Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

totnghiepchinhtri_bvquynh

CHƯƠNG 1 :CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

- Triết học là hệ thống những quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó, nó đã có LS ra đời và phát triển 2000 năm trong lịch sử tư tưởng nhân loại.

-Theo Ang-ghen: Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại là  mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại; giữa cái tinh thần với cái vật chất.

1Vấn đề cơ bản của triết học là gì

Đó là vấn đề cơ bản, nền tảng, đóng vai trò định hướng để dựa vào đó giải quyết những vấn đề còn lại. Đi vào cụ thể thì vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Mối quan hệ này còn thể hiện mối quan hệ giũa tồn tại và tư duy, giữa thế giới và con người.

Vì sao mối quan hệ giữa vật chất và ý thức lại là vấn đề cơ bản của triết học

1.      Không có một trường phái triết học nào không bàn đến mối quan hệ và vấn đề đó trong suốt lịch sử triết học. Mối quan hệ này xuyên suốt lịch sử triết học, không có trào lưu triết học nào lại không giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Khi giải quyết vấn đề này ta sẽ biết đâu là triết học duy vật và đâu là triết học duy tâm

2.      Bởi khi giải quyết được vấn đề này thì các vấn đề khác sẽ được giải quyết.

3.       Trong phép biện chứng thừa nhận biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Biện chứng chủ quan thể hiện dưới dạng lý luận nhận thức, phép biện chứng và logic biện chứng. Đổi mới tư duy thực chất là trở về với tư duy biện chứng. Lý luận nhận thức có khách thể và chủ thể. Triết học xã hội có tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Tại sao lại có ý này?- nên bỏ

Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:

Mặt thứ nhất: Xác định vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào.

+ Vật chất có trước – ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, tính thứ 2 của ý thức

+ Ý thức có trước - vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất, thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, tính thứ 2 của vật chất

+ Vật chất và ý thức tồn tại độc lập, chúng không nằm trong quan hệ sản sinh, cũng không nằm trong quan hệ quyết định lẫn nhau.

Trong 3 cách giải quyết trên thì:* Cách 1 và 2, tuy đối lập về nội dung nhưng giống nhau ở chỗ chúng đều thừa nhận tính thứ nhất của một nguyên thể vật chất hoặc ý thức, những cách giải quyết này thuộc về triết học nhất nguyên.Trong triết học nhất nguyên, những người khẳng định tính thứ nhất của vật chất thuộc trường phái nhất nguyên duy vật, còn gọi là chủ nghĩa duy vật. Những người khẳng định tính thứ nhất của ý thức thuộc trường phái triết học nhất nguyên duy tâm,còn gọi là chủ nghĩa duy tâm.

Chủ nghĩa duy vật gồm:

·        Chủ nghĩa duy vật chất phác

·        Chủ nghĩa duy vật siêu hình

·        Chủ nghĩa duy vật biện chứng

Chủ nghĩa duy tâm gồm: 

·        Chủ nghĩa duy tâm chủ quan

·        Chủ nghĩa duy tâm khách quan

- Mặt thứ hai: Đề cập đến khả năng nhận thức của con người; Con người có khả năng nhận thức những điều mình chưa biết không?

* Phái khả tri cho rằng con người có khả năng nhận thức những gì mình chưa biết, phái này khẳng định con người có thể hiểu được đối tượng từ rộng đến sâu, từ ít đến nhiều. Lý luận của phái này gọi là khả tri luận.

* Phái bất khả tri cho rằng con người không có khả năng nhận thức những gì mình chưa biết. Phái này cho rằng con người cứ phải theo đuổi các sự vật bởi nó luôn thay đổi nên con người không thể hiểu được đối tượng hoặc ít ra là nhận thức được bản chất của nó.

2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất.

- Sơ lược hoàn cảnh ra đời của định nghĩa

.Lênin đưa ra định nghĩa vật chất kinh điển:

“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác

Phân tích định nghĩa:

·        Phương pháp định nghĩa mà V.I.Lênin dùng để định nghĩa vật chất là đối lập vật chất với phạm trù ý thức, chỉ ra thuộc tính cơ bản để phân biệt vật chất với ý thức.

·        Nội dung định nghĩa:

Thứ nhất, cần phải phân biệt “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học với những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn tất cả những sự vật, hiện tượng chỉ là những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên nó có quá trình phát sinh, phát triển và chuyển hóa. Vì vậy, không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.

Thứ hai, đặc trưng quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách quan, tức là thuộc tính tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con người, dù con người có nhận thức được nó hay không.

Thứ ba, vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người. Ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.

Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại của vật chất; không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.

Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Vật chất chỉ có thể tồn tại trong vận động, bằng cách vận động, không thể có vật chất không vận động, cũng như không thể có vận động ngoài vật chất. Các thuộc tính của vật chất chỉ biểu hiện thông qua vận động. vận động của vật chất có 5 hình thức: Vận động cơ giới; Vận động vật lý; Vận động hóa học; Vận động sinh học và Vận động xã hội

Các hình thức vận động cơ bản trên được sắp xếp theo thứ tự từ trình độthấp đến trình độ cao, tương ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau trong đó hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. 

