ra ào ạt.

Một hắc y nhân xuất hiện giữa hiện trường, tay phải nhích một cái, thanh kiếm trắng bạc đang đâm sâu vào thân thể Liễu Dật bay về. Chỉ thấy hắc y nhân cúi người nói: "Tôn chủ, thuộc hạ đến muộn, xin người thứ tội". Người lên tiếng là hộ pháp Ma tộc Vi Phong, cũng chính là kẻ âm thầm gây ra tội ác này.

Biến hóa tại hiện trường khiến mọi người đờ ra, không ai ngờ sự tình lại tiến triển đến mức này. Đại Đao Vương, Thập Kiệt Nhất và A Cửu chạy ào tới, đỡ lấy thân thể Liễu Dật.

Thất Nguyệt quay phắt đầu lại, trợn mắt nhìn Vi Phong, tức giận: "Những điều này do ngươi gây ra? Cuối cùng ngươi cũng giết cả y, ngươi đã báo cừu được cho đứa cháu bỏ đi rồi đó?" Đoạn vung mạnh trường kiếm chém thẳng vào Vi Phong.

Nhưng Vi Phong là nhân vật thế nào, tu luyện đã trăm năm, trở thành hộ pháp Ma môn tất không thể tầm thường, bằng công lực của Thất Nguyệt, dù có bảo kiếm trong tay, cũng đừng mong đụng tới một sợi lông chân của hắn. Chỉ thấy hắn chập hai ngón tay lại, Vũ Nguyệt kiếm sắc bén tức thì bị kẹp cứng lại.

Vi Phong cúi đầu nói: "Lão thần chỉ vì lo lắng cho an nguy của tôn chủ, hy vọng tôn chủ thấu hiểu nỗi khổ tâm của lão thần, xin người không nên vì một ngoại nhân mà làm tổn thương hoà khí". Nói xong, lão phất tay, quay người bỏ đi.

Nhìn Vi Phong bỏ đi, Thất Nguyệt hiểu nàng không thể giết nổi hắn, bèn quay đầu lại dõi ánh mắt lên mình Liễu Dật.

Chỉ thấy trên thân Liễu Dật máu nhuộm đỏ, nhát kiếm lúc nãy đã xuyên thấu tậm tạng y, xem ra y khó lòng sống nổi. Bỗng nhiên y bật dậy, hét lớn: "Bỏ ta ra". Y cầm lấy Bi Mộng kiếm, dựa vào chút nghị lực cuối cùng, từng bước từng bước tiến về phía Thất Nguyệt.

Thất Nguyệt hiểu rằng, y tiến lại để giết nàng, nhưng nàng không muốn phản kháng, nhẹ nhàng nhắm mắt lại.

Một bước... Hai bước... Ba bước... Tiếng bước chân dừng lại, Thất Nguyệt cảm thấy hết sức bình tĩnh, cứ thế này chết đi có lẽ lại là cách giải thoát tốt nhất với nàng.

Nhưng nàng đợi một hồi lâu, vẫn không thấy động tĩnh nào cả, đột nhiên, một giọng nói nhè nhẹ thoảng qua bên tai: "Xin lỗi... Ta biết mình sắp chết, ta không muốn làm cô tổn thương, cô phải thay đổi cái nết ương ngạnh nếu không chắc chắn phải chịu thiệt thòi. Ta không phải là người đáng để cho cô yêu, mong cô hãy quên ta đi, tìm lấy một người mà yêu, và người đó cũng yêu cô". Thanh âm dần khuất xa, Thất Nguyệt mở mắt ra, nàng thấy Liễu Dật đang cố gắng tiến về phía thi thể Cát Lợi Nhi.

Nhìn theo bóng dáng kiên cường đó, nàng lắc đầu: "Thư sinh ngốc, chẳng phải huynh đã nói nói rằng, khi trong tâm khắc ghi hình bóng một người, làm sao có thể chứa đựng thêm kẻ khác? Huynh biết không? Phải chịu nỗi thống khổ đó, so với việc huynh giết ta, còn đau đớn hơn gấp vạn lần."

Liễu Dật quỳ phịch xuống, vết thương trước ngực lại trào máu ào ạt, y miễn cưỡng đỡ Cát Lợi Nhi, bắt đầu bái đường...

Đại Đao Vương đứng bên cạnh, một nam nhân cứng rắn như gã nhưng lúc này mắt ngập đầy lệ nóng bỏng, gã biết nói gì? Thập Kiệt Nhất và A Cửu sẵn sàng đỡ lấy Liễu Dật, sợ rằng y gục xuống và không gượng dậy được nữa.

Dưới ánh nhìn chăm chú của ba người, Liễu Dật và Cát Lợi Nhi đã hoàn thành việc bái đường. Liễu Dật dịu dàng ghì Cát Lợi Nhi vào ngực, nói với Thập Kiệt Nhất: "Hảo huynh đệ... đệ phải tự đi con đường của mình, sau này ca ca không thể đồng hành với đệ nữa."

Nhìn mọi người, hai chân Thất Nguyệt nhũn ra, không thể gượng nổi, đành phải ngồi xuống, giữa nơi xác chết nằm la liệt, vẫn tồn tại tình cảm bạn bè, nhớ lại những lời Liễu Dật vừa nói, từng lời từng lời như dao khắc sâu vào trong tâm trí, có lẽ, suốt đời này nàng không thể quên được y.

Thập Kiệt Nhất lao tới, quỳ xuống trước mặt Liễu Dật, nói lớn: "Lão đại, đừng dọa đệ, Thập Kiệt Nhất sợ rồi, Thập Kiệt Nhất tin chứ, lần nãy lão đại cũng nhất định không sao."

Liễu Dật nhìn A Cửu, nói tiếp: "A Cửu, Thập Kiệt Nhất luôn yêu thương muội, hy vọng là... muội cho hắn một cơ hội."

Nhìn bộ dạng đó của y, A Cửu còn nói được gì ngoài gật đầu liền liền.

Liễu Dật lại nói với Đại Đao Vương: "Thật tiếc là ta không thể thấy huynh và Thủy Nhi thành thân, đó là nỗi hận trong đời tiểu đệ, sau khi đệ chết... xin nhờ huynh đem đệ và Cát Lợi Nhi mai táng tại Hoa Hải phiêu tuyết ở Liên Hoa trấn, có được không?"

Đại Đao Vương vội gật đầu...

Đột nhiên, tất cả lặng đi, Liễu Dật ôm Cát Lợi Nhi trong lòng, thanh thản nhắm mắt lại, bất kỳ thanh âm nào trên thế giới này cũng không còn có thể lọt vào tai y.

Thập Kiệt Nhất ôm chặt lấy Liễu Dật, bật khóc nức nở: "Lão đại, tại Thập Kiệt Nhất không tốt, không thể bảo vệ được lão đại, đừng đùa với Thập Kiệt Nhất nữa, tỉnh lại đi". Nói đoạn hắn lay mạnh thân xác Liễu Dật.

A Cửu giữ Thập Kiệt Nhất lại, vừa khóc vừa nói: "Đừng như vậy, hãy để lão đại an tâm ra đi, có lẽ dưới đó lão đại được gặp lại Cát Lợi Nhi và gia quyến sẽ hạnh phúc hơn."

Bầu trời ngày càng u ám, gió nhẹ mơn qua, như thể ve vuốt nỗi sầu thảm của nhân gian...

- oOo -

Hồi 75: Tam thế luân hồi, kim sinh chi ngã dục thành ma

(Ba kiếp luân hồi, kiếp này y muốn thành ma)

Có lẽ, kết cục và vận mệnh đã được định sẵn trong cõi u minh mà tâm hồn trai trẻ của chúng ta không cách nào biết trước được. Khi câu chuyện này không diễn tiến đúng như ý nguyện, chúng ta không có tư cách để nhớ lại nữa.

Bốn phía là bóng đen vô tận, không bến bờ, Liễu Dật không biết mình đang trôi dạt trên trời hay dưới đất, y nhìn lại thân thể chính mình, tự hỏi mình chết rồi ư? Nhưng khi chết đi phải tới Địa phủ, uống Mạnh Bà thang, sao lại ở đây, mà đây là đâu? Bóng tối đặc sệt, phảng phất trong màn đêm sức mạnh hiện hữu khắp nơi.

Đột nhiên, một giọng nói quen thuộc, ấm áp, đầy nhung nhớ vang lên: "Ngươi đã tới!"

Y quay đầu lại, nhìn về phía thanh âm phát ra: là Niết nhân.

Trước mắt y hiện ra một người toàn thân vận kình trang đen nhánh, chất liệu y phục hình như làm bằng da, mỗi khi cử động, y phục phát xuất ra tiếng kim thuộc va chạm loảng xoảng. Khuôn mặt hắc y nhân sáng sủa, kiếm mi hổ mục, thân thể tráng kiện, tay mang găng đen, cầm một thanh kiếm quen thuộc: Bi Mộng kiếm.

Liễu Dật nói: "Ta nhận ra ngươi, ngươi chính là Niết nhân, kẻ đã cùng Bàn Cổ quyết chiến."

Người được gọi là Niết nhân bỗng nhiên mỉm cười, gật đầu: "Đương nhiên ngươi nhận ra ta, bởi vì ngươi chính là ta."

Liễu Dật bật lùi một bước: "Ngươi nói sao?"

Niết nhân nhẹ nhàng khoa tay, trên mặt đất bằng phẳng xuất hiện một chiếc bàn đá cùng hai cái ghế đoạn nói tiếp: "Ngồi xuống đi, ta sẽ kể cho ngươi những gì muốn biết, có lẽ khi nghe xong, ngươi lại có động lực để sống tiếp."

Liễu Dật từ tốn ngồi xuống rồi hỏi: "Đây là đâu?"

Niết nhân cũng ngồi xuống, nhìn quanh đoạn đáp: "Đây là giấc mộng của ngươi, vì giấc mộng này của ngươi mà ta mới đến đây."

Liễu Dật lại hỏi: "Lời ngươi nói vừa nãy là ý gì? Tại sao ta lại là ngươi?"

Niết nhân nhìn y, kể lại: "Bảy ngàn năm trước, ta giao đấu với Bàn Cổ, Nữ Oa, chắc ngươi cũng biết, vì trên mình ngươi có bốn khối hồng ngọc."

Liễu Dật vội vàng nhìn xuống cổ, làm gì có bóng dáng khối ngọc nào đâu. Hành động của y khiến Niết nhân bật cười: "Không cần nhìn nữa, các khối ngọc đã thấm vào huyết dịch trong thân thể ngươi, giấc mộng hiện giờ là do nó tạo ra."

Liễu Dật vội hỏi: "Khối ngọc này thần bí thật, nó là gì?"

Niết nhân thở dài sườn sượt: "Bảy ngàn năm trước, ta trót yêu Thánh nữ của Thần tộc, vốn được Bàn Cổ và Nữ Oa cùng sáng tạo ra, tên nàng là Thiên Nữ, nhưng Bàn Cổ e ngại sức mạnh của ta, một long muốn trừ diệt, cuối cùng, hắn đã có được cớ để hạ thủ..."

Ngừng lại một lúc, Niết nhân kể tiếp: "Qua giấc mộng, chắc ngươi cũng biết, cái cớ đó là Thần, Ma không thể yêu nhau. Được Long Hoàng trợ lực, ta đánh bại Bàn Cổ, Nữ Oa, nhưng khi biết Thiên Nữ đang luân hồi tại trần thế, ta đã tự đọa lạc bản thân."

Liễu Dật cảm thấy kỳ quái liền hỏi: "Long Hoàng là gì?"

Niết nhân đặt Bi Mộng kiếm lên bàn rồi nói: "Nó đó... Tám ngàn năm trước, Bàn Cổ khai thiên, sang tạo ra thủ hộ thần thú đầu tiên là Long Hoàng. Nhưng lúc đó hắn không kiểm soát được năng lực bản thân, vô tình tạo ra một con rồng có năng lực của Thần như mình."

Liễu Dật nhìn Bi Mộng kiếm, cảm thấy thân thuộc không gì so sánh được.

Niết nhân nói tiếp: "Bất kỳ sinh vật nào cũng có tư tâm, thần tiên cũng không ngoại lệ, làm sao Bàn Cổ có thể để một con rồng có Thần lực tương đương hắn tồn tại như vậy, lòng ích kỷ đã thôi thúc hắn ra tay với Long Hoàng."

Long Hoàng không hề phản kích, bởi chính Bàn Cổ đã sáng tạo ra nó, nó nghĩ hắn giết nó tự nhiên phải có lý do, nhưng trước khi chết, cuối cùng nó cũng hiểu, nó chết chỉ vì lòng tham lam của Thần, nên để lại lời chú bi thương: "Khi gió gầm vang, mây khóc gào, đất nghiêng ngả, ta sẽ hóa thân thành cây kiếm bi thương vĩnh hằng, rồi có một lúc nào đó ta sẽ uống máu ngươi."

Niết nhân dừng một chốc rồi tiếp lời: "Sau đó, Bàn Cổ tiếp tục dựa vào sức mạnh bản thân, tạo ra hai thủ hộ thần thú là Thiên Long và Hỏa Phượng, nhưng không ai biết rằng, thủ hộ thần thú mạnh nhất đã hoá thân thành lời trớ chú bi thương nhất trên thế gian _ Bi Mộng kiếm."

"Còn ta, cùng với tâm ma của Thần xuất hiện mà được sinh ra, ta lấy được Bi Mộng kiếm, đồng thời sa vào lưới tình với Thánh nữ được Nữ Oa và Bàn Cổ sáng tạo ra: Thiên Nữ. Vận mệnh đã xếp đặt ta phải chịu đựng nỗi khổ ba kiếp luân hồi."

"Kiếp thứ hai, ta chuyển thân thành Vị Linh Phong, vận mệnh an bài sẵn con đường đưa ta gặp được Thiên Nữ kiếp trước, là Quỳnh Diệp Ti của Côn Lôn tiên tộc. Chúng ta yêu nhau, nhưng nỗi khổ ba kiếp còn đó, làm sao chúng ta ở bên nhau được? Cuối cùng, do người trong thiên hạ ngăn trở, chúng ta đã sa chân vào luân hồi."

Đột nhiên, Niết nhân dừng lại, hỏi: "Ngươi có biết rằng kiếp thứ ba, ai là chuyển thân của ta không?"

Liễu Dật lắc đầu: "Làm sao ta biết được?"

Niết nhân giơ ngón tay màu đen ra, chỉ vào y và nói: "Là ngươi, Liễu Dật."

Liễu Dật thất kinh, vội lắc đầu: "Không, không thể thế được... Làm sao có khả năng đó!"

Niết nhân nói tiếp: "Vận mệnh đã an bài rồi, ngươi sẽ gặp lại Thiên Nữ, ở lần chuyển thế thứ ba của nàng, chính là Cát Lợi Nhi bây giờ."

Liễu Dật nghe thấy tên của Cát Lợi Nhi, lòng đột nhiên đau nhói, y chợt nhớ đến lời của nàng trước lúc đi xa: "Thư sinh, nếu một ngày nào đó, Cát Lợi Nhi mất đi, xin huynh đừng bi thương... Huynh hãy nhìn ánh nắng ấm áp, ngắm bầu trời bao la, nhìn tuyết bay trong Hoa Hải, ngửi mùi hương ngào ngạt trong gió. Thế giới này vẫn rực rỡ như thế, dù cho Cát Lợi Nhi có ra đi, cũng không ảnh hưởng gì đến thế giới của thư sinh cả, xin hãy chôn vùi Cát Lợi Nhi sâu trong ký ức của huynh, được không?" Những lời này khiến lòng y càng thêm đau đớn.

Y đứng bật dậy, gào lên điên cuồng: "Không... Ta không muốn để cho vận mệnh an bài, ta không muốn."

Niết nhân từ từ đứng dậy: "Trong lòng ngươi đau lắm phải không? Ngươi muốn báo cừu? Những kẻ từng ngăn trở, từng cướp đoạt tất cả của ngươi, ngươi không muốn giết chúng sao? Cả các vị Thần giả dối, những kẻ tự xưng là hai phái chính tà."

Liễu Dật quay phắt lại, mắt đỏ ngầu như máu: "Ta muốn chứ, nhưng ta đã chết rồi, làm gì có tư cách để nghĩ tới điều đó, ta giết chúng bằng cách nào?"

Giọng nói của Niết nhân bỗng trở nên cứng rắn: "Không, ngươi không hề chết, ngươi đã có được Lan Nhĩ Phi Na Thanh của ta, khối ngọc đó đã hoàn toàn ngấm vào huyết dịch của ngươi, trong thân thể ngươi hiện đang chảy dòng máu của chân Ma tộc - cuồng bạo chi huyết. Chỉ cần ngươi muốn, ta sẽ đem Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp, Bi Tứ Thức truyền cho ngươi để ngươi sống lại."

Liễu Dật hỏi: "Hà cớ ngươi lại giúp ta như thế?"

Niết nhân bình tĩnh đáp: "Ngươi là ta, ta là ngươi, giữa chúng ta không có sự tồn tại của hai cá nhân riêng biệt, báo thù là điều ta mong muốn, còn ngươi có kiếm ý và thân thể hoàn mỹ, có thể hoàn thành những gì ta mong muốn."

Liễu Dật đột nhiên lùi lại một bước: "Ngươi muốn ta thành ma!"

Niết nhân trả lời: "Trong thân thể ngươi hiện giờ đang cuộn chảy cuồng bạo chi huyết của chân ma, chúng ta đều là ma, điều đó không thể phủ nhận, ngươi sợ à? Ngươi không muốn cải biến vận mệnh bản thân, tự mình nắm lấy sinh mạng của mình sao?"

Liễu Dật lắc đầu nguầy nguậy: "Ta không sợ, ta hiện giờ chỉ muốn giết sạch những kẻ đã lấy đi của ta người thân và ái tình, kể cả vị Thần đã khống chế vận mệnh của ta, ta không muốn bỏ mặc cho người khác sắp đặt. Ta đã mất tất cả, trong lòng ta chỉ còn lại cừu hận, ta muốn báo thù, báo thù..." Thanh âm vang xa, cuối cùng chìm vào yên lặng.

Niết nhân đột nhiên bật cười cuồng dại, là bi thương và tang thương, rồi nói tiếp: "Hãy để chúng ta kết thúc nỗi thống khổ ba đời ba kiếp, cầm kiếm lên, ta sẽ dạy ngươi tất cả những gì ta biết."

Liễu Dật chầm chậm tiến tới thanh kiếm, đưa tay ra dồn lực nắm chặt lấy Bi Mộng Kiếm, lúc này bi thương và cừu hận trong lòng y cháy lên ngùn ngụt...

- oOo -

Hồi 76: Nhất mộng thập niên, tâm tự Hoàng Hà thủy mang mang

(Giấc mộng mười năm, lòng mênh mang như nước Hoàng Hà)

Có lẽ con người siêu việt hơn tất thảy nhưng phải chịu thời gian ước thúc, khi đến cuối cuộc đời, ngoảnh đầu nhìn lại, ta bỗng phát hiện ngày hôm qua như là giấc mộng.

Liễu Dật lặng lẽ mở mắt, thứ đầu tiên nhập vào mắt y là một khoảng không trống rỗng, ngoài một mỏm đá đen phía trên, y không nhìn thấy gì, bản thân y đang nằm trên một chiếc giường chung quanh bao phủ bởi thuỷ tinh trắng. Không hiểu vì nguyên nhân gì, mà từng đợt từng đợt hơi ấm phả vào thân thể, y nhẹ nhàng đứng lên, bỗng cảm thấy trên tay có vật gì đó nằng nặng, chính là Bi Mộng kiếm.

Cùng lúc, y đột nhiên bị hình ảnh của một người trong thủy tinh trắng hấp dẫn, nhìn thật kỹ, người đó mặc y phục da đen, thắt lưng chỉnh tề, cánh tay đeo găng đen nắm thanh trường kiếm cũng màu đen, kiếm mi lãnh mục, khuôn mặt góc cạnh, đường nét rõ ràng như được điêu khắc từ đao, phảng phất như đã gặp ở đâu đó. Mắt y ràn rụa thương tang và bi thương, chiếc khăn hiệp khách quấn gọn mái tóc dài trắng bạc, nhiều sợi loà xoà trên khuôn mặt như những sợi tơ.

Y cử động nhẹ nhàng... tức thì người trong thủy tinh cũng chuyển động, đó chính là... hình ảnh của y, sao lại biến đổi thành như vậy. Y tựa hồ không nhận ra chính bản thân, há chẳng phải giấc mộng này là thật, trong giấc mộng, y đã học được mọi thứ của Niết nhân, thậm chí Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp cũng đã luyện đến tầng thứ mười hai: Nghịch Thiên tầng. Y chỉ coi đó là một giấc mộng, không ngờ Niết nhân thực sự đã làm cho y được hồi sinh, và bản thân y cũng già đi rất nhiều.

Y chợt nhớ ra một việc, đeo kiếm vào thắt lưng, chuyển mình rảo bước đi ra ngoài. Tiếng xé không khí truyền tới tai, là thanh âm ngự khí phi hành, mặc dầu còn cách rất xa, nhưng y minh bạch phi thường, kẻ đó đang hướng tới đến chỗ y.

Y ngừng bước, y muốn nhìn xem ai đã mang mình từ phần mộ đến đây...

Ước chừng sau một tuần trà, thân ảnh của một lão đầu xuất hiện trước mắt, chính là Tửu thúc ở Phong Ma trấn, nhưng trong đầu y chợt nổi lên hình ảnh một người, thốt lên: "Chiến thần?"

Tửu thúc hạ xuống đất, giật mình lùi lại một bước, nhìn chằm chằm vào Liễu Dật: "Ngươi đã tỉnh rồi à, ngươi là ai? Làm sao ngươi biết được thân phận của ta?" Liễu Dật ngoẹo đầu, hồng quang trong mắt loé lên, cất tiếng: "Ngươi là Chiến thần của Thần tộc, còn ta là ta."

Tửu thúc chăm chú nhìn y, hỏi tiếp: "Ngươi là Niết nhân? Không, là Vị Linh Phong? Hay là... Liễu Dật?"

Liễu Dật đáp: "Điều đó không quan trọng, quan trọng là ta đã hồi sinh, ta chính là ta. Bây giờ chính là lúc bắt đầu, ta cần phải nghịch thiên cải mệnh, kẻ nào muốn ngăn cản ta, kẻ đó phải chết! Mặc dầu ngươi là người của Thần tộc, nhưng ta không giết ngươi, chí ít ngươi đã từng cứu ta khỏi quan tài."

Tửu thúc nghe vậy, đột nhiên quay người, dấy lên cuồng phong, phút chốc đã biến thành một người khác - một trung niên mặc chiến giáp vàng, đầu đội mũ vàng, lưng đeo bảo kiếm, khuôn mặt cương nghị, bộ râu đen nhánh phất ngang qua mặt, tiêu sái như thiên thần.

Chiến thần nhìn Liễu Dật, vòng tay cung kính: "Cung hỷ thần công của Ma thần đại thành, tiểu thần chỉ tận lực góp chút sức nhỏ bé cho người."

Liễu Dật quay đầu sang một bên, hỏi: "Nói ngay, tại sao phải giúp ta, Liễu Dật được như ngày nay, toàn bộ đều dựa vào hồng ngọc của Tửu thúc mà."

Chiến thần lắc đầu: "Tiểu thần nhìn trộm cuốn Vô tự thiên thư, biết được thiên cố sự cảm động giữa Niết nhân và Thiên nữ, lòng phàm lay động, định dựa vào sức mình cải biến mệnh vận của ngài, vì vậy đã tự lấy một khối ngọc Lan Nhĩ Phi Na Thanh đưa cho ngài, trong lộ trình tiểu thần thiết kế sẵn ngài chỉ có được hai khối ngọc là cùng, không ngờ đến ngài đã lấy được cả bốn khối, hoàn thành con đường nhập ma."

Liễu Dật hỏi Chiến thần: "Ngươi không sợ Bàn Cổ biết sao?"

Chiến thần đáp: "Bàn Cổ và Nữ Oa đang trong giấc ngủ sâu, tạm thời chưa thể thức dậy."

Liễu Dật nhìn sang một bên, nói: "Đây là đâu?"

Chiến thần đáp: "Thiên Sơn."

Liễu Dật lại hỏi: "Ngươi biết là ta không chết?"

Chiến thần hồi đáp: "Chỉ cần người nào có ngọc Lan Nhĩ Phi Na Thanh trên mình, tất không thể tử vong, hơn nữa đó ngài có trọn bộ ngọc, hiện tại mang trong mình cuồng bạo chi huyết, khẳng định đã vượt qua được giới hạn của vòng sinh tử, đạt tới vĩnh viễn sinh tồn. Lúc tiểu thần động lòng phàm, cứu ngài thoát ra, không nghĩ tới ngài ngủ liền mười năm, hôm nay tỉnh dậy, coi như thần công đại thành."

Liễu Dật kinh ngạc, không nghĩ rằng mình đã học kiếm trong mộng với Niết nhân tới mười năm, thật sự có cảm giác mất mát như bãi bể nương dâu.

Chiến thần liếc nhìn Liễu Dật, nói tiếp: "Ma thần khẩn trương thế này, có phải muốn tìm người của Ma môn báo cừu?"

Liễu Dật nói với Chiến thần: "Gọi ta là Liễu Dật được rồi, không cần phải Ma thần này nọ. Ngươi nói không sai, đầu tiên ta cần Ma môn bắt chúng phải huyết trái huyết hoàn, nợ Liễu Dật này một, Liễu Dật này bắt trả gấp mười." Tay trái y xiết chặt thanh kiếm.

Chiến thần lắc đầu, nói: "Ma... Liễu công tử có lẽ không biết đấy thôi, mười năm nay, thế lực thiên hạ phân đôi, phía tây có tam đại môn phái của Tiên tộc là Thần môn, Vô vi đạo môn, Lưu quang pháp môn, cùng với các đại phái của Nhân tộc là Lãnh kiếm môn, Phật môn, Thanh Âm nhã các liên minh lại, xưng là Nhân gian chính đạo. Phía bắc có Ma tộc tam đại phái là Ma môn, Ám môn, Huyết môn, cùng Thiên thần đàm mới quật khởi liên minh với nhau, tự xưng là Ám chi Ma đạo. Thêm vào đó, Quỷ tộc vốn có khế ước với Ma tộc cũng bắt đầu rục rịch. Thế nên Liễu công tử muốn tìm Ma môn tính sổ tất sẽ gặp không ít phiền phức."

Liễu Dật hừ lạnh một tiếng: "Bi Tứ Thức có thể huỷ thiên diệt địa, toái tinh phá nguyệt, ta lại sợ bọn chúng đông người sao?"

Chiến thần giải thích thêm: "Ba mươi năm trước, kiếm pháp của tộc trưởng Ma tộc Vị Linh Phong dù không cao minh như Bi Tứ Thức, nhưng cũng là nhân vật tiếng tăm của tam giới, Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp của y đã luyện đến tầng thứ chín, có thể nói trong tam giới ngoại trừ Lãnh Kiếm thì không có đối thủ, không hiểu Liễu công tử so với cây kiếm của Vị Linh Phong thế nào?"

Liễu Dật không nói một lời mà chỉ lắng nghe, y biết Chiến thần chưa nói hết ý.

"Cây kiếm của Vị Linh Phong có thể sánh được với đương kim Ma môn môn chủ Ngạo Thiên, nhưng nếu cả tam đại môn chủ của Ma môn cùng xuất hiện, tiểu thần e Vị Linh Phong không có khả năng thắng được. Hơn nữa Thiên thần đàm mới quật khởi do hai đại thủ hộ thần thú Thiên Long, Hỏa Phượng sáng lập, sức mạnh của chúng càng đáng sợ, còn có Quỷ tộc chưa xuất hiện, thường ẩn tàng trong bóng tối, nếu không vì e ngại chúng, Tiên tộc và Thần tộc đã không liên minh." Chiến thần tiếp tục phân tích, khuyến cáo Liễu Dật.

Liễu Dật gật đầu, không hiểu Chiến thần có khoa trương lên không, nhưng nếu Ma tộc tứ đại môn phái liên minh lại, dẫu có là Bàn Cổ, Nữ Oa thì cũng khó mà lay chuyển được chúng.

Chiến thần nói tiếp: "Tiểu thần chỉ muốn khuyên ngài một câu sau chót, hãy từ từ bồi dưỡng thế lực, ra tay một lần là tiêu diệt tất cả, mười năm qua đã qua, ngài lại không đợi thêm được mấy năm sao?"

Liễu Dật đột nhiên tán đồng: "Ngươi nói đúng, mười năm đã qua, mấy năm nữa cũng chả sao, ta sẽ không cho chúng chết một cách dễ dàng. Ta muốn một lần thu thập tất cả. Nhưng... bồi dưỡng thế lực thì như thế nào?"

Chiến thần nở một nụ cười thần bí: "Hiện tại Lang Vương đang rảnh rỗi, hình như hai người có duyên phận, có thể ông ta sẽ trợ giúp ngài."

Liễu Dật gật đầu: "Tốt, ta sẽ kiến lập một thành trì, chia ba thiên hạ với bọn chúng". Dứt lời, quay người bước đi.

Chiến thần vội nói: "Đợi đã."

Liễu Dật liếc nhìn Chiến thần, hỏi: "Còn chuyện gì nữa?"

Chiến thần rút ra từ y phục một chiếc khăn che mặt hình tứ giác màu trắng bạc, nói: "Liễu công tử thần công đại thành, tiểu thần muốn tặng công tử một chút lễ vật."

Liễu Dật hỏi: "Cái gì vậy?"

Chiến thần đáp: "Vong Hồn..."

- oOo -

Hồi 77: Minh thống ám thong, thập niên sinh tử lưỡng mang mang

(Lòng mang nặng một niềm đau, Mười năm sinh tử dãi dầu mênh mang)

Liễu Dật tiếp lấy, nhìn thật kỹ chiếc khăn được gọi là Vong Hồn này, khăn màu trắng bạc, mềm mại lạ thường, chất liệu không hiểu dệt bằng gì mà không phải trù đoạn hay vải bố, từ giữa phân ra hai mặt đều thêu hình hai con chim điêu ngược chiều với một con rồng bay phía trên. Y lấy làm kỳ quái: "Đây không phải là khăn che mặt sao? Cho ta để gì? Bảo ta đi làm cường đạo à? Khăn che mặt này không có chỗ buộc, làm sao mà đeo được?"

Chiến thần lắc đầu nói: "Theo một truyền thuyết cổ xưa, vào ba nghìn năm trước, có một đại tướng quân cực kỳ nổi tiếng, chỉ huy ba quân tướng sĩ chống giặc ngoài biên ải, nhưng kẻ thù quá mạnh, sau mấy lần giao phong thì tổn thất nghiêm trọng."

"Vì vậy, vị tướng quân gọi sáu thợ rèn giỏi tới, chế tạo sáu loại mặt nạ khác nhau, chọn lấy một cái màu trắng đặt ra tên là Vong Hồn, rồi trước mặt ba quân tướng sĩ tướng quân ngửa mặt lên trời thề rằng nếu không đuổi kẻ thù khỏi đất nước sẽ không bao giờ chường mặt thật để gặp mọi người. Vị tướng quân đã đeo Vong Hồn suốt hai mươi sáu năm, cuối cùng đuổi được quân địch, nhưng ngay thời khắc thắng lợi thì Vong Hồn cũng rơi xuống, bởi qua hai mươi sáu năm, nó đã nhiễm vô số tinh huyết, trở thành một vật tà ác, chỉ cần người nào có bản tính khát máu, nó sẽ dính chặt vào mặt."

Liễu Dật nhìn vào mắt chiến thần: "Ý ngươi là trong lòng ta có thiên tính khát máu, không cần dây buộc gì cả, nó cũng có thể dính trên mặt ta?"

Chiến thần chỉ gật đầu, không đáp.

Thực ra Liễu Dật hoàn toàn hiểu rõ bản thân, y dù không biết cừu hận trong tâm có sâu hay không, nhưng lúc luyện thành tầng thứ mười hai, Nghịch Thiên tầng của Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp, lòng y luôn khao khát máu. Hơn nữa người luyện thành tầng mười hai có một nhược điểm, mỗi đêm trăng tròn, trời cao sẽ giáng xuống tâm hỏa trừng phạt những kẻ mang lòng nghịch thiên, lúc đó chỉ có máu tươi mới dập tắt được thiên hỏa, loại võ công tà ác như vậy, chỉ khi vượt qua tầng mười hai, đột phá tầng mười ba, Diệt Thế tầng, mới thoát được nỗi đau đớn bị thiên hỏa thiêu đốt.

Liễu Dật nói tiếp: "Chiến thần đã tặng Liễu Dật một món lễ vật trân quý, như vậy là muốn đề tỉnh ta tránh thời khắc sa vào sát lục chi tâm? Hy vọng rằng sớm muộn gì ta cũng sẽ cởi được chiếc mặt nạ, được dùng chân diện mục để gặp mọi người."

Chiến thần gật gật đầu nói: "Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp của ngài vốn đã hoàn thành, hoàn toàn có khả năng hấp thụ hỗn độn chi khí để sống, không cần thiết phải ăn uống, đeo chiếc mặt nạ này vào không ảnh hưởng gì với ngài."

Liễu Dật nói: "Nhưng những lúc ta cần phải ăn, uống, thì làm cách nào?"

Chiến thần trả lời: "Đương nhiên, ngài có thể tuỳ lúc mà cởi mặt nạ xuống, tiểu thần chỉ hy vọng nó tự động rơi xuống, nếu không cởi được thì tướng quân trong truyền thuyết kia chắc đã chết đói."

Liễu Dật liếc nhìn Chiến thần: "Ngươi quả thực đã dụng tâm lương khổ, muốn dùng nó để cảnh tỉnh ta, chẳng qua... Cũng tốt, có những người quen cũ mà bây giờ ta không muốn gặp, sử dụng cái mặt nạ này thì sẽ che mắt được." Nói xong, đeo nó trên mặt, không ngờ Vong Hồn liền bám chặt vào khuôn mặt, cảm giác như không có gì, việc hấp thụ hỗn độn chi khí càng nhanh hơn.

Chiếc mặt nạ hình tứ giác, che toàn bộ phần khuôn mặt dưới đôi mắt của Liễu Dật, bằng thân thể, diện mạo của y hiện tại dù người gắn bó từ thủa bé đến lớn như Thập Kiệt Nhất khi gặp cũng không thể nhận ra được.

Liễu Dật nói tiếp: "Ta chắc ngươi là viên tướng thời xưa đã trở thành Thần, ngươi không có năng lực ngăn trở ta, chỉ có thể dùng mặt nạ này để nhắc nhở, hy vọng ta bớt khát máu, bớt sát lục đi, đúng không." Đeo Vong Hồn vào giọng nói của y trở nên ồm ồm.

Chiến thần nhìn Liễu Dật, hơi mỉm cười: "Ngài quả nhiên hiểu được tâm ý của tiểu thần, cũng là người có lòng, chưa biết chừng chính sát lục của ngài lại cứu vãn một trường hạo kiếp cho tam giới."

Liễu Dật không tỏ vẻ gì, nhưng trong mắt y lấp loáng vẻ khinh miệt, lạnh lùng nói: "Cứu vãn, ha ha, ta chỉ muốn phát tiết cừu hận trong lòng. Ngươi hãy chống mắt mà xem." Nói rồi, song chỉ bên tay phải lay động, dùng vô thượng chân lực của Lan Nhĩ Phi Na Thanh đứng lên Bi Mộng kiếm bay vút khỏi sơn động, hướng lên mây cao.

Chiến thần nhìn theo thân ảnh Liễu Dật tan biến trong tuyết trắng, lắc lắc đầu nói: "Ngài thực sự có thể nghịch thiên cải mệnh ư?"

Liễu Dật đứng trên Bi Mộng kiếm xuyên qua khoảng không trên trời cao vượt gió tuyết phi hành, không biết do Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp, hay chất liệu kỳ quái của y phục trên người, y không cảm thấy lạnh chút nào. Trong giấc mộng, y đã vô số lần bay lên, mỗi lần ở trên trên không trung lại nhớ tới lời của Cát Lợi Nhi: "Thinh không mênh mang vô tận." Nhưng trong tầm mắt của y, thinh không có rộng lớn gì đâu.

Thời gian như nước chảy, một giấc mộng mười năm đã trôi qua, không biết Lang Vương đang ở đâu, làm gì?

Ý nghĩ đầu tiên của y là đi về phía đông ngắm nhìn Phiêu Tuyết Hoa Hải, chuyện mà y mong muốn nhất bây giờ. Đạp trên thanh kiếm, y bất giác tăng tốc độ phi hành, giữa bầu trời cao, một bóng đen như ngôi sao băng bay xuyên qua bão tuyết, lướt thẳng về hướng đông.

Cảm giác có được công lực thật khác biệt, bình thường đi từ Thiên Sơn đến Liên Hoa trấn, phải mất thời gian sáu bảy ngày cưỡi ngựa, mà là khoái mã, nhưng hiện tại y chỉ cần nửa thời thần là đến tầng không của trấn Liên Hoa, thu hồi Bi Mộng kiếm, nhẹ nhàng hạ xuống.

Đang là tháng Chín, Hoa Hải vẫn sum suê, nhưng cảnh vật còn mà người đã mất, y không còn được thấy nụ cười của Cát Lợi Nhi.

Y tản bộ giữa Hoa Hải vô tận, muốn tìm lại một chút tình yêu hồi mười năm về trước, nhưng mỗi bước đi, lòng lại nhói đau, càng đi càng đau, tay trái nắm chặt Bi Mộng kiếm, vô số bi thương dâng đầy khiến y vô cùng đau xót.

Cũng chính vào lúc đó, y nghe rõ tiếng người gọi to: "Cát Lợi Nhi."

Liễu Dật nghiêng đầu muốn tìm phương hướng, y không thể nghe nhầm, tu luyện đến tầng mười hai Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp, tiếng gió thổi hay lá rơi ngoài trăm trượng cũng không thoát khỏi cảm nhận của y.

Liễu Dật chuyển động thân hình lao đi như một trận cuồng phong, chớp mắt y đã đến nơi phát ra âm thanh đó.

Liễu Dật xuất hiện khiến hai bên đều thất kinh, tốc độ nhanh thật, với tu vi của họ mà không phát hiện nổi có người đến ngay trước mắt. Mọi người đều dõi mắt nhìn thần bí nhân mới đến: mình mặc y phục màu đen, nửa giống da nửa không, tay trái đeo găng đen, nắm chặt thanh trường kiếm đeo bên hông, tay phải cũng đeo găng màu đen, buông thõng sau lưng. Không ai nhìn rõ được khuôn mặt hắc y nhân, vì trên mặt y đeo mặt nạ trắng bạc, nổi bật nhất là mái tóc bạc trắng, trong mắt chứa đầy tang thương và bi thương.

Liễu Dật nhìn người đứng phía sau mà trong lòng hoan hỉ, đúng là "nhân sinh hà xứ bất tương phùng", không ai khác ngoài người y đang tìm kiếm: Lang Vương. Sau lưng ông là phần mộ của Cát Lợi Nhi và y, trên đó có hoa tươi, xem ra Lang Vương mới đặt lên, trong sát na này lòng y đầy cảm động, không nghĩ rằng mười năm rồi, Lang Vương vẫn còn nhớ gã thư sinh ít tuổi vô tri đó.

Y từ từ quay đầu lại, đột nhiên mục quang cứng đờ, hô hấp tựa hồ cũng ngừng lại, nhưng tim đập

như trống trận, đó có phải là... Cát Lợi Nhi?

Y không dám tin vào mắt mình, thậm chí còn cho rằng vì nhung nhớ mà sinh ra ảo giác, nên lắc mạnh đầu, nhưng người trước mắt hoàn toàn không biến mất. Người đó bận quần la màu trắng, phía ngoài lại bao phủ một lớp sa trắng, mái tóc đen dài buông xõa xuống bờ vai, dù y phục, ngoại hình có thay đổi, nhưng hình dáng đó là của Cát Lợi Nhi, đúng, còn cả đôi mắt biết nói nữa.

Cả hai bên tựa hồ thất kinh trước hành động của người mới đến, bạch y nữ tử đến đây để hân thưởng Hoa Hải, gặp Lang Vương gọi mình là Cát Lợi Nhi đã rất ngạc nhiên, nay lại bất ngờ xuất hiện thêm một quái nhân điên khùng.

Liễu Dật bắt đầu tiến tới, bước từng bước về phía Cát Lợi Nhi, khoảng cách giữa hai người càng lúc càng gần, hình dáng của nàng càng lúc càng rõ, y muốn lại gần hơn nữa, nhìn rõ ràng hơn, trong tích tắc tựa hồ toàn bộ nhung nhớ mười năm trong mộng, thống khổ mười năm phân ly bùng phát ra ngoài. Y giơ tay lên, muốn chạm vào mặt nàng, để chắc chắn với bản thân đây là sự thật.

Đột nhiên, một tiếng quát to vang lên: "Dâm tặc to gan, dám khinh bạc công chúa." Cùng lúc, bốn thanh trường kiếm đâm thẳng về phía y.

- oOo -

Hồi 78: Kinh thiên khấp quỷ, hoa tự phiêu linh kiếm tranh phong

(Kinh thiên khiếp quỷ, hoa rơi giao tranh cùng thần kiếm)

Gặp được người muốn gặp, đó là một niềm hạnh phúc, không gặp được người cần gặp, đó là bi thương. Vì thế, Liễu Dật lúc đó như tan nát cõi lòng.

Nàng không phải là Cát Lợi Nhi, chỉ là một người khác có bề ngoài giống Cát Lợi Nhi mà thôi.

Kiếm phong của bốn kiếm thủ bắn về phía trước thành bốn đạo bạch sắc kiếm khí, bốn cây Thanh Phong kiếm dài ba xích, trong khoảnh khắc bỗng vươn thành sáu xích, có thể thấy họ không hề coi thường y.

Tiếng Lang Vương kêu lớn vang lên phía sau: "Vị huynh đệ, hãy cẩn thận."

Nếu đổi lại là gã thư sinh của mười năm về trước, không thể đỡ được khoái kiếm và bạch sắc kiếm khí nhanh cỡ đó, nhưng Liễu Dật của mười năm sau không còn là thư sinh thủa xưa, y hồi sinh từ trong cừu hận, hiến thân nhập vào ma đạo.

Liễu Dật né người sang một bên, thi triển Ẩn Toàn Cửu Ảnh, một luồng gió nhẹ nổi lên, vô số cánh hoa bay lên phía sau thân ảnh đang thoái lùi nhanh như cắt. Y đem Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp hỗ trợ cho Ẩn Toàn Cửu Ảnh, thi triển chữ Tật, trong nháy mắt đã lùi lại xa mười trượng. Trong mắt mọi người, một cái lắc mình của y đã lùi được mười trượng khiến toàn bộ đều giật mình, thử hỏi trong thiên hạ hiện nay ai có được thân thủ như như vậy?

Do tốc độ quá nhanh, chín đạo tàn ảnh từ từ hợp thành một người, y chậm rãi ngẩng đầu lên nhìn bốn gã trung niên.

Mọi người đều không nhìn thấy hình dạng và biểu hiện hiện tại của y, chiếc mặt nạ trắng bạc càng làm tăng thêm vẻ thần bí.

Trong mắt Liễu Dật loé lên hồng quang, gằn từng câu từng chữ: "Dựa vào bốn người các ngươi, mà đòi đeo kiếm đứng trước mắt ta à!"

Một câu nói ngắn gọn, đã chứng tỏ khí thế của Liễu Dật thay đổi hẳn, phút trước còn là một gã có bộ dạng điên khùng, muốn sờ vào mặt người con gái đối diện, nhưng lúc này đã biến thành tử thần đến từ Địa ngục, tựa hồ y chỉ cần cất tay là có thể lấy được thủ cấp của bốn trung niên.

Một gã trung niên tức giận: "Khẩu khí lớn thật, bốn người chúng ta hành tẩu giang hồ nhiều năm mà chưa thấy ai cuồng ngạo như ngươi."

Liễu Dật trong lòng vốn không thoải mái, lúc này bị nam tử chọc vào, như oán khí tích tụ nhiều năm bùng phát, nhìn hắn chằm rồi nhẹ nhàng chuyển thân sang bên, bàn tay phải đeo găng đen chậm rãi lần tới chuôi cây trường kiếm màu đen. Chớp mắt, cuồng phong lấy y làm trung tâm nổi lên, tà áo choàng da màu đen bay phần phật như một con quái vật đang nhe nanh múa vuốt, những cánh hoa trắng xung quanh bị cuồng phong cuốn lên không trung, như tuyết bay trên Hoa Hải, mây đen ầm ầm kéo đến, chớp mắt che khuất bầu trời trên đầu.

Lang Vương trong lòng thất kinh, nói thầm: "Ma khí mạnh thật, người này là ai? Dầu cho Vị Linh Phong ngày trước cũng không đạt được đến mức này."

Lúc này, bạch y nữ tử lên tiếng: "Dừng tay, họ là gia đinh của ta, chỉ muốn bảo vệ ta, vậy là làm sai điều gì chăng?" Gió vẫn không ngừng cuốn tung những cánh hoa trắng tạo thành một luồng xoáy với trung tâm là Liễu Dật, ai cũng thấy một đòn này của thần bí nhân này đáng sợ biết bao.

Liễu Dật nhìn bạch y nữ tử, hai mắt dần dần mơ hồ, quen thuộc quá, thật sự quen thuộc... Nàng đã từng là bầu trời, nàng từng như là niềm hạnh phúc mà y mong muốn, nhưng nàng hiện giờ là hư vô, là phiêu diêu không hề tồn tại. Y đứng đó chìm vào cơn mộng, tay phải thu hồi về sau lưng, tay trái vẫn nắm chặt thanh hắc kiếm, lúc y dừng tay, mây đen trên trời dần dần tan đi, ánh dương quang lại hé cười, những cánh hoa trắng la đà rơi quanh.

Mọi người đều bị cảnh tượng trước mắt làm cho kinh sợ, bây giờ không ai dám hoài nghi sự cuồng ngạo của y, không ai dám bảo y lớn lối, bởi khí thế kinh thiên vừa rồi người phàm không thể nào có được.

Y nhìn bạch y nữ tử, đoạn nhìn bốn người phía sau, tay phải rung mạnh một cái, nháy mắt đã bắt được bốn cánh hoa đang bay trong không trung, quán thâu Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp vào, chỉ thấy bốn đạo bạch quang loé lên, không, còn nhanh hơn cả ánh sáng, bốn người căn bản không có cơ hội tránh né, bốn cánh hoa sắc bén hơn kiếm lao tới, "phập, phập, phập, phập," vai phải cả bốn đều bị cánh hoa xuyên thấu.

Mọi người lại ngẩn ra, phi hoa thương nhân không phải võ công thượng thừa gì, chỉ cần người có tu vi cao một chút đều có thể làm được. Nhưng Liễu Dật quả có khác biệt, không ai nhìn rõ tốc độ phi hoa của y nên không thể né tránh được, thật đáng sợ. Lòng ai cũng lạnh buốt, nếu như cánh hoa đó hạ xuống một chút, đâm vào đúng tâm tạng, không biết cảm giác như thế nào.

Bốn người quên cả đau đớn, tựa hồ nhìn thấy thần, mục quang biến thành sùng bái.

Liễu Dật nhìn mọi người nói: "Thôi vậy, tuy ta không giết bọn ngươi, nhưng các ngươi đã dám ra tay với bổn ma quân, nhất định phải bị trừng phạt, giờ các ngươi có thể đi." Trừng phạt? Liễu Dật không hiểu sao y lại xử sự như vậy, nhưng y nhất định không cho phép kẻ đắc tội được nhởn nhơ.

Bạch y thiếu nữ nhìn quái nhân cao cao tại thượng, quay người nói: "Bốn vị ca ca, chúng ta đi thôi."

"Đợi đã..." Liễu Dật đột nhiên kêu lên.

Bạch y thiếu nữ nhìn y, hỏi: "Có việc gì chăng?"

Liễu Dật hỏi bạch y thiếu nữ: "Tên cô là gì?"

Bạch y thiếu nữ trả lời: "Thiên Kiêu."

Liễu Dật lẩm nhẩm cái tên đó, Thiên Kiêu, Thiên Kiêu... Nàng thực sự không phải là Cát Lợi Nhi. Y nhìn Thiên Kiêu, ánh mắt ẩn chứa mất mát, cảm thương, nhưng bi thương và tang thương càng hiển hiện, có lẽ y sống lại chỉ vì cừu hận.

Y nói: "Các người đi đi."

Thiên Kiêu rời ánh mắt khỏi mắt y, không nói một lời, quay người bước đi.

Nhìn theo bóng người đi, trong lòng Liễu Dật đau đớn vô cùng, y hận vận mệnh, hận Thần, hận tất cả... Hiện tại, đối với y, hạnh phúc quá mênh mang, xa vời, không thể trở thành hiện thực, trên thế gian tất cả đều là hư ngụy.

Y quay đầu lại, trong mắt loé lên hồng quang, gió nhẹ thổi bay làn tóc trắng trên vai, lặng lẽ nhìn Lang Vương mà lòng dấy lên niềm nhớ thương vô tận... Mười năm trước đó, y thanh niên bồng bột, lần đầu gặp mặt Lang Vương...

Đột nhiên, y quỳ xuống, tay trái nắm chặt thanh kiếm, tay phải chống xuống đất, nói: "Tại hạ muốn thỉnh cầu ngài một việc."

Lang Vương bị tình cảnh đột ngột làm cho hoảng sợ, vội hỏi: "Việc gì?"

Liễu Dật nhìn Lang Vương, đôi mắt lấp loáng hồng quang, nói: "Làm sư phụ của tại hạ, giúp tại hạ kiến lập một tòa Vĩnh Hằng chi thành."

Lang Vương lắc đầu nói: "Không, không, không được. Lang Vương ta tự biết rằng, với tu vi của các hạ, dù cho Thần có tỉnh lại, cũng khó mà có thể đấu với các hạ một trận, ta làm sao có thể trở thành sư phụ các hạ được."

Liễu Dật tay phải nhẹ nhàng tháo Vong Hồn trên mặt xuống, một khuôn mặt như điêu khắc xuất hiện trước mắt Lang Vương, tựa hồ khuôn mặt này đã được gặp ở đâu đó, nhưng ông không dám khẳng định, bởi đó là điều ông không nghĩ tới.

Liễu Dật nói: "Mười năm trước, một gã thư sinh lỗ mãng, đã gặp được thủ hộ thần thú Lang Vương, không phải ngài một lòng một dạ thu nhận hắn ta làm đồ đệ ư? Mười năm sau, liệu ngài có thay đổi chủ ý không?"

Lang Vương đập tay vào chiếc quạt gấp, nói: "Các hạ là... là Liễu Dật?" Ông không tin vào mắt mình, vội chạy tới, đỡ Liễu Dật dậy.

Liễu Dật gật đầu, nhìn khuôn mặt thân thiết của Lang Vương, nói: "Là tại hạ". Có lẽ, thời gian đã quá lâu, làm Liễu Dật không còn nhận biết được cảm tình của nhân gian, nhưng khuôn mặt thân thiết của Lang Vương khiến y có cảm giác đặc biệt thân thiết.

Lang Vương có vẻ kích động: "Ngươi không chết."

Liễu Dật lại đeo Vong Hồn lên mặt: "Tại hạ đã chết một lần nhưng lại hồi sinh, ngọn lửa phục cừu đưa tại hạ quay lại thế giới này."

Lang Vương nhìn y, tựa như có vô số vấn đề cần hỏi: "Ngươi hồi sinh như thế nào? Mười năm vừa rồi ngươi làm gì? Kiếm pháp của ngươi làm sao luyện thành? Ngươi đến thế giới này để rửa hận à?" Tựa hồ trong đầu ông đầy nghi hoặc.

Liễu Dật đáp: "Tất cả mọi việc, tại hạ sẽ dần dần giảng giải cho ngài nghe, nhưng hiện tại, tại hạ mong muốn ngài là sư phụ, trợ giúp tại hạ thành lập Vĩnh Hằng chi thành, tại hạ muốn Ma tộc phải từ từ chịu đựng dày vò trước khi bị tiêu diệt, còn cả người của Tiên tộc chánh phái nữa, ngài có thể đáp ứng yêu cầu của tại hạ không?"

Lang Vương gật đầu: "Như ngày nay Thiên Long và Hỏa Phượng đã kiến lập Thiên Thần đàm, chĩa mũi dùi về phía ta và Bạch hổ, Kỳ, Lân, nhưng trời già có mắt, ngươi có thể lãnh đạo bọn ta chống lại Thiên Long."

Liễu Dật cười khinh miệt: "Dù là ông trời nào, sớm hay muộn tại hạ sẽ chém rụng lão, chẳng qua hiện giờ tại hạ muốn biết chúng ta kiến lập Vĩnh Hằng chi thành bằng cách nào?"

- oOo -

Hồi 79: Tâm toái vô ngân, y nhân lạc lệ đào hoa phân

(Lòng tan nát, người xưa rơi lệ hoa đào bay)

Liễu Dật và Lang Vương đi vào trong Liên Hoa trấn, dọc đường y kể lại cho Lang Vương nghe những việc đã trải qua trong giấc mộng mười năm, từng lời từng câu làm cho Lang Vương kinh sợ, ngây ngẩn đủ đường, chỉ biết cảm thán cho nhân thế tang thương, đã biến một thư sinh trở thành Chân ma chi chủ.

