Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

Truyen ngan van nghe cong an(tt)-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Gió đảo chiều

Y câm lặng như một kẻ vô cảm, cặm cụi làm đủ mọi việc trong nhà, từ đi chợ, nấu ăn đến quét dọn, giặt giũ. Như một tên đầy tớ tận tụy, y vội vã chạy ra mở cổng khi có khách gọi. Dẫn khách vào, pha trà mời khách xong y đi xuống bếp. Và ở đó trong tư thế sẵn sàng chạy lên khi Nguyệt ngoảnh xuống, réo: "Ông Mào, lấy hộ mấy lon bia trong tủ lạnh lên đi. Nhanh lên một tí! Sao mà lù dù như chuột chù phải khói thế!".

Không nợ nần nhau kiếp trước, không phải cha con đời nay. Có phải như dân gian vẫn nói thế không mà Nguyệt lại có một anh chồng so với Nguyệt cọc cạch về đủ mọi phương diện như thế nhỉ.

Quả là so với Nguyệt, chồng Nguyệt chẳng được một mặt nào thật. Nguyệt là một đàn bà nhan sắc nổi trội hơn người. Mười tám tuổi nàng đã làm náo động cả tình trường một huyện lỵ sầm uất miền biên viễn. Đàn bà đẹp thường tối dạ. Nguyệt không thế. Ông trời cho nàng cả sắc đẹp lẫn tài trí. Không những thế, nàng lại còn giàu nữa. Giờ ngoài một cửa hàng điện tử ở chợ Ngọc Hoa Hà Nội, Nguyệt còn sở hữu ba quả đồi cọ, một khu đất ở huyện lỵ quê hương, trị giá cả chục tỷ đồng.

Nhưng buồn sao là cái thói chơi khăm của ông trời! Ông cho Nguyệt rất nhiều thứ, nhưng ông lại ghép cho nàng một anh chồng cùn nhụt đủ mọi mặt. Cạnh người đàn bà hồng nhuận thăn lẳn, tươi giòn, nở nang, tướng mạo vượng phu ích tử, vừa đoan trang vừa đa tình, là chồng nàng cằn cọc thấp bé, héo hắt buồn tẻ như một dải khoai héo, trông chẳng khác tên đầy tớ hèn mọn của một phu nhân đài các.

Ngực lép. Đít hóp. Mặt tóp. Hai con mắt bên ngưỡng thiên bên ngưỡng địa, lại dán nhấm. Cái miệng lại loe loe với cái hàm răng calavâu lúc nào cũng nhoe nhoét rớt dãi. Tướng mạo ấy dù có hưởng hàm trưởng phòng thì vẫn cứ lồ lộ vẻ tôi đòi, bần tiện. Thành ra, nhìn cái vẻ bề ngoài cóm róm, dị hợm, uột èo, chán ngắt của y, chẳng anh đàn ông bình thường nào mà không thấy chạnh lòng, khó chịu và tiếc rẻ, tiếc rẻ quá thật!

Nhưng mà đã nói đi thì cũng cần nói lại. Rằng biết đâu đó chẳng qua chỉ là cái bề ngoài lừa dối, cái bề ngoài thuần túy chỉ là hình thức, nó không phản ánh bản chất con người y? Thật sự y có duyên lặn, y là kẻ sống có đức độ, có tài ngầm, y tẩm ngẩm tầm ngầm đấm chết voi, và ở cái khoản giới tính của đàn ông y mạnh mẽ khác thường? Quan hệ vợ chồng, "cái đó" có nghĩa lắm đấy! Thì chẳng đã có cái thành ngữ dân gian ấy là gì! Không! Không có những chuyện ấy.

Vì đã là hàng xóm của Nguyệt hơn ba năm, vô tình, nhưng không ít hơn cả chục lần, chính tai tôi đã nghe thấy từ miệng Nguyệt thốt ra lời phàn nàn, trách cứ những nhược điểm về tính tình tài cán, sức lực của y! Rằng y là một kẻ vô tích sự, chưa đi đến chợ đã hết tiền, rằng vợ chồng Nguyệt cho đến nay vẫn vô sinh mà nguyên nhân chính là thuộc về y; rằng không hiểu sao đã từng là nhân viên trong ngành ngoại giao mà sao y kém cỏi thế cả về phương diện giao tiếp, lễ tân

