Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

II: Mối Liên Hệ (Chương 8)

Chương 8

Kể từ khi Amelia Sachs bắt đầu thỉnh thoảng ở lại qua đêm tại nhà Rhyme, căn nhà mang phong cách thời Victoria đã có sự thay đổi. Khi anh sống một mình sau vụ tai nạn và trước khi Sachs xuất hiện, ngôi nhà ít nhiều có thể coi là ngăn nắp (còn phụ thuộc vào việc anh có sa thải điều dưỡng viên và người dọn dẹp hay không) nhưng "như ở nhà" không phải là cách mô tả đúng đắn trong trường hợp này. Không có bất cứ thứ gì mang tính chất cá nhân được treo trên tường. Những chứng chỉ, bằng cấp, bằng khen và huy chương anh nhận được trong suốt thời gian nổi danh trong lĩnh vực điều tra hiện trường của sở cảnh sát New York hay những bức ảnh của Teddy, Anne, bố mẹ anh, hoặc của gia đình bác Henry cũng không hề xuất hiện. 

Sachs không tán thành chuyện này. "Điều đó rất quan trọng", cô lên lớp, "quá khứ của anh, gia đình anh. Anh đang xóa sạch chính cuộc đời mình, Rhyme."

Anh chưa bao giờ nhìn tận mắt căn hộ cô đang ở, một nơi người tàn tật không thể tiếp cận được nhưng anh biết mọi căn phòng đều đầy ắp dấu ấn của cuộc đời Amelia. Tất nhiên anh đã xem qua khá nhiều những bức ảnh đó: Amelia Sachs khi còn là một cô bé xinh xắn (những nốt tàn nhang đã biến mất từ lâu) nhưng không hay cười, khi cô là học sinh trung học với đồ nghề cơ khí trên tay, rồi trở thành một cô sinh viên đại học bị kèm chặt trong kỳ nghỉ giữa một ông bố cảnh sát đang cười hết cỡ và một bà mẹ nghiêm nghị, khi cô làm người mẫu cho tạp chí và chụp ảnh quảng cáo, đôi mắt thể hiện đúng vẻ lạnh lùng, kiêu kỳ thời thượng (nhưng Rhyme biết rõ trên thực tế đó là biểu thị của sự coi thường trước cách đối xử với người mẫu như thể họ chỉ là những chiếc mắc áo).

Còn hàng trăm bức ảnh khác nữa, phần lớn được chụp bởi bố cô, người sở hữu một chiếc máy Kodak với tốc độ chụp nhanh. 

Sachs đã xem xét kỹ những bức tường trống trong ngôi nhà và lần mò cả đến chỗ mà điều dưỡng viên như Thom chưa từng ngó qua: những chiếc hộp dưới tầng hầm, hàng chục chiếc hộp các tông chứa những bằng chứng về cuộc sống trước đây của Rhyme. Những đồ vật đã bị cất giấu và trở thành cấm kỵ, không được đả động tới, giống như người ta luôn tránh nhắc tới người vợ đầu trước mặt người vợ thứ hai. Giờ đây những bằng cấp, chứng chỉ và những bức ảnh gia đình đó phủ kín các bức tường và kiêu hãnh ngự trên mặt tủ, mặt bàn.

Trong đó có bức ảnh mà lúc này anh đang chăm chú ngắm nhìn, bức ảnh của anh khi còn là một cậu thanh niên mảnh khảnh trong trang phục thi đấu, được chụp ngay sau khi anh vừa tham gia một cuộc thi điền kinh ở trường đại học. Anh với mái tóc ngỗ ngược, chiếc sống mũi cao như Tom Cruise* (Tức Thomas Cruise Mapother: Một diễn viên, đạo diễn phim người Mỹ. Tom Cruise được đề cử chính thức cho ba giải Oscar và ba lần nhận giải Quả cầu vàng), đang cúi gập người về phía trước, hai tay chống vào đầu gối, có lẽ vừa kết thúc cuộc thi chạy cự ly một dặm. Rhyme chưa bao giờ thi chạy nước rút, anh thích nhịp điệu và sự tao nhã của các cự ly dài. Anh coi chạy là "một quá trình". 

