Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

Tiếng Việt thực hành

Mời vào trantailinh.wap.sh  trang wap rất hay và hữu dụng.

TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH

ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT

CHƯƠNG 1

CHƯƠNG 2

CHƯƠNG 3

CHƯƠNG 4

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG XÂY DỰNG VĂN BẢN

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG VIẾT CÂU

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG DÙNG TỪ

RÈN LUYỆN CHÍNH TẢ

TÀI LIỆU THAM KHẢO

CHƯƠNG 1 : RÈN LUYỆN KỸ NĂNG XÂY DỰNG VĂN BẢN

  I.

 II.

III.

IV.

KHÁI QUÁT VỀ VĂN BẢN

ĐOẠN VĂN - ĐƠN VỊ ĐIỂN HÌNH VÀ CƠ SỞ CỦA VĂN BẢN

QUI TRÌNH TẠO LẬP VĂN BẢN

LỖI LIÊN KẾT VĂN BẢN VÀ CÁCH SỬA CHỮA

                     TOPI. KHÁI QUÁT VỀ VĂN BẢN (NGÔN BẢN)

1- Khái niệm về văn bản.

       Văn bản (tiếng Anh: text; tiếng Pháp: texte) là sản phẩm hoàn chỉnh của một hành vi tạo lời (hay hành vi phát

ngôn), mang một nội dung giao tiếp cụ thể, gắn liền với một đối tượng giao tiếp, mục đích giao tiếp và hoàn cảnh

giao tiếp xác định, thể hiện dưới dạng âm thanh hay chữ viết.

       Bên cạnh khái niệm văn bản, trong một số tài liệu giáo khoa, các chuyên luận về Ngữ pháp văn bản, còn xuất

hiện khái niệm ngôn bản (dịch từ tiếng Pháp: discours, hay tiếng Anh: discourse). Khái niệm ngôn bản được hiểu

theo hai nghĩa cơ bản: Thứ nhất, nó được hiểu đồng nhất với khái niệm văn bản. Thứ hai, nó được hiểu trong mối

quan hệ đối lập với văn bản. Theo cách hiểu thứ hai, ngôn bản là sản phẩm hoàn chỉnh của hành vi phát ngôn, thể

hiện dưới dạng âm thanh. Còn văn bản là sản phẩm hoàn chỉnh của hành vi phát ngôn, thể hiện dưới dạng chữ viết. Ở

đây, khái niệm văn bản được quan niệm đồng nhất với khái niệm ngôn bản.

       Theo quan niệm vừa nêu thì văn bản có thể là một câu nói như câu khẩu hiệu (ví dụ: Không có gì quý hơn độc

lập tự do), câu tục ngữ (ví dụ: gần mực thì đen, gần đèn thì sáng), một tin vắn gồm vài ba câu, một bài thơ, một

truyện ngắn, một bài nghiên cứu, một quyển sách v.v...

2- Khái niệm về nội dung và cấu trúc của văn bản.

       2.1- Nội dung của văn bản.

       Văn bản dù ngắn hay dài đều đề cập đến một hay một vài đối tượng nào đó trong hiện thực khách quan hay

trong hiện thực tâm lí, tình cảm của con người. Ðối tượng này chính là đề tài của văn bản (tiếng Anh: subject-matter).

Gắn liền với đề tài là sự triển khai của người viết/nói về đề tài, tức sự miêu tả, trần thuật hay bàn luận về đề tài. Nội

dung miêu tả, trần thuật hay bàn luận cơ bản, bao trùm lên toàn văn bản là chủ đề của đề tài.

       Ví dụ:

                                                  Thằng Bờm

                          Thằng Bờm có cái quạt mo,

                          Phú ông xin đổi ba bò chín trâu.

                          Bờm rằng bờm chẳng lấy trâu,

                          Phú ông xin đổi ao sâu cá mè.

                          Bờm rằng bờm chẳng lấy mè,

                          Phú ông xin đổi một bè gỗ lim.

                          Bờm rằng bờm chẳng lấy lim,

                          Phú ông xin đổi con chim đồi mồi.

                          Bờm rằng bờm chẳng lấy mồi,

                          Phú ông xin đổi nấm xôi, Bờm cười.

      Bài đồng dao trên đề cập đến hai đối tượng: thằng Bờm và phú ông. Nội dung trần thuật cơ bản về hai đối

tượng đó là cuộc trao đổi. Như vậy thằng Bờm và phú ông là đề tài của văn bản; còn cuộc trao đổi là chủ đề của nó.

Tổng hợp hai nhân tố này, ta xác định được nội dung cơ bản của văn bản: cuộc trao đổi giữa phú ông và thằng Bờm.

Tương tự như vậy, khi xem xét truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân, ta thấy truyện đề cập đến Tràng, người đàn bà, bà

Tứ, người trong xóm ngụ cư. Ðây chính là đề tài của văn bản. Còn nội dung triển khai bao trùm lấy truyện là: việc

tình cờ nhặt được vợ (của Tràng). Ðây là chủ đề của văn bản truyện. Gộp hai yếu tố này lại, ta xác định được nội

dung cơ bản của truyện: việc tình cờ nhặt được vợ của Tràng.

      Cần lưu ý rằng, đề tài của văn bản thường mang tính hiển ngôn, còn chủ đề của văn bản có thể mang tính hàm

ngôn hay hiển ngôn. Tính hiển ngôn hay hàm ngôn của chủ đề văn bản có thể do phong cách ngôn ngữ văn bản hay

do phong cách tác giả chi phối. Nhìn chung, trong các loại hình văn bản phi hư cấu (văn bản thuộc phong cách khoa

học, chính luận, hành chánh), chủ đề thường được hiển ngôn. Trong các loại hình văn bản hư cấu (văn bản thuộc

phong cách nghệ thuật), chủ đề thường mang tính hàm ngôn, nhiều tầng, nhiều lớp.

    2.2- Cấu trúc của văn bản.

    Như đã nói, tuỳ theo quy mô, văn bản có thể chỉ gồm một câu, vài câu hay bao gồm nhiều đoạn, nhiều

chương, nhiều phần... Câu, đoạn, chương, phần khi tham gia vào tổ chức của văn bản đều có một chức năng nào đó

       và chúng có mối quan hệ ràng buộc, nương tựa lẫn nhau. Toàn bộ các bộ phận hợp thành văn bản - còn gọi là

các đơn vị/kết cấu tạo văn bản - cùng với trình tự phân bố, sắp xếp chúng dựa trên cơ sở chức năng và mối quan hệ

qua lại giữa chúng chính là cấu trúc của văn bản.

       Cấu trúc của văn bản bao giờ cũng gắn liền với việc thể hiện nội dung của văn bản, thông qua chức năng của

nó.

       Thông thường, trong một văn bản có chủ đề mang tính hiển ngôn, được cấu tạo bằng vài câu, thì câu mở đầu

của văn bản có thể là câu nêu lên chủ đề của nó, gọi là câu chủ đề (tương đương với thuật ngữ tiếng Anh: thesis

sentence). Và câu cuối của văn bản có thể đúc kết, khẳng định lại chủ đề, gọi là câu kết đề. Trong trường hợp chủ đề

của văn bản không được nêu lên ở câu mở đầu mà được nêu ở câu cuối, thì câu cuối chính là câu kết đề, đồng thời

cũng là câu nêu lên chủ đề của văn bản.

Xem xét các văn bản thơ sau đây:

                    (1) Nghe tiếng giã gạo

Gạo đem vào giã bao đau đớn

Gạo giã xong rồi trắng tựa bông

Sống ở trên đời, người cũng vậy

Gian nan rèn luyện mới thành công

                   (Hồ Chí Minh)

Không có việc gì khó

(2) Khuyên thanh niên

Chỉ sợ lòng không bền

Ðào núi và lấp biển

Quyết chí ắt làm nên

(Hồ Chí Minh)

                                       (3) Cảnh rừng Việt Bắc

                   Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay

                   Vượn hót chim kêu suốt cả ngày

                   Khách đến thì mời ngô nếp nướng

                   Săn về, thường chén thịt rừng quay

                   Non xanh, nước biếc tha hồ dạo

                   Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say

                   Kháng chiến thành công ta trở lại

                   Trăng xưa hạc cũ với xuân này

                                       (Hồ Chí Minh)

     Ở văn bản (1), câu cuối là câu kết đề, đồng thời cũng là câu nêu lên chủ đề. Ở văn bản (2), tình hình cũng

tương tự. Ở văn bản (3), câu mở đầu chính là câu chủ đề.

       Trong văn bản được cấu tạo gồm ba bộ phận, tiêu biểu là các bài học trong sách giáo khoa, các bài văn nghị

luận trong nhà trường, ba phần này thường có chức năng như sau: Phần Mở đầu (Nhập đề) là phần chủ yếu có chức

năng dẫn nhập và nêu chủ đề, có thể được cấu tạo bằng một hay vài đoạn văn bản. Phần Khai triển (Thân bài) là phần

triển khai, làm sáng tỏ chủ đề của văn bản bằng cách miêu tả, trần thuật, trình bày hay bàn luận. Phần này bao gồm

nhiều đoạn văn, trong đó, mỗi đoạn triển khai, làm sáng tỏ một khía cạnh nào đó của chủ đề toàn văn bản. Phần Kết

luận là phần có chức năng đúc kết, khẳng định lại chủ đề, đồng thời nó có thể mở rộng, liên hệ đến những vấn đề có

liên quan. Phần này có thể được cấu tạo bằng một vài đoạn văn.

       Trong những văn bản gồm ba phần như vừa nêu trên, chủ đề của văn bản thường được phát biểu trực tiếp

trong phần Mở đầu, cụ thể là trong câu chủ đề, thường là câu cuối hay câu áp cuối trong phần Mở đầu. Chủ đề của

văn bản cũng thường được đúc kết, khẳng định lại ở phần Kết luận, trong câu kết đề, thường là câu mở đầu của phần

này. Tuy nhiên, câu kết đề cũng có thể xuất hiện ở giữa hay cuối phần Kết luận.

       Xem xét văn bản sau đây:

                                          Hoàng Lê nhất thống chí

       1.a) Hoàng lê nhất thống chí là một cuốn tiểu thuyết lịch sử bằng chữ Hán, gồm 17 hồi. Chắc chắn Ngô Thời

Chí viết bảy hồi đầu, sau nữa có Ngô Thời Du, còn ai nữa thì chưa biết. Ngô Thời Chí và Ngô Thời Du đều là con

        cháu họ Ngô Thời, một dòng dõi có tiếng đỗ đạt cao và có tài văn thơ ở làng Tả Thanh Oai, tỉnh Hà Ðông

(nay là Hà Nội).

      b) Hoàng lê nhất thống chíviết vào những năm cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỉ XIX và bao quát những biến cố

lớn lao xảy ra trong lòng chế độ vua Lê, chúa Trịnh, từ thời Trịnh Sâm lên ngôi đến lúc Quang Trung đánh đuổi

quân Mãn Thanh. Hai nét căn bản của thời đại đã được làm nổi bật: sự sụp đổ không gì cưỡng nổi của chế độ phong

kiến Lê - Trịnh và khí thế sấm chớp vũ bão của phong trào Tây Sơn.

       2.c) Lê Hiển Tông suốt bốn mươi năm làm vua, biết mình là bù nhìn, nhưng vẫn thích thú với thân phận bù

nhìn ấy. Trịnh Sâm thì xa xỉ, kiêu căng, hoang dâm vô độ. Lê Chiêu Thống thì đúng là hiện thân của sự bất tài và hèn

hạ, nhất là sự phải bội. Không câu nói nào xứng đáng với y bằng lời kết án của một người trong truyện: Nước Nam

ta từ khi có đế vương đến giờ, không thấy có vua nào hèn hạ đến thế!.

      d) Vua chúa đã vậy, văn thần võ tướng cũng chẳng hơn gì. Danh tướng như Ðinh Tích Nhưỡng, gia đình mười

tám đời quận công, khi nghe quân Tây Sơn ra Bắc, liền vội vàng bỏ trốn. Văn quan làm đến chức Tham tụng như Bùi

Huy Bích mà lúc nước nhà rối ren, vua hỏi đến, không dám nói một câu, chỉ một mực xin lui về vườn, lẩn trốn trách

nhiệm.

       c) Kiêu binh là chỗ dựa của nhà chúa từ xưa, hồi này lại lưu manh hoá, trở thành một lực lượng phá hoại từ

bên trong, làm cho cơ nghiệp nhà chúa xiêu đổ.

       f) Phản ánh tất cả sự suy sụp, rối ren ấy vào trong ý thức con người là sự rời rã của các giềng mối xã hội.

Quan hệ vua tôi chẳng còn gì là thiêng liêng nữa khi Nguyễn Cảnh Thước lột áo Lê Chiêu Thống. Quan hệ thầy trò

cũng chẳng còn sức mạnh gì đối với lương tâm một kẻ như Tuần huyện Trang. Tình nghĩa cha con, vợ chồng, anh em

trong gia đình Trịnh Sâm chỉ là một trò cười não nuột.

     (*) Một chế độ mục ruỗng từ trên chí dưới như thế nhất định phải diệt vong, phong trào Tây Sơn sẽ thổi lên

cơn lốc lật nhào chế độ đó.

      g) Sự thật về phong trào này và vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ chưa được hiểu đúng đắn và dựng lên đầy

đủ. Nhưng một chân lí vĩ đại không ai chối cãi nổi đã được ghi lại một cách thích đáng, đó là cái khí thế mãnh liệt,

phi thường của đoàn quân chính nghĩa và lãnh tụ của nó.

       Chúa Trịnh mấy trăm năm lấn hiếp vua Lê, nắm cả quyền hành trong tay, làm mưa làm gió ở Ðàng Ngoài,

Tây Sơn chỉ một lần tiến quân ra Bắc là ngôi chúa sụp đổ ngay và nhà chúa cũng không tránh được cái chế nhục

nhã. Xứ Bắc mấy năm lùng nhùng với loạn kiêu binh, với phe đảng đánh nhau không ngớt, Tây Sơn kéo quân ra một

lần là quét sạch. Hai mươi vạn quân Thanh hống hách, chỉ mấy ngày đã bị dẹp tan. Dưới mắt tác giả, chiến dịch này

là một bản anh hùng ca bất diệt và hình ảnh Quang Trung đẹp như hình ảnh thần kì.

       h) Hoàng lê nhất thống chí kể rất nhiều chuyện của rất nhiều người. Chuyện rất sát sự thực, nhưng vẫn đầy đủ

tính chân thật của nghệ thuật. Người thì chưa mấy ai được xây dựng thành tính cách đặc sắc, nhưng mỗi người đều

một hành động, một tâm lí riêng, khá sinh động. Nhiều chỗ, ngòi bút lại pha chất hài hước khá kín đáo, có chỗ lại có

không khí trang trọng của anh hùng ca.

       3.i) Hoàng lê nhất thống chí không khỏi có những hạn chế do tư tưởng phong kiến của tác giả gây ra. Tuy

nhiên, nó vẫn mãi mãi là bức tranh hài hước về sự tàn lụi của chế độ phong kiến cũng như mãi mãi là tiếng vọng hồ

hởi của một phong trào tiêu biểu cho sức mạnh của nông dân và sức mạnh của dân tộc, phong trào Tây Sơn. (Văn

học lớp 11 phổ thông, tập 1)

      Văn bản trên có nội dung bàn luận về tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí. Văn bản bao gồm ba phần: Phần Mở

đầu được cấu tạo bằng hai đoạn văn (a) và (b), trong đó đoạn văn (a) và câu thứ nhất của đoạn văn (b) có chức năng

dẫn nhập; câu thứ hai - câu cuối - của đoạn (b) nêu lên chủ đề của toàn văn bản. Chủ đề bao gồm hai mặt: sự sụp đổ

không gì cưỡng nổi của chế độ phong kiến Lê - Trịnh và khí thế sấm chớp, vũ bão của phong trào Tây Sơn. Như vậy,

câu cuối của đoạn (b) là câu chủ đề của văn bản.

         Phần Khai triển (Thân bài) bao gồm các đoạn (c), (d), (e), (f), (g) và (h). Troan các đoạn văn này, đoạn (c),

(d), (e) và (f) có chức năng triển khai, làm sáng tỏ mặt chủ đề thứ nhất. Ðoạn (g) triển khai, làm sáng tỏ mặt chủ đề

thứ hai. Riêng đoạn (h), mặc dù không trực tiếp đề cập đến chủ đề của toàn văn bản, nhưng vẫn có vai trò nhất định:

http://tieulun.hopto.org

       đoạn văn này có nội dung bình luận thêm một cách sơ lược về giá trị nghệ thuật của Hoàng Lê nhất thống chí.

Ngoài ra những đoạn văn vừa nêu, phần khai triển còn có câu (*). Câu văn này không thuộc đoạn văn nào, mà nó chỉ

có chức năng đúc kết lại mặt chủ đề thứ nhất và dẫn dắt, giới thiệu mặt chủ đề thứ hai.

     Phần Kết luận được cấu tạo bằng một đoạn văn: đoạn (i). Trong đó, câu cuối có chức năng đúc kết, khẳng

định lại chủ đề của toàn văn bản. Ðây chính là câu kết đề của văn bản.

    Bên cạnh các cấp độ đơn vị dưới văn bản, cấu trúc văn bản có thể còn bao gồm một bộ phận khác, đó là tiêu

đề của nó.

3- Khái niệm về tiêu đề của văn bản.

      Tiêu đề (tiếng Anh: title; tiếng Pháp: titre) hay đầu đề của văn bản là tên gọi của văn bản và là một bộ phận

cấu thành văn bản. Tuy nhiên, một số loại văn bản có thể không có tiêu đề, tiêu biểu như tin vắn, các sáng tác dân ca

như ca dao v.v...

        Xét mối quan hệ giữa tiêu đề với nội dung cơ bản của văn bản, có hai loại tiêu đề: tiêu đề mang tính dự báo

và tiêu đề mang tính nghệ thuật.

3.1- Tiêu đề mang tính dự báo.

    Ðây là loại tiêu đề phản ánh một phần hay toàn bộ nội dung cơ bản của văn bản. Qua tiêu đề thuộc loại này,

người đọc có thể suy đoán trước đề tài hay/và chủ đề của văn bản.

       Ví dụ: Thằng Bờm (a), Cảnh rừng Việt Bắc (b), Mùa gặt ở làng tôi (c), Hoàng Lê nhất thống chí (d), Lão

Hạc (e), Vợ nhặt (f), Ðiệp vụ Bodygard - nguyên nhân thất bại của Hitler (g), Hoa hậu Malaisia bị tước danh hiệu (h)

v.v...

     Tiêu đề (a) đã phản ánh được một trong hai đề tài của văn bản. Tiêu đề (b) phản ánh toàn bộ đề tài của bài thơ.

Tiêu đề (c), (d), (e) cũng tương tự. Tiêu đề (f) liên quan chặt chẽ với chủ đề. Tiêu đề (g) và (h) vừa phản ánh đề tài,

vừa gợi ra chủ đề của văn bản.

3.2- Tiêu đề mang tính nghệ thuật.

        Loại tiêu đề này không gợi ra điều gì về đề tài và chủ đề của văn bản. Nó được đặt ra nhằm mục đích gây ấn

tượng, nghi binh nhằm đánh lạc hướng người đọc. Thậm chí, loại tiêu đề này có thể trở thành phản tiêu đề. Chẳng

hạn, các tiêu đề như Oẳn tà roằn (tên một truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan), Bến không chồng (tên một quyển

tiểu thuyết của Dương Hướng), Thân phận tình yêu (tên một quyển tiểu thuyết của Bảo Ninh) ... gây ấn tượng rất

mạnh đối với người đọc. Còn các tiêu đề như Báo hiếu: trả nghĩa cha, Báo hiếu: trả nghĩa mẹ, Một tấm gương sáng

(tên ba truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan) thì lại mang tính chất nghi binh nhằm đánh lạc hướng, tạo bất ngờ đối

với người đọc. Bởi vì, các tiêu đề này đã dự báo trước chủ đề một cách giả tạo, hoàn toàn trái ngược với chủ đề thật

sự của truyện. Một tấm gương sáng viết về cuộc đời dâm đãng, đĩ thoã của Thị Bống, Báo hiếu: trả nghĩa cha và Báo

hiếu: trả nghĩa mẹ viết về hành vi ứng xử bất nhân, bất nghĩa, bất hiếu của vợ chồng ông chủ Hãng ô tô Con Cọp đối

với hai đấng sinh thành. Riêng các tiêu đề như Vô đề, Không đề, bài không tên... thì lại mang tính chất phản tiêu đề.

Bởi vì đó chỉ là trò chơi chữ!

      Xét mối quan hệ giữa hai loại tiêu đề vừa nếu với các phong cách ngôn ngữ văn bản, chúng ta thấy các loại

văn bản thuộc phong cách khoa học, hành chánh và chính luận thường có tiêu đề mang tính dự báo. Còn các loại văn

bản thuộc phong cách nghệ thuật thường có tiêu đề mang tính chất nghệ thuật hơn là tính chất dự báo.

      Về mặt ngôn từ biểu đạt, tiêu đề có thể chia thành hai loại: tiêu đề biểu đạt bằng từ, ngữ và tiêu đề biểu đạt

bằng câu thuộc đủ kiểu loại (câu hoàn chỉnh và câu tỉnh lược, câu trần thuật, câu mệnh lệnh, câu nghi vấn...). Các tiêu

đề như Nghèo (tên một truyện ngắn của Nam Cao), Khói (tên một truyện ngắn của Anh Ðức) là tiêu đề bằng từ. Các

tiêu đề như Muối của rừng, Giấc mơ ông lão vườn chim, Vấn đề rượu ở Nga, Cảnh rừng Việt Bắc, là tiêu đề bằng

ngữ. Các tiêu đề như ta đi tới, Hãy nhớ lời tôi!, Hoa hậu Malaysia bị tước danh hiệu, Sao lại thế này?... là tiêu đề

bằng câu.

Xét về mặt cấp độ, có tiêu đề toàn thể và tiêu đề bộ phận. Tiêu đề toàn thể là tiêu đề của cả văn bản. Tiêu đề

bộ phận là tiêu đề của từng phần, chương, mục... trong văn bản.

4- Ðặc trưng của văn bản.

       Ðặc trưng của văn bản thể hiện qua các tính chất: tính hoàn chỉnh, tính thống nhất, tính liên kết và tính mạch

lạc. Trong đó tính hoàn chỉnh và tính liên kết là hai đặc trưng cơ bản.

4.1- Tính hoàn chỉnh (Completeness).

     Tính hoàn chỉnh của văn bản thể hiện ở hai mặt: nội dung biểu đạt và cấu trúc. Trong đó, tính hoàn chỉnh về

mặt nội dung có ý nghĩa quyết định.

      Xét về mặt nội dung, một văn bản được xem là hoàn chỉnh khi đề tài và chủ đề của nó được triển khai một

cách đầy đủ, chính xác và mạch lạc. Nếu đề tài, chủ đề triển khai không đầy đủ, vượt quá giới hạn hay thiếu chính

xác, mạch lạc thì văn bản sẽ vi phạm tính hoàn chỉnh.

       Xem xét các văn bản dẫn chứng chúng ta sẽ thấy rõ đặc điểm vừa nêu. Trong bài Thằng Bờm, các câu văn đều

tập trung vào hai đối tượng chính là thằng Bờm và phú ông. Mặt khác, các câu còn tập trung vào việc triển khai cuộc

trao đổi giữa họ theo diễn tiến từ đầu đến khi kết thúc. Trong bài Cảnh rừng Việt Bắc, các câu văn đã tập trung vào

cảnh núi rừng Việt Bắc, đồng thời tập trung vào việc triển khai, làm sáng tỏ cái hay của nó ở mặt cảnh sắc cũng như

sản vật. Trong bài Hoàng Lê nhất thống chí, tất cả các đoạn văn đều xoay quanh tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí,

đồng thời tập trung nội dung bàn luận, đánh giá nhằm làm sáng tỏ hai mặt chủ đề của bài viết. Các đoạn văn còn lại

được phân bố từ mặt chủ đề thứ nhất sang mặt chủ đề thứ hai một cách hợp lí, mạch lạc.

       Xét về mặt cấu trúc, một văn bản được xem là hoàn chỉnh khi các phần, các đoạn, các câu trong từng đoạn

được tổ chức, sắp xếp theo một trật tự hợp lí, thể hiện một cách đầy đủ, chính xác, và mạch lạc nội dung của văn bản.

Sự hoàn chỉnh về mặt cấu trúc của văn bản còn chịu sự chi phối gián tiếp của phong cách ngôn ngữ văn bản. Tuỳ vào

phong cách ngôn ngữ, cấu trúc của các văn bản thuộc phong cách hành chánh phải tuân thủ khuôn mẫu rất nghiêm

ngặt. Các văn bản thuộc phong cách khoa học cũng ít nhiều mang tính khuôn mẫu, thể hiện qua bố cục của các phần.

Riêng văn bản thuộc phong cách nghệ thuật như thơ, truyện, ký thì thường có cấu trúc linh hoạt.

4.2- Tính liên kết (Cohesion).

       Tính liên kết của văn bản là tính chất kết hợp, gắn bó, ràng buộc qua lại giữa các cấp độ đơn vị dưới văn bản.