Ý nghĩa của phương pháp luận: Cần phân tích sâu hơn

Mác Lênin bác bỏ toàn bộ quan điểm chủ nghĩa duy tâm và duy vật thô sơ, động viên các nhà khoa học nghiên cứu dạng mới của vật chất, giúp phân biệt đc cái gì là vật chất trong xã hội

3. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức.

a. Nguồn gốc của ý thức

Trên cơ sở khái quát thành tựu của khoa học, của thực tiễn xã hội, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định nguồn gốc vật chất, bản chất phản ánh vật chất của ý thức để rút ra vai trò của ý thức trong mối quan hệ với vật chất.

Quan điểm duy vật siêu hình coi ý thức là một dạng vật chất; “óc tiết ra ý thức cũng như gan tiết ra mật”.

Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng ý thức ra đời là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên và xã hội. Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội

+Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con người và hoạt động của bộ óc đó cùng mối quan hệ của con người với thế giới khách quan, trong đó thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo.

Về bộ óc người: Ý thức là thuộc tính của dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ não người là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới sinh vật. Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức con người càng phong phú và sâu sắc. Bộ não của động vật chỉ đạt đến trình độ phản xạ, bản năng, tâm lý động vật, trong khi đó bộ óc người có khả năng phản ánh thế giới bằng tư duy trừu tượng.

Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo: Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan, thông qua hoạt động của các giác quan, thế giới khách quan tác động đến bộ óc người, hình thành quá trình phản ánh.

+Nguồn gốc xã hội của ý thức: ý thức không thể tồn tại ngoài não người; tuy nhiên, ý thức không phải do não sinh ra. Não chỉ là cơ quan thực hiện chức năng phản ánh. Để có ý thức phải có não người và thế giới khách quan. Ngoài ra còn phải có những điều kiện xã hội nữa đó là: lao động, ngôn ngữ.

-Lao động

Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu con người; là quá trình trong đó bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với giới tự nhiên.

Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, làm cho thế giới khách quan bộc lộ ra những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của nó biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy thông qua hoạt động của các giác quan, tác động vào bộ óc con người, tạo ra khả năng hình thành những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.

Lao động còn là quá trình phát triển bản thân con người, biến vượn thành người. Trong lao động con người phải suy nghĩ, tính toán đề ra mục đích, tìm kiếm phương pháp và phương tiện thực hiện mục đích, đúc rút kinh nghiệm thành công và thất bại. Đó chính là phương thức phát triển của ý thức.

Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan thông qua quá trình lao động

-Ngôn ngữ

Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.

Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Mối quan hệ giữa các thành viên trong quá trình lao động làm nảy sinh nhu cầu phải có phương tiện để biểu đạt, nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh.

Ngôn ngữ là công cụ của tư duy trừu tượng, là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất, nhờ ngôn ngữ con người có thể tổng kết tri thức, kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Tóm lại: ý thức ra đời do hai nguồn gốc: Nguồn gốc tự nhiên, đó là kết quả sự tiến hóa của bộ não và thuộc tínhh phản ánh của nó. Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động, ngôn ngữ. Sự tiến hóa tự nhiên là tiền đề vật chất không thể thiếu được của ý thức. Tuy nhiên, điều kiện xã hội giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự ra đời của ý thức.

b. Bản chất và kết cấu của ý thức

Bản chất của ý thức

Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc con người, là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, không phải là sự sao chép đơn giản, máy móc. Tính sáng tạo của phản ánh ý thức thể hiện ở chỗ ý thức có khả năng phản ánh bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng; ý thức con người có khả năng biến đổi hình ảnh (cảm tính và lý tính) của sự vật trong đầu óc của mình, tạo ra mô hình mới để từ đó biến đổi sự vật trong hoạt động thực tiễn.

Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: ý thức là hình ảnh của thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định cả về nội dung và hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà đã được cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, tri thức, nhu cầu…) của con người. Theo C.Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”

Ý thức là một hiện tượng xã hội, mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, không những chịu tác động của các quy luật sinh học mà còn chủ yếu là các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.

Kết cấu của ý thức

Ý thức có kết cấu phức tạp, có nhiều cách tiếp cận nghiên cứu về kết cấu của ý thức. Nếu tiếp cận kết cấu của ý thức theo các yếu tố cơ bản nhất hợp thành nó thì ý thức bao gồm: tri thức, tình cảm, ý chí.

Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.

4. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức  ( đây là nội dung rất quan trọng cần để thời gian phân tích và có ví dụ cụ thể hơn)

a. Vai trò của vật chất đối với ý thức

Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh đối với vật chất.

Ý thức của con người không phải là sản phẩm chủ quan thuần tuý, cũng không phải có nguồn gốc từ một lực lượng siêu tự nhiên. Nó là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người.

Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên và xã hội của ý thức đều do bản thân thế giới vật chất hoặc những dạng tồn tại của vật chất tạo ra, do đó vật chất là nguồn gốc của ý thức

Vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của ý thức; sự biến đổi của ý thức là sự phản ánh đối với sự biến đổi của vật chất. Vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.

b. Vai trò của ý thức đối với vật chất

Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người:

Vai trò của ý thức đối với vật chất thực chất là vai trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp làm thay đổi được hiện thực, muốn thay đổi hiện thực cần phải có hoạt động vật chất. Song do mọi hoạt động của con người đều được ý thức chỉ đạo, nên ý thức trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan trên cơ sở đó giúp con người xác định mục tiêu, phương hướng, lựa chọn biện pháp, công cụ ... để thực hiện mục tiêu của mình.

Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực.

Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có nghị lực, ý chí,hành động hợp quy luật khách quan thì có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn, cải tạo được thế giới, đạt được mục đích của mình.