Hẳn lúc đó, gia đình anh đang có mặt trên khán đài, cả bố và bác anh đều sống ở vùng ngoại ô Chicago, mặc dù ở hai khu khác nhau. Nhà Lincoln nằm về phía tây, ở một khu vực bằng phẳng trống trải, lúc đó một phần vẫn là đất canh tác, là mục tiêu lý tưởng của cả những nhà thầu xây dựng thiển cận lẫn cả những cơn vòi rồng khủng khiếp. Henry Rhyme và gia đình của ông có thể nói là được miễn nhiễm vấn đề trên vì họ sống ngay bên hồ ở Evanston.

Hai lần mỗi tuần, Henry tới dạy Vật lý cao cấp tại Đại học Chicago. Đó là chuyến đi dài, trên hai tuyến tàu cắt ngang các khu vực sống của nhiều thành phần xã hội trong thành phố. Vợ ông, Paula, dạy tại Đại học Tây Bắc. Hai vợ chồng có ba người con: Robert, Marie và Arthur, tất cả đều được đặt theo tên các nhà khoa học, trong đó nổi tiếng hơn cả là Oppenheimer và Curie. Art được đặt tên theo tên của Arthur Compton, người lãnh đạo Phòng thí nghiệm Luyện kim nổi tiếng của Đại học Chicago vào năm 1942, khởi đầu cho dự án đầu tiên trên thế giới tạo ra phản ứng hạt nhân dây chuyền kiểm soát được. Tất cả những người con của họ đều được theo học tại các ngôi trường tốt. Robert tại trường Y của Đại học Tây Bắc, Marie tại Đại học California ở Berkeley, Arthur theo học tại Học viện Công nghệ Massachussetts. 

Robert qua đời nhiều năm trước trong một tai nạn nghề nghiệp ở châu âu . Marie đang làm việc trong ngành môi trường tại Trung Quốc. Còn về hai đôi bố mẹ Rhyme, giờ chỉ còn lại một trong bốn người: bác Paula hiện đang sống trong một trung tâm chăm sóc, còn nhớ tất cả những gì của sáu mươi năm trước, trong khi ý thức về hiện tại lại vô cùng rời rạc.

Rhyme tiếp tục nhìn chăm chăm vào bức ảnh. Anh không thể rời mắt khỏi nó, nhớ lại cuộc gặp gỡ ngay bên đường chạy... Trong các lớp mà ông giảng bài, Giáo sư Henry Rhyme thể hiện sự tán thưởng đứa cháu bằng cử chỉ nhướn mắt rất tế nhị. Nhưng trên sân đấu, ông luôn đứng bật dậy trên khán đài, huýt sáo và hò reo thúc giục Lincoln: "Cố lên, cố lên, cố lên, cháu làm được mà !". Cổ vũ anh về đích đều tiên (và thường thì anh làm được điều đó). 

Sau cuộc gặp, Rhyme nhớ anh hay đi đâu đó cùng Arthur. Mỗi khi rảnh, hai cậu thanh niên luôn ở bên nhau để bù lại khoảng trống tình thân không có được từ anh chị em ruột, cả Robert và Marie đều lớn tuổi hơn Arthur khá nhiều, còn Lincoln là con một.

Thế là Lincoln cùng Art tự coi nhau như anh em ruột. Phần lớn các dịp cuối tuần và mọi kỳ nghỉ hè, hai người anh em họ luôn cùng nhau dấn thân vào những cuộc phiêu lưu trên chiếc Corvette của Arthur (bác Henry dù là một giáo sư, vẫn kiếm được hơn nhiều lần so với bố của Rhyme, Teddy cũng là một nhà khoa học, ông thường cảm thấy thoải mái hơn khi đứng ngoài ánh hào quang). Những cuộc phiêu lưu của hai chàng trai cũng là những trò vui quen thuộc của tuổi mới lớn, các cô gái sàn nhảy, phim ảnh, cãi vã, ăn hamburger hay pizza, uống bia và triết lý về thế giới. Và lại là các cô gái. 

Lúc này, ngồi trong chiếc xe lăn TDX kiểu mới, Rhyme băn khoăn tự hỏi chính xác anh và Arthur đã đi những đâu.

Arthur, người đã thay thế vị trí người anh trai ruột... 

Người đã không hề tới thăm anh sau khi cột sống của anh bị gãy nát như một cành củi mục.

Tại sao, Arthur? Hãy nói cho tôi biết tại sao... 