Lang Vương hỏi tiếp: "Nay ngươi đã luyện thành ma công, tại sao không đi tìm người của Ma tộc ngay?"

Liễu Dật nói: "Đó chính là điều mà tại hạ muốn hỏi ngài, nghe nói mười năm qua đã xảy ra không ít sự tình, vì vậy tại hạ phải nhờ ngài chỉ điểm cho."

Lang Vương cười nhẹ: "May thay ngươi không còn là kẻ lỗ mãng, không thì chắc chắn bị thiệt thòi. Cần biết là bảy năm trước Ma môn tập kích và chiếm lĩnh được Thần Môn, sau đó tiền nhiệm môn chủ của Thần Môn là Quỳnh Phách dẫn đầu chín đại cao thủ đã quy ẩn của Thần Môn đoạt lại môn phái, từ đó tam giới đã thay đổi rõ ràng."

"Tam đại môn phái của Tiên tộc với tam đại môn phái của Nhân gian giới hợp thành Nhân gian chính đạo, chính là một hình thức liên minh, không như một môn phái mới quật khởi, Nhân gian chính đạo không có chủ nhân, các cao thủ tập kết tại Côn Lôn sơn, thực lực không thể coi thường. Còn Ma tộc tam đại phái liên minh với môn phái mới quật khởi là Thiên thần đàm, hiệu xưng Ám chi ma đạo, các cao thủ tập kết tại Ma môn, còn có một lực lượng ẩn tàng phía sau Ma tộc là Quỷ tộc. Thiết nghĩ hiện tại Ma môn đã bố trí cơ quan, trận pháp vòng trong vòng ngoài, dù ngươi võ công cao, không thể tiến vào mà không bị phát hiện, may chăng ngươi giết chết được hai tên thủ lĩnh, cũng không thể trốn thoát được những người ở đó vây công, huống hồ thân phận hiện tại của ngươi là Chân ma, nếu như hành tung bại lộ, chọc giận Ma môn thì không thể đảm bảo chúng không kết hợp với Nhân gian chánh đạo, đến lúc đó người trong thiên hạ vây công, sợ rằng mối thù của ngươi khó mà báo nổi."

Liễu Dật gật gật đầu.

Lang Vương nói tiếp: "Ngươi đã hồi sinh, không nên quá nóng lòng báo cừu, tránh sa vào 'nhất thất túc thành thiên cổ hận', với năng lực của chúng ta, cứ dần dần tiêu diệt tận gốc bọn chúng."

Liễu Dật nói: "Đa tạ sư phụ đã chỉ điểm, Liễu Dật khẳng định không để cho bọn chúng chết một cách dễ dàng mà phải bắt chúng chịu mọi dày vò, từ từ chịu sự khủng bố của tử vong."

Lang Vương nói tiếp: "Nếu quả thật chúng ta cần phát triển thế lực cần phải có hai thứ."

Liễu Dật hỏi: "Là gì?"

Lang Vương đáp: "Thứ nhất, chúng ta phải có một cứ điểm, Vĩnh Hằng chi thành mà ngươi đã nói, chúng ta cần phải biến nó thành thực sự tồn tại. Thứ hai, chúng ta cần phải có người trợ giúp, nên biết rằng như thế sẽ bớt được nhiều phiền phức, khiến cho việc báo thù của ngươi nhẹ gánh hơn."

Liễu Dật hỏi tiếp: "Sư phụ, hiện tại chúng ta nên làm gì?"

Lang Vương đáp: "Ta đi tìm Bạch Hổ, Kỳ Lân thuyết phục bọn họ, còn cả tộc nhân của ta, ngoài ra ta biết có một vị cao nhân luyện khí đang ở ẩn trong Liên Hoa trấn này, nguơi đên mời ông ta cùng sáng lập Vĩnh Hằng chi thành."

Liễu Dật vâng lời: "Cũng tốt, chúng ta chia ra hành động, hiệu suất sẽ cao hơn."

Lang Vương gật đầu: "Phía trước là Liên Hoa trấn rồi, có điều ta không có một chút manh mối về vị cao nhân này, đành từ từ tìm kiếm, Liên Hoa trấn không lớn, nhưng người không hề ít, không dễ tìm ra đâu."

Liễu Dật gật đầu nói: "Tại hạ nhất định sẽ tìm được ông ta, được rồi, sư phụ đi đi."

Lang Vương gật đầu, nói: "Vâng, ma chủ" đoạn quay người phất chiết phiến, ngự khí bay thẳng lên mây.

Liễu Dật đặt tay trái lên Bi Mộng Kiếm, tay phải buông thõng sau lưng, ngửa đầu nhìn trời than: "Biển xanh đổi thay, tấm lòng si tưởng bay theo gió, bao lần chìm nổi, mười năm như giấc mộng, không nghĩ đến hôm nay y thư sinh lại quay về Liên Hoa trấn này."

Liên Hoa trấn, mười năm đã trôi qua càng thêm vẻ phồn hoa, Liễu Dật thơ thẩn, người thì đông quá, làm sao y tìm được cao thủ luyện khí đó giữa bao nhiêu là người như thế này? Lại không có một manh mối, có khác nào mò kim đáy bể.

Đột nhiên, trước mắt y loé lên một đạo hồng quang, một thân ảnh quen thuộc lướt qua, nàng là ai?

Liễu Dật chuyển thân, thấy dưới cây hoa đào bên cạnh đường lớn, có một vị thầy bói, tâm niệm biến đổi, đột nhiên nhớ đến một điều gì đó.

Y đến ngồi dưới gốc cây hoa đào, bắt đầu bắt chước vị đoán mệnh tiên sinh, y nói: "Trên đoán trời, dưới đoán đất, đoán được cả quá khứ tương lai đây..." Vào lúc đó, một hắc y thiếu nữ đi qua trước mắt y.

Thân ảnh quen thuộc xiết bao, đúng là nàng, hắc y thiếu nữ trước mắt toàn thân vận kình trang, khăn tơ màu xanh đen được quấn chặt để bảo vệ cổ tay phải, tai trái thì không có gì che lại, rờ rỡ nước da ngăm đen mượt mà, y phục màu đen bó phần thân trên làm nổi bật các đường cong hoàn mỹ, để lộ ra ngoài một cách tự nhiên vòng eo mảnh khảnh và trơn mượt, thân dưới mặc đoản quần màu đen, cặp chân dài tuyệt mỹ đi một đôi giày da trâu màu đen cao đến đầu gối, tóc mai buông xuống bờ vai khiến mỗi khi nàng cất bước càng gia tăng thêm vẻ tiêu sái, động lòng người, tay nàng cầm một thanh kiếm đẹp đẽ lạ thường, cán kiếm màu bạc sẫm càng làm tôn thêm vẻ cao quý.

Không phải Thất Nguyệt thì là ai? Y phục vẫn như xưa, chỉ là nhan sắc đã biến đổi, mười năm không gặp, Thất Nguyệt trở nên xinh đẹp hơn, mê người hơn.

Liễu Dật kêu lớn: "Vị cô nương này, tại hạ thấy cô bước đi mông lung, thần sắc u ám, phải chăng có tâm sự? Để tại hạ giải tỏa cho cô nương."

Thất Nguyệt dừng bước, dưới gốc hoa đào có một nam tử hắc y bạch phát, trên mặt đeo khăn màu trắng bạc, chỉ thấy được đôi mắt đang nhìn nàng.

Thất Nguyệt nhìn Liễu Dật, hỏi: "Ông là toán mệnh tiên sinh?"

Liễu Dật gật đầu: "Chính thị, tại hạ thấy hình như cô nương có mối thương tâm, có lẽ vì tưởng nhớ cố hữu mới đến Liên Hoa trấn."

Thất Nguyệt nghe xong, thình lình bước tới, nhẹ nhàng ngồi xuống đối diện Liễu Dật, gật đầu: "Tiên sinh nói đúng đó."

Chỉ mấy lời của Thất Nguyệt đã làm tim Liễu Dật đập thót một cái, y đã đoán đúng, nha đầu ngốc này cũng giống với Lang Vương, vẫn không quên y, đến đây để thăm viếng.

Liễu Dật nói tiếp: "Tại hạ nghĩ người mà cô nương đi tìm, thì có phải là người cô nương yêu thương?"

Thất Nguyệt càng lấy làm kinh ngạc, nhìn vị toán mệnh tiên sinh, gật gật đầu.

Liễu Dật trong lòng máy động, nói tiếp: "Chắc người mà cô nương đem lòng thương yêu, hiện giờ đã sang một thế giới khác, nhưng cô nương vẫn không quên được?"

Thất Nguyệt đáp: "Tại sao tiên sinh biết hết?"

Liễu Dật đảo mắt, không để lộ biểu tình, Thất Nguyệt nghĩ, có lẽ vị tiên sinh này đang tự cười thầm.

Liễu Dật nói tiếp: "Nếu tại hạ không biết, làm sao gọi là toán mệnh tiên sinh được?"

Y lại hỏi: "Cô nương đã bao giờ tự hỏi là mình có thực sự yêu y chưa? Cô nương có thể nói cho tại hạ ái tình là gì chăng?"

Thất Nguyệt nở nụ cười đẹp đẽ thê lương, phảng phất như thánh nữ trên trời: "Ta chỉ tình nguyện yêu đơn phương, làm gì có tư cách nói tình yêu là gì?"

Liễu Dật lắc đầu: "Tình ái thì không có giới hạn, trong lòng cô nương thích tức là yêu rồi, cô nương cứ nói ra, tại hạ giải đáp cho. "

Thất Nguyệt nhìn y, vừa nghĩ vừa nói: "Ta cũng không rõ, mơ hồ lắm, giống như là một sự việc xảy ra trong chớp mắt, trái tim đập nhanh, đó là một loại cảm thụ, làm ta dù thống khổ lại thấy hạnh phúc, có lẽ đó là một cảm giác làm tim ta tan nát nhưng lại thấy ngọt ngào, hoặc giả... đó là trải nghiệm, hủy hoại ta nhưng ta lại thấy mỹ lệ."

Liễu Dật cảm thấy trái tim như bị níu giữ, thật ngột ngạt, nhìn vào đôi mắt nàng, tựa hồ nhớ tới một việc nào đó: "Cô nương thấy thế có đáng không?"

Thất Nguyệt cười nhè nhẹ: "Đáng hay không đáng, không thể dùng mấy từ để đánh giá, trong tình yêu, ta đã học hỏi được rất nhiều, có lẽ yêu là bao dung, khi nhìn thấy y và người y yêu cùng chết một chỗ, ta thì rất cao hứng, hoặc giả yêu là phải biết buông tay."

Y đột nhiên hiểu rõ, mặc dù giữa ma và người có sự phân biệt, chỉ có một điều không phân biệt, đó là tâm, ma có thể có nhân tâm, người cũng có thể có ma tâm.

Thất Nguyệt đột nhiên đưa ra một đĩnh nguyên bảo: "Tiên sinh, thuật đoán của ngài thật chính xác, ngài có thể đoán giúp ta một việc, y ở thế giới kia có khỏe không?"

Liễu Dật nhìn nén bạc, lại nhìn vào ánh mắt đầy hy vọng của nàng, y thực sự không muốn làm tổn thương nàng nên gật đầu.

Y vung mạnh bàn tay phải đeo găng tay da màu đen ra, chớp đã quán thâu chân lực Lan Nhĩ Phi Na, từ lòng tay cuộn lên luồng gió xoáy cuốn tung những cánh hoa quanh gốc đào lên cao, khi y dừng tay lại, bốn mươi chín cánh hoa đào theo thế bắc đẩu thất tinh được bày ra ngay ngắn.

Y nhìn cánh hoa, lắc đầu nói: "Y ở thế giới kia cũng không lấy gì làm tốt đẹp, tịnh không ở cùng với Cát Lợi Nhi, lão trời già đáng chết đã chia cắt bọn họ ra hai thế giới khác nhau."

Thất Nguyệt nhìn cánh hoa trên mặt bàn, nhẹ nhàng cất tiếng: "Mười năm rồi, mỗi khi đêm khuya vắng người, ta luôn cầu nguyện, chúc phúc cho y. Nhưng hiện nay y không được hưởng phúc thì ông trời thật đáng chết."

Thất Nguyệt bất ngờ lấy thêm một nén bạc, nói: "Tiên sinh, ta thỉnh cầu ngài bói cho ta một điều cuối cùng, ta muốn biết y... y ở thế giới đó có lúc nào nghĩ tới ta không, giúp ta đoán nốt việc này, nghĩ đến một lần là được rồi." Ánh mắt chứa chan hy vọng.

Liễu Dật nhìn vào mắt nàng, thực tâm không muốn làm nàng đau lòng, tay phải phất nhẹ một cái, một luồng gió nổi lên cuốn bay những cánh hoa, rơi tan tác xung quanh...

Thất Nguyệt nhìn vào hình xép của những cánh hoa trên mặt bàn, không thể kìm nén nỗi đau trong lòng, nước mắt lã chã rơi, gió ngừng, hoa rụng, trên mặt bàn hiện lên một chữ "nhớ."

Liễu Dật nhìn nàng rơi nước mắt, bỗng thấy trong lòng trỗi lên cảm giác xót xa: "Nếu tại hạ đoán không nhầm, y từng nói một câu với cô nương."

Thất Nguyệt vội gạt lệ: "Câu nào cơ?"

Liễu Dật nói tiếp: "Tìm lấy một người mà cô nương yêu, và người đó cũng yêu cô nương, cùng sống thật hạnh phúc."

Thất Nguyệt đột nhiên nở nụ cười đẹp đẽ thê lương, cười mà rơi nước mắt, càng khiến người ta có cảm giác lòng nàng đang quặn đau: "Sao tiên sinh biết được? Y cũng từng nói một câu, cuối cùng thì bây giờ ta cũng hiểu."

Liễu Dật lấy làm ngạc nhiên hỏi: "Y nói gì?"

Thất Nguyệt nhìn mắt y, ngừng lại một chốc rồi nói tiếp: "Khi trong lòng khắc ghi hình bóng của một người, làm sao có thể chứa đựng hình bóng của một người khác? Đa tạ tiên sinh, nhìn thấy chữ đó, ta đã thỏa mãn nhiều rồi". Nói xong, nàng quang người lướt nhanh về phía trước.

Liễu Dật hiểu rằng, nàng đang đau lòng, bây giờ nàng muốn tìm một nơi yên tĩnh khóc thật to cho vơi bớt nỗi niềm...

- oOo -

Hồi 80: Ngô tâm dục tĩnh, thế sự khởi năng tận nhân ý

(Lòng muốn yên nhưng sự đời không chiều ý người)

Liễu Dật đứng dậy, tay trái cầm kiếm, tay phải buông thõng sau lưng, nhìn theo bóng dáng Thất Nguyệt khuất xa, tâm trạng thoáng qua một chút chua xót trong tích tắc. Hiện tại y có việc trọng yếu cần làm, y phải tìm ra luyện khí đại sư đang quy ẩn... vấn đề ở chỗ ông ta đang ở trong Liên Hoa trấn, nhưng là ai? Ở chỗ nào?

Đầu óc y xoay chuyển nhanh chóng, đúng... thợ rèn, phải bắt đầu dò la từ các thợ rèn trong thành xem ai là người chế luyện pháp khí, y đi đến các khắp các lò rèn ở Liên Hoa trấn nghe ngóng, nhưng hai canh giờ trôi qua, đến tận giờ Ngọ y hầu như đã đi qua tất cả các lò rèn ở trấn Liên Hoa này, nhưng không thu hoạch được gì.

Y đi vẩn vơ trên con đường lớn Liên Hoa trấn, đột nhiên, bị một môn bài có đề mấy đại tự màu hoàng kim thật hấp dẫn: "Tân tích nguyệt tửu lâu". Mười năm trước chính tại đây đã xảy ra nhiều chuyện, y quen Thất Nguyệt ở đây, cũng tại nơi này, Cát Lợi Nhi đã cắt cổ tay lấy máu tươi cứu mạng y. Y vô tình đi lên lầu hai, tìm một vị trí gần góc tường không gây chú ý của người đời rồi ngồi xuống.

Mười năm qua, nơi đây ngày càng thịnh vượng, tầng hai mặc dù nhìn giản dị, thanh nhã, nhưng sinh ý mười phần phát đạt. Liễu Dật sờ tìm trên người, thật may có hai đĩnh nguyên bảo Thất Nguyệt cho lúc trước, y đặt trường kiếm lên trên mặt bàn, nhẹ nhàng tháo mặt nạ, gọi tiểu nhị mang đến một hồ "Tân Nguyệt tửu" thượng hạng và hai cân thịt bò thái nhỏ.

Liệt tửu trôi xuống dạ, sinh ra một cảm giác vừa lạ lùng vừa thật thân thuộc, mười năm rồi không nếm thử đồ ăn thức uống nhân gian, y tựa hồ không còn nhớ cả hương vị của rượu. Y gắp miếng thịt bò đưa vào miệng nhai thật chậm, quả đúng là sinh hoạt của người đời nhiều vui thú, giá như Cát Lợi Nhi còn sống, có lẽ hai người đã cùng sống trong ba gian nhà tranh này, sinh hoạt tiêu tao kiểu "thái cúc đông li hạ, du nhiên kiến Nam sơn (hái cúc dưới hàng rào phía đông, cùng đi ngắm Nam Sơn)". Nhưng đời không chiều người, không ngờ chỉ trong chớp mắt, y và nàng giờ đây đã hai phương trời cách biệt. Còn y? Y đã sa vào con đường thành ma không có lối về, vạn kiếp bất phục mất rồi.

Trong lúc y đang suy nghĩ mông lung, đột nhiên một người ngồi xuống phía đối diện, nếu bình thường, y chắc chắn phát giác, nhưng hiện tại đầu óc y đang rối loạn, nhớ đến Cát Lợi Nhi, đến những trầm kha của kiếp người, vì vậy có người ngồi xuống mà y không phát hiện.

Nhưng y nhanh chóng tỉnh lại, đưa mắt liếc nhìn, đầu tiên hơi giật mình, rồi khôi phục ngay sự bình tĩnh: "Là cô nương à."

Bạch y nữ tử ngồi đối diện không quá xinh đẹp, nhưng đôi mắt thật đặc biệt, thân hình mỏng mảnh như luôn cần một người cường tráng che chở. Nàng là Thiên Kiêu, người y ngộ nhận là Cát Lợi Nhi lúc gặp gỡ trong Hoa Hải phiêu tuyết.

Sau lưng Thiên Kiêu là bốn hộ vệ, nhưng hiện họ không có tư cách đứng trước mặt y phát ngôn, vì họ biết y dù ít tuổi, có vẻ cùng tuổi với bọn họ, nhưng tu vi đã đạt đến mức như người trời. Lúc này vết thương của cả bốn người đã được băng bó cẩn thận, y phục tịnh không có huyết tích.

Thiên Kiêu nhìn y rồi nói: "Ánh mắt của ngài thật đặc biệt, tựa hồ ẩn tàng một thiên cố sự thẳm sâu mà bi thương, trong bi thương để lộ niềm tang thương."

Liễu Dật nhìn mắt Thiên Kiêu, nhưng cúi thấp đầu xuống uống rượu, trả lời: "Chúng ta thân thuộc lắm sao? Hình như chỉ mới gặp mặt một lần."

Thiên Kiêu cười khanh khách: "Sao, gặp mặt một lần thì không đủ à? Lời người xưa đâu có nói như vậy? Kiếp trước phải gặp gỡ năm trăm lần mới được một lần kề vai trong kiếp này, lẽ nào như vậy là chưa đủ?"

Liễu Dật tiếp tục uống rượu, tuyệt không nhìn Thiên Kiêu, trả lời: "Miệng cô nương sắc thật."

Thiên Kiêu lại nói: "Ngươi không dám nhìn ta à? Ngươi sợ sẽ chạm vào nỗi đau lòng?"

Liễu Dật quay đầu, trong mắt lóe lên hồng quang, bốn gã hộ vệ nhìn thấy liền đồng loạt lùi lại một bước, kinh nghiệm bôn tẩu giang hồ nhiều năm chỉ ra cho họ biết hắc y nhân này không phải là người, ánh mắt đó tuyệt đối không phải là của người...

Nhưng Thiên Kiêu không hề phản ứng, ngược lại nói tiếp: "Ngươi sợ, ngươi sợ nhìn hình dáng của ta?" Nói dứt lời, song chỉ đang để ở trên thái dương huyệt điểm ra, một đạo ánh sáng vàng ngưng tụ trên song chỉ, liền đó, nàng hướng song chỉ về phía ngực Liễu Dật.

Mười năm ở cùng với linh hồn Niết nhân, y hiểu tương đối cặn kẽ võ công trên giang hồ, ngoài kiếm thuật còn có pháp thuật, đạo thuật, tà thuật, chú thuật, thuật luyện khí... rất nhiều loại, vì vậy, y biết Thiên Kiêu đang sử dụng một loại đạo thuật là "Độc tâm thuật".

Ngay lúc Thiên Kiêu chạm vào ngực y, thân thể nàng lắc mạnh rồi lặng lẽ nhắm mắt, đưa linh hồn nhập vào trong tâm nam tử xa lạ này.

Liễu Dật bật dậy: "Đủ rồi, cô nương không thể đọc được tâm của ta đâu."

Thiên Kiêu lặng lẽ mở mắt, nói: "Có lẽ là vậy."

Liễu Dật duỗi tay trái ra, sử dụng hấp lực hút Vong Hồn vào tay, đeo lên mặt, nhấc Bi Mộng kiếm lên, ném xuống bàn một đĩnh nguyên bảo rồi quay người xuống lầu.

Nhìn Liễu Dật đi xa dần, bốn hộ vệ khẩn trương hỏi: "Công chúa, hắn là ai vậy?"

Trong mắt của Thiên Kiêu rơi ra một giọt lệ: "Thương tâm nhân... Tâm của hắn tựa hồ tan nát, ta không thể đọc được gì cả, chỉ thấy bi thương vô tận, còn cả cừu hận vô tận nữa."

Bốn người trầm mặc không lên tiếng, bởi vì họ không hiểu công chúa nói về thương tâm nhân kia có ý tứ gì.

Lại nói về Liễu Dật, vừa xuống lầu đã nghe thấy giọng ầm ầm của một tráng hán say rượu ở ngoài cửa: "Sao, sợ ta không trả ngươi tiền hả? Sư phụ ta tùy tiện luyện một cây pháp khí, có thể mua được mười tám cái tửu lâu như của nhà ngươi."

Câu nói làm Liễu Dật vô cùng hứng thú, liếc mắt nhìn y thấy một đại hán cao lớn, uy mãnh, da ngăm đen, thân trên mặc mã giáp, hạ thân vận khố sọc, hai cánh tay tráng kiện cơ bắp cuồn cuộn.

Liễu Dật khẽ động song cước, một làn gió nhẹ lướt qua, lập tức đứng giữa đại hán và tiểu nhị, lấy một thỏi bạc ra, nói: "Tiểu nhị, tiền rượu của huynh đài này ta trả."

Điếm tiểu nhị nhìn thấy đĩnh nguyên bảo, lòng dạ nào mà tranh cãi nữa, vội cúi đầu khom lưng bước đi.

Tráng hán thấy có người trả tiền rượu, nở nụ cười nhìn gã hắc y bạch phát, nắm tay y nói: "Huynh đệ, ta không phải là không có tiền, chỉ là không chấp nhận thái độ của tên tiểu nhị, nhưng huynh đệ đã giúp trả tiền, ta không thèm cãi nhau với bọn chúng nữa."

Liễu Dật nhìn tráng hán, hỏi: "Các hạ xưng hô thế nào?"

Tráng hán xiêu xiêu vẹo vẹo đáp: "Gọi ta là A Ngưu được rồi, mọi người ở Liên Hoa trấn đều gọi ta như vậy, huynh đệ xưng hô là gì?"

Liễu Dật không trả lời câu hỏi của A Ngưu, nói tiếp: "Sư phụ của các hạ luyện khí phải không?"

Câu hỏi của Liễu Dật làm A Ngưu tỉnh lại không ít, vội nói: "Ta chỉ nói xàm, không phải thế đâu."

Liễu Dật nhìn vào mắt A Ngưu, hắn không dám nhìn y, y ngừng một chút rồi nói: "Dẫn ta đến gặp sư phụ của các hạ."

A Ngưu vội nói: "Thật mà, vị huynh đệ ơi, ta thật sự nói lung tung mà."

Trong mắt Liễu Dật lóe lên hồng quang, lạnh lùng thốt: "Ta hiện giờ chỉ nói với các hạ thêm một lần, ta cần gặp sư phụ các hạ, bất kể ông ta có luyện khí hay không, nếu như các hạ không nghe lời, sẽ không thể thấy được ánh thái dương ngày mai."

A Ngưu mặc dù cao lớn nhưng đảm lược thì lại không được như vậy, nhìn vào ánh mắt Liễu Dật, nghe những lời nói sặc mùi hăm dọa của y, hắn dao động, nghĩ một lát rồi nói: "Được, ta có thể dẫn huynh đệ đi gặp sư phụ ta, chẳng qua không được mách là ta kể chuyện lão nhân gia luyện khí nhé?"

Liễu Dật lặng lẽ gật đầu, A Ngưu nói: "Đi thôi. Sư phụ ta đang ở lò rèn trên ngã tư cách đây không xa."

- oOo -

Hồi 81: Trảm thiên bạt kiếm, sát kỳ hồn bất thương kỳ thân

(Trảm thiên bạt kiếm, diệt hồn phách không tổn thương thân thể)

Rời khỏi tửu lâu, Liễu Dật đi dọc theo con đường, đến ngã tư đầu tiên rẽ phải, quả nhiên y thấy một lò rèn nhỏ bé đến đáng thương.

A Ngưu chạy đến cửa, gọi lớn: "Sư phụ, sư phụ, có kẻ tìm người."

Không lâu sau, từ bên trong vọng ra một giọng già lão: "Không gặp, không gặp, Diêu Nhi đã đổ bệnh đến thế này rồi ngươi còn lôi kéo khách làm gì nữa, đúng là không hiểu chuyện mà."

Liễu Dật nghe thấy, thốt lên: "Không biết tiền bối xưng hô thế nào, lệnh ái mắc phải bệnh gì, không chừng tại hạ có thể chữa được."

Lão già bên trong nói vọng ra: "Ngươi lại đùa rồi, sát khí trên mình ngươi rất nặng, rõ ràng là một kiếm giả, năng lực chữa trị của ngươi, ta thấy phải gọi đó là sát nhân mới đúng."

Liễu Dật tịnh không phản ứng lại, chỉ nói: "Có chữa được hay không cần phải xem qua mới biết, hơn nữa tại hạ đến đây mong tiền bối chế luyện giúp một pháp khí, nắm chắc chắn thành công tại hạ mới dám đến."

Âm thanh phía trong ngừng lại một lát, đột nhiên cánh cửa làm từ cây quang lang (giống cây thuộc họ dừa) mở ra, một lão nhân tuổi chừng ngũ thập từ trong bước ra. Lão nhân vóc người không cao, râu tóc trắng xóa, đôi mắt cụp xuống, bên phải khuôn mặt có một vết sẹo dài do đao chém nhìn rất bắt mắt.

Ông ta đi thẳng đến chỗ A Ngưu, nhặt cây thiết côn ở bên lên, vừa đánh vừa nói: "Tên tiểu tử ngươi lại ở ngoài uống rượu rồi, gây cho ta bao nhiêu phiền phức, xem ta đánh chết ngươi này."

Liễu Dật thấy bộ dạng buồn cười của lão nhân, ánh mắt khẽ chuyển động, nói: "Xin tiền bối ngừng tay, tại hạ thực lòng muốn tiền bối giúp đỡ."

Lão đầu quan sát toàn thân y rồi hỏi: "Ngươi là ai? Trên giang hồ chưa từng có nhân vật như ngươi."

Liễu Dật đáp: "Tại hạ vừa mới xuất đạo, tịnh không không có tiếng tăm gì."

Lão đầu nhìn Liễu Dật nói tiếp: "Đã nhiều năm nay ta không luyện pháp khí nữa, sớm đã quên gần hết rồi, hiện giờ Diêu Nhi mắc phải căn bệnh rất lợi hại, ta còn tâm tư nào mà luyện với chế."

Liễu Dật nói tiếp: "Cứ để tại hạ xem qua bệnh tình của lệnh ái, biết đâu tại hạ lại chữa được thì sao?"

Lão đầu nhìn Liễu Dật nói: "Ngươi thật là 'chưa đến Hoàng Hà chưa ngã long”, ta đã mời bao nhiêu cao nhân, thần y cũng có tác dụng gì đâu. Được, cứ theo ta, ngươi thực sự chữa khỏi bệnh cho Diêu Nhi, đừng nói chuyện luyện pháp khí, kể cả luyện bộ xương già này ta cũng nguyện ý." Nói đoạn đi trước dẫn đường.

Liễu Dật đáp: "Tại hạ sẽ tận lực." Dứt lời liền bám theo lão đầu, xuyên qua gian phòng tối tăm tiến vào hậu viện, chỉ thấy dưới ánh dương quang, một lục y thiếu nữ nằm trên một chiếc giường, sắc mặt đen xì, thân thể hoàn toàn thẳng đơ không động đậy gì, tựa như một người đã chết.

Lão đầu nói với Liễu Dật: "Nó là con gái ta, Diệp Diêu, hai tháng trước nó đến Hoa Hải du ngoạn, không rõ đã lên ngọn núi quỷ quái nào chơi mà khi về nhà thì thành ra như vậy, nhìn giống như bị trúng độc nhưng y sinh lại bảo không phải, ta đã mời không ít cao nhân đến xem nhưng đều không nhìn ra được bệnh gì, chỉ có thể dùng ngân châm tạm thời giữ tâm mạch, mỗi ngày cho ăn một lần. Nguyên bản câu chuyện là thế, ngươi có thể thử qua."

Liễu Dật chậm chạp bước qua, nhìn ngắm lục y thiếu nữ, nàng ta cũng có thể coi là kiều mỹ, chỉ có nơi đầu lông mày phảng phất hắc khí, người thường không nhìn ra nhưng y có thể, bởi vì y đã nhập ma đạo mà tia hắc khí đó chính là ma khí mà người ma đạo thường có. Liễu Dật cong mạnh hữu thủ đeo găng đen thành trảo hướng xuống đất, thoáng chốc toàn bộ hắc khí ở chung quanh hình thành một dòng xoáy ngưng tụ lại trong lòng bàn tay. Cùng lúc, hữu thủ khẽ co lại, nhẹ nhàng chuyển động, hắc khí trong long bàn tay tạo thành những sợi chỉ trực tiếp xạ vào nội thể Diệp Diêu.

Y nhắm mắt lại, phong bế lục thức, dùng linh thức vô thượng cảm thụ mọi việc xảy ra tại nơi đây, luồng hắc sắc khí tức đang thoải mái du tẩu trong thân thể Diệp Diêu đột nhiên va chạm với một thứ gì đó trong khi chung quanh nó hoàn toàn trống rỗng. Y dừng ngay lại, tả thủ nắm chặt kiếm, quát lớn: "Yêu vật phương nào dám cản đường bổn ma quân." Tiếng quát vang động, vọng lại trong vùng tối tăm.

Thình lình, trước mắt y xuất hiện một vật thể trong suốt, dần dần hình thành một khuôn mặt to lớn rồi hiện ra trước mặt y, vật vờ ở chung quanh. Nó đáp lời: "Ngươi là kẻ nào mà dám đến quấy nhiễu hảo sự của ta."

Liễu Dật nhìn khuôn mặt trong suốt đó, đột nhiên nhớ ra Niết nhân trong giấc mộng từng đề cập đến Quỷ tộc, thầm nhủ: "Là Quỷ tộc." Thực sự Quỷ tộc có bản lĩnh chiếm hữu thân thể người khác, hơn nữa y được nghe Niết nhân cho biết bất cứ oan hồn nào thuộc Quỷ tộc có quá trình tu luyện trăm năm trở nên trở thành oan linh, nếu chúng chiếm lĩnh được một thân thể, chỉ cần trăm ngày là linh hồn của thân thể đó bị tiêu diệt còn nhục thể vĩnh viễn trở thành thân thể mới của oan linh.

Liễu Dật nhìn oan linh trước mặt, quát lớn: "Tiểu quỷ to gan, dám không tuân theo tam giới khế ước, khơi khơi làm loạn tại Nhân gian giới."

Oan linh liếc nhìn Liễu Dật, cười to lên: "Ngươi quản được chăng? Ta hiện giờ đoạt được nhất hồn tam phách của cô ta, sau một tuần trăng nữa, thân thể này sẽ là của ta, ha ha..."

Liễu Dật nhìn oan linh, trong lòng dâng lên nộ khí vô tận, vì sao các chủng tộc đều như vậy, đều đem thực lực cường đại của mình đi đàn áp những kẻ nhược tiểu. Hai mắt y ánh lên hồng quang: "Chắc ngươi biết ta là ai."

Oan linh nọ gặp phải hồng quang trong mắt Liễu Dật, tựa hồ có chút sợ hãi, đáp: "Ta quản sao được đến chuyện ngươi là ai, trong Ám chi ma đạo hiện nay không ai có cách tách được ta ra, hồn phách của ta và nàng ấy đã dung hợp, không có cách nào đâu."

Liễu Dật nói rành rọt từng câu từng chữ: "Ta nghĩ Quỷ tộc các người chắc cũng biết đến truyền thuyết về Chân ma."

Chân ma tộc cùng với Thần lúc đầu đều do một chủng tộc sinh ra, Chân ma tộc chỉ có một người là Ma nhân, thứ ma có thể cùng đối kháng với Thần. Do vậy, bất kỳ người nào trong ma đạo đều coi Ma nhân là thủ lĩnh, không bao giờ dám phản kháng. Tuy Liễu Dật mới nhập ma đạo nhưng Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp phát ra ma khí cường đại, có thể coi y là người của Chân ma tộc, bất quá hiện giờ ma đạo không thừa nhận sự tồn tại của Chân ma, y phải coi phục cừu là bước khởi đầu để thống nhất ma đạo.

Oan linh chập chờn muốn thoái lui: "Như vậy làm sao đây? Hồn phách chúng ta hiện tại đã dung hợp, ngươi giết ta, nàng ấy cũng sẽ chết."

Hồng quang trong mắt Liễu Dật lóe lên: "Ngươi chắc đã nghe qua đến Trảm Thiên Bạt Kiếm trong Bi Tứ Thức có thể diệt hồn phách mà không làm tổn thương đến thân thể."

Oan linh tựa như thực sự kinh sợ: "Làm sao như vậy được, đó chỉ là truyền thuyết từ ngàn vạn năm trước, không thể là thật được."

Liễu Dật buông một tràng cuồng tiếu, hồng quang trong mắt liên tục lấp lóe, đột nhiên dừng lại nói: "Ngươi đợi chết đi." Nói đoạn, thân thể y loáng lên biến mất vào trong vùng tối.

Lại nói đến thân thể Liễu Dật ở bên ngoài lay động, mở mắt ra, thu hồi hắc khí trong lòng tay, lùi lại ba bước...

Bạch phát lão đầu bước tới nói: "Xem ra võ công của ngươi thực sự rất cao nhưng loại bệnh này ngươi không có cách chữa trị rồi."

Liễu Dật không đáp lời lão đầu, thân hình nghiêng đi một góc bốn mươi lăm độ, đối diện với thân thể Diệp Diêu, tả thủ nắm chặt trường kiếm bên hông, hữu thủ đeo găng đen từ từ chạm vào chuôi kiếm nhô lên. Đột nhiên chung quanh Liễu Dật gió lốc cuồn cuộn, tà áo choàng da màu đen phần phật trong gió, mái tóc dài trắng xóa tung bay rối bời, hữu thủ lần tới chuôi kiếm phân nào thì gió lốc lại mạnh hơn chừng đó, bầu trời đang sáng sủa chớp mắt bị mây đen dày đặc bao phủ. Dần dần, Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp thôi động đến tầng thứ mười hai, thân thể y phát xuất lục sắc quang mang.

A Ngưu kêu to: "Sư phụ, sao thế này, gió lớn quá, vừa nãy trời vẫn còn sáng sủa mà sao lại chuyển thành mây mù u ám thế này."

Bạch phát lão đầu lắc đầu: "Không phải sầm trời đâu, là ma chi khí tức..."

Đồng thời lúc đó, từ điểm trung tâm là Liễu Dật, trên tầng không Liên Hoa trấn mây đen tụ tập càng lúc càng dày đặc rồi hút về phía trên lò rèn, đột nhiên chuyển thành vòng xoáy cuồn cuộn. Thất Nguyệt ở trong trấn, kinh hãi nói: "Ma khí mạnh quá..." rồi tung người lên Vũ Nguyệt kiếm bay về hướng ma khí tụ tập.

Thiên Kiêu nhìn bốn người hộ vệ: "Bốn vị ca ca, không biết chuyện gì nhưng huynh ấy lại muốn bạt kiếm rồi, chúng ta đi xem thử."

Không tưởng nổi là Liễu Dật mới bạt kiếm chỉ trong chớp mắt có tới ngần ấy người chăm chú quan sát ma khí trên không.

- oOo -

Hồi 82: Quang chi lợi nhận, sát quỷ thị phách kinh chúng nhân

(Lưỡi kiếm hào quang, giết quỷ trảm hồn kinh khiếp chúng nhân)

Lại nói Liễu Dật học kiếm mười năm với Niết nhân trong giấc mộng, có thể nói Bi Tứ Thức đã đạt tới mức tinh tuý, theo lý thì đệ nhất thức Trảm Thiên Bạt Kiếm đủ khả năng diệt hồn phách mà không làm tổn thương thân thể, sử dụng có tính toán tất chém đứt được hồn phách dung nhập vào cơ thể Diệp Diêu, còn sự thật như thế nào y chưa thử qua, nhưng nếu y không làm thì nữ hài sẽ bị oan linh trong nội thể giết chết.

Trong mắt Liễu Dật lóe lên hồng quang, dải tàn ảnh màu đen bên tay phải loáng qua, lưỡi kiếm trắng toát kéo theo hắc sắc khí tức, phát ra một lưỡi kiếm ánh sáng màu trắng hoàn mỹ, tốc độ còn nhanh hơn cả ánh sáng, loé rực trong không trung rồi tan biến, không một loại kiếm khí nào có thể sánh với nó.

"Choang" một tiếng, tay trái Liễu Dật lại cầm trên cán kiếm, tay phải buông xuống, phảng phất như kiếm chiêu vừa rồi chỉ là ảo giác còn y chưa hề động đậy.

Mây đen trên trời tan đi, vầng thái dương lại hiện lên, mái tóc bạc của Liễu Dật tung bay theo gió, hai mắt y nhìn chăm chắm vào thân thể Diệp Diêu, đột nhiên từ sống mũi Diệp Diêu lóe lên một đạo bạch quang hướng thẳng xuống phía dưới, hai đạo hắc khí từ thân thể bay ra, trong đám khí đen phát ra âm thanh: "Ta chết nhưng người của Quỷ tộc sẽ luôn bám theo ngươi, ngươi chuẩn bị cho kỹ."

Liễu Dật không lý đến hắc khí đang dần dần phân tán đó mà chăm chú quan sát sắc mặt thiếu nữ đang từ từ khôi phục lại như thường, kiếm của y quả nhiên chặt đứt oan linh đã dung hợp với hồn phách trong cơ thể nàng.

Đột nhiên, bạch phát lão đầu chạy tới nói: "Người vừa làm cái gì, ngươi đã giết chết con gái của ta rồi". Lão đầu nắm lấy cổ áo y, hình như đang phát cuồng.

Đột nhiên, một thanh âm yếu đuối vang lên: "Cha, cha đang làm gì vậy?"

Bạch phát lão đầu quay phắt lại, thấy ái nữ đã nằm liệt giường hai tháng nay, đột nhiên ngồi dậy, như không có việc gì xảy ra.

Lão vội bỏ tay ra khỏi cổ áo Liễu Dật, ngồi xuống bên cạnh lục y thiếu nữ, giọng kích động: "Diêu nhi, con đã tỉnh thật rồi, tỉnh thật rồi, làm cha lo suýt chết, cha vốn tưởng không còn được thấy con tỉnh lại, người đầu bạc phải đưa tiễn kẻ đầu xanh."

Trong lúc bạch phát lão nhân đang kể lể, ngân quang loé lên, một nữ tử xinh đẹp mặc y phục màu đen từ không trung hạ xuống sân, cùng lúc đó, từ ngoài cửa tiến vào một bạch y nữ tử cùng với bốn hộ vệ cầm trường kiếm, họ là Thất Nguyệt và Thiên Kiêu cùng tứ hộ vệ, họ đều đến đây vì muốn xem chuyện gì xảy ra.

Liễu Dật không nhìn đám người mới tới mà chỉ nói với bạch phát lão nhân: "Tiền bối, con gái của ông bị oan linh của Quỷ tộc phong ấn dung hợp hồn phách, nếu trong một tháng không có người cứu, nàng sẽ chết, thân thể bị oan linh vĩnh viễn chiếm lấy."

Thất Nguyệt và Thiên Kiêu nghe xong đều thất kinh, họ là người trong tam giới đương nhiên biết truyền thuyết về Quỷ tộc, nhưng Quỷ tộc và địa phủ đã có khế ước, vĩnh viễn không bước vào Nhân gian giới nửa bước, tại sao lại xuất hiện ở đây? Nhưng điều họ kinh ngạc nhất lại là vấn đề khác, ai cũng biết bị oan linh dung hợp hồn phách thì chỉ có con đường chết, dù tu vi có cao cũng không có biện pháp cứu chữa, nhưng theo lời nói chuyện của hai người, lục y thiếu nữ rõ ràng bị oan linh dung hợp hồn phách, tại sao lại vô sự?

Bạch phát lão đầu đứng bật dậy, nói: "Đa tạ, đa tạ, đa tạ ngài đã cứu con gái lão. À, đúng rồi, tiểu lão tên là Diệp Đồng Lân, thực sự vô cùng cảm kích ngài. Vừa rồi lão đã sai, còn tưởng ngài bạt kiếm với tiểu nữ, trong lúc khẩn cấp không kịp cân nhắc, tất cả là tại cặp mắt này, già rồi, vô dụng rồi."

Ánh mắt Liễu Dật nhìn thẳng vào bạch phát lão đầu đáp: "Vừa rồi tiền bối không có lỗi, tại hạ quả có bạt kiếm với lệnh ái nhưng để chém oan linh trong thân thể, tuyệt không phải để giết lệnh ái, vì thế tiền bối không có nhìn sai."

Một câu ngắn ngủi đó, làm chấn kinh mọi người, trong tam giới ngày nay, không kiếm giả cao thủ nào có kiếm pháp đến mức diệt hồn phách mà không làm gây tổn thương thân thể, lẽ nào đó là cảnh giới tối cao của kiếm đạo? Bốn hộ vệ đứng sau lưng Thiên Kiêu hiển nhiên là cao thủ dụng kiếm, nhưng trước mặt Liễu Dật, họ tự nhiên cảm thấy ngay cả tư cách cầm kiếm mình cũng không có.

Đột nhiên Diệp Đồng Lân nhìn thấy trong sân có nhiều người đến thế bèn quát: "Tất cả các ngươi là ai, cớ gì lại xông vào sân nhà lão?"

Thất Nguyệt và Thiên Kiêu nhất thời không nói được gì, họ chỉ nghĩ tới những tâm sự trong lòng, giờ bị Diệp Đồng Lân hỏi không biết trả lời ra sao.

Liễu Dật lên tiếng: "Tiền bối, ta nghĩ họ biết lệnh ái bình an, nên đặc biệt đến đây để chúc mừng..."

Không rõ Diệp Đồng Lân thật sự già đến độ ngây thơ hay cố tình giả vờ, lão nói: "Thế hả, tốt tốt, cùng vào trong nhà uống chung rượu chúc mừng." Nói xong, quay người đỡ lấy Diệp Diêu.

Liễu Dật liếc mắt qua thân mình Thất Nguyệt, tuyệt không nhìn đến Thiên Kiêu, đi theo chân Diệp Đồng Lân vào trong phòng.

Thất Nguyệt nhìn thân ảnh của Liễu Dật, đột nhiên nghĩ ra một điều gì đó, nói thầm: "Là người đó, là tiên sinh đoán mệnh cho ta? Ma khí tức vừa rồi là do ông ta xuất ra?" Nàng không muốn nghĩ nhiều, phải vào phía trong nhìn tận mắt, nghe tận tai để chứng minh. Nàng không nhìn Thiên Kiêu, quay người bước theo Liễu Dật.

Thiên Kiêu nhìn mọi người, nói: "Các vị ca ca, các vị chắc vô cùng kính trọng kiếm pháp của huynh ấy, chúng ta đi vào trong xem thử."

Bốn người gật đầu, theo chân nàng.

Căn phòng vốn không lớn, nháy mắt đã chật ních những người, tứ hộ vệ tuyệt không ngồi xuống, chỉ đứng sau lưng của Thiên Kiêu, nhưng nhãn tình thì tập trung quan sát hắc y nhân tóc trắng thần bí.

Năm người ngồi quanh chiếc bàn bát tiên, Diệp Đồng Lân quay lại quát A Ngưu: "Nhìn cái gì, còn không mau rót trà?"

A Ngưu liên mồm dạ vâng, chạy nhanh ra ngoài.

Đến lúc này, Thất Nguyệt ngồi bên cạnh Thiên Kiêu mới quay đầu nhìn, tức thì trong lòng thất kinh: "Là cô, Cát Lợi Nhi, cô không chết à?"

Thiên Kiêu cảm thấy có chút kỳ quái, Cát Lợi Nhi là ai nhỉ? Lẽ nào mình và cô ta giống nhau đến thế? Sao lại có nhiều người quen cô ta như vậy? Nhìn vẻ mặt ngạc nhiên của Thất Nguyệt, Thiên Kiêu cười nhẹ nói: "Cô nhận lầm người rồi, ta không phải là Cát Lợi Nhi, ta tên gọi Thiên Kiêu."

Thất Nguyệt nhìn kỹ lại, nhận ra đối phương quả nhiên không phải là Cát Lợi Nhi, ít ra thì khí chất, động tác, ngôn ngữ đều không giống, nhưng khuôn mặt, thân hình, thì y hệt, nàng vội nhận lỗi: "Xin lỗi, ta nhìn nhầm người."

Diệp Đồng Lân không buồn để ý đến hai người, lão không cảm thấy hứng thú với câu chuyện của họ, thấy A Ngưu đang cầm một bình trà lớn đi vào, vội rót cho Liễu Dật và nói: "Ân nhân, nếu không có ngài thì lão già này đã phải người đầu bạc đưa tiễn kẻ đầu xanh, nào, uống chén trà nhấp giọng, đây là trà hoa nhài do nhà trồng."

Liễu Dật nhìn lão đầu, quay lại nhìn Thất Nguyệt và Thiên Kiêu, nói: "Tại hạ nghĩ các vị chúc xong rồi, không cần phải lưu lại đây, tại hạ và vị Diệp sư phó này có việc quan trọng cần bàn, nếu các vị không phiền lòng, có thể đi trước."

Thất Nguyệt nhìn Liễu Dật, đột nhiên bị đôi mắt y níu giữ, trong đó đầy bi thương với tang thương, quen thuộc quá, là ai nhỉ? Nhưng nàng tuyệt không đến nỗi ngẩn ra, nói một vài câu chúc mừng với Diệp Đồng Lân rồi quay người bỏ đi.

Thiên Kiêu và tứ hộ vệ cũng không ở lại làm gì, sau khi chúc mừng, bọn họ đều ly khai, trong chớp mắt, cả căn phòng trở lại an tĩnh, chỉ còn lại Liễu Dật, Diệp Đồng Lân với Diệp Diêu và A Ngưu.

- oOo -

Hồi 83: Nghịch phong nhi vũ, chỉ tiện uyên ương bất tiện tiên

(Phiêu du ngược gió, chỉ muốn thành đôi uyên ương không muốn thành tiên)

Trong phòng trở lại yên tĩnh, Liễu Dật là người đầu tiên cất tiếng phá tan sự trầm mặc: "Diệp tiền bối, tại hạ đã nói rõ ràng ý định đến đây, hiện giờ tại hạ đã chữa khỏi bệnh cho lệnh ái, chắc bây giờ chúng ta có thời gian đàm đạo."

Diệp Đồng Lân gật đầu nói với A Ngưu: "Ngươi dẫn Diêu nhi ra ngoài đón nắng."

A Ngưu vội đỡ Diệp Diêu bước ra ngoài, Liễu Dật đương nhiên hiểu rõ Diệp Đồng Lân không muốn có người thứ ba nghe chuyện.

Nhìn theo bóng con gái, Diệp Đồng Lân lắc đầu nói: "Đã ba mươi năm rồi, ta vốn nghĩ có thể sống cuộc đời an tĩnh, nào ngờ thế sự không chiều lòng người, công tử nói đi, cần luyện pháp khí chứ gì, công tử đã cứu con gái tiểu lão, lão tất phải giúp lại một lần."

Liễu Dật đề nghị: "Tại hạ cần một tòa thành, một tòa Vĩnh Hằng chi thành có thể lơ lửng trên không."

Diệp Đồng Lân giật mình: "Bao nhiêu năm nay, người khác tìm tiểu lão nhờ luyện tiên gia pháp bảo, danh gia danh kiếm, công tử là người đầu tiên muốn một thứ kỳ quái đến thế."

Liễu Dật nói tiếp: "Tiền bối đã luyện được pháp bảo, tất nhiên sẽ chế luyện được mọi thứ trong thiên hạ, tại hạ biết tiền bối có thể chế tạo một tòa thành từ nhỏ biến ra to ở trên không trung, nên đặc biệt đến đây thỉnh giáo Diệp lão tiền bối."

Diệp Đồng Lân thở than: "Công tử cần pháp khí quá đặc biệt, muốn chế luyện được phải có nguyên liệu và thượng cổ kỳ trận đặc thù, còn chuyện thôi động trận pháp của nó, tiểu lão sẽ thử một phen. Hoàn toàn dựa vào việc hấp thu cửu thiên linh khí của trời đất để có thể duy trì trận pháp này lơ lửng trong không trung, nhờ đó sẽ có đủ năng lượng để vĩnh viễn bập bềnh, chỉ là... nguyên liệu phải tốt, không thì khi tạo được tòa thành trên thiên không này sẽ không chịu nổi linh khí thiên địa tràn vào."

Liễu Dật hiểu rõ ý tứ của Diệp Đồng Lân rất nhanh: "Nguyên liệu đó là gì, tìm ở đâu?"

Diệp Đồng Lân đáp: "Theo tiểu lão biết, chỉ một nơi có loại nguyên liệu là "Bát hoang tinh khoáng". Tại tận cùng phía đông bắc của núi Trường bạch có một tòa động nham tương vạn niên, nhiệt độ vô cùng cao, nham tương ở đó có thể dung hóa cả sắt, "Bát hoang tinh khoáng" chính được sinh ra từ trong dung nham, rất khó có thể lấy được. Ai có khả năng sống sót trong dung nham đâu, hơn nữa theo truyền thuyết thì trong dòng nham tương có một thứ rất khủng khiếp là Hỏa tinh linh."

Liễu Dật gật đầu, nói: "Tại hạ biết, tại hạ sẽ mang "Bát hoang tinh khoáng" về thật nhanh, hãy đợi tin nhé.". Nói xong, y đứng dậy bước ra cửa.

Y rời khỏi Liên Hoa trấn, ngự kiếm thẳng hướng đông bắc Trường bạch sơn bay đi, trong lòng kích động rất lâu, không ngờ tìm được lão nhân luyện khí nhanh chóng đến vậy, mặc dù "Bát hoang tinh khoáng" khó kiếm, nhưng hiện tại đã xác định được phương hướng, chỉ cần lấy được là có thể luyện chế ra Vĩnh Hằng chi thành, nhanh chóng hoàn thành được bước đầu của kế hoạch.

Y cảm thấy nhẹ lòng hẳn, tâm tình tựa hồ không còn quá phiền muộn, nhìn mây trắng trôi nhanh về sau, y hít sâu một hơi không khí trong lành, xuyên vào tầng mây.

Trong mây trắng lúc này xuất hiện một hắc y nữ tử, gió trên không trung làm áo choàng của nàng tung bay, để lộ cặp chân dài tuyệt mỹ, không phải người lạ mà chính là Thất Nguyệt. Nàng sinh lòng hiếu kỳ đối với nam nhân thần bí đã đoán vận mệnh cho nàng, tại sao hắn lại biết hết? Thất Nguyệt ngừng phi hành, lơ lửng trong không trung, tự nói: "Hắn đi đâu rồi?"

Đột nhiên, một âm thanh từ phia sau truyền đến: "Cô nương đang tìm tại hạ? Theo chân tại hạ sao?"

Thất Nguyệt xoay Vũ Nguyệt kiếm lại: "Úy, ngươi dọa ta rồi, ta theo chân ngươi thì ảnh hưởng gì."

Liễu Dật nhìn Thất Nguyệt, đột ngột cảm thấy nha đầu ngốc này bây giờ ngang bướng một cách khả ái, nhớ lại Thất Nguyệt của mười năm trước từng muốn dùng kiếm giết mình, hình như đã thay đổi rất nhiều.

Liễu Dật không lộ ra biểu tình gì, chỉ nói: "Ồ, thật à? Mà... Bây giờ tại hạ đang có nhiều vấn đề phải làm, nếu như lần sau để tại hạ phát hiện cô nương ở phía sau, bất kể cô nương có bám theo hay không, tại hạ giết ngay."