Và đã từ lâu rồi, nàng đã áp dụng phép dùng ngoại vật để cải đổi nội lực y, nghĩa là giúp đỡ y, kể từ việc may cho y những bộ cánh sang trọng. Vậy mà vẫn chẳng ăn thua. Người ta có giày Adidas thì y cũng có; người ta có đồng hồ Radox thì y cũng có; nàng dạy y từ cách cho áo vào trong quần sao cho khi thắt lưng không bị phùng; từ việc bảo y cách làm lông trà trước khi pha trà. Nàng cắt cho y cái lông mũi quá dài. Nàng ngâm cho y hàng bình rượu thuốc với đầy đủ ngọc dương, dâm dương hoắc, tắc kè và Minh Mệnh thang, để y có thể đóng trọn vai một trang nam nhi trong cái lốt èo uột vốn dĩ.

"Kìa, quần áo rõ đẹp mà sao trông vẫn như thằng lái xe ôm ấy nhỉ?". Đã không ít lần nhìn chồng xúng xính trong bộ quần áo mới, Nguyệt đã phải kêu thầm vậy. Và chính là một lần, giữa một đêm hè vằng vặc trăng sao, Nguyệt kéo chiếc ghế tựa ra sân, ngả người nhìn trời và tôi là người hàng xóm của nàng đã nghe được trọn vẹn lời than van thảm thiết của nàng: "Trời ơi! Cái số quạ mổ của tôi! Tôi ăn phải bùa mê thuốc lú nào mà lấy ông làm chồng, hả ông Mào ơi !"

Đúng là đã ăn phải bùa mê thuốc lú thật! Nếu không thì tại sao Nguyệt lại bằng lòng lấy anh chàng Mào làm chồng? Đúng là đã ăn phải bùa mê thuốc lú, đã có sự dẫn lối đưa đường của ma quỷ, nên Nguyệt đã từ chối, đã ngoảnh mặt đi trước bao nhiêu lời tỏ tình, cầu hôn của không ít gã đàn ông tử tế, giàu sang, có chức vị ở huyện lỵ này, để chấp nhận làm vợ anh chàng Mào, một gã đàn ông xấu xí và kém cỏi đủ mặt.

Thực tình, Mào chỉ là một gã nhân viên tạp vụ của sứ quán ta ở Italya, nhân ngày xuân đi phép, Mào nổi cơn ngẫu hứng, lên huyện lỵ này thăm một người bà con quê ở Thái Bình chuyển cư tới đây lập nghiệp. Thật tình là hồi đó, trông bộ dạng Mào cũng lạ mắt. Vì trừ cái miệng dẩu ướt nhoét, y cũng là sản phẩm của một nền văn hóa mới lạ thật. Thì mới từ Rôm về còn gì! Áo lông. Mũ lông. Giầy lót lông. Máy vi tính xách tay. Và cả một chiếc Spring bệ vệ như ngồi trên xa lông.

Với một huyện lỵ miền biên xám nhờ những căn nhà tường xăm đá, mái lợp cỏ và cánh đàn ông cũ kỹ là những bóng hình trộn lẫn vào nhau, mùa đông sùm sụp cái mũ bông bịt tai cỏ úa, mười anh hút thuốc lào cả mười một, thì Mào là cả một hiện tượng. Nhất là khi y tự xưng là làm chức này chức nọ tại Đại sứ quán ta ở Rôm thì lòng thiếu nữ nào mà chẳng xao xuyến!

Nguyệt đã nhẹ dạ cả tin. Nguyệt đã bị lừa. Bị chính con tim non dại của mình lừa mình. Thành ra bị lừa mà nàng đành phải âm thầm ngậm bồ hòn làm ngọt. Và thế là nàng khởi động một thời kỳ ghìm nén nỗi đau đời, lặng lẽ và nỗ lực san lấp khoảng cách chênh lệch. Nguyệt ra sức dạy dỗ, sửa sang, sắm sửa, tô điểm cho chồng, để cải đổi hoàn cảnh sống của mình!