Dòng hồi ức bị cắt ngang khi tiếng chuông cửa reo lên. Thom chạy ra mở, một khoảnh khắc sau, người đàn ông hói đều, dáng người dong dỏng, mặc bộ đồ dạ hội bước vào phòng. Mel Cooper đẩy cặp kính dày cộp trên sống mũi mỏng dính của anh ta và gật đầu chào Rhyme. "Một buổi chiều tốt lành."

"Khách sáo thế ?", Rhyme vừa hỏi vừa nhìn chăm chú vào bộ đồ dạ hội. 

"Bọn tôi vừa bị loại ở vòng bán kết cuộc thi khiêu vũ, nếu không tôi cũng không thể đến đây được." Anh ta cởi áo khoác và chiếc nơ bướm ra, sau đó xắn tay áo chiếc sơ mi có xếp li lên. "Vậy vụ độc nhất vô nhị mà anh đã nói với tôi ấy thế nào?"

Rhyme thuật lại tình hình. 

"Rất tiếc cho anh họ anh, Lincoln. Tôi chưa từng nghe thấy anh nhắc đến anh ta."

"Anh nghĩ sao về phương thức gây án?" 

"Nếu đúng thế thì quả thật là xuất sắc." Cooper chăm chú nhìn vào tấm bảng liệt kê danh sách bằng chứng. 

Vụ sát hại Alice Sanderson 

Căn hộ của Alice Sanderson: 

- Vết gel cạo râu Edge Advanced, có chứa lô hội.

- Vụn bánh giòn, loại Pringles, không chất béo, vị thịt nướng.

 - Dao hiệu Chicago Cutlery (MW).

- Phân bón hiệu TruGro. 

- Dấu giày loại Alton EZ-Walk, cỡ 101/2.

- Vết găng tay cao su

- Những ghi chép nhắc đến "Art" và một số điện thoại di động trả trước trong sổ ghi số điện thoại, không còn liên lạc được. Không lần ra được dấu vết (có khả năng về một mối quan hệ tình ái giữa nghi can và nạn nhân).

- Hai ghi nhớ: "Art - đồ uống" (tìm thấy ở văn phòng) và "Arthur" (ở nhà riêng)

- Nhân chứng nhìn thấy chiếc Mercedes màu xanh sáng, một phần biển số có các chữ cái NLP.

Xe của Arthur Rhyme:

 - Sedan hiệu Mercedes C- Class đời 2004 màu xanh sáng, biển New Jersey số NLP 745, đăng ký dưới tên Arthur Rhyme.

- Vết máu trên cửa và sàn phía sau xe (ADN trùng khớp với nạn nhân). 

- Khăn lau dính máu, trùng khớp với bộ khăn tìm thấy tại căn hộ của nạn nhân (ADN trùng khớp với nạn nhân).

- Đất với thành phần giống như mẫu đất tại Công viên Clinton State. 

Nhà Arthur Rhyme:

- Gel cạo râu Edge Advanced, có chứa lô hội, có liên hệ với loại tìm thấy tại hiện trường. 

- Bánh giòn hiệu Pringles không chất béo, vị thịt nướng.

- Phân bón hiệu TruGro (tìm thấy trong ga ra). - Bộ dao Chicago Cutlery, cùng loại MW.

- Giày Alton EZ-Walk cỡ 101 /2 với dấu giày tương tự như dấu tìm thấy tại hiện trường. 

- Thư quảng cáo gửi trực tiếp từ phòng tranh Wilcox, Boston và phòng tranh Mỹ thuậy Anderson-Billings, Carmel, đều về các buổi triển lãm tranh của Harvey Prescott.

- Một hộp găng tay cao su Safe-Hand có thành phần cao su tương tự như vết tìm thấy tại hiện trường (tìm thấy trong ga ra). 

"Anh nghĩ sao?", Rhyme hỏi.

"Một nửa trong số tang vật tìm thấy tại nhà anh họ nằm trong xe hoặc ga ra. Đặt lén tang vật vào những chỗ đó dễ hơn trong nhà nhiều." 

"Tôi cũng nghĩ vậy."

Chuông cửa lại reo. Một lát sau, Rhyme nghe tiếng bước chân của Thom chỉ có một mình. Rhyme thầm nghĩ liệu có phải ai đó vừa giao một bưu kiện hay không. Nhưng rồi một ý nghĩ khác lóe lên: hôm nay là chủ nhật. Ai đó có thể trong trang phục dã ngoại và giày chạy đang bước vào, loại giày này sẽ không gây ra bất cứ tiếng động nào trên sàn nhà. 