Nếu ý thức phản ánh sai hiện thực khách quan, khiến cho hành động của con người đi ngược lại quy luật khách quan thì những tác động ấy sẽ mang lại tác động tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, kìm hãm sự phát triển xã hội.

Chính vì thế, trong hoạt động thực tiễn, ngoài việc nhận thức đúng quy luật khách quan, còn cần phải phát huy cao độ tính năng động chủ quan, đồng thời chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí, chống lại những tư tưởng lạc hậu, phản động, phản khoa học.

c.  Ý nghĩa phương pháp luận

Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới; bản chất năng động, sáng tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận là: Trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo khách quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.

Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan là xuất phát từ tính khách quan của vật chất, có thái độ tôn trọng hiện thực khách quan mà căn bản là tôn trọng quy luật; nhận thức và hành động theo quy luật khách quan. Trong nhận thức và hành động con người phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác định mục đích, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp; phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động.

Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học, mặt khác phải tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học đồng thời phải tu dưỡng rèn luyện bản thân mình về đạo đức, ý chí, nghị lực.

Đảm bảo nguyên tắc tính thống nhất biện chứng giữa tôn trọng khách quan và phát huy năng động chủ quan trong hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, chủ nghĩa kinh nghiệm, coi thường tri thức khoa học...trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.

CHƯƠNG 2 : PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

Câu 1: Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. ( Phân tích 2 nguyên lý và rút ra ý nghĩa phương pháp luận hoặc có thể hỏi trình bày quan điểm toàn diện, phát triển,lịch sử cụ thể từ đó phân tích cơ sở lý luận của 2 nguyên lý đó)

1.      Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới; còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phỏ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Đó là các mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng,… Như vậy giữa các sự vật, hiện tượng vừa tồn tài những mối liên hệ đặc thù vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định.

Tính khác quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú là những tính chất cơ bản của các mối liên hệ:

Tính khách quan của các mối liên hệ: Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng là cái vón có của nó, tồn tài độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.

Tính phổ biến của các mối liên hệ: Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập vs các sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời cũng không có bất cứ sự vật hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cự một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.

Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ: Quan điểm biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của các mối liên hệ mà còn nhấn mạnh tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ. Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong qus trình vận động, phát triển của sự vật cũng có những tính chất và vai trò khác nhau.=> không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể cả các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật nhát định, trong những điều kiện xác định. Quan điểm về tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan niệm về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ đặc thù trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể.

=>Ý nghĩa phương pháp luận: (sau khi đã phân tích nội dung  2 nguyên lý thì đưa phần này xuống cùng với quan điểm phát triển, vì thực chất 3 quan điểm được rút ra từ 2 nguyên lý chứ không có tính rời rạc)

Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diên. Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật và xỷ lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập vs quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức và thực tiễn.

Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải kết hợp vs quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm lịch sử-cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý tình huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Trong nhận thức và thực tiễn không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.

2.      Nguyên lý về sự phát triển.

Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng, giảm thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật; đồng thời nó cũng xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không phải trải qua những bước quanh co phức tạp. Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển để chỉ quá trình vận động của sự vật theo khuynh hướng đi lên: từ trình độ thấp lên trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật, là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật.

Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.

Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người.

Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi quá trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.

Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực hiện tại lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại ở những không gian và thời gian khác nhau sự vật phát triển sẽ khác nhau. Đông thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí có thể làm thay đổi cho sự vật thụt lùi tạm thời; có thể dẫn tới sự phát triển về mặt này và thoái hóa ở các mặt khác… Đó đều là những biểu hiện của tính phong phú, đa dạng của các quá trình phát triển.

=>Ý nghĩa phương pháp luận: Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trg mọi nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển. Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự phát triển. Theo quan điểm này đẻ nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong thực tiễn, một mặt cần phải đặt sự vật, hiện tg theo khuynh hướng đi lên của nó; mặt khắc con đường của sự phát triển lại là một quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch, đầy mâu thuẫn, vì vậy đỏi hỏi phải nhận thức đc tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tg trong quá trình phát triển của nó, tức là cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể trong nhận thức và giải quyết các vấn đề trong thực tiễn, phù hợp với tính chất phong phú đa dạng và phức tạp của nó.

            Như vậy, vs tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa M-L giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong nhận thức và thực tiễn.

Câu 2 :  Ba cặp phạm trù (cái riêng, cái chung; Nội dung - hình thức . Nguyên nhân – Kết quả) : Nêu KN, mối QH giữa các cặp phạm trù, liên hệ…) Chú ý mỗi cặp phạm trù là một câu hỏi làm trong 90 phút với trọng số 5 điểm nên các em phải phân tích cụ thể đây chỉ là đề cương thôi

Trả lời:

a/ Nguyên nhân- Kết Quả

-         Phạm trù nguyên nhân dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau từ đó tạo ra sự biến đổi nhất định.

-         Phạm trù kết quả dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng.

-         Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân- kết quả

Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ khách quan, bao hàm tính tất yếu: không có nguyên nhân nào không dẫn tới kết quả nhất định và ngược lại không có kết quả nào mà không có nguyên nhân.

      Nguyên nhân sinh ra kết quả, do vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân.

      Một nguyên nhân có thể sinh ra một hoặc nhiều kết quả và một kết quả có thể do một hoặc nhiều nguyên nhân tạo nên.