Thất Nguyệt nhìn vào mắt Liễu Dật, nói: "Hừ, võ công cao thì làm gì, chả lẽ bầu trời là địa bàn của ngươi, ta đi đâu ngươi cũng quản đến chăng?"

Liễu Dật không nghĩ miệng lưỡi nha đầu này lại lợi hại đến thế, lắc đầu: "Được, để xem phi kiếm của cô nương hay tại hạ nhanh hơn."

Thất Nguyệt nghe thấy liền tỏ ra gấp rút: "À, ta đang rỗi thì cứ để ta theo ngươi, xem ngươi làm việc là được rồi, ngươi thì không phải là thầy bói à? Lúc nào có thời gian thì lại bói giúp ta."

Liễu Dật không ngờ nha đầu này đột nhiên lại đưa ra chiêu này, nhìn Thất Nguyệt, y lắc đầu nói: "Cô nương có biết ta muốn đi đâu không?"

Thất Nguyệt đáp: "Không biết nhưng ta khẳng định ngươi không phi hành lung tung, ta đã mười năm phiêu bạt bên ngoài, lâu lắm rồi không hiếu kỳ như bây giờ, ngươi dẫn ta cùng đi nhé."

Liễu Dật nhìn vào mắt nàng, phảng phất như nhìn thấy ánh mắt đầy mong mỏi dưới cây hoa đào, bất giác gật đầu: "Tại hạ cần đến động nham tương ở Trường Bạch sơn, nguy hiểm lắm, nếu cô nương chết ở đó, đừng có oán tại hạ."

Thất Nguyệt gật đầu, nói: "Không đâu, ta không oán hận ngươi."

Liễu Dật nói: "Cô nương tự nguyện muốn chết, tại hạ không còn gì để nói nữa, chúng ta đi thôi". Dứt lời, thôi động Bi Mộng kiếm lao vút về phía trước.

Một nam một nữ đều mặc hắc y, ngự kiếm giữa không trung, bay nhanh về hướng đông bắc. Mái tóc trắng của nam tử phát phơ đùa với gió, trên mặt đeo mặt nạ, chỉ thấy được đôi mắt, bộ y phục đen nhức mắt của nữ tử lả lướt theo làn gió, càng hiển lộ dáng vóc đẹp mê hồn.

Nhìn mây trắng trôi dạt về sau, Thất Nguyệt hỏi: "Ngươi là ma, không phải là người của Nhân gian?"

Liễu Dật đáp: "Cô nương quan tâm đến tại hạ ư? Cô muốn biết điều gì?" Một câu này của y đã huỵch toẹt điều Thất Nguyệt muốn nói ra nhưng vẫn ấp ủ trong lòng.

Thất Nguyệt dừng lại: "Ta chỉ muốn biết, làm sao ngươi có thể biết chuyện giữa ta và thư sinh?"

Liễu Dật không ngờ nha đầu này lại tinh tế như thế, vẫn nhớ chuyện đó, vừa nghĩ vừa đáp: "Tại hạ là thầy bói mà."

Thất Nguyệt phản bác: "Lý do của ngươi quá khiên cưỡng, ngươi rõ ràng là kiếm giả, làm sao có thể là thầy bói được."

Liễu Dật lắc đầu: "Lý do tại hạ biết việc giữa cô nương và thư sinh, cô tin hay không thì tùy."

Thất Nguyệt không nói gì, nàng biết hắc y nhân này có ý muốn che giấu bèn đổi chủ đề: "Ngươi tên là gì?"

Liễu Dật không nghĩ ngợi gì đáp ngay: "Niết nhân."

Thất Nguyệt nghiêng đầu, nghĩ ngợi một hồi rồi lắc đầu: "Chưa từng nghe qua."

Liễu Dật không lý tới nàng, mà chăm chú nhìn mây trắng...

Thất Nguyệt nói tiếp: "Ta là người của Ma tộc, tên gọi Thất Nguyệt."

Liễu Dật thuận miệng: "Tại hạ biết rồi."

Thất Nguyệt vội hỏi: "Làm sao ngươi biết được?"

Liễu Dật vội đỡ lời: "Tại hạ đã nói mình là thầy bói, nếu như đến tên cô nương còn không biết thì tại hạ kiếm ăn thế nào được?"

Thất Nguyệt không hỏi nữa, nàng biết có hỏi nữa cũng không đến đâu, hai người cứ thế phi hành ngược gió, xuyên mây trắng với tốc độ cao dưới bầu trời bao la.

Liễu Dật tựa hồ nghĩ gì đó, nhìn không gian rộng lớn, tự nói: "Biển xanh thay đổi, tấm lòng si cuồng trôi theo gió, chìm nổi đã bao lần, tình bền như vàng đá, việc đời không như ý muốn, khổ dù hết mà ngọt bùi chưa đến, một thân ta tiêu sái, không cần ai hiểu mình."

Tịch dương tây hạ, mặt trời lặn xuống ánh xạ ráng hồng lên mây trắng khắp trời, Thất Nguyệt nhìn bóng lưng Liễu Dật, nghe bài từ của y, bỗng thấy mơ hồ mà quen thuộc, tưởng như "y" ở trước mắt.

Giữa không trung, dưới ráng chiều, hai nhân ảnh màu đen, phảng phất như thần tiên trên trời, bay ngược gió, tạo nên một bức tranh hoàn mỹ

- oOo -

Hồi 84: Phù sinh nhược mộng, thượng thiên thanh dục lãm minh nguyệt

(Kiếp người như mộng, lên trời cao ngắm trăng sáng tỏ)

Có lẽ, khi đối diện với nỗi cô đơn, không chỉ là ta và ngươi, mỗi người đều cảm thấy mỏi mệt, chúng ta đều muốn có người bầu bạn, bởi vì chúng ta không phải thánh nhân.

Trên trời sao lơ lửng một vầng trăng khuyết tỏa ánh sáng bàng bạc, chiếu rọi mặt đất tối tăm, Liễu Dật và Thất Nguyệt đốt một đống lửa, với tu vi của y, ngự kiếm căn bản không cần phải dừng lại nghỉ, độ ba ngày có thể đến Trường Bạch sơn. Nhưng Thất Nguyệt thì không thể, tu vi của nàng còn thấp, ngự kiếm chưa tới một ngày đã không thể chịu nổi, nên bất đắc dĩ phải hạ xuống nghỉ ngơi.

Liễu Dật ôm Bi Mộng kiếm nằm xuống bãi cỏ, nhìn lên trời sao bao la vô tận, tựa hồ nghĩ ngợi điều gì.

Thất Nguyệt ngồi bên cạnh, lên tiếng hỏi: "Này, ngươi không đói à?"

Y không nói một lời.

Thất Nguyệt lại hỏi: "Ngươi thì không phải là người à, hình như không hề mệt? Nếu không ăn gì, dạ dày ta sẽ kêu ầm lên đó."

Y vẫn không lên tiếng, hơi ngần ngừ rồi bật dậy, quay người bước về hướng rừng sâu.

Thất Nguyệt nhìn theo, kêu lớn: "Ồ, ngươi đi đâu?" Nhìn bóng Liễu Dật khuất xa, nàng giậm chân: "Cái tên đáng chết này, nửa đêm nửa hôm còn đi đâu?"

Nàng đang buồn bực ngồi trên mặt đất, một nhân ảnh màu đen chớp lên, Liễu Dật lại xuất hiện bên cạnh, nhưng lúc này trên tay cầm một con rắn dài cả trượng, trông khá thô kệch, hình như là mãng xà. Y ném con rắn lên không, tay phải nhanh chóng bạt kiếm, một đạo bạch quang mang theo hắc sắc khí tức chớp qua thân con rắn, rồi biến mất.

Y nhanh chóng tra kiếm vào vỏ, tay phải chạm vào thân rắn, móc ra khúc thịt dài một xích đã được lột da, nhặt một cành cây nhọn sắc trên mặt đất, xuyên miếng thịt vào, nướng trên đống lửa, giải thích: "Vừa nãy tại hạ vào rừng, đang không thấy gì khác thì tìm thấy con rắn này, cô nương cùng ăn nhé."

Thất Nguyệt nhìn động tác nướng rắn mà ngây dại, cảm giác quen thuộc xiết bao, ở trên đảo hồi mười năm trước, thư sinh không phải cũng nướng thịt rắn cho nàng ăn ư?

Tựa hồ, hai người đều có tâm sự, không biết bao lâu sau, mùi thịt nướng ngào ngạt bốc lên, Liễu Dật vừa nướng vừa nói: "Tuy trường xà hơi khó coi nhưng thịt cực kỳ thơm ngon, không thể không ăn..."

Thất Nguyệt quay phắt lại nhìn, nàng từng được nghe câu nói "thịt rắn cực kỳ thơm ngon", chính ở trên đảo, thư sinh cũng nói vậy. Nàng không dám tin vào tai mình, cố gắng mở to mắt, muốn nhìn rõ con người đang ở trước mặt, nhưng lớp khăn màu bạc đã ngăn cách họ.

Liễu Dật đưa miếng thịt rắn nướng ngon lành cho nàng, nói: "Nếm thử trù nghệ của ta xem sao, mùi vị có ngon không?"

Thất Nguyệt nhẹ nhàng cắn một miếng, nhưng hiện tại nàng không có cảm nhận thấy mùi vị gì cả, câu nói thứ hai "sao, mùi vị có ngon không?" là câu thư sinh đã từng nói với nàng. Mỗi câu nói của y đều gợi cho nàng nhớ đến thư sinh.

Thất Nguyệt không chủ tâm tiếp lời: "Nếu như đói quá mà không có lương khô, ta thấy dù ăn thịt người cũng ngon vô cùng."

Liễu Dật giật mình, câu nói này tựa hồ lặp lại như năm đó, làm y nhớ đến Thất Nguyệt lúc ở trên đảo. Y từ từ nằm xuống, ngắm sao trên trời, ngôi sao sáng nhất, cô độc nhất.

Thất Nguyệt vừa ăn vừa hỏi: "Ngươi không ăn gì à?"

Liễu Dật thuận miệng đáp: "Không, ăn đồ vật chỉ là một hình thức, hiện giờ thứ tại hạ cần là hỗn độn chi khí." Rồi chuyển chủ đề: "Tâm pháp tối cao của Ma tộc có phải là Lan Nhĩ Phi Na Thanh?"

Thất Nguyệt dừng lại, lấy làm ngạc nhiên hỏi: "Làm sao ngươi biết? Loại tâm pháp tối cao đó chỉ có Ma chủ mới được học."

Liễu Dật không tỏ vẻ gì, nhưng từ tiếng "hừ" của y có thể thấy y vô cùng coi thường người được gọi là Ma chủ đó. Y lại nói: "Tại hạ còn biết, Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp của Ma môn hiện giờ mức tối cao chỉ có chín tầng."

Thất Nguyệt đột nhiên đặt miếng thịt xuống, nhớ lại điều gì đó, nàng nói: "Lẽ nào tâm pháp ngươi sử dụng là Lan Nhĩ Phi Na Thanh?"

Liễu Dật không trả lời câu hỏi của nàng mà nói tiếp: "Cô nương có muốn học không? Nếu muốn học, tại hạ có thể dạy cô nương Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp đến tầng chín". Từ việc nàng chỉ có khả năng duy trì thời gian ngự kiếm phi hành không đến một ngày, Liễu Dật đã biết tu vi của nàng trong mười năm qua tăng tiến rất chậm, nếu như dạy nàng Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp đến tầng thứ chín để nàng có thể đạt đến trình độ của môn chủ thì về sau này, những kẻ tầm thường không thể động đến nàng.

Thất Nguyệt đột nhiên ngây ngẩn, tâm pháp tối cao Lan Nhĩ Phi Na Thanh của Ma môn chỉ có lịch đại môn chủ mới được luyện tập, còn môn hạ luyện loại tâm pháp khác. Y là ai? Lan Nhĩ Phi Na Thanh là vô thượng tâm pháp của Ma môn, đối với bất kỳ ai thấy cũng là điều dụ hoặc tột độ, nàng cũng không ngoại lệ.

Nàng tỉnh táo lại: "Ngươi thực sự biết Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp?"

Liễu Dật không trả lời, chỉ bình tĩnh nói: "Tại hạ chỉ cần cô nương nói một tiếng muốn học, nếu không muốn học, cứ trả lời ngay". Lời lẽ đơn giản nhưng đầy uy lực, ngay cả Liễu Dật cũng cảm thấy bản thân biến đổi rất nhiều.

Thất Nguyệt vội gật đầu: "Học, đương nhiên muốn học."

Liễu Dật nhẹ nhàng ngồi xuống, nói: "Cô nương không được nói với ai là tại hạ dạy hơn nữa, nếu không gặp lúc sinh mệnh nguy hiểm, không được tùy tiện sử dụng Lan Nhĩ Phi Na Thanh."

Thất Nguyệt gật đầu, trong lòng có phần khẩn trương, tâm tình dao động, hoang mang, mình có nên học loại võ công trong truyền thuyết đó không?

Cánh tay phải màu đen của Liễu Dật duỗi ra, từ chưởng biến thành chỉ, lục sắc quang mang từ trên đầu ngón tay loáng lên, thuận thể điểm vào my tâm Thất Nguyệt, nàng chỉ cảm thấy mắt tối sầm, bản thân như bồng bềnh, chung quanh trống không, hoàn toàn không có gì cả.

Nàng kêu lớn: "Đây là đâu?"

Hắc quang loé lên, thần bí nhân xuất hiện trước mắt nàng, nói: "Đây là tư tưởng của cô nương, nhìn bốn phía đi, tại hạ sẽ truyền Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp vào trong óc cô nương, mỗi ngày chỉ cần cô nương phong bế lục thức, dùng linh thức tu luyện tất tốc độ nhanh gấp mười lần người khác."

Thất Nguyệt nhìn xung quanh, quả nhiên, trong bóng tối lơ lửng những chữ màu lục, lấp loé phát ra ánh sáng, nàng nói với thần bí nhân: "Đa tạ ngươi."

Liễu Dật dặn: "Tại hạ đi đây, cô nương ở lại đây tu luyện". Nói xong, thân ảnh màu đen biến mất.

Trở về bên ngoài, y nhìn Thất Nguyệt đang nhắm mắt, nhẹ nhàng nói: "Hy vọng sau này cô nương không bị bất kỳ ai gây thương tổn, tại hạ chỉ có thể làm được bấy nhiêu thôi."

Y nhắm mắt lại, cảm thấy trời đất mênh mang, dần dần, dung nhập bản thân vào không gian bao la vô hạn...

- oOo -

Hồi 85: Hỏa chi tinh linh, triều thanh đông lưu hỏa liên thiên

(Gặp Hỏa tinh linh, Lửa dâng ngập trời như nước triều chảy về đông)

Nhìn mặt trời dần lên cao, Liễu Dật để một tay ra sau lưng, cảm thán: "Hôm qua đã khác hôm nay, tương tư vô tận, sinh tử xa cách muôn trùng, sầu bao lần, khó mà đo được, nhân sinh như ảo mộng, người mạt lộ, lòng thương tâm, tim vỡ nát, vung kiếm vì hồng nhan..."

Một giọng nữ vọng tới, là tiếng của Thất Nguyệt: "Ngươi dậy sớm thế, có phải vì nhớ đến người trong lòng không?

Liễu Dật quay người lại, nhìn Thất Nguyệt nói: "Cô nương không phải cũng dậy sớm sao? Đêm qua ngủ có ngon không?"

Thất Nguyệt gật đầu nói: "Nhờ Lan Nhĩ Phi Na Thanh của ngươi nên hiện tại đã hết mệt mỏi, tinh thần phấn khởi, chúng ta có thể tiếp tục lên đường."

Liễu Dật gật gật đầu, hai người tìm một nguồn nước, rửa ráy xong bèn ngự kiếm bay lên, rõ rang tốc độ của Thất Nguyệt đã tăng đáng kể. Cần biết Lan Nhĩ Phi Na Thanh là tâm pháp tối cao của Ma tộc, những thứ trong đó cao diệu vô cùng, ẩn tàng khả năng huỷ thiên diệt địa, vì thế bao nhiêu đời nay chỉ có Ma môn Ma chủ mới có quyền tu luyện, những người khác chỉ được luyện tâm pháp khác. Không ngờ Thất Nguyệt bây giờ bỗng nhiên được tập luyện, cộng thêm được Liễu Dật đích thân chỉ điểm, nên tiến bộ nhanh chóng.

Tối đến, hai người lại hạ xuống nghỉ ngơi, mất khoảng năm ngày đã tới trên Trường Bạch sơn, lúc này đang là tháng chín mùa thu, lá phong phiêu đãng trong gió, hai người lãng du trong rừng rậm, long thư thái vô ngần.

Liễu Dật dừng lại, hạ xuống mặt đất: "Căn cứ tự thuật của Diệp tiền bối, động dung nham đó ở quanh đây, chúng ta hiện tại đã tiến vào trong núi, cần phải tìm kiếm thật kỹ."

Thất Nguyệt gật đầu, hai người bắt đầu tìm kiếm. Có lẽ do vận khí tốt, hoặc động dung nham này căn bản không có gì bí mật, hai người nhanh chóng phát hiện ra nó nằm sau một hòn núi lớn, phía trên điêu khắc ba chữ lớn đã mờ nhạt: "Nham tương động". Liễu Dật lên tiếng: "Là đây rồi, nếu bây giờ cô nương hối hận hay mau quay lại, vào trong tại hạ không thể chiếu cố được đâu."

Thất Nguyệt nói: "Đừng có nghĩ ta yếu đuối, ta chỉ muốn giết thời gian mà thôi, dẫu thế nào thế giới này không còn ý nghĩa gì với ta, ngươi không cần lo". Nỗi buồn quá lớn làm cho lòng chết lịm, xem ra tâm tình nàng tựa hồ đã mất đi theo cái chết của Liễu Dật.

Liễu Dật không nói gì chỉ biết cảm thán trong lòng, rảo bước tiến tới, hai người vừa vào động đã cảm thấy nhiệt phong táp vào mặt, tiến thêm một bước, nhiệt độ tựa hồ cao hơn; hai người không biết đã đi bao xa trong động huyệt màu đen này, chỉ dựa vào tu vi của mình mà nhận biết đường đi.

Không biết đi được bao lâu, bỗng nhiên trước mắt lấp lánh ánh sáng đỏ, nhưng hai ngươi cũng cảm thấy nhiệt độ như như thiêu như đốt, để đi tiếp, Liễu Dật thôi động Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp, hình thành một lớp lục quang bên ngoài thân thể, hộ thân cương khí cách ly hơi nóng, trong chớp mắt, áp lực giảm hẳn.

Liễu Dật nhìn Thất Nguyệt ở phía sau, dù nàng không mặc nhiều y phục, thậm chí có chỗ còn để trần, nhưng nàng không ngừng gạt mồ hôi trên trán, y gọi: "Đến đây". Nói xong, thôi động tầng thứ mười Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp, tỏa rộng phạm vi hộ thân cương khí.

Thất Nguyệt nhìn y rồi cuối cùng đành cất bước, phạm vi bảo vệ của hộ thân cương khí không quá lớn, có thôi động tầng mười cũng chỉ cách ly nhiệt khí trong phạm vi bốn xích. Khoảng cách giữa hai người trở nên rất gần, mặc dù vậy vẫn dễ chịu hơn so với nhiệt độ như thiêu như đốt bên ngoài, Thất Nguyệt vừa đặt chân vào vòng hộ thân cương khí liền cảm thấy áp lực xung quanh biến mất, thư thái đi nhiều.

Nàng ngạc nhiên nói: "Tu vi của ngươi, khẳng định là cao hơn cả phụ vương ta."

Nàng nói vậy, trong lòng Liễu Dật nảy ra ý nghĩ: "Nếu như ta giết sạch toàn bộ người trong Ma môn, tâm tình của Thất Nguyệt sẽ thế nào nhỉ? Có giống với tao ngộ của ta mười năm về trước không?"

Nhưng giờ y không có thời gian để nghĩ đến chuyện đó, mục tiêu của y là "Bát hoang tinh khoáng" ở trong động, sau đó kiến lập Vĩnh Hằng chi thành, từ từ báo thù toàn bộ Ma giới, bọn họ có liên minh với nhau không? Phải cho bọn họ nếm mùi báo phục.

Y sải bước về luồng hồng quang phía trước, Thất Nguyệt bám sát phía sau, nhiệt độ càng lúc càng cao, nếu như Thất Nguyệt rời khỏi tầng bảo hộ, nhiều khả năng nàng sẽ bị nướng chín.

Cuối cùng, hai người đến được vùng phát ra hồng quang, vừa nhìn xuống đã thất kinh, không ngờ trong động này quả có nham tương cuộn chảy: trước mắt hai người đột nhiên thoáng đãng, sơn động rộng hẳn ra, hai bên đều có đường rãnh, nham tương đỏ rực chuyển thành màu vàng chảy phía dưới.

Liễu Dật ngoái lại đưa dùng tay phải nắm lấy tay Thất Nguyệt, nói: "Đi sát vào người tại hạ, nếu như cô nương rời khỏi tầng bảo hộ này sẽ nhanh chóng bị biến thành gà nướng ngay."

Mặc dù tay phải y có đeo găng, Thất Nguyệt vẫn có cảm giác không thoải mái, muốn rút tay về, nhưng khi nghe y giải thích, nàng không tiện làm vậy. Quả thật, nhiệt độ nơi đây cao đến mức có thể dễ dàng nướng chín một người, nàng không muốn biến thành gà quay nên không phản kháng, mặc cho y nắm tay.

Sơn động phía trên dốc đứng, dòng nham tương nóng rực lục bục nổi lên bong bóng màu vàng, sau đó vỡ ra bắn tứ tán như những cánh hoa nham tương màu đỏ ngập ngụa ý tử vong, Thất Nguyệt hỏi: "Ngươi biết "Bát hoang tinh khoáng" ở đây hả?"

Liễu Dật lắc đầu: "Tại hạ chỉ biết ở trong động này, không biết nơi cụ thể, chúng ta từ từ tìm vậy."

Thất Nguyệt vừa đi vừa hỏi: "Không biết là sơn động lớn đến đến đâu nữa đây."

Càng đi lên càng dốc, sơn động cũng mỗi lúc một rộng hơn, nham tương vẫn không ngừng chảy dưới chân, cảnh tượng đó khiến người ta thấy mình bèo bọt.

Không biết đi được bao xa, sơn động càng cũng rộng lớn hẳn, nham tương giống như một hồ nước, bất quá đó không phải là hồ thông thường, Liễu Dật dừng bước nói: "Có vật đang tiến lại gần chúng ta."

Tay trái Thất Nguyệt giữ tư thế xuất kiếm nhanh nhất, Liễu Dật lắc đầu: "Tại hạ nghe nói nơi đây có Hỏa tinh linh đã tu luyện nghìn vạn năm, dựa vào địa thế hiện tại, chúng ta ...đã đến nơi nguy hiểm", y nắm lấy tay Thất Nguyệt lùi lại phía sau, cũng cần duy trì khoảng cách nhất định với vách đá bỏng rãy này.

Y từ từ nhắm mắt, dùng Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp thôi động cảm thức linh mẫn đến mức cao nhất, lặng lẽ nghe ngóng động tĩnh xung quanh, yên tĩnh quá, ngay cả dung nham đang sôi lục bục cũng không có một chút âm thanh, tựa như sự yên ả trước cơn bão lớn. Y đột nhiên mở mắt: "Ôm sát tại hạ, nó đang đến đấy."

Vừa dứt lời, hồ nham tương trước mặt bùng mạnh lên trời một hỏa trụ cự đại. Hỏa trụ tan biến, trong nham tương xuất hiện một thân thể khổng lồ rừng rực lửa, ánh lửa chói mắt bập bùng quanh mình nó làm cho người ta chỉ thấy được hai chân và hai con mắt phát ra bạch quang, đồng thời một cột "nước" toàn lửa bắn vọt lên.

- oOo -

Hồi 86: Sinh tử nhất thuấn, ức mộng chi tử vong lãng mạn

(Sinh tử cận kề, nhớ lại phút giây lãng mạn khi xưa.)

Thất Nguyệt chưa bao giờ thấy con quái vật nào đáng sợ đến thế: thân hình cao bốn năm trượng, toàn

thân là nham tương đỏ lửa, nếu chạm vào luồng hỏa diễm bao bọc phạm vi ba xích kia lập tức bị dung hóa ngay, mắt nó phát ra bạch quang trông càng thêm đáng sợ, ngay lúc vừa mới xuất hiện, nó đã phóng ra một đạo hỏa tiễn, bắn thẳng đến hai người.

Thất Nguyệt nghe cảnh báo vội ôm chặt lấy thân hình vững chắc của y, thân thể lay động, đạp không phi hành, hai người tránh thoát hỏa tiễn rồi tiếp tục lướt xéo về phía đối diện rộng rãi.

Bay qua vùng nham tương nóng như nung, ai mà không kinh sợ, nếu không may rơi xuống thì... kết quả sẽ như thế nào? Nhưng Thất Nguyệt bây giờ ngược lại, trở nên bình tĩnh lạ thường, hiện tại nàng đang ôm thân thể đó, cảm giác thật quen thuộc, thân thiết... phảng phất như trở lại đêm sáng trăng huỳnh hỏa trùng bay đầy trời nhiều năm trước.

Liễu Dật nhẹ nhàng đáp xuống, không gian nơi đây hẹp hơn lúc trước nhiều, y nhìn con quái vật khổng lồ đang dần tiến lại, lên tiếng: "Cô nương lùi lại đi."

Thất Nguyệt nghe lời lùi lại, nhưng vẫn trong phạm vi của lục quang. Liễu Dật nhìn quái vật khổng lồ, thầm tính cách đối phó, thân hình nó do nham tương đỏ cấu thành, nếu dùng Bi Tứ Thức sẽ có một cơ hội, nếu không thành công tất sẽ phải chết, trận chiến nào cũng chỉ có một nửa cơ hội mà thôi.

Đột nhiên, trong đầu y lóe lên một tia sáng, nhận thấy không thể sử dụng kiếm, đối thủ là Hỏa tinh linh, hiện tại tu vi của y chưa đến tầng thứ mười ba Lan Nhĩ Phi Na Thanh, khó có khả năng giết được nó, nhưng kết cấu của nó là dạng lưu động, nhất định có một vật giết chết được.

Liễu Dật vòng tay phải ra sau lưng: "Đưa cho tại hạ một quả Thị thần lôi."

Thất Nguyệt giật mình, Thị thần lôi là một vật đặc thù của Ma môn, do phụ vương luyện chế cho riêng nàng, lúc bình thường rất ít khi sử dụng, huống hồ mười năm gần đây nàng không hề dùng tới, làm sao thần bí nhân lại biết được.

Trong lúc nàng đang ngơ ngẩn, quái vật màu đỏ vung song thủ ném ra hai hai hỏa tiễn. Liễu Dật thấy nàng không động tĩnh gì mà trước mắt hỏa tiễn lại đang bay đến, thân hình chuyển động, thi triển Ẩn Toàn Cửu Ảnh ôm chặt lưng nàng, nhảy sang vị trí khác né tránh. Chín chiếc bóng lóe lên trước mắt Thất Nguyệt, cuối cùng hợp thành một người.

Thất Nguyệt hơi mụ mị, người đứng trước mắt nàng, thực sự rất quen thuộc.

Liễu Dật không dừng lại, tay trái khẽ động, lấy ra một vật hình trụ tròn màu đen từ trong túi vải bố tại thắt lưng của Thất Nguyệt, không sai, đó là Thị thần lôi. Liễu Dật rướn người dặn: "Cô nương đứng cho vững". Rồi ném mạnh quả đạn về phía con quái vật nham tương màu lửa, đồng thời tiến lại gần, mắt lóe hồng quang, tay phải loáng qua, Bi Mộng Kiếm được tuốt khỏi vỏ ngân vang, một lưỡi kiếm ánh sang hình bán nguyệt màu trắng xả vào Thị thần lôi.

"Oàng!"

Thị thần lôi nổ tung làm sơn động rung nhẹ, quái vật nham tương khổng lồ bị nổ tung tóe khắp nơi, nham tương màu đỏ chạm vào phạm vi bốn xích quanh Liễu Dật, lập tức bị bốc lên khói đen rồi tan biến. Y tính không sai, tinh linh này bất quá là một bộ phận trong nham tương, chỉ có thể làm nó tách từ giữa, sử dụng Thị thần lôi là biện pháp tốt nhất.

Lúc đó Thất Nguyệt đang ngây người bất động, đột nhiên hỏi: "Ngươi là ai? Làm sao biết ta có Thị thần lôi, còn biết cả chuyện ta đặt nó ở đâu?"

Liễu Dật quay đầu nhìn nàng, trả lời: "Tại hạ đã nói mình là thần toán, nên biết rất rõ mọi chuyện về cô nương."

Thất Nguyệt lắc mạnh đầu: "Không, ta không tin, ngươi lừa ta, căn bản là ngươi muốn trốn tránh, che giấu gì đó, nếu không thì sao ngươi lại đeo khăn che, bỏ xuống đi." Tựa hồ, nàng muốn xác nhận chuyện gì đó.

Tâm tình nàng đang nổi sóng, kích động vạn phần, sơn động rung chuyển dữ dội, Liễu Dật nhìn quanh: "Sơn động sắp sụp đổ, chắc do Thị thần lôi vừa rồi gây nên, chúng ta..."

Chưa kịp nói hết, Liễu Dật lùi lại một bước, vội dang chân ra, nham tương vô tận ào ào quét qua nham thạch. Rất nhanh, y và Thất Nguyệt đã cách nhau mười trượng. Thất Nguyệt cảm thấy toàn than như ở trong hỏa lò, cảm giác ngạt thở, toàn thân cơ hồ nứt toác, phảng phất như sắp bị thiêu chết.

Khoảng cách giữa hai người không ngừng mở rộng, vị trí Thất Nguyệt đứng đang bị dung nhan xâm thực dần dần, càng lúc càng thu hẹp, cơ hồ sắp chìm trong nham tương, ngay lúc đó, tại chỗ quái vật khổng lồ nổ tung, một ánh hồng quang lóe lên, Liễu Dật quay đầu, trong lòng hoan hỉ: "Là "Bát hoang tinh khoáng". Nhưng sơn động lại bắt đầu sụp đổ...

Liễu Dật đảo mắt, tình thế bây giờ buộc y phải lựa chọn, hoặc cứu Thất Nguyệt, hoặc mặc kệ nàng, tìm cách lấy "Bát hoang tinh khoáng", chỉ cần lấy được là có thể kiến lập Vĩnh Hằng chi thành. Nhưng giờ y không có thời gian để cân nhắc, nham tương đang trào tới, cự thạch đang rơi khắp sơn động, khoảnh khắc nữa, nơi đây sẽ sụp đổ.

Thất Nguyệt lúc này đã có phần hôn mê, xung quanh nham tương vô tận đang ào tới nhưng nàng đã kịp nhìn thấy "Bát hoang tinh khoáng", nàng biết, thần bí nhân đến đây chỉ vì nó, nên vô cùng bình tĩnh, bởi người tuyệt vọng không biết sợ gì, kể cả tử vong.

Đột nhiên, nàng cảm thấy thân thể mát lạnh, tiếp đó cảm giác thư thái truyền khắp toàn thân, một bàn tay mạnh mẽ ôm lấy eo, nàng lặng lẽ mở mắt, cố gắng khôi phục ý thức, chỉ thấy nam nhân thần bí đó đang ôm lấy nàng, đạp kiếm bay nhanh ra phía ngoài sơn động.

Nàng không hiểu, y vì cái gì mà muốn cứu nàng, y có thể không quan tâm đến sinh mạng của nàng mà tìm cách lấy được "Bát hoang tinh khoáng", nhưng y đã từ bỏ để cứu nàng.

Liễu Dật cúi nhìn Thất Nguyệt đang trong lòng y, ngự kiếm bay nhanh ra bên ngoài sơn động, lên tiếng: "Đây là lãng mạn ư? Nếu lãng mạn, thì là lãng mạn tử vong, để xem vận khí chúng ta tốt hay không, ra khỏi sơn động này, ai sẽ chết trước?"

Nhãn tình Thất Nguyệt mông lung, hai tay nàng ôm chặt lấy cổ Liễu Dật, câu nói quen thuộc đó nàng đã từng nói, đã từng hỏi y: "Đây là sự lãng mạn?"

Tựa hồ, đấy là an bài của vận mệnh, Liễu Dật muốn nghịch thiên cải mệnh, nhưng vô tình đã bước theo con đường mà vận mệnh buộc y phải đi, lẽ nào không thể tự nắm lấy vận mệnh của mình?

- oOo -

Hồi 87: Hắc thạch tinh anh, nghịch thiên hành bạt kiếm trảm

(Tinh hoa đá đen, tuốt kiếm chống lại ông trời)

Vô số tảng đá từ trên nóc động vỡ ra rơi ầm xuống, Liễu Dật đẩy Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp đến tầng thứ mười hai Nghịch Thiên, bay ra ngoài sơn động với tốc độ nhanh nhất, đá và nham tương như ác ma truy đuổi sát gót.

"Ầm!"

Cả sơn động sụp đổ, cửa động bị nham thạch vô tận tràn lấp, trong chớp mắt, một đạo hắc quang bay vụt lên trời, xẹt vào mây cao.

Không phải ai khác, chính là Liễu Dật và Thất Nguyệt, đứng trên mây lững lờ bay, làn gió nhẹ nhu thuận, ánh nắng ấm áp, y thở hắt ra: "Quá nguy hiểm, không ngờ chúng ta thoát chết." Nói đoạn, y chầm chậm đáp xuống một rừng phong.

Thất Nguyệt vội buông tay, đứng sang một bên: "Tại sao ngươi không lấy "Bát hoang tinh khoáng" mà cứu kẻ không quan trọng là ta? Có đáng không?"

Liễu Dật vẫn cầm chuôi kiếm màu đen, bi thương vô tận đã có thể làm an tĩnh trái tim khát máu của y, bình tĩnh trả lời: "Không có gì là đáng hay không đáng, chỉ là nguyện ý hay không thôi". Nói xong, y quay người ngẩng đầu nhìn trời, lòng thầm cân nhắc: "Bát hoang tinh khoáng" đã vĩnh viễn bị chôn vùi, mặc kệ, quay về Liên Hoa trấn tìm cách khác vậy.

Y không ngoảnh lại, chỉ nói: "Chúng ta đi thôi, tại hạ cần phải tìm cách khác vậy". Không đợi Thất Nguyệt đáp lời, y nhảy lên Bi Mộng kiếm phá không bay đi, hướng về phía Liên Hoa trấn.

Thất Nguyệt cũng tế khởi Vũ Nguyệt kiếm lấp lánh bay vút lên mây, theo sát sau lưng Liễu Dật.

Cần biết Lan Nhĩ Phi Na Thanh là tâm pháp tối cao của Ma môn, tự nhiên có chỗ diệu dụng, luyện thành tầng thứ nhất, tự bản thân tâm pháp sẽ nâng cao với tốc độ gấp bội, hấp thụ hỗn độn chi khí của trời đất bổ sung số chân khí cần thiết. Dù Thất Nguyệt mới luyện có mấy ngày, nhưng vì tâm pháp liên tục tự đề thăng, hơn hẳn những loại tâm pháp khác đã luyện trong mấy tháng.

Nàng kề vai Liễu Dật phi hành, đột nhiên lên tiếng: "Ta có cảm giác ngươi giống một người."

Liễu Dật rúng động trong lòng, thầm nhủ: "Nha đầu này tâm tư cũng sâu sắc thật."

Thất Nguyệt thấy y không trả lời, bèn nói tiếp: "Mười năm trước, ta quen một thư sinh, nhìn mỗi hành động, mỗi lời nói của ngươi, tựa hồ như ta thấy thân ảnh của y, chỉ mỗi... thương tang, lãnh khốc, hung bạo của ngươi là y không có."

Liễu Dật vẫn không nói gì, nhưng trong đầu y, nảy ra một vấn đề: "Ta đã biến đổi rồi à? Ta già thật rồi, có lẽ tim đã biến thành băng giá, đã chết từ khi nhìn thấu mọi tàn khốc của thế gian?"

Thất Nguyệt không nói nữa, cứ thế, hai người lặng lẽ phi hành, lúc đi mất năm ngày, khi về chỉ nghỉ chân có một lần, hết bốn ngày đã về đến Liêu Hoa trấn.

Đáp xuống bên ngoài trấn, hai người cùng về lò rèn trên ngã tư, vừa vào đã thấy Thiên Kiêu, kẻ giống Cát Lợi Nhi tới chín phần, và bốn hộ vệ, những người luôn kè kè bên nàng. Liễu Dật liếc nhìn Thiên Kiêu rồi đi vào trong, y không nghĩ lại gặp nàng tại đây, thực sự sợ khống chế không nổi bản thân, nhìn thấy nàng, hình ảnh Cát Lợi Nhi lại hiện lên trước mắt khiến tim y đau nhói.

Lúc này, Diệp Đồng Lân chạy tới: "Sao, ngài lấy được "Bát hoang tinh khoáng" chưa?"

Liễu Dật lắc lắc đầu nói: "Chưa, sơn động đó bị sập "Bát hoang tinh khoáng" cũng bị chôn vùi theo. Lẽ nào không nơi nào khác có loại khoáng thạch này à?"

Diệp Đồng Lân gật gật đầu nói: "Có, trên mình tiểu cô nương này có một khối, chỉ là..." Tay của lão chỉ vào Thiên Kiêu.

Y quay đầu nhìn Thiên Kiêu và tứ hộ vệ của nàng đang ở sau lưng.

Diệp Đồng Lân nói tiếp: "Thiên Kiêu cô nương này cho lão phu vạn lượng hoàng kim, muốn lão phu dùng "Bát hoang tinh khoáng" để chế tạo một thanh phi kiếm cực phẩm, chẳng qua nó tuyệt không phải là chất liệu tốt nhất để rèn kiếm, nếu là pháp khí, nó còn có tác dụng tăng cường chân lực, nhưng để tạo phi kiếm, còn xa mới bằng "Hắc thạch tinh anh", đó mới là vật liệu thượng phẩm để luyện được phi kiếm.

Liễu Dật như thấy được hy vọng: "Ở đâu có Hắc thạch tinh anh?"

Diệp Đồng Lân nói tiếp: "Ba mươi năm trước, lão nghe nói ở Hoang vu sâm lâm mãi tận cùng Tây Bắc có một con hắc long xuất hiện, Hắc thạch tinh anh chính là viên đá trên đầu nó, giết được hắc long tất lấy được, chỉ là trong trời đất rồng đứng đầu vạn vật, linh khí sâu dày, lại có pháp lực mạnh mẽ, hơn nữa, mọi giống loài đều dưới quyền thống trị của Thiên Long, lão sợ nếu giết hắc long sẽ đắc tội với Thiên Long."

Liễu Dật nhớ lại lời Lang Vương, Thiên Long và Hỏa Phượng đã kiến lập Thiên Long thần đàn, lại đang chĩa mũi dùi về phía bọn Lang Vương, nhưng tấu xảo làm sao hiện tại ông đã trở thành lão sư của y, vô tình chuyện này gián tiếp dính líu đến y, căn bản không thể tránh được, thôi thì cứ để nó xảy ra rồi đương đầu.

Hồng quang trong mắt Liễu Dật lóe lên: "Hừ! Long tộc... Rồi có một ngày ta sẽ làm cỏ chúng". Ngữ khí hiện rõ sự cuồng ngạo, tự tin, mọi người đều nghĩ vậy, hoàn toàn tin rằng y làm được.

Y quay sang nói với Thiên Kiêu: "Tại hạ sẽ tìm Hắc thạch tinh anh về đổi lấy "Bát hoang tinh khoáng", cô nương có thể tạm hoãn thời gian chế tạo phi kiếm chăng? Như vậy chúng ta đều có lợi, phi kiếm của cô mạnh hơn một tầng, tại hạ cũng có được vật mình cần."

Thiên Kiêu liếc nhìn y: "Có thể! Chỉ là ta không biết ngươi có lấy được Hắc thạch tinh anh về hay không?"

Liễu Dật hỏi Diệp Đồng Lân: "Hoang vu sâm lâm cách đây bao xa?"

Diệp Đồng Lân đáp: "Khoảng ba ngàn dặm."

Liễu Dật quay sang Thiên Kiêu: "Độ năm ngày tại hạ sẽ tới được Hoang vu sâm lâm, thêm hai ngày tìm hắc long và năm ngày quay về, chắc trong vòng mười hai ngày có thể hoàn thành, đến lúc đó cô nương sẽ biết tại hạ lấy được Hắc thạch tinh anh không." Giọng nói đầy kiên định, không thể hoài nghi được.

Thiên Kiêu tựa hồ bị trấn áp, nhất thời không thốt lên lời.

Liễu Dật nói tiếp: "Để khỏi lãng phí thời gian và bắt cô nương chờ lâu, tại hạ sẽ xuất phát ngay đây." Nói xong, y xoay người đi ra phía ngoài, cước bộ vững chắc hữu lực, phảng phất như không gì ngăn trở được việc y muốn.

Thất Nguyệt bật dậy, chạy theo: "Ta cũng muốn đi."

Liễu Dật vừa đi vừa nói: "Lần này nguy hiểm hơn nhiều, tại hạ phải giết một con rồng, tinh anh trong vạn vật, không loại quái vật nào nguy hiểm bằng nó đâu."

Thất Nguyệt lắc đầu: "Ta không sợ, ta sẽ thận trọng."

Liễu Dật không nói gì thêm, ra đến bên ngoài trấn liền tế khởi trường kiếm màu đen, tung người lên rồi phá không phi hành lướt thẳng vào mây cao. Thinh không bao la vô hạn, tương lai còn bao điều chưa biết, nhưng y dũng cảm đương đầu với tất cả. Có lẽ đời là như vậy, một người đã trải qua cái chết, càng hiểu được cuộc đời, biết tất cả những gì cần phải đối diện.

Thất Nguyệt thấy y phi hành trên cao, cũng ngự kiếm bay lên theo sát, nàng tự hỏi: "Y rốt cuộc là ai? Trong mắt tràn ngập bi thương và tang thương, nhưng lại dám đối diện tất cả, không nề hà gian nguy nào, rõ ràng lòng y đã chết nhưng lại nỗ lực hoàn thành mọi việc, y là ai?"

- oOo -

Hồi 88: Long ngâm hổ khiếu, phong khởi hề thiên địa biến sắc

(Rồng kêu hổ gầm, gió nổi đất trời đổi sắc)

Có lẽ, đời người là một chuyện đau thương cười ra nước mắt, vô cùng giản đơn bày ra trước mắt, nhưng đặt vào tam thiên đại thế giới nơi trần thế lại biến thành phức tạp vô biên...

Chỉ mất bốn ngày, tức là nhanh hơn dự kiến một ngày, hai người đã đến Hoang vu sâm lâm.

Với sự trợ giúp của Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp, Thất Nguyệt hấp thu hỗn độn chi khí rồi chuyển hóa thành chân khí ngự kiếm, xem ra ngộ tính của nha đầu này không tồi.

Hai người giảm tốc độ, cảnh tượng trước mắt khiến họ có phần ngần ngại, tựa hồ từ thủa cha sinh mẹ đẻ đến giờ chưa bao giờ tưởng tượng nổi trên đời lại có một nơi như thế. Hoang vu sâm lâm trải dài vô tận, cây cối toàn màu đen cháy, như thể vừa bị lửa thiêu, từ trên nhìn thấy toàn khói đen dầy đặc, nhưng họ biết không phải do lửa đốt mà do hắc long.

Trên mặt đất đầy thi cốt, nhìn kỹ thấy có xương người, xương động vật, thậm chí có cả nhưng bộ xương rất lớn, nhiều khả năng là xương tu luyện giả của Yêu tộc. Hai người tiếp tục phi hành trên tầng không của Hoang vu sâm lâm vô cùng vô tận.

Thất Nguyệt đột nhiên hỏi: "Khu rừng lớn thế này, chúng ta phi hành đã hai thời thần mà không thấy điểm tận cùng, tìm hắc long bằng cách nào?"

Liễu Dật không trả lời, trầm tư nghĩ ngợi, Thất Nguyệt nói không sai, hai người đã bay liền hai thời thần mà rừng vẫn ngút ngàn, cứ thế này chắc phải mất cả tháng mới tìm hết khu rừng, làm sao có thể khiến hắc long xuất hiện.

Đột nhiên, y nhớ tới câu nói của Niết nhân: "Ngươi hiện tại là ma, trong thân thể cuộn chảy cuồng bạo chi huyết vạn năm không đổi". Đối với máu, y mười phần thích thú vì đã từng nghe Niết nhân cho biết mùi cuồng bạo chi huyết có khả năng kích thích dã tính nguyên thủy của bất kỳ động vật nào, chỉ cần phát giác có mùi vị, kể cả cách hàng ngàn dặm, sinh vật đó sẽ nổi điên xông tới.

Nhưng có một vấn đề khác nảy sinh, nếu như dùng cuồng bạo chi huyết, nhiều khả năng dẫn dụ các sinh vật quanh đây xuất hiện, vốn hắc long đã vô cùng khó đối phó, nếu như sinh vật yêu tộc xuất hiện thì xoay sở làm sao?

Thất Nguyệt thấy y đang suy nghĩ bèn hỏi: "Ngươi có biện pháp gì chưa?"

Liễu Dật gật đầu, nói: "Biện pháp thì có nhưng cực kỳ nguy hiểm, hắc long là tinh anh trong long tộc, rất khó đối phó, nhưng nếu như nếu dẫn dụ cả người của Yêu tộc kéo đến, thì càng phiền."

Thất Nguyệt hỏi: "Biện pháp gì?"

Liễu Dật nói: "Không biết cô nương đã từng nghe qua về cuồng bạo chi huyết chưa, đó là dòng máu của Chân ma tộc, chỉ sợ dùng nó sẽ hấp dẫn Yêu tộc kéo đến. Cần biết cuồng bạo chi huyết có tác dụng gây chú ý đối với yêu tộc, lại còn làm cho chúng phát cuồng."

Thất Nguyệt cả kinh: "Ngươi lấy đâu ra cuồng bạo chi huyết, chỉ có Chân ma tộc mới có, nhưng Chân ma tộc đã biến mất hoàn toàn rồi". Đột nhiên, nàng nhớ lại tình cảnh khi y bạt kiếm, buột miệng: "Ý ngươi là... ngươi là Chân ma?"

Liễu Dật nhìn nàng, trong mắt lóe hồng quang, lạnh lùng nói: "Nếu không làm sao tại hạ có cuồng bạo chi huyết?"

Trong lòng Thất Nguyệt ớn lạnh, người của Chân ma tộc đã biến mất, bây giờ người trong Ma tộc không cần đến sự thống trị của Chân ma, nếu như để cho Nhân gian chánh đạo và Ám chi ma đạo biết được thân phận thật của y, nhiều khả năng họ sẽ hợp lại quần công, vì Chân ma là đại biểu tà ác nhất trên thế gian, không chủng tộc nào có thể khoan dung.

Liễu Dật nói tiếp: "Cô nương sợ à? Chân ma vẫn luôn ở bên cạnh, tại cô không biết đó thôi."

Thất Nguyệt bình tĩnh lại, nàng nói: "Ta rất ngạc nhiên, nhưng nói sợ thì hoàn toàn không, lòng người trên thế gian còn đen tối hơn ma, bọn họ nghi ngờ, giết hại lẫn nhau chỉ vì danh lợi, mặc dù ngươi là ma, nhưng ta chưa hề thấy ngươi làm điều tà ác, ngược lại ngươi còn cứu ta một lần."

Liễu Dật cất giọng lạnh lùng: "Hừ! Một ngày nào đó, khi thời khắc đến, cô nương sẽ thấy ma đáng sợ thế nào."

Lời nói của y khiến Thất Nguyệt hoảng sợ, con người trước mắt nàng băng lãnh như ma, cơ hồ không lời nói nào có thể cảm hóa được, đã bao nhiêu ngày qua, nàng chỉ thấy đôi mắt đầy bi thương và tang thương ...

Liễu Dật rút phắt trường kiếm ra, cắt nhẹ một nhát trên cổ tay trái, giọt máu đen tuyền rỉ ra.

Nhưng trong chớp mắt, miệng vết thương đã khép lại.

Thất Nguyệt nhìn xuống, hỏi: "Đó là cuồng bạo chi huyết?"

Liễu Dật gật đầu: "Đi, chúng ta phải tìm nơi trú ẩn trước, xem xét tình hình rồi mới tính tiếp."

Hai người chuyển hướng phi hành, mới quay đầu được nháy mắt, một tràng long ngâm vang dội đất trời, mây gió biến sắc, bầu trời xanh lam lập tức bị mây đen che phủ.

Liễu Dật chỉ vào một cái gò đất: "Xuống đây, nhanh đến chỗ này." Hai người lao xuống thật nhanh, thu trường kiếm về, ẩn nấp ở phía sau.

Chớp mắt, mây đen trên bầu trời hé ra, một con rồng khổng lồ mình sọc đen dài cả trăm trượng xuất hiện, uốn éo hạ xuống, tứ trảo hữu lực của nó cơ hồ có thể phá tan mọi thứ, lớp vẩy lấp lánh, chiếu rọi mặt đất tối đen. Nó quét đôi mắt đỏ lòm một vòng, tìm xem cuồng bạo khí tức xuất phát từ đâu, khí thế uy nghiêm khiến người nào cũng hồn kinh phách tán.

Liễu Dật dặn: "Khi tại hạ xông ra, cô nương cứ nấp tại đây, tại hạ không hiểu lắm sở học của mình, chẳng rõ đã đạt đến trình độ nào, nên không dám bảo đảm đối phó được với nó, vạn nhất tại hạ gặp chuyện gì, cô nương tự tìm đường chạy trốn."

Thất Nguyệt nhìn y, nếu không thấy giọt máu cuồng bạo đó, nàng thực sự không tin y là Chân ma.

Đúng lúc y toan hiện thân thì một tiếng hổ gầm vang lên, làm bụi bay cuộn khắp trời, sấm sét ầm ì vọng khắp vũ trụ, hai dải mây đen lập tức xoắn lại, sấm vang chớp giật, Liễu Dật nói: "Có lẽ thần vật nào đó xuất hiện."

Hai người từ từ thò đầu ra xem, bất giác sởn cả gai ốc. Một con bạch hổ thân hình dài khoảng ba mươi trượng, lông trắng muốt có điểm hoa văn màu đen, trên thân mọc ra một đôi cánh màu trắng, khiến nó có thể bay trên không, tứ trảo to lớn mà hữu lực, đôi mắt màu ngọc bích nhìn hắc long chằm chằm, hiển nhiên nó cũng mạnh mẽ không kém gì hắc long. Tiếng hổ gầm vang, chấn động cả Hoang vu sâm lâm, bạch hổ ngoác miệng, để lộ hàm răng dài hai xích, giống như những lưỡi đao nhọn, uy phong vô bỉ.

Liễu Dật nhìn Bạch Hổ, sao mà quen thuộc, hình như đã gặp qua ở đâu... Đúng, là đồ tượng xuất hiện trong mắt của Kim Lâu chủ nhân, con bạch hổ đó không lớn thế này, nhưng giống hệt.

Lúc này phong vân biến sắc, mặt đất dậy lên cuồng phong, không ngờ một giọt cuồng bạo chi huyết của y đã dẫn đến một trường long tranh hổ đấu.

- oOo -

Hồi 89: Kiếm trảm long thủ, cuồng bạo chi toái tinh khởi kiếm

(Vung kiếm chặt đầu rồng, thức Toái tinh khởi kiếm cuồng bạo)

Tựa hồ, dự tính của con người vĩnh viễn không chuẩn xác, những lúc ngươi không nghĩ việc gì sẽ xảy ra, nó lại xảy ra, có phải ông trời muốn hý lộng con người không?

Liễu Dật và Thất Nguyệt ẩn nấp phía sau gò đất, lặng lẽ quan sát biến hoá tại hiện trường, gió cuồn cuộn, mây mịt mờ, tất cả đều biểu hiện đang xảy ra một trận long tranh hổ đấu.

Liễu Dật vạn lần không ngờ rằng tại Hoang vu sâm lâm này ngoài hắc long còn xuất hiện một thần thú như bạch hổ, không nói đâu xa, chỉ nhìn vào đôi cánh cũng biết nó tuyệt đối không phải loại dã thú bình phàm.

Cùng lúc, một tiếng rồng ngâm vang dội đất trời, hắc long ngẩng đầu kêu một tràng dài, cái miệng to lớn ngoác ra, một đạo hỏa diễm đỏ rực bắn thẳng về phía bạch hổ. Tựa hồ bạch hổ này rất sợ đạo hỏa diễm, đập mạnh đôi cánh trắng, bay lên không tránh thoát, nó cũng tịnh không dừng lại, hữu trảo vung lên, ba đạo quang nhận đánh thẳng xuống đầu hắc long.

Hắc long đã tu hành ngàn vạn năm, lẽ nào không biết lực đạo của bạch hổ, nó vốn là thần vật trên trời, ở trên không trung đương nhiên chiếm ưu thế, mặc dù thân thể đồ sộ, nhưng chỉ cần uốn người lại, khẽ lách đi đã né tránh được ba đạo quang nhận, mây đen phía sau nó, lập tức bị xuyên thủng ba lỗ, nhưng lại liền lại ngay.