Tuyệt vọng càng lúc càng tăng, vì theo thời gian khoảng cách giữa nàng và Mào mỗi lúc một roãng rộng thêm. Nhất là lúc này, nàng đang bước vào thời đoạn thịnh đạt, như phát tiết anh hoa, sắc đẹp bừng nở đến độ rực rỡ và về mặt quan lộ, sự thành đạt và giàu sang đã tới đỉnh cao; nàng được bổ nhiệm giữ chức giám đốc một công ty. Nguyệt đẹp viên mãn, thuần thục, mỡ màng ở tuổi ba mươi lăm.

Trong khi đó buồn thay, Mào chồng nàng, lại phát triển theo chiều đối cực với nàng. Xí nghiệp cơ khí ở đó Mào làm phó phòng hành chính, sau thời kỳ làm ăn thua lỗ liên tục cả chục năm trời, đã giải thể. Mào về hưu non. Vào tuổi năm mươi, các tật bệnh trong người y như gặp cơ hội tha hồ phát lộ. Vừa khởi phát bệnh hen xuyễn, y lại tái phát chứng thấp khớp, hai bàn tay co quắp như củ gừng, thân đau, đốt sống cổ vôi hóa, đi đứng đều lom khom trông càng thêm dị mọ.

Bây giờ thì Nguyệt không thể giấu nổi cơn bất mãn, bực dọc ngày càng tăng của mình nữa rồi. Mà giấu làm gì nữa. Nó sờ sờ ra đấy, ai người ta chẳng biết. Thêm nữa, vợ chồng là kẻ ăn cùng mâm, ngủ cùng giường. Huống hồ, gái có chồng còn như gông đeo cổ. Làm sao mà lờ đi, mà quên khuây được, dù là trong chốc lát!

"Không hiểu kiếp trước tôi nợ nần gì mà ông trời lại ghép đôi tôi với ông Mào thế nhỉ?". Chao ôi, Nguyệt than thân trách phận. Nguyệt không cần giấu giếm nỗi uất tức nữa. Ở thế thượng phong, nàng giữ quyền cao ngạo, khinh miệt chồng. Nàng liên tục kể xấu chồng. Nàng gọi Mào là thằng cha thổi kèn Tây để chế giễu chứng hen xuyễn của chồng. Nàng bảo: giá Mào lấy được cô vợ hen có phải là đêm nằm cò cử như kèn có đôi không

Anh bạn không quen

Gã bước vào toa tàu dành cho những hành khách hút thuốc lá. Đặt chiếc vali giá 500 đôla xuống ghế, gã ngẩng lên và... kêu to: "Ô ô, ô ô...".

- Ô ô - Tôi đáp lại.

- Trái đất tròn - Gã xiết mạnh tay tôi - Ai ngờ lại được gặp cậu.

"Tay nào thế này?" - Tôi tự hỏi, cố lục tìm trong trí nhớ.

Gã ngắm nghía tôi rất kỹ:

- Cậu chẳng khác xưa là mấy.

- Cậu cũng vậy - Tôi hùa theo.

- Chỉ tội cậu hơi bệu ra...

- Ừ, thì cũng phải thay đổi tí ti chứ - Tôi đáp.

Trong suốt cuộc đối thoại, tôi cố nhớ lại những gương mặt đã gặp mà không sao nhớ gã là ai, mặc dù tôi từng tự hào là mình có trí nhớ "trên cả tuyệt vời". Thôi được, cứ trò chuyện thêm một chút nữa xem thế nào.

Gã "bạn" tôi chủ động ngồi xuống ghế.

- Lắm lúc mình tự hỏi, không biết đám bạn cũ bây giờ phiêu dạt phương nào? - Gã tiếp tục mạch chuyện.

- Mình cũng vậy - Tôi đáp.

- Có bao giờ cậu trở lại nơi ấy không? - Gã hỏi.

- Chưa lần nào - Tôi trả lời, bụng thầm nghĩ "Bố ai mà biết được nơi ấy là nơi nào".

- Mình nghĩ, có lẽ cậu ít quan tâm tới nó.

- Cũng là do điều kiện - Tôi nói nhỏ.

- Cũng một đôi lần mình gặp đám bạn cũ. Chúng nó thắc mắc không biết hiện nay cậu ở đâu và làm gì - Gã tiếp tục.

"Rõ khổ"- Tôi thầm nghĩ.

- Lắm lúc mình cũng muốn biên thư cho cậu - Gã hạ thấp giọng, như thể đây là câu chuyện rất riêng của hai người bạn từng một thời gắn bó với nhau - Đặc biệt là khi hay tin cậu gặp vận hạn...