      Sự tác động của nhiều nguyên nhan dẫn đến sự hình thành một kết quả có thể diễn ra theo các hướng thuận, nghịch khác nhau và đều có ảnh hưởng đến sự hình thành kết quả nhưng vị trí, vai trò của chúng là khác nhau: có nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân gián tiếp, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài,.. Ngược lại một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả, trong đó có kết quả chính và phụ, cơ bản và không cơ bản, trực tiếp và gián tiếp,...

Vai trò của kết quả ?

      Trong sự vận động của thế giới vật chất, không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng. Ph.Ăngghen viết: “Chúng ta cũng thấy rằng nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt nhất định; nhưng một khi chúng ta nghiên cứu trường hợp riêng biệt ấy trong mối liên hệ chung của nó với toàn bộ thế giới thì những khái niệm ấy lại vẫn gắn với nhau, trong đó nguyên nhân và kết quả luôn luôn thay đổi vị trí cho nhau, cái ở đây hoặc trong lúc này có thể là nguyên nhân thì ở chỗ khác hoặc ở lúc khác lại là kết quả và ngược lại”.

-         Ý nghĩa phương pháp luận

Vì mối liên hệ nhân quả là mối quan hệ có tính khách quan, tất yếu nên trong nhận thức và thực tiễn không thể phủ nhận quan hệ nhân- quả. Trong thế giới hiện thực không thể tồn tại những sự vật, hiện tượng hay quá trình biến đổi không có nguyên nhân và ngược lại không có nguyên nhân nào không dẫn tới những kết quả nhất định.

Vì mối liên hệ nhân quả rất phức tạp, đa dạng nên phải phân biệt chính xác các loại nguyên nhân để có phương pháp giải quyết đúng đắn, phù hợp với mỗi trường hợp cụ thể trong nhận thức và thực tiễn.

Vì một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả và ngược lại, một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải có cách nhìn toàn diện và lịch sử cụ thể trong phân tích, giải quyết và ứng dụng quan hệ nhân- quả.

-         Liên hệ thực tiễn

Liên hệ tới bản thân, cuộc sống,...(ví dụ như kết quả học tập kém của sinh viên do nhiều nguyên nhân lười học, ko hứng thú học, chất lượng giảng dạy kém....)

b/ Nội dung- Hình thức

-         Phạm trù nội dung dùng để chỉ sự tồng hợp tất cả những mặt, yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật, hiện tượng.

-         Phạm trù hình thức dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng đó, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó.

-         Cái bề ngoài?

-         Quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức

Nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ, thống nhất và biện chứng với nhau. Vì vậy, không có một hình thức nào không chứa đựng nội dung, đồng thời không có nội dung nào lại không tồn tại một hình thức nhất định. Cùng một nội dung có thể biểu hiện trong nhiều hình thức, và cùng một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung.

Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức là mối quan hệ biện chứng. trong đó nội dung quyết định hình thức và hình thức tác động trở lại nội dung. Khuynh hướng chủ đạo của nội dung là khuynh hướng biến đổi, còn hình thức là mặt tương đối ổn định trong mỗi sự vật, hiện tượng. Nội dung thay đổi bắt buộc hình thức phải thay đổi theo cho phù hợp. Tuy nhiên, không phải bất cứ lúc nào cũng có sự phù hợp tuyệt đối giữa nội dung và hình thức. Nội dung quyết định hình thức nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội dung. Hình thức phù hợp nội dung thì sẽ thúc đẩy nội dung phát triển. Nếu hình thức không phù hợp thì sẽ kìm hãm sự phát triển của nội dung.

-         Ý nghĩa phương pháp luận

Nội dung và hình thức luôn luôn thống nhất hữu cơ với nhau. Vì vậy, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, không được tách rời giữa nội dung và hình thức, hoặc tuyệt đối hóa một trong hai mặt đó.

      Nội dung quyết định hình thức nên khi xem xét sự vật, hiện tượng thì trước hết phải căn cứ vào nội dung. Muốn thay đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải thay đổi nội dung của nó.

      Trong thực tiễn cần phát huy tác động tích cực của hình thức đối với nội dung trên cơ sở tạo ra tính phù hợp của hình thức với nội dung; mặt khác cũng cần phải thực hiện những thay đổi với những hình thức không còn phù hợp với nội dung, cản trở sự phát triển của nội dung

-         Liên hệ thực tiễn

c/ Cái riêng- cái chung

-         Phạm trù cái riêng dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng, một quá trình nhất định; còn phạm trù cái chung dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố, những quan hệ,... tồn tại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng.

Trong mỗi sự vật, ngoài cái chung còn tồn tại cái đơn nhất, đó là những đặc tính, những tính chất,... chỉ tồn tại ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật hiện tượng khác.

-         Quan hệ biện chứng giữa cái chung- cái riêng

Theo quan điểm duy vật biện chứng: cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan. Trong đó cái chung chỉ tồn lại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của nó; cái chung không tồn tại biệt lập, tách rời cái riêng, tức mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình cụ thể.

      Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung; không có cái riêng nào tồn tại độc lập tuyệt đối tách rời cái chung.

      Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Bời vì, cái riêng là tổng hợp của cái chung và cái đơn nhất; còn cái chung biểu hiện tính phổ biến, tính quy luật của nhiều cái riêng.

      Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện xác định.