Tất nhiên rồi.

Ron Pulaski xuất hiện, rụt rè gật đầu chào. Cậu ta không còn là lính mới vào nghề, mà đã là nhân viên tuần tra mặc đồng phục được vài năm. Nhưng trông vẫn chẳng khác gì lúc mới vào ngành, vì thế Rhyme coi cậu ta như là lính mới. Mà có khi sẽ mãi mãi như thế.

Dưới chân cậu ta đúng là một đôi Nike không gây ra chút tiếng động nào, nhưng cậu ta diện một chiếc sơ mi Hawaii lòe loẹt phủ ra ngoài quần jean xanh. Mái tóc vàng được vuốt keo khá sành điệu, một vết sẹo to trên trán, kỷ niệm từ vết đánh khiến cậu ta suýt chết trong vụ đầu tiên tham gia cùng Rhyme và Sachs. Cú đòn mạnh đến mức gây chấn thương sọ não, thiếu chút nữa cậu ta đã phải ra khỏi ngành, chàng trai trẻ đã quyết tâm luyện tập phục hồi chức năng và trụ lại được trong lực lượng cảnh sát New York, một quyết tâm mà Rhyme là lý do quan trọng (tất nhiên, cậu ta chỉ tâm sự chuyện này với Sachs, chính cô đã kể lại với nhà tội phạm học). 

Cậu cảnh sát trẻ ngẩn người ra nhìn bộ đồ dạ hội của Cooper rồi lên tiếng chào cả hai người.

"Bát đĩa đã sạch bong rồi chứ, Pulaski? Tưới hoa chưa? Đồ ăn thừa đã cất vào ngăn lạnh chưa?" 

"Tôi đã đến đây ngay lập tức, thưa ông."

Ba người đang xem xét vụ án thì nghe thấy tiếng Sachs vang lên từ cửa. "Một vũ hội hóa trang." cô ngắm nhìn bộ đồ dạ hội của Cooper và chiếc áo lòe loẹt của Pulaski. Quay về phía anh chàng chuyên gia phòng thí nghiệm, cô nói, "Trông anh bảnh lắm... Khi khen anh chàng nào đó trong trang phục dạ hội, người ta dùng từ 'bảnh' đúng không?" 

"Buồn thay, bây giờ trong đầu tôi chỉ có sáu chữ: bị loại ở vòng bán kết."

"Gretta đón nhận thất bại không đến nỗi nào chứ?" 

Cô bạn gái người Scandinavia xinh đẹp của anh, như anh ta nói, "đang bù khú với đám bạn và nhấn chìm nỗi buồn bằng Aquavit. Món đồ uống quốc hồn quốc túy ở quê cô ấy. Nhưng, quả thực đó là một thứ không thể nào uống nổi".

"Mẹ anh dạo này thế nào?" 

Cooper sống cùng mẹ, từ xưa đến nay vốn là một quý bà hay bẳn gắt.

"Mẹ tôi vẫn ổn. Bà đang ra ngoài ăn trưa ở Nhà hàng Boat House." 

Sachs cũng hỏi thăm về cô vợ của Pulaski và hai đứa con nhỏ. Rồi nói thêm, "Cảm ơn vì đã đến vào ngày chủ nhật", cô nói với Rhyme, "Chúng ta đánh giá rất cao điều ấy, đúng không anh?"

"Chắc chắn rồi", anh trả lời. "Bây giờ, chúng ta có thể bắt tay vào việc... Vậy em đã có gì rồi?", anh nhìn chăm chăn vào cặp tài liệu màu nâu dày cộm cô đang cầm. 

"Danh sách bằng chứng và ảnh chụp hiện trường vụ trộm tiền xu và vụ cưỡng dâm."

"Các tang vật hiện đang nằm ở đâu?" 

"Tại kho lưu trữ tang vật ở Long Island."

"Được rồi, hãy cùng xem nào." 

Cũng như cô từng làm với hồ sơ vụ án của anh họ Rhyme, Sachs cầm lấy cây bút và bắt đầu viết lên một tấm bảng khác.

Ngày 27 tháng 3

Tội danh: Giết người, cướp sáu hộp tiền xu hiếm 

Nguyên nhân tử vong của nạn nhân: mất máu, sốc do bị đâm nhiều nhát.

Địa điểm: khu Bay Ridge, Brooklyn. 