Bạch Hổ gầm một tiếng dài, rung chuyển đất trời, tựa hồ cực kỳ nổi giận, quang mang trong đôi mắt ngọc bích càng rực rỡ, vỗ đôi cánh màu trắng, mở rộng miệng, bay vút tới cắn hắc long.

Mặc dù là yêu vật tu luyện ngàn vạn năm, dưới tác dụng của cuồng bạo chi huyết, dã tính nguyên thủy sẽ bùng phát dữ dội, biến thành điên cuồng không thể khống chế nổi, dẫu không sử dụng thần lực, nhưng chỉ cần sử dụng lợi khí vốn có là răng và móng vuốt, trận thú chiến cũng đã cực kỳ dữ dội.

Liễu Dật và Thất Nguyệt nhìn mà kinh hồn lạc phách, tuyệt không phải vì thần lực kinh khiếp của hai thần thú mà vì thứ điên cuồng nguyên thủy kia, cuồng bạo từ sâu trong nội tâm phát ra ngoài, khiến hai người như được thấy lại khung cảnh thời cổ xưa.

Bạch Hổ tăng tốc, đâm thẳng vào thân thể hắc long, há rộng miệng cắn vào cổ rồng. Dù toàn than hắc long được vẩy cứng như sắt bao phủ nhưng răng của bạch hổ quá sắc bén, đã đâm sâu nửa phân, hắc long tựa hồ vạn phần phẫn nộ, lắc lư thân thể, muốn hất văng bạch hổ đi, nhưng bốn chân bạch hổ đã cắm sâu vào vảy, đứng vững chắc trên thân thể nó, không ngừng dùng hàm răng khổng lồ cắn vào đầu.

Đột nhiên cái đuôi đen xì cứng như thép của hắc long quét trúng bạch hổ, "bịch", bạch hổ không phòng bị văng xuống đất như diều đứt dây, lại một tiếng "Uỳnh!" vang lên, thân hình to lớn của bạch hổ nện xuống mặt đất tạo thành một miệng hố rộng cả chục trượng.

Hình như bạch hổ bị hắc long quét trúng vô cùng đau đớn, không thể ngóc dậy nổi, hắc long vươn đầu phun ra một khối hỏa cầu. Bạch hổ tỏ ra rất sợ hỏa cầu, mặc dù thân thể còn đau nhưng vẫn lăn tròn một vòng thoát ra khỏi cái hố, quay đầu nhìn lại thấy cái hố bị hỏa cầu làm cho sâu thêm gấp bội, ngọn lửa quả là lợi hại, nhiệt độ còn hơn cả nham tương.

Bạch Hổ nén cơn đau vỗ cánh bay lên, vung song trảo xạ ra sáu đạo bạch quang sắc nhọn bắn thẳng vào hắc long. Hắc long uốn mình, cuối cùng vẫn không tránh được đạo hào quang sau chót, lớp vẩy đen nhánh trên mình bị quang nhận bóc đi một mảng lớn.

Bạch Hổ cũng biết chớp cơ hội, xông thẳng lên, bốn ngọn trảo sắc nhọn nhanh như chớp cắm vào trong thịt của hắc long, nó gầm lên vang động há mồm to như cái chậu cắn vào eo lưng hắc long, lục sắc huyết dịch nhỏ xuống ròng ròng. Hắc long đau đớn vô cùng, thân thể lập tức cuộn lại, cuốn chặt lấy bạch hổ, bạch hổ càng cắn xé, hắc long càng cuốn chặt, dần dần, bạch hổ bất động, nhưng hắc long vẫn cuốn chặt thêm, hiển nhiên nó định lợi dụng ưu thế của thân thể xiết chết đối thủ.

Quang mang trong đôi mắt màu ngọc bích của bạch hổ dần lạc đi, tựa hồ chút nữa thôi nó sẽ bị hắc long xiết chết.

Lúc này Liễu Dật mới hành động, khẽ khàng dặn Thất Nguyệt: "Bây giờ là cơ hội tốt nhất, hắc long đã thụ thương, lại đang chiến đấu, chỉ cần lưỡi kiếm của tại hạ đủ chuẩn xác, hoàn toàn có thể chặt đứt đầu nó, cô nương nhớ đừng bước ra."

Nói xong, Liễu Dật đạp chân nhảy trên không, thi triển chữ "Phù" trong Ẩn Toàn Cửu Ảnh, chín tàn ảnh lẫn vào mây. Trên không trung, y đột nhiên dừng lại, chín tàn ảnh từ từ hợp làm một, y rút Bi Mộng kiếm, gầm lên vang trời, xuất ra "Toái tinh khởi kiếm" trong Bi Tứ Thức, thời gian chung quanh như dừng lại, một đạo lục quang từ thanh kiếm bắn xuống, cán kiếm dựng thẳng, mây đen từ trên trời đổ về, trong chớp mắt xoáy tròn quanh thân thể y, tà áo đen tung bay theo gió, mái tóc trắng bạc rối bời...

Liễu Dật thôi động tầng mười hai Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp, dùng thứ "Toái tâm khởi kiếm" trong Bi Tứ Thức, dùng cuồng bạo chi huyết đẩy thể lực đến mức cực hạn rồi hét lên: "Trảm!"

Kiếm ảnh màu lục sắc tỏa ra một lớp kiếm quang màu tím chém thẳng về hướng hắc long. Từ phía sau hắc long vang lên tiếng động, hiển nhiên lưỡi kiếm tím sẫm xoáy tròn đã xuyên thấu thân thể nó, chém xuống mặt đất tạo thành.

Hắc long vốn đang đánh nhau với bạch hổ, không ngờ cạnh đó còn có người khác, càng không nghĩ rằng lưỡi kiếm của người đó không thể né tránh được, lúc thấy Liễu Dật bạt kiếm thì lưỡi kiếm đó đã đâm sâu vào đầu nó, ánh mắt đỏ ngầu không kịp phản ứng, "Bịch!" một tiếng, đầu rơi xuống nhưng thân thể vẫn còn uốn lượn giữa không trung, khi Liễu Dật tra kiếm vào vỏ, thân thể nó mới rơi xuống đất, cuốn lớp bụi tung mù mịt.

Y phục Liễu Dật dần ngừng phấp phới, mây đen tan đi, y hạ xuống mặt đất, nhìn hai con thần thú, tựa hồ có phần cảm thán, đó là bản tính nguyên thủy chăng? Bản thân có cuồng bạo chi huyết, mỗi lần trăng tròn lại phải chịu cảnh thiên hỏa phần tâm, lúc đó bản thân y cũng điên cuồng như vậy, có lúc ngẫm lại không hiểu rốt cuộc bản thân y bây giờ là gì?

Bạch Hổ gầm lên một tiếng dài rồi mê man, có vẻ trận tử chiến với hắc long khiến thể lực của nó cạn kiệt. Lúc này Thất Nguyệt từ phía sau tiến lại, nàng không thể tin được nam tử kia là toán mệnh tiên sinh, kiếm pháp đó tựa hồ đạt đỉnh cao nhất của kiếm đạo, đến được cảnh giới hư vô, phiêu diêu, làm người ta không phân biệt rõ y xuất kiếm hay chưa. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới giờ, nàng chưa từng thấy qua kiếm của ai nhanh đến thế.

Có lẽ, kiếm của y sẽ trở thành truyền thuyết, hoặc thanh kiếm đó sẽ đưa y thành người giang hồ, trong thế gian, chỉ có nhanh mới không thể bị phá, hiển nhiên, nam tử hắc y bạch phát này đã đạt đến mức đó.

Nhưng không ai biết rằng đạt được đến đỉnh cao đó, y đã phải trả giá bằng tất cả những gì mình có, kể cả trái tim cũng không còn nguyên lành nữa.

- oOo -

Hồi 90: Bạch Hổ phục chủ, thiên niên hận chi ngã thị thùy

(Bạch Hổ quy phục, mối hận ngàn năm ta là ai)

Từng có câu nói, năm trăm lần của kiếp trước mới đổi được một lần cùng kề vai nhau ở kiếp này, đó gọi là duyên phận trong truyền thuyết. Trong cuốn sách này, Tàn Nguyệt cũng dùng câu nói này, lẽ nào từ ba đời ba kiếp trước, đã chú định Liễu Dật không có được duyên phận hoàn mỹ!

Liễu Dật cầm kiếm bằng tay trái, nhìn viên đá đen trong suốt trên đầu hắc long phát ra ánh sáng lấp lánh, vô cùng hấp dẫn, thầm nghĩ: "Đây có phải là Hắc thạch tinh anh? Chỉ cần đúng là nó sẽ đổi được Bát hoang tinh khoáng với Thiên Kiêu sao?" Y ngó quanh, thấy bạch hổ đang nằm dưới đất rên rỉ, mắt nhắm nghiền, có vẻ rất đau đớn.

Thất Nguyệt hỏi: "Ngươi có thể cứu bạch hổ? Nó có vẻ rất đau, chí ít nó đã giúp ngươi giết hắc long."

Liễu Dật liếc nhìn nàng, lạnh lùng nói: "Cô nương có phải là tôn chủ của Ma tộc Ma môn? Tâm trường biến thành từ bi lúc nào vậy?"

Thất Nguyệt giận dữ: "Sao, người của Ma tộc không có lòng nhân từ được ư? Ai như ngươi là Chân ma, có ma tâm chân chính."

Nghe những lời này, lòng Liễu Dật đau nhói, y mãi mãi không thể nào quên cảnh tượng mười năm trước: máu chảy thành sông, người yêu thương cũng mãi mãi rời xa. Y là ma, không sai, tất cả là do bị người khác ép buộc, thiên vô thiên đạo, nhân vô nhân đạo, y không còn đường để đi, không ai giúp được, y phải dựa vào chính bản thân, từng chút từng chút một, tự đưa mình đến gần với kế hoạch phục cừu.

Thất Nguyệt tựa hồ cảm thấy mình có phần quá đáng, cúi đầu nói: "Xin lỗi, ta không cố ý, tính khí ta xưa nay vẫn nóng nảy như vậy."

Liễu Dật không nhìn nàng mà nhìn bạch hổ: "Tại hạ hiểu tính khí của cô nương, hơn nữa cô nương nói đúng, tại hạ là một ma nhân máu lạnh, không có tình cảm, dù bạch hổ từng giúp mình, tại hạ cũng không nghĩ tới việc cứu nó."

Nghe y nói, Thất Nguyệt đột nhiên có cảm giác chua xót, y nói y hiểu nàng, vậy mà mười năm nay, người cha thân sinh ra nàng chưa từng nói là hiểu được con gái, lời nói của ông tràn đầy ý giễu cợt, tựa hồ ông coi thường mọi người trên đời, kể cả con người gần như hoàn mỹ là nàng.

Liễu Dật chầm chậm bước tới, tay phải duỗi xuống mặt đất, một đạo hắc sắc khí tức ngưng tụ lại rồi xạ vào thân thể bạch hổ. Sau khi kiểm tra, y nói: "Nó không sao, chỉ thụ thương trong nội phúc do thể lực tiêu hao quá độ, nghỉ ngơi một chút sẽ không việc gì, chắc độ sau một tuần trà, nó sẽ tỉnh lại."

Thất Nguyệt nhìn y không nói gì cả, nàng không hiểu, tại sao y lại làm vậy, có phải vì lời nói của mình lúc trước nên mới cứu bạch hổ?

Liễu Dật vừa đứng lên thì một đám bạch sắc vụ khí bay lên, không hiểu chuyện gì xảy ra, theo bản năng, y thi triển chữ "tật" trong Ẩn Toàn Cửu Ảnh, lùi đến bên Thất Nguyệt, tay trái cầm chặt trường kiếm, tựa hồ ở bất cứ góc độ nào, lúc nào, y đều có thể xuất kiếm với tốc độ ánh sáng.

Bạch sắc vụ khí tan đi, thân thể bạch hổ trên mặt đất tự dưng biến mất, liền đó xuất hiện một trung niên hán tử toàn thân y phục trắng, sắc mặt có phần lợt lạt, bộ râu hình như lâu lắm chưa cạo, tay không cầm vũ khí.

Trung niên hán tử thấy y liền ho một tiếng, quỳ sụp xuống: "Tạ ơn cứu mạng của Ma chủ, tính mệnh của Bạch Hổ từ đây sẽ thuộc về Ma chủ."

Hồng quang trong mắt y lóe sáng, một thân ảnh hiện lên trong ký ức, lạnh lùng nói: "Ngươi là thủ hộ thần thú Bạch Hổ?"

Bạch Hổ gật đầu: "Chính là tiểu thần."

Liễu Dật không phản ứng gì, nói tiếp: "Ngươi biết ta là ai?"

Bạch Hổ ngẩng đầu lên: "Ngàn vạn năm qua chỉ có một người học được Bi Tứ Thức, nếu Bạch Hổ đoán không sai, Ma chủ là Niết nhân, tà hoàng của Chân ma tộc."

Liễu Dật tuyệt không nói chỉ lắc đầu, nhẹ giọng: "Từ ba đời ba kiếp trước, bánh xe vận mệnh đã bắt đầu chuyển động, Niết nhân đã chết, còn ta? Ta là ai?"

Mặc dù thanh âm rất nhỏ, nhưng với tu vi của Bạch Hổ, và cự ly giữa Thất Nguyệt không xa, họ đều nghe rất rõ, song không hiểu y nói gì.

Bạch Hổ nói tiếp: "Sao Ma chủ lại xuất hiện tại đây, hình như ngài đã ngủ tới bảy ngàn năm, Bạch Hổ phát giác lời triệu tập của cuồng bạo chi huyết bèn chạy đến với tốc độ nhanh nhất, đột nhiên đụng phải con rồng xấu xí này, may mà Ma chủ kịp thời bạt kiếm."

Liễu Dật lạnh lùng lắc đầu: "Ngươi không cần đa tạ, ta chỉ vì Hắc thạch tinh anh trên đầu nó, tuyệt không có ý giúp ngươi."

Bạch Hổ nói tiếp: "Bất kể Ma chủ vô tình hay hữu ý, đã cứu Bạch Hổ tức là ân nhân của tiểu thần, hơn nữa từ bảy ngàn năm trước, người trong Yêu tộc đều dưới quyền Ma chủ."

Liễu Dật ngửng đầu nhìn trời: "Đã là quá khứ rồi, sau bảy ngàn năm không ai còn biết tới sự tồn tại của Chân ma, ngươi đứng dậy đi."

Bạch Hổ nghe lời liền bật dậy, sắc mặt tái nhợt, nhìn không rõ thương thế ra sao. Liễu Dật hỏi: "Ngươi ở Hoang vu sâm lâm này?"

Bạch Hổ gật đầu nói: "Đúng, tộc nhân của tiểu thần đều cư ngụ ở Hoang vu sâm lâm. Để né tránh sự truy sát của Thiên long và Hỏa phượng, đành phải chọn nơi thật hoang vu để sinh sống."

Liễu Dật lại nói: "Ta chuẩn bị kiến lập Ma giới, nếu ngươi có ý muốn theo, hãy đến Vĩnh Hằng chi thành, có lẽ Thiên long và Hỏa phượng không thể truy sát ngươi tại đó".

Ánh mắt Bạch Hổ trong khoảnh khắc đó đầy cảm kích, hiểu rằng nam tử hắc y bạch phát này là kiếm thủ đỉnh cao, dù Thiên long và Hỏa phượng có liên thủ cũng không thể chiếm được ưu thế, hơn nữa nếu y kiến lập Ma giới mới tất sẽ có thế lực riêng, còn sợ gì người của Thiên Long thần đàn.

Liễu Dật chợt nhớ một chuyện liền hỏi: "Lang Vương chưa tìm đến ngươi à?"

Bạch Hổ lắc đầu: "Chưa."

Liễu Dật nghĩ bụng: "Không hiểu Lang Vương gặp chuyện gì ở chỗ Kỳ, Lân?" Y không muốn nghĩ nhiều, tiến về phía đầu hắc long, vung trường kiếm tạo ra một đạo kiếm quang hình bán nguyệt tuyệt đẹp, khối Hắc thạch tinh anh đen ngòm rơi xuống. Y cong tay phải thành trảo, trong chớp mắt, một luồng hấp lực tuôn ra hút Hắc thạch tinh anh vào trong lòng bàn tay. Y liếc nhìn viên đá thần bí này: kết cầu hình bát giác, phát quang lấp lánh, lại trong suốt, đúng là nguyên liệu thượng hạng để luyện phi kiếm.

Liễu Dật quay người đối diện với Bạch Hổ nói: "Ta phải quay lại Trung Nguyên, ngươi về dưỡng thương trước đã."

Bạch Hổ từ chối: "Không cần, đó chỉ là vết thương nhẹ, không quá hai ngày sẽ ổn, Bạch Hổ sẽ theo chân đến bất cứ đâu."

Liễu Dật nhìn Bạch Hổ, như nhớ tới một người, Đại Đao Vương, hán tử nhiệt huyết đó, không biết hắn hiện tại có bình yên không? Y ném Hắc thạch tinh anh cho Bạch Hổ: "Tốt, từ giờ ngươi cứ theo ta, giữ lấy này, chúng ta về Trung nguyên."

Bạch Hổ đỡ lấy Hắc thạch tinh anh: "Vâng, Ma chủ."

- oOo -

Hồi 91: Ngôn chấn Long thần, kiếm khiếu tam giới ma vi chân

(Lời dọa Long thần, kiếm khiến tam giới kinh hồn)

Đúng lúc Liễu Dật chuẩn bị tế khởi Bi Mộng kiếm, một tiếng hét lảnh lót vang lên: "Tên giặc to gan, giết tiểu hắc long nhà ta, ta phải báo thù cho nó."

Với tu vi của Liễu Dật, nghe được âm thanh đó vang ra từ ngoài trăm dặm, vậy mà chớp mắt thân ảnh đã đến, chứng tỏ tốc độ của người kia cực nhanh, nhưng bây giờ Liễu Dật đã khác xưa, tay phải vung mạnh ra chộp lấy cổ đối phương cực kỳ chuẩn xác, dụng lực nhấc lên không trung. Đưa mắt nhìn, y bỗng giật mình.

Đó là một tiểu nữ hài, khoảng mười tám, mười chín tuổi, diện mạo thanh tú mười phần dễ thương, sống mũi cao vút, đôi môi mỏng mịn, mái tóc đỏ như ngọn lửa, dưới ánh mặt trời phát ra ánh sáng chói mắt, trong đôi mắt to có thể thấy rõ cả dải cầu vồng đang run rẩy.

Có hai điểm làm Liễu Dật ngạc nhiên. Đầu tiên, trên đầu nữ hài có một đôi sừng, giống hệt sừng của hắc long. Thứ hai, trang phục của cô bé toàn một màu đỏ lửa, bó sát thân mình, hai tay trắng như tuyết để lộ ra ngoài, qua vết xẻ hai bên thân váy nhìn thấy cặp chân hoàn mỹ. Kiểu ăn mặc này có một vẻ rất riêng so với trang phục của Thất Nguyệt. Một đằng đẹp kiểu ơ hờ, trang phục nữ hài lại dụ hoặc theo kiểu truyền thống.

Y còn đang ngơ ngẩn thì mười ngón tay phải của tiểu nữ hài điểm tới, bỗng nhiên bắn ra một thanh chủy thủ màu trắng, "soạt" một tiếng, cắm ngay vào tâm tạng y, lực đạo cực lớn khiến y dạt khỏi nữ hài tóc đỏ này, lùi sau mấy bước. Sơ suất nhất thời bắt y phải hứng ám khí của nữ hài, song kịp phản ứng lại ngay, đưa tay phải đỡ lấy miệng vết thương trên ngực, dùng Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp cầm máu.

Lúc này, Bạch Hổ, Thất Nguyệt tiến lên một bước, đứng tại hai bên Liễu Dật, toan ra tay giết tiểu nữ hài, Thất Nguyệt cũng không hiểu tại sao nàng lại làm vậy.

Đúng lúc này, một giọng nói già lão cất lên: "Nghiệt súc, dám hại Tiểu Hắc nhà ta, ngươi phải chết".

Âm thanh vừa vang tới, dấy lên một trần cuồng phong, một lão già y phục màu tro, râu bạc trắng, trên đầu cũng có hai sừng xuất hiện trước mắt mọi người, không biết lão bao nhiêu tuổi, nhưng nhìn vào đôi mắt rừng rực là biết lão không phải phàm nhân.

Liễu Dật rút thanh chủy thủ ra khỏi vết thương, ném xuống đất, sau đó đưa tay phải sử dụng tầng mười hai Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp giúp vết thương nhanh chóng hồi phục, một đạo lục quang bao phủ vết thương. Chỉ trong khoảnh khắc, trước ngực Liễu Dật đã lành lặn, một giọt máu cũng không có, như thể thanh chủy thủ đó không mảy may tổn thương đến y.

Tay trái của y vẫn đặt trên cán thanh hắc kiếm, tay phải buông xuôi, đây là vị trí có thể rút kiếm ra nhanh nhất...

Chỉ nghe Bạch Hổ quát lớn: "Long tộc to gan, thấy Ma chủ mà sao không quỳ xuống."

Nghe xong câu nói, nữ hài tóc đỏ không phản ứng, nhưng sắc mặt hùng hổ của lão già râu bạc biến đổi: "Ngươi nói gì? Chân ma? Không thể, bảy nghìn năm trước, Chân ma đã chết dưới tay Bàn Cổ, không thể xuất hiện trong tam giới."

Định thần lại, lão già có vẻ khôi phục tự tin, nói tiếp: "Bạch Hổ, không cần lôi mấy thứ lăng nhăng đó ra dọa lão phu, dám giết vật cưỡi của lão phu, ngươi tất phải đền mạng."

Liễu Dật nhìn lão già tóc bạc, trong mắt lóe hồng quang, nữ hài tóc đỏ có phần hoảng sợ, lặng lẽ chạy đến sau lưng lão già, nhưng lão già đã phát hiện ra điều không hợp lý, rõ ràng vừa thấy thanh chủy thủ cắm vào ngực hắn ta, mà hiện tại vết thương đột nhiên bay biến.

Liễu Dật tựa hồ thấy trong ký ức một điều gì đó, thân thể động nhẹ: "Ngươi là Long thần của long tộc được sinh ra theo Thiên long ư?"

Long thần kinh ngạc, lại có người biết lai lịch của lão, nhưng nghĩ Thiên long cũng phải nhường lão ba phần, tiểu tử tóc bạc này có là gì.

Long Thần gật đầu, nói: "Không sai, chính là lão phu, ngươi và Bạch Hổ đã giết vật cưỡi của lão phu, nếu đã biết rồi thì lập tức tự tận trước mặt lão phu, may ra lão phu có thể cho các ngươi được toàn thây."

Bạch Hổ nghe xong không kìm được nộ khí dâng lên trong ngực, rống to lên định mở miệng mắng chửi.

Cánh tay phải màu đen của Liễu Dật giơ ngang cản lại. Y từ từ tập trung nhãn thần, trong mắt lóe lên hồng quang, tỏ vẻ khách khí: "Nếu nói về bối phận, tiểu bối không thể sánh với Long Thần, trong tam giới lục đạo, ai mà không biết đến đại danh của ngài, dù là thủ hộ thần thú Thiên Long cũng phải nhân nhượng ngài vài phần."

Y ngừng lại một chút, đúng lúc đó, một trận cuồng phong thổi tới, tà áo da lất phất, mớ tóc trắng bay tung, mây đen trên không trung cuồn cuộn bay tới, hình thành một vòng xoáy trên đầu y, ngữ khí của y biến thành lạnh lẽo, như băng thạch trên Thiên Sơn, dằn từng tiếng: "Nhưng, lão nhân gia cần biết Trường Giang sóng sau đè sóng trước, nếu như quả thật ép buộc tiểu bối, đừng trách Bi Tứ Thức của tiểu bối bạt kiếm vô tình."

Long Thần nhìn ma khí đang bay tới trên không trung, cảm giác được Liễu Dật đang phát ra sát khí, thân thể đột nhiên run như cầy sấy, nói thầm: "Lẽ nào Chân ma bảy ngàn năm trước đã phục sinh? Ma khí của người này không ai trên có thể so được, nếu đúng vậy, kiếp nạn của tam giới lục đạo đã xuất hiện."

Nữ hài tóc đỏ nắm chặt lấy y phục của Long Thần, nói nhỏ: "Gia gia, hắn là ai? Ánh mắt hắn đáng sợ quá, hắn sẽ giết chúng ta?"

Mặc dù âm thanh rất nhỏ, nhưng với tu vi của mọi người ở đây, ai mà không nghe thấy.

Hồng quang trong mắt Liễu Dật lóe lên, sát khí trên mình lập tức biến mất, mây đen trên không trung cũng tiêu tan, y nói với Long Thần: "Nhìn mảnh rừng rậm này đi, vốn là màu xanh vô tận, còn hiện tại thì sao? Hắc long đã sát hại toàn bộ sinh mệnh ở đây, biến nơi đây thành vùng đất hoang vu, nhưng còn may ta chỉ cần Hắc thạch tinh anh của nó, ta cũng không phải là người chính đạo, nếu không các ngươi đừng hòng thoát thân, đi mau trước khi ta thay đổi ý định."

Long Thần còn nói được gì, dù lão tu hành mấy nghìn năm, nhưng trong mắt kẻ đứng trước mặt lão tựa hồ không đáng một xu, nghe câu nói của Liễu Dật, như được nhận lệnh đặc xá, vội nắm lấy tay tiểu nữ hài, quay người đi thẳng.

Nhưng nữ hài tóc đỏ hình như còn quyến luyến đôi mắt đó, không ngừng quay đầu nhìn lại, tựa hồ muốn ghi nhớ ánh mắt đầy bi thương và tang thương, lại như muốn hiểu rõ đằng sau vẻ băng lãnh đó, đang ẩn chứa điều gì.

Nhìn hai người đi khuất, Bạch Hổ nói lớn: "Ma chủ, tại sao không giết chết hai kẻ Long tộc đó, không phải bạn tức là thù, tâm của Ma chủ không nên quá mềm yếu như vậy."

Liễu Dật nở nụ cười buồn, mặc dù y đeo khăn che, nhưng Bạch Hổ và Thất Nguyệt đều cảm giác được nụ cười của y, nụ cười đầy bi thương, y lắc đầu, nói: "Tim ta mềm yếu? Ta vẫn có tim à? Bao nhiêu năm nay, tim ta đã tan nát theo cái chết của nàng, ta thực sự hy vọng mình vẫn còn một trái tim, để biết mình vẫn còn sống..."

Tất cả lại vô tình bắt đầu như vậy, mọi chuyện đã được chú định, không ai có thể thay đổi, dù y muốn nghịch thiên cải mệnh vẫn không thoát được sự hý lộng của vận mệnh...

- oOo -

Hồi 92: Vô ngôn khí mộng, lệ dĩ can tâm vi thùy toái

(Lặng lẽ tỉnh mộng, lệ rơi tim nát vì ai)

Bạch Hổ xoay người, cuồng phong thổi qua, bạch y đại hán liền biến mất, xuất hiện trước mắt Liễu Dật và Thất Nguyệt là một con Bạch Hổ khổng lồ, đôi cánh hai bên thân không ngừng vỗ mạnh, Bạch Hổ quay đầu nói với Liễu Dật và Thất Nguyệt: "Ma chủ, phu nhân, hai vị ngồi lên lưng Bạch Hổ, vừa vững vừa nhanh, không cần thiết phải hao phí chân lực ngự kiếm."

Thất Nguyệt nghe thấy, sắc mặt hồng lên, vội giải thích: "Ta không phải là phu nhân, ta chỉ nhất thời hiếu kỳ, theo chân hắn mà thôi."

Liễu Dật không để tâm đến câu nói của Bạch Hổ: "Ngươi có chịu được không?"

Bạch Hổ trả lời: "Ma chủ yên tâm, mặc dù năng lực khôi phục của tiểu thần không bằng Ma chủ, nhưng người bình thường không thể so được, đó chỉ là vết thương nhẹ, có là gì đâu, từ từ nó sẽ tự lành lại."

Liễu Dật gật đầu: "Tốt". Nói đoạn, cưỡi lên lưng Bạch Hổ, cảm thấy mềm mại, ấm áp và thư thái, đã đi đường nhiều ngày liên tục, từ Liên Hoa trấn đến Trường Bạch sơn, rồi từ Trường Bạch sơn quay về, không kịp nghỉ ngơi lại đến Hoang vu sâm lâm này. Hơn nửa tháng liên tục đi lại, dù là với tu vi như y cũng có phần mệt mỏi, nghĩ đi nghĩ lại, Thất Nguyệt cũng đủ khả năng chịu đựng, kiên trì theo y, chỉ có điều Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp của nàng vẫn còn nông cạn, nếu phải ngự kiếm quay về, khẳng định nàng không chịu nổi.

Liễu Dật quay đầu nhìn nàng hỏi: "Cô nương không lên ư? Liên tục đăng trình tất làm hao tận chân khí, cô nương muốn kiệt lực chết tại Hoang vu sâm lâm sao?"

Thất Nguyệt liếc nhìn y, đến bên Bạch Hổ, nhẹ nhàng nhảy lên, ngồi sau lưng y. Bạch Hổ gầm một tiếng dài: "Ma chủ, phu... tiểu thần khởi hành đây, các người ngồi cho vững."

Không hiểu vô tình hay hữu ý, Bạch Hổ vỗ mạnh đôi cánh, lượn một vòng rồi mới bay lên không trung, Thất Nguyệt hơi lệch người, ngồi không thật vững, nàng vòng tay ôm lấy thân thể phía trước, cảm giác thật vững chãi, quen thuộc, ấm áp, tuyệt không thể là cảm giác một kẻ máu lạnh mang lại.

Liễu Dật bình tĩnh nói: "Nếu cô nương mệt mỏi, cứ ôm tại hạ mà ngủ, đường về Liên Hoa trấn còn rất xa, cô nương nhất định không thể chịu nổi."

Thất Nguyệt không nói gì, không hiểu sao, nàng luôn có cảm giác, người trước mặt là người nàng yêu, người đã đoạt mất chân tình của nàng, người mà mười năm nay trong tâm nàng luôn khắc ghi hình bóng, bất cứ động tác nào của y đều khiến nàng như nhìn thấy hình ảnh của chàng, mỗi câu nói của y đều gợi cho nàng nghĩ tới chàng. Dù... chỉ là cảm giác, nhưng cảm giác đó rất chân thật, chẳng qua nàng không thể nào chứng minh được.

Thất Nguyệt ôm chặt thân thể của Liễu Dật, cảm giác từng đợt hơi ấm, nhưng nàng biết, mặc dù hai người đang ngồi cạnh nhau, song ở giữa là một dòng ngăn cách không thể vượt qua, bởi vì y không phải là chàng.

Nhưng trong lòng Liễu Dật lại vô cùng bình tĩnh, vì sao thì y thực sự không biết. Có phải cõi lòng y đã chết? Có phải nó đã thực sự vỡ nát? Sau lưng là một thân thể nóng bỏng ôm chặt mà y không hề có cảm giác nào.

Dần dần, Thất Nguyệt cảm thấy mơ hồ, có lẽ do thực sự quá mệt mỏi, nàng ôm chặt lấy thân thể Liễu Dật ngủ say sưa.

Tịch dương lặn xuống phía tây, vầng trăng khuyết mọc lên, ngàn sao lấp lánh, gió thổi vi vu, mây trắng lững lờ, hai người bay dưới bầu trời đêm im lìm màu lam thẫm, không biết ngày mai ra sao, chỉ biết đêm nay đẹp vô ngần.

Giữa bầu tĩnh mịch, Liễu Dật nghe thấy phía sau vang lên tiếng nói: "Huynh ở thế giới bên kia có vui vẻ không? Có biết đã bao nhiêu lần muội muốn đi tìm huynh không? Nhưng muội sợ, vô cùng sợ, sợ quấy rầy hạnh phúc của huynh, sợ sẽ sinh lòng đố kỵ khi nhìn thấy tình yêu huynh dành cho Cát Lợi Nhi, muội thật muốn quên được huynh, nhưng ...hình ảnh của huynh đã khắc ghi trong lòng, không thể xoá nhòa, muội không biết đó là gì, nếu là ái tình, nó là khắc cốt ghi tâm, nếu không phải là ái tình, muội nghĩ đó là tình nguyện."

Nghe thấy những lời tâm sự, Liễu Dật đột nhiên thấy sống mũi cay cay, mắt hơi ươn ướt, y biết nói gì khi trong lòng cảm động; y không biết nàng đang trong mộng, có lẽ, nàng đang lặp lại những giấc mộng nàng đã mơ mỗi đêm suốt mười năm qua.

Những điều đẹp đẽ luôn ngắn ngủi, nhưng phút giây đó, ngươi vĩnh viễn không thể nào quên, dòng thác lũ thời gian có chôn vùi đi thì nó vĩnh viễn trở thành ký ức thẳm sâu, cảm động.

Bạch Hổ tựa hồ cũng đang ngủ, nhưng đôi cánh vẫn không ngừng vỗ, hướng bay vẫn hoàn toàn chính xác. Liễu Dật tự cười mình ngốc, cả đêm không ngủ chỉ vì câu nói đó, vì niềm cảm động đó, y sợ Thất Nguyệt bị rơi xuống khi ngủ, nên suốt đêm không hề chợp mắt.

Lúc này, Thất Nguyệt đã dậy, nhưng nàng không rút tay về, vẫn ôm lấy Liễu Dật.

Y không quay đầu, nhẹ giọng: "Sao rồi, đêm qua ngủ ngon chứ?"

Thất Nguyệt cọ mặt vào lưng Liễu Dật, như tiểu nữ hài làm nũng, gật đầu nói: "Cám ơn, chưa bao giờ ta ngủ ngon như hôm qua."

Liễu Dật có phần chua xót, có lẽ nàng đang cố giấu giấc mộng đó, không muốn người khác biết được.

Y nói tiếp: "Giờ tại hạ không có thân nhân, từ nay trở đi, cô nương làm muội muội của tại hạ nhé." Đây là biện pháp tốt nhất y nghĩ ra.

Thất Nguyệt nghĩ một lúc rồi gật đầu: "Ngươi bao nhiêu tuổi?"

Liễu Dật đã tính trước, trả lời: "Ta vừa ba mươi, sinh vào tháng chín năm Bính Ất."

Thất Nguyệt nói tiếp: "Muội ít hơn huynh một tuổi."

Liễu Dật quay lại nhìn vào mắt Thất Nguyệt, cười xòa: "Ta thấy muội chỉ khoảng hai mươi tuổi, sao lại thành nhiều tuổi vậy, dầu gì ta vẫn là ca ca của muội."

Thất Nguyệt mỉm cười: "Huynh là kiếm giả mà không biết à? Người có tu vi cao thì trăm tuổi cũng không già đi, mãi mãi giữ được thanh xuân, người như huynh mới khác thường, tu vi cao như thế, không ngờ mới ba mươi tuổi đã bạc tóc.". Nói xong nàng phá lên cười vui vẻ.

Liễu Dật trầm mặc một chốc, tựa hồ quyết định điều gì đó: "Mái tóc bạc của ta là vì một người, chỉ trong một đêm đã thành vậy."

Thất Nguyệt đột nhiên tắt cười, mái tóc trắng này... nàng đã thấy qua, thật đáng chết, tại sao nàng không nghĩ ra nhỉ, mười năm trước Liễu Dật vì cái chết của vị hôn thê mà một đêm bạc tóc, lẽ nào... Nàng không dám nghĩ tiếp.

Đúng lúc đó, Liễu Dật quay người, chậm chạp tháo chiếc Vong Hồn trên mặt xuống, khuôn mặt sáng sủa như được điêu khắc xuất hiện trước mặt nàng. Thất Nguyệt ngơ ngẩn, khuôn mặt đó quen thuộc quá, mười năm nay hàng đêm vẫn xuất hiện trong giấc mộng của nàng, phải, là gương mặt khắc ghi vĩnh viễn trong tâm nàng: Liễu Dật.

Đột nhiên, Thất Nguyệt buông rời cánh tay đang ôm Liễu Dật, kêu lên: "Không, không phải là thật, ta không muốn làm muội muội của huynh". Khoảnh khắc, hai hàng lệ buồn thảm nhỏ xuống, nước mắt mười năm nhung nhớ, nước mắt mười năm con tim đau khổ, nước mắt của tình yêu mười năm nhưng vĩnh viễn không thành, đến phút giây này đã vỡ òa.

Liễu Dật toan nói, nhưng không biết làm sao mở miệng.

Thất Nguyệt chầm chậm đứng lên, lùi về phía sau, vừa lùi vừa lắc đầu: "Đó không phải là sự thật, huynh quá tàn nhẫn, huynh có biết mười năm qua ta như thế nào không? Huynh biết ta trong lòng nghĩ gì, tại sao lại tàn nhẫn với ta như vậy, tại sao còn muốn đập nát trái tim của một người yêu huynh?"

"Tình cảm của Cát Lợi Nhi là tình yêu, nhưng tình cảm của ta không phải sao? Mười năm qua, không ngày nào huynh không xuất hiện trong giấc mộng của ta, không ngày nào ta không nhớ đến hình ảnh của huynh. Có người đã nói thứ quý nhất trên thế gian là thời gian, bởi vì nó làm phai nhạt tất cả, kể cả tình yêu, nhưng với ta, điều đó không đúng, tình yêu của ta dành cho huynh, ngày càng sâu nặng, ta không thể tự rút chân ra, ta đã nghĩ đến cái chết, nhưng ta sợ sau khi chết lại gặp huynh và Cát Lợi Nhi nên không thể chết, tại sao... lại đối xử với ta như vậy?

"Có lúc... ta thực lòng đố kỵ với Cát Lợi Nhi vì nàng ấy có được tình yêu của huynh, mặc dù nàng ấy đã chết. Ha ha, buồn cười thật, người ta đố kỵ lại là người đã chết, nhưng nếu như cho ta một nửa tình yêu của huynh, dù có bắt ta trầm luân dưới mười tám tầng địa ngục, ta vẫn ngậm cười."

Thất Nguyệt từng bước từng bước lùi lại, cuối cùng, nàng không còn đường lùi, dòng lệ tuyệt vọng thương tâm nhè nhẹ rơi rơi: "Huynh có biết? Ta đã nghĩ là huynh đã chết, trong hơn ba ngàn đêm, ta cầu nguyện, chúc phúc, hy vọng huynh được hạnh phúc tại thế giới bên kia, nhưng còn huynh, tại sao? Tại sao cần phải đối xử như vậy với người yêu huynh, tại sao phải hủy diệt hy vọng của ta, tại sao phải đạp nát trái tim của ta? Ta không muốn làm muội muội của huynh, không muốn, vĩnh viễn không muốn." Nàng vung tay phải tế khởi Vũ Nguyệt kiếm bay trời cao, mang theo trái tim vỡ nát và bi thương vô tận lẫn mất vào mây trắng.

Nhìn theo hình bóng Thất Nguyệt, Liễu Dật ứa lệ, lắc đầu nói: "Xin lỗi, ta thực sự không biết khi trong tâm khắc ghi một bóng hình, làm sao có thể chứa thêm một người khác"

Tình cảm là một thứ gì đó vô cùng kỳ quái, không thể nói rõ ràng được, khi nó đến, ngươi không chuẩn bị gì, thậm chí còn không biết, nhưng khi ngươi mất nó đi thì chắc chắn ngươi sẽ nhận ra đó là tình yêu.

- oOo -

Hồi 93: Sinh tử mang mang, dạ lai u mộng hốt hoàn hương

(Sống chết mong manh, đêm mộng về cố hương.)

Vận mệnh luôn đùa cợt cùng ngươi, tất cả đều xảy ra bất ngờ, không có cách nào dự liệu được, tuy nhiên, có phải thực sự mọi kết cục đều được chú định trước không? Hãy để chúng ta làm những gì mà tim ta mách bảo, khám phá vẻ mỹ lệ của thế giới này.

Tốc độ của Bạch Hổ không chậm chút nào, mất năm ngày đã về đến không Liên Hoa trấn.

Liễu Dật không muốn kinh động mọi người nên dừng lại bên ngoài trấn, để Bạch Hổ biến hình người, ngõ hầu tránh cho mọi người bị doạ chết khiếp.

Vừa tới lối vào trấn, y thấy một người quen thuộc đang đứng, là Lang Vương, phía sau có một nam một nữ đều chưa đến ba mươi tuổi, bận y phục màu đỏ, tay cầm trường kiếm.

Y bước lên hành lễ: "Lão sư đang chờ ta?"

Lang Vương đáp lễ, cao hứng nói: "Ha ha, cuối cùng cũng chờ được Ma chủ đến, không biết ngài đã đi đâu?"

Đến lúc này Bạch Hổ mới nhìn thấy Lang Vương, cũng cao hứng nói lớn: "Lão Lang, ngươi sao lại ở đây... Cả hai vị Kỳ, Lân, lại cũng có mặt."

Liễu Dật nhìn một nam một nữ được gọi là Kỳ, Lân, hiển nhiên họ là một đôi, nữ tử rất xinh đẹp, nhưng ánh mắt vẫn lộ ra dã tính, nam tử giống hệt Lang Vương, thân hình, tuổi tác tương đương, khuôn mặt anh tuấn, đôi mày hiển hiện vẻ thoát tục.

Lang Vương vội nói: "Giới thiệu với ngươi đây là Kỳ huynh, Lân muội, còn vị này là Chân ma chi chủ, từ đây chúng ta sẽ kiến lập Ma giới mới, Vĩnh Hằng chi thành, không cần thiết phải lẩn tránh Thiên Long và Hỏa Phượng truy sát nữa."

Bạch Hổ thở dài, nói: "Bọn chúng quả là quá độc ác, chỉ vì chúng ta không chịu khuất phục mà muốn trừ diệt bằng sạch, không ngờ sau vạn năm trốn trán, cuối cùng chúng ta cũng có cơ hội đấu trực diện với chúng."

Kỳ, Lân tiến lên một bước, cung kính hành lễ: "Tham kiến Ma chủ."

Liễu Dật nhìn hai người, bình tĩnh nói: "Sau này chúng ta sẽ là người một nhà, bất tất đa lễ, ta đã tìm được luyện khí đại sư, các ngươi đi cùng với ta". Nói xong, quay người rảo bước vào trong trấn, mỗi động tác vung tay giơ chân của y đều mang lại cho mọi người cảm giác đây là người lãnh đạo, tựa hồ, khi con người cải biến, tình cảm thì sao? Sẽ biến đổi theo?

Liễu Dật tới lò rèn ở ngã tư, Thiên Kiêu lúc này đang cùng Diệp Đồng Lân đàm đạo, hai người vừa nói vừa cười, có vẻ tương đắc, A Ngưu và Diệp Diêu thơ thẩn ngoài sân đón nắng, khá là rỗi rãi. Y nhìn mọi người cảm thán: "Có lẽ, thanh nhàn đã xa rời ta, từ ngày ta trở thành ma, đã bị chụp vào tội danh sát lục suốt đời."

Lúc này, trong căn nhà có khá nhiều người, Liễu Dật cùng bốn thủ hộ thần thú vừa về lập tức khiến phòng chật chội hẳn.

Thiên Kiêu thấy y về, vui vẻ đứng dậy: "Ha ha, ngươi đã trở về, tốc độ nhanh quá, ồ... Thất Nguyệt cô nương đâu? Làm sao lại thành ra bốn người này?"

Liễu Dật không đáp, xòe tay phải, Bạch Hổ vội lấy Hắc thạch tinh anh đặt lên, dù trong phòng tối tăm, nhưng Hắc thạch tinh anh là loại thần thiết thượng đẳng, phản xạ ánh sáng trong suốt lấp lánh, trông cực kỳ đẹp đẽ.

Liễu Dật nói tiếp: "Thiên Kiêu cô nương, bây giờ tại hạ có thể dùng Hắc thạch tinh anh đổi lấy Bát hoang tinh khoáng được chưa?"

Thiên Kiêu quay lại nói với một hộ vệ: "Thiên ca ca, đưa Bát hoang tinh khoáng của chúng ta cho huynh ấy."

Hộ vệ lấy ra từ trong người một khối đá màu vàng trong suốt, bước đến bên Liễu Dật, giao cho y.

Liễu Dật đặt Bát hoang tinh khoáng lên mặt bàn: "Diệp sư phó, hiện tại ông giúp ta luyện Vĩnh Hằng chi thành, ta sẽ làm giúp ông một việc, việc gì cũng được."

Diệp Đồng Lân nhìn khối Bát hoang tinh khoáng rồi nói: "Tốt, ta sẽ giúp ngài luyện Vĩnh Hằng chi thành nhưng ngài phải hứa rằng sau khi luyện thành, cả nhà lão phải được sống trên đó."

Liễu Dật thoáng nghĩ rồi gật đầu: "Được, cần bao nhiêu thời gian mới chế tạo xong?"

Diệp Đồng Lân trả lời: "Nguyên liệu đã chuẩn bị xong, nếu không có vấn đề gì xảy ra, hai ngày là đủ."

Liễu Dật bảo: "Hay lắm, bọn ta trọ tại Tân Tích Nguyệt tửu lâu, có vấn đề gì tiền bối cứ đến tìm ta, hai ngày sau ta sẽ đến lấy Vĩnh Hằng chi thành."

Diệp Đồng Lân thỏa thuận: "Được rồi, cứ đợi tin tức tốt lành của lão."

Liễu Dật quay nhìn Thiên Kiêu rồi mới đi ra ngoài cửa, y không hiểu vì sao lại muốn nhìn nàng, có lẽ hình dáng nàng và Cát Lợi Nhi rất giống nhau, mặc dù nhìn thấy nàng lòng y lại đau nhói nhưng vẫn muốn nhìn một lần...

Đến cửa Tân Tích Nguyệt tửu lâu, Lang Vương nói: "Vĩnh Hằng chi thành mới thành lập, tất cần nhân thủ, lão sẽ quay về trong tộc tuyển lấy mấy người tinh tráng, hai ngày nữa sẽ tương hội cùng Ma chủ."

Bạch Hổ xen vào: "Thuộc hạ cũng sẽ quay về tộc mời huynh đệ đến đây, nhưng tộc nhân của thuộc hạ không được như của Lang Vương, thành ra không có mấy người."

Liễu Dật dặn: "Các ngươi không cần phải quay về ngay bây giờ, khi nào Vĩnh Hằng chi thành được kiến lập, các ngươi sẽ đem toàn bộ người trong tộc vào thành, đến lúc đó mới tuyển chọn cũng không muộn."

Lang Vương tán đồng: "Hay lắm, Ma chủ suy nghĩ chu toàn hơn chúng tôi nhiều, cứ vậy nhé."

Liễu Dật đặt phòng nghỉ, mọi người cùng chờ đợi.

Thời gian vun vút trôi, một ngày đã qua, vầng trăng khuyết lơ lửng trên trời, ngàn sao đua sắc, buổi đêm yên tĩnh, Liễu Dật vô tình đi đến hậu viện của tửu lâu, nghỉ nghơi ở đây khá tiện nghi, ngay cả hậu viện cũng sạch sẽ, gọn gàng, trong ngôi tiểu đình đặt một cây cổ cầm.

Liễu Dật nhẹ nhàng bước tới, thân thuộc quá, mười năm trước, đàn là thứ y yêu quý nhất, y đã cho rằng tiếng đàn là tất cả, nhưng khi nhìn thấy người yêu thương chết ngay trước mắt, nhìn thi thể người nhà rải đầy mặt đất, y hoá điên cuồng, cầm nghệ không cứu nổi người y mến thương, càng không cứu nổi thân nhân. Mười năm sau, y hồi sinh trong giấc mộng, xả thân nhập ma, y giờ đã biết, trong thế giới này, kiếm mới là tất cả.

Liễu Dật nhẹ nhàng ngồi xuống, từ từ tháo găng tay, đặt lên trên cây đàn, âm tiết dìu dặt nổi lên bàn tay khẽ động, khúc Tương Tư này nỗi đau chất chứa trong lòng suốt mười năm, là vết thương mãi không lành. Tiếng đàn cầm vang đi xung quanh, y dịu giọng ngâm:

Mười năm sinh tử lưỡng mang mang

Bất tư lượng, tự nan vong

Thiên lý cô phần

Vô xứ thoại thê lương

Dạ lai u mộng hốt hoàn hương

Tiểu hiên song, chánh sơ trang

Tương cố vô ngôn

Duy hữu lệ thiên hành

Liêu đích niên niên tràng đoạn xứ

Minh nguyệt dạ tiểu tùng cương...

(Tạm dịch:

Mười năm sinh tử mênh mang

Không đo nổi, cũng không quên được

Nấm đất bơ vơ nơi ngàn dặm

Không nơi tỏ nỗi thê lương

Đêm đến mộng về quê cũ

Trang điểm đơn sơ bên song dưới hàng hiên nhỏ

Nhìn người xưa không thốt lên lời

Chỉ có dòng châu tầm tã

Xa cách bao năm nhớ thương dứt ruột

Ánh trăng đêm trên gò nhỏ...

Âm điệu bi thương hoà với lời bài từ thoạt đứt thoạt nối, có ai nghe thấy mà không tức cảnh sinh tình, dù có là sắt đá lạnh lùng cũng bị nỗi bi thương này nung chảy, Bi Mộng kiếm đeo ở thắt lưng tựa hồ cảm thấy bi thương của chủ nhân, rung lên nhè nhẹ.

Khúc đàn đã dứt, Liễu Dật vẫn trầm tư với nỗi nhớ nhung thống khổ trong lòng.

Đột nhiên, có tiếng người vỗ tay, tiếp đó một giọng nói của nữ tử vang lên: "Ta vẫn nghĩ hai tay ngươi chỉ biết cầm kiếm giết người, không tưởng nổi ngươi có thể đàn được một khúc thương cảm như vậy. Một người luôn lạnh lùng vô cảm như ngươi không ngờ trong lòng lại có nhiều yêu thương đến thế, chỉ tiếc là tình yêu đó không trọn vẹn. Dù ta không thể dùng "Độc tâm thuật", nhưng từ khúc đàn, bài từ vừa rồi mà cảm thụ được tâm trạng của ngươi."

Liễu Dật nhìn lên, là Thiên Kiêu, nàng và Cát Lợi Nhi giống nhau như đúc, y nhẹ nhàng đeo găng tay vào, chầm chậm đứng dậy nói: "Cô nương hân thưởng tại hạ lắm sao? Hay thương hại? Cô tự cho mình là thông minh?"

Thiên Kiêu thoáng nghĩ, nàng không né tránh mà trả lời thẳng: "Ngươi nói cả ba điều đều đúng, ta hân thưởng hoặc là thương hại ngươi, ta cũng khá thông minh, nếu ta đoán không sai thì người ngươi yêu thương đã chết, dung mạo của ta và nàng ấy giống nhau."

Hồng quang trong mắt Liễu Dật lóe lên: "Ngươi thật đáng ghét, người ta yêu mãi mãi không chết, nàng vĩnh viễn ở trong tim ta, dù ngươi có dung mạo của nàng, cũng vĩnh viễn không bằng một phần vạn."

Thiên Kiêu tuyệt không nổi giận, chỉ cười: "Ta có một vị tỷ tỷ, tên là Thiên Nữ, sinh ra cách đây bảy ngàn năm, đã yêu Niết nhân của Ma giới, song bị Bàn Cổ và Nữ Oa ngăn cản, khiến tỷ ấy phải chịu nỗi khổ luân hồi ba đời ba kiếp. Ta thực sự không hiểu tại sao tỷ ấy lại dại dột đến vậy, vì một kẻ của Ma tộc mà tình nguyện chịu nỗi khổ luân hồi. Ma lực của ái tình lớn đến vậy sao? Có đáng không?"

Liễu Dật đột nhiên cảm thấy trái tim như ngừng đập, người trước mặt đây là muội muội của Cát Lợi Nhi, biết rõ Cát Lợi Nhi là chân thân kiếp thứ ba luân hồi chuyển thế của Thiên Nữ, nàng ta gọi Thiên Nữ là tỷ tỷ, vậy chắc là muội muội của Cát Lợi Nhi?

Liễu Dật chằm chằm nhìn Thiên Kiêu một lúc rồi nói: "Không có gì là đáng hay không đáng, chỉ là nguyện ý hay không, tình yêu không thể cân đong đo đếm, tình yêu của tỷ tỷ ngươi không thể bị báng bổ kiểu đó, ngươi căn bản có hiểu gì đâu nên không có tư cách bình luận."

Thiên Kiêu tựa hồ có phần tức khí: "Hừ! Dựa vào cái gì mà nói ta không hiểu, ta thấy tiếc cho tỷ tỷ, cái tên Niết nhân đó có điểm nào tốt? Tại sao lại quên mình để yêu hắn, rõ ràng đã biết sẽ không có kết quả gì, tại sao còn cố đấm ăn xôi?

Lòng Liễu Dật đột nhiên bình tĩnh lại, có lẽ y đã sai, bảy ngàn năm trước y không nên yêu Thiên Nữ, chính y hại nàng phải chịu nỗi khổ luân hồi ba kiếp, nếu như không gặp Thiên Nữ, tất cả sẽ không xảy ra, ba đời ba kiếp sau cũng không sinh ra Liễu Dật.

Liễu Dật thở dài sườn sượt: "Nếu có kiếp sau, ta hy vọng không gặp nàng, càng không muốn mình yêu nàng, như thế nàng sẽ không phải thống khổ mà chỉ biết đến hạnh phúc, nhưng ta có kiếp sau không? Với ta mà nói, ba đời ba kiếp là điểm cuối cùng, lưỡi kiếm trong tay của ta sẽ kết thúc mọi việc."

Dứt lời, bước ra ngoài cửa.