Ðó là sự kết hợp, gắn bó giữa các câu trong đoạn, giữa các đoạn, các phần, các chương với nhau, xét về mặt nội dung

cũng như hình thức biểu đạt. Trên cơ sở đó,tính liên kết của văn bản thể hiện ở hai mặt: liên kết nội dung và liên kết

hình thức.

a) Tính liên kết nội dung:

       Nội dung văn bản bao gồm hai nhân tố cơ bản: đề tài và chủ đề (hay còn gọi là chủ đề và lô-gích). Do đó, tính

liên kết về mặt nội dung thể hiện tập trung qua việc tổ chức, triển khai hai nhân tố này, trên cơ sở đó hình thành 2

nhân tố liên kết: liên kết đề tài và liên kết chủ đề (còn gọi là liên kết chủ đề và liên kết lô-gích).

       Liên kết đề tài là sự kết hợp, gắn bó giữa các cấp độ đơn vị dưới văn bản trong việc tập trung thể hiện đối

tượng mà văn bản đề cập đến. Trong bài Thằng Bờm, các câu đều tập trung vào hai đối tượng: Thằng Bờm và phú

ông. Trong bài Hoàng Lê nhất thống chí, các đoạn, các câu trong từng đoạn đều tập trung vào quyển tiểu thuyết này

hay tập trung vào các đối tượng vốn xuất hiện trong tác phẩm: vua chúa, quan lại, kiêu binh, các mối quan hệ phong

kiến. Ðó là biểu hiện cụ thể của sự liên kết về đề tài.

      Liên kết chủ đề là sự tương hợp mang tính lô-gích về nội dung nghĩa giữa các cấp độ đơn vị dưới văn bản. Ðó

là sự tương hợp về nội dung miêu tả, trần thuật hay bàn luận giữa các câu, các đoạn, các phần trong văn bản. Một văn

bản được xem là có liên kết lô-gích khi nội dung miêu tả, trần thuật, bàn luận giữa các câu, các đoạn, các phần không

rời rạc hay mâu thuẫn với nhau, ngoại trừ trường hợp người viết cố tình tạo ra sự mâu thuẫn nhắm vào một mục đích

biểu đạt nào đó.

    Xem lại bài Thằng Bờm, chúng ta thấy, nội dung trần thuật giữa các câu thể hiện rõ qua hành động mang tính

chất đề nghị trao đổi của phú ông và thái độ, phản ứng của thằng Bờm trước các đề nghị cụ thể. Thằng Bờm đã lần

http://tieulun.hopto.org

     lượt từ chối hết đề nghị này đến đề nghị khác của phú ông cho đến khi phú ông đưa ra nắm xôi, thằng Bờm

đồng ý. Ðến đó, cuộc trao đổi kết thúc. Ðó là biểu hiện cụ thể của liên kết chủ đề trong bài đồng dao này.

       Trong bài Hoàng Lê nhẩt thống chí, trước hết chúng ta thấy các đoạn văn (phần Khai triển) đều tập trung vào

việc triển khai hai mặt chủ đề mà câu chủ đề đã nêu ra. Bên cạnh đó, một số đoạn văn (c, d, e, f) có nội dung bàn luận

tương hợp chặt chẽ với nhau, thể hiện qua việc cùng nên lên tính chất băng hoại, xấu xa của các thế lực như vua chúa

Lê - Trịnh, văn quan võ tướng, kiêu binh và các mối quan hệ phong kiến. Tiếp thao, đoạn (g) bàn luận về sức mạnh

của phong trào Tây Sươn - mặt chủ đề thứ hai của văn bản. Còn lại, đoạn (h) bàn luận về nghệ thuật của Hoàng Lê

nhẩt thống chí. Ði sâu vào nội dung bàn luận trong từng đoạn, tình hình cũng tương tự. Như vậy, văn bản này liên kết

rất chặt chẽ về mặt chủ đề.

b) Liên kết hình thức.

      Liên kết hình thức trong văn bản là sự kết hợp, gắn bó giữa các cấp độ đơn vị dưới văn bản xét trên bình diện

ngôn từ biểu đạt, nhằm hình thức hoá, hiện thực hoá mối quan hệ về mặt nội dung giữa chúng.

       Như đã nói, liên kết nội dung với hai nhân tố đề tài và chủ đề thể hiện qua mối quan hệ giữa các câu, các

đoạn, các phần..., xoay quanh đề tài và chủ đề của văn bản. Mối quan hệ này mang tính chất trừu tượng, không tường

minh. Do đó, trong quá trình tạo văn bản, người viết (người nói) bao giờ cũng phải vận dụng các phương tiện ngôn từ

cụ thể để hình thức hoá, xác lập mối quan hệ đó. Toàn bộ các phương tiện ngôn từ có giá trị xác lập mối quan hệ về

nội dung giữa các câu, các đoạn... là biểu hiện cụ thể của liên kết hình thức.

       Liên kết hình thức trong văn bản được phân chia thành nhiều phương thức liên kết. Mỗi phương thức liên kết

là một cách tổ chức sự liên kết, bao gồm nhiều phương tiện liên kết khác nhau có chung đặc điểm nào đó. Nhìn

chung, liên kết hình thức bao gồm các phép liên kết: lặp ngữ âm, lặp từ vựng, thế đồng nghĩa, liên tưởng, đối nghịch,

thế đại từ, tỉnh lược cấu trúc, lặp cấu trúc và tuyến tính. Các phép liên kết này sẽ được xem xét cụ thể trong tổ chức

của đoạn văn - đơn vị cơ sở và là đơn vị điển hình của văn bản. Các phép liên kết này cũng được vận dụng giữa các

đoạn, phần... trong văn bản. Ðiều đó có nghĩa là liên kết hình thức thể hiện ở nhiều cấp độ trong văn bản. Trong văn

bản, liên kết nội dung và liên kết hình thức có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó, liên kết nội dung quy định

liên kết hình thức.

II. ÐOẠN VĂN - ÐƠN VỊ ÐIỂN HÌNH VÀ ÐƠN VỊ CƠ SỞ CỦA VĂN BẢN

1- Khái niệm về đoạn văn.

     Ðoạn văn là một tập hợp câu liên kết chặt chẽ với nhau về nội dung và hình thức, diễn đạt hoàn chỉnh hay

tương đối hoàn chỉnh một chủ đề bộ phận ở cấp độ nhỏ nhất nào đó trong chủ đề hay hệ thống chủ đề toàn thể của

văn bản.

Trong định nghĩa vừa nêu, cần lưu ý mấy điểm:

       Thứ nhất là vè khái niệm tập hợp. Nếu đoạn văn là một tập hợp thì câu chính là phần tử. Do đó, về số lượng

câu, đoạn văn có ba khả năng: đoạn văn gồm nhiều câu, tức là từ hai trở lên (tập hợp nhiều phần tử), đoạn văn một

câu (tập hợp một phần tử) và đoạn văn không có câu nào (tập hợp rỗng). Ðoạn văn nhiều câu là hiện tượng phổ biến

trong văn bản. Ðoạn văn một câu chỉ xuất hiện rải rác trong văn bản. Ðoạn văn không câu nào là trường hợp đặc biệt,

chỉ xuất hiện ở các bài văn tuyển. Ðó là những đoạn văn đã bị lược bỏ, được báo hiệu bằng dấu chấm ngang dòng.

      Thứ hai là tính liên kết trong đoạn văn. Trong đoạn văn, tính liên kết cũng thể hiện ở cả hai bình diện: liên kết

nội dung và liên kết hình thức như ở cấp độ văn bản.

      Thứ ba là sự hoàn chỉnh tương đối của đoạn văn. Một đoạn văn được xem là hoàn chỉnh khi nội dung biểu đạt

của nó mang tính tự nghĩa và xác định. Ðoạn văn chỉ hoàn chỉnh tương đối khi nội dung biểu đạt của nó mang tính

hợp nghĩa và/hay không xác định.

      Thứ tư là về khái niệm chủ đề bộ phận ở cấp độ nhỏ nhất mà đoạn văn diễn đạt. Ðiều này có nghĩa là những

chuỗi câu dưới đoạn chỉ có chức năng triển khai chủ đề của đoạn; dưới đoạn không còn chủ đề bộ phận ở cấp độ nhỏ

hơn.

TOP

Xem xét các đoạn văn sau đây:

       (a) Chị Sáu như say sưa với cảnh vật thiên nhiên. Chị hát theo một con chim đang hót. Chị rướn đôi tay bị

còng chụp một con bướm bay qua. Chỉ chẳng để ý gì đến bọn lính tráng với súng gươm tua tủa quanh mình.

      (b) Những người tù biết trời mưa khi vừa bị lùa ra khỏi hầm. Họ đón lấy giọt mưa với nỗi sung sướng thầm

lặng. Ngót một năm rồi, họ bị nhốt kín. Sống với roi vọt và bóng tối, họ thèm ánh mặt trời, thèm mưa, thèm cỏ cây.

Họ khao khát mọi thứ tầm thường nhất mà xưa nay thiên nhiên vẫn rộng lòng ban phát cho một người.

       (c) Chị Dậu là một người phụ nữ có nhan sắc, chị có cái đẹp của cô gái Cầu Lim, Ðình Cẫm như tác giả nhận

xét. Nhưng tấm lòng của chị trăng trong như băng tuyết. Chỉ vì suất sưu mấy đồng bạc, chị đã phải khổ sở, điêu đứng

rất nhiều, nhưng chị đã khinh bỉ ném nắm bạc vào mặt tên quan phủ dâm ô. Hai lần bị cưỡng hiếp, hai lần chị đã

cương quyết chống lại và thoát ra được. Ðạo đức của chị, lòng kiên trinh của chị, tiền tài không làm hoen ố được,

sức mạnh và uy vũ của bọn thống trị không lung lạc được.

       Ðoạn văn (a) có chủ đề: trạng thái say sưa với cảnh vật thiên nhiên (của chị Sáu). Chủ đề này được nêu trong

câu thứ nhất. Các câu còn lại triển khai, làm sáng tỏ chủ đề đó. Ðoạn văn (b) có chủ đề là trạng thái khao khát thiên

nhiên (của những người tù). Chủ đề được nêu ở câu cuối, và là kết quả của sự khái quát dựa trên những sự việc được

nêu trong câu thứ hai, thứ ba và thứ tư. Ðoạn văn (c) có chủ đề: phẩm chất trắng trong (của chị Dậu). Chủ đề này

được nêu lên ở câu thứ hai, được làm sáng tỏ qua câu thứ ba, thứ tư và được khái quát lại ở câu cuối.

2- Cấu trúc của đoạn văn.

    Nói đến cấu trúc của đoạn văn là nói đến các loại câu có chức năng khác nhau và sự phân bố, sắp xếp cùng

với mối quan hệ qua lại giữa chúng.

      Trong đoạn văn, có tất cả năm loại câu có chức năng khác nhau, được phân bố, sắp xếp qua sơ đồ cấu trúc

tổng thể sau đây:

2.1- Câu chuyển đoạn.

      Câu chuyển đoạn là loại câu có chức năng liên kết đoạn văn mà nó trực tiếp thuộc với đoạn văn hay phần văn

bản đứng trước. Về nội dung biểu đạt, loại câu này bao giờ cũng nhắc lại, hồi quy chủ đề bộ phận đã trình bày bằng

cách lặp lại từ vựng hay thế đồng nghĩa, thế đại từ.

     Câu chuyển đoạn có thể xuất hiện hay vắng mặt. Nếu xuất hiện, số lượng thường gặp là một, đứng đầu đoạn.

Nếu câu chuyển đoạn vắng mặt, chức năng liên kết đoạn sẽ do một, hai loại câu khác đồng thời đảm nhiệm.

2.2- Câu mở đoạn.

    Câu mở đoạn là loại câu có chức năng đưa đẩy hay dẫn dắt ý vào đoạn. Khác với câu chuyển đoạn, câu mở

đoạn không nhắc lại chủ đề đã đề cập đến mà nó nêu lên một thông tin nào đó có quan hệ với chủ đề của đoạn.

   Câu mở đoạn có hai khả năng: xuất hiện hay vắng mặt. Khi xuất hiện, số lượng thường gặp là một, hai câu,

đứng ở đầu đoạn. Xem lại ba đoạn văn vừa dẫn trong mục 1. Câu thứ nhất trong đoạn (b) và (c) là câu mở đoạn.

      Xét mối quan hệ giữa câu mở đoạn với câu chủ đoạn, chúng ta cần lưu ý: Hai loại câu này có xu hướng loại

trừ nhau trong đoạn văn. Bên cạnh đó, chức năng liên kết đoạn và dẫn dắt vào đoạn có thể được phức hợp trong một

câu văn: một bộ phận nào đó có chức năng liên kết, bộ phận còn lại dẫn ý vào đoạn.

Ví dụ:

Ông quan đã vậy, còn quan bà thì sao? Ðại diện cho quan bà đây là mụ mẹ Hoạn Thư (H.T).

2.3- Câu chủ đoạn.

      Câu chủ đoạn là loại câu có chức năng nêu lên chủ đề của đoạn văn mà các câu thuyết đoán sẽ triển khai làm

sáng tỏ. Trong trường hợp câu chủ đoạn là câu thứ nhất của đoạn thì ngoài chức năng nêu lên chủ đề, nó còn có chức

năng phụ: liên kết văn bản.

       Câu chủ đoạn có khả năng xuất hiện hay vắng mặt. Nếu xuất hiện, số lượng thường gặp là một câu, đứng đầu

đoạn hay sau câu chuyển đoạn, câu mở đoạn, nếu đoạn văn có hai loại câu này. Trong trường hợp câu chủ đoạn vắng

mặt, chủ đề của đoạn có thể mang tính hàm ngôn hay do câu kết đoạn biểu đạt, nếu câu kết đoạn xuất hiện. Xem lại

ba ví dụ đã dẫn trong mục 2.1. Câu thứ nhất trong đoạn (a) và câu thứ hai trong đoạn (c) là câu chủ đoạn.

2.4- Câu thuyết đoạn.

      Câu thuyết đoạn là loại câu có chức năng triển khai, làm sáng tỏ chủ đề của đoạn, hay nêu lên sự việc, sự

kiện làm tiền đề để rút ra kết luận khái quát trong câu kết đoạn.

       Trừ trường hợp đoạn văn một câu, câu thuyết đoạn bao giờ cũng xuất hiện, số lượng tuỳ vào quy mô của

đoạn: từ một đến chín, mười câu hay nhiều hơn nữa. Ðoạn văn càng có nhiều câu thuyết đoạn thì chủ đề càng được

triển khai cụ thể, chi tiết hơn.

     Xem lại ba ví dụ đã dẫn ở mục 2.1. Trong đoạn (a), các câu thứ hai, thứ ba, thứ tư là câu thuyết đoạn. Trong

đoạn (b), các câu thứ hai, thứ ba, thứ tư là câu thuyết đoạn. Trong đoạn (c), các câu thứ hai, thứ ba là câu thuyết đoạn.

2.5- Câu kết đoạn.

    Câu kết đoạn là loại câu có chức năng đúc kết, khái quát lại hay mở rộng chủ đề của đoạn. Trong trường hợp

đoạn văn không có câu chủ đoạn mà có câu kết đoạn, câu kết đoạn là câu nêu lên chủ đề của đoạn.

Câu kết đoạn có thể xuất hiện hay vắng mặt. Nếu xuất hiện, số lượng có thể là một, hai câu, nằm ở cuối đoạn

văn.

3- Các kiểu kết cấu của đoạn văn.

Như vừa trình bày, cấu trúc tổng thể của đoạn văn bao gồm năm loại câu có chức năng khác nhau. Trong đó

      câu chủ đoạn, câu thuyết đoạn và câu kết đoạn là ba loại câu cơ bản. Trong ba loại câu này, câu chủ đoạn và

câu kết đoạn có thể xuất hiện hay vắng mặt, hình thành những biến thể cụ thể của cấu trúc đoạn văn. Những biến thể

cụ thể này là các kiểu kết cấu của đoạn (còn được gọi là các cách lập luận).

Có bốn kiểu kết cấu của đoạn:

3.1- Kết cấu diễn giải.

      Kiểu kết cấu này bao gồm câu chủ đoạn và câu thuyết đoạn. Trong đó câu chủ đoạn nêu lên chủ đề, câu

thuyết đoạn triển khai làm sáng tỏ chủ đề. Kiểu kết cấu này không có câu kết đoạn.

3.2- Kết cấu quy nạp.

        Quy nạp là kiểu kết cấu bao gồm câu thuyết đoạn và câu kết đoạn. Trong đó, câu thuyết đoạn nêu lên sự việc,

chi tiết cụ thể làm cơ sở để rút ra kết luận khái quát trong câu kết đoạn. Kiểu kết cấu này không có câu chủ đoạn.

3.3- Kết cấu diễn giải kết hợp với quy nạp.

       Ðây là kiểu kết cấu bao gồm câu chủ đoạn, câu thuyết đoạn và câu kết đoạn. Trong đó, câu chủ đoạn nêu lên

chủ đề, câu thuyết đoạn triển khai làm sáng tỏ chủ đề và câu kết đoạn đúc kết, khái quát lại hay mở rộng chủ đề. Ðây

là kiểu kết cấu lí tưởng của đoạn, bởi lẽ nó tạo nên sự hoàn chỉnh, cân đối nhất cho đoạn văn.

3.4- Kết cấu song hành.

      Ðây là kiểu kết cấu chỉ bao gồm một số câu thuyết đoạn, câu chủ đoạn và câu kết đoạn vắng mặt. Ðiều đó có

nghĩa là chủ đề của đoạn văn mang tính chất hàm ngôn.

4. Phân loại đoạn văn.

Dựa vào đặc điểm về nội dung biểu đạt, có tất cả bốn loại đoạn văn cơ bản:

4.1- Ðoạn miêu tả.

       Ðoạn miêu tả là loại đoạn văn có nội dung thể hiện sự vật, hiện tượng một cách chi tiết, cụ thể, sinh động như

nó tồn tại trong thực tại khách quan hay theo trí tưởng tượng của người viết. Ðây là đoạn văn cơ bản, xuất hiện rất

phổ biến trong các loại văn bản thuộc phong cách nghệ thuật như truyện, thơ trữ tình, kí sự. Các đoạn văn (a), (b) đã

dẫn trong mục 2.1 là đoạn miêu tả.

4.2- Ðoạn thuật sự.

       Thuật sự là loại đoạn văn có nội dung trình bày diễn biến của sự việc, sự kiện như nó đã xảy ra hay theo trí

tưởng tượng của người viết. Loại đoạn văn này có khả năng xuất hiện trong nhiều phong cách ngôn ngữ văn bản:

hành chánh, khoa học, chính luận và nghệ thuật.

4.3- Ðoạn lập luận.

      Lập luận là loại đoạn văn có nội dung trình bày suy nghĩ, ý kiến, quan điểm của người viết về một vấn đề, một

hiện tượng nào đó. Ðây là loại đoạn văn cơ bản, xuất hiện rất phổ biến trong các loại văn bản thuộc phong cách khoa

học, chính luận. Văn bản thuộc phong cách hành chánh cũng có thể vận dụng loại đoạn văn này, nhưng ít phổ biến

hơn.

4.4- Ðoạn hội thoại.

      Hội thoại là loại đoạn văn có nội dung phản ánh lời nói trực tiếp của con người tham gia giao tiếp. Ðoạn văn

hội thoại xuất hiện rất phổ biến trong khẩu ngữ tự nhiên hàng ngày, trong các văn bản thuộc phong cách nghệ thuật

như truyện.

      Những vấn đề cơ bản về văn bản và đoạn văn đã trình bày là những tri thức thông báo cơ bản. Những tri thức

đó là cơ sở để đúc kết, rút ra những tri thức về quy trình xây dựng, tạo lập văn bản.

III. QUY TRÌNH TẠO LẬP VĂN BẢN

1. Sơ lược về các giai đoạn trong quy trình tạo lập văn bản.

     Nhìn chung, quá trình tạo lập văn bản bao gồm bốn giai đoạn tiếp nối nhau: định hướng, lập chương trình biểu

đạt (lập đề cương), tạo văn bản và kiểm tra, sửa chữa văn bản (bản thảo). Quy trình này được tiến hành khi người viết

tự chọn đề tài để viết hay được yêu cầu với đề văn cho sẵn như trong nhà trường.

       Ðịnh hướng là giai đoạn người viết xem xét, phân tích đề tài/đề văn, trên cơ sở đó xác định chủ đề của bài

viết, loại văn bản và hướng sưu tập tư liệu cũng như phạm vi giới hạn của tư liệu sẽ sử dụng.

     Lập chương trình biểu đạt là giai đoạn người viết động não để triển khai, cụ thể hoá chủ đề thành các mặt chủ

đề bộ phận thuộc nhiều cấp độ, kết hợp với việc tập hợp tư liệu cần thiết, trên cơ sở chọn lựa, sắp xếp lại thành đề

cương (dàn ý) của bài viết với hệ thống các số mục, đề mục cụ thể.

     Tạo văn bản là giai đoạn người viết vận dụng kiến thức về từ, câu, đoạn, văn bản để lần lượt hiện thực hoá đề

cương thành văn bản dưới dạng bản thảo.

       Kiểm tra sửa chữa bản thảo là giai đoạn người viết đọc lại bản thảo, phát hiện lỗi sai và sửa chữa để bài viết

hoàn chỉnh hơn.

2- Các giai đoạn tạo lập văn bản.

2.1 Ðịnh hướng.

Trong giai đoạn này, người viết cần tiến hành các thao tác:

      a) Chọn đề tài hay xem xét, phân tích đề văn cho sẵn để xác định một cách cụ thể chủ đề có liên quan.

Chẳng hạn, với đề tài Nạn phá rừng, người viết có thể từng bước thu hẹp đề tài và xác định chủ đề như sau:

- Nạn phá rừng

( Nạn phá rừng ở Việt Nam.

( Nạn phá rừng ở miền Trung và Tây Nguyên Việt Nam

( Tác hại của nạn phá rừng ở miền Trung và Tây Nguyên Việt Nam

b) Xác định loại hình văn bản.

      Ở bước này, người viết phải xác định rõ văn bản sẽ viết thuộc loại gì, phong cách nào. Trình bày hay nghị

luận (biện luận)? Chẳng hạn với đề tài vừa nêu, ta có thể viết thành một bài văn trình bày.

c) Xác định hướng sưu tập tư liệu và giới hạn của phạm vi tư liệu.

     Tư liệu có thể sưu tập theo nhiều nguồn: báo chí, sách vở, các phương tiện phát thanh, truyền hình hay thực tế

mà người viết chứng kiến, trải nghiệm.

2.2- Lập chương trình biểu đạt.

Ở giai đoạn này, người viết cần thực hiện các thao tác:

a) Ðộng não để triển khai chủ đề toàn thể từng bước thành các chủ đề bộ phận.

TOP

Chẳng hạn, với chủ đề và đề tài vừa xác định trên, ta có thể triển khai thành các mặt:

- Nguyên nhân của nạn phá rừng.

+ Tình trạng di dân tự do.

+ Mở rộng diện tích canh tác.

+ Khai thác củi, gỗ.

- Biểu hiện của nạn phá rừng.

+ Ðốt rừng

+ Ðốn chặt cây cối.

- Quy mô, địa điểm diễn ra nạn phá rừng.

+ Ở Tây Nguyên: bao nhiêu héc ta, thời điểm nào?

+ Ở miền Trung: bao nhiên héc ta, thời điểm nào?

- Tác hại của nạn phá rừng.

+ Nạn hạn hán, thiếu nước ở vùng hạ lưu sống ngòi vào mùa khô.

+ Nạn lũ lụt vào mùa mưa.

- Hướng ngăn chặn phá rừng:

+ Biện pháp giáo dục.

+ Biện pháp luật pháp

v.v....

b) Chọn lựa, sắp xếp các chủ đề bộ phận và tư liệu có liên quan thành đề cương cụ thể.

Ở giai đoạn này cần lưu ý mấy điểm:

- Phải chọn lựa và sắp xếp các chủ đề bộ phận và tư liệu có liên quan theo một trật tự thích hợp.

       - Các số mục và đề mục phải đảm bảo tính hệ thống và tính nhất quán. Tránh hiện tượng trùng lắp, chồng

chéo giữa các chủ đề.

2.3- Tạo văn bản.

       Ở giai đoạn này, người viết vận dụng tri thức về văn bản và đoạn văn để lần lượt diễn đạt hệ thống các đề mục

thành các phần, các đoạn văn cụ thể. Trong quá trình tạo văn bản cần lưu ý đến cách viết các phần, các đoạn:

a) Viết phần mở đầu:

Dẫn nhập bằng vài ba câu rồi nêu chủ đề của văn bản một cách rõ ràng xác định.

b) Viết các đoạn văn trong phần khai triển.

- Câu chủ đoạn của các đoạn văn phải ngắn gọn, súc tích. Khi nêu xong chủ đề của đoạn, phải ngắt câu

(bằng dấu chấm).

     - Các câu thuyết đoạn có thể được viết bằng câu đơn hay câu ghép, và nội dung triển khai phải bám sát chủ

đề đã nêu.

        - Câu kết đoạn của các đoạn văn phải dựa trên cơ sở sự việc, chi tiết số liệu đã nêu. Cần tránh lối khái quát

gò ép, máy móc, khiên cưỡng.

c) Viết phần kết luận.

       Phần kết luận không cần viết dài (đoạn văn gồm vài ba câu), trong đó nhất thiết phải có câu kết đề đúc kết,

khái quát lại chủ đề của cả bài. Các câu còn lại có thể gợi mở, liên hệ sang vấn đề khác có liên quan.

2.4- Kiểm tra, sửa chữa văn bản.