Nạn nhân: Howard Schwartz.

Nghi phạm: Randall Pemberton. 

Bằng chứng trong nhà nạn nhân:

- Mỡ bôi trơn. 

- Vết keo xịt tóc đã khô.

- Sợi polyeste. 

- Dấu giày cỡ 9 7/2 loại Bass vvalker.

Nhân chứng thông báo nhìn thấy một người đàn ông mặc áo vét màu nâu vàng leo lên một chiếc Honda Accord màu đen. 

Bằng chúng tại nhà và trong xe của nghi phạm:

- Mỡ bôi trơn dính trên cán ô, trùng khớp với loại tìm thấy ở nhà nạn nhân. 

- Một đôi giày cỡ 9 7/2 loại Bass walker.

- Keo xịt tóc clairol, trùng khớp với vết tìm thấy ở nhà nạn nhân. 

- Dao/Vết dính trên cán:

+ Vết đất không khớp với dấu vết nào tại hiện trường và nhà nghi phạm. 

+ Vết bìa các tông cũ.

- Dao/Vết trên lưỡi dao: 

+ Máu. Kết quả xét nghiệm trùng khớp với máu nạn nhân.

- Nghi phạm sở hữu một chiếc Honda Accord màu đen đời 2004. 

- Tìm thấy một đồng xu được xác định nằm trong bộ sưu tập của nạn nhân.

- Một chiếc áo vét màu nâu vàng hãng Culberton Outdoor Company. Mẩu sợi polyester trùng khớp với mẫu tìm thấy tại hiện trường. 

- Một thảm len trong xe. Mẩu sợi len trùng khớp với mẫu tìm thấy tại hiện trường.

Ghi chú: Trước phiên tòa, các nhân viên đêu tra đã kiểm tra những người môi giới tiền xu hiếm trong khu vực thành phố hoặc qua Internet. Không ai có những đồng xu bị đánh cắp. 

"Như vậy kẻ tình nghi của chúng ta đánh cắp những đồng xu đó, hắn đã giữ chúng lại. Và 'vết đất không khớp với dấu vết nào tại hiện trường'... Có nghĩa là, rất có thể nó xuất phát từ nơi ở của kẻ tình nghi. Nhưng đó là loại vết đất quái quỷ gì? chẳng lẽ bọn họ không phân tích nó sao?", Rhyme lắc đầu. "Okay, anh muốn xem các tấm ảnh. Chúng đâu?"

"Em đang lấy ra đây. Đợi chút." 

Sachs lấy một cuộn băng dính và dán bản sao của các tấm ảnh lên chiếc bảng trắng thứ ba. Rhyme điều khiển xe lăn lại gần hơn, nheo mắt nhìn chăm chú vào những tấm ảnh chụp hiện trường.

Nơi ở của người sưu tập tiền xu rất ngăn nắp, trong khi nhà nghi phạm thì ngược lại. Nhà bếp rất bừa bộn, đồng xu và con dao được tìm thấy dưới bồn rửa, bàn ăn đầy bát đĩa bẩn và các hộp các tông đựng thức ăn. Trên mặt bàn có một tập bưu phẩm, phần lớn đã bị xé mở.

"Vụ tiếp theo", anh ra lệnh. "Bắt đầu đi." Anh cố không để giọng mình lộ ra sự sốt ruột. 

Ngày 18 tháng 4. 

Tội danh: giết người, cưỡng dâm.

Nguyên nhân tử vong của nạn nhân: bị bóp cổ. 

Địa điểm: Brooklyn.

Nạn nhân: Rita Moscone. 

Nghi phạm: Joseph Knightly.

Bằng chúng trong căn hộ nạn nhân:

 - Vết xà phòng rửa tay hiệu Colgate-Palmolive.

- Chất bôi trơn bao cao su. 

- Sợi thừng.

- Vết bụi đất dính vào băng dính, không trùng khớp với mẫu nào trong căn hộ. 

- Băng dính hiệu American Adhesive.

- Vết găng cao su non. 

- Sợi len/Polyester, màu đen.

- Tàn thuốc lá trên người nạn nhân (xem ghi chú bên dưới). 

Bằng chứng tại nhà nghi phạm:

- Bao cao su Durex có chất làm trơn tương tự như loại tại nơi ở của nạn nhân. 

- Một cuộn dây thừng, mẫu sợi trùng khớp với sợi tại hiện trường.