Thiên Kiêu có phần ngơ ngẩn, y vừa nói cái gì? Y... là chuyển thế của Chân ma Niết nhân?

Duyên phận tựa hồ thần bí hơn cả tình cảm, âm thầm xảy ra, khi nhìn thấy người khác yêu người không nên yêu, ngươi sẽ thế nào? Ngươi có đảm bảo ái tình kiếp này của mình nhất định sẽ hoàn mỹ, sẽ có kết quả? Tình yêu của ngươi có như thế không?

- oOo -

Hồi 94: Vĩnh Hằng chi thành, vô giản đạo tam phân thiên hạ

(Vĩnh Hằng chi thành, giữa không gian chia ba thiên hạ.)

Thời gian luôn thấm thoát đưa thoi, dù ngươi thấy nó dài đằng đẵng, nhưng rồi đến một ngày nó sẽ đưa tuổi già đến với ngươi, thế nên, ngươi không thể không thừa nhận, nó là thứ đáng sợ nhất trên thế gian.

Thời gian hai ngày không dài không ngắn, Liễu Dật ra khỏi Tân Tích Nguyệt tửu lâu, nhìn vầng dương đang treo trên trời, tay trái cầm kiếm, tay phải buông xuôi sau lưng, rảo bước về lò rèn ở ngã tư, thời gian đã tới, y muốn xem Vĩnh Hằng chi thành tiến triển đến đâu.

Bước vào lò rèn, y thấy trong phòng ngoài Diệp Đồng Lân đang uống trà không còn ai khác bèn hỏi thẳng: "Diệp sư phó, không hiểu Vĩnh Hằng chi thành của ta hiện tại thế nào?"

Diệp Đồng Lân đứng dậy: "Đã luyện thành, so với tưởng tượng của lão phu còn hoàn mỹ hơn, tối thiểu tòa thành này có thể chứa được trăm vạn người". Nói xong, lão quay lại lấy ra một vật.

Liễu Dật nhìn vật đó, một mô hình thành trì màu vàng kim, bên trong có cung điện, phòng ốc, hoa viên... giống hệt toà thành thực, y lấy làm hoài nghi: "Đây là Vĩnh Hằng chi thành?"

Diệp Đồng Lân gật đầu: "Không sai, vật này chính là Vĩnh Hằng chi thành, đừng coi thường nó nhỏ bé, ngài phải tìm một nơi rộng lớn trên không, dùng chân lực thôi động khiến trận pháp vận hành, nó sẽ lớn ngang với hoàng thành hiện nay, đến thời điểm đó mọi vật bên trong sẽ hình thành theo trận pháp".

Liễu Dật nhấc mô hình Vĩnh Hằng chi thành màu vàng lên, tựa hồ suy nghĩ điều gì đó, cuối cùng mới lên tiếng: "Lão sư, ta nghĩ tốt nhất nên kiến lập Vĩnh Hằng chi thành trên Thiên Sơn, ở đó vắng vẻ, quanh năm tuyết phủ, nên diện tích không trung cực lớn, sẽ không gặp vấn đề gì đâu."

Lang Vương tán thành: "Ma chủ tính rất đúng, lão phu sẽ đem thượng cổ trận pháp vận dụng sở học bình sinh ngăn băng tuyết ở ngoài thành."

Liễu Dật gật đầu, quay sang nói với Diệp Đồng Lân: "Các người chuẩn bị đi, nơi đó lạnh giá nên mang nhiều quần áo ấm, Kỳ, Lân lưu lại ở đây, sau khi họ thu thập xong thì đưa họ đến đỉnh cao nhất của Thiên Sơn nơi chúng ta sẽ gặp nhau, ta và Lang Vương, Bạch Hổ sẽ đi trước để vận hành Vĩnh Hằng chi thành."

Hai người nhận lệnh: "Rõ, thưa Ma chủ."

Liễu Dật cầm mô hình, quay người rảo bước ra ngoài, ba người rời Liên Hoa trấn, Bạch Hổ hóa than thành Thiên Quang Bạch Hổ, Liễu Dật và Lang Vương ngồi lên rồi bay về đỉnh cao nhất của Thiên Sơn.

Nói gần không gần, nói xa không xa, mất chừng ba ngày, Bạch Hổ đã đưa Liễu Dật và Lang Vương đến đỉnh núi cao nhất tại Thiên Sơn. Bông tuyết phơi phới rải trắng như lông ngỗng, gió thổi lồng lộng, ba người vận khởi hộ thân cương khí, dùng nhiệt ngự hàn, hoa tuyết đều rơi cách người họ ba thước.

Ba người hạ xuống, Liễu Dật nói: "Là chỗ này, tại đây chúng ta sẽ sáng tạo nên Ma giới mới Vĩnh Hằng chi thành". Nói xong, lấy ra mô hình màu vàng, Liễu Dật đẩy vô thượng chân khí vào, cổ trận bên trong tiếp thu luồng chân khí cực mạnh liền bắt đầu vận hành, màu vàng dần dần biến thành màu hồng, Liễu Dật quăng mô hình lên không trung.

Trong chớp mắt, mô hình bé nhỏ bay lên không trung với tốc độ chóng mặt, liên tục lớn dần, chỉ trong vòng một khắc, trên thinh không Thiên Sơn, bỗng xuất hiện một thành trì lơ lửng, vô cùng to lớn, từ mũi nhọn phía dưới tựa hồ có một tầng vụ khí bay ra, dần dần mây trắng bao phủ cả tòa thành.

Quá ư đơn giản, trên trời cao xuất hiện một toà thành thần bí lơ lửng.

Liễu Dật ngự kiếm bay lên: "Chúng ta lên xem qua một chút". Ba nhân ảnh một đen hai trắng nhanh nhẹn bay lên, tiếp cận tòa thành rồi cuối cùng đáp lên. Đạo pháp trong tam giới không ngờ thần kỳ như thế, bỗng nhiên trong khoảnh khắc tạo ra một thành trì vô cùng to lớn trên không trung. Phóng mắt nhìn quanh, những gì mà thành trì cần có, ở đây có đủ, tường thành cao vút, nhà cửa cho dân ở, cung điện to lớn, hoa viên... Tất cả tạo nên Vĩnh Hằng chi thành.

Liễu Dật nói: "Bạch Hổ, ngươi đưa tộc nhân đây; lão sư mau bày thượng cổ trận pháp, cách ly nơi đây với Thiên Sơn, sau đó đi đón tộc nhân về thành."

Lang Vương và Bạch Hổ gật đầu đồng thanh: "Rõ."

Nhìn cung điện hùng vĩ, Liễu Dật nhớ tới bức tranh trong mắt Kim Lâu chủ tại đất Thục, cuối cùng y cũng biết tòa cung điện đó chính là Vĩnh Hằng chi thành, còn người trong tranh là y, phải chăng đây là túc mệnh? Lẽ nào tất cả đã được chú định?

Mọi người đều khẩn trương, sau ba ngày Vĩnh Hằng chi thành đã khoác lên bộ mặt mới. Bên ngoài thành, Lang Vương bố trí ba đạo thượng cổ trận pháp, đều là những trận pháp mà ông đắc ý nhất. Ngoại trận ngăn cách cung điện này với nhiệt độ bên ngoài Thiên Sơn, trung trận đề phòng địch nhân xâm nhập Vĩnh Hằng chi thành, nếu vượt qua trận pháp đó, tín hiệu sẽ được phát ra, báo hiệu có thích khách. Trận pháp trong cùng có khả năng tấn công, chỉ cần có kẻ xâm nhập, tất sẽ bị loạn kiếm giết chết.

Vì thế muốn đi vào Vĩnh Hằng chi thành, chỉ có hai cách, thứ nhất là người bên trong khai mở trận pháp cho tiến vào trong. Cách thứ hai là dùng vô thượng chân lực tạo ra kẽ hở trên không để tiến vào, nhưng khó người nào có được tu vi như vậy.

Đương nhiên, Lang Vương cũng thiết kế một con đường từ Thiên Sơn lên Vĩnh Hằng chi thành, nhưng người nào muốn đi phải chịu sự kiểm tra ngặt nghèo của môn vệ.

Từ tộc nhân của mình, Lang Vương đã tuyển chọn được hai mươi bốn Địa sát Khôi lang chưa ảo hóa cùng hai mươi bốn đã qua ảo hóa thành hai mươi tư thiếu niên tinh tráng, tổ hợp thành một đội gọi là Lang kị sĩ.

Nhưng tộc nhân của Bạch Hổ không nhiều như của Lang Vương, cho nên chỉ chọn được mười hai Thiên Quang Bạch Hổ đã qua ảo hóa thành mười hai tráng hán và mười hai chưa ảo hóa, lập ra đội Hổ kị.

Kỳ, Lân là thủ hộ thần thú gần tương đương với Thiên Long, Hỏa Phượng nên trở thành tả hữu sứ giả của Vĩnh Hằng chi thành. Lang Vương là lão sư được Liễu Dật rất mực tôn kính, Bạch Hổ phụ trách việc bảo vệ an toàn cho toàn thành, có quyền điều động hai mươi bốn Địa sát khôi lang và mười hai vị Thiên Quang Bạch Hổ.

Để tăng cường thế lực cho Vĩnh Hằng chi thành, Liễu Dật đem toàn bộ chín tầng đầu của Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp và Loạn thập tam thức, truyền thụ cho ba mươi sáu vị tinh anh của Lang tộc, Hổ tộc. Y muốn thân thủ của họ có thể sánh với nhân vật cấp môn chủ, nếu không bằng được, cũng phải tương đương với nhân vật cấp trưởng lão và hộ pháp của các môn phái khác, nếu không khi phải đối diện với hai đại liên minh đó, y không có đường lùi.

Ám chi ma đạo là đối tượng y muốn báo phục, cả Nhân gian chính đạo cũng không thể bỏ qua, nên y nhất định phải bồi dưỡng thực lực cùng hai đại liên minh kia chia ba thiên hạ.

- oOo -

Hồi 95: Phù Hoa sơn trang, danh dự bối hậu đích đại giới

(Phù Hoa sơn trang, cái giá của danh lợi)

Tất cả đều được tiến hành theo kế hoạch, việc kiến lập Ma giới - Vĩnh Hằng chi thành đã lan truyền đến tai vô số người trong tam giới lục đạo nhanh như sét đánh, đương nhiên gồm cả Nhân gian Chính đạo lẫn Ám chi ma đạo.

Thiên hạ vốn dĩ phân đôi, cục thế vi diệu, chiến tranh giữa Ám chi ma đạo và Nhân gian chính đạo lúc nào cũng chực bùng phát. Một bên mang dã tâm thống nhất tam giới, một bên hô khẩu hiệu tiêu diệt ma đạo. Tuy nhiên mọi sự trên đời luôn vượt hẳn những gì con người tưởng tượng, không thể đoán theo lẽ thường, Ma giới - Vĩnh Hằng chi thành quật khởi trong chớp mắt trên Thiên Sơn, trở thành môn phái thần bí khó đoán, khiến cục thế thiên hạ lập tức yên lặng trở lại.

Không cần phải hoài nghi, bất kể kiêu hùng, anh hùng nào cũng không phải kẻ ngốc, Vĩnh Hằng chi thành tự xưng tân ma giới, quật khởi quá ư thần bí, nhiều ngày liền, chính, ma lưỡng đạo đều phái người thám thính môn phái này, có điều những người được cử đi đều không trở về. Thực lực của Vĩnh Hằng chi thành càng trở nên thần bí, không ai biết đầu cua tai nheo của thành chủ ra làm sao, chỉ biết Vĩnh Hằng chi thành tầng không băng sơn muốn cùng Nhân gian Chính đạo và Ám chi ma đạo chia ba thiên hạ.

Nơi đây là đại diện của Vĩnh Hằng chi thành, mười hai Thiên Quang bạch hổ đứng chỉnh tề dưới mười hai cột trụ, mình đều mặc hắc y, trên cánh tay, thắt lưng có giáp da bảo hộ. Bên trái đại điện là Lang Vương, tay cầm quạt gấp, ung dung phe phẩy, bên phải là Bạch Hổ, toàn thân bạch y, tinh thần hăng hái, râu rậm đầy mặt có vẻ xấu xí, nhưng vẫn không làm mất đi phong vị nam nhi.

Nhìn lên phía trên, ngồi trên bảo tọa là một người toàn thân áo da đen, trường kiếm đen ngòm đeo trên thắt lưng, trên mặt đeo khăn che màu trắng, tóc bạc đầy đầu, trông vô cùng tiêu sái, chỉ là trong mắt ánh lên vẻ bi thương, tà áo choàng cũng màu đen buông xuống. Đó là ai? Mười năm trước y là một thư sinh vô dụng, mười năm sau là chủ nhân Tân ma giới, thành chủ Vĩnh Hằng chi thành: Liễu Dật.

Một nam, một nữ phục trang màu đỏ, tay cầm trường kiếm đứng cạnh Liễu Dật, hai người khoảng ba mươi tuổi nhưng không thể xem thường, bởi họ cùng tề danh với thủ hộ thần thú Thiên Long và Hoả Phượng, họ là Kỳ và Lân.

Trong mắt Liễu Dật hiển hiện bi thương, tại đại điện yên tĩnh này, bên tai y văng vẳng những lời Cát Lợi Nhi nói: "Thư sinh, Nếu một ngày nào đó, Cát Lợi Nhi mất đi, xin huynh đừng bi thương... Huynh hãy nhìn ánh nắng ấm áp, ngắm bầu trời bao la, nhìn tuyết bay trong Hoa Hải, hít thở mùi hương ngào ngạt trong gió. Thế giới này vẫn rực rỡ như thế, dù cho Cát Lợi Nhi có ra đi, cũng không ảnh hưởng gì đến thế giới của thư sinh cả, xin hãy chôn vùi sâu Cát Lợi Nhi trong ký ức của thư sinh, được không?" Y tê cứng như khúc gỗ, tại sao lại như vậy, có phải y đã bị chú định phải chịu cảnh cô độc?

Song mục hồng quang lóe sáng, Liễu Dật đứng bật dậy, hét lớn: "Vi Phong, ta nhất định đòi lại nợ máu này". Thanh âm vang vọng trong đại điện, lòng y buốt xé, có vết thương nào sánh nổi nỗi đau đớn này.

Đại điện hết mực yên lặng, Lang Vương tiến lên một bước, nói: "Ma chủ bớt giận, thần có một tin tức tốt lành, có lẽ giúp được cho Ma chủ."

Liễu Dật xạ mắt lấp loáng, xoay người nhẹ nhàng ngồi lên bảo tọa: "Mời lão sư nói."

Lang Vương giải thích: "Tam giới luận võ diễn ra năm năm một lần, năm nay sẽ cử hành vào ngày mười lăm tháng tám, còn bốn ngày là đến. Hàng tháng nay, người trong thiên hạ tề tựu tại Phù Hoa sơn trang ở kinh đô, lúc này chính, ma lưỡng đạo đã đến, kể cả hộ pháp Ma môn Vi Phong. Mỗi kỳ luận võ năm năm, Phù Hoa sơn trang sơn trang sẽ định lại thứ bậc cao thủ trong tam giới, mê hoặc của danh lợi đó kẻ nào mà không muốn?"

Liễu Dật gật đầu: "Tốt, cứ thế đi, chúng ta lập tức xuất phát đến Phù Hoa sơn trang, ta không thể để cho Vi Phong chết mát mẻ được... còn cả Ám chi ma đạo nữa, không phải cũng muốn ngẩng đầu lên sao? Hảo, ta sẽ dập lửa nhuệ khí của chúng, Bạch Hổ?

Bạch Hổ bước lên một bước: "Tiểu thần có mặt."

Liễu Dật dặn: "Ta và Lang Vương, Kỳ, Lân đến Phù Hoa sơn trang, an toàn của Vĩnh Hằng chi thành giao cho ngươi, kẻ nào tự tiện xông vào giết hết không tha". Nói xong, mắt lại lóe hồng quang.

Bạch Hổ trả lời: "Rõ, thưa Ma chủ."

Liễu Dật nói tiếp: "Lão sư, chuẩn bị cho ta một hồ máu tươi, đề phòng thiên hỏa xuất hiện lúc trăng tròn."

Phân phó, chuẩn bị xong xuôi, Liễu Dật phất tà áo choàng màu đen, tay trái nắm chắc trường kiếm, nói: "Chúng ta lên đường". Bốn người rảo bước ra ngoài Vĩnh Hằng chi thành.

Trên không trung, bốn nhân ảnh từ Vĩnh Hằng chi thành đỏ rực phi hành ngược gió, Liễu Dật cơ hồ nhớ đến một vấn đề gì đó, vòng tay lại, ngoái đầu hỏi Lang Vương: "Trong mười năm qua, lão sư có gặp Thập Kiệt Nhất và Đại Đao Vương không?"

Lang Vương trầm tư kể: "Chỉ gặp một lần, bốn người đó đã thành thân, mười năm trước, ba tháng sau khi Ma chủ mất, Thập Kiệt Nhất đã cưới A Cửu, Đại Đao Vương cưới Thủy Nhi, bọn họ có mời thần uống rượu mừng."

Liễu Dật gật đầu: "Tam giới luận võ náo nhiệt thế này, với tính cách của A Cửu chắc chắn sẽ đến, Đại Đao Vương vốn ái mộ truyền thuyết anh hùng, chắc cũng tham gia, mười năm rồi, ta cũng mong được thấy bọn họ bây giờ ra sao."

Lang Vương than thở: "Đúng vậy, mười năm rồi, thần cũng quên mất hình dáng của bọn họ, thời gian đúng là vô cùng kỳ quái, có thể làm phai mờ ký ức của một con người."

Liễu Dật nhẹ nhàng gật đầu: "Thật kỳ quái, nó có thể làm phai mờ ký ức, nhưng cũng có thể làm ký ức sâu đậm hơn."

Bọn Liễu Dật bốn người gia tăng tốc độ ngự kiếm, như sao băng trên trời, bay thẳng đến Phù Hoa sơn trang tại kinh đô Trung Nguyên, ở đó có nhiều điều chưa biết đang chờ họ giải đáp.

Với tu vi của bốn người, mất ba ngày đã tới được Phù Hoa sơn trang giáp với phía nam kinh đô, phía tây Hàng Châu. Nhìn qua một lượt Phù Hoa sơn trang rộng mênh mông, đây là sơn trang do người trong tam giới cùng kiến lập nhằm mục đích cử hành tam giới luận võ năm năm một lần, bình thường luôn có người quét dọn nên rất sạch sẽ.

Đến đại môn của sơn trang làm cho người ta có cảm giác, đây tuyệt không phải là một sơn trang, ít nhất phải là một thôn, không, là một trấn, giữa các khu nhà vô số con đường lớn giao nhau, bên đường có những người bán hàng rong, khiến sơn trang vốn phải trầm trầm tử khí thì lại đượm vẻ phồn hoa.

Những người đang đi lại trên đường đều là người trong tam giới: Tiên tộc, Ma tộc, Nhân tộc, kể cả Yêu tộc của Thiên Long thần đàn, tất cả đã đến Phù Hoa sơn trang.

Mục đích của ai cũng rất đơn giản, trường tam giới luận võ này là nơi có thể nhất chiến thành danh, được người thiên hạ nhìn bằng con mắt khác. Nhưng, cao nhân trong tam giới đầy rẫy, danh lợi có khi phải trả giá bằng tính mạng, một trường mưa máu sắp bắt đầu. Liễu Dật đưa ánh mắt đầy bi thương nhìn những người trên đường.

- oOo -

Hồi 96: Tình nhân linh đang, chân tâm ái tha đích vi tiếu

(Tiếng chuông tình nhân, nụ cười thật lòng yêu y)

Mọi việc cứ diễn ra từ tốn, có lẽ, đó là khởi đầu của kế hoạch báo phục, nhưng có thể đây là một thủ đoạn khác của vận mệnh khiến ta không thể dự liệu, chỉ biết tuân theo.

Liễu Dật nhìn thấy không ít khuôn mặt quen thuộc giữa đám đông, đương nhiên, đó là A Cửu, Thủy Nhi cùng với Thập Kiệt Nhất, Đại Đao Vương, họ đang bát phố trong sơn trang phồn hoa này. Nhưng y không muốn lên gặp họ, thân phận hiện tại của y chỉ mang lại thêm nhiều phiền toái cho những người đang sống yên lành, được thấy bằng hữu sinh hoạt vui vẻ, với y thế là đủ.

Có ba nhân vật rất đáng chú ý, một lão già râu tóc bạc phơ, thân hình lùn tịt, chính thị Long thần, bên cạnh là một nữ hài tóc đỏ, tay cầm trường kiếm, kình trang màu đỏ, hai cánh tay trắng muốt để trần, chiếc váy xẻ dài lộ ra cặp chân, kiểu ăn mặc này không kém gì Thất Nguyệt.

Nghĩ đến Thất Nguyệt, tim Liễu Dật bất giác rung động, đúng lúc đó, ánh mắt y bị hút sang một nữ tử khoảng hơn hai mươi tuổi, mặc y phục màu lam, vóc người gần như là hoàn mỹ, tay cầm hai thanh đoản đao, phát ra ánh sáng đen nhánh, đôi mắt làm cho người nhìn dù chỉ một lần khó mà quên được, đôi mắt màu lam thẫm, ẩn chứa sát khí vô tận. Đôi mắt đó làm y đặc biệt chú ý đến nữ tử. Nàng ta là ai? Thân phận thế nào, mà trong đôi mắt lam, tựa hồ muốn giết sạch mọi người.

Liễu Dật nói với Lang Vương đang ở bên cạnh: "Lão sư giúp ta báo danh, tốt nhất xếp cùng tổ với Vi Phong, ta và Kỳ, Lân sẽ đi dạo quanh quẩn."

Lang Vương gật đầu: "Vâng, Ma chủ."

Liễu Dật cùng Kỳ, Lân tiếp tục cất bước, sơn trang này quả thực lớn hơn cả một trấn, lại không kém phần phồn hoa.

Tam giới luận võ dựa theo thể thức loại trực tiếp, sau khi báo danh sẽ bốc thăm, chẳng hạn ngày đầu có mười sáu người tham gia tranh tài, ngày thứ hai chỉ còn tám người, ngày thứ ba còn bốn người, cứ thế loại dần. Luận võ thường có kỳ hạn một tháng, nhưng cũng không nhất định, nếu như có nhiều người tham gia, sẽ tùy tình hình thi đấu mà sắp xếp thời gian.

Liễu Dật lơ đãng bước đi trên đại lộ, ngắm nhìn những người bán hàng hai bên đường. Đột nhiên một vật bày bán hấp dẫn y tiến lại chỗ một người chuyên bán đồ dùng của người dân tộc thiểu số. Ở đó, y thấy có bán khăn tay và mấy thứ lặt vặt khác.

Y lật từng món hàng, đột nhiên thấy một dây chuông màu tím vô cùng đẹp đẽ, mỗi vòng xâu sáu quả chuông, tổng cộng ba xuyến mười tám quả, trên mỗi quả đều khắc hình các loài hoa khác nhau. Y cầm chuông lên lắc lắc, nhìn những quả chuông được chế tạo rất tinh tế rung lên, trong tiếng chuông reo, y như nhìn thấy khuôn mặt Cát Lợi Nhi, thấy nụ cười của nàng, bây giờ y mới hiểu có lẽ đó chính là niềm quyến luyến nhất đời.

Lão chủ quầy hiển nhiên không phải là người Trung Nguyên, thấy y cầm dây chuông, vội nói: "Khách quan tôn kính, ngài lựa chọn quả là sáng suốt, cái này là "Tình nhân linh" của bản tộc, dây chuông này cũng gắn liền với một câu chuyện từ xa xưa."

Liễu Dật đưa mục quang lãnh lẽo nhìn lão chủ quầy, nhận thấy lão không phải là nói quàng xiên, bèn hỏi: "Câu chuyện thế nào, nói ta nghe."

Chủ quầy mỉm cười nói: "Mỗi người trong bản tộc đều có Tình nhân linh, theo truyền thuyết, tiên nữ trên trời và ma quỷ dưới đất thương yêu nhau, dây chuông này chính là tín vật của họ, dù hai người có bị chia cắt đến đâu, dù ở chân trời góc bể, trên trời dưới đất, chỉ cần rung nhẹ dây chuông này, thì người thương trong lòng sẽ xuất hiện trước mắt, nhất định đó phải là người được yêu thương thật lòng, nếu không sẽ làm dây chuông vỡ nát, và không có cảm giác gì."

Liễu Dật gật đầu.

Cũng lúc đó, một giọng nói vang lên: "Ông chủ, dây chuông này còn không? Bán cho ta một dây."

Liễu Dật nhẹ nhàng ngoái lại, là một nữ tử bạch y thoát tục, tướng mạo bình thường nhưng toát ra cảm giác cao nhã, Cát Lợi Nhi ư? Không, đó chỉ là người có vẻ bề ngoài rất giống với Cát Lợi Nhi: Thiên Kiêu, muội muội mà Cát Lợi Nhi chưa từng được gặp.

Lão chủ quầy gật liên hồi, cúi người nói: "Tại hạ thành thực xin lỗi khách quan, đây là dây chuông cuối cùng của tại hạ."

Liễu Dật nhìn Thiên Kiêu, thả dây chuông trên tay xuống mặt quầy: "Cô nương thích thì cứ lấy". Nói xong, y quay người đi sang hướng khác.

Thiên Kiêu nhìn theo Liễu Dật đang đi xa dần, cầm lấy dây chuông màu tím trên mặt quầy, lắc nhẹ nhàng, dây chuông đẹp đẽ phát ra âm thanh trong trẻo, nghe rất vui tai, trong tiếng chuông ngân, nàng thấy một thân ảnh màu đen, không nhìn rõ mặt, chỉ nhìn được đôi mắt bi thương và tang thương, câu nói của bóng hình đó in đậm trong sâu thẳm tâm hồn nàng: "Nếu như có kiếp sau, ta hy vọng sẽ không gặp nàng, không để ta yêu nàng, như thế, nàng sẽ không phải chịu thống khổ mà chỉ biết đến hạnh phúc."

Lại nói Liễu Dật đến trước một khách sạn, ngẩng đầu nhìn danh tự khách sạn: "Thiên hạ đệ nhất" bất giác lắc đầu, thiên hạ đệ nhất là cái gì? Đến cả một khách sạn này cũng dùng tới danh tự đó, lẽ nào thiên hạ đệ nhất thực sự trọng yếu đến vậy?

Đến lúc đó, Lang Vương từ sau bước tới gọi: "Ma chủ."

Liễu Dật quay đầu hỏi: "Sao vậy?"

Lang Vương gật đầu nói: "Đã xong rồi, ngày mai Ma chủ đấu cùng Phong Thần, đệ tử của trưởng lão Thần môn Dương Vân Phong, ở đệ tứ trường trên Khí kiếm đài."

Liễu Dật gật đầu, nhớ lại tình cảnh gặp Thần môn tứ hộ vệ Phong, Thủy, Hỏa, Lôi mười năm trước, trong lòng không khỏi cảm khái, lúc đó nếu như không có Lãnh Kiếm tương trợ, không biết sự thể sẽ ra sao? Nghĩ đến chuyện đó, y hỏi tiếp: "Lão sư có để ý Lãnh Kiếm cùng nhóm với ai?"

Lang Vương gật đầu: "Lãnh Kiếm có lẽ không tới, mười năm nay ông ta chưa hề xuất hiện, cũng không tham gia Tam giới luận võ, tựa hồ biến mất khỏi Nhân gian."

Liễu Dật lắc đầu: "Không thể, ông ta không biến mất, có lẽ kiếm ý của ông ta đã đạt đến một cảnh giới khác, hoặc ông ta nhận thấy Tam giới luận võ này không ai xứng đáng cho ông ta xuất kiếm, Lãnh Kiếm vốn cuồng ngạo mà."

Lang Vương đồng tình: "Mặc dù Lãnh Kiếm không đến, nhưng đệ tử thủ tịch của y là Thiết Tiêu có tới, Thiết Tiêu hiện tại là chưởng quản Lãnh Kiếm môn, từ mười năm trước "Chân vũ kiếm ý" của hắn đã được xếp là thiên hạ đệ nhị, thêm thần kiếm "Huyền Quang", chắc sau mười năm qua tu vi có thể đạt đến mức của Lãnh Kiếm ba mươi năm trước."

Liễu Dật lắc đầu, nói: "Lãnh Kiếm si mê kiếm, không ai có thể vượt qua được, mặc dù Thiết Tiêu hiệu xưng Kiếm Si, nhưng hắn không bao giờ vượt qua được lão sư."

Lang Vương nói tiếp: "Lang Vương ngày càng bội phục Ma chủ, so với mười năm trước, Ma chủ hiện giờ điềm tĩnh, trưởng thành hơn nhiều, một ngày nào đó, chúng ta sẽ báo được thù, thống nhất Ma giới."

Liễu Dật gật đầu, nói: "Chúng ta đi thôi, phiền lão sư chuẩn bị máu tươi đem đến phòng ta."

Lang Vương gật đầu nói: "Vâng, Ma chủ."

- oOo -

Hồi 97: Huyết phù dữ kiếm, vi danh lợi xá thân vong tử

(Huyết phù đấu với kiếm, liều thân vì danh lợi)

“Thư sinh, Nếu một ngày nào đó, Cát Lợi Nhi mất đi, xin huynh đừng bi thương... Huynh hãy nhìn ánh nắng ấm áp, ngắm bầu trời bao la, nhìn tuyết bay trong Hoa Hải, hít thở mùi hương ngào ngạt trong gió. Thế giới này vẫn rực rỡ như thế, dù cho Cát Lợi Nhi có ra đi, cũng không ảnh hưởng gì đến thế giới của thư sinh cả, xin hãy chôn vùi sâu Cát Lợi Nhi trong ký ức của thư sinh, được không?"

"Không được..." Đang phong bế lục thức, tiến vào cảnh giới vong ngã bỗng Liễu Dật choàng tỉnh, vừa rồi y đã nhìn thấy Cát Lợi Nhi, nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của nàng, nhưng khuôn mặt đó mỗi lúc lại rời xa y, ngày càng ngày mờ mịt, cuối cùng tan biến."

Liễu Dật vỗ mạnh xuống giường, lớn tiếng kêu: "Tại sao, tại sao lại tàn nhẫn như vậy, bắt ta phải sống đày đọa thế này?"

Nhìn ánh dương quang đang lên ngoài song cửa, tâm hồn băng lãnh của Liễu Dật bỗng ấm áp trở lại, bất giác đôi mắt ngầu máu của y rớt ra một giọt lệ, dịu giọng: "Ta có thể phong bế ý thức, có thể quên bản thân, nhưng sao ta không thể quên được nàng, nàng có biết không? Suốt mười năm trong giấc mộng, nàng luôn là nỗi đau đớn lớn nhất trong lòng ta, nàng ở thế giới bên kia có yên bình không? Nàng đợi ta thêm một thời gian nữa nhé? Sau khi hoàn thành mọi việc, ta sẽ tìm nàng..."

Y nhẹ nhàng đứng dậy, bước ra cửa.

Mặt trời đang lên, Phù Hoa sơn trang hôm nay càng thêm náo nhiệt, bởi tam giới luận võ chính thức bắt đầu, ai nấy đều ôm mộng trở thành vì sao mới trong mắt thiên hạ.

Lôi đài ở Phù Hoa sơn trang tổng cộng chia làm bốn tòa: Khí kiếm, Quy ẩn, Xá thân, Vong tử. Bốn lôi đài này dựa theo số người báo danh, mỗi ngày cử hành sáu trận đấu theo thể thức loại trực tiếp, người trụ lại đến cuối trận là người thắng cuộc, chỉ người đó mới được vào tiếp vòng tranh bá, người thắng lợi cuối cùng sẽ được Phù Hoa sơn trang vinh danh.

Liễu Dật chậm rãi bước vào phạm vi của lôi đài Khí kiếm, nơi đây rộng hơn cả, bên trên đã thấy hai người đang đứng, phía dưới lôi đài những kẻ có thế lực đang chọn vị trí tốt cùng trà thơm và đồ ăn nhẹ, chuẩn bị xem kịch hay trên lôi đài, những giang hồ lãng tử thấp cổ bé họng đành đứng ở phía sau. Dù đã chia thành bốn lôi đài để tăng tốc độ thải loại, nhưng người đăng ký quá đông, thành ra người đứng quanh lôi đài chật như nêm cối, tựa hồ mọi người đều tụ tập hểt tại sơn trang này.

Kỳ, Lân chia ra tả hữu nhanh chóng mở đường cho Liễu Dật đi đến trước lôi đài, Lang Vương thấy y tới, hành lễ: "Mời Ma chủ ngồi, thần đã chọn chỗ tốt cho ngài."

Liễu Dật và Lang Vương ngồi xuống, Kỳ, Lân đứng sau, trong trường đột ngột xuất hiện một người thần bí khiến mọi người đều kinh ngạc, kể mấy vị môn chủ của Nhân gian chính đạo và Ám chi ma đạo ngồi cạnh y. Mọi người dõi ánh mắt kỳ quái đánh giá y: trang phục da màu đen, áo choàng dài, mớ tóc trắng bay bay trong gió, trên mặt đeo khăn che màu bạc rất đặc biệt, lục lại ký ức trên giang hồ tịnh không có nhân vật nào như vậy, trong những môn phái nổi danh càng không, nhưng khí thế người này không hề kém bất cứ môn chủ nào, hắn là ai? Không ai biết.

Liễu Dật nhìn vào trong trường, một lão nhân có vẻ cao tuổi đang ngồi trên ghế, chắc là giám trường. Y không nhận ra hai người trên lôi đài bởi họ chưa từng xuất hiện trong trí nhớ của y, nhưng bọn họ tuyệt đối không phải lãng tử bình thường trên giang hồ, có thể người của danh môn đại phái.

Lão đầu giám trường râu bạc vận lực hô lớn: "Cuộc đấu thứ hai do Gia Cát Thanh Phong, thủ tịch đệ tử của Tiên tộc Vô Vi đạo môn, đấu với Ma tộc Ám môn hộ pháp Sa Nguyệt Nhai. Bây giờ cuộc đấu bắt đầu". Mặc dù lão đầu vận hết lực nhưng độ một nửa số người phía dưới nghe được, không ai quan tâm tới điều đó, mà để tâm vào chuyện ai trụ lại lôi đài.

Vốn Liễu Dật chẳng quan tâm gì, chỉ hờ hững nhìn lên lôi đài, khi nghe đến Ám môn của Ma tộc liền sôi máu, tổ chức sát thủ này quả nhiên ngày càng phát triển.

Liễu Dật quan sát kỹ lưỡng hai người trong trường, Ám môn hộ pháp Sa Nguyệt Nhai mặc y phục màu đen, khuôn mặt hốc hác, như thể thiếu dinh dưỡng, nhìn qua hắn khoảng trên bốn mươi tuổi, nhưng chắc chắn đó không phải là tuổi thực, vì với tu vi của hắn, chắc chắn phải trên một trăm tuổi, tay cầm một thanh trường kiếm màu lục, bốc mùi hôi thối, mặc dù ở phía dưới lôi đài, nhưng Liễu Dật cũng ngửi thấy, nhất định thanh kiếm này đã được hắn thi thố một chút thủ đoạn.

Tiên tộc Vô Vi đạo môn Gia Cát Thanh Phong, mặc dù là thủ tịch đệ tử, nhưng còn khá trẻ, đạo phục may bằng vải bố, tay cầm mộc kiếm, thi thoảng lại có hồ điệp sà xuống thân kiếm, xem ra không phải là kiếm thường. Hai người trên lôi đài đều bất động, nhưng trong lòng Liễu Dật hy vọng Sa Nguyệt Nhai thắng trận này, nếu vậy y sẽ có cơ hội đấu trực tiếp với hắn, khoái cảm báo thù trào dâng trong lòng y.

Lôi đài hoàn toàn yên ắng, mặc dù Gia Cát Thanh Phong còn trẻ nhưng hình như kinh nghiệm khá lão luyện, gã không muốn xuất thủ trước, muốn biết rốt cuộc tên hộ pháp Ám môn này nhẫn nại được bao lâu.

Nhưng gã đã lầm, Sa Nguyệt Nhai chậm rãi nhắm mắt lại, trường kiếm nhẹ nhàng hạ xuống...

Sau cùng, không chịu nổi sự coi thường của Sa Nguyệt Nhai, Gia Cát Thanh Phong xuất thủ, nhưng gã không vội vã xuất kiếm, hai tay cùng giơ lên rút thanh mộc kiếm kỳ quái ra, thân hình chuyển động, tay cầm mấy đạo phù màu vàng, tay phải rút ra một cánh hoa, miệng niệm những câu đạo kinh kỳ quái, đột nhiên kêu lớn: "Bạo."

Ngón giữa, ngón trỏ kẹp lấy đạo phù màu vàng như mũi tên rời cung, đạo phù tỏa ánh sáng màu vàng ra xung quanh, xẹt tới Sa Nguyệt Nhai đang khép hờ mí mắt. Lúc này Sa Nguyệt Nhai cũng hành động, mở bừng mắt, hai tay giơ cao, hô: "Khởi". Chỉ thấy một cây kiếm màu lục bay lên nghênh đón đạo phù màu vàng.

Tựa hồ Gia Cát Thanh Phong ngạc nhiên trước năng lực phản ứng của Sa Nguyệt Nhai, chỉ nghe "bịch" một tiếng, cây kiếm màu lục vẽ thành một chiếc mống dài, xuyên qua đạo phù màu vàng, tịnh không hề dừng lại mà tiếp tục tăng tốc, bắn thẳng vào Gia Cát Thanh Phong.

Gia Cát Thanh Phong cũng không phải là đồ bỏ đi, tay phải rút ra một linh phù màu đỏ, quăng lên không trung, linh phù lơ lửng phía trên thanh mộc kiếm, cùng với đạo kinh họ Gia Cát ngâm nga, bỗng nhiên bốc lửa khiến thanh mộc kiếm xoay vòng trên không trung rất nhanh, phát ra một tia sáng đỏ.

Lang Vương nhìn tình thế trên lôi đài, cả kinh thốt: "Huyết phù!"

Liễu Dật hỏi: "Lão sư, Huyết phù là gì vậy?"

Lang Vương trả lời: "Điểm khác biệt lớn nhất giữa Huyết phù và đạo phù bình thường ở chỗ nó do chủ nhân sử dụng tinh huyết bản thân luyện thành, có thể tức thời tăng gấp bội tu vi, xem ra Gia Cát Thanh Phong biết tu vi đối thủ cao hơn, quyết liều mạng đấu trận sống mái theo kiểu không thắng tất vong."

Trong trường, hồng quang, lục quang đại thịnh, trường kiếm màu lục xoay quanh thanh mộc kiếm màu đỏ, tốc độ của mộc kiếm hiển nhiên không bằng được lục kiếm nên không cách nào dứt khỏi vòng chiến.

Lúc đó, quái sự xảy ra...

- oOo -

Hồi 98: Thiên Chi ma đao, ma chi khí tức cuồng bạo

Bị thanh kiếm màu lục vây chặt, hồng quang của thanh mộc kiếm dần dần thu nhỏ lại, chao đảo trong không trung, dường như sắp rơi xuống. Mọi người quay đầu lại nhìn Gia Cát Thanh Phong, hắn cũng giống như thanh kiếm của mình, xiêu xiêu vẹo vẹo, sắp ngã xuống đến nơi.

Sắc mặt y biến sang màu đen, mắt trợn ngược, không tự chủ được nữa.

Mọi người lại chăm chú nhìn vào thanh kiếm màu lục, chỉ thấy luồng vụ khí màu lục liên tục khuếch đại nhưng không tán ra mà vây chặt lấy thanh mộc kiếm, luồng ánh sáng đỏ của thanh mộc kiếm bị chìm khuất hẳn, thân kiếm dần dần chuyển sang màu lục.

Những kẻ có tu vi cao đều hiểu rõ, cả hai người đem hồn phách nhập vào trong thân kiếm, dung chân khí trong thân thể mà tế kiếm khiến cho kiếm có thể bay ra công kích địch nhân, dĩ nhiên tốc độ của kiếm theo đó mà nhanh hơn so với cầm kiếm bằng tay, nhưng khi hai thanh kiếm va chạm vào nhau sẽ vô cùng nguy hiểm. Như hiện giờ, hồn phách của đối phương dồn vào trong kiếm, thanh kiếm có mối tương liên với thân thể chủ nhân, do vậy, chỉ cần đánh rớt kiếm của đối phương, chắc chắn đối phương sẽ ngã xuống.

Nhưng thanh lục kiếm không đánh cho thanh mộc kiếm rớt xuống mà liên tục chuyển động, phát tán ra lục sắc vụ khí. Những người có mặt tại trường đấu đều chằm chằm nhìn vào Gia Cát Thanh Phong, người tinh mắt thì nhận ra thanh kiếm của Sa Nguyệt Nhai có chỗ cổ quái, luồng vụ khí màu lục chính là một loại độc vụ cường liệt phi thường, từ từ xâm nhập vào thanh mộc kiếm. Vì kiếm và hồn phách gắn chặt với nhau, nên Gia Cát Thanh Phong cũng bị độc vụ công kích.

Lúc Gia Cát Thanh Phong ngã xuống, hữu thủ Sa Nguyệt Nhai vụt nhấc lên, từ trong tay áo bất ngờ bắn ra một mũi tụ tiễn màu đen, âm thanh xé toạc không khí lao tới, tốc độ còn nhanh hơn cả phi kiếm lúc nãy.

"Phập" một tiếng, mũi tụ tiễn vô cùng chuẩn xác cắm thẳng vào tâm tạng Gia Cát Thanh Phong, trong chớp mắt đẩy y bắn khỏi lôi đài, sắc mặt Gia Cát Thanh Phong đã chuyển thành đen xạm, thổ mạnh ra một búng máu tươi, xem ra khó sống nổi. Lúc đó, một lão nhân lao thẳng vào vòng chiến, ôm lấy Gia Cát Thanh Phong, gào lên: "Thanh Phong, Thanh Phong, là lão sư hại con". Giọng nói tràn đầy niềm hối hận rồi bùng phát thành niềm phẫn nộ.

Lão đạo ôm lấy Gia Cát Thanh Phong nước mắt ròng ròng, trên người khoác đạo bào màu xám, có thêu hình thái cực đồ. Lão chính là Vân Phi Đạo Nhân, môn chủ Vô Vi Đạo Môn của Tiên tộc.

Lão giám trường nói với Vân Phi Đạo Nhân: "Môn chủ, xin mời xuống lôi đài, luận đao kiếm không có mắt, sinh tử hữu mệnh, ông nên dẹp nỗi bi ai. "

Vân Phi Đạo Nhân trừng mắt nhìn Sa Nguyệt Nhai đang vênh vênh ngẩng đầu đứng đó, phẫn nộ thốt ra từng lời từng chữ: "Sa Nguyệt Nhai, hãy đợi mà xem, ngươi đừng để rơi vào tay bần đạo." Tuy ông ta là người xuất gia nhưng lời thốt ra hết sức độc địa, dường như sẵn sàng ăn thịt uống máu kẻ đứng trước mặt.

Lão già giám trường râu bạc lui xuống, hô: "Người thắng là Ám môn hộ pháp Sa Nguyệt Nhai, giờ xin Sa tiên sinh lui xuống, mời hai tuyển thủ trận thứ ba thượng đài. "

Sa Nguyệt Nhai bước xuống lôi đài, hai người khác từ đám đông bước ra. Nhiều người không nén được bật lên tiếng hoan hô, hai nữ nhân này thân hình dung mạo đều khiến mọi người trầm trồ thán phục, đây chẳng còn giống như một cuộc tỷ võ mà đã trở thành tuyển lựa mỹ nhân rồi..

Ánh mắt Liễu Dật quét qua một lượt, cả hai nữ tử này y đều đã gặp qua, nữ tử tóc đỏ áo đỏ ở mé phải là cháu gái của Long thần, nàng ta vẫn mặc chiếc váy đỏ bó chặt lấy thân hình bốc lửa, tay phải thò ra sau lưng nắm chặt thanh trường kiếm dài ba xích màu đỏ hơi ngả sang hồng, nhưng thanh kiếm này không hề có sát khí mà ngược lại còn tỏa ra khí tức ấm áp dễ chịu.

Nữ tử đối diện, Liễu Dật đã gặp tại Phù Hoa Sơn Trang, vừa nhìn qua đã cảm thấy nàng ta ngập ngụa ý muốn giết chóc, thanh đoản đao màu lam phảng phất như muốn uống máu người khác. Mái tóc đen dài rũ xuống bờ vai, váy áo màu lam thanh lệ thoát tục, đôi mắt màu xanh lam như biển sâu khiến người đã nhìn thấy không thể quên được, toàn thân phát ra cảm giác băng lãnh như khối băng vạn kiếp không tan trên đỉnh Thiên Sơn.

Liền đó, chỉ nghe thấy tiếng lão già giám trường dùng hết sức lực gào lên: "Tham gia thi đấu lần này là Long Mục Nhã của Long tộc cùng... cùng một nữ tử tự xưng là Lam Nhận, không rõ môn phái, lai lịch. Giờ ta tuyên bố, trận thứ ba bắt đầu. "

Cùng lúc với tiếng hô tận lực của lão già, Lam Nhận lập tức di động, quay người rút hai lưỡi đoản đao bắt chéo nhau, vung tay phóng đao bay tới. Mọi người kinh ngạc ồ lên một tiếng, không ngờ tốc độ của mỹ nhân mắt xanh này lại nhanh đến vậy, lão già vừa dứt tiếng hô thì đoản đao đã bay ra rồi.

Đoản đao mang theo một vầng hào quang lam sắc chói mắt, nhanh nhẹn xoay tròn chuyển thành thế chém vào cổ Long Mục Nhã, xuất thủ cực kỳ tàn độc khiến mọi người đều thấy trong lòng lạnh buốt, chớp mắt thanh đoản đao xoay tròn đã cách Mục Nhã chừng ba xích. Nàng liền chuyển thân, ngửa mạnh về phía sau, vòng eo mềm dẻo uốn thành nửa vòng tròn, thanh đoản đao bay vù qua ngay sát phía trên.

Mục Nhã đứng thẳng lại, hữu thủ vung thanh kiếm màu hồng quét từ dưới lên, chớp mắt một đạo kiếm khí xạ ra, bắn thẳng tới Lam Nhận, tuy vậy, Lam Nhận không tỏ ra bối rối, tay trái nắm lấy cổ tay phải, vung mạnh lên quá đỉnh đầu tạo thành thế chém xả xuống, quát lên một tiếng trong trẻo: "Thiên Chi Đao. "

Cùng lúc đó, mây đen ùn ùn kéo tới, bầu trời đang quang đãng chớp mắt đã biến thành u ám. Liễu Dật và Lang Vương đều kinh hoảng, đó chẳng phải là Ma khí hay sao? Trong tam giới trước giờ chỉ mình Liễu Dật có thể triệu được Ma khí, tại sao nữ nhân mắt xanh lại có khả năng này, nàng ta là ai? Mức tu vi của nàng ta xem ra chẳng kém gì môn chủ của một phái. Lần luận võ này không hề đơn giản chút nào, trong tam giới lục đạo ẩn tàng vô số cao thủ, đến kỳ luận võ mới nhất nhất hiện thân. Đương nhiên, Lãnh Kiếm mất tích đã lâu, tựa hồ ông ta đã trở thành một người trong truyền thuyết rồi.

Mọi việc diễn ra quá danh, khiến người bên ngoài không kịp nghĩ ngợi gì nhiều, chỉ trong chớp mắt, hoặc còn nhanh hơn, từ tay của Lam Nhận bất ngờ xuất ra một đạo bạch quang mãnh liệt sáng rực. Cùng lúc thủ chưởng của nàng chém xuống, luồng đao quang khổng lồ hình thành từ tay của nàng chém thẳng vào đỉnh đầu Mục Nhã...

Rầm một tiếng, luồng đao quang khổng lồ theo tay Lam Nhận chém xuống, đá vỡ bắn tung tóe, khói bụi mù trời, đạo kiếm khí do Mục Nhã phát ra không còn tăm tích gì, sớm đã bị luồng đao quang khổng lồ nuốt trọn. Long Mục Nhã chỉ còn biết lăn tròn trên mặt đất, thanh đao khổng lồ chém sượt qua đỉnh đầu nàng.

Đột nhiên một giọng già nua vang lên: "Tiểu Nhã, cẩn thận."

Mục Nhã không có cả thời gian để xoay người, nghe sau lưng vang lên gió rít thì biết ngay hai lưỡi đoản đao lúc trước đã vòng trở lại. Không còn cách nào, nàng đành hoàn toàn bằng vào trực giác lăn tròn trên mặt đất, may mà tránh khỏi hai thanh đoản đao đó.

Vào lúc nàng thầm vui mừng, chuẩn bị đứng dậy thì cảnh tượng trước mắt khiến nàng tiêu tan đi hi vọng sinh tồn.

Thì ra hai lưỡi đoản đao vừa bay về đến tay nữ tử thần bí lại chuẩn bị tiếp tục phóng ra, nữ tử tay trái giơ thanh đao lên cao quá đầu, tay phải cầm đao chắn ngang người, thân hình mảnh dẻ đứng thẳng lên, lại cất giọng trong trẻo hô vang: "Phách Chi Đao". Mây đen trên không trung càng lúc càng dày đặc, hai lưỡi đao trong tay nữ nhân mắt lam tỏa ra bạch quan chói mắt, cũng lúc đó, nàng vung tay một cái, chớp mắt hai lưỡi đoản đao trên tay đột nhiên phình to vô cùng, đến mức che khuất cả thân thể của nàng ta.

Hai đạo đao quang sắc bén khổng lồ tạo thành hình chữ thập chém xuống thân thể Mục Nhã, tựa hồ thần chết đang đến gần...

- oOo -

Hồi 99: Vĩnh hằng chi thành, Bi Mộng kiếm dục triển phong mang

(Vĩnh Hằng chi thành, Bi Mộng kiếm hiển lộ thần oai)

Cùng lúc, một tiếng kêu vọng đến: “Tiểu Nhã”. Tiếng gọi già nua vô lực, trong đó pha lẫn niềm tuyệt vọng. Đó chính là Long Thần, lão thấy cháu gái sắp vong mạng dưới luồng đao quang, không kìm nổi cất tiếng la thảm.

Liễu Dật lắng nghe tiếng kêu thảm này, không ngờ lại gợi lên nỗi đau trong lòng, tiếng gọi tuyệt vọng khiến Liễu Dật nhớ lại nỗi thống khổ sống không bằng chết khi mất đi người thân mười năm trước, cảnh tượng ngày ấy lại hiện ra trước mắt y: thi thể chất thành núi, máu tươi chảy thành sông, nỗi thống khổ mà đời này kiếp này y không cách nào quên được.

Ngước mắt hướng lên đài, trong lúc Liễu Dật nhớ lại chuyện cũ, hồi ức chỉ thoáng qua một giây mà hai đạo đao quang chỉ còn cách người Mục Nhã ba tấc. Mọi người có mặt đều nhắm mắt lại, nếu như hai thanh đại đao chém xuống thì khẳng định mỹ nhân trước mắt sẽ bị phân thây làm bốn mảnh.

Trong giây phút thập tử nhất sinh đó, một luồng ánh sáng xanh lục lóe lên, đó cũng không hẳn là luồng ánh sáng, vì tốc độ còn nhanh hơn cả ánh sáng nữa. Chúng nhân trố mắt nhìn, chỉ thấy luồng ánh sáng xanh lục bay thẳng đến trước mặt Lam Nhận, rồi nghe thấy tiếng binh khí va vào nhau choang một tiếng. Thoáng chốc, hai luồng đao quang khổng lồ biến mất, mây đen trên trời tan đi, hai lưỡi đoản đao bị chấn bay lên trời, rớt xuống mặt đất bên ngoài trường đấu, lấp loáng tinh quang.

Lúc ấy dưới đài xuất hiện một nam tử thần bí, tóc trắng bay phất phơ, áo ngoài đen tuyền, đeo găng tay đen, tả thủ nắm lấy thanh trường kiếm bên hông, trên mặt mang mặt nạ màu bạc không rõ mặt, chỉ lộ ra ánh mắt tràn ngập bi thương. Nam tử thần bí lạnh lùng thốt: “Đủ rồi!”, âm thanh rất kiên định trầm ổn, khiến người khác không dám phản kháng.

Nữ tử xinh đẹp mắt xanh liếc nhìn Liễu Dật đoạn cất giọng ngọng nghịu nhưng cực kỳ lạnh lùng: “Một kiếm vừa rồi, là ngươi đánh ra?” Qua giọng nói, có thể khẳng định nàng ta không phải là người Trung Nguyên, chỉ nói một câu ngắn thôi mà nàng phải ấp a ấp úng một hồi lâu.

Liễu Dật bình tĩnh đáp: “Đúng vậy!”

Hai chữ cực kỳ đơn giản, chẳng nói lên điều gì, nhưng lại làm cho mọi người tại đó giật mình kinh sợ, nhất là những kẻ đã kịp chứng kiến luồng ánh sáng lục đánh bại nữ tử mắt xanh. Y là ai? Khi nãy không ai chính mắt nhìn thấy y ra tay xuất thủ, nhưng y quả thật đã đánh ra một kiếm đánh bật đoản đao của nữ tử mắt xanh.