"Vận hạn nào nhỉ?" - Tôi ngạc nhiên, song kìm không nói ra.

- Khó ai có thể trụ vững trước một tổn thất ghê gớm như thế - Gã nhận xét. Gã nói với vẻ thành tâm đến độ suýt nữa tôi tưởng mình cũng đã từng gặp vận hạn thật.

- Quả thực, trước cái chết của người thân, bao giờ ta chẳng ít nhiều bị chấn động tình cảm. 

Thì ra là gã muốn nói đến cái "tổn thất" ấy đấy. Tôi cố huy động trí nhớ xem "người thân" mà gã nhắc tới ở đây là ai.

- Cậu nói đúng - Tôi tìm cách gợi mở - Mất người thân ai chẳng buồn...

- Đặc biệt lại là ở cái tuổi ấy - Gã tiếp.

- Đúng vậy, ở tuổi ấy và lại sau những năm tháng sống như thế.

- Mình thì lại luôn tin mình sẽ khỏe mạnh và tỉnh táo tới phút chót cuộc đời.

- Hẳn rồi - Tôi phụ họa - ít ra thì vài ngày trước khi chết, cậu còn ngồi được trên giường và hút thuốc.

- Sao cơ?- Gã ngạc nhiên - Thế ra bà cậu...

- Thì là bà tôi chứ sao - Tôi hơi cáu tiết vì bỗng dưng lại hớ hênh đưa bà mình vào câu chuyện này. Bà tôi có thói quen muốn được người khác hút thuốc và thở khói cho "xem"...

Câu chuyện tới đây thì tôi phát hiện ra, bên ngoài cửa sổ toa tàu loang loáng đèn báo tàu đang vào ghi, và đang hãm dần trước khi đỗ.

- Thôi chết - Gã hoảng hốt - Đây là đoạn rẽ. Mĩnh nhỡ ga mất rồi. Đúng ra mình phải xuống ga trước đó.

Nói đoạn, gã kêu to:

- Bác soát vé ơi, tàu đỗ đây bao lâu?

- Chỉ hai phút thôi.

Gã "bạn" tôi đứng dậy, móc túi lấy chìa khóa mở vali để lấy tiền mua vé.

- Chết thật, khóa bị hóc mất rồi. Biết làm thế nào bây giờ - Gã tỏ vẻ lo lắng - Có lẽ mình phải gọi điện về nhà...

Thực tâm, nỗi lo nhất của tôi lúc này là gã sẽ không xuống tàu được.

- Đừng mất thì giờ với chiếc khóa ấy nữa - Tôi rút ví, đưa cho gã một nắm tiền.          

-  Cảm ơn nhiều - Gã mững rỡ vồ lấy cuộn tiền, miệng lắp bắp - Mình chỉ còn đủ thì giờ...

Chưa nói hết câu, gã đã lao bổ ra ngoài. Qua cửa sổ toa tàu, tôi thấy gã tiến về phía phòng đợi.

Cùng thời gian ấy, những người coi tàu cất tiếng giục hành khách: "Đề nghị quý khách lên tàu nhanh cho".

Chỉ trong loáng mắt, con tàu đã ầm ầm chuyển bánh.

"Đồ ngốc" - Tôi nghĩ - "Thế là mi nhỡ tàu rồi". Tôi thốt lên một mình rồi chợt nhớ là chiếc vali trị giá 500 đôla vẫn còn đây, ngay bên hông tôi.

Trong lúc ngồi chờ, tôi cố động não hòng mong tìm lấy một chút hình ảnh nào đó của hắn, trong quá khứ. Song vô vọng. Tất cả vẫn mờ mịt.

Rồi tôi nghe thấy tiếng người phu khuân vác. Ông ta dẫn một người khách đi dọc toa tàu.

- Ông cứ cẩn thận tìm khắp trong toa xem sao.

- Tôi nhớ là tôi để nó ở trên ghế ngồi của toa sau, ngay sát kề chỗ ngồi của vợ tôi - Ông khách nói với giọng cáu kỉnh.

Chợt gương mặt ông khách trở nên rạng rỡ bất thường. Rõ ràng ông ta vừa nhận ra điều gì. Không, không phải là vì thấy tôi mà vì ông ta đã trông thấy chiếc vali trị giá 500 đôla.