- Một đoạn dây thừng cùng loại trên dài sáu mươi centimet, có dính máu của nạn nhân, cùng một sợi BASF B35 nylon 6 dài năm centimet, rất có thể từ tóc của một con búp bê. 

- Xà phòng hiệu Colgate-Palmolive.

- Găng cao su non, trùng khớp với vết tại hiện trường. 

- Tất nam giới bằng sợi len/polyester màu đen, trùng khớp với mẫu sợi tại hiện trường. Một đôi tương tự tìm thấy trong ga ra, có dính máu nạn nhân.

- Tàn thuốc lá từ thuốc lá điếu hiệu Tareyton (xem nhi chú bên dưới). 

"Nghi phạm giữ lại đôi tất dính máu nạn nhân và đem theo về nhà? Thật lố bịch. Bằng chứng được sắp đặt trước." Rhyme đọc lần nữa bản danh sách. "Cái 'ghi chú bên dưới' đó là gì vậy?"

Sachs đã tìm ra: Vài đoạn ghi chú của thám tử phụ trách điều tra nhằm nhắc nhở ủy viên công tố về những rắc rối có thể xảy ra với vụ này. Cô đưa chúng cho Rhyme. 

Kẽ hở:

Một số kẽ hở tiềm tàng mà bên bào chữa có thể đưa ra trước tòa: 

- Bằng chứng chưa xác định được nguồn gốc: vết tàn thuốc lá giống nhau được tìm thấy tại hiện trường vụ án và nhà nghi phạm nhưng cả nạn nhân và nghi phạm đều không hút thuốc. Đã kiểm tra các cảnh sát bắt giữ nghi phạm cùng nhân viên điều tra hiện trường, nhưng thám tử phụ trách điều tra cam đoạn họ không phải là người để lại dấu vết này.

- Không tìm ra dấu vết nào cho thấy mối liên quan về ADN, ngoại trừ vết máu của nạn nhân. 

- Nghi phạm có một bằng chứng ngoại phạm, có nhân chứng khẳng định chính mắt mình nhìn thấy nghi phạm ở bên ngoài nơi ở của mình, cách nơi xảy ra vụ án khoảng bốn dặm, vào khoảng thời gian xảy ra vụ án. Nhân chứng là một người vô gia cư bị nghi ngờ được nghi phạm cho tiền. 

"Có bằng chứng ngoại phạm," Sachs chỉ ra. "Nhưng nhân chứng không được bồi thẩm đoàn tin tưởng. Rõ ràng là vậy rồi."

"Anh nghĩ sao, Mel?", Rhyme hỏi. 

"Tôi vẫn giữ nguyên quan điểm của mình. Mọi thứ liên kết với nhau một cách quá thuận lợi."

Pulaski gật đầu. "Keo xịt tóc, xà phòng, các mẫu sợi, vết chất bôi trơn... mọi thứ." 

Cooper nói tiếp, "Chúng đều là những lựa chọn hiển nhiên khi muốn sắp đặt tang vật. Và hãy nhìn ADN xem, không phải của nghi phạm tại hiện trường, mà là của nạn nhân tại nhà nghi phạm. Dễ dàn xếp hơn nhiều".

Rhyme tiếp tục chậm rãi xem xét kỹ lưỡng các bản danh sách. 

Sachs nói thêm, "Nhưng không phải mọi dấu vết đều trùng khớp, vết bìa các tông cũ và vết đất không hề khớp với bất cứ hiện trường nào cả."

Rhyme nói, "Và vết tàn thuốc lá nữa, cả nạn nhân lẫn gã bị gài bẫy đều không hút thuốc. Có nghĩa là rất có thể chúng xuất phát từ thủ phạm thực sự".

Pulaski hỏi, "Thế còn sợi tóc búp bê thì sao? Điều đó có nghĩa là hắn có con không?".

Rhyme ra lệnh, "Dán những bức ảnh lên. Cùng thử xem qua nào." 

Cũng như các hiện trường, căn hộ của nạn nhân cũng như ngôi nhà và ga ra của nghi phạm đã được Đội Điều tra hiện trường chụp lại một cách chu đáo. Rhyme xem qua các bức ảnh. "Không hề có búp bê. Chẳng có món đồ chơi nào hết. Rất có thể kẻ sát nhân thực sự có con hay từng tiếp xúc với đồ chơi. Hắn hút thuốc, hay ít nhất có tiếp xúc với thuốc lá. Tốt. Ồ, chúng ta đang hướng tới một điều gì đó."