-         Ý nghĩa phương pháp luận

Cần phải nhận thức cái chung để vận dụng vào cái riêng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Không nhận thức được cái chung thì trong thực tiễn khi giải quyết mỗi cái riêng, mỗi trường hợp cụ thể sẽ nhất định vấp phải những sai lầm, mất phương hướng. Muốn nắm bắt đc cái chung thì cần phải xuất phát từ những cái riêng bởi cái chung không tồn tại trừu tượng ngoài những cái riêng.

Mặt khác, cần phải cụ thể hóa cái chung trong mỗi hoàn cảnh, điều kiện cụ thể; khắc phục bệnh giáo điều, siêu hình, máy móc hoặc cục bộ, địa phương trong vận dụng mỗi cái chung để giải quyết mỗi trường hợp cụ thể.

Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cũng cần phải biết vận dụng các điều kiện thích hợp cho sự chuyển hóa giữa cái đơn nhất và cái chung theo những mục đích nhất định, bởi vì giữa cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện xác định.

-         Liên hệ thực tiễn

Câu 3 :  Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật ( Phân tích Lượng đổi chất đổi,).

Trả lời:

-         Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất là quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

-         Các Khái niệm

Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với cái khác.

Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật. Với khái niệm này cho thấy: một sự vật có thể tồn tại nhiều loại lượng khác nhau, được xác định bằng các phương thức khác nhau phù hợp với từng loại lượng cụ thể của sự vật.

Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng hay một quá trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai phương diện đó đều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng trong quá trình nhận thức về sự vật chỉ có ý nghĩa tương đối: có cái trong mối quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng.

Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thay đổi về lượng tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa về chất của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được gọi là độ.

Khái niệm độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác.

Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Khi lượng thay đổi đến 1 giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động phát triển của sự vật.

Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động  phát triển liên tục của sự vật. Trong thế giới luôn luôn diễn ra quá trình biến đổi tuần tự về lượng dẫn đến bước nhảy về chất, tạo ra một đường nút vô tận, thể hiện cách thức vận động và phát triển của sự vật từ thấp đến cao.

Chất tác động đến lượng ?

Nội dung của quy luật?

-         Ý nghĩa phương pháp luận

+ Vì bất kỳ sự vật nào cũng có phương diện về chất và lượng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, do đó, trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và lượng của sự vật, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật.

+ Vì những thay đổi về lượng của sự vật có khả năng tất yếu chuyển hóa thành những thay đổi về chất của sự vật do đó trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tùy theo mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất của sự vật.

+ Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn đến những biến đổi về chất của sự vật với điều kiện lượng phải được tích lũy giới hạn điểm nút, do đó, trong công tác thực tiễn cần phải khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh; mặt khác theo tính tất yếu quy luật thì khi lượng đã được tích lũy đến giới hạn điểm nít sẽ tất yếu diễn ra bước nhảy về chất của sự vật, vì thế cũng cần khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong công tác thực tiễn.

+ Vì bước nhảy hết sức đa dạng phong phú do vậy trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt của bước nhảy sao cho phù hợp với từng điều kiện, từng lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt trong đời sống xã hội, quá trình phát triển không phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách hiệu quả nhất.

Câu 4: Thực tiễn: Khái niệm, các loại hình hoạt động thực tiễn, vai trò của thực tiễn với hoạt động nhận thức.

Khái niệm: Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính chất lịch sử-xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. Khác với các hoạt động khác, hoạt động thực tiễn là loại hoạt động mà con người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vạt chất nhất định, làm biến đổi chúng theo mục đích của mình. Hoạt động thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất mang tính chất sáng tạo và có tính mục đích, tính lịch sử-xã hội.

Các loại hình hoạt động thực tiễn: Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, song có ba hình thức cơ bản là: hoạt động sản xuât vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.

            Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.

            Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị - xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.

            Thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn. Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động này có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kì cách mạng KH&CN hiện đại.

Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng khác nhau, không thể thay thế cho nhau song chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác dộng qua lại lẫn nhau.

Vai trò của thực tiễn với hoạt động nhận thức:

Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra chân lý của quá trình nhận thức. Sở dĩ như vậy là do thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức, nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính con người có nhu cầu tất yếu khách quan là phải giải thích thế giới và cải tạo thế giới nên con ng tất yếu phải tác động vào các sự vật, hiện tg bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho các sự vật, hiện tg bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và qan hệ khác nhau giữa chúng, đem lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của con ng cần đo đạc diện tích và đong lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời jan và chế tạo cơ khí mà toán học đã ra đời và phát triển. Ngay cả những thành tựu khoa học mới đây nhất là khám phá và giải mã bản đồ gien ng cũng ra đời từ chính hoạt động thực tiễn, từ nhu cầu đòi hỏi phải chữa trị những căn bệnh nan y và từ nhu cầu tìm hiểu, khai thác những tiềm năng bí ẩn của con ng,… Có thể nói suy cho cùng không có một lĩnh vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. Do đó, nếu thoát ly thực tiễn, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình.

Thực tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức còn là vì nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con ng ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy logic không ngừng đc củng cố và phát triển; các phương tiện nhận thức ngày càng hiện đại, có tác dụng “nối dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.

Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà còn đóng vai trò là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức. Điều này có nghĩa thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt đc trong nhận thức. Đồng thời, thực tiễn không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức C.Mac đã từng khẳng định.

Như vậy thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình.