- Nó kia rồi - Ông khách kêu lên, đoạn, nhanh như sóc, ông ta nhấc bổng chiếc vali, đem đi luôn.

Tôi thần người. Gã "bạn cũ" chết tiệt. Vậy là tôi đã thua hắn một keo rồi!  Đau thật. Giờ thì tôi được một bài học để đời. Lòng tự nhủ lòng: Lần sau nhất quyết không tỏ ra "quen biết" nhiều nữa nhé

Gã chồng hờ

Nắng nổ đom đóm. Con đường trong chung cư tịnh không một bóng người, bóng chim, không một tiếng rao quà trưa. Lũ ve say nắng lịm đi trong những lùm cây im phắc. Lá xanh lả xuống trong nắng trưa ngột ngạt.

Nàng vừa ra khỏi căn phòng mát lạnh, thơm mùi son phấn. Còn đang bàng hoàng bởi những lời ca thất tình váng vất bên tai, bởi mấy tờ giấy bạc mới tinh vừa kiếm được cài dưới lần coóc-xê màu cánh sen, thì bỗng xoẹt một cái - giống như tiếng sét oái oăm giữa vòm trời xanh biếc, không một gợn mây - Một chiếc Môkích đỏ, sơn tróc loang lổ, lao lên hè, đỗ xịch ngay trước ngực nàng.

- Tiên sư con đĩ, tao biết ngay là mày lại đi mà. Mày còn đứng đực ra đấy à? Nâng đít xe lên cho bố mày!

Không nói một lời, nàng lẳng lặng và thành thạo nâng đít chiếc xe xù xì, nóng rẫy, đuôi xe buộc mấy bao tải gai cao vượt mặt, mà nàng biết bên trong toàn cua đồng.

Phựt - chiếc xe được chống lên và liền sau đó, nhanh như cắt, một cú đấm phóng thẳng vào bụng nàng, kèm theo những tiếng chửi tục tĩu:

- Con mẹ mày, tao đã bảo rồi. Nếu mày định làm đĩ nữa thì để tao ở nhà, giờ này tao đi đánh tá lả. Tao đi mấy chục cây số mua cua về cho mày bán, về đến nhà mày đã khóa cửa đi làm đĩ mất rồi. Tao biết ngay là mày lại mò đến đây mà!

Liền ngay sau những câu chửi là hai cú ra đòn nữa, đều vào bụng. Hai cú đánh mạnh đến nỗi, nàng cúi gập người xuống, tay ôm chặt lấy bụng. Lạ lùng thay, giữa cao xanh trưa hè im lìm ấy, chỉ có lời độc thoại của gã đàn ông, còn nàng lẳng lặng chịu đòn, lẳng lặng làm theo mệnh lệnh khô khốc của gã mà không hề mảy may cất lên một tiếng kêu rên nào.

- Mẹ mày! Đứng thẳng dậy, nâng xe lên, tao chở cua cho mày ra chợ. Mà mày phải bán bằng hết số cua này rồi mang tiền về cho bố mày!

Sau bao nhiêu cú đạp chồn chân mà chiếc xe cà khổ vẫn không nổ được máy.

- Mày còn đứng đực mãi đấy à? Đẩy xe cho bố mày!

Lẳng lặng, nhẫn nhục và ngoan ngoãn như một con chó mắc lỗi vừa bị ăn đòn, nàng rướn người đẩy xe, cho đến khi nó phụt ra làn khói đen xì, lăn bánh về cuối chợ cóc trong chung cư, chỉ cách đấy vài trăm bước chân...

Chứng kiến một cách ngạc nhiên, kinh hoàng và nín lặng màn thảm kịch khốc liệt ấy chỉ có một bà giáo đã về hưu. Bà đang hái nắm lá bưởi trong mảnh vườn nhỏ của người quen để đến tối hơ nóng chườm cho ông lão nhà bà...

*

Ấn tượng của ai khi gặp nàng, dù thoáng một lần, đều sửng sốt: Nàng đẹp - một vẻ đẹp vừa nhu mì, dịu dàng, vừa mơn man ve vuốt, vừa mơn mởn lồ lộ, khiến những người đàn ông thực khó ai cầm lòng.