Kinh ngạc hơn cả chính là bọn môn chủ, trưởng lão, hộ pháp của hai bên chính đạo, ma đạo. Bọn họ tự thấy bản thân cũng không chắc tránh được song đao của nữ tử thần bí, đương nhiên bằng vào tu vi của họ có thể nhìn ra được Liễu Dật đã xuất kiếm, chỉ là bọn họ không dám tin, cũng không muốn tin trong tam giới lại có chiêu kiếm nhanh như vậy, có thể là nói chiêu kiếm nhanh nhất trước khi Lãnh Kiếm xuất hiện.

Tuy nhiên, nữ tử mắt xanh lại bình tĩnh vô cùng, hữu thủ duỗi ra, hai lưỡi đoản đao từ bên ngoài bay ngược trở vào, lại hạ xuống tay nàng ta. Nhìn Liễu Dật, nàng ta một lần nữa dùng giọng nói ngọng nghịu thốt lên: “Hay lắm, xem ra lần này không uổng công.” Nói đoạn xoay người bước xuống lôi đài, mọi người vội tránh ra nhường đường, ai ai cũng khiếp sợ đao của nàng ta cả. Nữ tử mắt xanh Lam Nhận bước đến góc đài, ngồi xuống, chuẩn bị quan thưởng trận đấu tiếp theo.

Lão già trọng tài đứng ngây ra một hồi, rồi lớn tiếng hô: “Ta tuyên bố, người thắng lần này là Lam Nhận cô nương.”

Lúc đó, Long thần đã chạy tới bên Mục Nhã, đỡ nàng dậy, tỉ mỉ ngắm nhìn đứa tôn nữ bảo bối, thật không dám tin rằng tôn nữ của mình vẫn còn sống, một già một trẻ nhìn Liễu Dật với vẻ cảm kích. Hai người không nhìn thấu biểu tình của Liễu Dật, chỉ thấy y nhè nhẹ gật đầu, tựa hồ đã tiếp nhận lời cảm ơn của bọn họ.

Đến lúc này, Tam giới luận võ đã xuất hiện hai người thần bí thu hút chú ý của cả nhân gian chính đạo cùng ám chi ma đạo, hai phe đều cấp tốc nghe ngóng thân phận của hai người.

Chuyện kinh ngạc nối tiếp nhau nhưng luận võ vẫn phải tiếp diễn, lão già râu tóc bạc phơ lại hô lên: “Bây giờ tiến hành trận thứ tư, Phong Thần của Tiên tộc đấu với… thành chủ Vĩnh Hằng Chi Thành”, nói dứt câu, tự mình cũng không khỏi kinh ngạc. Giang hồ đồn đại rằng phía trên băng phong Thiên sơn có một môn phái mới quật khởi, tự xưng là Ma giới Vĩnh Hằng Chi Thành. Liệu nam nhân thần bí trước mắt có phải thành chủ của Vĩnh Hằng Chi Thành hay không? Không ngờ là y lại xuất hiện tại đây.

Nếu như nỗi kinh ngạc lúc nãy chỉ là cơn gió thoảng qua thì nỗi kinh ngạc hiện thời chính là trận gió lốc. Cả chính đạo lẫn ma đạo có mặt đều cân nhắc tình hình, phe chính đạo sợ Vĩnh Hằng Chi Thành cùng Ma tộc kết minh, như vậy lực lượng phe này sẽ gia tăng đáng kể, nhưng người Ma tộc cũng có suy nghĩ riêng, có vẻ như không chịu nhận người đang đứng trước mắt là kẻ đồng tộc.

Liễu Dật vừa dợm bước lên lôi đài, Lang Vương vội bước tới nói: “Ma chủ, nhất định phải thắng trận này, giờ là thời cơ tốt nhất để chúng ta áp đạo chính ma lưỡng đạo, nếu không họ sẽ liên miên đến nhũng nhiễu chúng ta.”

Liễu Dật khẽ gật đầu: “Được rồi, lão sư yên tâm.”

Liễu Dật chậm rãi bước lên lôi đài, tà áo đen nhẹ nhàng lay động, không vướng chút bụi trần, lại càng tăng thêm vẻ thần bí trước mặt mọi người.

Mọi người đều lo sợ thay cho Phong Thần, theo tốc độ xuất kiếm khi nãy của Liễu Dật mà nói, gã chẳng có cơ hội nào thắng được. Tuy vậy, ai nấy đều hồi hộp chờ đợi trận đấu bắt đầu để xem thực lực của thành chủ môn phái thần bí kia như thế nào.

Hai người đứng đối diện nhau, tay trái Liễu Dật để hờ trên Bi Mộng kiếm, y cảm thấy trước cuộc chiến Bi Mộng kiếm linh hoạt hẳn lên, một cảm giác bi thương từ thân kiếm truyền vào thân thể Liễu Dật, sau đó chuyển hóa thành lực lượng thần bí.

Phong Thần vốn là một kẻ rất lãnh tĩnh, gã nghĩ dù khó mà thắng được nhưng thoái lui hoàn toàn không thành vấn đề, chỉ cần rơi xuống lôi đài là coi như mình đã nhận bại, lúc đó đối phương không thể nhắm vào mình mà xuất thủ nữa. Chủ ý đã định, Phong Thần tựa hồ đã tự tin hơn một chút.

Liễu Dật quan sát Phong Thần trước mắt, gã vẫn giữ bộ dạng già lão như cũ, không già thêm chút nào, xem chừng so với mười năm trước, tu vi của gã cũng đã cao hơn nhiều.

Lão già trọng tài bước đến bên hai người nói: “Hiện tại bắt đầu trận thứ tư.” Vừa nói dứt lời, đã lui nhanh về phía sau, như sợ bị hai người đánh trúng bộ xương già của lão.

Hai người chằm chằm nhìn nhau, chưa vội xuất thủ, Phong Thần trịnh trọng thi lễ rồi nói: “Mong thành chủ đại nhân hạ thủ lưu tình.”

Liễu Dật một mực im lặng không đáp lời, tay phải gác ra sau lưng, với tu vi của y, ai cũng biết đó chính là góc độ xuất kiếm nhanh nhất, tay phải y phảng phất sát cơ khiến người ta cảm thấy bị dồn vào đường cùng.

Liễu Dật lúc này mới nhẹ nhàng thốt: “Ra tay đi, ta không định giết ngươi đâu.” Giọng nói đầy vẻ khinh thường và miệt thị. Phong Thần tuy trầm tĩnh đến vậy cũng phải nổi giận, rõ ràng là y định sỉ nhục mình mà? Chẳng khác nào nói gã chẳng có cơ hội nào thắng cả.

Trường đấu đột nhiên im phăng phắc, người xem cũng yên lặng, tưởng như có thể nghe được cả tiếng gió thổi, ai cũng mở to mắt cố ý xem xem chủ nhân của Vĩnh Hằng chi thành có bản lĩnh gì. Khi nãy đã lỡ mất cơ hội xem y xuất kiếm nên giờ không ai dám chớp mắt, sợ bỏ phí trò vui này.

- oOo -

Hồi 100: Trần ai lạc định, kiếm tại thủ thùy dữ tranh phong

(Bụi trần rơi rớt, kiếm trong tay vì ai mà tuốt)

Tịch mịch sẽ khiến người ta bức bối, người dùng kiếm nếu tu vi không cao cũng có thể bị dồn ép đến phát điên. Cuối cùng, Phong Thần không chịu nổi áp bức nên phải hành động, tả thủ vung lên xuất ra một đạo phù màu vàng hướng thẳng lên thinh không, phát ra âm thanh vang dội, chấn động đất trời, mây đen tụ lại, tiếng sấm ì ùng.

Lang Vương đứng dưới lôi đài, nhìn cảnh tượng trên thiên không, kinh ngạc thốt lên: "Thiên Lôi Chú." Vốn dĩ Thiên Lôi Chú không cần có linh phù cũng tế khởi được, giờ Phong Thần lại dùng linh phù triệu hoán thiên lôi, xem ra Thiên Lôi Chú này không hề tầm thường.

Phong Thần bất ngờ tuốt kiếm, đưa lên quá đỉnh đầu, chớp mắt thanh trường kiếm xuất ra hào quang trắng toát. Mọi người, kể cả chưởng môn các môn phái, đều kinh ngạc. Thiên Lôi Chú chỉ lấy thiên lôi làm yếu tố bổ trợ để trong thời gian ngắn nhất khiến sức mạnh bản thân thành "Hóa Lôi Chú", chỉ có những nhân vật cỡ trưởng lão trở lên mới tu luyện nổi cảnh giới này, không ngờ Phong Thần lại luyện được, trường luận võ này quả có chỗ đáng xem.

Sự đáng sợ của Hóa Lôi Chú vượt xa Thiên Lôi Chú. Thiên Lôi Chú chỉ triệu hoán sấm sét xuống công kích đối phương còn Hóa Lôi Chú có thể triệu hoán thiên lôi nương nhờ vào thân thể, sau đó cường hóa thân thể mà thi triển kiếm thức mạnh mẽ hơn nhiều, xét riêng về mặt võ công cũng có oai lực vượt hẳn Thiên Lôi Chú.

Giông gió nổi lên, sấm nổ vang trời, thoáng chốc một đạo sấm sét trắng xóa dữ dội hạ xuống thanh kiếm của Phong Thần. Thanh trường kiếm lập lòe quang huy rồi nhanh chóng bao phủ toàn thân y, đồng thời Phong Thần động thủ, vung mạnh thanh trường kiếm, kiếm khí cự đại vô bỉ mang theo tử sắc điện hoa tạo thành hình mũi dùi khoan thẳng tới Liễu Dật, phát ra âm thanh "vo vo" trên không trung ...

Chắc chắn, người bình thường không thể tiếp nổi đạo kiếm khí này. Liễu Dật lúc đó dường như không hề có phản ứng, chỉ lặng thinh nhìn đạo kiếm khí sắp xạ vào tâm tạng mình, những người không biết tưởng y bị áp chế đến mức quên cả xuất chiêu ứng phó.

Mãi đến khi đạo kiếm khí mang theo uy thế của phong lôi còn cách người Liễu Dật chừng ba xích, y mới hành động, dùng Lan Nhĩ Phi Na Thanh Tâm Pháp tầng thứ mười hai thôi động chữ "Tật" trong Ẩn Toàn Cửu Ảnh, ảo hóa thành chín chiếc bóng, thân hình y cúi thấp xuống, bụi đất tung bay, chín chiếc bóng nương theo gió lướt đi...

Chín chiếc bóng từ từ hợp lại thành một, thân ảnh màu đen của Liễu Dật xuất hiện sau lưng Phong Thần, âm thanh loảng xoảng vang lên, chính là tiếng tra kiếm vào bao. Liễu Dật từ từ đứng dậy, tả thủ vẫn nắm chặt Bi Mộng kiếm, hữu thủ buông thõng sau lưng, hết sức nhàn nhã bước xuống lôi đài.

Mọi người không hiểu ất giáp chi cả, họ chỉ nhìn thấy Phong Thần có sấm sét hỗ trợ phát ra uy lực tột độ của kiếm khí rồi chín chiếc bóng lóe lên, một nam nhân thần bí xuất hiện sau lưng Phong Thần và từ từ tra kiếm vào bao, sau đó y từ trong gió chầm chậm bước xuống lôi đài, y đã làm gì? Bước xuống lôi đài đồng nghĩa với bỏ quyền thi đấu, y không sợ thua sao? Phong Thần vẫn đứng trên lôi đài, hoàn toàn bất động, mọi người đều ngừng thở, không rõ vừa rồi trong trường đã xảy ra chuyện gì?

Liễu Dật vừa đi vừa nói: "Ngươi nên cảm thấy vinh hạnh đã khiến ta phải xuất kiếm." Trong lời nói ngập đầy ý cuồng ngạo, tự đại, thanh âm không lớn nhưng truyền tới tai mỗi người đều rất rõ ràng.

Sau khi hắc y bạch phát nam tử thần bí rời khỏi lôi đài một khắc, tất cả lại bị cảnh tượng diễn ra trước mắt làm cho ngây ngẩn. Tử sắc hồ quang trên vai Phong Thần tắt đi thì một tiếng kêu thảm thiết, kinh tâm động phách vang lên, từ bắp tay lên vai tả Phong Thần bị chém rụng, cánh tay rơi trên mặt đất còn động đậy khiến mọi người hoảng sợ. Phong Thần ôm lấy cánh tay tả, lăn lộn trên mặt đất, kêu gào đau đớn.

Toàn thể đều kinh tâm, quả thật y không giết chết Phong Thần nhưng lại biến y thành một phế nhân, sống không bằng chết, như thế thật tàn khốc, lạnh lùng làm sao!

Ai cũng thấy kinh hoàng xen lẫn hào hứng, một kiếm này quả thật cực nhanh, đến mức hơn cả thời gian ngừng lại của một tia sáng vút qua vì vậy mà Phong Thần không có cảm giác gì, sau giờ nghỉ nhát kiếm khi nãy lại có cơ hội tái hiện.

Liễu Dật rời khỏi lôi đài, đột nhiên từ phía sau vọng đến tiếng gọi: "Kiếm của các hạ là quả nhanh, Thần môn Dương Vân Phong xin chờ tứ giáo". Âm thanh vang lên rồi ngừng, hiển nhiên người nói còn bận giúp Phong Thần liệu thương. Liễu Dật không quay đầu lại, cứ thế bước xuống lôi đài, đi nhanh ra phía ngoài trường đấu, Lang Vương cùng Kỳ, Lân nối gót theo sau.

Nhìn theo thần bí nhân rời đấu trường, trong lòng ai cũng buông tiếng thở dài, trên đời này quả nhiên có loại khoái kiếm như vậy, đã đạt đến mức thiên nhân chi cảnh, có thể tranh phong với thần linh.

Thân ảnh đang dần dần xa khuất kia phảng phất như đang trở thành truyền thuyết, hoặc có lẽ sẽ trở thành một kẻ giang hồ.

Đã đến lúc tuyên bố kết quả, thanh âm rổn rảng vang lên: "Người thắng trận thứ tư là thành chủ Vĩnh Hằng Chi Thành".

Sau đó, lão giám trường lại lớn tiếng hô: "Mời người dự trận thứ năm nhập trường".

Thiếu nữ Lam Nhận ngồi trong một góc cũng đứng dậy đi ra ngoài, vừa đi vừa tự nhủ: "Hảo khoái kiếm, y là ai? Không biết so với đao của ca ca thì ai nhanh hơn?" Thiếu nữ mắt lam này cũng biến mất một cách thần bí khỏi đám đông.

Liễu Dật cùng Lang Vương, Kỳ, Lân quay về khách sạn, đặt một gian phòng trang nhã ở lầu hai, gọi rượu và thức nhắm đoạn bắt đầu đàm luận.

Liễu Dật cởi khăn, uống một ngụm rượu: "Lão sư, ông thấy nữ tử tự xưng là Lam Nhận như thế nào?"

Lang Vương gắp một gắp rau, đáp: "Thần lang thang ở trong tam giới đã hơn ngàn năm, thông thuộc đao pháp mỗi phái, mỗi nhà, nhưng chưa từng thấy qua đao pháp nữ tử này sử dụng, đáng sợ hơn là nàng ta có thể triệu hoán ma khí, qua đó có thể thấy Ma chủ không phải là người duy nhất trên đời có cuồng bạo chi huyết."

Liễu Dật gật đầu: "Ta cũng đã quan sát, phát hiện thấy ma khí của nàng ta không mạnh, đao pháp tuy mãnh liệt nhưng chỉ cần xuất kiếm với tốc độ đủ nhanh thì có thể phá giải được."

Lang Vương uống một ngụm rượu, nói: "Người khiến lòng thần lo lắng không phải là nàng ta, đao của nàng mãnh liệt nhưng so với kiếm của Ma chủ còn thua xa... Người thần lo chính là người đứng đằng sau nàng ta, nếu thần đoán không nhầm thì tu vi của người đó còn cao hơn nhiều".

Liễu Dật ngừng uống rượu, hỏi: "Ý lão sư muốn nói là... sau lưng nàng ta có khả năng là một người hoặc một tổ chức, môn phái nào đó thần bí hơn?"

Lang Vương gật đầu: "Chính vậy, đao pháp của nàng ta không phải tự sáng tạo, vậy thì ai truyền cho? Là gia tộc? Hay lão sư? Thần thấy nàng ta còn trẻ mà đã có tu vi như vậy, ắt cao nhân sau lưng phải siêu việt, không thể coi thường."

Liễu Dật đồng ý: "Lão sư nói rất hữu lý, mục tiêu chủ yếu của chúng ta hiện này là Ma tộc, tốt nhất là không nên chọc giận nữ tử này và Nhân gian chính đạo, trước hết cứ từ từ trừ khử người của Ma tộc đã."

Lang Vương đáp: "Ma chủ tính toán chu toàn, chúng ta thật sự phải từ từ, không thể vội vàng, tránh nhất thất túc thành thiên cổ hận”.

Liễu Dật cười: "Lão sư đừng lo, Liễu Dật lúc nào cũng cẩn thận, để báo phục ta biết áp chế xung động, được vậy ta còn có khoái lạc đùa với thần vận mệnh một phen..."

- oOo -

Hồi 101: Vãng sự tùy phong, gia đích hạnh phúc thị ôn noãn

(Chuyện xưa theo gió, hạnh phúc gia đình luôn ấm áp)

Thời giờ đằng đẵng, đêm dài thao thức, y vẫn ôm nỗi cô độc, ai có thể hiểu được nỗi bi thương trong lòng thành chủ Vĩnh Hằng Chi Thành, chủ nhân Ma giới đây? Chính vì y cao cao tại thượng, lại không thể hiểu thấu được, cho nên bằng hữu thân thiết chẳng có một ai.

Chuyện xưa trong ký ức lại hiện về, mười năm nhẹ trôi, bằng hữu của thư sinh vô dụng thuở xưa, những Đại Đao Vương, Thập Kiệt Nhất, A Cửu, Thủy Nhi, họ giờ ra sao?

Liễu Dật lấy ra giải khăn hồi mười năm trước Cát Lợi Nhi lau mồ hôi cho y trên đỉnh Nguyệt Thương Sơn, nhìn đôi uyên ương đẹp đẽ thêu trên khăn, nhè nhẹ ngửi mùi hương còn vương đọng, y như thấy được gương mặt nàng. Chầm chậm nhắm mắt lại, y khẽ than: "Vật vẫn còn đây mà người đã đi rồi, ngửi mùi hương lại nhớ nụ cười của nàng, chuyện cũ đã bay mất như ảo mộng."

Cũng lúc đó, một giọng nói lạnh lùng truyền lại: "Kẻ đáng thương chung quy vẫn là kẻ đáng thương. Bất quá nàng ấy cũng chẳng sung sướng gì, ngươi của ngày hôm nay không phải do nàng gây ra, mà do phải chịu trừng phạt ba kiếp luân hồi không thể cùng với người mình yêu thương; điều đó không thể cải biến được."

Liễu Dật đang suy nghĩ đến xuất thần, tự nhiên không phát hiện được có người đến sau lưng.

Y cất vuông khăn đi, quay lại: "Là cô?"

Lam Nhận gật đầu: "Là ta, ta biết mọi chuyện về ngươi, kể cả luân hồi túc mệnh của Thiên nữ từ bảy ngàn năm trước."

Liễu Dật nhìn nàng: đôi mắt màu lam thẫm như biển sâu, mái tóc đen nhánh gợn sóng rũ xuống vai, thân hình gần như hoàn mỹ khiến người ta không thể tưởng tượng được vì sao lưỡi đao của lại nàng băng lãnh đến thế.

Liễu Dật kinh ngạc, trong trí nhớ còn ghi lại những ấn tượng về Thần giới của y tuyệt chẳng có người nào như vậy. Ma giới lại càng không, vô luận y cố gắng vắt óc suy nghĩ thế nào thì người con gái trước mắt vẫn là một bí ẩn.

Liễu Dật hỏi: "Cô rốt cuộc là ai?"

Ngữ khí của Lam Nhận biến đổi, trở thành bình tĩnh, đáp: "Ta à? Ta chỉ là một người rất quan tâm đến ngươi, vô cùng mong muốn ngươi có thể thay đổi vận mệnh. Ta không phải Thần, không phải Ma, không phải người, không thuộc về Tam giới lục đạo, mà chỉ là một kẻ lưu lãng bỗng một ngày phát hiện ra câu chuyện của ngươi, nên bước chân đến thế giới này."

Lời nàng nói làm suy nghĩ của Liễu Dật rối loạn. Nàng ta không phải là người trong tam giới lục đạo, không phải Thần, Ma. Lẽ nào nàng ta đến từ một thế giới khác, lại bảo rằng đến đây vì câu chuyện của y.

Y đưa mắt nhìn nàng rồi lạnh lùng đáp: "Ta không cần ai quan tâm, ta có con đường riêng của mình, nhất định sẽ thay đổi vận mệnh vốn phải luân hồi ba đời ba kiếp."

Lam Nhận không tỏ vẻ gì, chỉ nhìn y cười nói: "Ngươi chắc không tưởng được muội muội của Cát Lợi Nhi là Thiên Kiêu lại đến thế giới này. Ngươi không dám nhìn nàng vì sợ sẽ khơi lên nỗi đau trong tim, ngươi không phải là một kẻ si tình mà vô tình, luôn cự tuyệt từ xa tấm lòng của Thất Nguyệt, vĩnh viễn không chịu tiếp thụ. Trong khi đó, với một người đã chết thì thương nhớ mỗi ngày, ngươi thật là…"

Trong mắt Liễu Dật bừng lên sắc giận, nói lớn: "Đủ rồi, cô không có tư cách giáo huấn ta, tình ái của ta không cần kẻ khác bàn ra tán vào. Cô quả thật thần bí, nhưng cô nên biết nếu chọc giận ta thì không cần biết sau lưng cô có thế lực nào chống đỡ, có quan hệ gì, hay cô là ai, ta cũng sẽ khiến cô vong mạng. Ta không quan tâm cô biết được những gì, nhưng đó cũng chỉ là bề ngoài mà thôi. Chuyện trong lòng mỗi người, cô sao có thể nhìn ra được." Y quay người, ngẩng đầu nhìn vầng trăng khuyết lơ lửng trên trời rồi lại chìm sâu vào nỗi thống khổ.

Lam Nhận tịnh không phát nộ, ngược lại còn bật cười: "Ha ha, câu chuyện này không ngờ lại phát triển chậm như vậy, nên nhớ rằng, ta - Lam Nhận, rất quan tâm đến ngươi, cả tương lai của người nữa."

Dứt lời, nàng mang theo tiếng cười lẫn mất vào bóng đêm.

Liễu Dật thực sự bị nữ tử này chấn nhiếp, chính y không rõ lắm câu chuyện luân hồi của mình mà vị cô nương mắt lam này lại có thể nói ra một cách rõ ràng dị thường; thân phận thần bí của nàng tạo thành nỗi mơ hồ trong lòng y.

Cùng lúc đó, Liễu Dật nghe thấy một giọng nói: "Thập Nhất à, bao nhiêu năm rồi mới gặp huynh, chắc mấy năm này bị A Cửu giữ chân nên không thấy huynh ra khỏi cửa."

Tiếng một nữ tử vọng đến: "Huynh nói gì? Tôi đâu có quản lý gì huynh ấy, là huynh ấy không muốn ra khỏi cửa đấy chứ."

Tiếng một người khác thở dài: "Từ lúc đại ca qua đời, ta không có tâm tình nào, còn muốn đi đâu nữa? Cứ sống một cách phẳng lặng đến già thật ra cũng không có gì là không ổn."

Một giọng khác vang lên: "À, đúng vậy, đúng là không có tâm tình, những năm tháng phiêu bạt giang hồ khi xưa đã qua rồi, chỉ còn là hoài niệm, chúng ta còn trẻ trung gì nữa, thôi thì hãy vì gia thất mà nâng niu hạnh phúc."

Nghe thấy giọng nói đó, Liễu Dật không nén nổi, vội tế khởi Bi Mộng kiếm bay đến một tòa viện.

Dưới ánh đèn, vây quanh một chiếc bàn có bốn người ngồi, chính là A Cửu, Thập Kiệt Nhất, Thủy Nhi và Đại Đao Vương.

Thủy Nhi lên tiếng: "Huynh còn nói cái gì nâng niu hạnh phúc, ở nhà còn có hai đứa nhỏ cần trông nom đó."

Bốn người vang lên tiếng cười vui vẻ, Liễu Dật cũng cười, dù có đeo khăn che nhưng tiếng cười cất lên trong lòng y. Thấy bằng hữu đều hạnh phúc, y mỉm cười, đây là lần thứ nhất y thấy vui, vui vì bằng hữu, những người từng cùng y trải qua sinh tử hồi mười năm trước.

Y biết mình không thể gặp bọn họ bởi e ngại sẽ làm đảo lộn hạnh phúc và cuộc sống yên bình của bọn họ. Nếu bốn người cho rằng y thực sự đã chết thì cứ để y vĩnh viễn chết đi, có lẽ y chỉ nên lặng lẽ ngắm nhìn hạnh phúc của bằng hữu…

Liền đó Đại Đao Vương tiếp lời: "Thập Nhất, sao huynh không tham gia lần luận võ này, với công phu của huynh chí ít cũng có thể vào được vòng mười sáu người."

Thập Kiệt Nhất tựa hồ đã trưởng thành lên nhiều, ăn mấy hạt lạc rồi nói: "Luận võ gì đó thì có ý nghĩa gì? Chúng đâu còn niên thiếu vô tri mà để danh lợi dụ hoặc. Tôi có A Cửu bên mình đã là hạnh phúc lớn nhất đời này rồi, còn mơ mộng xa xôi, đi luận võ với tranh danh gì nữa? Lần này chỉ là đưa A Cửu đi xem náo nhiệt thôi."

A Cửu không lên tiếng, nhẹ nhàng ôm lấy Thập Kiệt Nhất, cảm nhận lồng ngực vạm vỡ, thân thể ấm áp của chồng.

Thập Kiệt Nhất hỏi: "Đại Đao Vương, huynh cũng không tham gia à?"

Đại Đao Vương mỉm cười, nhìn Thủy Nhi ngồi bên cạnh, nói: "Ha ha, lý do của tôi và huynh giống nhau. Tôi cũng là người hạnh phúc nhất trên đời, có ái thê, có hài tử, có cả gia đình êm ấm của mình, tôi còn thiếu gì nữa? Còn thành thiên hạ đệ nhất, đừng nói tôi không có thực lực, dù có bảo tôi cũng không làm đâu, tôi thấy mãn nguyện rồi, không cần gì nhiều nhặn, chỉ cần hạnh phúc nồng nàn, ấm áp, thế là đủ rồi."

A Cửu nhìn vào mắt Đại Đao Vương, hỏi: "Còn Liệt Hỏa kiếm? Huynh không dùng nữa sao?"

Đại Đao Vương ôm lấy Thủy Nhi: "Dùng kiếm để làm gì, thái rau ư? Tôi có dao thái rồi, ha ha, bảy năm trước gặp được Lý Lăng tôi đã cho huynh ấy thanh kiếm, có lẽ giờ huynh ấy đang đi tìm hạnh phúc cho mình. Còn tôi, không còn cần đến đại đao, thần kiếm, mà chỉ cần một ngôi nhà ấm cúng. Tôi đến lần này để xem náo nhiệt chứ không hợp với chốn giang hồ, ở đó không có việc của tôi, tôi là người bình phàm nên cũng chỉ cần cuộc sống bình phàm, có được người yêu thương, thế là đủ."

Thập Kiệt Nhất gật đầu: "Đúng vậy, bốn người chúng ta sống ở chốn Nhân gian này, tôi hy vọng đại ca cùng Cát Lợi Nhi ở thế giới bên kia cũng được hạnh phúc, sinh được hài tử, có một gia đình êm ấm, chốn giang hồ này không có việc gì của chúng ta nhưng trong giang hồ nhất định có chuyện của đại ca, chuyện của đại ca và Cát Lợi Nhi…"

- oOo -

Hồi 102: Vãng sự tùy phong, gia đích hạnh phúc thị ôn noãn

(Vãng sự tùy phong, gia đích hạnh phúc thị ôn noãn)

“Huynh hiện cư ngụ ở đâu?" Đại Đao Vương hỏi Thập Kiệt Nhất.

Thập Kiệt Nhất uống một hớp rượu rồi trả lời: "Chúng tôi dựng mấy gian nhà cỏ trong Hoa

Hải sau Liên Hoa trấn. Nơi đó cũng không tệ, ít nhất mỗi ngày đều được nhìn thấy đại ca."

Đại Đao Vương gật đầu: "Hay đấy. Tôi và Thủy Nhi cũng định đến đó sống, không hiểu phòng ốc có đủ không, hì hì."

Thập Kiệt Nhất cười đáp: "Đương nhiên là đủ. Lý nào mỗi chỗ cái che mưa che nắng mà không đủ. Thập Kiệt Nhất cái gì cũng không có, chỉ có mỗi sức khỏe."

A Cửu mỉm cười nhìn: "Xem huynh kìa, lại huênh hoang nữa rồi. Bất quá bốn người chúng ta cùng ở Hoa Hải cũng hay lắm. Phong cảnh đẹp, lại yên tĩnh, đích thực là thế ngoại đào viên."

Thủy Nhi gật đầu nói: "Phải, chúng ta cũng nên quan tâm bằng hữu, sẽ vui hơn nhiều."

Đại Đao Vương tán thành: "Quyết định vậy nhé. Mấy hôm nữa chúng ta sẽ đi."

A Cửu cao hứng thốt: "Tốt, muội thích nhất là náo nhiệt, à đúng rồi, hôm nay muội đã thấy Thất Nguyệt trên lôi đài."

Thập Kiệt Nhất nhấp một ngụm rượu: "Lại là yêu nữ Ma tộc đó, thị cứ quấn lấy đại ca mới khiến Cát Lợi Nhi bỏ đi, sau đó thành ra nông nỗi..."

Thủy Nhi lắc đầu: "Mấy người hiểu gì chứ, cô nương ấy chỉ là nữ tử, cố gắng giành hạnh phúc cho mình, vậy có gì là sai? Mấy người không thử đặt mình vào lập trường của nàng ta mà nghĩ thử xem? Đôi khi cũng thấy nàng ta quả thật đáng thương."

A Cửu gật đầu nói: "Mấy năm gần đây chúng tôi ở Hoa Hải, mỗi năm đều thấy Thất Nguyệt đến viếng thư sinh, hơn nữa mỗi lần đều khóc cả đêm trước mộ phần, muội chỉ nhìn mà lòng chua xót."

"Ồ!"

Liễu Dật không muốn nghe tiếp, quay người ngự kiếm bay về phòng riêng. Tối đó, y vẫn mơ cùng một giấc mơ, nhung nhớ một người không còn gặp lại được nữa. Giấc mộng phiêu diêu mà chân thực.

oOo

Ngày thứ hai.

Giống như mọi ngày, vầng thái dương, vị thần bảo vệ vạn vật trên mặt đất, treo cao trên không trung. Liễu Dật và Lang Vương, Kỳ, Lân cùng đến trường đấu, hôm nay đối thủ của y là trưởng lão Thần Môn, tên gọi Bạc Thương Khung. Hai người sẽ đấu trận thứ hai.

Bạc Thương Khung là nhân vật thần thoại tại Thần Môn. Tuy kiếm của Dương Vân Phong xếp thứ sáu trong tam giới nhưng Ly Tâm thương của Bạc Thương Khung lại bá đạo kiểu khác. Mười năm trước y từng nghe Thủy Nhi đề cập rằng Ly Tâm thương của Bạc Thương Khung cực kỳ lợi hại nên lúc đó cũng muốn xem thử cho biết, không ngờ nay lại được đấu với Ly Tâm thương.

Hôm nay thi đấu sớm, y ung dung cất bước trước con mắt kinh ngạc của mọi người. Họ biết nam tử tóc trắng áo đen thần bí này là Vĩnh Hằng thành chủ, người đã chém gãy cánh tay của Thần Môn Phong Thần, nhưng lần này đối thủ của y mạnh hơn nhiều, chính là Thần Môn trưởng lão Bạc Thương Khung, khẳng định sẽ có kịch hay để xem.

Trên đài, lão giám trường râu bạc vận lực hô lớn: "Các cặp đấu hôm nay bắt đầu, mời cao thủ trận thứ nhất thượng đài." Bên dưới vang lên tiếng vỗ tay rào rào.

Hai đấu thủ tiến vào lôi đài, bọn lãng tử bên dưới nhìn quên cả thở. Cặp đấu đầu tiên lại là hai nữ tử. Vừa nhìn thấy họ, Liễu Dật trong lòng máy động, không hiểu là cảm giác gì nhưng rất khó chịu. Nữ tử bên trái vận bạch y chính là Thiên Kiêu, người có dung mạo giống hệt Cát Lợi Nhi, gương mặt ấy từng xuất hiện vô số lần trong giấc mộng của y. Tuy nhiên, so với Cát Lợi Nhi, Thiên Kiêu trên kia không lộ ra chút tục khí nào, khí độ cao nhã, thanh lệ giống như người trời.

Nữ tử phía bên phải dáng người dong dỏng, thân hình thon thả, kình trang trắng muốt, cánh tay phải quấn lụa trắng và dải che cổ tay, tay trái để trần chỉ đeo một chiếc vòng màu đen, làn da bánh mật rắn rỏi lộ ra ngoài, tà áo bó che đến ngang người, bờ eo thon nhỏ, mịn màng cũng để trần. Nàng vận váy ngắn màu trắng, khoe ra cặp chân hoàn mỹ được bao bọc bằng đôi giày da bò màu đen cao tới đầu gối. Áo choàng trắng lay nhẹ theo gió, vừa khéo làm cho đôi chân tuyệt đẹp chợt ẩn, chợt hiện.

Thất Nguyệt vẫn không thay đổi gì, trang phục vẫn rực rỡ, chỉ có nhan sắc là khác trước. So với Thiên Kiêu, một người giống như Thiên nữ trên trời, người kia như tinh linh dưới mặt đất, mỗi người mỗi vẻ.

Vũ khí của Thất Nguyệt chính là Vũ Nguyệt kiếm mà Liễu Dật tặng. Từ lúc nàng thượng lôi đài đến giờ, hai viên hồng bảo thạch gắn trên thân kiếm không ngừng tỏa ra quang mang màu hồng phấn bao quanh nàng, giống như vừa hỗ trợ, vừa tăng thêm phần mỹ lệ cho nàng.

Vũ khí của Thiên Kiêu là bạch sắc tiên lăng (dây vải màu trắng), từ hai tay áo rủ xuống. Nhìn từ xa, nàng giống như tiên nữ trên trời hạ phàm, không nhiễm bụi trần tục. Liễu Dật nhìn hai nữ tử trên đài cao, không hiểu tâm tình ra sao. Không ai biết, đến cả bản thân y cũng không biết nốt. Nhìn Thiên Kiêu, y như nhớ đến Cát Lợi Nhi, người đã xa y mãi mãi, đã sang thế giới bên kia...

Lão đầu râu bạc cao giọng: "Trận đấu này là giữa tôn chủ Ma tộc Thất Nguyệt và… Thiên Kiêu cô nương." Giới thiệu xong, lão tiếp lời: "Bây giờ, ta tuyên bố, trận đấu bắt đầu!"

Lão đầu vừa tuyên bố, cả đấu trường yên ắng trở lại.

Hai nữ nhân đồng thời chuyển động…

Nhìn hai đấu thủ so tài, tâm thần Liễu Dật hơi mơ hồ, phảng phất như Thiên Kiêu biến thành Cát Lợi Nhi, người mà y ngày đêm tưởng nhớ, lời ước định năm xưa lại lại trỗi lên trong óc: "Đi đến cùng trời cuối đất, cùng ngắm trăng sao, cùng đón gió trong Hoa Hải". Dĩ vãng đã thành mây trôi khiến lòng tang thương, dẫu không thể thành sự thật nhưng lại chôn chặt trong ký ức thẳm sâu.

Y nhớ lại lúc cùng Cát Lợi Nhi lên Nguyệt Thương sơn, nhớ lại lúc suýt soa uống cạn bát canh nấm nàng nấu, nhớ những phút giây hai người hạnh phúc ở Hoa Hải, nhớ lời ước định không thể thực hiện, nàng đã thật sự biến mất khỏi Nhân gian này ư? Phía sau mớ tóc bạc sầu khổ kia, ngọn gió đùa mơn man, phải chăng chỉ thấy được hình hài cô độc?

Ngay lúc đó y được tiếng chuông ngân trong trẻo giữa đấu trường kéo về thực tại. Dây chuông này là Tình nhân linh do Thiên Kiêu mua của người ngoại tộc ở Phù Hoa sơn trang. Y nhìn vào trường đấu, không hiểu dây chuông màu tím vốn được đeo ở đâu trên thân người Thiên Kiêu mà giờ đây bị kiếm khí từ Vũ Nguyệt kiếm của Thất Nguyệt đánh bay đi.

Thiêu Kiêu tựa hồ không muốn thắng trận này, nàng bỏ qua hết mọi nỗ lực chiến đấu, quên luôn chuyện sinh tử của bản thân, không tính toán gì, vội phi thân về phía Tình nhân linh, vươn tay chộp lấy... Thất Nguyệt vung tay, tế khởi Vũ Nguyệt kiếm, chém vào Thiên Kiêu đang liều mạng lao theo dây chuông…

Mọi người cùng sửng sốt, nữ nhân này mất trí chăng? Tại sao lại bất kể mạng sống cốt chộp lấy dây chuông đó?

Có lẽ không ai hiểu, không ai lý giải nổi, trong lúc chuông ngân, Thiên Kiêu nhìn thấy hình bóng một người, áo đen tóc bạc, trong mắt mang niềm bi thương vĩnh viễn không xóa nổi, thân ảnh cô độc tột cùng. Tâm nguyện của nàng chỉ là nắm chắc thân ảnh đó, mãi mãi chẳng buông rời...

- oOo -

Hồi 103: Vô thức quy kiếm, ý dục trảm Ly Tâm thương hồn

(Vô Thức Quy kiếm chém gãy Ly Tâm thương hồn)

Có những thời khắc, trường hợp đặc biệt, con người ta có thể quên đi sinh mệnh của chính mình. Vì khi ấy, có những thứ còn quan trọng hơn sinh mệnh rất nhiều. Nhưng đó là gì? Có lẽ chỉ người trong cuộc mới trả lời được.

Khi Vũ Nguyệt kiếm từ sau lưng sắp cắm vào tâm tạng Thiên Kiêu, Liễu Dật đứng phắt dậy, vung tay lên hét: "Không…" Âm thanh chứa đựng biết bao bi thương, tuyệt vọng.

Mọi người đều kinh ngạc trước hành động của nam nhân thần bí này, hôm qua y bạt kiếm cứu người, sao hôm nay lại không làm vậy mà hét vang lên, y định làm gì? Nhất thời, tiếng kêu của y đã trở thành một câu hỏi không lời đáp.

Quái sự lại xảy ra. Hồng sắc quang mang của Vũ Nguyệt kiếm đột nhiên vụt tắt, thần kiếm nhanh chóng quay về tay Thất Nguyệt.

Thiên Kiêu bấy giờ cũng chạm tay vào dây chuông màu tím trên sàn đấu. Vẻ mặt nàng hạnh phúc, vành môi ẩn hiện nụ cười.

Mọi người thảy đều không hiểu chuyện gì xảy ra. Hôm qua nam tử thần bí này tuốt kiếm cứu người, hôm nay y hét một tiếng, đương trường lập tức lặng tiếng gươm đao, thế là thế nào?

Người ngoài cuộc vĩnh viễn mù mờ, chỉ có người trong cuộc mới hiểu.

Thất Nguyệt thu hồi Vũ Nguyệt kiếm, quay nhìn Liễu Dật, ánh mắt đầy vẻ thất vọng. Nàng không hiểu tại sao lại thu kiếm, bản thân nàng muốn hạ sát bóng hình của Cát Lợi Nhi, nhưng chỉ nghe một tiếng "không" liền ngừng ngay lại.

Thất Nguyệt phất tà áo choàng, bước xuống lôi đài rồi lẫn mất vào đám đông. Có lẽ nàng đang thống khổ cực độ.

Nhìn lên, Thiên Kiêu cũng đã thu lại dây chuông bước xuống đài. Trận đấu xem như đã kết thúc, nhưng ai là người thắng? Mặc dù ai cũng hiểu song không nói thành lời.

Lão đầu giám trường lắc đầu: "Trận này cả hai đấu thủ đều tự bỏ cuộc."

Lúc này Liễu Dật đã ngồi xuống, y không biết tại sao lại ngăn cản Thất Nguyệt, có lẽ vì con tim đã khắc sâu một bóng hình.

Lão đầu nhìn quanh đấu trường, cao giọng thốt: "Trận đấu thứ hai giữa Vĩnh Hằng thành chủ và Thần Môn trưởng lão Bạc Thương Khung tiếp tục, xin mời nhị vị thượng đài."

Liễu Dật và Bạc Thương Khung từ hai bên tiến vào trường đấu, cước bộ khinh linh. Y đưa mắt đánh giá Bạc Thương Khung, mười năm không gặp, lão vẫn vậy, vẫn khoác khôi giáp bạc, trên mũ gắn hai quả "Phượng hoàng linh". Vũ khí trong tay không phải đao, chẳng phải kiếm mà là một cây trường thương màu bạc, mũi nhọn hoắt, bốn cạnh có mấy chục móc nhọn, từ mũi thương tỏa ra bạch sắc quang mang lấp lánh.

Đó là binh khí thành danh Ly Tâm thương của lão.

Hai người cùng đình bộ, đứng cách nhau khoảng hai chục trượng. Bạc Thương Khung nhìn y chằm chằm, hoành thương nói: "Lão phu rất hân thưởng khoái kiếm của ngươi, nhưng ngươi quá tàn nhẫn. Chỉ là tỷ võ mà ngươi lại chém gãy cánh tay Phong Thần. Trận đấu này, lão phu sẽ tận lực đòi lại công đạo cho người của Thần Môn."

Mắt Liễu Dật lấp lánh hồng quang, y không có tâm tình nào mà dông dài với Bạc Thương Khung, dù mười năm trước y đã gặp lão và cũng biết Thủy Nhi là đệ tử của lão. Y khó chịu nhất kiểu người cùng phái bênh nhau, một kẻ bại lại có kẻ khác xuất đầu, nên thốt từng tiếng: "Ly Tâm thương của ngươi có thể rất đáng sợ, nhưng ta muốn ngươi rõ rằng lần này ngươi gặp một người không nên gặp, nếu không ngươi hoàn toàn có thể vào vòng trong."

Bạc Thương Khung tu vi tuy rất cao, lại từng trải qua dâu bể đời người cả trăm năm, nhưng chưa bao giờ gặp ai lạnh lùng cuồng ngạo như vậy, giận quá hóa cười: "Ha ha, hảo tiểu tử thực cuồng vọng, hôm nay lão phu muốn xem ngươi dựa vào đâu mà ngạo mạn?" Không áp chế nổi nộ hỏa trong lòng, lão động thủ.

Vung cả hai tay tế khởi Ly Tâm thương, trên không trung cây trường thương màu bạc phát ra bạch sắc quang mang cường liệt, xoay tròn thần tốc, ảo hóa thành tàn ảnh. Chỉ nghe Bạc Thương Khung quát lớn: "Phân", lập tức từ mũi Ly Tâm thương đang xoay chuyển ban đầu tách thành mười cây Ly Tâm thương, không ai phân biệt nổi chân giả. Mười cây Ly Tâm thương xoay tít, phát ra những luồng quang mang chói mắt.

Lang Vương quan sát chiêu thức Bạc Thương Khung sử dụng, bèn truyền âm cho Liễu Dật: "Ma chủ, đó là chiêu thức thành danh Ly Tâm Thương Lôi của Bạc Thương Khung. Mũi thương được làm từ chất liệu đặc biệt, khi xoay nhanh sẽ sinh ra sấm sét, khi hắn xuất Ly Tâm thương, toàn bộ Ly Tâm Thương Lôi cũng sẽ được xạ ra. Hắn nhất định sẽ thay đổi vị trí, phong tỏa mọi lối Ma chủ có thể đến gần. Thần nghĩ hắn muốn phá giải chiêu thức Ma chủ đã đánh bại Phong Thần."

Liễu Dật truyền âm hồi đáp: "Thế ra hắn đã chuẩn bị trước. Tốt, vậy ta sẽ chặt đứt thương hồn của hắn, khiến Ly Tâm thương biến thành phàm vật."

Ngước nhìn Ly Tâm Thương Lôi đang toàn lực công tới, y bắt đầu động thủ, nghiêng người theo một góc bốn mươi lăm độ, tay trái nắm chặt vỏ kiếm, tay phải mang găng đen xòe ra thành chưởng, chầm chậm lần tới cán kiếm. Tức thì, quanh y giông gió nổi lên, tay phải càng đến gần cán kiếm, cuồng phong càng mãnh liệt, như thể trong cánh tay phải ấy ẩn tàng sát cơ vô tận, có thể xuất kiếm nhanh nhất từ bất kỳ góc độ nào.

Toàn thân Liễu Dật từ từ tỏa ra lục quang, mây đen cuồn cuộn đổ về nhanh chóng che lấp ánh mặt trời, cuồng phong nổi dậy, trên thinh không phút chốc hình thành một cột xoáy mây đen khổng lồ. Tà áo da đen của y lật phật bay trong gió, mái tóc bạc rối bời, đôi mắt đỏ ngầu máu quan sát nhất cử nhất động của Bạc Thương Khung.

Liễu Dật biết lão thành danh nhờ Ly Tâm thương tự nhiên phải có chân bản lĩnh. Để đánh bại lão trong một chiêu, y khởi vận Lan Nhĩ Phi Na Thanh tâm pháp đến mức cực hạn, chuẩn bị tung ra chiêu thức ưng ý nhất trong tứ thức của Bi Mộng kiếm.

Chúng nhân đều bị trận quyết đấu kinh thiên động địa này khiến cho ngây ngẩn. Không ai dám thở mạnh, nhịp tim như chậm hẳn, tựa hồ lo sợ âm thanh đó làm ảnh hưởng tới hai đấu thủ trên lôi đài.

Bạc Thương Khung lại chuyển động, hô lớn: "Hợp", lập tức mười ngọn Ly Tâm thương biến thành một trụ tròn xoay chuyển cực nhanh. Lão không ngừng tay, song thủ cùng đẩy ra, "Ầm" một tiếng, mười đạo sấm sét trắng xóa, không phải từ trên trời mà từ mười cây Ly Tâm thương, hợp thành một tia sét khổng lồ giáng xuống Liễu Dật. Chưa hết, toàn bộ mười cây Ly Tâm thương đồng loạt xẹt tới, uốn lượn theo mọi hướng.

Liễu Dật như lọt vào thiên la địa võng, có tránh được tia sét vẫn còn mười cây Ly Tâm thương phía sau. Dường như mọi chuyển động của mười cây thương đều do Bạc Thương Khung làm chủ, nếu vậy thì bất cứ ai cũng không thể mong toàn thân mà rút lui.

Dĩ nhiên theo phân tích của mọi người, vị Vĩnh Hằng thành chủ của Ma giới chắc chắn sẽ bại dưới tay Bạc Thương Khung. Dù y có thể tránh khỏi tia sét và đánh rơi một hai ngọn Ly Tâm thương, nhưng đằng sau đó còn nhiều ngọn nữa, toàn thân y không bị thủng lỗ chỗ như tổ ong mới lạ!

Đôi mắt Liễu Dật đỏ ngầu như máu, nhìn chăm chăm vào Ly Tâm thương và tia sét khổng lồ đang đánh tới, tay phải nắm chặt cán hắc kiếm quét từ dưới lên. Trong khoảng thời gian như điện quang hỏa thạch đó, y đã ra tay, quát lớn: "Vô Thức Quy Kiếm của Bi Tứ Thức."

Tất cả chỉ xảy ra trong một sát na, đối phương tung pháp khí được mười trượng, y mới bạt thanh trường kiếm khỏi vỏ, tốc độ nhanh đến mức tạo thành tàn ảnh, kiếm hoa. Rồi âm thanh tra kiếm vào vỏ quen thuộc vang lên.

Tốc độ quá nhanh. Những người tu vi cao còn có thể nhìn ra y đã xuất liền mười một kiếm, đồng thời tra luôn kiếm tra vào vỏ. Những người tu vi thấp chỉ thấy y vẽ ra một đóa hoa kiếm tuyệt đẹp, xong rồi thu kiếm đánh "Xoảng" một tiếng.

Tựa hồ khi Bạc Thương Khung tung pháp khí ra, y chỉ đứng thẳng dậy chứ không hành động gì.

Tuy nhiên, luồng sét khổng lồ với mười ngọn Ly Tâm thương vẫn tiếp tục lao nhanh tới…

- oOo -

Hồi 104: Tam thế tình duyến, bị thiên thần trớ chú đích ái

(Tình duyên ba kiếp, ái tình bị Thần trù ếm)

Cao thủ đối địch cùng nhau thì chuyện sinh tử chỉ trong chớp mắt, có thể trong lúc ngươi hơi nháy mắt, một người đã chết dưới kiếm của người kia.

Mọi người đều chăm chú quan sát, có kẻ thấy tiếc cho thành chủ Vĩnh Hằng Chi Thành, cũng có kẻ thấy hôm nay vận khí của y không tốt mới gặp phải Bạc Thương Khung của Thần Môn, nhưng tựu chung thì không biết những gì vừa xảy ra, trong lòng mỗi người chỉ toàn đoán già đoán non còn sự thật thì đều mơ mơ hồ hồ.

Riêng Liễu Dật trừ hành động loáng lên lúc trước, y hoàn toàn không thực hiện thêm động tác gì.

Những nhân vật thuộc Nhân gian chính đạo và Ám chi ma đạo trong trường có người lắc đầu, nhưng không phải vì tiếc cho Liễu Dật, mà là thừa nhận Bạc Thương Khung đã bại. Đối thủ chỉ xuất mỗi một chiêu nhưng thực chất bao hàm tới mười một kiếm, Bạc Thương Khung đã bại, bại thê thảm…

Rốt cuộc, trận đấu này lại phân thắng phụ chỉ trong nháy mắt. Bạc Thương Khung vừa phát ra tia sét khổng lồ, mười ngọn Ly Tâm thương bay đến gần người Liễu Dật ba xích thì mười một đạo bạch sắc kiếm quang hình chữ X thoáng hiện trước mặt, lóe lên rồi tắt ngay. Hào quang vừa tắt, tất thảy những ngọn Ly Tâm thương bao quanh Liễu Dật đều hóa thành tro tàn, tia sét bị kiếm quang hình chữ X chặt thành bốn mảnh rớt xuống.

Uy lực hùng hậu của sấm sét khiến đám đông phía dưới lôi đài náo loạn…

Bạc Thương Khung vẻ mặt thay đổi liên tục, không hiểu là ý tứ gì. Nên nhớ, lão là nhân vật cấp trưởng lão của Thần Môn, tung hoành giang hồ đã trăm năm, làm sao nuốt nổi thất bại này, đối phương chỉ xuất có một chiêu đã khiến thần binh thành danh của lão là Ly Tâm thương tan thành tro bụi, lại có thể dùng tốc độ của kiếm chặt lôi điện thành bốn phần. Trong lòng lão tràn nộ khí nhưng cũng hiểu nếu khi ấy đối phương xuất chiêu gồm mười hai kiếm, lão tránh thoát nổi sao?

Liễu Dật nhìn Bạc Thương Khung nói với vẻ ngạo mạn: "Có cần tiếp tục không?"

Sắc mặt Bạc Thương Khung lúc xanh lúc đỏ, lão đương nhiên biết thi đấu tiếp thì kết quả sẽ thế nào, trong lòng đau xót vì Ly Tâm thương bị hủy nên mâu thuẫn đến cực điểm, cuối cùng cũng hạ quyết định: "Thắng làm vua, thua làm giặc, lão phu không có gì để nói, chuyện giữa chúng ta chưa xong đâu."

Nói đoạn chuyển hướng bước xuống lôi đài, biến mất vào đám đông.

Nhìn Bạc Thương Khung rời khỏi lôi đài, Liễu Dật buông tiếng thở dài. Gió nhẹ mơn man, mái tóc bạc của y lại lất phất bay lên, mây đen trên không trung dần dần tan đi, giữa đám cát bụi tung bay, y chậm chạp hạ đài, rời khỏi đấu trường.

Sự việc hạ màn như thế, đa số đều quan sát chăm chú nhưng không cách nào sáng tỏ trận đấu rốt cuộc đã kết thúc ra sao.

Lão đầu giám trường râu tóc bạc phơ hô lớn: "Trận thi đấu này… Vĩnh Hằng Thành Chủ thắng, giờ chúng ta tiến hành trận kế tiếp…"

Tất cả rồi cũng yên ắng trở lại, Liễu Dật nhìn vầng trăng khuyết trên không trung, đột nhiên nghĩ đến một việc, y đã thay đổi chăng? Thần Môn Bạc Thương Khung là người hào sảng, lão thành danh lâu năm chắc chuyện này khiến lão chịu đả kích trầm trọng, vì sao y đột ngột biến thành tàn nhẫn như thế?

Có thể y không còn là thư sinh của mười năm trước nhưng y biết nỗi nhớ Cát Lợi Nhi vĩnh viễn không thay đổi, vĩnh viễn…

"Ồ… Muộn vậy rồi sao huynh vẫn còn ở đây?" Giọng nói của một nữ tử vang lên, kéo y từ trong trầm tư về với thế giới hiện thực.