      Ở giai đoạn này, người viết vừa đọc lại, vừa suy ngẫm xem xét, xác định lỗi sai và sửa chữa. Cụ thể là phát

hiện và sửa chữa các loại lỗi như:

      Lỗi chính tả (xem chương bốn), lỗi từ ngữ (xem chương ba), lỗi ngữ pháp (xem chương hai) và lỗi liên kết văn

bản. Chương này chỉ tập trung trình bày lỗi liên kết văn bản.

IV. LỖI LIÊN KẾT VĂN BẢN VÀ CÁCH SỬA CHỮA

TOP

Tính liên kết của văn bản nói chung và trong đoạn văn nói riêng thể hiện ở hai bình diện : liên kết nội dung và liên

kết hình thức. Liên kết nội dung bao gồm hai nhân tố : liên kết chủ đề và liên kết lô-gích. Dựa trên cơ sở đó, có thể

quy các hiện tượng vi phạm tính liên kết thành ba loại lỗi : lỗi liên kết chủ đề, lỗi liên kết lô-gích và lỗi liên kết hình

thức.

1. Lỗi liên kết chủ đề.

Xem xét các đoạn văn sau đây :

   (a) Ðọc tác phẩm Tắt đèn, chúng ta thấy : người nông dân Việt Nam dưới chế độ thực dân phong kiến đã

bị áp bức, hành hạ hết sức tàn tệ. Gia đình chị Dậu không một ai là không bị hành hung. Anh Dậu đang ốm

liệt giường liệt chiếu cũng bị trói bị đánh đập dã man. Cái Tí bé bỏng cũng bị roi đòn. Tên lí trưởng còn bắt

dân nộp lễ vật khi đến xin con dấu vào đơn (BVHS).

   (b) Bên cạnh chị Út, còn có biết bao người phụ nữ Việt Nam anh hùng khác. Ðó là chị Sứ, người con gái

xứ Hòn bất khuất. Chị đã tô thêm vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam với phẩm chất anh hùng, bất khuất

trung hậu đảm đang. Ngày xưa, nhà thơ Xuân Diệu (?) đã từng mơ ước : Ví đây đổi phận làm trai được.

Nhưng bây giờ chị Út không những thừa kế được sự bất khuất của người xưa mà còn được sự giúp đỡ của

thời đại. Chị vượt hơn người xưa về mọi mặt. Chị không cần như Xuân Diệu mơ ước đổi phận làm trai mới

nên sự nghiệp mà chị cứ làm đàn bà, người mẹ sáu con, nhưng sự nghiệp anh hùng của chị chẳng phải

chàng trai nào cũng sánh kịp. (BVHS).

  (c) Bác Lê là một nông dân nghèo, đói khổ và nhiều bất hạnh. Khi gia đình lâm vào cảnh đoúi rét, bác Lê

một mình đi kiếm cách cứu nguy cho gia đình. Bằng cách bác đến vay tiền nhà ông phú hộ, nhưng bị từ

chối. Hơn thế nữa, bác Lê còn bị cậu Phúc con ông phú hộ thả chó ra cắn. Thật là ác tâm, cũng là người với

nhau nhưng sao lại đối xử như vậy ? phải chăng lương tâm của họ là gỗ đá. Lẽ ra cậu Phúc phải giúp đỡ

người hoạn nạn, đói khổ mà trái lại còn thả chó ra cắn quả là ác tâm và đáng thương xót cho bác Lê đói khổ

nhưng còn gặp điều không may (BVHS).

   (d) Quang Dũng là nhà văn, nhà thơ... ở thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Thơ ông chủ yếu ca ngợi, nêu

cao tinh thần người chiến sĩ trong giai đoạn này. Quang Dũng là con gia đình nhà nho nghèo lớn lên ông

theo đoàn lính Tây Tiến. Họ là những người bảo vệ biên giới lào, Việt. Sống trong rừng sâu núi thẩm, ăn

mặc thiếu thốn nhưng họ vẫn kiên cường bất khuất. Khi chuyển đi nơi khác công tác quang dũng nhớ lại

những hình ảnh của người lính Tây tiến nên đã sáng tác bài thơ nhớ Tây Tiếnsau này khi phát hành, ông bỏ

bớt từ nhớcó thể cho là thừa... (BVHS).

   (e) Phần lớn các nhân vật lãng mạng của Khái Hưng và Nhất Linh đều được phóng đại và lý tưởng hóa.

Dũng là một khách tình si. Tuyết là một gái giang hồ, Quang Ngọc, Phạm Thái, Nhị Nương là một bọn

thanh niên quý tộc suy tàn đã được thi vị hóa, lãng mạn hóa. Thậm chí bọn địa chủ tây học cũng được Khái

Hưng và Hoàng Ðạo xây dựng thành những mẫu người lý tưởng (Hạc, Bảo trong Gia đình, Duy, Thơ trong

Con đường sáng). Nguyễn Tuân cũng lý tưởng hóa, thi vị hóa những người giang hồ lãng tử sống cuộc đời

sóng gió (Nguyễn, Vi Bạch) và đối lập họ với những kẻ chỉ biết chôn chân ở mảnh đất quê hương (Dung,

Lâm Hồ).(P.C.Ð - TTVNHÐ, T.I).

 Trong đoạn văn (a), câu thứ nhất nêu lên một nhận định mang tính chất khái quát, trong đó, đối tượng nhận định

chính là người nông dân Việt Nam dưới chế độ thực dân phong kiến, nội dung nhận định là đã bị áp bức, hành hạ hết

sức tàn tệ. Câu thứ hai liên hệ đến một đối tượng khác : Gia đình chị Dậu. Ðối tượng mới này có quan hệ chặt chẽ

với đối tượng cũ, được nêu trong câu thứ nhất ; đó là mối quan hệ cái chung - cái riêng. Cũng theo chiều hướng ấy,

câu thứ ba liên hệ đến Anh Dậu, câu thứ tư liên hệ đến Cái Tí bé bỏng. Ðó là các thành viên trong Gia đình chị Dậu.

Như vậy, câu thứ nhất, thứ hai, thứ ba và thứ tư liên kết chặt chẽ với nhau về chủ đề (và lô-gích). Nhưng câu thứ năm

lại đề cập đến Tên lí trưởng, một đối tượng không có quan hệ chặt chẽ với các đối tượng cũ, đã được nêu ra : người

nông dân Việt Nam dưới chế độ thực dân phong kiến, Gia đình chị Dậu, Anh Dậu, Cái Tí bé bỏng.

  Trong đoạn văn (b), câu thứ nhất vừa nhắc lại đối tượng đã được bàn luận trong phần văn bản trước : chị Uït Tịch,

vừa giới thiệu một đối tượng mới, mang tính chất khái quát : biết bao người phụ nữ Việt Nam anh hùng khác. Trên

cơ sở đối tượng mang tính chất khái quát chung này, câu thứ hai liên hệ đến một đối tượng cụ thể : chị Sứï. Câu thức

ba tiếp tục bàn về chị. Câu thứ tư lại liên hệ đến một đối tượng khác nữa : nhà thơ Xuân Diệu(Ở đây, học sinh đã nhớ

sai. Tác giả của hai câu thơ đã được dẫn ra là Hồ Xuân Hương, chớ không phải là Xuân Diệu). Các câu tiếp theo

trong đoạn quay trở lại bàn luận về chị Uït”.

 Trong đoạn văn (c), bốn câu đầu tập trung bàn luận về bác Lê, một nhân vật trong truyện ngắn Nhà mẹ Lê của

Thạch Lam. Bốn câu này liên kết chặt chẽ với nhau về chủ đề, mặc dù có vài sai sót về từ ngữ và ngữ pháp. Nhưng

ba câu tiếp theo lại chuyển sang bàn luận về một đối tượng khác : ông phú hộ(thật ra là ông Bá) và cậu Phúc. Mặc dù

câu cuối có liên hệ trở lại với đối tượng cũ, nhưng nhìn chung, đối tượng chính được bàn luận trong ba câu này vẫn là

ông phú hộ và cậu Phúc. (Ngoài ra, câu cuối cùng trong đoạn còn sai ngữ pháp : rối cấu trúc và chập cấu trúc.)

 Trong đoạn (d), ba câu đầu đề cập đến nhà thơ Quang Dũng. Nhưng câu thứ tư và thứ năm lại chuyển sang bàn luận

về những người lính Tây Tiến. Câu cuối quay trở lại trình bày về Quang Dũng. (Bên cạnh đó, đoạn văn này còn mắc

nhiều lỗi sai khác).

 Trong đoạn (e), câu thứ nhất nêu lên một nhận định khái quát về các nhân vật lãng mạn của Khái Hưng và Nhất

Linh, đối tượng bàn luận chính của đoạn. Câu thứ hai, thứ ba đề cập đến những nhân vật cụ thể của Khái Hưng và

Nhất Linh : Dũng, Tuyết, Quang Ngọc, Phạm Thái, Nhị Nương. Như vậy, mối quan hệ giữa các đối tượng bàn luận

được đề cập đến trong câu thứ nhất, thứ hai và thứ ba là chặt chẽ, mạch lạc. Nhưng sang câu thứ tư, người viết lại đề

cập đến bọn địa chủ tây học- các nhân vật của Khái Hưng và Hoàng Ðạo. Và ở câu cuối, người viết còn liên hệ đến

Nguyễn Tuân cùng với các nhân vật của ông.

 Hiện tượng chệch choạc, tản mạn, thiên thẹo, thiếu mạch lạc về đối tượng trần thuật, bàn luận trong các đoạn văn

vừa dẫn và phân tích chính là những biểu hiện cụ thể của lỗi liên kết chủ đề trong đoạn văn.

 Như vậy, lỗi liên kết chủ đề trong đoạn văn là loại lỗi liên kết thể hiện qua hiện tượng phân tán tản mạn, chệch

choạc, thiên thẹo, thiếu tập trung về mặt đối tượng được đề cập đến giữa các câu trong đoạn văn.

 Lỗi liên kết chủ đề xuất hiện rải rác trong khá nhiều bài viết của học sinh THPT mà chúng tôi đã khảo sát. Trong bài

viết của học sinh THCS, loại lỗi này xuất hiện phổ biến hơn. Bài viết của sinh viên đại học vẫn mắc phải loại lỗi này.

Có hai nguyên nhân chính dẫn đến sai liên kết chủ đề. Nguyên nhân thứ nhất, mang tính chất gián tiếp, là ở giai đoạn

lập chương trình biểu đạt, tức lập dàn bài, học sinh đã không triển khai được vấn đề mà đề bài nêu ra thành các luận

điểm, luận cứ một cách rạch ròi, cụ thể và có hệ thống. Do đó, trong quá trình tạo văn bản, học sinh viết lan man,

không xác định và hạn định được đối tượng bàn luận, trần thuật trong từng đoạn, từng phần. Nguyên nhân thứ hai,

nguyên nhân trực tiếp, là do học sinh không nắm vững kiến thức Ngữ pháp văn bản, cụ thể là các cách thức tổ chức,

liên kết chủ đề trong đoạn văn, dẫn đến tình trạng nghĩ sao viết vậy, viết câu sau quên câu trước, không bao quát

được đối tượng bàn luận, trần thuật trong toàn đoạn.

 Sai liên kết chủ đề dẫn đến hệ quả là đoạn văn chệch choạc, tản mạn, thiên thẹo về đối tượng bàn luận, trần thuật ;

do đó, đoạn văn trở nên thiếu mạch lạc.

 Sai liên kết chủ đề có biểu hiện khá phức tạp, nhất là trong những đoạn văn dài. Tuy nhiên, có thể quy loại lỗi này

về ba kiểu lỗi chính :

Ðoạn văn phân tán về chủ đề :

  Ðây là kiểu lỗi sai có biểu hiện : đoạn văn có một số câu liên kết chặt chẽ với nhau trong việc bàn luận, trần thuật về

một đối tượng nào đó, nổi bật lên như là đối tượng chính. Nhưng bên cạnh đó, đoạn văn lại có một hay một vài câu

liên hệ đến và triển khai đối tượng khác, làm cho toàn đoạn trở nên tản mạn, thiếu tập trung về mặt đối tượng bàn

luận, trần thuật. Ðoạn văn (c) và (d) đã dẫn thuộc kiểu lỗi sai này. Trong đoạn văn (c), đối tượng bàn luận chính là

bác Lê. Ðối tượng triển khai tản mạn, lệch hướng là họ, cậu phúc. Trong đoạn văn (d), đối tượng triển khai tản mạn là

họ, tức những người lính Tây Tiến.

Ðoạn văn thiên thẹo, chồng chéo về chủ đề :

 Ðây là kiểu lỗi sai có biểu hiện : đoạn văn đề cập đến nhiều đối tượng, từ đối tượng này liên hệ sang đối tượng khác

một cách tùy tiện, luẩn quẩn, thiên thẹo, chồng chéo lên nhau, làm cho đoạn văn trở nên mất phương hướng về đối

tượng bàn luận, trần thuật. Ðoạn văn (b) đã dẫn thuộc kiểu lỗi sai này.

Ðoạn văn vượt quá phạm vi giới hạn của chủ đề chính :

  Ðây là trường hợp đoạn văn nổi rõ lên đối tượng bàn luận, trần thuật chính, mang tính khái quát, trừu tượng, thường

được nêu lên trong câu thứ nhất của đoạn[1] . Trong các câu tiếp theo, đối tượng khái quát này được người viết triển

khai bằng cách cụ thể hóa qua một số đối tượng cụ thể. Nhưng trong quá trình triển khai đối tượng khái quát, người

viết lại liên hệ đến một hay một vài đối tượng cụ thể nào đó, vượt ra ngoài phạm vi giới hạn của đối tượng khái quát,

làm cho đối tượng bàn luận, trần thuật của toàn đoạn trở nên chệch choạc, thiếu thống nhất. Ðoạn văn (a) và (e) thuộc

kiểu lỗi sai này.

Sửa chữa lỗi liên kết chủ đề, phải căn cứ vào kiểu lỗi sai cụ thể.

Ðối với kiểu lỗi phân tán tản mạn về chủ đề :

 Ðối với kiểu lỗi sai này, trước hết, chúng ta xem xét một cách bao quát nội dung của đoạn văn, trên cơ sở đó xác

định chủ đề chính của đoạn. Bước tiếp theo, căn cứ vào chủ đề chính, chúng ta xác định câu hay chuỗi câu nào có liên

quan chặt chẽ với chủ đề chính ; câu hay chuỗi câu nào phân tán tản mạn, không có giá trị thể hiện chủ đề chính.

Cuối cùng, chúng ta loại bỏ câu, chuỗi câu phân tán về mặt chủ đề, chỉ giữ lại những câu cần thiết. Tất nhiên , đối với

những câu được giữ lại, chúng ta cũng cần lưu ý sửa chữa các loại lỗi sai khác như lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp, kết

hợp với việc tách, ghép câu, chuyển đổi cấu trúc v.v...

Hai đoạn văn (c) và (d) có thể được sửa chữa theo cách vừa nêu :

       (c) Bác Lê là một người nông dân nghèo khổ và gặp nhiều bất hạnh. Khi gia đình lâm vào cảnh đói rét,

bác đã đi khắp làng xin làm mướn, nhưng chẳng nhà nào mướn bác làm. Cùng đường, bác đã đến nhà ông Bá

với hi vọng xin ít gạo về cứu đàn con, nhưng bác đã bị từ chối một cách tàn nhẫn. Hơn thế nữa, bác còn bị cậu

Phúc, con ông Bá, thả chó ra cắn. Bác phát bệnh rồi chết, bỏ lại đàn con bơ vơ, không nơi nương tựa.

       (d) Quang Dũng là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Trong thời kì này, ông

đã từng tham gia vào đoàn quân Tây Tiến - một đơn vị bộ đội được thành lập vào năm 1947, có nhiệm vụ

phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Lào - Việt và đánh Pháp ở vùng Thượng Lào. Khi chuyển sang đơn

vị khác, Quang Dũng nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến và đã sáng tác bài thơ Nhớ Tây Tiến, về

sau ông sửa lại thành Tây Tiến.

Ðối với kiễu lỗi thiên thẹo, chồng chéo về chủ đề :

 Nhìn chung, những đoạn văn thiên thẹo, chồng chéo về mặt chủ đề rất khó sửa chữa. Bởi vì muốn sửa chữa kiểu lỗi

này, chúng ta phải tiến hành việc phân bố, sắp xếp lại chủ đề bộ phận của đoạn, và điều đó sẽ làm thay đổi kết cấu

của cả bài viết. Riêng đối với một số trường hợp sai cụ thể, chúng ta có thể sửa bằng cách loại bỏ các câu thiên thẹo,

chồng chéo lên nhau về mặt chủ đề, chỉ giữ lại những câu có giá trị thể hiện chủ đề chính và sửa chữa các loại lỗi

khác, nếu có.

Ðoạn văn (b) có thể sửa chữa theo cách vừa nêu :

      (b). Bên cạnh chị Út, còn có biết bao người phụ nữ Việt Nam anh hùng khác. Ðó là chị Sứ, người con

gái xứ Hòn. Chị đã tô thêm vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam với phẩm chất anh hùng, bất khuất, trung hậu,

đảm đang.

 Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, việc sửa chữa theo cách vừa được tiến hành chỉ là biện pháp giải quyết tạm thời. Bởi vì,

sửa chữa theo cách này sẽ làm cho đoạn văn trở nên đơn giản, sơ lược về mặt nội dung.

Ðối với kiểu lỗi vượt quá phạm vi giới hạn của chủ đề chính :

Ðối với kiểu lỗi này, nhìn chung có hai cách sửa chữa :

 Cách thứ nhất : Cắt bỏ câu hay chuỗi câu vượt quá phạm vi giới hạn của chủ đề chính, chủ đề mang tính khái quát

của toàn đoạn.

 Cách thứ hai : Mở rộng chủ đề chính, chủ đề mang tính khái quát của toàn đoạn, nếu chủ đề toàn thể của bài viết

cho phép.

      Tất nhiên, sửa chữa theo hướng nào thì chúng ta cũng cần lưu ý đến các loại lỗi khác trong đoạn, kết hợp với

việc tách, ghép câu, chuyển đổi cấu trúc để đoạn văn chặt chẽ, mạch lạc hơn.

Ðoạn văn (a) có thể sửa chữa theo cách thứ nhất : cắt bỏ câu cuối :

     (a) Ðọc tác phẩm Tắt đèn, chúng ta thấy người nông dân Việt Nam dưới chế độ thực dân nửa phong

kiến đã bị áp bức hết sức tàn tệ. Gia đình chị Dậu không một ai là không bị hành hạ. Anh Dậu đang ốm liệt

giường chiếu cũng bị trói, bị đánh đập dã man. Cái Tí bé bỏng cũng bị roi đòn.

 Ðoạn văn (e) có thể sửa chữa theo cách thứ hai : mở rộng đối tượng nhận định trong câu thứ nhất, ghép câu thứ hai

và thứ ba lại, chuyển đổi cấu trúc câu thứ tư, thứ năm để đoạn văn liên kết chặt chẽ hơn về chủ đề :

       (e) Phần lớn các nhân vật lãng mạn đều được phóng đại và lí tưởng hóa. Dũng là một khách tình si,

Tuyết là gái giang hồ, Quang Ngọc, Phạm Thái, Nhị Nương là một bọn thanh niên quý tộc suy tàn đã được

thi vị hóa, lãng mạn hóa. Thậm chí, bọn địa chủ tây học như Hạc, Bảo trong Gia đình, Duy Thơ trong Con

đường sángcũng được Khái Hưng và Hoàng Ðạo xây dựng thành những mẫu người lí tưởng. Những người

giang hồ lãng tử sống cuộc đời sóng gió như Nguyễn, Vi Bạch cũng được Nguyễn Tuân lí tưởng hóa, thi vị

hóa, trở nên đối lập với những kẻ chỉ biết chôn chân ở mảnh đất quê hương như Dung, Lâm Hồ.

2. Lỗi Liên kết lô-gích.

Xem xét các đoạn văn sau đây :

  (a) Viết về người phụ nữ, Hồ Xuân Hương thường chú ý đến những ngóc ngách éo le của cuộc đời, qua

đó lên tiếng nói đồng cảm và bênh vực họ. Qua một loạt hình tượng nói về số phận hẩm hiu của người phụ

nữ, nhà thơ đã nêu bật lên vẻ đẹp bên trong, vẻ đẹp tâm hồn của họ. Hồ Xuân Hương còn mạnh dạn ca ngợi

vẻ đẹp thân xác của những cô gái đang xuân, trắng trong tươi mát... (BVHS).

   (b) Người lính Tây Tiến khi đấu tranh chống giặc ngày xưa khi đi không có định ngày về. Họ đã thề với

lòng khi giành được độc lập mới trở về. Khi đã nằm xuống thì chỉ có chiếu quấn thân để chôn chứ không có

những thứ như các người khác. Các anh hùng đã hi sinh vì tổ quốc đã chống Pháp thật hiên ngang. Vẻ đẹp

của hình tượng người lính Tây Tiến thật hùng vĩ (BVHS).

http://tieulun.hopto.org

  (c) Ông Nghị được Ngô Tất Tố vẽ ra bằng cử chỉ đặt tăm ngang miệng chén, vẽ chòm râu, đập tay xuống

sậpvà bằng lời quátv.v... Ðọc những từ ngữ đầu tiên của đoạn văn, ta thấy ngay cái vẻ của ông Nghị. Ðó là

con người cậy thế, khinh rẻ người dân. Ngô Tất Tố đã dựng nên một tên địa chủ đáng khinh bỉ. Với cử chỉ

uống một hớp lớn... súc miệng òng ọc mấy cái rồi nhổ toẹt xuống nền nhà, tên Nghị Quế thật là xấu xa, kinh

tởm ! Chỉ qua hành động đầu tiên ấy thôi, ta cũng đủ thấy thái độ thô bỉ của hắn. Nghị Quế cậy thế, cậy

chức ông Nghịđể ức hiếp mọi người. Trước mặt người dân nghèo, Nghị Quế cố tăng thêm uy thế hòng bóp

hầu bóp cổ người dân nghèo khổ dễ hơn (NBVH).

   (d) Trước bọn cường hào độc ác, bất nhân, chị Dậu không chỉ nhẫn nhục, chịu đựng. Vì thương chồng,

chị đã hứng chịu bao điều cơ cực, bị đánh đập tàn nhẫn. Chị đã phải đi ở vú, lại bị tên quan già dâm đãng

toan cưỡng hiếp. Số phận của người lao động nghèo trong xã hội thực dân nửa phong kiến là như thế, một

phần cũng là do khi bị áp bức, họ chỉ biết chịu đựng, không dám đứng dậy đấu tranh. (BVHS).

  (e) Mùa xuân, cây gạo gọi đến bao nhiêu là chim. Từ xa nhìn lại, cây gạo sừng sững như một tháp đèn

khổng lồ. Hàng ngàn bông hoa là hàng ngàn ngọn lửa hồng. Hàng ngàn búp nõn là hàng ngàn ánh nến xanh.

Tất cả đều lóng lánh, lung linh trong nắng (TV9).

   (f) Không phải ngay từ đầu Tô Hoài đã thành công. Núi cứu quốclà một dẫn chứng. Tác giả đã có cái

nhìn lạc quan, khỏe khoắn khi miêu tả triền núi cứu quốc vươn lên như một cánh tay áo xanh bát ngát. Viết

về những đồng bào miền núi, tác giả xúc động trước cảnh bà con làm lụng chật vật, túng thiếu, chịu đựng

bênh sốt rét vàng quanh năm. Và nhà văn đã kịp ghi nhận những nét đổi mới trong tư tưởng, tình cảm của

những đồng chí Hùng Vương, Pẻo, Chẩn, Pin, Liễn (...)(VHVN 1945 - 1975, T. II).

 Trong đoạn văn (a), đối tượng bàn luận là nhà thơ Hồ Xuân Hương. Tất cả ba câu trong đoạn đều tập trung bàn luận

về Hồ Xuân Hương. Như vậy, các câu trong đoạn liên kết chặt chẽ với nhau về chủ đề.

  Nhưng về nội dung bàn luận, ba câu lại rời rạc, tản mạn. Trong câu thứ nhất, nội dung bàn luận về Hồ Xuân Hương

là : thường chú ý đến những ngóc ngách éo le của cuộc đời, qua đó lên tiếng nói đồng cảm và bênh vực họ; trong

câu thứ hai, là đã nêu bật lên vẻ đẹp bên trong, vẻ đẹp tâm hồn của họ; trong câu thứ ba, lại là : còn mạnh dạn ngợi

ca vẻ đẹp thân xác của những cô gái đang xuân, trắng trong tươi mát.

 Trong đoạn văn (b), về chủ đề, các câu liên kết khá chặt chẽ với nhau : cùng tập trung đề cập đến người lính Tây

Tiến, ngoại trừ câu thứ tư. Trong câu văn này, học sinh đã mở rộng đối tượng một cách tùy tiện : đang trần thuật, bàn

luận về người lính Tây Tiến, lại liên hệ đến Các anh hùng đã hi sinh vì tổ quốc, một đối tượng có tính khái quát cao,

làm cho đoạn văn trở nên chệch choạc về liên kết chủ đề.

 Nhưng đáng lưu ý hơn là mối quan hệ về nội dung bàn luận, trần thuật giữa các câu. Trước hết, chúng ta thấy có sự

mâu thuẫn giữa câu thứ nhất với câu thứ hai : khi đi không có định ngày về- khi giành độc lập mới trở về. Kế đến là

sự rời rạc, tản mạn giữa câu thứ ba, thứ tư và thứ năm : đã nằm xuống thì chỉ có chiếu quấn thân để chôn chứ không

có những thứ như các người khác- đã chống Pháúp thật hiên ngang- thật hùng vĩ(Bên cạnh đó, trong đoạn văn này,

học sinh còn sai lỗi ngữ pháp, lỗi từ ngữ và lỗi về kiến thức).