Mười chín tuổi, bứt ra khỏi cái thị xã ven biển buồn tẻ, quanh năm chói chang những ruộng muối và sóng biển lóa mắt, bước ra khỏi những giọt mồ hôi, những giọt nước mắt khốn khó như muôn ngàn hạt muối biển lao xao dưới chân; bứt khỏi sự yêu thương, hy vọng đến ngẩn ngơ của mấy ông thầy giáo trẻ trong trường; bứt khỏi ngôi nhà xây bằng bao viên gạch xỉ than, vôi trộn lẫn mồ hôi của cha mẹ, của các em và của chính nàng nữa, nàng ra đi. Hành trang nàng mang đi chỉ vỏn vẹn là một chiếc túi du lịch đỏ cạch, in nhãn quảng cáo của hãng Coca-cola. Trong túi duy nhất chỉ một bộ quần áo lành lặn để thay đổi, một bộ sách lớp 12, một quyển sổ tay dày cộp, chan chứa những lời yêu thương của bao chàng trai mới lớn, cùng trường, cùng lớp, của mấy ông thầy giáo vừa khụng khiệng, vừa kiêu ngạo, vừa bất lực rụt rè trước những biến đổi và đòi hỏi ngày càng dữ dằn, khốc liệt, không khoan nhượng của đời sống đang được thị trường hóa...

Và, cất sâu trong túi trước của chiếc quần bò thoáng vệt sờn mỏng, bó chặt hông, chặt đùi nàng, là nguyên liệu chính để vận hành chuyến đi đầy định mệnh, thấp thỏm và gập ghềnh bao nỗi đoạn trường: Số tiền hơn một triệu nàng vừa dành dụm, vừa vay mượn được. Nàng ra thành phố với cái lý do theo đuổi cuộc thi vào giảng đường đại học.

*

Mong ngóng mấy buổi liền không thấy nàng bán hàng, bà giáo bỗng gặp nàng tay xách vài cân gạo, tay xách vài bìa đậu mớ rau, dáng vẻ tong teo thiếu thốn. Bà vồn vã ân cần:

- Này con gái, dạo này sao không thấy bán cua bán cá gì cả. Gớm, cua đắt như tôm tươi thế, sao lại bỏ chợ, bỏ khách?

- Họ đuổi ghê quá bà ạ. Mà cháu đang ốm, không thể chạy được từ đầu chợ đến cuối chợ để tránh như mọi khi. Hôm nọ cháu bị họ thu cả một tải cua với cái cân, không lại được đâu bác ạ.

- Khó gì đâu cơ chứ, cứ chạy chợ đi, không thì lấy gì mà sống. Lúc nào họ đuổi gắt quá cứ đến cổng nhà tôi mà ngồi, tôi mở một bên cổng, cho cô ngồi ké vào đấy, nửa trong nửa ngoài, chẳng ảnh hưởng gì đến tôi mà cũng không lấn chiếm vỉa hè của ai cả. Thôi cứ thế nhé, cô đi chợ đi cho chúng tôi được ăn cá sông với cua đồng. Mấy hôm liền, ai cũng tìm hàng cô đấy.

Đáp lại tấm lòng của bà giáo, nàng chỉ biết vâng dạ, cảm ơn rồi xách thức ăn đi về phía khu nhà trọ bình dân gần đấy.

Nhìn theo cô, bà giáo bỗng thảng thốt xót xa: "Hình như con bé này có mang rồi thì phải. Kiểu này có khi cơm cũng chẳng đủ mà ăn!".

...Rồi nàng cũng phải nhờ đến lòng tốt của bà giáo. Bụng đói đầu gối phải bò. Gã chồng hờ chẳng có tác dụng gì ngoài việc lúc tỉnh lúc say, lúc được hay thua bạc, về đến nhà, sau những cơn căn vặn, ghen tuông cuồng dại, lại vồ lấy nàng, ngấu nghiến hưởng lạc - cái cách hưởng lạc mà tình nghĩa thì ít, ghen tuông, gỡ gạc, hằn học thì nhiều. Càng ghen tuông, càng cay bạc bao nhiêu gã càng bỏ lỡ công việc và giày vò nàng tàn nhẫn bấy nhiêu. Không ít đêm khuya, không ít lúc tảng sáng, vừa đẩy cửa căn phòng trọ tồi tàn, vào nhà, gã đã vồ lấy nàng, xé toạc cả váy áo, rên rỉ và giãy giụa hành lạc, cắn cấu vào bất kỳ nơi nào mà hắn thấy là thơm tho gợi sự thèm khát...