Vai trò của thực tiễn đối vs nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi vs hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc quan lieu. Ngc lại nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng và kinh nghiệm chủ nghĩa. Như vậy, nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn và lý luận phải là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận; lý luận mà không có thực tiễn làm cơ sở và tiêu chuẩn để xác định tính chân lý của nó thì đó chỉ là lý luận suông. Ngc lại thực tiễn mà không có lý luận khoa học, cách mạng soi sáng thì nhất định sẽ biến thành thực tiễn mù quáng.

CHƯƠNG 3 : CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

3.1. Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Vận dụng?

1.      Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng :

- Khái niệm, kết cấu  cơ sở hạ tầng

+ Khái niệm cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.

+Kết cấu: Cơ sở hạ tầng có ba loại quan hệ sản xuất:

Thứ I:  Quan hệ SX thống trị - trong XH đương thời đó có một nhà nước bảo vệ giai cấp thống trị đó về mặt kinh tế.

Thứ II:  Quan hệ SX tàn dư của XH trước đó: kế thừa và cải tạo cái cũ

Thứ III:  QHSX là mầm mống cho một XH tương lai

Ttrong đó quan hệ sản xuất thống  trị chiếm địa vị chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, định hướng sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội và giữ vai trò là đặc trưng cho chế độ kinh tế của một xã hội nhất định.

- Khái niệm, kết cấu kiến trúc thượng tầng :

 - Khái niệm kiến trúc thượng tầng

+ Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,… cùng với các thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội … hình thành trên một cơ sở xã hội nhất định.

+ Kiến trúc thượng tầng của mỗi xã hội là một kết cấu phức tạp. Từ giác độ chung nhất có thể thấy kiến trúc thượng tầng của một xã hội bao gồm: hệ thống các hình thái ý thức xã hội (hình thái ý thức chính trị, pháp quyền, tôn giáo...) và các thiết chế chính trị xã hội tương ứng của chúng (nhà nước, đảng, giáo hội...)

Trong xã hội có giai cấp, hình thái ý thức chính trị và pháp quyền cùng hệ thông thiết chế, tổ chức chính đảng và nhà nước là hai thiết chế, tổ chức quan trọng nhất trong hệ thống kiến trúc thượng tầng của xã hội.

Nhà nước là một bộ máy quyền lực và thực thi quyền lực đặc biệt trong xã hội có giai cấp đối kháng. 

- Về danh nghĩa, nhà nước là hệ thống tổ chức đại biểu cho quyền lực chung của xã hội để quản lý, điều khiển hoạt động của xã hội và công dân, thực hiện chức năng chính trị và chức năng xã hội, chức năng đối nội và đối ngoại của quốc gia.

- Về thực chất nhà nước là công cụ quyền lực thực hiện chuyên chính giai cấp của giai cấp thống trị, tức là giai cấp nắm giữ tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, nó chính là chủ thể thực sự của quyền lực nhà nước.

2.      Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai phương diện cơ bản của đời sống xã hội đó là phương diện kinh tế và phương diện chính trị - xã hội, chúng có quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng; kiến trúc thượng tầng có sự tác động trở lại cơ sở hạ tầng đã sản sinh ra nó.

a. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng

Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng được thể hiện trên nhiều phương diện:

Cơ sở hạ tầng quyết định nội dung và tính chất của kiến trúc thượng tầng; nội dung và tính chất của kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh đối với cơ sở hạ tầng. Tương ứng với một cơ sở hạ tầng sẽ sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng phù hợp, có tác dụng bảo vệ cơ sở hạ tầng đó.

Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng; những biến đổi trong cơ sở hạ tầng tạo ra nhu cầu khách quan phải có sự biến đổi trong kiến trúc thượng tầng; do đó sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh đối với sự biến đổi của cơ sở hạ tầng.

Tính chất phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng có nguyên nhân từ vai trò quyết định của kinh tế đối với toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của xã hội.   

b. Vai trò tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng 

Với tư cách là các hình thức phản ánh và được xác lập do nhu cầu của phát triển kinh tế, các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có vị trí  độc lập  tương đối của nó và thường xuyên có vai trò tác động trở lại cơ sở hạ tầng của xã hội. 

Sự tác động của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng có thể thông qua nhiều phương thức, hình thức tùy thuộc vào bản chất của mỗi nhân tố trong kiến trúc thượng tầng, phụ thuộc vào vai trò, vị trí của nó và những điều kiện cụ thể.

Trong điều kiện kiến trúc thượng tầng có yếu tố nhà nước thì phương thức và hình thức tác động của các yếu tố khác tới cơ sở kinh tế phải thông qua nhân tố nhà nước và pháp luật mới thực sự phát huy vai trò thực tế của nó. Nhà nước là nhân tố tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội

Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng theo nhiều xu hướng và mục tiêu, thậm chí các xu hướng không chỉ khác nhau mà còn có thể đối lập nhau, điều đó phản ánh tính chất mâu thuẫn lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau.

Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể diễn ra theo xu hướng tích cực hoặc tiêu cực. Khi các yếu tố của kiến trúc thượng tầng phù hợp với nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế nó sẽ tạo ra tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, ngược lại nếu các yếu tố của kiến trúc thượng tầng không phù hợp nó sẽ kìm hãm, phá hoại sự phát triển kinh

tế. Tuy nhiên, dù kiến trúc thượng tầng có tác động như thế nào tới cơ sở hạ tầng thì nó cũng không thể giữ vai trò quyết định cơ sở hạ tầng của xã hội.