Y quay đầu lại nhìn, thì ra là Thiên Kiêu, nữ tử như thiên tiên hạ phàm có dung nhan giống hệt Cát Lợi Nhi, liền bình tĩnh hỏi ngược: "Cô nương cũng không ngủ ư?"

Thiên Kiêu mỉm cười: "Cảm tạ huynh hôm nay đã cứu tôi."

Liễu Dật lắc đầu: "Không phải là tại hạ cứu cô nương, tại hạ lúc đó đang suy nghĩ đến chuyện khác, đột nhiên thốt lên như vậy, chắc Thất Nguyệt cũng không muốn hạ thủ giết cô nương."

Thiên Kiêu nối lời: "Vẫn phải đa tạ huynh."

Liễu Dật lớn tiếng: "Tại hạ đã nói rồi, không cần phải nói ra câu cảm tạ làm gì."

"Úi chà…Tên ngốc tử này sao lại hung hăng với nữ nhân như vậy, uổng cho bao nhiêu người thích ngươi, cõi đời lạ thật." Liễu Dật ngước nhìn về hướng âm thanh vọng tới, là ai? Không phải người lạ, chính là nữ tử mắt lam thần bí, Lam Nhận.

Y nhìn Lam Nhận đang bước tới, hồng quang trong mắt lóe lên, bi thương cùng tang thương đã chuyển thành ý muốn giết chóc: "Rốt lại cô biết được những gì?"

Lam Nhận từ tốn đáp: "Tôi biết gì à? Tôi có biết gì, chỉ biết được câu chuyện về một nàng tiên đem lòng yêu ma quỷ, vì thế tôi mới đến đây; tôi thực lòng tin rằng trên đời này không có nam tử nào si tình đến thế, không có một nữ tử đáng thương như trong câu chuyện, không có một đoạn ái tình khắc cốt ghi tâm như vậy."

Liễu Dật không nén được nỗi hiếu kỳ trong lòng, hỏi tiếp: "Cô biết được chuyện gì?"

Lam Nhận đáp: "Chuyện được ghi lại trong tộc."

Liễu Dật hỏi: "Kết quả thế nào?"

"Câu chuyện đó tạm thời chỉ có diễn tiến, không có kết quả, vì kết quả đó nằm trên mình ngươi, chỉ là ngươi có khả năng viết ra kết quả đó hay không?" Lời Lam Nhận khiến Liễu Dật sa vào mớ bòng bong, nữ tử thần bí này muốn nói điều gì?

Liễu Dật ngoẹo đầu, hỏi: "Cô có biết là cô đang nói gì không?"

Không đợi Lam Nhận hồi đáp, Thiên Kiêu quay sang hỏi Lam Nhận: "Câu chuyện cô vừa nói, có phải là chuyện giữa tỷ tỷ tôi và Niết nhân?"

Lam Nhận gật đầu: "Đúng vậy, còn có cả tỷ, trong câu chuyện đó có phần của tỷ, nguyên nhân tỷ xuất hiện trên thế giới này chứa đựng rất nhiều nghi vấn nhưng trong câu chuyện có thể giải thích rõ ràng, dù vậy tôi không biết tương lai của tỷ ra sao, tôi cho là… sau này tỷ được chú định sẽ tiếp bước con đường của tỷ tỷ mình."

Lam Nhận nói xong, lấy từ trên mình ra một quyển sách. Bìa sách được làm bằng vàng hoặc chất liệu gì đó tựa như vàng, trên bề mặt khảm mười sáu viên bảo thạch màu lam, lấp lánh đẹp đẽ, phản xạ ra quang mang vàng rực…

Liễu Dật hỏi: "Đó là cái gì vậy?"

Lam Nhận cười nụ: "Đây là câu chuyện vừa rồi, có thể coi là một quyển thiên thư do các trưởng lão trong tộc chúng tôi chế luyện ra, ghi câu chuyện về ‘bị trớ chú đích ái’. Nội dung bên trong đều do sách tự ghi lại, mỗi khi tình tiết xuất hiện sẽ tự động được ghi vào trong sách."

Liễu Dật nhìn cuốn sách, tựa hồ đang tư lự.

Lam Nhận dừng lại rồi nói tiếp: "Từ nhỏ tới lớn, tôi luôn xem cuốn sách này, càng ngày tôi càng không tin tưởng những gì miêu tả trong sách, vì thế theo yêu cầu của tôi, ca ca cùng tôi đến Nhân gian."

Liễu Dật nói tiếp: "Cô nói là cô được đọc từ nhỏ nhưng khi đó câu chuyện của ta còn chưa bắt đầu."

Lam Nhận thong thả: "Câu chuyện của ngươi chưa bắt đầu nhưng câu chuyện giữa Niết nhân và Thiên nữ, giữa Vị Linh Phong và Quỳnh Diệp Ti đã xuất hiện, hai mươi năm trôi qua, tôi lớn lên, phát hiện ra trong sách xuất hiện nam nhân thứ ba, Liễu Dật và Cát Lợi Nhi. Tôi biết ‘bị trớ chú đích ái’ chỉ tả lại chuyện về ba kiếp luân hồi, vậy nên tôi tin rằng chuyện giữa huynh và Cát Lợi Nhi là câu chuyện cuối cùng tuy chưa có kết cục.”

"Tôi xem tiếp… và tôi không thể tin được, ‘bị trớ chú đích ái’ này không ngờ lại thê lương đẹp đẽ đến vậy, khiến người ta không thể nào quên. Có lẽ tôi mê luyến nam nhân trong sách, cũng có thể tôi chỉ muốn xem xem trên đời này có nam nhân như vậy không. Tuy Thiên nữ vì yêu thương Niết nhân phải chịu trớ chú của Thần cùng nỗi khổ luân hồi ba kiếp nhưng tôi vô cùng ngưỡng mộ nàng, vì nàng có thể gặp được nam nhân như thế, ngưỡng mộ mối tình khắc cốt ghi tâm, có thể cảm hóa thiên địa của nàng."

Liễu Dật và Thiên Kiêu đều hơi lờ mờ, từng câu từng chữ không thể biết rạch ròi là chân hay giả, tất cả đều được ghi trong sách.

Lam Nhận liếc Thiên Kiêu, cười nói: "Thiên Kiêu cô nương, quyển sách này tỷ có thể xem qua, trong lòng tỷ luôn hận gã nam nhân khiến tỷ tỷ mình phải trải qua luân hồi ba kiếp, giờ đây tôi để tỷ cảm nhận những con chữ này, cảm nhận mối luyến ái của bảy ngàn năm trước, dùng tâm của tỷ mà đọc rồi bình giá bằng những lời chân thành nhất, xem có đáng hay không đáng."

Thiên Kiêu nhẹ nhàng đón lấy cuốn sách, tựa hồ hơi do dự nhưng vẫn nhận lấy, nói một cách lễ mạo: "Đa tạ."

Lam Nhận cười: "Hy vọng sau khi tỷ xem qua câu chuyện này rồi đừng giống như tôi đem lòng mê luyến nam nhân trong sách đến không dứt ra nổi, từ một thế giới khác bước chân đến cõi Nhân gian này."

Dứt lời, nàng xoay mình đi vào phía trong.

Liễu Dật nhìn theo thân ảnh nàng, trong đầu nảy ra một suy nghĩ hoang đường: "Nữ nhân thần bí này hình như đứng dưới góc độ của người thứ ba quan sát thế giới, quan sát mối tình giữa y và Cát Lợi Nhi, hoặc bản thân y thật sự đã là câu chuyện?"

Y lẳng lặng cất bước…

Có lẽ, "bị trớ chú đích ái" hiện vẫn là câu chuyện chưa có kết cục, nhưng đến một ngày nó sẽ ghi xong mối tình duyên đau khổ ba kiếp. Có điều không biết là lúc nào, kết quả ra sao… Còn chuyện của chúng ta vẫn còn tiếp tục, Ma Kiếm Lục chính muốn ghi lại điển cố lãng mạn, ghi lại tình của kiếm và những giao tranh chốn giang hồ…

- oOo -

Hồi 105: Thiên băng địa liệt, kiếp trung kiếp cửu u tử linh

(Chấn động trời đất, đại kiếp Cửu U Tử linh)

“Lẽ ra Vị Linh Phong và Quỳnh Diệp Ti không nên yêu nhau, bởi vì chẳng ai trên thế gian này chấp nhận tình yêu đó, nhưng hai người vẫn bất chấp tất cả đến với nhau, yêu thương nhau…

Tình cảm ấy thật vĩ đại, cũng thật cảm động!... Trong tim họ không có gì khác ngoại trừ hình bóng của nhau”.

“Vì người yêu, Vị Linh Phong một kiếm đối địch với cả thiên hạ, từ bỏ thân phận tộc trưởng Ma tộc cực kỳ tôn quý, đồng thời từ bỏ luôn Ma tộc mà anh ta đã dày công xây dựng. Đối với y, trên thế gian này tất cả đều không quan trọng, điều duy nhất khiến y quyến luyến chỉ là một cử chỉ, một nụ cười của Quỳnh Diệp Ti mà thôi”.

“Và cũng vì tình yêu đó, Quỳnh Diệp Ti đã từ bỏ Tiên tộc lừng lẫy, theo Vị Linh Phong lưu lạc chân trời góc biển, chịu cảnh bị người trong thiên hạ ngày đêm truy sát... ”

“Mặc dù những ngày chạy trốn cực kỳ gian khổ, nhưng hai người đều rất hạnh phúc, bởi vì trong tim mỗi người đã khắc sâu hình bóng của nhau. Chỉ cần có nhau, ở bên cạnh nhau, hai người họ đã cảm thấy thật ngọt ngào và tràn đầy ấm áp. Dù bị hàng ngàn vạn người truy sát nhưng hai người vẫn không từ bỏ tình yêu của mình, ngược lại, đối diện với những thử thách không thể vượt qua lại khiến tình yêu của bọn họ càng trở nên mãnh liệt hơn, si cuồng hơn, dù chỉ là thời gian lưu lãng ngắn ngủi, nhưng họ vô cùng cảm tạ trời đất đã ban cho ân huệ lớn lao đó”.

“Cuối cùng, sự việc bi thương rồi cũng đến, Vị Linh Phong và Quỳnh Diệp Ti bị cửu đại môn phái tam giới bức lên đỉnh Nguyệt Thương Sơn. Đêm đó là một đêm không trăng. Dường như sợ phải chứng kiến một tình yêu chân thành vĩnh viễn tan biến, nên vầng trăng đã ẩn vào trong mây… thế nhưng, không nhìn thấy không có nghĩa là không có gì xảy ra…”

“Hai người đó vì tình yêu trong tim mình đã quên đi sinh mạng bản thân, bỏ qua phù hoa chốn trần thế, an tĩnh nằm bên nhau trên vách Nguyệt Thương Sơn. Nơi đó, sau khi cửu đại môn phái tam giới bỏ đi, trên không bỗng nổi lên một trận hàn phong mãnh liệt. Bầu trời tháng chín trở nên âm u lạnh lẽo, đất trời dường như cảm thương cho tình yêu đó, những bông hoa tuyết tinh khiết lất phất bay như tiễn đưa họ trong cuộc chia ly này”.

“Thật là một tình cảm chân thành, một tình yêu sâu sắc, có thể khiến cho đất trời cảm động… Thế nhưng, cũng bởi tình yêu đó mà ở lần luân hồi thứ nhất họ vẫn mang theo nỗi bi thương vô hạn, tình yêu đó bị thần linh nguyền rủa, tam sanh tam thế luân hồi phải chịu nhiều cay đắng, tuy chân tâm tương ái nhưng không thể đến được với nhau. Có thể, chuyện này không có thật, ta cũng không thể biết được kết cục, nó thật buồn, tuy đẹp nhưng cũng quá thê lương, có thể làm cảm động trái tim băng giá của bất cứ kẻ nào. Ta hy vọng rằng đoạn cố sự này sẽ tới một kết thúc hoàn mỹ, phán quyết của thần linh không phải là không thể cải biến”.

“Tình yêu bị nguyền rủa”, Thiên Kiêu nhẹ nhàng thốt lên. Nàng đã rơi không biết bao nhiêu lệ, trái tim nàng tựa như bị dao cắt, phảng phất bị chìm trong nỗi chua xót, đau đớn hàng vạn năm. Vị thần sáng tạo ra thế giới, bậc đế vương mà nàng trước giờ sùng bái, tại sao lại đưa ra lời nguyền tàn độc với người có tình như vậy, có thể là ngài không thực sự hiểu được họ, ý tưởng của một người không thể đại diện cho ý kiến của vạn người được. Đối với tên Ma Vương Niết Nhân này, cảm giác của Thiên Kiêu hiện tại là: Hắn ta thật đáng thương!

Bên ngoài, vầng dương từ từ ló dạng. Thiên Kiêu đã đọc hết chuyện tình của Niết Nhân cùng Thiên nữ, Vị Linh Phong cùng Quỳnh Diệp Ti suốt cả đêm qua. Lúc này nàng ngồi ngây dại trên giường, không ngừng tự vấn lương tâm, trên nhân gian này thực sự có tình yêu chân chính không?

Thời gian cứ không ngừng trôi, thời hạn hội võ một tháng chỉ còn lại hai ngày cuối cùng. Mười sáu võ sĩ còn lại ở trên lôi đài đang chờ đợi bốc thăm để tiếp tục tỷ đấu. Hai ngày nữa, trên lôi đài sẽ biết được ai là võ sĩ đệ nhất trong thiên hạ.

Ở trên lôi đài, một bên là các đương kim môn chủ của Nhân Gian Chính Đạo cùng các trưởng lão.

Đương nhiên Thanh Âm Nhã Các cùng Phật môn đều không tham gia vào hội luận võ này. Bên kia là các môn chủ ma đạo, gồm cả Thiên Long, Hỏa Phượng của Thiên Long Thần Đàm cùng các hộ pháp. Dĩ nhiên, chỉ độc nhất Liễu Dật không thuộc Nhân Gian Chính Đạo, cũng không phải là Bóng Tối Ma Đạo nên đứng giữa hai phe trên lôi đài.

Cùng lúc đó, lão nhân giám khảo mang các thẻ trúc ghi tên đã chuẩn bị sẵn đi vào.

Nhưng đúng vào lúc chuẩn bị rút thẻ, đột nhiên một âm thanh long trời lở đất vang lên. Thanh âm vang từ rất xa, tựa như xảy ra một vụ nổ cực kỳ lớn, nếu không thì chẳng thể xuất hiện một âm thanh lớn như vậy truyền tới.

Trong và ngoài lôi đài, chúng nhân bất giác đờ người nhìn về hướng âm thanh truyền tới, thanh âm đó xuất phát từ phía Tây Nam, như đến từ bên trong lãnh địa của Ma tộc, chỉ thấy trong nháy mắt bầu trời bị một đám ma khí khổng lồ bao phủ, nhưng nếu nhìn kỹ thì thực sự không phải ở trong lãnh địa của Ma tộc, mà như là từ Phong Đô Quỷ Thành, xa về phía nam của Ma tộc.

Phong Đô Quỷ Thành nằm sát ranh giới quản hạt của Ma tộc, nhưng lại không nằm trong phạm vi thế lực Ma môn, Ám môn, cũng như Huyết môn, mà nơi đó chính là vùng do Địa phủ quản lý. Lúc này, ma khí ùn ùn tỏa ra mọi hướng, nhanh chóng hướng về Phù Hoa sơn trang, mọi người chỉ biết đưa mắt nhìn đám ma khí to lớn cuồn cuộn xông tới.

Chuyện gì đã xảy ra? Trong lúc mọi người còn kinh ngạc, một luồng ánh sáng đen kịt lướt cực nhanh qua đầu mọi người, nhắm thẳng hướng lôi đài hạ xuống. Một Ma môn kiếm giả thương tích đầy mình đến quỳ trước Ngạo Thiên cúi đầu nói: “Môn chủ! Chuyện không hay rồi, bên trong Phong Đô Quỷ Thành kề bên chúng ta đột nhiên xảy ra một vụ nổ lớn, vô số tử linh mang theo độc chướng trùng trùng thoát ra, lúc này tất cả mọi người đang toàn lực kháng cự, nhưng độc chướng quả thực quá lợi hại, huynh đệ chúng ta thương vong trầm trọng”.

Ngay lúc đó, Lang Vương phóng vụt lên lôi đài hỏi: “Ngươi nói gì, là Cửu U độc chướng ư?”

Mọi người đều giật mình trước sự xuất hiện đột ngột của trung niên thư sinh, đa số không ai biết người này là ai, nhưng cũng có người nhận ra ông ta chính là thủ hộ thần thú của tam giới, Lang Vương.

Người nhận ra Lang Vương chính là Thiên Long và Hỏa Phượng, chủ nhân của Thiên Long Thần Đàm, hai người đứng kế nhau bên cạnh Ngạo Thiên. Thiên Long mình mặc thanh y trông giống một văn sĩ trung niên, nhưng trong mắt ẩn hiện vẻ tà ác, thân hình tráng kiện, trong tay cầm một thanh trường kiếm cũng màu xanh. Còn Hỏa Phượng, toàn thân vận hồng trang, thân hình toát lên vẻ kiều mị, nhất là ánh mắt trong sáng như nước hồ thu, do vậy dù trông đã trung niên, nhưng lại ánh lên nét phong tình riêng biệt.

Bọn chúng chăm chú nhìn Lang Vương nhưng không dám mạo hiểm động thủ, không chỉ vì nam nhân thần bí ngồi cạnh Lang Vương mà còn vì Kỳ và Lân, tu vi cũng xấp xỉ bọn chúng đang đứng sau lưng nam nhân này. Tựa hồ như Kỳ, Lân là hộ pháp của người thần bí này, mà địa vị của Lang Vương dĩ nhiên còn cao hơn so với Kỳ, Lân nữa. Người của Ma tộc đến đây không nhiều, nếu như thật sự động thủ, không ai có thể đảm bảo bọn họ có thể tiêu diệt đối phương, ngay cả khi đối phương bỏ chạy, cũng rất khó có thể bắt họ.

Hiếu kỳ, Liễu Dật bước tới trước một bước hỏi: “Sư phụ, có chuyện gì xảy ra ư?”

Lang Vương gật đầu nói: “Theo như sức mạnh cực lớn của vụ nổ thì có thể khẳng định không thể do con người gây ra, mà theo như ta nhớ, trong Phong Đô Quỷ Thành, chỉ tại nơi thâm sâu nhất của mười tám tầng địa ngục mới có Cửu U độc chướng”.

Ngạo Thiên bước lên một bước, vội vàng nói: “Xin đại hiệp nói rõ hơn!” Hắn ta tỏ vẻ hết sức lắng, đương nhiên nỗi lo lắng của hắn là đúng, Phong Đô Quỷ Thành gần Ma Môn của hắn ta nhất, lúc này Cửu U tử linh đã thoát ra, lại mang theo Cửu U độc chướng, nếu như không giải quyết vấn đề này nhanh chóng, rất có thể toàn bộ Ma môn bị tử linh độc chướng dưới chốn Cửu U quét sạch.

Lang Vương gật nhẹ đầu nói: “Nếu muốn nói cho rõ, phải bắt đầu từ căn nguyên, tức phải quay lại ngàn vạn năm trước đây…”

- oOo -

Hồi 106: Tuyệt đối thật lực, cửu u chi ma thần tô tỉnh

(Ma Thần chốn Cửu U thức tỉnh, sức mạnh vô biên)

“Ngàn vạn năm trước đây, dưới chốn Cửu U đã có các tử linh, thân mang độc chướng không như những phàm vật bình thường. Khi đó, Quỷ tộc đã xuất hiện ở trong thiên địa tam giới, nhưng sự khác biệt lớn nhất giữa Quỷ tộc và tử linh là Quỷ tộc tự bản thân có ý thức còn tử linh thì không. Cho nên, tại thời điểm luân hồi, bọn ngưu đầu mã diện đem tử linh nhốt xuống chốn Cửu U, nơi tối tăm nhất của mười tám tầng địa ngục”.

Lang Vương dừng một lúc rồi nói tiếp: “Phải biết rằng, những tử linh vô ý thức này hình thành từ những người chết không còn hồn phách ở nhân gian tam giới. Toàn bộ thân thể chúng bị bao phủ bởi lớp độc chướng. Cứ thế ngày tiếp ngày, năm lại năm, cũng không biết đã trải qua mấy ngàn năm rồi, số tử linh dưới chốn Cửu U càng lúc càng nhiều và lớp độc chướng càng ngày càng dày đặc. Cuối cùng hình thành một vị ma thần cực kỳ oán độc tự xưng là Cửu U Ma Thần”.

“Vị ma thần này cơ thể không có, mà hình dáng cũng mập mờ như có như không, nhưng lại có ý thức, có thể khống chế vô số tử linh dưới chốn Cửu U. Hơn nữa, y có thể mở rộng lớp độc chướng dày đặc quanh thân thể mình một cách vô hạn lượng, cho đến khi bao phủ toàn bộ tam giới”.

Ngạo Thiên kinh hãi kêu lên: “Ngài nói cái gì? Vị thần này có thể bao phủ độc chướng lên cả tam giới, như vậy chẳng phải hắn ta có khả năng hủy diệt toàn tam giới hay sao?”

Lang Vương gật đầu nói: “Nói như thế cũng không sai, y đích thực có khả năng hủy diệt cả tam giới, vả lại trước đây chưa có một ai thấy qua hình dáng thực sự của vị ma thần này, do đó, cho đến bây giờ chỉ nghe nói là y vô thể mà thôi.”

Lúc đó, Quỳnh Phách môn chủ đương nhiệm của Tiên tộc ở bên cạnh bước lại gần hỏi: “Tiên sinh nói vậy là có ý gì? Như theo ngài nói, vị thần này đã xuất hiện từ lâu, nhưng tam giới đâu có bị hủy diệt. Phải chăng đã có người nào đó từng trấn áp được y?”

Lang Vương gật đầu đáp: “Việc đó như thế này, lần trước khi Cửu U Ma Thần tỉnh dậy thì thần Bàn Cổ và Nữ Oa cùng chư thần ở Thần giới vẫn còn chìm trong giấc ngủ. Việc tuần tra canh gác tại Thần giới được giao cho Hậu Nghệ”.

“Hậu Nghệ phát hiện ra Cửu U Ma Thần đang dần hồi tỉnh, liền rút mũi tên thần cuối cùng, cẩn trọng phong ấn Cửu U Ma Thần. Phải biết rằng trời đất phân càn khôn, âm dương. Cửu U Ma Thần là chí âm chi vật, nhưng cơ duyên xảo hợp, mũi tên thần của Hậu Nghệ lại là vật chí dương trong trời đất. Nên khi bị tên thần phong ấn, Cửu U Ma Thần lại chìm sâu vào giấc ngủ mới. Tuy nhiên, Hậu Nghệ lại không có biện pháp nào để tiêu diệt Cửu U Ma Thần vì toàn thân vị ma thần này được bao quanh bởi một lớp độc chướng dày đặc, ngay cả sử dụng quyền lực của thần linh cũng không thể nào tiếp cận được. Bởi vậy, Hậu Nghệ cũng không thể trông thấy diện mạo thực sự của vị ma thần này”.

“Cuối cùng, Hậu Nghệ đành từ bỏ ý định giết chết Cửu U Ma Thần, quyết định chờ Bàn Cổ, Nữ Oa, Viêm Đế cùng chư thần tỉnh lại bẩm báo sau. Để đề phòng vị ma thần này nhanh chóng tỉnh lại, Hậu Nghệ đã lưu cung thần của mình ở tại nhân gian”.

Ngạo Thiên nhếch môi nói: “Hắn giữ cây cung dưới đây cũng chả có ích gì, bọn ta đâu có tên thần”.

Quỳnh Phách đồng ý tiếp lời: “Cho dù chúng ta có lấy được thần tiễn thì cũng vô dụng mà thôi, bao quanh thân thể y là lớp độc chướng dày đặc, bọn ta không thể nào giết chết y được, nói không chừng nhiều khi lại làm y tỉnh giấc”.

Ngạo Thiên khinh khỉnh nhìn Quỳnh Phách nói: “Hiện giờ bọn ta ngay cả một mũi tên cũng không có, mắt thấy thế giới sắp sửa tiêu tan, giờ ngươi lại có ý tưởng giết hắn ta, nếu có thể phong ấn hắn được thì đã tốt lắm rồi”.

Tuy làm môn chủ Ma môn đã ba mươi năm nhưng Ngạo Thiên trông chỉ khoảng tứ tuần, làn da ngăm đen, y phục toàn thân cũng màu đen, càng làm y trông giống như một thiết hán, nhưng không rõ vì nguyên do gì trong ánh mắt y luôn ánh lên một vẻ tang thương.

Quỳnh Phách tỏ ý không phục nói: “Phong ấn như thế nào? Lẽ nào lần sau hắn ta tỉnh dậy, ngươi lại phải tìm mũi tên thần nữa sao?”

Quỳnh Phách thân mình cao gầy, toàn thân mặc một áo giáp màu trắng bạc nhưng không đội giáp mũ, trong tay cầm trường thương màu đen, bề ngoài trông có vẻ già hơn Ngạo Thiên.

Ngay lúc đó, Liễu Dật mắt lóe hồng quang, lên tiếng quát hai người: “Đủ rồi! Lúc này mà hai người còn cãi nhau ư? Nếu bây giờ các người không đồng tâm, thì ngày mai sẽ không còn thấy ánh mặt trời nữa đâu”.

Lời nói của Liễu Dật hình như đã thức tỉnh cả hai vị nhất đại kiêu hùng đã nhiều năm tung hoành.

Hai người không ngờ lại im lặng thực sự… Có lẽ họ cảm thấy Liễu Dật nói đúng, nếu mọi người không đồng tâm, cả thế giới này có thể lập tức tan thành khói bụi.

Liễu Dật quay sang hỏi Lang Vương: “Sư phụ, người đã biết chuyện này, vậy nhất định phải có cách nào giải quyết chứ?”

Lang Vương nói: “Cách giải quyết thì có, nhưng phải xem xét kỹ tình huống hiện nay. Cửu U Ma Thần sắp tỉnh giấc hoàn toàn. Thời gian không còn kịp nữa rồi, ngay cả khi chúng ta có biện pháp, chúng ta cũng không có thời gian”.

Liễu Dật bình tĩnh nhìn sang Quỳnh Phách nói: “Quỳnh môn chủ, Tiên tộc các ngài có trận pháp lợi hại nào có thể tạm thời phong bế Cửu U ma khí, miễn cưỡng ngăn chặn y tỉnh lại, cố gắng tranh thủ thời gian để chúng ta tìm biện pháp còn hơn là chúng ta cứ ngồi chờ chết ở đây”.

Quỳnh Phách suy nghĩ rồi nói: “Thần môn chúng ta, thương pháp cùng bùa phép thần linh chiếm một nửa sở học, còn như nói về trận pháp lợi hại, bổn môn thực sự không có”.

Ngạo Thiên cười lạnh nói: “Hừm, uổng công tự xưng là Tiên tộc đệ nhất đại môn phái, bất quá cũng như vậy thôi”.

Quỳnh Phách cũng cười lạnh đáp trả: “Hay lắm, Thần môn bọn ta cam bái hạ phong, để xem Ma môn bọn ngươi có trận pháp lợi hại nào đủ sức phong bế lớp ma khí dày đặc này, không cho độc chướng dưới chốn Cửu U lan ra bên ngoài?”

Ngạo Thiên nhất thời bị Quỳnh Phách nói vặn lại, quả thật trong Ma môn lấy kiếm làm chủ, bình thường không chú trọng lắm đến các trận pháp lợi hại nào cả, chủ yếu chỉ là vài trận phòng thủ mà thôi.

Quỳnh Phách như đột nhiên nhớ tới điều gì, vội quay người hỏi một lão nhân: “Thanh Vân đạo trưởng, trong các pháp môn nổi tiếng của môn phái ngài, chẳng phải trận pháp là đứng đầu hay sao?”

Lão nhân được gọi là Thanh Vân đạo trưởng, mình mặc một chiếc áo dài màu xám, tay cầm một thanh trường kiếm, khuôn mặt gầy gò với cặp mắt sâu hoắm và chòm râu bạc trắng, nhìn Ngạo thiên một cái rồi nói: “Bần đạo tự nhiên có biện pháp có thể tạm thời trấn áp ma khí, bất quá thiết nghĩ chúng ta nên xem qua trận pháp lợi hại của Ngạo Thiên môn chủ, bần đạo đâu dám múa rìu qua mắt thợ”.

Lúc này Ngạo Thiên sắc mặt đại biến, dáng vẻ cực kỳ phẫn nộ.

Liễu Dật nhìn Thanh Vân đạo trưởng, mắt lóe hồng quang nói: “Đạo trưởng, đây không phải là lúc các người hơn thua đâu!” Nói xong nhìn khắp bốn phía, lạnh lùng tiếp: “Từ lúc này, nếu ai còn tranh cãi, đừng trách kiếm của ta vô tình, nếu chết… cùng chết hết”.

Lời nói lãnh khốc khiến cho mọi người không lạnh mà run, những người không sợ chết là những kẻ đáng sợ nhất, huống gì lại là một người có tu vi đến mức này.

Thanh Vân đạo trưởng giận dữ nói: “Ngươi…”

Không chờ lão nói tiếp, Quỳnh Phách lập tức ngắt lời: “Đạo trưởng, lời hắn nói quả có đạo lý đó, chúng ta đều có thể mất mạng bất cứ lúc nào, còn tranh cãi làm gì nữa, nếu may mắn qua khỏi kiếp nạn này, ngày sau chúng ta sẽ cùng với ma đạo quyết tranh cao thấp”.

Ngạo Thiên cười lạnh một tiếng đáp: “Lão phu luôn sẵn sàng phụng bồi”.

Quỳnh Phách nhìn Ngạo thiên không nói, rồi hỏi tiếp: “Đạo trưởng, vừa rồi ngài nói là có biện pháp…“

Thanh Vân đạo trưởng liền nói: “Đó là bần đạo nói đến trận pháp “Thiên quang lục hợp”, trận pháp phân thành sáu lộ, mỗi lộ trận pháp lại chia thành sáu đạo, sáu sáu ba mươi sáu đạo, cùng với ba mươi sáu lá Trấn ma kỳ khống chế, trong đó mỗi lá cờ lại ở trong một lục hợp trận và cần một cao nhân nội lực thâm hậu nắm giữ, duy trì trận pháp vận hành, trận lục hợp này có thể chia ra bốn phía, tách riêng, trấn áp ma khí ở bên trong vòng tròn”.

Liễu Dật nghe xong gật gật đầu nói: “Hảo trận pháp, thế thì bây giờ mời các thủ lĩnh, chưởng môn chính đạo, ma đạo về lại môn phái, đưa toàn bộ các cao thủ của mình đi đến một trăm dặm ngoài Phong Đô Quỷ Thành, chuẩn bị trấn áp ma khí”.

Rồi Liễu Dật chuyển mình nhìn xuống vòng người bên dưới lôi đài nói tiếp: “Lần này để trấn áp ma khí, chúng ta rất cần các cao thủ cao cường, các cao thủ tại trường đều có thể tham gia, tranh thủ kéo dài thời gian càng lâu thì bọn ta càng có hy vọng, nếu không ai có ý kiến, thì xin mời sư phụ ta thống lĩnh các người”.

Phía dưới đột nhiên yên lặng, không rõ ở đâu vang lên một tiếng hô to: “Được lắm”. Ngay lập tức, những người tự xét tu hành của mình đủ tham gia trấn áp ma khí vội theo sau Lang Vương, trong đó có cả Thiên Kiêu, Lam Nhận.

Liễu Dật nhìn Kỳ, Lân phía sau nói: ”Bọn ngươi theo sư phụ đến nơi trấn áp ma khí trước, bảo hộ tuyệt đối an toàn cho sư phụ, ta sẽ quay lại điều động Bạch Hổ cùng ba mươi sáu tinh kỵ”.

Nói xong, quay đầu về phía Thiên Long, Hỏa Phượng, lạnh lùng nói: “Ta biết chắc chắn vẫn có một số người tâm địa ám muội, nếu như sư phụ ta vẫn còn ở đây trước khi ta quay về, thì như ta đã nói trước, ta sẽ chừa cho đường sống… bằng không giết không tha”. Thanh âm băng lãnh, phảng phất như đến từ địa ngục, ẩn chứa sức mạnh phi thường, Thiên Long, Hỏa Phượng bất giác thối lui một bước.

An bài mọi việc xong xuôi, Liễu Dật nói tiếp: “Ta nghĩ rằng, bây giờ chúng ta có thể phân chia hành động, càng nhanh càng tốt…”

Để trở thành một anh hùng không phải là một chuyện ai cũng làm được. Một người nếu ghét ác như cừu, trừ bạo an dân thì chỉ xem như là đại hiệp. Còn anh hùng đích thực là người phải có đủ dũng khí bước ra lo cho an nguy của thiên hạ vào thời điểm nguy nan của thiên hạ. Dường như trời cao định sẵn Liễu Dật phải trở thành vị anh hùng như vậy rồi.

- oOo -

Hồi 107: Cố nhân tương kiến, bằng hữu đích mạt nhật vi

(Gặp lại cố nhân, bằng hữu cùng vui cười trước ngày tận thế)

Mọi sự kiện hay biến cố phát sinh đều có sự sắp đặt của bàn tay vận mệnh. Do vậy, trong dòng chảy thời gian, cố sự nối tiếp nhau xuất hiện, đó chẳng phải là định mệnh ư? Điều này chẳng phải đã được an bài không thể không phát sinh đó ư?

Trong ba ngày, Bóng Tối Ma Đạo cùng Nhân Gian Chính Đạo mỗi bên dẫn theo sáu trăm tinh anh đệ tử kéo đến cách Phong Đô Quỷ Thành trăm dặm. Theo yêu cầu của Thanh Vân đạo trưởng, Chính Đạo cùng Ma Đạo phân chia ranh giới, an dinh lập trại rất gần nhau, chỉ cách nhau khoảng năm mươi trượng. Mặc dù nhiều người hai bên đều không hài lòng với cách phân bố này nhưng dưới sự thuyết phục của Lang Vương, thủ lĩnh của Chính, Ma lưỡng đạo miễn cưỡng đồng ý làm theo.

Vì không còn cách giải quyết nào khác, mọi người đành chịu nhượng bộ, bàn chuyện hợp tác. Nếu không, đợi đến lúc cái chết gần kề, còn nói gì đến chuyện nhất thống tam giới, hay trừ ma vệ đạo.

Mang theo mẩu gỗ nhỏ được khắc gọt thành một mô hình Phong Đô Quỷ Thành, Thanh Vân đạo trưởng đi xuyên qua màn độc chướng dày đặc đang khuếch tán không ngừng, trong thời gian cực ngắn.

Ông ta biết lúc này mỗi giây đều vô cùng quý giá, Cửu U Ma Thần có thể thức tỉnh bất cứ lúc nào, đem theo vô số tử linh hủy diệt tam giới.

Thanh Vân đạo trưởng lập tức cắn đầu ngón tay, dùng máu viết lên mô hình Phong Đô Quỷ Thành những văn tự kỳ quái, khi nét bút cuối cùng hoàn tất, hồng quang chớp lóe rồi tắt ngấm, Thanh Vân đạo trưởng gật đầu nói: ”Bộ phận thứ nhất đã hoàn thành”.

Chính lúc này, Lang Vương bỗng nhìn thấy độc chướng khuếch tán nhanh hơn trước bèn nói: “Đạo trưởng, ta nghĩ ngài cần phải ra tay thật nhanh chóng. Mặc dù lúc này Cửu U Ma Thần vẫn chưa thức tỉnh, nhưng tử linh dưới sức ép của ma khí đang càng lúc càng cuồng loạn, nhìn màn độc chướng kia thì thấy, tốc độ khuếch tán của nó càng lúc càng nhanh, nếu không khẩn trương ta e sẽ sớm gặp tai ương.”

Thanh Vân đạo trưởng không nói gì, xoay người mạnh một cái, từ trong hai ống tay áo mỗi bên phóng xẹt ra mười tám tia sáng màu vàng, tổng cộng là ba mươi sáu lá Trấn Ma Kỳ, có thể nhìn ra mỗi lá cờ đều do dùng tinh huyết mà chế luyện thành, vô cùng lợi hại. Ba mươi sáu lá cờ cắm chặt xuống đất tạo thành hình vòng tròn bao vây mô hình Phong Đô Quỷ Thành vào giữa. Thanh Vân đạo trưởng vẫn chưa dừng tay, từ song chỉ của hữu thủ phóng ra một tia sáng màu vàng, miệng nhẩm niệm: “Khai!” Tia sáng chói lòa màu vàng bắn vào một lá Trấn Ma Kỳ, sau đó lan truyền từ lá cờ này sang lá cờ khác, cứ như vậy truyền đến toàn bộ ba mươi sáu lá cờ, tất cả chập chờn dưới ánh sáng vàng nhàn nhạt. Thanh Vân đạo trưởng mới quệt mồ hôi trán nói: “Tạm được rồi!”

Mọi người quay đầu nhìn về phía Phong Đô Quỷ Thành, chỉ trong chớp mắt đã thấy mây đen cuồn cuộn kéo đến, độc chướng màu xanh lục cùng với tử linh bay lượn đầy trời bị phong bế trong một quầng sáng màu vàng khổng lồ bao phủ. Tuy nhiên, quầng sáng màu vàng đó cũng không ngừng xung động với các tử linh, ánh vàng lúc sáng lúc tắt…

Thanh Vân đạo trưởng nói: “Thiên Quang Lục Hợp lúc này nhờ vào sức mạnh bên trong ba mươi sáu đạo Trấn Ma Kỳ để chi trì, nhưng thế trận sẽ nhanh chóng bị các tử linh công phá, vì vậy lúc này cần những người tu vi thâm hậu dùng nội lực duy trì Thiên Quang Lục Hợp trận, như vậy trận pháp sơ đẳng này mới có thể kiên trì chống trọi được một thời gian”.

Lang Vương gật đầu: “Đạo trưởng nói rất đúng, bất quá, vẫn còn một điểm mà mọi người có lẽ chưa biết, Cửu U Ma Thần luôn luôn ngủ rất say, hơn nữa Hậu Nghệ đương thời cũng đã có tính toán, Ma Thần không thể thức tỉnh nhanh đến mức đó. Chúng ta chỉ cần phải nghĩ cách đối phó với đám tử linh đông đúc kia mà thôi. Chỉ cần chúng ta ngăn chặn không cho chúng khuếch tán thêm, không khuấy động linh khí dồi dào của tam giới, thì Cửu U Ma Thần không thể tỉnh giấc được”.

Thanh Vân đạo trưởng cùng Lang Vương nói xong, tuy thập đại thủ lĩnh của hai bên Chính đạo và Ma đạo còn chưa động thủ, nhưng Lang Vương hiển nhiên biết rõ trong thâm tâm họ đang suy tính những gì.

Tại thời khắc này, nếu Chính đạo động thủ trước, vạn nhất người trong Ma đạo có ý hãm hại thì rất có thể Chính đạo sẽ bị thiệt thòi. Nhưng nếu Ma đạo khống chế Trấn Ma Kỳ trước, người trong Chính đạo sẽ dễ dàng ra tay “trừ ma vệ đạo“, dù là theo chính đạo hay ma đạo, ai cũng có ý tự tư tự lợi cả.

Đúng lúc đó, một nữ tử từ đằng sau Lang Vương tiến ra nói: "Các vị đều là thủ lĩnh tối cao hai đạo Chính – Ma, cho dù muốn toan tính thế nào, nhưng nếu không nhanh chóng phong tỏa ma khí thì ngày mai tất cả sẽ biến thành xương trắng". Người nói những lời này có mái tóc dài lượn sóng phủ trên hai vai, đôi mắt xanh lục mở to trông vô cùng khả ái. Liễu Dật nhìn ra chính là cô gái thần bí Lam Nhận, người hiểu biết nhất sự tình tam sinh tam giới.

Nhưng Ngạo Thiên chỉ gườm gườm nhìn Quỳnh Phát, thủy chung vẫn chưa phái người ra khống chế Trấn Ma Kỳ. Quỳnh Phát cũng không phải là tên ngốc, đối phương không động đến mình, hắn thân là thủ lĩnh của Nhân Gian Chính đạo, làm sao có thể ra tay trước được?

Chính lúc đó, Thanh Vân đạo trưởng đột nhiên nói: “Các vị, nhìn kìa!”

Nhãn quang của mọi người đều hướng về phía vầng sáng màu vàng, chỉ thấy vô số tử linh đang tả xung hữu đột cố xông ra ngoài, hơn nữa sắc lục của độc chướng càng ngày càng xanh sậm lại như thể bất cứ lúc nào cũng có thể bay thoát ra ngoài. Thiên Quang Lục Hợp trận lúc này đã thấy yếu thế đi rõ rệt, nếu cứ tiếp tục như vậy, chưa tới một tuần trà, đám tử linh này nhất định có thể xông ra khỏi trận pháp.

Lang Vương nói gấp: “Không còn thời gian nữa, bây giờ mười vị thủ lĩnh đều sợ người khác ám toán, vậy hãy để giang hồ lãng tử chúng ta tận lực bảo hộ gia viên chúng ta đang sắp tiêu vong”.

Chỗ Lang Vương ngồi gần xuống kế bên lá Trấn Ma Kỳ đầu tiên, hữu thủ vươn ra, dùng chân lực chuyển vận vào trận pháp. Theo cử động của Lang Vương, ngay lập tức Kỳ, Lân ở đằng sau khẽ nhích động, phi lên từ trong đám bụi đất ở hai bên cạnh chỗ ngồi của Lang Vương, mỗi người một đạo Trấn Ma Kỳ, cả ba nỗ lực duy trì trận pháp.

Đúng lúc đó, một âm thanh quen thuộc vang lên: “Lão mắc dịch, sao cần giúp một tay mà không nói? Có phải là coi thường chúng ta không?”

Lang Vương quay đầu nhìn lại, thấy chính là Thập Kiệt Nhất, ngoài ngốc tiểu tử này còn có ai lại gọi mình như vậy chứ, bên cạnh hắn còn có A Cửu cùng Đại Đao Vương và Thủy Nhi. Bốn người bọn họ nhìn y mỉm cười.

Lang Vương cười lớn nói: “Ngốc tiểu tử, đã lâu không gặp. Cái khí chất u mê ngớ ngẩn vẫn y nguyên. Ta hơn ngươi đến vài nghìn năm tuổi, mà vẫn xưng hô với ta như vậy hả”.

Lúc này, bốn người bọn họ cũng đã ngồi xuống, dùng chân khí truyền dẫn vào Trấn Ma Kỳ, mỗi người lo một lá cờ. Đại Đao Vương vừa bảo vệ lá Trấn Ma Kỳ trước mặt vừa nói: “Hay cho câu ‘đã lâu không gặp‘, ta cứ luôn nghĩ, hà hà, tới khi nào thì ta mới được diện kiến tẩu tẩu đây, Lang đại ca?”

Lang Vương cười nói: “Vội gì, đợi vài trăm năm nữa đã”.

Đại Đao Vương cười ha hả: “Cái này thì huynh sai lầm lớn rồi. Huynh xem, ta và Thủy Nhi, đến giờ trong nhà đã có hai đứa bé rồi. Huynh còn phải cố gắng nhiều”.

Thủy Nhi liếc Đại Đao Vương chế giễu: “Ngươi thật là già rồi mà không biết xấu hổ, chẳng có được điểm nào tốt đẹp hơn ai, chỉ có nước cưới phải một lão bà như ta thôi”.

A Cửu cũng cười nói: “Đại Đao ca vốn khéo ăn nói mà, bất quá ta vẫn thích kiểu đầu của Đại Đao ca, mọi người xem, thật là cao lớn, oai phong. Một ngày nào đó, Thủy Nhi tỷ tỷ cũng giúp Thập Kiệt Nhất nhà muội làm kiểu đầu đẹp như thế nhé”.

Lang Vương bật cười lớn, vô cùng thoải mái và vui vẻ. Nghìn vạn năm qua, ông ta chỉ biết đến một thế giới cô độc vô cùng tàn nhẫn, dưới ánh trăng tròn, trên đỉnh núi cao, thân ảnh của Lang Vương lúc nào cũng lẻ loi đơn độc, đã sinh ra làm thủ hộ thần thú, đã chú định cả đời phải chịu nỗi khổ cô độc rồi.

Nhưng vào giây phút này, khi thế giới đứng bên bờ diệt vong, ông ta lại thấy một cảm giác ấm áp của tình bằng hữu, một cảm giác hạnh phúc chân chính.

Đang lúc vui vẻ bàn luận và vất vả duy trì Trấn Ma Kỳ, lại có thêm sáu người nữa đi ra nói: "Náo nhiệt thế này, chúng tôi tham gia với". Người lên tiếng chính là nữ tử mắt xanh thần bí, bên cạnh nàng còn có Thiên Kiêu, cùng với tứ danh hộ vệ ở đằng sau.

A Cửu và Thủy Nhi nhãn quang sắc bén, thấy Thiên Kiêu cả hai đồng thanh kêu lên: "Cát Lợi Nhi", cảm giác kinh ngạc không thể diễn tả.

Lam Nhận, Thiên Kiêu cùng tứ hộ vệ phân chia ra mỗi người ngồi xuống trước một lá Trấn Ma Kỳ. Thiên Kiêu vội giải thích: "Ta không phải là Cát Lợi Nhi của các người, chỉ là có điểm giống với người các ngươi vừa gọi tên ra thôi. Tên ta là Thiên Kiêu".

Thập Kiệt Nhất cùng Đại Đao Vương cũng há hốc mồm, không dám tin trong thế giới này lại có người giống người đến như thế, nhưng nhìn kỹ một hồi, Đại Đao Vương lắc đầu nói: "Không phải, người này mặc dù bề ngoài rất giống nhưng không phải Cát Lợi Nhi. Hai người bọn họ chỉ trừ hình dáng còn lại nhãn thần, cử chỉ, biểu tình đều không có điểm nào chung".

Lam Nhận cười nói: “Tất nhiên là không giống nhau được, tại vì bản thân cô ta tuyệt không phải Cát Lợi Nhi. Đại Đao Vương, Thập Kiệt Nhất, A Cửu, Thủy Nhi, Lang Vương, ta biết cố sự của các người. Thật sự Liễu Dật có thể có những bằng hữu như các người là điều may mắn. Có lẽ chúng ta đều sắp chết, nhưng có thể sát cánh với những bằng hữu đầy nhiệt huyết như các người đã là một hạnh phúc trong đời…”

Dường như, những điều thần bí luôn cuốn hút, mê hoặc con người, hoặc có thể vì tính hiếu kỳ của con người quá mạnh…

- oOo -

Hồi 108: Vi nhĩ kiêu ngạo, thùy thuyết nữ tử bất như nam

(Vì nàng mà kiêu ngạo, ai dám nói nữ tử không bằng nam)

Trong thế giới đầy gian trá và giả tạo, một người giả dối không có nghĩa là muôn vạn người khác cũng giả dối, tội ác của một người không đại biểu cho tất cả mọi người. Những tình cảm chân thật vẫn còn đang tồn tại trong chốn hồng trần của tam giới và Tàn Nguyệt tự tay kể lại câu chuyện này…

Lang Vương tỏ vẻ kì quái: “Sao cô biết bọn ta? Lần trước tại lôi đài ta đã thấy qua đao pháp của cô. Trong ấn tượng của ta, tam giới lục đạo tịnh không có đao pháp nào mạnh mẽ như vậy, mà cô chỉ là một tiểu nha đầu, đã học được ở đâu chứ?!”

Lam Nhận cười: “Lang Vương, người ta bảo ông đã sống trên đời này hơn ngàn năm rồi, sao lại tỏ ra háo hức muốn biết bí mật của người khác, lúc ông cần biết thì tự nhiên biết được, ông hỏi ta như vậy, ta biết nói sao?”

Lang Vương chỉ còn nước miễn cưỡng lắc đầu, miệng lưỡi nha đầu này quả nhiên lợi hại.

Lam Nhận nói tiếp: “Vì sao ta biết các người? Là vì các người đều đã từng xuất hiện trong thế giới của y, nhưng đừng có hỏi ta y là ai, ta không thể nói ra đâu. Sau này có cơ hội, các người sẽ tự nhiên biết thôi mà”.

Lang Vương không còn hứng thú truy vấn thêm mà khéo léo chuyển chủ đề bàn luận, liếc nhìn Trấn Ma Kỳ, quay đầu ngoái nhìn lớp khí bao bọc màu vàng. Hiển nhiên, giờ đây nhân thủ bọn họ không đủ, bằng vào công lực mỗi người chỉ tạm thời tăng cường lớp khí này, nhưng nếu kéo dài, đám tử linh bên trong có thể xông ra ngoài được…

Một âm thanh yêu kiều nhẹ nhàng cất lên: “Gia gia, chúng ta tới giúp họ, con thấy bọn họ có vẻ thống khổ lắm rồi”.

Mọi người nhìn về nơi tiếng nói phát ra. Một tiểu cô nương với mái tóc đỏ rực, mũi thẳng, ánh mắt to tròn, mình mặc một chiếc váy lụa hồng, cánh tay trắng muốt cùng đôi chân dài tú mỹ lộ ra ngoài, thân hình nhỏ nhắn, chỉ chừng mười tám mười chín tuổi. Đứng bên tiểu cô nương tóc đỏ là một lão đầu râu tóc trắng xóa, chính là Long Thần, ông của Mục Nhã.

Lão đầu gật đầu: “Ta thấy thủ lĩnh các môn phái không nguyện ý xuất thủ, thôi để một già một trẻ chúng ta ra tay trước vậy”. Hai người từ tốn ngồi xuống. Mỗi người thủ hộ một lá Trấn Ma Kỳ vàng rực.

Câu nói ngắn ngủi của Long Thần khiến cho sắc mặt các thủ lĩnh Chính, Ma lưỡng đạo đỏ rần. Họ không dám xuất thủ bởi sợ đối phương ám toán, dường như ma chính là ở trong tâm họ.

Mười lăm người phải thay thế ba mươi sáu người tối thiểu để duy trì được Thiên Quang Lục Hợp Trận. Nhưng muốn vậy, cả mười lăm người phải nỗ lực gấp đôi hoặc hơn thế mới có thể miễn cưỡng duy trì đạo hào quang màu vàng bao phủ không bị tiêu thất.

Dần dần, trên trán bọn họ đều đổ mồ hôi, chân lực nhiều người đã suy nhược, đương nhiên A Cửu là người yếu kém nhất, tiếp đó là Thủy Nhi rồi mới đến Mục Nhã, Thiên Kiêu, Đại Đao Vương. Vầng trán những người này mồ hôi nhỏ ròng ròng…

Thời gian chầm chậm trôi qua, người trong chính, ma lưỡng đạo vẫn chưa thôi tranh chấp, chỉ vì sợ đối phương ám toán. Trong khi đó, mấy người ngồi xung quanh Trấn Ma Kỳ đã có biểu hiện không còn chi trì nổi, nhất là A Cửu ngồi bên cạnh Thập Kiệt Nhất, trông như đã quá mức giới hạn có thể chống chọi, nhưng nàng không thể buông tay vào lúc này. Lớp hào quang bao phủ sau lưng đã bắt đầu chập chờn, nếu A Cửu buông tay, đám tử linh nhất định sẽ từ chỗ nàng mà thoát ra.

Nhưng nếu A Cửu cố chi trì, không đến một khắc nữa nhiều khả năng nàng sẽ lâm vào tình trạng thoát lực hoặc còn tồi tệ hơn.

Thấy mồ hôi từ trán A Cửu nhỏ xuống tong tong, Thập Kiệt Nhất liền nói: “A Cửu, nàng mau buông tay".

A Cửu vẫn kiên trì, dứt khoát lắc đầu: “Không thể buông tay, khó lắm mới có thể một lần làm anh hùng thế này, muội không muốn bỏ”. Lúc này A Cửu đã có phần thoát lực, sắc mặt hơi nhợt nhạt.

Lang Vương nhìn A Cửu nói: “A Cửu, muội như vậy là rất tốt, mạng già của ta cũng trông cậy vào muội, phải cố kiên trì, nếu muội buông tay lúc này, tất cả chúng ta đều sẽ chết. Hãy nghĩ đến mọi người trên thế giới này, họ có gia quyến, có hài tử, còn có cả phụ mẫu. Chúng ta cố kiên trì thêm một phút thì cuộc sống vui vẻ đầm ấm của họ sẽ được kéo dài thêm một phút”.

Đang mười phần lo lắng cho A Cửu, Thập Kiệt Nhất nghe vậy nhịn không nỗi gầm to lên: “Lão già kia, lão nói cái gì? A Cửu đã mệt chết đi được, rất có thể sẽ nguy hiểm đến tính mạng, sao lão lại bảo phải vì người khác mà hy sinh bản thân nàng chứ?”

A Cửu quay nhìn Thập Kiệt Nhất, cố gắng đáp: “Thập Nhất, Lang đại ca nói rất đúng! A Cửu ngày trước tính tình nóng nảy, từ khi được ở bên huynh thì mới biết thế nào là hạnh phúc. Hơn nữa đến giờ muội chưa làm được chuyện tốt đẹp gì. Hôm nay, A Cửu có thể dùng tính mạng mình mà đổi lấy một khắc hạnh phúc cho người trong thiên hạ thì dù có chết ở đây, muội cũng vui vẻ rồi”.

Thập Kiệt Nhất nhìn sang A Cửu, mắt long lanh ngấn lệ, nói: “Kiếp này Thập Kiệt Nhất có thể cưới được A Cửu là niềm hạnh phúc lớn nhất, kiêu ngạo lớn nhất của ta”.