 Trong đoạn văn (c), học sinh đã đảm bảo được liên kết chủ đề : các câu trong đoạn tập trung bàn luận về nhân vật

Nghị Quế. Nhưng về nội dung bàn luận, có sự đan xen lộn xộn, thiếu mạch lạc giữa các câu.

Nhìn chung, trong đoạn văn này, có hai nội dung bàn luận về Nghị Quế :

- Bản chất cậy quyền ỷ thế, ức hiếp dân lành.

- Tư cách xấu xa thô bỉ.

 Liên quan đến nội dung thứ nhất là các câu thứ nhất, thứ ba, thứ bảy và thứ tám. Liên quan đến nội dung thứ hai là

các câu thứ tư, thứ năm và thứ sáu. (Riêng câu thứ ba thì nội dung nghĩa không rõ ràng, ta không xác định được một

cách cụ thể cái vẻ của ông Nghị là vẻ gì.).

 Trong đoạn văn (d), ta thấy có sự mâu thuẫn giữa nội dung bàn luận của câu thứ nhất với nội dung bàn luận của các

câu còn lại. Nội dung nhận định về nhân vật chị Dậu trong câu thứ nhất là : không chỉ nhẫn nhục, chịu đựng. Thế

nhưng, trong các câu tiếp theo, nội dung trần thuật, bàn luận về chị Dậu và người lao động nghèo trong xã hội thực

dân nửa phong kiến hoàn toàn ngược lại : đã phải đi ở vú, lại bị tên quan già dâm đãng toan cưỡng hiếp, chỉ biết

chịu đựng, không dám đứng dậy đấu tranh.

  Trong đoạn văn (e), nội dung miêu tả của các câu thứ hai, thứ ba, thứ tư và thứ năm hoàn toàn tương hợp, lô-gích

với nhau. Ðó là sự tương hợp về màu sắc, ánh sáng của cây gạo, nhìn một cách bao quát, và của bông hoa, búp nõn

trên cây gạo: sừng sững như một tháp đèn khổng lồ- hàng ngàn ngọn lửa hồng- hàng ngàn ánh nến xanh- lóng lánh,

lung linh trong nắng. Tuy nhiên, nội dung miêu tả của các câu văn này lại không có liên quan gì đến nội dung miêu

tả của câu thứ nhất : gọi đến bao nhiều là chim.

 Ðoạn văn (f) rơi vào tình trạng tương tự như đoạn văn (d) : nội dung nhận định nêu trong câu thứ nhất hoàn toàn

mâu thuẫn với nội dung nhận định nêu trong các câu còn lại. Trong câu thứ nhất, người viết đánh giá rằng : Không

phải ngay từ đầu Tô Hoài đã thành công, nghĩa là Tô Hoài thất bại. Thế nhưng, trong các câu tiếp theo, người viết lại

nêu lên hàng loạt thành công của Tô Hoài trong tác phẩm Núi cứu quốc : đã có cái nhìn lạc quan, khỏe khoắn..., xúc

động trước cảnh bà con làm lụng chật vật, túng thiếu..., đã kịp thời ghi nhận những nét đổi mới trong tư tưởng, tình

cảm của những đồng chí Hùng Vương, Pẻo, Chẩn, Pin, Liễn.

 Những hiện tượng rời rạc, mâu thuẫn hay đan xen rối rắm, thiếu mạch lạc về nội dung bàn luận, trần thuật hay miêu

tả giữa các câu trong đoạn như đã dẫn và phân tích chính là những biểu hiện cụ thể của lỗi liên kết lô-gích.

 Như vậy, lỗi liên kết lô-gích trong đoạn văn là loại lỗi liên kết thể hiện qua sự rời rạc, mâu thuẫn hay đan xen rối

rắm, thiếu mạch lạc về nội dung bàn luận, trần thuật, miêu tả giữa các câu trong đoạn.

      Lỗi liên kết lô-gích xuất hiện khá phổ biến trong bài làm của học sinh THPT. Trong bài viết của học sinh

THCS, lỗi liên kết lô-gích xuất hiện càng phổ biến hơn. Trong bài viết của sinh viên đại học, loại lỗi này vẫn xuất

hiện rải rác. Sách vở, báo chí cũng không tránh khỏi loại lỗi này.

  Có hai nguyên nhân chính dẫn đến lỗi liên kết lô-gích. Nguyên nhân thứ nhất, mang tính chất gián tiếp, là ở giai

đoạn phân tích đề, lập dàn bài. Ở giai đoạn này, vì thiếu ý thức phân bố, sắp xếp nội dung bàn luận, trần thuật hay

miêu tả trong từng phần, từng đoạn một cách rạch ròi, cụ thể, nên đến giai đoạn tạo đoạn, tạo văn bản, học sinh viết

lan man, dẫn đến lỗi sai. Nguyên nhân thứ hai, mang tính chất trực tiếp, là do học sinh không nắm vững kiến thức

Ngữ pháp văn bản, đặc biệt là những hiểu biết về nhân tố liên kết lô-gích trong đoạn văn. Không nắm vững kiến thức

này, học sinh không có ý thức về ý tưởng chủ đạo(controlling idea) trong quá trình tạo đoạn, dẫn đến tình trạng

nghĩ sao viết vậy, viết câu sau, quên câu trước, không bao quát được nội dung bàn luận, trần thuật hay miêu tả chính

trong từng đoạn, từng phần văn bản.

Lỗi liên kết lô-gích có biểu hiện khá phức tạp. Tuy nhiên, có thể quy loại lỗi này về ba kiểu sai chính :

- Nội dung nghĩa của các câu rời rạc, tản mạn.

- Nội dung nghĩa của các câu mâu thuẫn với nhau.

- Nội dung nghĩa của các câu đan xen rối rắm.

 Trong các ví dụ đã dẫn, thuộc kiểu lỗi thứ nhất là đoạn (a), (e). Thuộc kiểu lỗi thứ hai là các đoạn (d), (f). Thuộc

kiểu lỗi thứ ba là đoạn (c). Tất nhiên, bên cạnh ba kiểu lỗi sai chính vừa nêu, trong bài viết của học sinh, cũng xuất

hiện hiện tượng phức hợp hai, ba kiểu lỗi. Ðoạn văn (b) thuộc trường hợp này : nội dung nghĩa giữa các câu vừa mâu

thuẫn, vừa rời rạc, tản mạn.

 Ðối với lỗi liên kết lô-gích, có hai hướng giải quyết : sửa chữa hay tổ chức lại đoạn văn. Giải quyết theo hướng nào

là tùy vào kiểu lỗi sai và biểu hiện sai cụ thể.

Ðối với kiểu lỗi nội dung nghĩa của các câu rời rạc, tản mạn :

Ðối với kiểu lỗi sai này, tùy biểu hiện sai cụ thể, ta sửa chữa hay tổ chức lại đoạn văn.

 Nếu đa số các câu trong đoạn có nội dung nghĩa lô-gích với nhau, chỉ có một hay một vài câu rời rạc, thì chúng ta

sửa chữa. Cách thức cụ thể là cắt bỏ những câu có nội dung nghĩa rời rạc, kết hợp với việc sắp xếp lại các câu, thay

đổi cách diễn đạt, thay thế, thêm bớt từ ngữ..., nếu thấy cần, để đoạn văn đã sửa chữa đảm bảo được các nhân tố liên

kết.

Ðoạn văn (e) có thể sửa theo cách vừa nêu :

       (e) Mùa xuân, từ xa nhìn lại, cây gạo sừng sững như một tháp đèn khổng lồ. Hàng ngàn bông hoa là

hàng ngàn ngọn lửa hồng. Hàng ngàn búp nõn là hàng ngàn ánh nến xanh. Tất cả đều lóng lánh, lung linh

trong nắng.

 Nếu đa số các câu trong đoạn đều có nội dung nghĩa rời rạc thì chúng ta không thể sửa chữa, mà chỉ có thể tổ chức

lại đoạn văn. Tất nhiên, đây là một công việc khá phức tạp và tế nhị. Vì thế cho nên việc tổ chức lại đoạn văn phải

được tiến hành từng bước.

Trước hết, dựa vào văn cảnh rộng, chúng ta xác định nội dung nghĩa cơ bản của đoạn văn cần được tổ chức lại.

 Tiếp theo, chúng ta xem xét đoạn văn cần tổ chức lại để xác định nội dung nghĩa cơ bản của nó có được biểu đạt qua

câu văn nào hay không. Nếu có, thì câu văn này được xem như là cơ sở để triển khai, tổ chức lại đoạn văn. Ðoạn văn

(a) thuộc trường hợp này : câu thứ nhất trong đoạn có thể được xem như câu nêu lên nội dung nghĩa cơ bản. Nếu

không, chúng ta phải tạo một đoạn văn mới hoàn toàn dựa trên nội dung nghĩa cơ bản đã xác định được. Chẳng hạn

như đối với đoạn văn (b). Dựa vào văn cảnh rộng, có thể xác định được nội dung nghĩa cơ bản của đoạn là : sự hi

sinh mất mát của người lính Tây Tiến.

 Cuối cùng, chúng ta vận dụng kiến thức về từ ngữ, ngữ pháp, đặc biệt là kiến thức về đoạn văn (các nhân tố liên kết,

các loại câu có chức năng khác nhau, các kiểu kết cấu của đoạn...) kết hợp với kiến thức về văn chương, xã hội, lần

lượt hiển ngôn hóa nội dung cơ bản của đoạn thành đoạn văn hoàn chỉnh.

Dưới đây là hai đoạn văn (a) và (b) đã được tổ chức lại :

(a) Viết về người phụ nữ, Hồ Xuân Hương thường chú ý đến những ngóc ngách éo le của cuộc đời, qua đó

  lên tiếng nói đồng cảm và bênh vực họ. Bà thông cảm sâu sắc với những người phụ nữ làm lẽ, năm thì mười

  họa mới được gần chồng, mà cũng chỉ là được chăng hay chớ, cho nên bà đã thốt lên tiếng chửi đầy phẫn nộ

  đối với cái kiếp lấy chồng chung, cái kiếp tôi đòi không công. Bà mạnh dạn lên tiếng khẳng định và bênh

  vực những người con gái, vì cả nể nên có mang với người mình yêu, điều mà luân lí phong kiến và dư luận

  xã hội khắt khe không chấp nhận :

Quản bao miệng thế lời chênh lệch

Không có, nhưng mà có, mới ngoan.

Chính tiếng nói đồng cảm và bênh vực ấy đã làm cho những vần thơ viết về người phụ nữ của Hồ Xuân

 Hương có giá trị nhân đạo sâu sắc.

   (b) Khi ra đi chiến đấu, người lính Tây Tiến có ý thức sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc, nên họ đã chẳng tiếc

ngày xanh.. Ðối với họ, sự hi sinh, mất mát chẳng phải là chuyện tưởng tượng xa vời mà là một thực tế hiển

nhiên : những nấm mồ của đồng đội nằm rải rác ở biên cương. Nhưng điều đó không làm cho người lính Tây

Tiến nao núng, run sợ. Vì thế cho nên, cái chết đối với họ hết sức nhẹ nhàng, thanh thản, mà cũng rất đỗi

hào hùng:

Aïo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Ðối với kiểu lỗi nội dung nghĩa của các câu mâu thuẫn với nhau :

 Ðối với kiểu lỗi sai này, hướng giải quyết chung là sửa chữa, nhưng mức độ sửa chữa, cách thức cụ thể phải tùy

vào biểu hiện sai cụ thể.

Trước hết , cần phải xem xét, xác định câu hay chuỗi câu nào mâu thuẫn với nhau và mâu thuẫn như thế nào.

Bước tiếp theo, căn cứ vào văn cảnh rộng, chúng ta xác định nội dung nghĩa cơ bản của đoạn văn cần sửa chữa, xác

định câu hay chuỗi câu nào tương ứng với nội dung nghĩa đó, câu hay chuỗi câu nào có nội dung nghĩa mâu thuẫn.

 Cuối cùng, trên cơ sở câu hay chuỗi câu có giá trị thể hiện nội dung nghĩa cơ bản, chúng ta sửa chữa, điều chỉnh các

câu có nội dung nghĩa mâu thuẫn bằng cách thay thế, thêm bớt từ ngữ, thay thế nội dung diễn đạt, kết hợp với việc

chuyển đổi cấu trúc, tách ghép câu, thay đổi vị trí các câu, nếu thấy cần.

Hai đoạn văn (d) và (f) có thể được sửa chữa theo cách vừa nêu :

  (d) Trước bọn cường hào độc ác, bất nhân, chị Dậu không chỉ nhẫn nhục, chịu đựng. Khi bị dồn vào bước

đường cùng, chị đã chống trả lại bọn chúng một cách quyết liệt. Chị nghiến hai hàm răngthách thức tên cai

Lệ khi hắn định hành hạ anh Dậu : Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!. Không chỉ bằng lời nói,

chị còn túm lấy cổ hắn, dúi hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất. Khi tên hầu cận ông lígiơ gậy lên chực đánh

chị, chị đã túm tóchắn, lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.

  (f) Ngay từ đầu, Tô Hoài đã có những thành công đáng ghi nhận. Núi cứu quốc là một dẫn chứng. Tác giả

đã có cái nhìn lạc quan, khỏe khắn khi miêu tả triền núi cứu quốc vươn lên như một cánh tay áo xanh bát

ngát. Viết về đồng bào miền núi, tác giả xúc động trước cảnh bà con làm lụng chật vật, túng thiếu, chịu

đựng bệnh sốt rét vàng quanh năm. Và nhà văn đã kịp ghi nhận những nét đổi mới trong tư tưởng, tình cảm

của những đồng chí Hùng Vương, Pẻo, Chẩn, Pin, Liễn...

Ðối với kiểu lỗi nội dung nghĩa của các câu đan xen rối rắm :

Hướng sửa chữa chung đối với kiểu lỗi sai này là tách đoạn văn ra, tổ chức lại thành nhiều đoạn.

Trước hết, chúng ta xem xét, xác định : Ðoạn văn có bao nhiêu nội dung nghĩa cơ bản ? Nội dung nghĩa cơ bản nào

được biểu đạt trong những câu văn nào?

 Kế đến, chúng ta đặt những nội dung nghĩa cơ bản đã xác định được trong văn cảnh rộng, phần văn bản hay cả văn

bản, để xét xem : Có sự chồng chéo, thừa thãi hay không ? Trật tự phân bố các nội dung nghĩa có hợp lí không ? Nếu

nội dung nào chồng chéo lên nhau, trở nên thừa thãi, thì loại bỏ. Nếu không thừa, thì giữ nguyên và phân bố theo trật

tự cũ hay phân bố lại theo trật tự mới cho kết cấu toàn bài chặt chẽ hơn.

 Cuối cùng, chúng ta tách đoạn bằng cách phân bố, sắp xếp lại các câu, kết hợp với việc thêm bớt, thay thế từ ngữ,

thay đổi cách diễn đạt..., và sửa chữa các loại lỗi khác, nếu có.

Áp dụng cách sửa chữa vừa nêu, ta có thể tách đoạn văn (c) thành hai đoạn văn như sau :

   Ông Nghị được Ngô Tất Tố vẽ ra bằng cử chỉ đập tay xuống sập, rung đùi, vuốt chòm râu tây cong vắt

trên mép miệng ngậm tămvà bằng những lời quát... Những chi tiết được miêu tả thoáng qua ấy đã cho ta thấy

rõ cái bản chất cậy quyền ỷ thế, ức hiếp dân lành của Nghị Quế. Trước mặt người nông dân nghèo khổ,

thấp cổ bé miệng, hắn luôn ra oai, làm tăng thêm uy thế hòng bóp hầu bóp họng họ dễ hơn.

   Bên cạnh bản chất cậy quyền ỷ thế, Nghị Quế còn là một tên địa chủ có tư cách hết sức xấu xa, đáng

khinh bỉ. Cái cung cách ăn uống của hắn đã chứng minh rõ điều đó. Hắn bưng bát canh, trợn mắt, húp một

cái đánh soạt, vừa nhai, vừa nuốt, vừa giục thằng nhỏ lấy tăm. Hắn bưng tách nước uống một hớp lớn, súc

miệng òng ọc mấy cái, rồi nhổ tọet xuống nền nhà..

3. Lỗi liên kết hình thức.

 Lỗi liên kết hình thức là loại lỗi liên kết có biểu hiện : các phương tiện liên kết[1] phản ánh sai lệch mối quan hệ về

mặt nội dung giữa các câu trong đoạn.

 Như đã trình bày, liên kết nội dung trong văn bản với hai nhân tố - liên kết chủ đề và liên kết lôgích - có vai trò

quyết định và quy định liên kết hình thức. Do đó, khi đoạn văn sai liên kết chủ đề hay liên kết lô-gích, tất nhiên dẫn

đến sai liên kết hình thức. Chẳng hạn như đoạn văn (a) đã dẫn trong mục 2.1 (Lỗi liên kết chủ đề). Trong đoạn văn

này, học sinh đã sử dụng phép liên tưởng để tổ chức liên kết chủ đề như sau : người nông dân Việt Nam dưới chế độ

thực dân phong kiến- Gia đình chị Dậu- Anh Dậu- Cái Tí bé bỏng- Tên lí tưởng. Nhưng Tên lí trưởngkhông có quan

hệ ngang hàng (đồng loại) với Anh Dậu và Cái Tí bé bỏng, nên cũng không bao hàm trong Gia đình chị Dậuvà trong

người nông dân Việt Nam dưới chế độ thực dân phong kiến. Ðó là lỗi liên kết hình thức : sử dụng sai phương tiện

liên tưởng.

 Tuy nhiên, cần lưu ý rằng : lỗi sai vừa nêu chỉ là hệ quả kéo theo của lỗi liên kết chủ đề. Do đó, khi sửa chữa lỗi liên

kết chủ đề của đoạn văn này, chúng ta cũng đồng thời loại bỏ lỗi liên kết hình thức như đã tiến hành. Những biểu hiện

sai liên kết hình thức như vừa nêu, chúng tôi không xem xét ở đây. Chúng tôi chỉ đề cập đến lỗi liên kết hình thức

thuần túy, loại lỗi liên kết hình thức có tác động tiêu cực đến liên kết nội dung của đoạn văn.

Ví dụ :

  (a) Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, tác giả dựng lên một cảnh đời bất hạnh của Chí Phèo. Họ không

chỉ chịu áp bức về vật chất mà tinh thần của họ cũng không kém phần khốn khổ. Chí Phèo muốn được làm

người lương thiện nhưng không được...(BVSV).

  (b) Hình ảnh quân xanh màu lá cho thấy người lính Tây Tiến chịu nhiều thiếu thốn về vật chất, ốm yếu

xanh xao như màu lá. Tuy vậy nhưng họ vẫn quyết tâm không chịu lùi bước. Nhưng họ vẫn mơ ước được

độc lập với màu cờ nền đỏ sao vàng.(BVHS)

  (c) Trong thời kì kháng chiếng chống Pháp, có rất nhiều nhà văn nhà thơ đã nói lên lòng yêu quê hương

đất nước, nói lên tình đồng đội , đồng bào ... hay nhớ lại những cuộc chiến đấu của những người lính. Trong

đó, nhà thơ Quang Dũng đã sáng tác bài Tây Tiến để nhớ lại những ngày chiến đấu cùng đồng đội. (BVHS).

   (d) Xuân Diệu là một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam. Ông sáng tác thơ là chính. Nhưng trong

giai đoạn này thơ ông bộc lộ tâm trạng rất yêu đời, rất thiết tha với cuộc sống, nhưng đồng thời lại cũng rất

chán nản, cô đơn và hoài nghi.”(BVHS).

  (e) Trong hoàn cảnh trước cách mạng tháng tám, trong dòng thơ văn của dân tộc ta, nói về thơ thì ai cũng

biết đến Xuân Diệu. Thế nhưng tâm hồn ông lại chứa đựng hai tâm trạng luôn trái ngước nhau là : ông rất

yêu đời, rất thiết tha với cuộc sống nhưng cũng rất chán nản hoài nghi, cô đơn.(BVHS).

   (f) Chủ nghĩa lãng mạn bảo thủ và lãng mạn ở Tây Âu chính là tiếng nói của giai cấp quý tộc phong kiến

đã suy tàn, là thái độ thứ nhất chống lại cuộc Cách mạng Pháp và phong trào Khai sáng gắn liền với cuộc

cách mạng đó. Những nhà văn lãng mạn này không những chủ trương lí thuyết duy tâm, phản động về mặt

nghệ thuật, mà còn trực tiếp tham gia những phong trào chính trị chống lại Cách mạng Pháp...(P.C.Ð -

PTTM).

  (g) Càng về sau, con đường xuống dốc của những khách chinh phu thật thảm hại. Tuy nhiên, lúc mới xuất

hiện trong thơ Thế Lữ, con người đó đã hấp dẫn khá đông thanh niên trong một thời lịch sử. (P.C.Ð -

PTTM).

 Trong ví dụ (a), câu thứ hai, học sinh đã dùng đại từ họ, nhưng câu thứ nhất không có yếu tố tạo tiền đề cho việc

thay thế. Ðại từ họ, số nhiều, không thể thay thế cho Chí Phèo.

  Trong ví dụ (b), ở đầu câu thứ hai, học sinh vừa dùng tổ hợp Tuy vậy, biểu thị mối quan hệ nhượng bộ, vừa dùng

liên từ nhưng, biểu thị mối quan hệ tương phản, để nối hai câu lại. Dùng hai phương tiện nối như vậy là thiếu nhất

quán, chồng chéo lên nhâu, làm cho mối quan hệ về nội dung nghĩa giữa hai câu không được xác lập rõ ràng, cụ thể.

Bên cạnh đó, ở đầu câu thứ ba, học sinh còn dùng liên từ Nhưng. Nhưng nội dung nghĩa của câu thứ hai và thứ ba

không tương phản với nhau. Như vậy, phương tiện nối Nhưngđã phản ánh sai mối quan hệ về nội dung nghĩa giữa hai

câu.

 Trong ví dụ (c), câu thứ hai, học sinh đã dùng đại từ đó để thay thế, nhưng chúng ta không xác định được đại từ này

thay thế cho từ, ngữ nào trong câu thứ nhất. Từ, ngữ được thay thế ở đây là thời kì kháng chiến chống Pháp hay nhà

văn nhà thơ?.

 Trong ví dụ (d), phương tiện nối Nhưngở đầu câu thứ ba phản ánh sai quan hệ về nội dung nghĩa giữa câu thứ hai và

thứ ba. Bên cạnh đó, chúng ta cũng không xác định được danh ngữ giai đoạn này được dùng để chỉ giai đoạn nào.

Trong ví dụ (e), tổ hợp Thế nhưng ở đầu câu thứ hai phản ánh lệch lạc mối quan hệ về nội dung nghĩa giữa hai câu.

 Trong ví dụ (f), người viết đã dùng danh ngữ Những nhà văn lãng mạn nàyđể chỉ Chủ nghĩa lãng mạn bảo thủ và

lãng mạn ở Tây Âu. Nhưng nội dung biểu đạt của hai danh ngữ này không hề đồng nhất với nhau.

 Trong ví dụ (g), người viết đã dùng danh ngữ con người đó để thế cho những khách chinh phu. Nhưng về ý nghĩa số

lượng, hai danh ngữ này lại thiếu thống nhất.

     Lỗi liên kết hình thức thuần túy chỉ xuất hiện rải rác trong một số bài viết của học sinh. So với lỗi liên kết chủ

đề và lỗi liên kết lô-gích, lỗi liên kết hình thức thuần túy xuất hiện ít hơn.

  Có hai nguyên nhân chính dẫn đến sai liên kết hình thức. Nguyên nhân thứ nhất là do học sinh thiếu ý thức rõ ràng,

cụ thể về mối quan hệ về nội dung giữa các câu trong quá trình tạo đoạn, tạo văn bản, nên sử dụng sai các phương

tiện liên kết câu. Nguyên nhân thứ hai là do học sinh không nắm vững kiến thức Ngữ pháp văn bản, đặc biệt là kiến

thức về các phép liên kết câu, nên đã sử dụng sai các phương tiện liên kết.

Nhìn chung, lỗi liên kết hình thức trong bài viết của học sinh thường bao gồm các kiểu sai :

Sử dụng sai phương tiện thế đại từ :

 Ðây là kiểu lỗi có biểu hiện : đại từ được dùng để thay thế thiếu yếu tố tạo tiền đề hay yếu tố tạo tiền đề không rõ

ràng. Thuộc kiểu lỗi này là đại từ Họ trong ví dụ (a) và đại từ đó trong ví dụ (c).

Sử dụng sai phương tiện nối :

 Kiểu lỗi này thường có biểu hiện : phương tiện nối câu (quan hệ từ, tổ hợp cố định hóa hay có xu hướng cố định

hóa) phản ánh sai lệch mối quan hệ về nội dung nghĩa giữa hai câu. Liên từ Nhưngtrong ví dụ (b), (d) và tổ hợp Thế

nhưng trong ví dụ (e) thuộc kiểu lỗi này.

Sử dụng sai phương tiện lặp từ vựng :

 Kiểu lỗi này thường có biểu hiện : phương tiện lặp (từ, ngữ) thiếu yếu tố tạo tiền đề hay thiếu sự đồng nhất về nội

dung biểu đạt với yếu tố tạo tiền đề. Danh ngữ giai đoạn này trong ví dụ (d) và danh ngữ Những nhà văn lãng mạn

này trong ví dụ (f) thuộc kiểu lỗi này.