3.      Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta

- CSHT trong thời kì quá độ ở nước ta bao gồm các kiểu QHSX gắn liền với các hình thức sở hữu, tương ứng với các trường phái kinh tế khác nhau từng đối lập nhau tồn tại trong một cơ cấu kinh tế thống nhất theo định hướng XHCN.

- Về xây dựng KTTT – XHCN ở nước ta, Đảng ta đã khẳng định lấy Chủ nghĩa Marx – Lenin và tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng cho mọi hoạt động tinh thần của XH, xây dựng hệ thống chính trị XH – XHCN mang tính giai cấp công nhân, do đội tiên phong của nó là Đảng CSVN lãnh đạo, đảm bảo cho ND thực sự là chủ XH. Các tổ chức bộ máy tạo thành hệ thống chính trị - XH, không tồn tại như một mục đích tự thân mà vì phục vụ con người, thực hiện lợi ích và quyền lợi thuộc về nhân dân lao động.

- Mỗi bước phát triển của CSHT hoặc của KTTT là một bước giải quyết mâu thuẫn giữa chúng. Việc phát triển và củng cố CSHT, điều chỉnh và củng cố các bộ phận của KTTT là một quá trình diễn ra trong suốt thời kì quá độ.

- Sự định hướng XHCN nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thì hoạt động định hướng của KTTT chính trị không chỉ bó hẹp trong kinh tế quốc doanh mà phải hoạt động bao quát cả trong những thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, nhằm từng bước xã hội hóa nền sản xuất với những hình thức và bước đi thích hợp theo hướng kinh tế quốc doanh, được củng cố và phát triển ở những vị trí chủ đạo. Kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người SX nhỏ trongcác ngành nghề, các hình thức Xí nghiệp, công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng, các tập đoàn kinh doanh lớn có sức chi phối trong nền kinh tế được hình thành.

Câu 3.2.Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội và sự vận dụng.

*) Khái niệm tồn tại xã hội: tồn tại xã hội là sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Trong những quan hệ xã hội vật chất có hai loại quan hệ cơ bản là quan hệ giữa người với người tự nhiên và quan hệ vật chất giữa người với người. Tồn tại xã hội được nghiên cứu với tính cách vừa là đời sống vật chất vừa là những quan hệ vật chất giữa người với người. Tồn tại xã hội gồm các yếu tố cơ bản là điều kiện tự nhiên: hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số, phương thức sản xuất vật chất. Trong ba yếu tố đó thì phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Như vậy, tồn tại xã hội là mặt vật chất xã hội, mỗi giai đoạn phát triển của loài người có một đời sống vật chất riêng- một tồn tại xã hội riêng. Mặt khác, các yếu tố của tồn tại xã hội thường xuyên thay đổi nên tồn tại xã hội có tính lịch sử.

*) Khái niệm ý thức xã hội: dùng để chỉ phương diện sinh hoạt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm những quan điểm,tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống… nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong giai đoạn phát triển nhất định.

Khi nghiên cứu về khái niệm ý thức xã hội cũng cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của những con người riêng biệt, cụ thể. Ý thức cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội ở những mức độ khác nhau do đó nó không thể không mang tính xã hội. Nhưng ý thức cá nhân không bao giờ cũng thể hiện quan điểm tư tưởng, tình cảm phổ biến của một tập thể, một xã hội, một thời đại nhất định.

Ý thức xã hội và ý thức cá nhân cũng phản ánh tồn tại xã hội, chúng tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng để làm phong phú cho nhau.

*)Kết cấu của ý thức xã hội Không cần

Ý thức xã hội có những hình thức khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng những phương thức khác nhau. Tùy theo góc độ xem xét, có thể chia ý thức xã hội thành các dạng khác nhau.

-Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận: ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa; ý thức lý luận là những tư tưởng quan điểm được hệ thống hóa, khái quát hóa thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật. Ý thức xã hội thông thường là tiền đề quan trọng cho sự hình thành các học thuyết khoa học còn ý thức lý luận có khả năng phản ánh khái quát, sâu sắc, chính xác, có khả năng vạch ra mối quan hệ bản chất của sự vật trong tồn tại xã hội.

-Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng

Tâm lý xã hội bao gồm tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán của con người, của một bộ phận xã hội hoặc toàn bộ xã hội hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.

Tâm lý xã hội phản ánh trực tiếp tồn tại xã hội nhưng là trình độ phản ánh thấp, phản ánh tự phát tồn tại xã hội. Những quan niệm của con người ở trình độ tâm lý xã hội mang tính chất kinh nghiệm, yếu tố trí tuệ đan xen với yếu tố tình cảm chưa thể hiện về mặt lý luận. Nó có vai trò quan trọng trong việc phát triển ý thức xã hội.

Hệ tư tưởng là trình độ cao của ý thức xã hội, hình thành khi con người nhận thức sâu sắc hơn về những điều kiện sinh hoạt vật chất của mình. Hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào bản chất sự vật, vào các mối quan hệ xã hội.

Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan điểm tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức nghệ thuật, tôn giáo) là kết quả của sự khái quát hóa những kinh nghiệm xã hội. Hệ tư tưởng được hình thành một cách tự giác nghĩa là nó được hình thành tự giác bởi các nhà khoa học được truyền bá trong xã hội. Là một bộ phận của ý thức xã hội, hệ tư tưởng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của khoa học.