"Hãy lập ra một bản danh sách các đặc điểm. Chúng ta đã gọi hắn là ông X. Nhưng cần thêm điều gì đó cho tên thủ phạm này... Hôm nay là ngày bao nhiêu?"

"Hai mươi hai tháng Năm", Pulaski nói.

"Okay. Đối tượng bí ẩn Năm Hai Hai. Sachs, nếu em có thể..." Anh gật đầu hướng về phía một tấm bảng trắng. "Hãy bắt đầu bản mô tả đặc điểm."

 Mô tả đặc điểm ĐTBA 522 

- Nam giới.

- Có thể hút thuốc hay sống/làm việc với người hút thuốc, hoặc ở gần nguồn gây ra tàn thuốc. 

- Có con hoặc sống/làm việc gần nơi có trẻ con hay nơi có nguồn đồ chơi.

- Quan tâm tới tác phẩm nghệ thuật, tiền xu cổ? 

Bằng chứng không sắp đặt trước:

- Vết bụi đất. 

- Vết bìa các tông cũ.

- Tóc búp bê, sợi BASF B35 nylon 6. 

- Tàn thuốc lá hiệu Tareyton.

Được rồi, dù sao cũng là bước khởi đầu, anh thầm nghĩ, dù chưa có gì đáng kể. 

"Chúng ta có nên gọi cho Lon và Malloy không?", Sachs hỏi.

Rhyme giễu cợt, "Và nói với họ cái gì đây?". Anh hất hàm về phía tấm bảng. "Anh nghĩ cuộc điều tra nhỏ lén lút của chúng ta sẽ nhanh chóng bị khép lại." 

"Ý ông là chuyện này hoàn toàn không chính thức?" Pulaski hỏi.

"Chào mừng đến với thế giới ngầm", Sachs nói. 

Anh chàng cảnh sát trẻ cố tìm cách tiêu hóa thông tin vừa được cập nhật.

"Vì thế chúng tôi phải hóa trang", Cooper đế thêm, đồng thời chỉ tay vào những dải sọc sa tanh đen trên chiếc quần dạ hội đang mặc. Có lẽ anh còn nháy mắt nữa nhưng Rhyme không chắc cặp mắt sau đôi kính dày cộp của anh ta vừa làm những gì. "Bước tiếp theo của chúng ta là gì?"

"Sachs, hãy gọi đến Đội Điều tra hiện trường ở Queens. Chúng ta sẽ không thể tiếp cận trực tiếp các bằng chứng liên quan tới vụ của anh họ tôi. Vì phiên tòa sắp diễn ra nên toàn bộ bằng chứng nằm dưới sự giám sát tại văn phòng của ủy viên công tố. Nhưng tìm hiểu xem liệu kho lưu trữ tang vật có thể gửi các bằng chứng liên quan tới hai vụ án trước đây cho chúng ta, cưỡng dâm và đánh cắp tiền xu. Tôi muốn vết đất, bìa các tông và mẫu sợi dây thừng. Còn Pulaski, cậu hãy chạy tới Big Building. Tìm hiểu hồ sơ của tất cả các vụ án mạng xảy ra trong sáu tháng vừa qua." 

"Tất cả các vụ án mạng?"

"Ngài thị trưởng đang làm sạch thành phố nên cậu không lo là có phải tìm quá nhiều đâu. Hãy tạ ơn Chúa là chúng ta không phải đang ở Detroit hay Washington, nơi đầy rẫy các loại tội phạm. Flintlock là người nhớ ra hai vụ này. Tôi dám cá vẫn còn nhiều vụ nữa. Hãy tìm những động cơ phạm tội có thể là trộm cắp, hoặc cưỡng dâm và kết thúc bằng án mạng. Bằng chứng theo lớp rõ ràng, kèm theo một cú điện thoại nặc danh ngay sau khi tội ác diễn ra. À, và cả một nghi phạm luôn thề rằng anh ta vô tội nữa." 

"Okay, thưa ông."

"Còn chúng ta?", Mel Cooper hỏi. 

"Chúng ta đợi", Rhyme lẩm bẩm, như thể từ anh vừa nói là điều gì thô tục.

[Hết chương 8]

---

Chương 9: Một chuyến đi săn tuyệt hảo.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top