Nàng lần ra chợ, vừa để kiếm miếng ăn nhưng cũng vừa để xoa dịu nỗi ghen tuông của gã chồng. Bởi nàng hiểu, cứ khi nào nàng đi chợ bán hàng đều đều thì gã cũng chịu khó chạy xe, chịu khó lặn lội chạy hàng về cho nàng bán đều đều và thói ghen tuông điên cuồng, thói lao vào cờ bạc, rượu chè như một kẻ mất trí cũng bớt hơn...

Sáng sáng, sau lúc tập thể dục, bà giáo bao giờ cũng ý tứ nới rộng vòng xích giữa hai cánh cổng sắt nho nhỏ tạo ra một đường vòng cung đủ cho nàng đặt mấy tải cua và chiếc cân. Sau hai cánh cổng ấy còn một khoảng vườn nho nhỏ trồng cây cảnh nữa rồi mới đến căn buồng của hai vợ chồng già.

Giúp được nàng như vậy, bà giáo thấy an tâm, thấy vui vẻ phấn chấn trong lòng, đồng thời vẫn giữ được sự yên tĩnh, sự an toàn cho căn nhà nhỏ. Bất quá, nàng cũng chỉ giống như một người qua đường, chạy vào đứng tạm trú mưa hay tránh nắng những lúc nhỡ nhàng mà thôi...

*

Mọi việc đang tạm ổn thì bẵng đi vài ba ngày, bà giáo không thấy nàng đi bán hàng. Gã chồng hờ cũng bặt tăm. Bà sốt ruột:

- Ông này, hay con bé nó ốm. Hay là vợ chồng nó đánh nhau rồi. Cái thai còn trứng nước thế, thằng chồng lại vũ phu.

Đến ngày hôm sau nữa, bà giáo bồn chồn ra mặt.

- Này ông, ông hay đi họp với mấy ông cựu chiến binh, mấy ông công an phường, ông thử hỏi hộ tôi xem con bé nó trọ ở đâu. Hay là tại hôm nọ, tôi vô tình nói câu gì làm nó tự ái, bỏ hàng bỏ chợ.

- Hỏi thì hỏi được thôi, nhưng bà toàn "lo bò trắng răng". Nó cần thì nó khắc đến, mà nó không cần thì bà mong hay là bà thương cũng chẳng được. Mà bà này, tôi thì tôi cũng không phản đối gì bà cả, bà muốn giúp nó thế nào thì giúp, muốn làm gì cho nó thì làm, nhưng bà hãy nghe một câu của tôi nhé: Những cái việc tốt mà bà đang làm ấy, cùng lắm chỉ có thể cảm hóa giáo dục được mấy đứa học sinh cá biệt trong mấy cái lớp. Còn với những đối tượng như thế này, làm thế chẳng khác nào lấy thuốc đỏ bôi lên để chữa một vết đạn bắn, vết dao chém. Vô ích, vô ích thôi, đấy rồi bà xem. Khác nào bà đem bắt cóc bỏ đĩa...

Vậy là bà giáo cũng lần tìm hỏi thăm đến nhà trọ gặp nàng bằng được. Căn phòng trọ trống hoác không một vật gì đáng giá. Khi bà bước vào, nàng đang nằm bẹp trên giường, mặt mũi tóc tai bơ phờ. Rồi nàng khóc với bà:

- Anh ấy bị bắt rồi bác ạ. Mấy hôm trước lúc đang đêm lên cơn ghen bóng ghen gió, đánh đập cháu rồi bắt cháu tháo cái nhẫn vẫn đeo ở ngón tay để dành đến lúc sinh con, đem đi đánh bạc, đánh ở gần đây này. Công an họ phát hiện, xông vào bắt. Anh ấy cầm một bọc tiền, trèo tường định trốn, nhưng bị phát hiện rồi đánh lại một công an định thoát thân.

- Thế hiện nay đang bị giam ở đâu?

- Họ đang tạm giam ở Quận, hôm kia cháu lên thăm tiếp tế thấy bảo đánh trọng thương người thi hành công vụ là tội nặng lắm, ít nhất cũng năm, bảy năm tù giam... Bây giờ cháu biết làm sao đây bác ơi...