Tuy rằng lời A Cửu có phần lắp bắp nhưng những người có mặt nghe thấy lời nói như vậy thốt ra từ miệng một nữ tử đều cảm thấy bội phục trong lòng. Đại Đao Vương nhìn Thủy Nhi bên cạnh có vẻ không trụ nổi nữa, trong lòng phát nộ, nhìn thẳng vào nhóm người các môn phái thuộc chính, ma lưỡng đạo gầm lên: “Các ngươi căn bản không có tư cách làm thủ lĩnh gì cả, các ngươi đều có tư tâm, ta cảm thấy xỉ nhục cho các ngươi, nhìn mấy nữ tử yếu đuối này, nhìn lão già tóc bạc phơ này, các ngươi không biết xấu hổ sao?”

Trước mấy lời nhục mạ cay độc của Đại Đao Vương, bọn người chính, ma lưỡng đạo vẫn không có động tĩnh gì. Những nghi kỵ trong lòng họ quá lớn khiến họ căn bản không cách nào an tâm trấn áp ma khí.

Mọi người đang chăm chú nhìn A Cửu thì một âm thanh từ phía sau vang lên: “Để cho tôi”.

Người đó là ai? Những người ở đó đều nhận ra, đó là tôn chủ của Ma môn, Thất Nguyệt.

Thất Nguyệt trang phục vẫn rất khiêu khích nhưng màu sắc đã biến đổi, chuyển thành màu xanh sẫm. Thất Nguyệt nhẹ nhàng ôm lấy A Cửu đặt dựa lên vai Thập Kiệt Nhất, sau đó tấn tốc vận chuyển chân lực truyền vào lá Trấn Ma Kỳ màu vàng mà A Cửu đã trấn giữ.

Cuối cùng, A Cửu cũng có cơ hội nghỉ ngơi, nằm phục trên vai Thập Kiệt Nhất, nhìn Thất Nguyệt nói: “Thất Nguyệt tỷ tỷ, đa tạ”.

Lam Nhận một mặt tiếp tục vận chân lực, một mặt nói: “Tỷ không cần đa tạ cô ta, cô ta không phải muốn giúp tỷ…”

Thất Nguyệt nhìn Lam Nhận, tịnh không lên tiếng.

Thập Kiệt Nhất có vẻ không hiểu: “Nếu Thất Nguyệt nếu không muốn giúp A Cửu thì sao lại thay nàng khống chế Trấn Ma Kỳ làm gì?”

Lam Nhận cười nụ: “Chuyện này cần đa tạ Liễu Dật. Các vị là bằng hữu thân cận nhất của Liễu Dật, thử hỏi người trong lòng Thất Nguyệt yêu thương nhất là ai? Nếu như bằng hữu của người cô ấy yêu thương nhất mất mạng trước mắt mà cô ấy lại không xuất thủ, cô ấy có yên lòng không?”

Trong mắt Thất Nguyệt thoáng hiện một tia kinh ngạc, nhưng vẫn im lặng.

Một câu nói của Lam Nhận khiến toàn trường im phăng phắc. Lang Vương nhìn sang bên cạnh, những kẻ giang hồ này đều đề phòng lẫn nhau không dám xuất thủ, Lang Vương biết có yêu cầu bọn họ cũng chẳng có tác dụng gì, hiện giờ đành cố kiên trì tới đâu hay tới đó mà thôi.

Sự việc cứ chầm chậm trôi qua, trong lòng mỗi người đều có nỗi bi thương, nhưng cũng có cả niềm hạnh phúc ngọt ngào. Do đó, tất cả những người trấn giữ Trấn Hồn Kỳ đều một lòng quyết tâm: phải tự nỗ lực đến phút cuối để người trong thiên hạ được thêm một vài giây hạnh phúc.

- oOo -

Hồi 109: Thống khổ quyết trạch, bạt kiếm chỉ vi mông lung mĩ

(Lựa chọn khó khăn, vung kiếm chỉ để cứu mỹ nhân)

Anh hùng, phạm vi của từ này rất rộng, ý nghĩa bên trong vô cùng thâm sâu, lịch sử hàng ngàn năm nay, vị anh hùng nào cũng phải trả một cái giá rất đắt vì hai chữ ấy.

Thời gian dần trôi qua nhưng chính, ma lưỡng đạo ở ngoài trường vẫn không động thủ. Liếc mắt nhìn nhóm người trong trường, Ngạo Thiên lạnh lùng cất tiếng: “Các ngươi không phải tự xưng là nhân gian chính đạo sao? Vì cớ gì chỉ trơ mắt nhìn mà không xuất thủ tương cứu? Chắc không quá một tuần trà nữa là họ không trụ nổi, các ngươi cũng không định ra tay tương trợ họ?”

Quỳnh Phách lạnh lùng đáp: “Ta ngại bọn tiểu nhân ám toán. Ngươi xem, con gái ngươi còn khá hơn hẳn ngươi, biết nghĩ đến người trong thiên hạ, tự mình bước ra lãnh lấy trách nhiệm, nếu ngươi vẫn không xuất thủ, ta nghĩ, ngươi chẳng còn mặt mũi nào để nhìn lại con gái của ngươi đâu!”

Ngạo Thiên nổi xung: “Ngươi…”

Nhìn vào trong trường, nhóm người trong đó có vẻ không trụ nổi, kẻ khả dĩ có thể trụ được là Lang Vương, Kỳ, Lân cùng Lam Nhận. Những người còn lại sắc mặt đã nhợt nhạt, ánh mắt đã có một chút rối loạn, mơ hồ, phần lớn chân lực tiêu hao khiến họ vô cùng mệt mỏi. Nhất là hai người Thủy Nhi và Mục Nhã toàn thân đang run rẩy do công lực không đủ.

Đại Đao Vương nhìn Thủy Nhi bên cạnh, nói: “Thủy Nhi, muội nhất định phải cố gắng”.

Thủy Nhi gật đầu: “Muội biết rồi, dù phải dùng đến chút khí lực cuối cùng, muội cũng không bỏ cuộc”.

Đại Đao Vương cười trong làn nước mắt: “Hai nhi tử của chúng ta nếu biết được nhất định sẽ rất tự hào vì đã có thân mẫu như nàng”.

Thủy Nhi nhìn Đại Đao Vương, sắc mặt hiện lên nụ cười nhợt nhạt nhưng thân thể không ngừng run rẩy.

Đại Đao Vương trong lòng rất đau đớn, nhìn Thủy Nhi sắp gục xuống mà hắn lại không có khả năng tương trợ nàng, nỗi thống khổ này như dao đâm vào tim.

Lang Vương nhìn Thủy Nhi, lắc đầu nói: “Liễu Dật có thể kết giao bằng hữu với các vị, y thật sự may mắn”. Ngữ khí tuy bình hòa nhưng ánh mắt đã lộ ra vẻ tuyệt vọng. Chính, ma lưỡng đạo vẫn còn nghi kị lẫn nhau chắc sẽ tức khắc bị trừng phạt. Vô số tử linh cùng độc chướng dày đặc sẽ khiến họ nhanh chóng hiểu được sai lầm.

Lúc này, mồ hôi đã đổ đầy mặt Đại Đao Vương. Những người đang vận công trấn giữ trận thế tựa hồ có thể ngã xuống bất cứ khi nào nhưng dòng máu nóng tràn đầy nhiệt huyết vẫn đang chảy trong tim họ. Vì niềm tin vững chắc, họ không ngại hy sinh tính mạng của mình. Những người này có thể chỉ là những người bình phàm, không tên không tuổi, nhưng họ thật sự là những anh hùng chân chính.

Do vậy họ không thể chết bởi vì một người đã xuất hiện, người đó sẽ thay đổi tất cả…

Cùng lúc chính, ma lưỡng đạo đang mải mê tranh cãi, mặt đất khẽ chấn động, dường như có âm thanh như tiếng vó ngựa dồn dập vẳng tới. Ngạo Thiên nói lớn: “Là gì vậy? Cửu U Ma Thần tỉnh lại chăng?”

Quỳnh Phách lắc đầu, mặt lộ vẻ kinh hoảng: “Không, không phải, là một ai đó đang đến rất nhanh, còn cách mười dặm, nghe qua thanh âm thì dường như là một đội kỵ mã”.

Trong lòng Lang Vương bùng lên niềm vui sướng, nói lớn: “Các vị bằng hữu hãy cố kiên trì, các vị xem kìa, Ma chủ đến rồi”. Mọi người liền quay đầu nhìn theo phương hướng Lang Vương chỉ.

Quả nhiên, dõi mắt nhìn ra xa, dưới ánh nắng tàn của vầng thái dương đang lặn xuống phía Tây, một thân ảnh cao lớn đĩnh đạc hiện lên. Người này thân hình tráng kiện, phục trang toàn một màu đen, tay trái đặt lên thanh trường kiếm bên hông, tay phải hở hững vòng ra sau lưng, tà áo choàng đen cùng mái tóc dài trắng xóa tung bay phất phới. Y cưỡi một con Bạch Hổ thân dài một trượng, đôi cánh trắng muốt soải ra hai bên sườn, đang nhanh chóng phi thẳng đến nơi mọi người đang đứng.

Chuyện khiến người ta không thể tin nổi là phía sau người đó còn có mười hai con Bạch Hổ khác giống hệt như vậy, cưỡi trên thân chúng là mười hai hắc y nhân. Tuy những người này mặc giáp bảo vệ tại những chỗ khác nhau trên thân nhưng thanh trường kiếm đeo bên hông thì cùng một kiểu. Không ai thấy rõ gương mặt họ vì trên mặt mỗi người đều mang một chiếc mặt nạ. Tuy nhiên, đằng sau những chiếc mặt nạ là những đôi mắt đen tuyền lấp lánh tinh quang, có thể thấy họ nhất định là những cao thủ kiếm thuật.

Chuyện kinh ngạc không chỉ dừng ở đó, khi khoảng cách hai bên được rút ngắn lại, bụi đất bay lên mù mịt do những con Bạch Hổ đang bay thấp dần tạo ra, thì tiếng vó ngựa dồn dập vang lên từng hồi như thể có cả một đội kỵ mã đang phi nhanh đến.

Ngạo Thiên thốt lên: “Là mã đội?”

Quỳnh Phách lắc đầu: “Không, là bầy sói”.

Đưa mắt dõi theo lẫn trong bụi đất bay bay, mười hai con sói xám dàn hàng ngược gió nhanh chóng lướt tới. Mỗi con sói có thể sánh với một con ngựa hảo hạng, mười hai con hợp thành một đội, cả hai đội là hai mươi bốn con. Trên lưng mỗi con sói là một hắc y nhân, ngoại hình, tác phong và thanh trường kiếm đeo bên hông cũng giống hệt nhóm cưỡi Bạch Hổ.

Gió thổi bụi đất vàng bay mịt trời, khoảng cách hai bên càng lúc càng gần. Hai mươi bốn kiếm sĩ cưỡi trên lưng sói xám cùng với mười hai con Bạch Hổ trên không trung vẫn giữ nguyên tốc độ lướt tới như chớp. Người dẫn đầu chính là Liễu Dật, Ma giới chi chủ, chủ nhân Vĩnh Hằng Chi Thành. Dưới ánh tà dương, y phảng phất có dáng vẻ của một vị thần từ trời cao xuống giải cứu chúng sinh.

Mục Nhã nhìn những người đang bay trên trời, dùng khí lực còn sót lại nói: “Gia gia, thần linh đến cứu chúng ta”.

Long thần lúc này cũng quá mệt, chỉ cười nhẹ nói: “Có thể, hoặc giả y cũng so được với thần, thần không quản đến chuyện sống chết của chúng ta, mà chỉ coi chúng ta là những con rối do họ sáng tạo ra mà thôi”.

Thủy Nhi nhìn thấy thân ảnh đó, ý thức dần dần trở nên mơ hồ, không còn trụ nổi nữa, từ từ gục xuống. Không thể trách nàng, bởi nàng đã tận dụng đến chút khí lực cuối cùng, những gì còn lại chỉ là làn hơi thở yếu ớt.

Nhìn lên bóng người trên thiên không, Lam Nhận, Thiên Kiêu, Thất Nguyệt đồng thời thốt lên: “Là y”. Tuy nhiên trong lòng mỗi người cảm giác khác hẳn nhau. Lúc Liễu Dật xuất hiện, ánh mắt ba người đều ánh lên vẻ rạng rỡ như muốn nói “Hy vọng đến rồi”.

Cũng lúc đó, lớp hộ vệ màu vàng đột nhiên lộ ra một khe hở…

Chớp mắt, hai tử linh xông thẳng ra, chỉ có nửa thân trên, thân dưới chẳng thấy đâu, hai tử linh này một lao đến bên Thiên Kiêu, một lao đến chỗ Thất Nguyệt.

Ngay lập tức, Bạch Hổ trên không phát ra tiếng gầm động trời, tay phải Liễu Dật vung lên, chớp mắt một khối cầu màu lục xuất hiện bao trùm lấy Thủy Nhi và lá cờ, truyền chân lực cường mãnh nhanh chóng phong bế khe hở. Trong khi Bạch Hổ từ từ hạ xuống, Liễu Dật vung kiếm dùng Trảm thiên thuật phóng ra một luồng hào quang màu lục xuyên qua thân người Thiên Kiêu, chặt tử linh ở sau lưng nàng thành hai mảnh, làn gió thoảng qua, tử linh biến thành một làn khói xanh tan biến vào không trung.

Vì đứng trên lưng Bạch Hổ, ở vào vị trí không cho phép Liễu Dật sử dụng kiếm thuật nên đành dùng Trảm thiên thuật chém chết một tử linh. Y cũng không hiểu tại sao mình lại cứu Thiên Kiêu trước tiên mà không phải là Thất Nguyệt. Thật khó mà diễn tả thành lời, chỉ có thể nói là khi nhìn thấy gương mặt Thiên Kiêu, Liễu Dật không thể không bạt kiếm cứu nàng.

Tốc độ của tử linh còn lại cực nhanh, vừa mới tiếp cận Thất Nguyệt liền đưa tay chộp lấy nàng bay ngược lại theo hướng cũ. Thất Nguyệt đã quá yếu nhược, căn bản không có khả năng phản kháng, nàng chỉ có thể dùng ánh mắt nhìn sang Liễu Dật, nhưng ánh mắt nàng lại không lộ một chút hối hận nào.

Do Thất Nguyệt không thể thủ hộ Trấn Ma Kỳ nữa, lớp hộ vệ màu vàng liền lộ ra khe hở. Tử linh đã bắt đi Thất Nguyệt liền theo chỗ đó bay vào và biến mất trong làn chướng khí dày đặc. Mặc dù Liễu Dật muốn dùng chân lực cường đại giữ tử linh này ở bên ngoài nhưng y vẫn chậm một bước, khe hở đã khép lại, Thất Nguyệt vĩnh viễn biến mất trong làn mê vụ chốn Phong Đô Quỷ Thành...

- oOo -

Hồi 110: Bi khổ thập niên, thỉnh quân hồi thủ bất tương vọng

(Mười năm đau khổ, xin người có quay đầu cũng đừng nhìn lại)

Liễu Dật xoay người hạ xuống đất, tay phải vung lên nói: “Hãy thay thế họ”.

Ba mươi sáu hắc y nhân phóng mình xuống bên cạnh những người đang thủ hộ lá cờ, nhanh chóng phân công trấn giữ ba mươi sáu lá Trấn Ma Kỳ. Luồng sáng xanh lập tức được truyền vào trong lá cờ đỏ rực. Chớp mắt lớp hộ vệ màu vàng như được tăng thêm sức sống tỏa ra những ánh hào quang vàng rực rỡ, đồng thời ba mươi sáu lá cờ đỏ cũng ánh lên những tia sáng dìu dịu.

Phía sau, hai mươi bốn con sói xám to lớn cũng như mười hai con Bạch Hổ ở trên không tự động xếp thành hàng ngũ rất chỉnh tề. Lang Vương đứng lên, lau mồ hôi trên mặt nói với Liễu Dật: “Ma chủ, ngài đến thật đúng lúc”.

Liễu Dật lúc này căn bản không có tâm tình nghe những lời như vậy, y nhìn đám người chính, ma lưỡng đạo, tức tối quát: “Ta thật lấy làm nhục nhã cho các ngươi. Giờ thì hỏi các ngươi có đồng ý nghe theo sự điều động của sư phụ ta không, nhược bằng các ngươi muốn chết thì dễ lắm, ta sẽ tức khắc kêu người của ta rút về. Ta đếm đến ba, các ngươi chỉ có chừng đó thời gian để quyết định”. Giọng nói đầy vẻ kiêu ngạo nhưng chứa đựng phong thái của bậc vương giả.

"Một!"

“Gia gia, huynh ấy thật lợi hại”, Mục Nhã đang nằm trong lòng Long Thần xem chính, ma lưỡng đạo cùng Liễu Dật bàn thảo điều kiện thốt lên.

"Hai!"

“Y vừa xuất hiện, ta đã thấy tam giới sẽ xuất hiện một cục diện mới”. Long Thần nhè nhẹ vuốt mái tóc đỏ của Mục Nhã nói.

"Ba!"

“Được, nghe theo lời thành chủ vậy, sáu trăm người của Ma tộc xin tuân theo sự xếp đặt của ngài”. Ngạo Thiên hốt hoảng thốt lên. Y biết nếu như hôm nay không đáp ứng thì khác gì tự chọn bản án tử hình cho mình.

Liễu Dật nhìn Quỳnh Phách, lạnh lùng hỏi: “Còn ông?”

Quỳnh Phách cũng gật đầu: “Cũng xin nghe theo sự sắp xếp của thành chủ và tiên sinh”.

Liễu Dật quay qua Lang Vương nói: “Sư phụ xin hãy thu xếp bố trí mọi việc ở đây”.

Lang Vương gật đầu: “Ma chủ yên tâm, tôi nhất định sẽ ráng hết sức mình".

Liễu Dật lại nhìn Bạch Hổ, Kỳ, Lân: “Các ngươi bảo hộ sư phụ, nghe theo sự chỉ huy của ông ấy, ta đi vào Quỷ thành đây”.

Lời vừa thốt ra, tất cả đều kinh ngạc. Quỷ thành bình thường cũng không có gì đáng sợ lắm nhưng hiện giờ đã khác, tử linh dưới chốn Cửu U tràn ngập, khắp nơi lại đầy độc chướng, nếu ngoan cố tiến vào, chắc chắn không còn mạng trở ra.

Lang Vương vội nói: “Ma chủ, xin hãy nghĩ kỹ, trong Quỷ thành hiện giờ đâu đâu cũng có tử linh, độc chướng lại dày đặc, vạn lần không nên mạo hiểm. Thất Nguyệt bị tử linh bắt vào trong đó, có khi đã sớm…” Lang Vương đương nhiên hiểu rõ Liễu Dật nghĩ gì.

Liễu Dật không quay đầu, chỉ nhìn vào Quỷ thành nói: “Ta không sợ độc chướng, cũng không sợ tử linh, ta còn làm bọn chúng phải sợ nữa là…”

Lời này khiến mọi người ngẩn ra.

Đột nhiên Lang Vương nhớ ra rằng Liễu Dật có dòng máu cuồng bạo trong mình, loại độc nào cũng không có tác dụng, quả thực Liễu Dật không sợ độc chướng. Nhưng Lang Vương cũng nghĩ đến một chuyện, tiếp lời: “Ma chủ, tôi vẫn khuyên ngài suy nghĩ cẩn thận trước khi tiến vào, ngài cần biết, chúng ta chưa ai từng vào Phong Đô Quỷ Thành, không biết trong đó có gì, vì sao lại có tiếng nổ lớn đến thế, vì sao lại có nhiều tử linh đến thế, tôi thấy có quá nhiều điểm đáng nghi. Có thể độc chướng, tử linh không nguy hiểm đối với Ma chủ nhưng điều mà tôi e sợ là cái khác, chẳng hạn như Cửu U Ma Thần”.

Liễu Dật chậm rãi quay lại nói: “Được rồi, sư phụ, ta đã quyết định rồi. Nếu như không tiến vào, ta nghĩ ta vĩnh viễn không thể đối diện với chính mình. Ông cứ ở đây xếp đặt mọi việc, nếu trong ba ngày ta không quay ra, chắc rằng lúc đó ta đã gặp phải chuyện gì rồi, ông cứ phân phó mọi người phải đi đâu để tìm thần cung và chế luyện thần kiếm đi”.

Lang Vương thôi không khuyên giải nữa, ông biết tính tình và cảm giác của Liễu Dật hiện giờ, nếu như y không tiến vào Phong Đô Quỷ Thành lúc này thì y sẽ tự trách mình cả đời, càng tăng thêm nỗi thống khổ trong lòng.

Liễu Dật nhìn bọn Thập Kiệt Nhất, Đại Đao Vương, A Cửu, Thủy Nhi, Lam Nhận đang nghỉ ngơi trên mặt đất, gật đầu thốt: “Ta thật sự cảm phục mọi người, các vị là những vị anh hùng chân chính. Tuy ta không thể thay mặt cho tất cả người trong thiên hạ nhưng xin được thay mặt chính mình, cảm tạ các vị”.

Đại Đao Vương ôm lấy Thủy Nhi đang dần tỉnh lại, lắc cái đầu nhím của mình, cười lớn nói: “Ha ha, ta thích huynh lắm, làm việc dứt khoát, nhanh gọn, có trách nhiệm, huynh làm ta nhớ lại Liễu đại ca trước kia. Huynh tuy là người Ma giới nhưng những người được gọi là thủ lĩnh gì đó làm sao so sánh được, ha ha.”

Đôi mắt Liễu Dật ánh lên nét cảm động. Y quét mắt ngắm nhìn mọi người một lượt, cố ghi nhớ hình ảnh mỗi một người bằng hữu, sợ rằng khi vào Phong Đô Quỷ Thành gặp phải Cửu U Ma Thần có lẽ sẽ không có cơ hội gặp lại họ lần nữa.

Đại Đao Vương không thay đổi, Thập Kiệt Nhất cũng không thay đổi, chỉ có A Cửu và Thủy Nhi là thay đổi nhưng là kiên cường hơn, có trách nhiệm hơn, trong lòng y thầm chúc phúc cho bọn họ.

Liễu Dật nói: “Các vị nghỉ ngơi đi”. Nói đoạn, y chuyển thân, vung kiếm chuẩn bị chém một khe hở để tiến vào lớp hộ vệ màu vàng.

Lam Nhận lúc đó vẫn ngồi yên trên mặt đất, lên tiếng: “Rõ ràng là không yêu nàng ta, lại còn đi cứu nàng ta. So với sống thì nàng ấy chết còn thấy nhẹ nhàng hơn, nhưng có người còn sống phải mang nỗi thống khổ của nàng ta, ôi…”

Thiên Kiêu nhìn Lam Nhận ở bên rồi nhìn Liễu Dật, nàng biết rằng y cứu nàng vì nàng và tỷ tỷ của nàng dung mạo giống nhau. Cũng vì dung mạo giống nhau như vậy đã làm tổn thương đến trái tim của một nữ tử khác.

Xa nhất trên đời này không phải là hố sâu ngăn cách giữa hai người. Thất Nguyệt dù có đứng trước mặt Liễu Dật nhưng Liễu Dật lại không thể tiếp thụ mối tình của nàng ta, do đó mà khoảng cách giữa hai người bỗng nhiên trở thành xa xăm nhất trên cõi đời.

Liễu Dật lắc đầu, Bi Mộng kiếm rút ra, một luồng kiếm khí màu trắng ẩn hiện ma khí đen kịt chém mạnh vào lớp hộ vệ màu vàng, lớp hộ vệ lập tức hé ra một khe hở. Khi Liễu Dật vừa tiến vào trong thì khe hở tự khép ngay lại và y cũng biến mất giống như Thất Nguyệt lúc nãy, chỉ có điều lòng y hiện giờ ngập đầy cảm giác hổ thẹn.

Vào trong Thiên Quang Lục Hợp Trận, Liễu Dật phát hiện ra đây là một thế giới khác, đâu đâu cũng thấy tử linh trôi nổi, bao quanh y trừ lớp ma khí màu đen thì bên ngoài toàn là độc chướng màu xanh. Liễu Dật bay một cách chậm rãi, từ từ tiếp cận Phong Đô Quỷ Thành. Do trong người y có máu huyết cuồng bạo nên độc chướng đối với y không mảy may nguy hiểm. Ngược lại, đám tử linh khi cảm giác được luồng khí của huyết thống cuồng bạo đều dần dần tản đi. Chúng đã quá quen với mùi vị này, mùi vị của Ma thần, mùi vị của người từng thống trị toàn thể Ma giới.

Liễu Dật thẳng đường tiến tới, không gặp phải trở ngại nào, đương nhiên cũng không phát hiện thi thể của Thất Nguyệt nên trong lòng thấy nhẹ nhõm hẳn. Có thể Thất Nguyệt biết sử dụng Lan Nhĩ Phi Na Thanh tâm pháp cách ly độc chướng, nhưng Liễu Dật lập tức gạt bỏ ý nghĩ này. Thất Nguyệt đã dụng hết chân lực, làm sao còn đủ khả năng sử dụng Lan Nhĩ Phi Na Thanh tâm pháp đây?

Liễu Dật có thể khẳng định rằng Thất Nguyệt còn chưa chết, bởi vì đường đến Phong Đô Quỷ Thành trống trải, trơ trụi, hoang vắng vô cùng, căn bản không hề nhìn thấy thi thể nàng, điều đó chứng minh nàng còn sống, chỉ là không biết nàng hiện ở đâu. Liễu Dật đành tự an ủi và bắt đầu tìm kiếm khắp nơi.

Đối với Thất Nguyệt, y chỉ thấy cảm động, không biết niềm cảm động thâm sâu có thể hình thành nên một chút ái tình hay không? Không ai biết. Có lẽ Thất nguyệt đứng ra thủ hộ Trấn Ma Kỳ cũng do niềm cảm động đó, chỉ không biết là ai đã làm ai cảm động trước?

Đột nhiên, Liễu Dật nhìn thấy một mảnh lụa màu xanh thẫm mềm mại đang bị gió thổi bay phất phới trong không trung, đó… đó là chiếc thắt lưng tinh xảo của Thất Nguyệt. Liễu Dật nhanh chóng chuyển hướng lướt về phía mảnh lụa xanh, thò tay bắt lấy, quả thực chính là chiếc thắt lưng của Thất Nguyệt mà Liễu Dật đã quá đỗi quen thuộc.

Rất nhanh, Liễu Dật phát hiện ra trên mảnh lụa có chữ viết, là chữ viết bằng máu tươi… Có thể Thất Nguyệt biết rằng sẽ có ai đó tiến vào nên đã dùng máu viết lại mấy lời tuyệt bút: “Thu lại thu, tháng nối tháng, năm tháng trôi đi, mười năm bi khổ, chỉ hận chưa thấu hiểu được chàng, nỗi tương tư ghi khắc trong lòng, quên đi mấy độ sầu, thôi đã vô tình, gặp lại nữa làm chi, xin người dẫu có quay đầu cũng đừng nhìn nhau nữa…”

Thấy những chữ viết bằng máu này, Liễu Dật không nói lên lời, y chỉ cảm nhận được nỗi tuyệt vọng và nỗi đau trong lòng của Thất Nguyệt, cảm giác được trái tim tan vỡ của nàng…

- oOo -

Hồi 111: Phong đô quỷ thành, Vi hồng nhan dục kiến ma thần

(Phong Đô Quỷ Thành, vì nàng mà gặp Ma thần)

Liễu Dật ngây ngẩn nhìn mảnh lụa màu lam và những chữ trên mảnh lụa, nhìn đi nhìn lại mấy chữ: "Thôi đã vô tình, sao còn chờ đợi, xin chàng có quay đầu cũng đừng nhìn nhau nữa".

Thất Nguyệt muốn bảo y quay lại chăng? Nàng không muốn gặp y?

Lúc y đang suy xét, từ trên thinh không truyền đến một giọng nói: "Cuối cùng ngươi cũng tới."

Liễu Dật bị âm thanh này đánh thức, hỏi ngay: "Ngươi là ai? Ở đâu?"

Thanh âm không hồi đáp, thay vào đó lại hỏi tiếp: "Ngươi đến đây tìm người?"

Liễu Dật hỏi nhanh: "Sao ngươi biết?"

Thanh âm đó ậm ừ: "Bởi vì… người đó đang ở trong ta."

Liễu Dật gầm lên: "Rốt cuộc ngươi là ai? Là ngươi bắt đi Thất Nguyệt ư? Vì sao?"

Thanh âm đó cất lên tràng cười vang dội rồi ngừng lại, bỏ qua hai câu hỏi đầu, chỉ trả lời câu hỏi thứ ba: "Ta và ngươi giống nhau, vận mệnh đều bi thảm, chúng ta nhất định phải thay đổi lại lại lịch sử, định nghĩa lại Thần giới. Ta có sức mạnh vô thượng, ngươi có thân thể và kiếm ý tối hoàn mỹ, chỉ cần chúng ta hợp tác, có thể khiến cho đám Thần đang ngủ yên vĩnh viễn tử vong."

Liễu Dật trong lòng chấn động, chợt nhớ ra một việc, hỏi: "Ngươi là Cửu U Ma Thần? Ngươi đã tỉnh lại, sao không thoát ra?"

Âm thanh nọ vẫn đáp với giọng đều đều: "Chuyện ngươi hỏi ta có quá nhiều khía cạnh, ta không muốn hồi đáp vì chúng ta còn chưa kiến diện nhau, ngươi cứ nghe giọng nói này là được rồi."

"Thư sinh ngốc, hắn là quái vật đó, mau lui đi… chứ". Tiếng nói tắt ngay, đầy vẻ khẩn cấp, kinh hoảng, nhưng Liễu Dật biết đó là tiếng của Thất Nguyệt. Nàng vẫn còn sống, nàng là một nữ tử kiên cường, theo thanh âm vừa cất lên thì nàng hiện tại đang phải chịu khổ nạn, đó… đều do y hại nàng.

Âm thanh nọ tiếp tục vọng tới: "Nghe đây, người ngươi cần tìm là nàng ta đúng không? Hãy vào trong Phong Đô Quỷ Thành, ta đợi ngươi ở đó."

Liễu Dật đồng ý: "Được, ngươi đã muốn gặp ta, ta hy vọng trước khi ta tới nơi ngươi không được làm hại dù là một sợi tóc của nàng."

Âm thanh nọ không bộc lộ biểu tình gì: "Trên đời này, chỉ có mình ngươi đủ tư cách cùng ta bàn thảo điều kiện, ngươi cứ tiến vào, ta đảm bảo nàng ta được an toàn."

Liễu Dật đáp: "Được."

Y thôi động chân khí, dùng tốc độ thật nhanh lướt về Phong Đô Quỷ Thành cách đó ngoài trăm dặm; mây đen, tử linh xám xịt, lục sắc độc chướng, tất cả đều dần lùi lại sau lưng. Càng đến gần Phong Đô Quỷ Thành, độc chướng càng dày đặc, tử linh càng nhiều, ma khí càng nặng nề nhưng y không quan tâm đến những mối nguy hại đó, trong lòng y chỉ nghĩ đến việc cứu Thất Nguyệt ra khỏi chốn đáng sợ này.

Trên không trung dìu dặt vang lên tiếng nhạc u oán, là cổ cầm và trường địch hợp tấu. Tiếng nhạc bi khổ, thê lương, tựa hồ động đến tận gốc rễ trong lòng người, lại dường như khiến người khác cảm nhận được nỗi bi thương của người tấu. Y không rõ tiếng nhạc từ đâu truyền lại nhưng căn cứ vào tài nghệ âm luật của y thì đây thực sự là một khúc nhạc tuyệt vời, chỉ hiềm quá đỗi thê lương khiến người nghe như muốn bật khóc.

Tuy nhiên, quái sự liên tục phát sinh, lẫn trong thanh âm dìu dặt là tiếng ngâm một từ khúc u oán tuyệt vọng của một nữ tử: "Thu lại thu, tháng nối tháng, năm tháng trôi đi, mười năm bi khổ, chỉ hận không ai cùng thấu hiểu, nỗi tương tư nhập tủy, quên đi mấy độ sầu, thôi đã vô tình, sao còn chờ đợi nữa, xin chàng có quay đầu lại cũng đừng nhìn nhau nữa…". Là tiếng của Thất Nguyệt.

Trong khúc ngâm bộc lộ nỗi bi thương vô hạn, trong lời từ mang theo nỗi tuyệt vọng. Liễu Dật tựa như hiểu được rằng Thất Nguyệt mượn bài từ để diễn tả nỗi đau của nàng. Y không thể suy nghĩ nhiều mà cần nhanh hơn, nhanh chóng tiến vào Phong Đô Quỷ Thành.

Đương nhiên, sau khi thấy nỗi bi thương này, y không thể nghĩ ra có một âm mưu ẩn phía sau, giọng của Thất Nguyệt lúc trước còn đầy vẻ kinh hoàng mà giờ đây lại thê lương đến vậy…

Rốt cuộc y cũng đến được Phong Đô Quỷ Thành. Cảnh tượng trước mắt khiến y kinh hoảng: lục sắc độc chướng dày đến độ không thể nhìn ra tường thành ở đâu, bốn bề trên không là tử linh bay lơ lửng. Thêm vào đó, mây đen ở đây sắc bén như dao, cuồn cuộn xoay vòng, giữa vùng mây, chớp liên tục lóe lên.

Y thu hồi Bi Mộng kiếm, từ từ hạ xuống.

Đi được mấy bước, y dừng chân lại bởi nhìn thấy một vật, một làn khói xanh tụ tập thành một quả cầu cực lớn hình tròn, lơ lửng phía trên nhai đạo tòa thành.

Đột nhiên từ quả cầu tròn phát ra thanh âm: "Có nhìn thấy ta không? Chính là ta đây."

Liễu Dật hỏi: "Ngươi là Cửu U Ma Thần vốn bị Hậu Nghệ phong ấn dưới trần thế?"

Quả cầu tròn đáp lời: "Chính vậy. Bởi vì sức mạnh của mũi tên đó quá lớn, hiện giờ ta vẫn còn trong trạng thái bị phong ấn, tử linh càng lúc càng nhiều như ở đây là để đánh thức ta khỏi giấc ngủ sâu."

Trong lòng Liễu Dật kinh nghi: "Ở đâu ra lắm tử linh như vậy?", nhưng hiện giờ đó không phải là vấn đề trọng yếu, y hỏi ngay: "Còn Thất Nguyệt? Nàng hiện ở đâu? Ta đã đáp ứng ngươi đến đây rồi, chắc ngươi cũng đáp ứng ta không làm tổn hại nàng một mảy may."

Quả cầu tròn nứt toác ra, chỉ trong chớp mắt Liễu Dật đã phát hiện rằng quả cầu không phải là chân diện mục của Cửu U Ma Thần, phía sau lộ ra hai con mắt màu máu cùng hai cánh tay đen ngòm.

Thất Nguyệt từ bên trong bước ra, quả cầu tròn màu lục liền hợp lại. Thất Nguyệt nhìn Liễu Dật rồi đưa tay dụi mắt, cơ hồ không tin, lắc đầu nói: "Huynh sao lại ngốc vậy, đã bảo huynh quay lại sao còn đến đây?"

Liễu Dật không đáp lời, chỉ nhìn Cửu U Ma Thần rồi hỏi: "Nàng không trúng độc chứ?"

Cửu U Ma Thần đáp: "Ta đã cấp cho nàng một phần nhỏ lệ khí của ta, ít nhất thì trong vòng một ngày nàng không hề hấn gì với độc chướng ở đây."

Liễu Dật gật đầu, nhìn Thất Nguyệt, ánh mắt y lộ vẻ hài lòng, xen lẫn vẻ quan tâm.

Liễu Dật mở rộng tay phải, nhẹ nhàng nói: "Nha đầu, đến đây nào."

Thất Nguyệt nhìn chăm chăm vào tay phải Liễu Dật, nước mắt vô tình nhỏ xuống. Khoảnh khắc này dừng lại, vì nàng mà dừng lại, bao nhiêu đợi chờ đã được thỏa, bao nhiêu bi thương lúc đó hóa thành tro tàn bị gió cuốn đi. Nếu cho nàng một định nghĩa về thời gian, nàng chỉ hy vọng khoảnh khắc này là vĩnh viễn.

Trên cõi đời này, người duy nhất nàng có thể ỷ lại cũng là y. Lúc này, y đã làm nàng cảm động, không quản sinh tử tiến vào Phong Đô Quỷ Thành vì muốn cho nàng bình yên. Một khoảnh khắc nhưng là niềm cảm động suốt kiếp, một khoảnh khắc nhưng nhung nhớ cả một đời…

Cuối cùng, nàng cũng nhẹ nhàng bước tới, đưa tay ra, Liễu Dật cầm lấy tay nàng, nhanh nhẹn tiến tới một bước, che chắn phía trước Thất Nguyệt. Nếu Cửu U Ma Thần muốn hại nàng thì vướng phải thân thể Liễu Dật.

Y không buông tay nàng, y sợ rằng nếu buông ra thì không cầm lại được nữa. Nhìn hình dạng kỳ quái của Cửu U Ma Thần, y hỏi: "Giờ thì ngươi nói đi, ngươi đưa ta đến đây vì mục đích gì?"

Quả cầu tròn màu lục không lên tiếng, chỉ thở dài một hơi, một hơi thở mà phảng phất như tuôn ra nỗi bi thương tích tụ cả vạn năm, ngừng lại một chút rồi đáp: "Nỗi khổ ba đời ba kiếp của ngươi đã được vận mệnh chú định là phải chết, ngươi không muốn phản kháng sao?"

"Như ta, vì sao lại phải như thế này, phải mở to mắt nhìn cảnh mình bị đày xuống đáy mười tám tầng địa ngục, xuống nơi lạnh lẽo nhất của chốn Cửu U, phải cam chịu ở đây, là vì ai? Là ai chú định vận mệnh của ta, ta không phục nên ta cần phải thoát ra, cần vĩnh viễn rời khỏi chốn giá lạnh này."

Liễu Dật nói: "Đó là vì bản chất của ngươi, nếu ngươi mà thoát được chắc thế giới này đến ngày bi thảm, ngươi căn bản không nên xuất hiện."

Quả cầu tròn màu lục lại nói tiếp: "Đúng vậy, ta không cần xuất hiện nhưng vận mệnh phải chết kêu gọi ta xuất hiện, ta không rõ mình xuất hiện trên đời vì cái gì nhưng ta phải tranh thủ quyền lợi cho mình."

"Hiện giờ ta chưa có sức mạnh để xung phá đạo phong ấn này nhưng ta gặp được ngươi, một người có thân thể, huyết dịch và cả vô thượng kiếm ý của ma, còn ta, ta có oan hồn chi lực tích tụ qua ngàn vạn năm. Nếu hai người chúng ta có thể kết hợp thì ta cam đoan không làm hại thế giới này, ngươi có được sức mạnh lớn hơn, chúng ta cùng thay đổi vận mệnh của mình."

Liễu Dật kinh hoảng kêu lên: "Ngươi nói là ngươi muốn nhập vào trong thân thể ta…"

- oOo -

Hồi 112: Vong tình khí ái, ma trung ma dục đoạ hồng trần

(Quên tình ái, Ma Trung Ma muốn xuống cõi trần)

Một con đường không nhất định phải thẳng tuột hay không có ngã rẽ. Cuộc đời, cũng giống như con đường, luôn có ngã rẽ để cho người ta chọn lựa. Bởi vì thời gian không ngừng giục người ta tiến lên, buộc người ta phải đưa ra chọn lựa, đôi lúc chỉ vì một chút lầm lạc khiến người ta có những quyết định lựa chọn sai lầm.

Quả cầu tròn màu lục trôi nổi trước mắt Liễu Dật, đồng thời cất tiếng: "Chính vậy, để chúng ta dung hợp, để ta nhập vào thân thể ngươi, ngươi hãy bỏ đi nhục thân của mình, chúng ta sẽ trở nên mạnh hơn tất cả."

Liễu Dật hỏi: "Bỏ đi nhục thân của ta? Hồn phách của ta sẽ đi đâu?"

Quả cầu tròn màu lục nói: "Hồn phách của ngươi… ha ha, sẽ ở chốn Cửu U, trở thành tử linh."

Liễu Dật gật đầu: "Ta hiểu rồi, ý ngươi nói là chỉ cần ta cho ngươi thân thể, ngươi có thể trở thành Ma Trung Ma."

Cửu U Ma Thần cười lớn: "Ha ha ha ha, ta vô tình vô ái, chân chính là Ma Trung Ma, chỉ cần có được nhục thân của ngươi thì toàn thể sẽ bị ta đặt dưới chân mình, kể cả cừu nhân của ngươi và không loại trừ các vị thần cao cao tại thượng."

Liễu Dật không lên tiếng.

Cửu U Ma Thần nói tiếp: "Nghĩ đi, ngươi vì sao phải sống lại, vì cái gì? Không phải vì ngọn lửa phục cừu khiến ngươi phải sống tiếp ư? Người ngươi yêu thương đã chết, thân nhân của ngươi đã trở thành xương khô cả rồi, cõi đời này còn gì đáng quyến luyến với ngươi nữa? Bỏ đi nhục thân của ngươi để chúng ta hợp thể, để ta giúp ngươi xóa đi mọi cừu hận."

Ma Thần không ngừng lời: "Mười năm trước, chỉ trong một đêm ngươi đã mất tất cả: thân nhân, người yêu thương, cuộc sống của ngươi hiện giờ chẳng qua cũng vì cừu hận. Chỉ cần ngươi đáp ứng ta, ta giúp đỡ ngươi, ngươi sẽ vĩnh viễn rũ bỏ được cừu hận ngày trước."

Trong óc Liễu Dật hiện lên một bức màn che phủ, cừu hận đó y không cách gì quên đi được ở kiếp này. Bầu trời u ám hòa lẫn những giọt mưa bi thương, gió thê lương thổi qua, thổi tan đi tất cả; thi thể của phụ thân đã lạnh băng, trong tòa viện máu chảy thành sông, thây chất thành núi, sinh mệnh cả nghìn người đã bất ngờ mất đi chỉ trong một tối. Những lời trách cứ y từng nghe, những ấm áp y từng có, trong đêm đó đều tan biến.

Chứng kiến bộ dạng thống khổ của Cát Lợi Nhi, khuôn mặt trắng toát vì mất máu của nàng, y có lòng mà vô lực, y hận, hận vận mệnh vì sao lại an bài số kiếp của y như vậy, càng hận kẻ đã vạch ra âm mưu, y muốn hồn phách y vĩnh viễn trở thành một ngọn khói xanh phiêu đãng trên đời, chịu nỗi thống khổ không thể luân hồi.

Tròng mắt y dần chuyển sang màu đỏ, cừu hận và tấm lòng phục cừu thôi động cuồng bạo chi huyết của y. Y nhìn Cửu U Ma Thần, nói lớn: "Ta muốn những kẻ từng làm hại ta đều phải chết, ta phải đày các vị thần nơi thiên thượng xuống địa ngục, phải định nghĩa lại Thần giới. Ta phải khiến cho tất cả thay đổi theo ta."

Cửu U Ma Thần từ từ mở rộng quả cầu tròn màu lục. Nhìn vào bên trong thấy một chiếc bóng màu đen, sau lưng có một đôi cánh cũng màu đen đang vũ động nhè nhẹ, thứ có thể nhìn thấy duy nhất là đôi mắt màu đỏ, đỏ như máu, dường như dùng chính máu tươi vẽ lên, cùng với song trảo đen ngòm tựa như hình dạng thiết câu. Hạ thân căn bản không thể nhìn rõ, tựa hồ hắn dựa vào chiếc bóng mà tồn tại.

Âm thanh trầm trọng cất lên: "Lòng ngươi đau lắm ư? Giống như lấy kiếm đâm xuyên qua. Tiếp thụ ta, bỏ đi nhục thân để chúng ta hợp thành nhất thể, biến thành tối cường, báo phục đám thần cao cao tại thượng. Chúng ta sẽ ném bọn chúng xuống chốn Cửu U dưới mười tám tầng địa ngục, cho bọn chúng phải ngàn vạn năm hối hận, nếm mùi vĩnh viễn trầm luân vì việc sai trái chúng đã làm."

Liễu Dật buông lỏng bàn tay Thất Nguyệt, đột nhiên bước thẳng đến chỗ chiếc bóng màu đen, đầu óc y không cân nhắc gì nhiều, chỉ muốn tiếp thụ chiếc bóng kia để trở thành Ma Trung Ma. Như thế, y không phải chịu đựng nỗi đau phục cừu nữa mà có thể liếc mắt nhìn người đời, kiếm chỉ lên thiên không Thần giới, chân giẫm lên Thần châu tam giới, thỏa được ý muốn báo phục.

Thanh âm kia không ngừng cổ vũ: "Đến đây, đến chỗ ta đi, chúng ta sẽ báo phục người đời, sẽ trở thành nhân vật triệu hoán tử vong của Thần giới. Sau khi chúng ta dung hợp, không còn ai cản trở nổi chuyện đó."

Liễu Dật chậm rãi di động cước bộ, hai mắt y bị ngọn lửa cừu hận thiêu đốt thành màu máu, y không đủ khả năng suy xét bởi toàn bộ cừu hận trong lòng đã được kích dẫn. Trước mắt y chỉ có một con đường: quên đi tình ái, bỏ đi nhục thân cùng Cửu U Ma Thần dung hợp thành Ma Trung Ma. Quá nhiều cừu hận khiến y quên đi tình bằng hữu từng có, khiến y không thể dừng chân được; quá quá nhiều cừu hận khiến y không thể chọn lựa, không còn đường lùi.

Nhưng đúng vào lúc đó, Thất Nguyệt lao thẳng đến trước mặt y, dang rộng hai cánh tay ngăm đen, nàng lắc đầu, lệ rơi ướt đầm khuôn mặt, thốt lên: "Không, huynh không thể như thế được, huynh còn có lựa chọn khác, huynh nhất định có con đường của riêng mình, không cần tiếp thụ hắn, hắn là ma quỷ mà. Huynh mà tiếp thụ hắn thì vĩnh viễn sẽ thành một tử linh dưới Cửu U, không được…"

Bi Mộng kiếm bên hông Liễu Dật rung lên mãnh liệt, tựa hồ muốn báo hiệu gì đó. Nên biết, Bi Mộng Kiếm do Long Hoàng, thủ hộ thần thú mạnh nhất của Bàn Cổ từ ngàn vạn năm trước hóa thành, nỗi bi thương trong kiếm được chính hồn phách Long Hoàng súc tích qua vạn năm dài sinh ra, Bi Tứ Thức tịnh không phải chiêu thức gì cả, mà là kiếm ý, chỉ cần cảm giác được nỗi bi thương của Long Hoàng là có thể xuất ra kiếm ý.

Liễu Dật dừng ngay cước bộ, dường như thanh kiếm bên hông cảm nhận được điều bất tường nhưng âm thanh nọ không ngừng lại, gào lên: "Giết chết cô ta đi, cô ta cản trở ngươi phục cừu, giết cô ta rồi thì cô ta sẽ không xuất hiện trước mặt ngươi nữa, dùng kiếm mà giết cô ta đi, việc dung hợp của chúng ta là sự lựa chọn chân chính…"

Tiếng gào "giết cô ta đi" vọng vào tai Liễu Dật, đôi mắt đỏ rực của Liễu Dật nhìn Thất Nguyệt, giận dữ quát: "Tránh ra."

Thất Nguyệt đứng chắn trước mặt Liễu Dật, nhè nhẹ lắc đầu, ngữ khí tuyệt vọng: "Không, trừ phi muội chết, huynh phải đạp qua xác muội mới qua được. Thư sinh, huynh tỉnh lại đi, đừng lạc lối nữa, huynh sẽ hối hận ngàn đời vạn kiếp đó."

Hồng quang trong mắt Liễu Dật thoáng nhạt đi, y dường như hơi tỉnh lại, cũng lúc đó âm thanh nọ lại vọng đến: "Ngươi không muốn báo cừu ư? Hãy nghĩ đến thân nhân của ngươi, nghĩ đến máu họ đổ thành sông, thi thể họ lạnh cóng, người từng có một gia đình êm ấm nhưng giờ ngươi chẳng có gì. Hãy nghĩ đến người ngươi yêu thương, nghĩ đến Cát Lợi Nhi, nàng cũng yêu ngươi nhưng giờ thì nàng cũng đã chết, nàng chết trong tay những kẻ vô tri, bọn chúng không để cho ngươi và Cát Lợi Nhi cùng đi đến chân trời góc bể, chả lẽ ngươi không muốn báo cừu cho họ? Đến đi, giết chết kẻ đứng trước mặt ngươi, đến chỗ ta để chúng ta dung hợp, để cho bọn chúng phải hối hận."

Rất chậm, Liễu Dật bạt kiếm ra, làn gió trong phạm vi ba xích phát ra nỗi bi thương vô tận. Thân kiếm không ngừng rung động, là Long Hoàng phản ứng nhưng nó không thể nghịch lại chủ nhân.

Ánh mắt Thất Nguyệt gần như tuyệt vọng, nước mắt rơi xuống thân mình, nàng nhìn Liễu Dật, lắc đầu nói: "Thư sinh, huynh tưởng đó là lời Cát Lợi Nhi, tưởng nàng đang nói với huynh, nàng ấy ở thế giới bên kia chắc không hy vọng huynh chọn lựa ma lộ này, huynh nhất định phải tỉnh lại, đừng sai lầm nữa."

"Thư sinh, nếu có một ngày Cát Lợi Nhi chết đi xin huynh đừng bi thương. Hãy nhìn ánh dương quang ấm áp này, nhìn vòm trời rộng rãi, nhìn tuyết rơi trong Hoa Hải, ngửi mùi hương trong gió. Thế giới này vẫn tươi đẹp như vậy, vì Cát Lợi Nhi ra đi mà huynh không thấy được đó thôi, xin hãy chôn sâu hình bóng Cát Lợi Nhi vào ký ức của huynh, có được không?"

Âm thanh này, phảng phất như Cát Lợi Nhi lại xuất hiện trước mắt y, giống hệt như lời nàng năm đó, giống quá… Hồng quang lóe lên, thanh Bi Mộng kiếm run rẩy nhưng không găm vào tim Thất Nguyệt mà chỉ xuyên thấu bả vai nàng, nhát kiếm đó không khiến nàng phải tử vong.

Liễu Dật chăm chăm nhìn Thất Nguyệt, hồng quang trong mắt bùng lên: "Tránh ra!"

Thất Nguyệt kiên định lắc đầu: "Không, trừ phi muội chết, huynh phải đạp qua xác muội." Máu tươi từ trên vai nàng không ngừng nhỏ xuống, nàng không cảm thấy đau bởi trong tâm nàng còn có nỗi đau ấy lớn hơn nhiều vết thương trên thân thể. Nàng lặp lại lời mình lúc trước, những gì lúc này nàng có thể làm chỉ là bi thương và tuyệt vọng…

Thất Nguyệt tịnh không lùi, ngược lại còn đứng thẳng dậy, dứt khoát bước về phía trước. Bi Mộng kiếm vẫn xuyên thấu thân thể nàng, nàng thấy đau song đôi tay nàng xiết lấy Liễu Dật, nhanh nhẹn lùi lại.

Thất Nguyệt ôm chặt Liễu Dật, lắc đầu một cách tuyệt vọng, nhỏ xuống hàng lệ bi thương. Từng giọt lệ mát lạnh dịu dàng rớt xuống mặt Liễu Dật.

Từng lời Thất Nguyệt thốt ra lúc đó tuy không hoàn chỉnh nhưng đầy thống khổ: "Muội… muội xin huynh, đừng làm tổn thương người khác nữa? Huynh có bằng hữu, hãy nghĩ đến họ, Lang Vương, Thập Kiệt Nhất, Đại Đao Vương, còn có A Cửu, Thủy Nhi, huynh có con đường của huynh, sau lưng huynh còn biết bao người trông vào huynh, huynh không thể sai lầm như vậy, hãy tỉnh lại đi… muội xin huynh đấy."

Nước mắt liên tục rớt xuống mặt Liễu Dật, cảm giác thật băng lương, vị thật mặn mòi.

"Mười năm rồi, có thể huynh biết lòng muội đau đớn nhiều lắm, có thể huynh cũng biết muội sợ hãi khôn xiết, muội không mong chờ huynh sẽ đáp lại mối tình của muội, nhưng chắc huynh không biết mối tình đó trong tim muội sâu nặng biết bao, muội xin huynh đừng lạc lối, huynh có thành Ma Trung Ma cũng không phải cho mình."

Nước mắt băng lãnh không ngừng rơi xuống, hồng quang trong mắt Liễu Dật dần dần tan đi, trong đầu y chỉ hồi tưởng đến một câu nói: "Có thể huynh biết lòng muội đau đớn nhiều lắm, có thể huynh cũng biết muội sợ hãi khôn xiết, muội không mong chờ gì huynh sẽ hồi đáp lại mối tình của muội, nhưng chắc huynh không biết mối tình đó trong tim muội sâu nặng biết bao". Câu nói đó khiến y mủi lòng, một câu đó thôi đã che đi cừu hận, khiến y tỉnh lại.

Có thể cừu hận là điều đáng sợ, khiến người ta mất đi lý trí, nhưng cừu hận có đáng sợ hơn thế cũng bị tình yêu chân thật xóa tan…

- oOo -

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top