Hệ tư tưởng và tâm lý xã hội tuy là hai trình độ hai phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng chúng có tác động qua lại lần nhau, Cả hai đều có nguồn gốc tự tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội.

*) tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.

- ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết đinh: chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh rằng đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở đời sống vật chất rằng không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó tức là không thể tìm đầu óc con người mà phải tìm trong chính hiện thực vật chất. Sự biên đổi của một thời đại nào đó cũng sẽ không giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức thời đại đó. Chủ nghĩa duy vật đã chỉ rõ rằng: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vảo tồn tại xã hội. Nghĩa là tồn tại xã hội quyết định nội dung phản ánh của ý thức xã hội: nó quyết định ý thức xã hội ở sự nghèo nàn, phong phú hay đơn điệu trong nội dung phản ánh. Khi tồn tại xã hội thay đổi nhất là phương thức sản xuất thay đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa nghệ thuật… sớm hay muộn cũng thay đổi theo. Cho nên, ta thấy ở những thời lý lịch sử khác nhau có những quan điểm, lý luận, tư tưởng xã hội khác nhau thì đó chính là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định. Điều này chứng tỏ: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ, trái lại tồn tại xã hội quyết định ý thức của họ”

- tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội với ý thức xã hội, còn ý thức xã hội là phản ánh tồn tại xã hội phụ thuộc vào tồn tại xã hội, triết học Mac Lenin không xem ý thức xã hội như một yếu tố hoàn toàn thụ động mà trái lại còn nhấn mạnh  sự tác động tích cực trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. tính độc lập tương đối của ý thức xã hội được thể hiện trong những điểm sau:

+)Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội

Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, do đó khi tồn tại xã hội biến đổi thì ý thức xã hội cũng biến đổi theo. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, sự biến đổi của tồn tại xã hội đều ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi của ý thức xã hội. Trong nhiều trường hợp, ý thức xã hội có thể tồn tại lâu dài ngay cả khi tồn tại xã hội đã thay đổi. Điều đó là do:

- Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội nên ý thức xã hội chỉ có thể biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.

- Do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán và do tính bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.

- Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ cố tình duy trì để bảo vệ lợi ích của mình.

→Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng; kiên trì đấu tranh xoá bỏ các tàn dư tư tưởng, ý thức lạc hậu. Mặt khác, phải kiên quyết đấu tranh làm thất bại các âm mưu chống phá của các thế lực thù địch về mặt tư tưởng, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân ta.

Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội: chủ nghĩa duy 

vật lịch sử thừa nhận trong điều kiện nhất định tư tưởng con người có thể 

vượt trước tồn tại xã hội. Tính phản ánh vượt trước của ý thức xã hội chỉ xuất hiện ở một bộ phận những tư tưởng khoa học, tiên tiến. Những tư tưởng này có khả năng phản ánh sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tương lai và hình thành các dự báo khoa học.

Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó: Lịch 

sử phát triển của đời sống tinh thần của xã hội cho thấy ý thức xã hội của một 

xã hội có thể kế thừa những giá trị của ý thức xã hội của các xã hội trước đó. Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội cho phép thế hệ sau tiếp thu thành quả của thế hệ trước và vận dụng vào thực tiễn mới để phát triển cao hơn. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa và phát triển những tinh hoa tư tưởng nhân loại, trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.

Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự 

phát triển của chúng. Ý thức xã hội được biểu hiện dưới nhiều hình thái cụ thể khác nhau, mỗi hình thái phản ánh các mặt khác nhau của đời sống vật chất xã hội và mỗi hình thái có phương thức phản ánh riêng, có chức năng xã hội nhất định. Các  hình thái ý thức xã hội này luôn tác động lẫn nhau và sự tác động này phản ánh quy luật nội tại trong quá trình phát triển của ý thức xã hội.

Thứ năm, ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội, nhất là ý thức tư tưởng tiến bộ góp phần to lớn vào thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, ngược lại ý thức xã hội lạc hậu, phản tiến bộ có thể kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội.

Nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối 

của ý thức xã hội đã chỉ ra động thái phức tạp trong lịch sử phát triển của ý 

thức xã hội và đời sống tinh thần của xã hội nói chung; nó bác bỏ mọi quan 

điểm siêu hình,máy móc,tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và 

ý thức xã hội.

Ý nghĩa trong xây dựng văn hóa Việt Nam

Trong xã hội Việt Nam hiện nay, bên cạnh những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, có không ít vấn đề đặt ra đòi hỏi phải giải quyết. đó là cuộc đấu tranh giữa hai lối sống: một bên là lối sống có lý tưởng, lành mạnh trung thực; một bên là lối sống thực dụng, ích kỷ, dối trá. Vì vậy, giáo dục đạo đức mới cho mọi người, làm lành mạnh đời sống tinh thần là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mac-Lênin về nghệ thuật, Đảng ta đã đề ra đường lối văn nghệ đúng đắn. Nhờ đường lối đó mà nền văn nghệ nước ta đã đạt được thành tựu to lớn góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Ý thức xã hội tồn tại trong những hình thái khác nhau. Những hình thái chủ yếu của ý thức xã hội: ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý thức khoa học, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo và triết học. Tính đa dạng của các hình thái ý thức xã hội phản ánh và chịu sự quy định của tính phong phú đa dạng của bản thân tồn tại xã hội.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top