Sử dụng sai phương tiện thế đồng nghĩa :

Biểu hiện thường thấy của kiểu lỗi này là phương tiện thế thiếu sự đồng nhất về nội dung biểu đạt với yếu tố tạo tiền

đề. Chẳng hạn như ví dụ (g) đã dẫn.

 Tiến hành sửa chữa lỗi liên kết hình thức, chúng ta phải căn cứ vào kiểu lỗi sai và biểu hiện sai cụ thể. (Tất nhiên,

đối với những chuỗi câu vừa sai liên kết hình thức, vừa chệch choạc về liên kết chủ đề, liên kết lô-gích hay mắc

những lỗi sai khác như lỗi dùng từ, lỗi ngữ pháp ..., khi sửa lỗi liên kết hình thức, chúng ta cũng đồng thời sửa chữa

các loại lỗi sai này).

Ðối với kiểu lỗi sử dựng sai phương tiện thế đại từ :

 Có hai hướng sửa chữa kiểu lỗi này. Thứ nhất là tạo thêm yếu tố tạo tiền đề. Thứ hai là điều chỉnh phương tiện thế

hay chuyển sang phương tiện lặp từ vựng tùy vào mối quan hệ về nội dung giữa các câu.

Các ví dụ (a) và (c) có thể được sửa chữa theo cách vừa nêu :

  (a) Trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao đã xây dựng thành công hình tượng Chí Phèo, một nạn nhân

khốn khổ của chế độ thực dân nửa phong kiến. Chí Phèo không những bị bóc lột về mặt vật chất, mà còn bị

đè nén, áp bức về mặt tinh thần, trở thành một tên lưu manh mất hết tính người. Ðến khi Chí Phèo thức tỉnh, khao

        khát được trở lại làm người lương thiện, thì Chí nhận ra rằng, mình không thể nào thực hiện được cái ước

        muốn hết sức bình thường, chính đáng ấy.

   (c) Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, nhiều nhà văn, nhà thơ đã viết về tình cảm quê hương đất

nước, tình đồng chí, đồng bào, hay viết về những kỉ niệm của đời lính... Trong số những nhà văn, nhà thơ

ấy, Quang Dũng là một cây bút tiêu biểu. Ông đã sáng tác bài thơ Tây Tiến, ghi lại những kỉ niệm và những

tình cảm sâu sắc của ông về đoàn quân Tây Tiến.

Ðối với kiểu lỗi sử dụng sai phương tiện nối :

 Có hai cách sửa chữa kiểu lỗi này, tùy vào mối quan hệ về nội dung nghĩa giữa hai câu. Cách thứ nhất là loại bỏ

phương tiện nối, nếu xét thấy không cần thiết. Cách thứ hai là thay thế phương tiện nối phản ánh sai quan hệ bằng

phương tiện nối khác, phù hợp hơn.

Hai cách sửa chữa vừa nêu có thể áp dụng đối với hai ví dụ (b) và (e) :

  (b) Hình ảnh quân xanh màu lá cho thấy người lính Tây Tiến phải chịu nhiều thiếu thốn, gian khổ về vật

chất, da xanh xao như màu lá. Nhưng họ không hề yếu đuối về mặt ý chí, tinh thần, mà trái lại, vẫn dữ oai

hùm. Hơn thế nữa, họ còn biết mộng mơ lãng mạn, mơ về Hà Nội với dáng kiều thơm.

   (e) Nói về thơ ca Việt Nam giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám, ai cũng biết đến Xuân Diệu. Thơ ông

trong thời kì này thể hiện hai tâm trạng trái ngược nhau. Một mặt, ông rất yêu đời, thiết tha với cuộc sống ;

nhưng mặt khác, ông lại cảm thấy bi quan, hoài nghi, cô đơn.

Ðối với kiểu lỗi sai phương tiện lặp từ vựng :

 Tùy vào biểu hiện sai cụ thể, chúng ta có thể điều chỉnh yếu tố tạo tiền đề hay điều chỉnh yếu tố liên kết, sao cho các

phương tiện liên kết đồng nhất với nhau về nội dung biểu đạt. Cũng có thể sửa chữa bằng cách chuyển phương tiện

lặp từ vựng thành phương tiện thế đồng nghĩa.

Hai ví dụ (d) và (f) có thể được sửa chữa theo hai cách vừa nêu :

      (d) Xuân Diệu là một nhà thơ lớn trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Trong giai đoạn sáng tác trước

năm 1945, ông làm thơ là chính. Thơ ông trong giai đoạn này thể hiện hai tâm trạng trái ngược nhau : yêu

đời, thiết tha với cuộc sống, nhưng lại bi quan, hoài nghi, cô đơn.

      (f) Chủ nghĩa lãng mạn bảo thủ và lãng mạn ở Tây Âu chính là tiếng nói của giai cấp quý tộc phong

kiến đã suy tàn, là thái độ thứ nhất chống lại cuộc Cách mạng Pháp và phong trào Khai sáng gắn liền với cuộc

cách mạng đó. Những nhà văn thuộc khuynh hướng sáng tác này / khuynh hướng lãng mạn này không những

chủ trương lí thuyết duy tâm, phản động về mặt nghệ thuật, mà còn trực tiếp tham gia những phong trào chính

trị chống lại Cách mạng Pháp...

Ðối với kiểu lỗi sai phương tiện thế đồng nghĩa :

 Tùy biểu hiện sai cụ thể, chúng ta điều chỉnh yếu tố tạo tiền đề hay điều chỉnh yếu tố liên kết sao cho chúng hoàn

toàn đồng nhất với nhau về nội dung biểu đạt. Cũng có thể sửa chữa bằng cách chuyển phương tiện thế đồng nghĩa

thành phương tiện lặp từ vựng.

Có thể sửa chữa ví dụ (g) theo hai cách nêu trên :

        Càng về sau, con đường xuống dốc của khách chinh phu thật thảm hại. Tuy nhiên, lúc mới xuất hiện

trong thơ Thế Lữ, con người đó đã hấp dẫn khá đông thanh niên trong một thời lịch sử.

Hay :

Càng về sau, con đường xuống dốc của khách chinh phu thật thảm hại. Tuy nhiên, lúc mới xuất hiện

trong thơ Thế Lữ, khách chinh phu đã hấp dẫn khá đông thanh niên trong một thời lịch sử.

CHƯƠNG 2 : RÈN LUYỆN KỸ NĂNG VIẾT CÂU

  I. KHÁI NIỆM VỀ CÂU

 II. GIẢN YẾU VỀ CẤU TRÚC CÂU TIẾNG VIỆT

III. CÁC LOẠI LỖI NGỮ PHÁP VÀ CÁCH SỬA CHỮA

I. KHÁI NIỆM VỀ CÂU

TOP

Câu là một tập hợp từ, ngữ kết hợp với nhau theo những quan hệ cú pháp xác định, được tạo ra trong quá trình tư duy,

giao tiếp, có giá trị thông báo, gắn liền với mục đích giao tiếp nhất định.

Ví dụ:

- Trăng đã lặn (N.C)

- Có nghĩa gì đâu một buổi chiều (X.D)

- Những người tù biết trời mưa khi họ vừa bị lùa ra khỏi khám.

- Hãy nhớ lấy lời tôi (T.H)

II. GIẢN YẾU VỀ CẤU TRÚC CÂU TIẾNG VIỆT

TOP

      Nói đến cấu trúc câu là nói đến các thành phần tạo câu cùng với chức năng, mối quan hệ qua lại và sự phân

bố chúng trong tổ chức nội bộ câu.

       Dựa vào vai trò tạo câu, các thành phần câu được chia thành ba loại lớn: thành phần nòng cốt, thành phần phụ

và thành phần biệt lập.

1- Thành phần nòng cốt của câu.

Thành phần nòng cốt là loại thành phần cơ bản, cốt lõi của câu mà dựa vào nó câu mới có thể tồn tại. Thành phần

nòng cốt bao gồm hai loại nhỏ: chủ ngữ và vị ngữ.

1.1- Chủ ngữ (subject, sujet).

       Chủ ngữ (viết tắt : C) là loại thành phần nòng cốt có chức năng biểu thị đối tượng mà câu đề cập đến. Nó trả

lời cho câu hỏi: câu nói về ai, cái gì, việc gì?

Ví dụ:

Hai người // lặng lẽ rẽ xuống con đường nhỏ (KL)

Mặt trời cuối thu // nhọc nhằn chọc thủng màn sương.

Từ // nhìn Hộ ba lần (N.T.T).

Người mẹ gầy ốm và ba đứa con còm cõi //quây quần với nhau trong xó bếp (N.C).

      Về từ loại, chủ ngữ thường do danh từ hay đại từ đảm nhiệm. Một số từ loại khác như động từ, tính từ và số từ

cũng có thể làm chủ ngữ.

       Về cấu tạo, chủ ngữ có thể là một từ, một chữ chính phụ hay một kết cấu chủ - vị dưới bậc câu (gọi là tiểu cú)

tạo thành.

Ví dụ:

http://tieulun.hopto.org

Trăng // đã lặn (C = một từ).

Gió rét // thổi hun hút (C = một từ)

Một cơn gió lọt / lọt vào // Làm Sinh tỉnh giấc (C = một kết cấu chủ - vị).

1.2- Vị ngữ (Predicate, pédicat).

       Vị ngữ (viết tắt: V) là loại thành phần nòng cốt có chức năng biểu thị nội dung thuyết minh về đối tượng được

câu nói đến. Nó trả lời cho câu hỏi: đối tượng được nói đến làm gì, như thế nào, ra sao?

Ví dụ:

Hai người // lặng lẽ rẽ xuống con đường nhỏ.

Gió rét // thổi hun hút.

Một cơn gió loạt vào // làm Sinh tỉnh giấc.

       Về mặt từ loại, vị ngữ thường do động từ hay tính từ đảm nhiệm. Một vài từ loại khác như đại từ, số từ cũng

có thể làm vị ngữ.

Về mặt cấu toạ, vị ngữ có thể do một từ, một ngữ hay do một kết cấu chủ vị dưới bậc câu (tiểu cú) tạo thành.

Ví dụ:

Nó // ăn (V = một từ)

Gió rét // thổi hun hút (V = một ngữ).

Từ // bản tính / rất hiền lành (V = một tiểu cú).

        Về trật tự phân bố chủ ngữ, trong câu tiếng Việt, chủ ngữ đứng trước vị ngữ là hiện tượng phổ biến. Tuy

nhiên, trong một số trường hợp, chủ ngữ có thể đứng sau vị ngữ:

- Trong câu cảm thán.

Ví dụ:

Rất đẹp // hình ảnh lúc nắng chiều!

Vinh dự thay // anh kép Tư Bền!

- Trong câu nghi vấn mang tính chất tu từ.

Ví dụ:

Có nghĩa gì đâu // một buổi chiều?

- Trong câu đảo vị ngữ nhằm mục đích nhấn mạnh nội dung thuyết minh.

Ví dụ:

Ðã tan tác // những bóng thu hắc ám.

Ðã xanh lại // trời thu tháng tám.

      Chủ ngữ và vị ngữ là hai thành phần nòng cốt, nên chúng thường xuất hiện trong câu. Tuy nhiên, hai thành

phần này cũng có thể vắng mặt trong một số trường hợp:

- C hay / và V bị tỉnh lược dựa vào hoàn cảnh giao tiếp.

Ví dụ:

Nói gì đó? (C bị tỉnh lược).

(Ai khóc?) - Nó (V bị tỉnh lược).

(Bao giờ anh đi?) - Chiều nay (C và V bị tỉnh lược).

- C hay / và V bị tỉnh lược dựa vào văn cảnh.

Ví dụ:

Bà ấy mệt quá. Không lê được một bước. Không kêu được một tiếng (C bị tỉnh lược).

       Sáng hôm sau, Ðiền ngồi viết. Giữa tiếng con khóc, tiếng vợ gắt gỏng và tiếng léo xéo đòi nợ ngoài đầu xóm.

(C và V bị tỉnh lược)

C không xuất hiện trong câu tồn tại.

Ví dụ:

Có khách!

Ðã hết giờ làm việc.

Giữa nhà, kê một chiếc giường xiêu vẹo.

Ngoài một số trường hợp vừa nêu, nếu câu thiếu C hay/và thiếu V thì đó là câu sai ngữ pháp.

2- Thành phần phụ của câu.

Thành phần phụ của câu bao gồm hai loại nhỏ: trạng ngữ và khởi ngữ.

2.1- Trạng ngữ.

      Trạng ngữ (viết tắt: Tr) là loại thành phần phụ có chức năng bổ sung thêm thông tin phụ cho sự việc được kết

cấu C - V nòng cốt nêu ra. Thông tin phụ mà Tr bổ sung có thể là thời gian, nơi chốn, cách thức, phương tiện, trạng

thái, đối tượng có liên quan v.v...

Ví dụ:

Hôm qua, em đi chùa hương.

Ngoài hiên, mưa rơi rơi.

Ở khắp các ngõ, lố nhố từng đám người.

Với tôi, tất cả đều vô nghĩa.

Ngập ngừng, Pha không đáp.

Về mặt cấu tạo, Tr có thể là một từ, một ngữ có hay không giới từ dẫn nhập, tuỳ vào loại trạng ngữ cụ thể.

http://tieulun.hopto.org

Khi Tr là một ngữ, nó có thể chứa tiểu cú.

Ví dụ:

Dạo anh / còn làm bí thư xã, anh thường đến thăm tôi.

Khi Cách mạng / thành công, tôi mới lên thăm.

       Về vị trí, Tr thường đứng trước C- V (chiếm tỉ lệ 80%). Tr cũng có thể xen vào giữa hay đứng sau C - V.

Trong trường hợp Tr đứng trước C - V, Tr thường được phân cách với kết cấu C - V bằng dấu phẩy. Trường hợp Tr

xen vào giữa hay đứng sau C - V cũng vậy.

Ví dụ:

Với tôi, tất cả đều vô nghĩa.

Hộ, đối với Từ, còn là ân nhân nữa.

Họ đón lấy giọt mưa với nỗi vui sướng thầm lặng.

Tôi về đến nhà lúc trời nhá nhem tối.

       Ðể xác định được những danh ngữ, giới ngữ xen vào giữa hay nằm sau C - V có phải là Tr hay không, ta kiểm

tra bằng cách đảo chúng lên đầu câu. Nếu câu văn không thay đổi nghĩa hay không sai, thì đó là Tr.

Ví dụ:

Họ đón lấy giọt mưa với nỗi vui sướng thầm lặng.

Với nỗi vui sướng thầm lặng, họ đón lấy giọt mưa.

Tôi nghỉ phép đến hết tháng 8.

Ðến hết tháng 8, tôi nghỉ phép (-).

2.2- Khởi ngữ (Tr chỉ chủ đề, đè ngữ).

   Khởi ngữ (viết tắt là K) là loại thành phần phụ có chức năng nhấn mạnh một chi tiết nào đó trong sự việc

được kết cấu C - V nêu lên. Ðiểm mà K nhấn mạnh có thể trùng với C, với V hay trùng với một bộ phận nào đó trong

V.

Ví dụ:

Tôi thì tôi dứt khoát không nhờ vả nó.

Nhờ vả nó thì tôi dứt khoát không nhờ.

Nó, tôi dứt khoát không nhờ vả.

Về cấu tạo, K có thể do một từ hay một ngữ tạo thành. Khi K là một ngữ, nó có thể chứa tiểu cú.

Ví dụ:

Quyển sách anh / vừa nói, tôi đã đọc nhiều lần.

       Về vị trí, K bao giờ cũng đứng trước C - V và được phân cách C - V bằng dấu phẩy, nếu không có trợ từ thì

xen vào.

     Về nội dung nghĩa, cần lưu ý rằng, câu bình thường không có K khác với câu có K ở chỗ: câu có K luôn mang

một hàm ý nào đó.

Ví dụ:

Nó chửi tôi. (không có K)

Tôi, nó cũng chửi.

    Câu sau mang nhiều hàm ý: Nó đã chửi ai đó rồi, và lẽ ra, nó chừa tôi ra. Thế mà nó cũng không chừa. Nó quá

hỗn xược v.v...

3- Thành phần biệt lập.

      Thành phần biệt lập là loại thành phần đứng tách riêng ra trong tổ chức câu và có mối quan hệ lỏng lẻo với kết

cấu C - V nòng cốt.

Thành phần biệt lập bao gồm nhiều loại nhỏ:

3.1- Chuyển ngữ (Tr chuyển tiếp, thành phần phụ chuyển tiếp).

        Chuyển ngữ là loại thành phần biệt lập có chức năng xác lập và biểu thị mối quan hệ giữa câu này với câu

khác trong chuỗi câu, đoạn văn v.v... Nói cách khác, chức năng của thành phần này là liên kết câu, tạo nên sự mạch

lạc của đoạn văn, ngôn bản.

Ví dụ:

     Người nào cũng muốn đặt bàn chân lâu lâu trên mặt đất. Bởi vì họ hiểu rằng họ sẽ xa đất rất lâu. Và có thể sẽ

xa đất mãi mãi. (A.Ð)

       Về mặt cấu tạo, chuyển ngữ có thể là một từ và bao giờ cũng là quan hệ từ (liên từ, giới từ). Các quan hệ từ

thường làm chuyển ngữ là: và, rồi, nhưng, song, tuy nhiên, vì, bởi vì, nên, cho nên, giữa, với, bằng ... Chuyển ngữ

còn có thể do một tổ hợp từ cố định hoá (quán ngữ) hay có xu hướng cố định hoá tạo thành. Chẳng hạn như các tổ

hợp: mặt khác, trái lại, ngược lại, bên cạnh đó, chẳng hạn như, ví dụ như, do đó, mặc dù vậy, tóm lại, nói tóm lại

v.v...

     Về vị trí, chuyển ngữ thường đứng trước kết cấu C - V nòng cốt và được phân cách bằng dấu phẩy, nếu ta tổ

hợp. Nếu chuyển ngữ là một từ thì không cần dùng dấu phẩy.

Ví dụ:

     Nếu quan niệm như thế thì trong Truyện Kiều, xứng đáng gọi là tài chỉ có Từ Hải. Và như vậy, cáo chết của

Từ Hải mới chính là biểu hiện của thuyết tài mệnh tương đó. Nhưng trái ngược lại, Nguyễn Du không dùng thuyết tài

mệnh tương đố để giải thích trường hợp Từ Hải. (N.L)

3.2- Cảm thán ngữ.

    Cảm thán ngữ là loại thành phần đặc biệt có chức năng biểu thị các trạng thái cảm xúc đi kèm theo sự kiện

được câu thông báo.

Ví dụ:

Ôi, lòng Bác vậy, cứ thương ta! (T.H)

Bác đã đi rồi sao, Bác ơi! (T.H)

Về cấu tạo, cảm thán ngữ có thể do một từ - từ cảm - đảm nhiệm. Một số từ cảm thường làm cảm thán ngữ là:

        à, ạ, ôi, ơi, ái, úi... Cảm thán ngữ cũng có thể do một tổ hợp từ tạo thành. Chẳng hạn như các tổ hợp: ái chà,

hỡi ôi, than ôi, đặc biệt là tổ hợp: danh từ kết hợp với các từ ơi, à...

       Về vị trí, cảm thán ngữ có thể đứng đầu câu hay cuối câu. Và ở vị trí nào, nó cũng thường được tách ra khỏi

các thành phần khác bằng dấu phẩy.

3.3- Hô ngữ (thành phần gọi - đáp).

Hô ngữ bao gồm hai loại nhỏ: hô ngữ gọi và hô ngữ đáp.

a) Hô ngữ gọi:

Hô ngữ gọi là loại thành phần đặc biệt có chức năng biểu thị đối tượng được người nói gọi đến trong câu.

Ví dụ:

Con ơi, nhớ lấy câu này (CD)

Trâu ơi, ta bảo trâu này (CD)

      Về cấu tạo, hô ngữ có thể là một từ, thường là danh từ riêng hay danh từ chung, hay là một tổ hợp gồm danh

từ, danh ngữ kết hợp với các từ đệm ơi, à, ạ, này...

Ví dụ:

Anh Chí ạ, anh muốn đâm người nào cũng không khó (N.C)

Nhanh tay lên nào, anh chị em ơi!

Anh ơi, lại đây với em!

Về vị trí, hô ngữ gọi có thể đứng ở đầu hay ở cuối câu và bao giờ nó cũng được phân cách khỏi các thành phần khác

bằng dấu phẩy.

b) Hô ngữ đáp:

     Hô ngữ đáp là loại thành phần đặc biệt có chức năng đánh dấu câu trả lời đồng thời biểu thị thái độ, phản ứng

của người nói.

Ví dụ:

Vâng, tôi đi đây.

Dạ, em mới vừa về tới.

Dạ phải, chính tôi đã nói thế.

      Về cấu tạo, hô ngữ đáp có thể là một từ: vâng, ạ, ừ, phải, đúng, không, hay là một tổ hợp: dạ vâng, dạ phải, dạ

đúng, dạ không v.v...

Về vị trí, hô ngữ gọi bao giờ cũng đứng ở đầu luôn được phân cách khỏi các thành phần khác bằng dấu phẩy.

3.4- Giải thích ngữ.

      Giải thích ngữ là loại thành phần đặc biệt có chức năng giải thích thêm cho một từ ngữ nào đó, hay ghi chú

thêm về thái độ, lời lẽ, cảm xúc... của người nói.

Ví dụ:

Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều, là nhà đại thi hào cổ điển Việt Nam”.

Cô ta cười, cái cười chua chát. (N.K)

        Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và giá lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi đi trên con đường làng

dài và hẹp. (T.T)

       Về cấu tạo, hô ngữ có thể là một từ, , hay là một câu hoàn chỉnh. Trong trường hợp giải thích ngữ là một câu,

nó còn được gọi là câu đệm hay câu chêm xen.

Ví dụ:

Trái khế này rất ngọt, Huệ nói, anh ăn mà xem. (Ð.H)

Cô bé ngày xưa (có ai ngờ)

Cũng vào du kích (G.N)

Hai thằng đó thì tôi biết - Hai Râu nói. (A.Ð)

Về vị trí, nếu giải thích ngữ có chức năng giải thích, thì nó đứng liền sau từ ngữ được giải thích. Nếu giải thích ngữ

có chức năng ghi chú thêm, thì nó có thể được xen vào giữa hay đặt ở cuối câu. Và xuất hiện ở vị trí nào, giải thích

ngữ cũng phải được tách khỏi các thành phần khác bằng dấu phẩy, dấu gạch ngang, dấu hai chấm hay dấu ngoặc đơn.

III. CÁC LOẠI LỖI NGỮ PHÁP VÀ CÁCH SỬA CHỮA

TOP

       Ở bậc tổ chức câu, hiện tượng sai ngữ pháp, trước hết có thể quy thành hai loại lỗi lớn : câu sai do cấu trúc

không hoàn chỉnh và câu sai do vi phạm quy tắc kết hợp. Mỗi loại lỗi sai này được chia thành nhiều kiểu lỗi nhỏ, dựa

vào đặc điểm, tính chất của hiện tượng sai.

1. Câu sai do cấu trúc không hoàn chỉnh :

Câu sai do cấu trúc không hoàn chỉnh là loại lỗi ngữ pháp có biểu hiện : hiện dạng của câu thiếu một hay một vài

thành phần nòng cốt, mà dựa vào văn cảnh, ta không thể phục hồi cấu trúc đầy đủ của nó.

Loại lỗi này bao gồm nhiều kiểu lỗi nhỏ :

1.1. Câu sai thiếu chủ ngữ.:

 Câu sai thiếu chủ ngữ là kiểu lỗi câu sai có hiện dạng thiếu thành phần biểu thị đối tượng của thông báo, mà dựa

vào văn cảnh, ta không thể xác định và phục hồi lại cấu trúc đầy đủ của nó.

 Trong tổ chức câu bình thường, chủ ngữ là thành phần có chức năng nêu lên đối tượng mà người viết, người nói đề

cập đến. Về từ loại, chủ ngữ thường do đại từ, danh từ hay ngữ tương đương đảm nhiệm. Do đó, một câu bị xem là

thiếu chủ ngữ khi hiện dạng của nó chỉ có động từ, tính từ, ngữ động từ, ngữ tính từ có giá trị như vị ngữ, hay hiện

dạng gồm có vị ngữ và thành phần phụ.

Ví dụ:

(a) Trong phút chốc, bọn xâm lược đã phá tan và cướp đi cuộc sống yên lành của người dân. Ðược thể hiện rõ

  nét qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộcnổi tiếng của Nguyễn Ðình Chiểu(BVHS).

(b) Qua đoạn thơ trên, Tố Hữu muốn nói đến lực lượng của tập thể, của nhân dân, của quần chúng, dưới sự lãnh

  đạo của Ðảng là vô hạn. Ðấu tranh đánh đổ áp bức, bóc lột, thúc đẩy xã hội tiến lên(BVHS).

(c) Bên cạnh lời dặn dò đó, còn chỉ ra cho chúng ta thấy giá trị tinh thần của đoàn kết, yêu thương giúp đỡ lẫn

  nhau(BVHS).

(d) Qua tác phẩm này, tố cáo xã hội bất công(BVHS).

 Hiện tượng câu sai thiếu chủ ngữ xuất hiện trong bài viết của học sinh THPT khá nhiều. Trong bài viết của học sinh

THCS, loại lỗi này xuất hiện phổ biến hơn.

 Nguyên nhân dẫn đến kiểu lỗi sai này là do học sinh chưa nắm vững cách thức tổ chức câu, cụ thể là chưa có ý thức

về tính hoàn chỉnh tương đối của câu.

 Thiếu chủ ngữ làm cho câu không hoàn chỉnh về cấu trúc và thông báo. Ðọc những câu này, ta không hiểu được học

sinh muốn nói về ai, cái gì, điều gì.

Ðối với kiểu lỗi sai này, cách sửa chữa chủ yếu là tạo ra chủ ngữ sao cho phù hợp với vị ngữ có sẵn. Tất nhiên, việc

tạo ra chủ ngữ một mặt phải dựa vào vị ngữ có sẵn, mặt khác phải xem xét câu trong mối quan hệ với nội dung và cấu

trúc của đoạn văn, tức là phải đặt câu trong mối quan hệ nhiều mặt với các câu chung quanh.

Các câu sai đã dẫn có thể được sửa chữa như sau :

(a) Trong phút chốc, bọn xâm lược đã phá tan cuộc sống yên bình của nhân dân. Tội ác của bọn chúng cũng như

  khí phách hiên ngang, bất khuất của nghĩa binh đã được phản ánh sâu sắc qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần

  Giuộcnổi tiếng của Nguyễn Ðình chiểu[1] .

(b) Qua đoạn thơ trên, Tố Hữu muốn nói đến sức mạnh vô địch của tập thể, của quần chúng, nhân dân dưới sự

  lãnh đạo của Ðảng. Sức mạnh ấy có thể đánh đổ bất cứ thế lực áp bức, bóc lột nào và thúc đẩy xã hội đi lên

  trên con đường tiến bộ.

(c) Bên cạnh lời dặn dò đó, nhà thơ (tác giả) còn chỉ ra cho chúng ta thấy rõ giá trị của tinh thần đoàn kết, yêu

  thương, giúp đỡ lẫn nhau.

(d) Qua tác phẩm ấy, tác giả đã lên tiếng tố cáo xã hội áp bức, bất công.

 Cần phải phân biệt câu sai thiếu chủ ngữ với câu tỉnh lược chủ ngữ trong văn bản. Chỉ nên xem hiện tượng khuyết

chủ ngữ là câu sai khi căn cứ vào văn cảnh chứa nó, ta không xác định được đối tượng được nói đến là gì, và do đo,ï

không thể phục hồi chủ ngữ bằng cách lặp từ vựng, thế đại từ hay thế bằng từ đồng nghĩa. Còn câu tỉnh lược thì dựa

vào văn cảnh, ta có thể phục hồi chủ ngữ bằng các cách vừa nêu.

Ví dụ:

          Họ là những người dân ấp, dân lân, vì mến nghĩamà làm quân chiêu mộ. Là đội quân tự nguyện, tự

giác, chiến đấu dũng cảm, không hề run sợ trước súng đạn tối tân của kẻ thù(BVHS).

Dựa vào câu thứ nhất thứ nhất, ta có thể phục hồi chủ ngữ của câu thứ hai trong ví dụ trên như sau :

Họ là đội quân tự nguyện, tự giác, chiến đấu dũng cảm...

 Cũng cần phân biệt câu sai thiếu chủ ngữ với kiểu câu mà cấu trúc chuẩn mực của nó không có chủ ngữ. Ðó là câu

tồn tại, một kiểu cấu trúc đặc thù trong tiếng Việt. Kiểu câu này có nội dung thông báo sự tồn tại, xuất hiện hay biến

mất của sự vật, hiện tượng, tính chất. Về mặt cấu trúc, đặc điểm của kiểu câu này là chỉ có vị ngữ hay trạng ngữ và vị

ngữ, trong đó, thành tố trung tâm của vị ngữ là các động từ biểu thị ý nghĩa tồn tại (có, còn, hết...), các động từ dùng

với ý nghĩa trạng thái, hay các tính từ có ý nghĩa số lượng (đông, ít, vắng...). Và trạng ngữ, nếu có, là một danh ngữ

hay giới ngữ, có nội dung biểu thị phạm vi không gian, thời gian.

Ví dụ:

(a) Bên cạnh chị Sứ, còn có biết bao người phụ nữ Việt Nam anh hùng khác(BVHS).

(b) Có người rất sớm đã tìm được hướng đi đúng cho đời mình(NLPBCL, T.III).

          (c) Trong cuộc kháng chiến cứu nước, có những chiến sĩ lao mình lấp lỗ châu mai để cho đơn vị

mình tiến lên (NTG - VVHVN).

(d) Bên đường, đứng chơ vơ một ngôi miếu cổ đen rêu(N.Ð.T).

1.2. Câu sai thiếu vị ngữ :

 Câu sai thiếu vị ngữ là kiểu câu sai có hiện dạng thiếu thành phần biểu thị nội dung thuyết minh mà dựa vào văn

cảnh, ta không thể xác định và khôi phục lại cấu trúc đầy đủ của nó.

 Trong tổ chức nội bộ câu, vị ngữ là thành phần nêu lên nội dung thuyết minh về đối tượng được nói đến. Nội dung

thuyết minh có thể là hành động, tính chất, trạng thái ... của đối tượng. Về từ loại, vị ngữ thường do động từ, tính từ

hay các ngữ tương đương đảm nhiệm. Như vậy, câu sai thiếu vị ngữ là kiểu câu sai mà hiện dạng của nó có thể thuộc

ba trường hợp sau :

(1) Danh ngữ (có giá trị như chủ ngữ).

(2) Danh từ / danh ngữ (có giá trị như chủ ngữ), giới ngữ (có giá trị như trạng ngữ).

(3) Danh từ / danh ngữ (có giá trị như chủ ngữ), danh ngữ (có giá trị như giải thích ngữ).

Ví dụ:

  (a) Tâm ngửng lên nhìn nét mặt hiền từ của bà Tư, rồi lại quay đi, hơi e thẹn. Vì nàng có tâm sự kín riêng.

Hình ảnh một người con trai lanh lợi, miệng tươi như hoa, ăn nói mềm mỏng dễ nghe. Những ngày phiên

chợ Bằng, Tâm thường thấy người ấy ra hàng Tâm mua kim chỉ(T.L. - GÐM).

(b) Sự xả thân vì đại nghĩa để chiến đấu cho độc lập, tự do của dân tộc(BVHS).

(c) Xuân Diệu, một con người yêu đời, thiết tha với cuộc sống(BVHS).

  (d) Việt Nam, đất nước của những con người anh hùng, của những bài ca bất diệt, những điệu hát câu hò

thắm đượm tình quê(BVHS).

 (e) Người nghĩa sĩ Cần Giuộc, với tấm lòng yêu làng xóm, quê hương tha thiết, với tinh thần xả thân vì

đại nghĩa(BVHS).

 Trong ví dụ (a), hình ảnh một người con trai lanh lợi, miệng tươi như hoa, ăn nói mềm mỏng dễ nghe chỉ là một

danh ngữ, chưa đủ tư cách là câu. Bởi lẽ, ta không thể hiểu được hình ảnh người con trai ấy như thế nào, ra sao. Câu

(b) cũng vậy : mới chỉ là một danh ngữ. Câu (c) gồm một bút danh (Xuân Diệu), có giá trị như chủ ngữ, và một danh

ngữ, có giá trị như giải thích ngữ. Ðọc câu này, ta không rõ Xuân Diệu như thế nào, ra sao. Câu (d) cũng tương tự

như ví dụ (c) : một danh từ riêng (Việt Nam) và một danh ngữ có giá trị như giải thích ngữ. Ví dụ (e) gồm có một

danh ngữ (Người nghĩa sĩ Cần Giuộc) và hai giới ngữ, có giá trị như hai trạng ngữ chỉ cách thức. Tất cả các trường

hợp nêu trên đều chưa phải là câu, bởi vì chúng đều không có thành phần nêu lên nội dung thuyết minh về đối tượng

được đề cập đến.

 Hiện tượng câu sai thiếu vị ngữ xuất hiện khá nhiều trong bài làm của học sinh, nhiều hơn kiểu câu sai thiếu chủ

ngữ, nhất là kiểu có hiện dạng giống như trường hợp (2), (3).

 Thiếu vị ngữ tất nhiên làm cho câu không hoàn chỉnh về mặt cấu trúc và thông báo. Ðọc những câu sai kiểu này, ta

không rõ đối tượng được nói đến như thế nào, ra sao.

 Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến câu sai thiếu vị ngữ là do học sinh nhận thức mơ hồ, thiếu chính xác về tính hoàn

chỉnh tương đối của câu, hay do học sinh nhầm lẫn các danh ngữ, giới ngữ (có giá trị như giải thích ngữ, trạng ngữ

đứng sau chủ ngữ ) với vị ngữ, từ đó, tưởng rằng câu đã hoàn chỉnh.

 Về cách sửa chữa kiểu lỗi sai này, nhìn chung có hai hướng : Thứ nhất là chuyển đổi cấu trúc có sẵn thành câu có

chủ - vị hoàn chỉnh. Thứ hai là tạo thêm vị ngữ sao cho phù hợp với cấu trúc có sẵn. Chọn cách sửa chữa nào là tùy

vào câu sai cụ thể.

Các câu sai vừa dẫn có thể sửa chữa như sau :

Câu (a), sửa theo cách thứ hai :

... Vì nàng có tâm sự kín riêng. Hình ảnh một người con trai lanh lợi, miệng tươi như hoa, ăn nói mềm mỏng dễ nghe

đang ám ảnh trong tâm trí của nàng...[1] .

Câu (b), sửa theo hai cách :

Vì đại nghĩa, nghĩa binh đã xả thân chiến đấu cho độc lập, tự do của dân tộc.

Hay :

  Tinh thần xả thân vì độc lập, tự do của dân tộc đã tạo nên nét đẹp hùng tráng ở người nghĩa binh nông

dân.

Câu (c), sửa theo cách thứ nhất :

Xuân Diệu là một con người yêu đời, thiết tha với cuộc sống.

Câu (d), sửa theo cách thứ nhất :

  Việt Nam là đất nước của những con người anh hùng, của những bài ca bất diệt và những điệu hát, câu hò

thắúm đượm tình quê.

Câu (e), sửa theo hai cách :

 Người nghĩa sĩ Cần Giuộc, với tấm lòng yêu mến làng xóm, quê hương tha thiết, đã xả thân quên mình vì

đại nghĩa.

Hay :

 Người nghĩa sĩ Cần Giuộc, với tấm lòng yêu mến làng xóm, quê hương tha thiết, với tinh thần xả thân vì

đại nghĩa, đã chiến đấu quên mình khi đối mặt với quân thù.

 Trừ câu (a), hai cách sửa chữa mà chúng tôi vừa áp dụng đối với các câu sai(b), (c), (d) và (e) mới chỉ là hai hướng

sửa chữa chung đối với kiểu lỗi sai này. Bởi vì, sửa chữa như vậy vẫn tách rời câu sai với văn cảnh chứa chúng. Do

đó, trước mỗi câu sai thiếu vị ngữ, ta áp dụng cách sửa chữa nào và sửa chữa như thế nào, điều đó cần phải được xem

xét trong mối quan hệ về ngữ nghĩa - lô-gích với các câu lân cận trong đoạn văn.

 Cũng cần lưu ý thêm, trước hiện tượng câu mà hiện dạng của nó chỉ là một danh ngữ, chúng ta cần phải cân nhắc,

phân biệt giữa một bên là câu sai (như các câu (a), (b)) và một bên là kết quả của hiện tượng tỉnh lược (tỉnh lược chủ

ngữ và động từ trung tâm của vị ngữ), làm cho hiện dạng của câuchỉ còn là một ngữ, có giá trị giải thích, thuyết minh

cho câu trước.

Ví dụ:

   (a) Văn học thời kì này đã phản ánh được tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Tinh thần chiến đấu, hy

sinh dũng cảm của những người chiến sĩ ở ngoài mặt trận, của những người mẹ, người vợ ở hậu phương

(BVHS).

  (b) Nhưng giữa bao nhiêu tối tăm dày đặc ấy, ánh sáng vẫn ngời lên. Aïnh sáng của lòng thương người và

yêu đời vô hạn (NL PBCL, T.III ).

1.3. Câu thiếu kết cấu chủ - vị noöng cốt.

 Câu thiếu chủ - vị nòng cốt là kiểu lỗi ngữ pháp mà hiện dạng của câu chỉ là một hay vài thành phần phụ ngoài

nòng cốt, và dựa vào văn cảnh, ta không thể phục hồi lại cấu trúc đầy đủ của nó.

 Câu thiếu kết cấu chủ - vị nòng cốt thường rơi vào câu đơn, và hiện dạng của kiểu lỗi câu sai này có thể quy về hai

biểu hiện chính :

(1) Giới ngữ / danh ngữ (có chức năng như trạng ngữ)

(2) Giới ngữ / danh ngữ (có chức năng như trạng ngữ), danh ngữ (có chức năng như giải thích ngữ).

Ví dụ :

  (a) Trước khi thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên xâm lược nước ta, mở đầu cho một trăm năm đô hộ

(BVHS).

  (b) Với tinh thần chiến đấu dũng cảm, với tinh thần đoàn kết một lòng chống ngoại xâm của nghĩa quân

(BVHS).

(c) Ðể làm nổi bật lên hình ảnh cao quý và đẹp đẻ của người Nghĩa sĩ Cần Giuộc, những người chiến sĩ

đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc. (BVHS).

  (d) Vậy mà khi người con gái đẹp nhất làng đã cuồng nhiệt trao hết tình yêu cho cậu, rủ cậu bỏ làng ra đi

liều ! (N.K.T - MÐLNNM).

  (e) Ở phòng khách và nơi nghỉ ngơi, được trang trí những bức tranh lớn, vẽ trực tiếp vào tường hoặc

những ô vải rộng. Phần nhiều mô tả cảnh mùa thu của những cánh rừng nhiệt đới(TNH 1993).

      Hiện dạng của câu (a) là một giới ngữ có chứa tiểu cú. Giới ngữ này chỉ có giá trị là một trạng ngữ. Hiện dạng

của câu (b) chỉ gồm hai giới ngữ, có giá trị như hai trạng ngữ. Hiện dạng của câu (c) gồm một giới ngữ, có chức năng

như trạng ngữ , và một danh ngữ có giá trị như giải thích ngữ. Hiện dạng của câu (d) gồm một tổ hợp, có giá trị như

chuyển ngữ (thành phần phụ chuyển tiếp), và một danh ngữ, có giá trị như trạng ngữ. Hiện dạng của câu thứ nhất

trong ví dụ (e) gồm một giới ngữ, có giá trị như trạng ngữ, và hai động ngữ, có giá trị như hai giải thích ngữ liên

hoàn. Tất cả các câu văn trên đều không có kết cấu chủ - vị nòng cốt, kết cấu chủ vị ở bậc câu.

 Câu thiếu kết cấu chủ - vị nòng cốt xuất hiện khá phổ biến trong bài viết của học sinh, nhất là sai theo dạng (2) (kiểu

lỗi này cũng xuất hiện không ít trên sách báo in ấn chính thức).

 Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lỗi sai này là do học sinh không nắm vững kiến thức ngữ pháp, đặc biệt là về tính

hoàn chỉnh của câu, dẫn đến sự lẫn lộn giữa các thành phần nòng cốt với các loại thành phần phụ ngoài nòng cốt.

Cũng có trường hợp do sử dụng dấu chấm thiếu chính xác, học sinh mắc phải kiểu lỗi này.

Ví dụ :

   (f) Một lần, khi nghe bà Nghị gọi con gái là cái hai. Hắn đã cau mày trách vợ : Sao bà cứ gọi bằng lối

xách mé như vậy ? Tôi đã dặn bà phải gọi nó bằng mợ...(BVHS).

 Trong câu trên, vì học sinh sử dụng sai dấu chấm nên đã tách hai danh ngữ có giá trị như hai trạng ngữ khỏi kết cấu

chủ - vị nòng cốt, làm cho chúng trở thành câu sai.

 Ðối với lỗi kiểu sai này, nhìn chung có hai cách sửa chữa : tạo thêm kết câu chủ - vị dựa trên cấu trúc có sẵn hay

chuyển đổi cấu trúc có sẵn của câu sai thành câu hoàn chỉnh.

Dưới đây là các câu sai đã được sửa chữa :

(a) Trước khi thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên xâm lược nước ta, mở đầu một trăm năm đô hộ, người

nghĩa sĩ Cần Giuộc vốn là những người nông dân chân lấm tay bùn, quanh năm chỉ biết côi cút làm ăn, toan lo nghèo

       khó.

   (b) Với tinh thần đoàn kết một lòng, nghĩa quân đã chiến đấu dũng cảm, xem thường mọi thứ vũ khí tối

tân của giặc.

  (c) Ðể làm nổi bật những phẩm chất cao đẹp của người nghĩa sĩ Cần Giuộc, những người chiến sĩ - nông

dân đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc, Nguyễn Ðình Chiểu đã khắc họa đậm nét tư thế hiên ngang của

họ khi đối mặt với kẻ thù.

  (d) Vậy mà khi người con gái đẹp nhất làng cuồng nhiệt trao hết tình yêu cho cậu, rủ cậu bỏ làng ra đi

liều, cậu đã không dám nghe theo / đã chối từ một cách hèn nhát.

  (e) Phòng khách và nơi nghỉ ngơi được trang trí bằng những bức tranh lớn, vẽ trực tiếp vào tường hoặc

những ô vải rộng ...

 Câu (a) được sửa chữa theo cách tạo thêm kết cấu chủ - vị nòng cốt dựa trên cấu trúc có sẵn của câu sai. Câu (b)

được sửa chữa theo cách chuyển đổi cấu trúc của câu sai thành câu đúng, có bổ sung thêm vị ngữ thứ hai. Câu (c)

được sửa theo cách tạo thêm kết cấu chủ - vị nòng cốt. Câu (d) cũng được sửa theo cách tương tự. Câu (e) được sửa

theo cách chuyển đổi cấu trúc có sẵn thành câu đúng.

 Cũng như đối với kiểu câu sai thiếu chủ ngữ và câu sai thiếu vị ngữ, khi sửa chữa câu sai thiếu kết cấu chủ - vị nòng

cốt, chọn lựa cách sửa chữa nào là phải tùy vào câu sai cụ thể. Và khi tiến hành sửa chữa, nhất thiết phải xem xét mối

quan hệ về ngữ nghĩa - lô-gích giữa câu sai với các câu lân cận trong đoạn văn để đảm bảo sự mạch lạc giữa các câu.

Riêng câu (f), chỉ cần thay dấu chấm băng dấu phẩy, ta sẽ có câu đúng :

Một lần, khi nghe bà Nghị gọi con gái là cái Hai, hắn đã cau mày trách vợ ...

1.4. Câu ghép phụ thuộc thiếu cú.

 Câu ghép phụ thuộc (qua lại) là loại câu ghép có hai cú (hai kết cấu chủ - vị nòng cốt) kết hợp với nhau theo quan hệ

phụ thuộc. Ðiều đó có nghĩa là, trong loại câu ghép này , hai cú ràng buộc, nương dựa lẫn nhau, không thể tách rời

nhau. Ðặc điểm đó cũng quy định, ở dạng chuẩn, loại câu ghép này phải có hai cú, có hiện dạng đầy đủ hay không

đầy đủ, không kể thành phần phụ ngoài nòng cốt.

 Trong câu ghép phụ thuộc, hai cú thường kết hợp với nhau bằng cặp liên từ hô ứng, hay một số cặp từ loại khác, lâm

thời có chức năng liên kết hai cú. Nếu gọi L1 là liên từ thứ nhất , L2 là liên từ thứ hai, ta có mô hình cấu trúc tiêu

biểu của câu ghép phụ thuộc ở dạng đầy đủ như sau :

L1C1 - V1, L2 C2 - V2.

 Câu ghép phụ thuộc thiếu cú là kiểu lỗi sai mà hiện dạng của câu chỉ có cú thứ nhất : L1C1 - V1, hoàn toàn thiếu cú

thứ hai, hay cú thứ hai chỉ có thành phần phụ ngoài noöng cốt.

Ví dụ :

   (a) Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, vì triều đình nhà Nguyễn nhu nhược, hèn nhát. Nguyễn Ðình

Chiểu đã dùng ngòi bút sắc bén của mình làm vũ khí đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù , và hết lòng

ca ngợi người nông dân dám quên mình vì nghĩa lớn(BVHS).

  (b) Mặc dù chị Sứ bị giặc bắt, bị chúng hành hạ tra tấn dã man. Chị đã dùng phương tiện thông tin của

giặc để báo cho anh em, đồng chí trong hang biết : Các đồng chí đừng nghe tụi nó nói láo, tôi không đầu

hàng đâu... (BVHS).

  (c) Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu cho dòng văn học lãng mạn trước Cách mạng tháng Tám. Dù tâm hồn

ông có lúc chán nản, hoài nghi, cô đơn. Ông đã có những đóng góp lớn cho nền thi ca Việt Nam giai đoạn

bấy giờ(BVHS).

 (d) Còn về bác Phúc, nếu bác có khuyết điểm dạo làm chủ nhiệm trước đây, mà chắc là có thôi !(N.K.T -

MÐLNNM).

 Trong ví dụ (a), câu thứ nhất chỉ gồm có trạng ngữ và một cú nêu lên nguyên nhân. Câu này chỉ có một cú. Câu thứ

nhất trong ví dụ (b) và câu thứ hai trong ví dụ (c) cũng chỉ có một cú, nêu lên điều kiện cực đoan. Trong ví dụ (d),

cấu trúc câu gồm có một tổ hợp từ có giá trị chuyển tiếp (Còn về bác Phúc), một kết cấu chủ - vị nòng cốt nêu lên

điều kiện, và một ngữ đoạn có giá trị như một chú thích ngữ (mà chắc là có thôi !).

 Cũng có trường hợp hiện dạng của câu đầy đủ hai cú ; nhưng do học sinh dùng sai dấu chấm, hai cú bị tách rời, trở

thành câu sai :

  (e) Nguyễn Du thấy rõ xã hội phong kiến đầy dẫy bất công, oan trái. Nhưng vì ông không thể giải thích

nỗi cuộc đời và không biết làm thế nào để thay đổi nó. Cho nên ông không tránh khỏi buồn phiền, bế tắc

(BVHS).

 Câu ghép phụ thuộc thiếu cú xuất hiện khá nhiều trong bài làm của học sinh. Trong bài làm của sinh viên đại học,

kiểu lỗi này vẫn xuất hiện rải rác. (Kiểu lỗi này cũng không hiếm trên sách báo in ấn chính thức, kể cả tác phẩm của

các nhà văn chuyên nghiệp như chúng tôi đã dẫn ra).

Ðối với câu ghép phụ thuộc thiếu cú, hướng sửa chữa chung là tạo thêm cú thứ hai (L2 C2 - V2) sao cho cú này

tương hợp về ngữ nghĩa, lô-gích với cú thứ nhất đã có. Tất nhiên, khi sửa chữa từng câu cụ thể, một ặmt ta phải dựa

vào cấu trúc và nội dung biểu đã của cú đã có ; mặt khác, nhất thiết phải xem xét đến mối quan hệ giữa câu được sửa

chữa với các câu chung quanh. Và nếu thấy cần, chúng ta còn phải sửa chữa nhỏ những câu chung quanh như thêm

bớt, thay đổi từ ngữ, để đảm bảo sự liên kết giữa các câu.

Các câu (a), (b), (c), (d) có thể sửa chữa như sau :

   (a) Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, vì nhu nhược, hèn nhát, nên triều đình nhà Nguyễn đã đầu

hàng, kiï hòa ước với giặc. Trong tình hình đó, Nguyễn Ðình Chiểu đã dùng ngòi bút sắc bén của mình làm

vũ khí đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù và hết lòng ca ngợi những người nông dân dám quên mình

vì nghĩa lớn.

Hay :

  Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, vì triều đình nhà Nguyễn nhu nhược, hèn nhát, nên đã đầu hàng, kí

hòa ước với giặc. Trong tình hình đó, Nguyễn Ðình Chiểu đã dùng ngòi bút sắc bén của mình làm vũ khí

đấu tranh...

 Lưu ý : Hai câu trên đều được sửa chữa bằng cách tạo thêm cú thứ hai (và tạo thêm trạng ngữ cho câu tiếp theo để

đảm bảo sự liên kết chặt chẽ giữa các câu). Chỗ khác nhau là : trong câu sửa chữa thứ nhất, chủ ngữ của cú thứ nhất

bị tỉnh lược ; còn trong câu sửa chữa thứ hai, chủ ngữ của cú thứ hai bị tỉnh lược.

       (b) Mặc dù chị Sứ bị giặc bắt , bị chúng tra tấn, hành hạ dã man, nhưng chị không hề khuất phục. Trái

lại, chị còn dùng phương tiện thông tin của chúng để báo cho đồng chí, anh em trong hang biết : Các đồng

chí...

     (c) Xuân Diệu là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong trào lưu thơ ca lãng mạn trước Cách mạng

tháng Tám. Dù có lúc ông cảm thấy bi quan, hoài nghi, cô đơn, nhưng bản chất tâm hồn nhà thơ là yêu đời,

thiết tha với cuộc sống...

     (d) Còn về bác Phúc, nếu bác có khuyết điểm dạo làm chủ nhiệm, mà chắc là có thôi, thì bác nên thành

thật nhìn nhận.

Riêng đối với trường hợp sai do học sinh chấm câu sai, như câu (e), thì sửa chữa bằng cách thay dấu chấm

  bằng dấu phẩy để ghép hai cú lại thành một câu hoàn chỉnh :

  (e) Nguyễn Du thấy rõ xã hội phong kiến đầy dẫy bất công, oan trái. Nhưng vì ông không thể giải thích

nổi cuộc đời và không biết làm thế nào để thay đổi nó, cho nên ông không tránh khỏi buồn phiền, bế tắc.

 Cũng có thể sửa câu này theo cách khác : bỏ L1 (vì) trong cú thứ nhất, giữ nguyên dấu chấm và cú thứ hai. Sửa như

vậy tức là ta biến cú thứ nhất thành câu đơn, còn cú thứ hai trở thành câu ghép qua lại bị tỉnh lược cú thứ nhất, hiện

dạng chỉ còn cú thứ hai, và L2 (cho nên) trở thành phương tiện liên kết câu (phương tiện nối) :

  Nguyễn Du thấy rõ xã hội phong kiến đầy dẫy bất công, oan trái. Nhưng ông không thể giải thích nổi

cuộc đời và không biết làm thế nào để thay đổi nó. Cho nên ông không tránh khỏi buồn phiền, bế tắc.

 Ở đây, cũng cần phân biệt câu ghép phụ thuộc thiếu cú, một kiểu lỗi ngữ pháp, với câu ghép phụ thuộc có hiện dạng

một cú, kết quả của việc tỉnh lược câu trong văn bản, một biến thể cấu trúc của câu ghép phụ thuộc, vẫn được xem là

chuẩn mực. Như đã trình bày, cấu trúc của câu ghép phụ thuộc thiếu cú chỉ có cú thứ nhất (L1C1-V1). Trong khi đó,

hiện dạng của câu ghép phụ thuộc tỉnh lược lại chỉ có cú thứ hai (L2C2-V2 ), cú thứ nhất xem như đã lược bỏ.

Ví dụ :

  Ðối với đối tượng của mình, nói chung Nguyễn Khuyến ít có thái độ hằn học, mạt sát. Nhưng ông lại có ý

thức rất rõ về cái thế hơn hẳn của mình về mặt nhân cách, đạo đức và về cả khoa danh nữa. Cho nên ông

thường lấy tư cách của người đứng trên nhìn xuống, vừa đả kích, lại vừa thương hại (LSVHVN,T.IV A).

 Trong ví dụ trên, câu thứ hai và câu thứ ba là hiện dạng còn lại của câu ghép phụ thuộc tỉnh lược cú thứ nhất. Dựa

vào văn cảnh, ta có thể phục hồi lại dạng đầy đủ của hai câu này như sau :

Câu thứ hai :

  Mặc dù đối với đối tượng của mình, Nguyễn Khuyến ít có thái độ hằn học, mạt sát, nhưng ông lại có ý

thức rất rõ về cái thế hơn hẳn của mình...

Câu thứ ba :

  Vì ông có ý thức rất rõ về cái thế hơn hẳn của mình về mặt nhân cách, đạo đức và cả khoa danh nữa, cho

nên ông thường lấy tư cách của người đứng trên nhìn xuống, vừa đả kích, lại vừa thương hại.

 Nhưng nếu viết đầy đủ như vậy thì câu sau sẽ lặp lại câu trước, trở nên dài dòng, không cần thiết. Vì lẽ đó, người

viết đã không hiển ngôn hóa cú thứ nhất của hai câu, hiện dạng của hai câu chỉ còn cú thứ hai, và L2 (nhưng, cho

nên) trở thành phương tiện nối câu.

Khi sửa chữa câu (f) theo cách thứ hai, thực chất là chúng ta đã vận dụng phép tỉnh lược như vừa trình bày.

2. Câu sai do vi phạm quy tắc kết hợp.

 Khác với câu sai do cấu trúc không hoàn chỉnh, câu sai do vi phạm quy tắc kết hợp, mặc dù không thiếu các thành

phần nòng cốt (thậm chí còn thừa nữa), nhưng hiện dạng của câu có những ngữ đoạn kết hợp với nhau không đúng

quy tắc ngữ pháp, nên trở thành lỗi sai.

Dựa vào tính chất, đặc điểm của hiện tượng sai, có thể chia loại lỗi này thành ba kiểu lỗi nhỏ :

2.1. Câu đứt cấu trúc ngữ pháp.

  Khi tham gia vào tổ chức nội bộ của câu, nhìn chung, các từ, ngữ phải đảm bảo mối quan hệ về ngữ pháp (và ngữ

nghĩa), dựa trên các quy tắc kết hợp có sẵn. Mối quan hệ qua lại đó trong tổ chức câu được xác lập bằng trật tự tuyến

tính giữa các từ, ngữ, hay bằng từ công cụ, hai phương thức ngữ pháp cơ bản của tiếng Việt.

 Ðứt cấu trúc ngữ pháp là kiểu lỗi sai mà hiện dạng câu có những ngữ đoạn rời rạc, mối quan hệ về mặt ngữ pháp

(và ngữ nghĩa) giữa chúng với các ngữ đoạn khác không được xác lập rõ ràng, cụ thể.

Xem xét các ví dụ dưới đây :

  (a) Bài thơ trên chúng ta thấy tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du thể hiện rất rõ qua các câu hỏi tu từ

(BVHS).

  (b) Sự bóc lột hết sức tàn bạo dã man của bọn tư bản độc quyền Pháp cộng với sự bóc lột của địa chủ

phong kiến, nhân dân ta vô cùng điêu đứng, khổ sở(BVHS).

   (c) Sự trói chặt của bóng đêm đáng sợ đó Xuân Diệu thấy cảnh vật chung quanh không còn tươi thắm, mà

nó chỉ một màu đen ảm đạm(BVHS)

   (d) Tinh thần chiến đấu hi sinh dũng cảm của những người nghĩa sĩ họ luôn nêu cao khí thế tiến công,

trang bị thô sơ, nghèo nàn(BVHS).

 Trong ví dụ (a), mối quan hệ giữa danh ngữ bài thơ trênvới kết cấu chủ - vị đứng sau nó không được xác lập rõ ràng,

cụ thể. Tương tự, trong câu (b), danh ngữ sự bóc lột hết sức tàn bạo dã man của bọn tư bản độc quyền Pháp cộng với

sự bóclột của địa chủ phong kiếnkhông có quan hệ rõ ràng, cụ thể với kết cấu chủ - vị nòng cốt về mặt ngữ pháp, do

đó, chúng ta khó xác định được chức năng cú pháp của danh ngữ này. Trong câu (c), danh ngữ sự trói chặt của bóng

đêm đáng sợ đólà ngữ đoạn bị đứt rời khỏi kết cấu trúc câu, đó là chưa kể đến lỗi từ ngữ. Câu (d), có hai ngữ đoạn bị

đứt rời khỏi kết cấu chủ - vị ở giữa câu. Ngữ đoạn thứ nhất là danh ngữ tinh thần chiến đấu dũng cảm của những

người nghĩa sĩ , ngữ đoạn thứ hai là trang bị thô sơ, nghèo nàn. Mối quan hệ về mặt ngữ pháp giữa hai ngữ đoạn này

với kết cấu chủ - vị không được xác lập một cách cụ thể bằng những phương tiện ngữ pháp cần thiết.

 Hiện tượng đứt cấu trúc ngữ pháp xuất hiện khá nhiều trong bài viết của học sinh PTCS. Kiểu lỗi này xuất hiện

tương đối ít trong bài viết của học sinh THPT, và chỉ tập trung trong bài viết của học sinh lớp 10. Trong bài viết của

học sinh lớp 11 và lớp 12, thỉnh thoảng mới bắt gặp kiểu lỗi này. Bài có sai, thường không quá hai, ba lỗi.

  Nguyên nhân dẫn đến kiểu lỗi sai này là do học sinh suy nghĩ thiếu chặt chẽ, không nắm vững kiến thức cơ bản

trong việc vận dụng các phương thức ngữ pháp để sắp xếp các ngữ đoạn, các thành phần câu theo trật tự thích hợp, và

sử dụng chính xác các từ công cụ nhằm liên kết, xác lập mối quan hệ ngữ pháp qua lại giữa các ngữ đoạn trong câu.

 Sửa chữa lỗi đứt cấu trúc ngữ pháp, hướng chung là nốicác ngữ đoạn bị đứt lại. Trước hết, chúng ta xem xét mối

quan hệ tiềm ẩn giữa các ngữ đoạn trong câu để xác định ngữ đoạn bị đứt có khả năng làm thành phần gì. Trên cơ sở

đó, chúng ta dùng từ công cụ để nốichúng với các thành phần khác, sao cho chức năng cú pháp của chúng được xác

lập rõ ràng, cụ thể. Nếu trật tự của các ngữ đoạn bị đứt không phù hợp, chúng ta có thể vừa thay đổi trật tự, vừa sử

dụng từ công cụ để nốichúng như trình bày.

Các câu đứt cấu trúc đã dẫn có thể được sửa chữa như sau :

từ.

(a) Trong bài thơ trên, chúng ta thấy tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du thể hiện rất rõ qua các câu hỏi tu

  (b) Dưới sự bóc lột hết sức tàn bạo, dã man của bọn tư bản độc quyền Pháp và bọn địa chủ phong kiến,

nhân dân ta vô cùng điêu đứng, khổ sở.

  (c) Trong sự bủa vây của bóng đêm đáng sợ đó, Xuân Diệu thấy cảnh vật chung quanh không còn tươi

thắm nữa, mà tất cả đều khoác lên một màu ảm đạm.

   (d) Với tinh thần chiến đấu, hi sinh dũng cảm, người nghĩa sĩ luôn nêu cao khí thế tiến công, mặc dù vũ

khí, trang bị của họ hết sức thô sơ, lạc hậu.

 Khi sửa chữa câu đứt cấu trúc ngữ pháp, cách thức và mức độ sửa chữa phải được áp dụng sao cho phù hợp với từng

câu sai cụ thể. Ðồng thời, chúng ta cũng cần chú ý đến mối quan hệ giữa câu được sửa chữa với các câu chung quanh.

2.2. Câu chập cấu trúc ngữ pháp.

Do sự quy định của quan hệ cú pháp, trong tổ chức nội bộ câu, mỗi từ, ngữ đều đảm nhiệm một chức năng cú pháp

nhất định : hoặc là làm thành phần câu (chủ ngữ, vị ngữ, các loại thành phần phụ ngoài kết cấu chủ -vị nòng cốt),

hoặc là làm thành tố trong cụm từ (chính tố, phụ tố), xét ở một bậc quan hệ cú pháp nào đó. Nếu câu có những từ,

ngữ đồng thời đảm nhiệm hai chức năng cú pháp, xét ở một bậc quan hệ cú pháp, thì đó chính là lỗi chập cấu trúc ngữ

pháp.

 Nói cách khác, chập cấu trúc ngữ pháp là kiểu lỗi sai có biểu hiện ở cùng một bậc quan hệ cú pháp, từ, ngữ vừa đảm

nhiệm chức năng này, xét trong mối quan hệ với ngữ đoạn trước nó, vừa đảm nhiệm chức năng khác, xét trong mối

quan hệ với ngữ đoạn sau nó.

Xem xét vài ví dụ dưới đây :

  (a) Ðó là một thành công lớn của Vũ Trọng Phụng đã xây dựng nên tấn hài kịch của xã hội thời bấy giờ

(BVHS).

   (b) Tác giả đã cho chúng ta thấy nỗi khổ nhục của mẹ con người ăn mày không dám nhìn ai mà chỉ biết

cúi đầu tủi hổ cho số phận mình. (BVHS).

  (c) Trong tác phẩm Tắt đèncũng ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam dưới chế độ

thực dân phong kiến.(BVHS).

  Trong câu (a), Vũ Trọng Phụng, xét trong mối quan hệ với danh ngữ một thành công lớn, là định tố biểu thị ý nghĩa

sở thuộc. Nhưng xét trong mối quan hệ với động ngữ đã xây dựng nên tấn hài kịch của xã hội thời bấy giờ,Vũ Trọng

Phụng lại có chức năng như chủ ngữ. Ðây chính là hiện tượng chập cấu trúc ngữ pháp. Trong câu (b) mẹ con người

ăn mày là định tố, xét trong mối quan hệ với danh ngữ nỗi khổ nhục. Nhưng xét trong mối quan hệ với hai động ngữ

không dám nhìn aivà chỉ biết cúi đầu tủi hổ cho số phận mình, mẹ con người ăn mày lại có chức năng như chủ ngữ.

Như vậy, danh ngữ mẹ con người ăn mày là ngữ đoạn bị chập. Trong câu (c), tác phẩm Tắt đèn có giá trị như một

trạng ngữ, xét trong mối quan hệ với giới từ trong. Nhưng danh ngữ này lại có chức năng như chủ ngữ, xét trong mối

quan hệ với động ngữ cũng ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam..... Danh ngữ tác phẩm

Tắt đèn là ngữ đoạn bị chập.

 Chập cấu trúc ngữ pháp là kiểu lỗi khá phổ biến trong bài viết của học sinh. Kiểu lỗi này xuất hiện nhiều hơn lỗi đứt

cấu trúc ngữ pháp. Có hơn 30% bài viết của học sinh mà chúng tôi đã khảo sát mắc kiểu lỗi này. Bài sai ít là một, hai

lỗi. Bài sai nhiều lên đến bốn, năm lỗi (kiểu lỗi này cũng xuất hiện rải rác trên sách báo in ấn chính thức).

  Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng chập cấu trúc ngữ pháp là do tư duy của học sinh thiếu mạch lạc. Thêm

vào đó là sự non yếu về kiến thức ngữ pháp, cụ thể là những hiểu biết về các thành phần, thành tố trong cấu trúc câu

tiếng Việt và mối quan hệ ràng buộc qua lại giữa chúng về mặt cú pháp.

 Chập cấu trúc ngữ pháp là một trong những nguyên nhân làm cho câu văn lủng củng, mối quan hệ về mặt ngữ pháp

(và ngữ nghĩa) giữa các thành phần, thành tố nhập nhằng, thiếu phân minh.

 Dựa vào chức năng cú pháp của ngữ đoạn bị chập, có thể chia lỗi chập cấu trúc ngữ pháp thành các kiểu lỗi nhỏ như

sau :

Chập trạng ngữ với chủ ngữ :

 Ðây là hiện tượng danh từ / danh ngữ vừa có giá trị như là trạng ngữ, xét trong mối quan hệ với giới từ đứng trước,

lại vừa có giá trị như là chủ ngữ, xét trong mối quan hệ với ngữ động từ hay ngữ tính từ đứng sau[1].

Ví dụ :

(a) Qua bài thơ Tiếng rucủa Tố hữu đã để lại trong lòng ta một ấn tượng sâu sắc(BVHS).

  (b) Qua thơ văn yêu nước giai đoạn này đã làm nổi bật lên hình ảnh người chiến sĩ đấu tranh vì độc lập,

tự do của dân tộc. (BVHS).

(c) Qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng đã cho ta thấy vẻ đẹp hào hùng của người lính trong thời kì

http://tieulun.hopto.org

kháng chiến chống Pháp (BVHS).

(d) Qua bài thơ Sở kiến hànhđã lên án gay gắt bản chất thối nát của chế độ phong kiến. (BVHS).

(e) Với bút pháp sắcxảo đã tạo cho người đọc thấy được sự lố lăng của xã hội đương thời.(BVHS).

Chập trạng ngữ với chủ ngữ là kiểu lỗi phổ biến nhất trong các kiểu lỗi chập cấu trúc ngữ pháp.

Có ba cách sửa chữa kiểu lỗi sai này :

 Cách thứ nhất : Triệt tiêu chức năng trạng ngữ của danh từ /danh ngữ bị chập bằng cách bỏ giới từ đầu câu, làm cho

danh từ /danh ngữ bị chập chỉ còn giữ chức năng chủ ngữ. Tất nhiên, chúng ta chỉ áp dụng cách này khi nghĩa của câu

cho phép, chẳng hạn như năm câu vừa dẫn :

(a) Bài thơ Tiếng rucủa Tố Hữu đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng sâu sắc.

  (b) Thơ văn yêu nước giai đoạn này đã làm nổi bật lên hình ảnh người chiến sĩ đấu tranh vì độc lập, tự do

của dân tộc.

   (c) Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũngü đã cho ta thấy vẻ đẹp hào hùng của người lính trong thời kì kháng

chiến chống Pháp.

(d) Bài thơ Sở kiến hành đã lên án gay gắt bản chất thối nát của chế độ phong kiến.

(e) Bút pháp sắc sảo (của tác giả) đã giúp cho người đọc thấy được sự lố lăng của xã hội đương thời.

 Cách thứ hai : Tách danh ngữ bị chập thành hai thành phần ngữ pháp khác nhau : trạng ngữ và chủ ngữ, nếu như

danh ngữ bị chập có định tố biểu thị quan hệ sở thuộc và nghĩa của câu cho phép. Thao tác cụ thể là bỏ giới từ của,

thay vào đó bằng dấu phẩy. Chẳng hạn như đối với câu (a), (c) đã dẫn :

(a) Qua bài thơ Tiếng ru, Tố Hữu đã để lại trong lòng ta một ấn tượng sâu sắc.

  (c) Qua bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã cho chúng ta thấy vẻ đẹp hào hùng của người lính trong thời kì

kháng chiến chống Pháp.

 Cách thứ ba : Triệt tiêu chức năng chủ ngữ của ngữ đoạn bị chập bằng cách đặt dấu phẩy sau nó, và dựa vào văn

cảnh, tạo chủ ngữ khác cho câu. Cách này áp dụng đối với trường hợp danh ngữ bị chập không có định tố biểu thị ý

nghĩa sở thuộc. Chẳng hạn như đối với các câu (b), (d), (e) :

   (b) Qua thơ văn yêu nước giai đoạn này, các tác giả đã làm nổi bật lên hình ảnh người chiến sĩ đấu tranh

vì độc lập, tự do của dân tộc.

(d) Qua bài thơ Sở kiến hành, Nguyễn Du đã lên án gay gắt bản chất thối nát của chế độ phong kiến.

  (e) Với bút pháp sắc sảo, tác giả (nhà văn) đã giúp cho người đọc thấy được sự lố lăng của xã hội đương

thời.

Chập định tố với chủ ngữ :

Ðây là hiện tượng danh từ / danh ngữ vừa có chức năng như định tố, xét trong mối quan hệ với danh từ / danh ngữ

đứng trước, lại vừa có chức năng như chủ ngữ, xét trong mối quan hệ với động ngữ hay tính ngữ đứng sau.

Ví dụ :

  (a) Ðó là một thành công lớn của Vũ Trọng Phụng đã dựng lên tấn hài kịch của xã hội thời bấy giờ.

(BVHS).

   (b) Tác giả đã cho chúng ta thấy nỗi khổ nhục của mẹ con người ăn mày không dám nhìn ai mà chỉ biết

cúi đầu tủi hổ cho số phận mình.(BVHS).

  (c) Bài thơ là tiếng nói chân tình của tác giả kêu gọi mọi người phải biết đoàn kết, yêu thương giúp đỡ lẫn

nhau. (BVHS).

   (d) Cái công việcnuôi già dạy trẻ kia đâu có phải là những công việc làm đổ mồ hôi sôi nước mắtcủa

những người phụ nữ trong ca dao đã phải gánh chịu bao nhiêu tầng áp bức mà còn phải đã gánh theo chồng

lại gánh theo con. (LSVHVN, T.III)

  (e) Trong truyện ngắnChí phèo , Nam Cao đã vạch trần tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến là thủ

phạm đã biến Chí Phèo từ một anh nông dân hiền lành, chất phác thành một tên lưu manh mất hết tính

người. (BVHS).

   (f) Nguyễn Công Hoan không nên khai thác những chi tiết như mẹ ăn thịt con (dầu có thực trong cuộc

sống), bởi chưa chắc nó đã làm cho người đọc căm ghét lũ thực dân chính là tội phạm gây ra nạn đói khủng

khiếp, mà chỉ làm cho người đọc thấy ghê sợ. (TGVXVNHÐ).

 Chập định tố với chủ ngữ là kiểu lỗi tuy không phổ biến bằng chập trạng ngữ với chủ ngữ, nhưng cũng cần được lưu

ý. Bởi vì kiểu lỗi này xuất hiện rải rác trong nhiều bài viết của học sinh. Bài viết của sinh viên đại học cũng không

hiếm kiểu lỗi sai này . Sách báo in ấn chính thức cũng vậy.

Có ba cách sửa lỗi chập định tố với chủ ngữ, tùy vào từng hiện tượng sai cụ thể.

 Cách thứ nhất : Triệt tiêu chức năng chủ ngữ của danh từ / danh ngữ bị chập bằng cách đặt dấu phẩy sau nó và tạo ra

chủ ngữ cho động từ, tính từ hay ngữ tương đương đứng sau bằng cách lặp từ ngữ, dùng từ đồng nghĩa lâm thời hay

dùng đại từ để thay thế. Sửa theo cách này là tách câu sai thành nhiều cú đẳng lập.

Các câu (a), (b), (c) có thể sửa chữa theo cách vừa nêu :

  (a) Ðó là một thành công lớn của Vũ Trọng Phụng, ông (nhà văn, tác giả) đã dựng lên tấn hài kịch của xã

hội thời bấy giờ.

  (b) Tác giả đã cho chúng ta thấy nỗi khổ nhục của mẹ con người ăn mày, họ không dám nhìn ai, mà chỉ

biết cúi đầu tủi hổ cho số phận của mình.

   (c) Bài thơ là tiếng nói chân thành của tácgiả, nhà thơ kêu gọi mọi người phải biết đoàn kết, yêu thương,

giúp đỡ lẫn nhau.

 Cách thứ hai : Tiến hành tương tự cách thứ nhất. Nhưng thay vì dùng dấu phẩy để tách câu sai thành nhiều cú,

chúng ta dùng dấu kết thúc câu thích hợp, tách câu sai thành nhiều câu liên kết.

Các câu (a), (b), (c), (d) có thể sửa chữa theo cách này :

   (a) Ðó là một thành công lớn của Vũ Trọng Phụng. Ông (nhà văn, tác giả) đã dựng lên tấn hài kịch của

xã hội thời bấy giờ.

   (b) Tác giả cho chúng ta thấy nổi khổ nhục của mẹ con người ăn mày. Họ không dám nhìn ai, mà chỉ biết

cúi đầu tủi hổ cho số phận của mình.

  (c) Bài thơ là tiếng nói chân tình của tác giả. Tác giả (nhà thơ) kêu gọi mọi người phải biết đoàn kết, yêu

thương, giúp đỡ lẫn nhau.

   (d) Cái công việc nuôi già dạy trẻkia đâu có phải là những công việc làm đổ mồ hôi sôi nước mắtcủa

những người phụ nữ trong ca dao?Họ đã gánh chịu bao nhiêu tầng áp bức mà còn phảiđã gánh theo chồng

lại gánh theo con.

  Cách thứ ba: Áp dụng trong trường hợp sau ngữ đoạn bị chập là động từ là, có bổ tố đứng sau là danh ngữ. Tiến

hành theo cách này, ta loại bỏ động từ là, thay vào đó bằng dấu phẩy, dấu gạch ngang hay dấu hai chấm, nhằm triệt

tiêu chức năng chủ ngữ của ngữ đoạn bị chập và biến danh ngữ, vốn là bổ tố của là, thành giải thích ngữ.

Câu (e) và (f) có thể sửa chữ theo cách này :

  (e) Trong truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã vạch trần tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến, thủ

phạm đã biến Chí Phèo từ một anh nông dân hiền lành, chất phác thành một tên lưu manh mất hết tính

người.

  (f) Nguyễn Công Hoan không nên khai thác những chi tiết như mẹ ăn thịt con (dầu có thực trong cuộc

sống), bởi chưa chắc nó đã làm cho người đọc căm ghét lũ thực dân, tội phạm gây ra nạn đói khủng khiếp,

mà chỉ làm cho người đọc thấy ghê sợ.

Chập bổ tố với chủ ngữ :

 Chập bổ tố với chủ ngữ là hiện tượng danh từ / danh ngữ vừa có chức năng như bổ tố đối với động từ, tính từ hay

ngữ tương đương đứng trước, lại vừa có chức năng như chủ ngữ đối với động từ, tính từ hay ngữ tương đương đứng

sau, xét ở cùng một bậc quan hệ cú pháp.

Ví dụ :

   (a) Nguyễn Du thông cảm sâu sắc đối với mẹ con người ăn mày đã gánh chịu bao đau khổ, mà thủ phạm

chính là bọn phong kiến thống trị đã không đảm bảo được cuộc sống ấm no cho người dân lương thiện.

(BVHS).

  (b) Trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao, nổi bật hơn hết là truyện Chí Phèolà câu

chuyện thương tâm về cuộc đời bế tắc, tuyệt vọng của một con người không được làm người.(BVHS).

  (c) Tâm trạng chủ yếu của nhà thơ là lòng yêu tuổi xuân, khát vọng sống mãnh liệt được thể hiện nổi bật

qua bài thơ Vội vàng. (BVHS).

  (d) Qua đoạn thơ trên, Nguyễn Du đã khắc họa đậm nét nhân vật Từ Hải có vóc dáng phi thường, có khí

phách hiên ngang, quen thói vẫy vùng ngang dọc giữa chốn giang hồ. (BVHS).

  Trong câu (a), danh ngữ mẹ con người ăn mày vừa có giá trị như bổ tố của thông cảm sâu sắc, lại vừa có giá trị như

chủ ngữ đối với động ngữ đã phải gánh chịu bao đau khổ. Cũng trong câu này, danh ngữ bọn phong kiến thống trịvừa

có giá trị như bổ tố của là, lại vừa có giá trị như chủ ngữ đối với động ngữ đã không đảm bảo được sống ấm no cho

người dân lương thiện.Trong câu (b), danh ngữ truyện Chí Phèo là ngữ đoạn bị chập : nó vừa có chức năng như bổ tố

của là, lại vừa có chức năng như chủ ngữ đối với ngữ đoạn là câu chuyện thương tâm về cuộc đời bế tắc, tuyệt vọng

của một con người không được làm người. Trong câu (c), hai danh ngữ lòng yêu tuổi xuân, khát vọng sống mãnh

liệtlà hai danh ngữ bị chập : chúng vừa có chức năng như bổ tố ngữ đối với là, lại vừa có chức năng như chủ ngữ đối

với động ngữ được thể hiện nổi bật qua bài thơ Vội vàng.Trong câu (d) , danh ngữ nhân vật Từ Hải vừa có chức năng

như bổ tố của khắc họa đậm nét, lại vừa có chức năng như chủ ngữ, xét trong mối quan hệ với các động ngữ có vóc

dáng phi thường, có khí phách hiên ngang, quen thói vẫy vùng ngang dọc. Như vậy, danh ngữ nhân vật Từ Hảilà ngữ

đoạn bị chập.

 Trong bài viết của học sinh mà chúng tôi đã khảo sát, hiện tượng chập bổ tố với chủ ngữ xuất hiện không phổ biến

lắm. Tỉ lệ kiểu lỗi này tương đương với lỗi chập định tố với chủ ngữ.

Có ba cách sửa chữa kiểu lỗi chập bổ tố với chủ ngữ, tùy vào hiện tượng sai cụ thể.

  Cách thư nhất : Triệt tiêu chức năng chủ ngữ của ngữ đoạn bị chập bằng cách đặt dấu phẩy sau nó và tạo chủ ngữ

cho động ngữ đứng sau bằng cách lặp từ ngữ, dùng từ đồng nghĩa lâm thời hay dùng đại từ thay thế. Sửa như vậy là

tách câu sai thành nhiều cú đẳng lập

Tất cả bốn câu vừa dẫn đều có thể sửa chữa theo cách này :

  (a) Nguyễn Du thông cảm sâu sắc đối với mẹ con người ăn mày, họ đã phải gánh chịu bao đau khổ, mà

thủ phạm chính là bọn phong kiến thống trị, bọn chúng đã không đảm bảo được cuộc sống ấm no cho người

dân.

   (b) Trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao, nổi bật hơn hết là truyện Chí Phèo, đó là

câu chuyện thương tâm về cuộc đời bế tắc, tuyệt vọng của một con người không được làm người.

  (c) Tâm trạng chủ yếu của nhà thơ là lòng yêu tuổi xuân và khát vọng sống mãnh liệt, tâm trạng ấy được

thể hiện nổi bật qua bài thơ Vội vàng.

   (d) Qua đoạn thơ trên, Nguyễn Du đã khắc họa đậm nét nhân vật Từ Hải, Từ Hải có vóc dáng phi thường,

có khí phách hiên ngang, quen thói vẫy vùng ngang dọc giữa chốn giang hồ.

 Vì sửa theo cách thứ nhất là tách câu ra thành nhiều cú, nên kết quả thu được thường là những câu dài dòng, luộm

thuộm. Do đó, ta nên sửa theo cách thứ hai.

 Cách thứ hai : Tiến hành giống như cách thứ nhất. Nhưng thay vì dùng dấu phẩy, ta dùng dấu chấm tách câu được

sửa ra thành nhiều câu liên kết.

Các câu (a), (b), (c) (d) có thể sửa chữa theo cách vừa nêu :

  (a) Nguyễn Du đã cảm thông sâu sắc đối với mẹ con người ăn mày. Họ đã phải gánh chịu bao đau khổ,

mà thủ phạm chính là bọn phong kiến thống trị. Bọn chúng đã không đảm bảo được cuộc sống ấm no cho

người dân.

   (b) Trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao, nổi bật hơn hết là truyện Chí Phèo. Ðó là

câu chuyện thương tâm về cuộc đời bế tắc, tuyệt vọng của một con người không được làm người.

  (c) Tâm trạng chủ yếu của nhà thơ là lòng yêu tuổi xuân và khát vọng sống mãnh liệt. Tâm trạng ấy được

thể hiện nổi bật qua bài thơ Vội vàng.

  (d) Qua đoạn thơ trên, Nguyễn Du đã khắc họa đậm nét nhân vật Từ Hải. Từ Hải có vóc dáng phi

thường, có khí phách hiên ngang, quen thói vẫy vùng ngang dọc giữa chốn giang hồ.

  Cách thứ ba : Áp dụng đối với trường hợp ngữ đoạn bị chập đứng trước động từ là, và sau nó là danh từ / danh ngữ,

làm bổ tố. Tiến hành theo cách sửa chữa này, ta loại bỏ là, thay thế nó bằng dấu phẩy, dấu gạch ngang hay dấu hai

chấm, nhằm triệt tiêu chức năng chủ ngữ của ngữ đoạn bị chập và biến danh từ / danh ngữ, vốn làm bổ tố của là,

thành giải thích ngữ.

Câu (b) , có thể được sửa chữa theo cách này :

       (b) Trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao, nổi bật hơn hết là truyện Chí Phèo -

câu chuyện thương tâm về cuộc đời bế tắc, tuyệt vọng của một con người không được làm người.

 Cách thứ tư : Nếu cấu trúc và nghĩa của câu cho phép, ta triệt tiêu chức năng chủ ngữ của ngữ đoạn bị chập bằng

cách đặt dấu phẩy sau nó, động ngữ đứng sau ngữ đoạn bị chập sẽ trở thành vị ngữ của một cú mà chủ ngữ xem như

không được hiển ngôn hóa - một hiện tượng cô đúc cú pháp (syntactic condensation).

Các câu (b), (c) có thể sửa theo cách này :

  (b) Trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao, nổi bật hơn hết là truyện Chí Phèo, là câu

chuyện đáng thương về cuộc đời bế tắc, tuyệt vọng của một con người không được làm người.

  (c) Tâm trạng chủ yếu của nhà thơ là lòng yêu tuổi xuân và khát vọng sống mãnh liệt, được thể hiện nổi

bật qua bài thơ Vội vàng.

Về cấu trúc nghĩa, cấu trúc chiều sâu, hai câu trên phải được hiểu như sau :

Câu (b) :

      Trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao, nổi bật hơn hết là truyện Chí Phèo, ì

truyện Chí Phèolà câu chuyện thương tâm về cuộc đời bế tắc, tuyệt vọng của một con người không được làm

người.

Câu (c) :

       Tâm trạng chủ yếu của nhà thơ là lòng yêu tuổi xuân và khát vọng sống mãnh liệt, lòng yêu tuổi xuân

và khát vọng sống mãnh liệt ấy được thể hiện nổi bật qua bài thơ Vội vàng.

2.3. Câu rối cấu trúc ngữ pháp.

 Rối cấu trúc ngữ pháp là kiểu lỗi câu sai ngữ pháp mà hiện dạng của nó có những ngữ đoạn đan chéo vào nhau một

cách rối rắm, sai quy tắc kết hợp, làm cho quan hệ cú pháp và chức năng cú pháp của chúng lệch lạc, thiếu phân

minh.

Ví dụ :

   (a) Ðừng tưởng rằng bàn đá chông chênh là bàn đá kê không vững thì chỉ đúng là một phần thôi, mà còn

là cái khó khăn của cách mạng buổi đầu. (BVHS).

  (b) Lúc bọn thằng Xâm bắt chị đứng trước máy để kêu gọi anh em trong hang ra hàng, nhưng chị đã

không nói gì về hoạt động của đồng đội. (BVHS).

(c) Như đôi tay ông, với những ngón to, đầu tù, thô tháp nhưng đấy là đôi tay vàng. (N.K.T - MÐLNNM).

  (d) Nhưng điều đáng quý hơn cả là trong người Từ Hải luôn tiềm tàng khát vọng cháy bỏng, nhưng quý

hơn là cùng với tự do của mình đem đêïn tự do cho người khác, biết tôn trọng giá trị của người khác, chứng

tỏ Từ Hải rất hiểu tư cách và tính tình của Kiều. (BVHS).

  (e) Trong xã hội đối với con người quan hệ giữa cái nết và cái đẹp đối với người phụ nữ phải có cái nết

thật thà hiền lành và cái đẹp xấu xa độc ác. (BVHS)

   (f) Qua bài thơ Sở kiến hànhkhi đọc qua chúng ta nhận thấy có hai điểm đối lập thể hiện qua hai nhóm ba

mẹ con người ăn mày, đói rách, khổ sở, đối lập với bọn quan lại giàu có, sung sướng, no đủ và phí của, đây

chính là giá trị tố cáo chế độ phong kiến đương thời và lên tiếng kêu thương và bênh vực cho mẹ con người

ăn mày. (BVHS).

   (g) Nguyễn Du không những cảm thông cho những số phận của những cô gái lầu xanh, những người tôi

tớ, mà tình thương của tác giả còn là thông cảm cho những người tha phương cầu thực sống không nhà

không cửa, ăn đói mặc rét phải chịu muôn đắng ngàn cay mà xã hội thối nát dành cho họ như vậy, nhưng

tấm lòng nhân đạo thương người của tác giả đối với những con người tha phương cầu thực sống cảnh ăn

đói mặc rét như vậy mà tác giả ở đây còn tố cáo cái xấu xa kiêu căng tàn bạo của xã hội phong kiến ăn sung

mặc sướng có kẻ hầu người hạ mà làm ngơ trước nỗi khổ cực của người dân, thản nhiên ngồi mâm cổ.

(BVHS).

Có thể chia lỗi rối cấu trúc thành hai kiểu lỗi nhỏ, dựa vào mức độ rối : rối cấu trúc nhẹ và rối cấu trúc nặng.

Rối cấu trúc nhẹ :

 Rối cấu trúc nhẹ là kiểu lỗi câu rối, về cơ bản, có các thành phần, thành tố tương đối chuẩn mực, chấp nhận được.

Nhưng bên cạnh đó, câu lại có những yếu tố, đặc biệt là các từ công cụ mở đầu các ngữ đoạn, bị kết hợp sai quy tắc

ngữ pháp, tạo thành những nút rối. Các câu (a), (b), (c), thuộc trường hợp này.

Rối cấu trúc nặng :

         Rối cấu trúc nặng là kiểu lỗi câu rối, trong đó, đa số các ngữ đoạn đều bị kết hợp chồng chéo, rối rắm, sai quy

tắc ngữ pháp, do đó, khó mà xác định một cách rõ ràng, phân minh chức năng cú pháp của chúng. Các câu (d), (e),

(f), (g) thuộc trường hợp này.

 Trong bài viết của học sinh THPT, lỗi rối cấu trúc ngữ pháp xuất hiện không phổ biến lắm. Bài có sai, thường không

quá hai, ba lỗi, và đa số thuộc kiểu lỗi rối nhẹ. Trong bài viết học sinh THCS, lỗi rối cấu trúc ngữ pháp xuất hiện

tương đối phổ biến. Có nhiều bài viết đầy dẫy kiểu lỗi này.

 Rối cấu trúc ngữ pháp là một trong những kiểu lỗi ngữ pháp cần được lưu ý đến nhất. Bởi vì kiểu lỗi ngữ pháp này

phản ánh rõ sự yếu kém về năng lực diễn đạt của học sinh.

 Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lỗi rối cấu trúc ngữ pháp là sự yếu kém về năng lực tư duy và kiến thức ngữ pháp, cụ

thể là kiến thức về cấu trúc câu, về quan hệ cú pháp và các kiểu quan hệ cú pháp, về các phương thức và phương tiện

ngữ pháp... Thêm vào đó là lối viết theo bản năng, nghĩa là nghĩ thế nào, viết thế ấy, lắp ghép từ ngữ một cách quàng

xiên, thiên thẹo, thiếu ý thức phân định câu cũng như phân định các thành phần, thành tố trong tổ chức nội bộ của

từng câu... Và kết quả thu được là những chuỗi từ ngữ hỗn độn, chứ thật sự không phải là câu với ý nghĩa đúng đắn

của nó. Các trường hợp rối nặng vừa dẫn phản ảnh rõ điều đó.

Sửa chữa lỗi rối cấu trúc ngữ pháp, phải tùy vào mức độ rối và hiện tượng rối cụ thể.

Ðối với câu rối cấu trúc nhẹ :

 Như đã nói, trừ một vài nút rối, câu rối cấu trúc nhẹ có những thành phần, thành tố tương đối chuẩn mực, chấp nhận

được. Do đó, khi sửa chữa câu rối thuộc kiểu này, cách thức chủ yếu là tháo gỡcác nút rối. Cụ thể là điều chỉnh, thay

thế các yếu tố bị kết hợp sai quy tắc, phản ánh sai quan hệ cú pháp. Nếu câu sai có những ngữ đoạn thiếu chính xác

về ý nghĩa hay trật tự, ta cũng cần phải sửa chữa , thay đổi cách diễn đạt sao cho câu đảm bảo chuẩn mực về cả hai

mặt : cấu trúc và ý nghĩa.

Các câu (a), (b), (c) có thể được sửa chữa như sau :

  (a) Nếu cho rằng (hình ảnh) bàn đá chông chênhlà bàn đá kê không vững, thì chỉ đúng một phần thôi.

Hình ảnh đó còn nói lên tình thế khó khăn của cách mạng thời kì đầu.

  (b) Lúc bọn thằng Xâm bắt chị (Sứ) đứng trước máy để kêu gọi anh em ra hàng, chị đã dùng chính

phương tiện thông tin của chúng động viên anh em và thông báo tình hình bên ngoài cho anh em trong hang

biết.

(c) Ðôi tay ông, tuy ngón to, đầu tù, thô tháp,nhưng đấy là đôi tay vàng.

Ðối với câu rối cấu trúc nặng :

     Sửa chữa câu rối cấu trúc nặng, trước hết cần xác định lại nội dung cơ bản mà học sinh muốn biểu đạt. Trên cơ

sở đó, xét xem những ngữ đoạn, những yếu tố nào trong cấu trúc câu bị rối, phản ánh sai quan hệ cú pháp hay lệch lạc

về nội dung biểu đạt. Tiếp theo là tách các ngữ đoạn ra và định hướng chức năng cú pháp của chúng : Ngữ đoạn nào

có thể làm thành phần nòng cốt ? Ngữ đoạn nào làm thành phần phụ ? Ngữ đoạn nào là cú chính ? Ngữ đoạn nào là

cú phụ ? ... Cuối cùng, ta vận dụng các phương thức ngữ pháp sắp xếp, liên kết các ngữ đoạn lại thành câu chuẩn

mực. Khi tổ chức lại câu, cần lưu ý : Các yếu tố phản ánh sai quan hệ cú pháp, phải thay thế bằng yếu tố khác. Các

ngữ đoạn trùng lặp về nội dung biểu đạt hay có nội dung biểu đạt quá vụng về, không có giá trị thông tin, phải loại

bỏ. Trong trường hợp câu sai có cấu trúc quá dài, có nội dung phức tạp, ta nên tách ra thành nhiều câu liên kết. Cũng

cần lưu ý thêm rằng, những câu rối cấu trúc, đồng thời có nội dung biểu đạt quá vụng về, ngô nghê, lệch lạc, chẳng

hạn như câu (e) đã dẫn, chúng ta không nhất thiết phải sửa chữa.

Sau đây, chúng ta thử áp dụng cách sửa chữa vừa nêu đối với các câu (d), (f) và (g).

Câu (d):

Dựa vào cấu trúc có sẵn của câu, ta thấy học sinh muốn thể hiện ba nội dung chính :

- Khát vọng tự do ở Từ Hải, tự do của bản thân mình và tự do của người khác.

- Ý thức tôn trọng giá trị và nhân phẩm của người khác ở Từ Hải.

- Sự hiểu biết của Từ Hải về tư cách, phẩm chất của Thúy Kiều.

 Nhưng để diễn đạt ba nội dung đó, cấu trúc của câu có những ngữ đoạn rối rắm, chồng chéo lên nhau, và vài từ dùng

sai, làm cho các ngữ đoạn không lô-gích với nhau về ý nghĩa. Cụ thể là :

- Nhưng điều đáng quý hơn cả là trong người Từ Hải / nhưng quý hơn là cùng với tự do của mình.

Hai ngữ đoạn này chồng chéo lên nhau về chức năng và phần lớn nội dung biểu đạt. Phải loại bỏ một trong hai ngữ

đoạn.

- biết tôn trọng giá trị của người khác, chứng tỏ Từ Hải rất hiểu tư cách và tính tình của Kiều.

 Ðộng từ chứng tỏlàm cho ngữ đoạn này thiếu lô-gích về nghĩa. Do đó, có thể loại bỏ nội dung biểu đạt thứ ba, thể

hiện bởi động ngữ chứng tỏ Từ Hải, hay thay bằng nội dung khác.

Câu (c) có thể được tổ chức lại như sau :

      Nhưng điểm nổi bật ở con người Từ Hải là khát vọng tự do cháy bỏng, tự do của bản thân mình và tự

do của người khác, cùng với ý thức tôn trọng giá trị, nhân phẩm.

Và có thể viết thêm một câu, thay cho động ngữ đã bị loại bỏ :

    Chính khát vọng và ý thức ấy đã thúc đẩy Từ Hải ra tay cứu Kiều thoát khỏi cảnh lầu xanh nhơ nhuốc,

đưa Kiều lên địa vị một phu nhân.

Câu (f) :

Câu (f) có hai nội dung cơ bản, quan hệ chặt chẽ với nhau :

 - Hai cảnh đời (hình ảnh) trái ngược nhau trong bài thơ Sở kiến hành: bốn mẹ con người ăn mày đói khổ, rách rưới

và bọn quan lại no say, xa hoa, lãng phí.

- Tiếng nói tố cáo và thái độ đồng cảm, bênh vực của tác giả toát lên từ hai cảnh đời trái ngược với nhau.

 Nhưng cấu trúc câu có nhiều ngữ đoạn rối rắm, chồng chéo lên nhau, vi phạm quy tắc kết hợp về mặt ngữ pháp. Cụ

thể là :

- Qua bài thơ Sở kiến hành / khi đọc qua.

Hai ngữ đoạn này chồng chéo lên nhau về chức năng cú pháp và nội dung biểu đạt.

-có hai điểm đối lập.../ đối lập với.

 Hai ngữ đoạn này chồng chéo lên nhau, đó là chưa kể đến một số từ ngữ dùng chưa hay, thiếu chính xác : điểm,

nhóm, no đủ, phí của.

- đây chính là giá trị tố cáo / và lên tiếng kêu thương và bênh vực họ.

 Hai ngữ đoạn này không lô-gích với nhau. Bởi vì đây- đại từ, thay thế cho hai hình ảnh đối lập - chỉ có thể mang ý

nghĩa tố cáo, chớ không thể lên tiếng kêu thương và bênh vựcđược.

Câu (f) có thể được tách ra thành các ngữ đoạn với chức năng cú pháp dự kiến như sau :

- Qua bài thơ Sở Kiến Hành/ khi đọc qua :

Một trong hai ngữ đoạn có thể làm trạng ngữ.

- chúng ta nhận thấy có hai điểm đối lập nhau.

 Ngữ đoạn này làm kết cấu chủ - vị nòng cốt thứ nhất, sau khi loại bỏ yếu tố thừa thãi, chồng chéo lên nhau, và thay

thế các từ, ngữ thiếu chính xác.

- ... thể hiện qua ... no đủ và phí của:

 Ngữ đoạn này chuyển thành giải thích ngữ, sau khi loại bỏ các yếu tố dư thừa, chồng chéo lên nhau và thay thế các

từ, ngữ dùng sai.

- đây chính là giá trị tố cáo... cho mẹ con người ăn mày:

Ngữ đoạn này làm kết cấu chủ - vị thứ hai, sau khi chuyển đổi cấu trúc, thay thế một vài từ, ngữ có nội dung biểu

đạt vụng về, thiếu lô-gích.

Trên cơ sở những điều vừa phân tích, câu (f) có thể được tổ chức lại thành hai câu liên kết :

        Ðọc bài thơ Sở kiến hành, chúng ta nhận thấy có hai cảnh đời (hình ảnh) trái ngược (đối lập ) với

nhau : bốn mẹ con người ăn mày đói khổ, rách rưới và bọn quan lại no say, xa hoa, lãng phí. Hai cảnh đời

đối lập với nhau ấy có ý nghĩa phê phán gay gắt chế độ phong kiến thối nát, đồng thời qua đó, tác giả còn bảy

tỏ thái độ cảm thông sâu sắc đối với những kiếp người cùng khổ trong xã hội.

Câu (g) :

Câu (g) bao gồm ba nội dung cơ bản, có quan hệ chặt chẽ với nhau :

 - Tấm lòng cảm thông của Nguyễn Du đối với thân phận của các cô gái lầu xanh, những người lao động vất vả, khổ

nhọc...

- Tấm lòng cảm thông của Nguyễn Du đối với mẹ con người ăn mày, sống không nhà cửa...

 - Thái độ phê phán của Nguyễn Du đối với chế độ phong kiến thối nát, bất công và bọn quan lại thống trị sống xa

hoa, thản nhiên trước nỗi thống khổ của nhân dân...

Diễn đạt ba nội dung cơ bản đó, cấu trúc câu văn có nhiều chỗ rối rắm, chồng chéo lên nhau.

Hiện tượng rối thứ nhất bộc lộ qua mối quan hệ giữa hai ngữ đoạn :

  - không những cảm thông cho những số phận của những cô gái lầu xanh../ mà tình thương của tác giả

còn cảm thông cho...

Hiện tượng rối thứ hai thể hiện qua mối quan hệ giữa :

- những người tha phương cầu thực.../ mà xã hội dành cho họ như vậy.

Hiện tượng rối thứ ba, rối nặng nhất về cấu trúc, là sự chồng chéo, trùng lặp về nội dung biểu đạt ở ngữ đoạn :

 - nhưng tấm lòng nhân đạo thương người của tác giả đối với những con người tha phương cầu thực sống

cảnh ăn đói mặc rét như vậy mà tác giả ở đây còn...

Hiện tượng rối thứ tư bộc lộ qua mối quan hệ ngữ nghĩa - lô-gích giữa các ngữ đoạn :

   - ...tố cáo cái xấu xa kiêu căng tàn bạo của xã hội phong kiến / ăn sung mặc sướng có kẻ hầu người hạ mà

làm ngơ trước nỗi khổ cực của nhân dân / thản nhiên ngồi mâm cổ.

 Dựa trên ba nội dung cơ bản vừa nêu, câu (g) có thể được tách ra và tổ chức lại thành một chuỗi câu liên kết như

sau :

Nguyễn Du không những cảm thông cho số phận của những cô gái lầu xanh, những người lao động dãi

dầu mưa nắng, mà nhà thơ còn tỏ lòng xót thương vô hạn trước những người ăn mày, những kẻ không

nhà không cửa, ăn đói mặc rét, sống nhờ vào sự bố thí của người khác, chịu muôn đắng nghìn cay. Xuất

phát từ tấm lòng nhân đạo mênh mông ấy, Nguyễn Du đã vạch trần bản chất thối nát, bất công của chế

độ phong kiến thời bấy giờ. Dưới chế độ ấy, bọn quan lại thống trị sống xa hoa, lãng phí, và thản nhiên

trước những kiếp đời lầm than, tăm tối, bần cùng của nhân dân.

      Việc phân loại lỗi câu sai ngữ pháp do vi phạm quy tắc kết hợp thành nhiều kiểu lỗi như đã trình bày là nhằm

mục đích tạo cơ sở thuận lợi cho việc xem xét, nhận diện và sửa chữa câu sai ngữ pháp. Trong thực tế bài viết của

học sinh, hiện tượng hai, ba kiểu lỗi xuất hiện cùng lúc trong câu văn là khá phổ biến. Ðối với hiện tượng câu sai

nhiều kiểu lỗi phức tạp như vậy, chúng ta cần từng bước phân tích và phân loại lỗi sai, trên cơ sở đó, vận dụng kết

hợp nhiều cách sửa chữa để tổ chức lại câu sao cho thật phù hợp. Và một lần nữa, xin lưu ý rằng, khi tiến hành sửa

chữa câu sai ngữ pháp, một mặt chúng ta phải căn cứ vào cấu trúc có sẵn và nội dung biểu đạt của câu ; mặt khác,

phải đặt câu sai trong văn cảnh, nghĩa là phải xem xét câu sai trong mối quan hệ nhiều mặt với các câu chung quanh.

Kết quả sửa chữa câu sai được xem là tối ưu khi câu đã sửa chữa đảm bảo ba yêu cầu : Thứ nhất, nội dung biểu đạt

của nó vừa chính xác, vừa trung thực với ý đồ biểu đạt của học sinh ; chỉ nên điều chỉnh, thay đổi, thêm bớt trong

trường hợp nội dung biểu đạt của câu quá vụng về hay lệch lạc, mâu thuẫn. Thứ hai, cấu trúc câu đã sửa chữa phải

phù hợp với chuẩn mực ngữ pháp. Thứ ba, câu đã sửa chữa phải liên kết chặt chẽ với các câu chung quanh ở cả hai

bình diện : nội dung và hình thức.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top

Tags: #linh