...Đêm ấy, bà giáo trằn trọc mãi. Làm thế nào đây? Hình như cô ta cũng chẳng còn nơi nào nương tựa được nữa, giữa nơi đất khách quê người với nườm nượp những con người dửng dưng xa lạ.

Và bà chính là người đã đến hỏi nàng trước:

- Thế bây giờ cháu định thế nào?

Nàng chỉ khóc, khóc thống thiết như khóc trước cha mẹ, anh em ruột thịt của nàng vậy. Rồi nàng do dự hỏi ý kiến bà:

- Cháu đi nạo thai trước đã bác ạ! Có sinh ra đứa trẻ thì nó cũng chẳng có bố, lại cầu bơ cầu bất mà thôi... thà rằng...

- Cháu có mang tháng thứ mấy rồi?

- Gần sáu tháng rồi bà ạ. Mà... mà...

- Mà sao?

- Hôm cuối tháng trước cháu đi siêu âm người ta bảo là con trai.

Nàng ôm mặt rồi bật khóc thành tiếng:

- Ới cha mẹ ơi, sao con khổ thế này!

Bà giáo giật mình:

- Trời đất, trông thế mà đã gần sáu tháng rồi! Cháu ơi là cháu, thế thì không thể được đâu, nó đã thành người rồi, nó biết nghe, biết suy nghĩ, biết buồn vui rồi. Không thể bỏ đi được đâu, không ai làm cái việc thất đức ấy cả, phải tội, phải tội lắm, rồi trời phật không thể tha thứ cho cháu đâu!... Mà còn thằng chồng cháu nữa chứ, tù chán thì nó lại về chứ. Cái ngữ si tình ghen tuông điên khùng ấy, nó sẽ vạch đất, vạch trời tìm bằng được cháu, cho dù lúc đó cháu có ở quê hay ở nhà một người chồng khác thì cũng khó mà yên với nó...

- Giải quyết xong cái thai cháu sẽ về quê!

- Về quê à! Cháu bỏ đi biền biệt như thế, bây giờ về quê với cái bộ dạng nửa sống, nửa chết, thân tàn ma dại thế này sao? Rồi bố mẹ cháu có chịu đựng được bao nỗi ê chề tai tiếng khi làng nước người ta chê cười, khinh bỉ cháu không? Phận cháu, cháu chịu lấy một mình, đừng có bắt cha già mẹ héo chịu thay, bất hiếu lắm cháu ơi...!

Hôm sau, bà giáo ân cần đưa cho nàng chiếc phong bì đựng mấy trăm nghìn đồng, trích từ tiền lương hưu còm cõi của một bà giáo già. Bà chân thành, thương xót:

- Thôi, con gái ạ! Cố gượng dậy đi, gượng dậy mà sống, mà đi bán hàng, nuôi thân, nuôi đứa con. Trời đất rồi cũng có mắt...

*

Dặt dẹo, khi ốm khi khỏe, nàng đi bán hàng. Giờ đây không còn gã chồng đi chở cua, chở cá từ xa về nữa. Sáng sáng, từ lúc tinh mơ nàng đã ra chợ đầu cầu cất hàng, gặp gì buôn nấy, khi thì vài mớ vừa rau thơm vừa mướp, vừa dưa chuột, khi thì một mẹt vừa chanh vừa hành tỏi ớt, có hôm vài chục bó vải thiều, vài chục quả dứa hay rước túm nhãn, cân xoài. Cất hàng xong, nàng ngồi nhờ ở cửa nhà bà giáo, quá trưa thường là hết hàng.

Lặn lội ngày ngày nuôi thân, thỉnh thoảng còn để dành dụm ít tiền đi ôtô vượt hàng chục cây số đến một trại giam ở phía Tây thành phố tiếp tế cho một gã chồng hờ. Ngày nàng sắp sinh, bà giáo dúi vào tay nàng một bọc vừa quần áo, vừa mũ, tất, tã lót của trẻ sơ sinh. Có mươi cái bà tự tay may lấy, còn phần lớn bà đi xin mấy đứa cháu trong họ hàng, bè bạn thân thiết, toàn đồ đẹp đồ tốt. Bà thủ thỉ với nàng:

- Có mấy cái bác may mới tặng cháu, còn toàn thừa hưởng lộc, hưởng phúc của mấy đứa cháu gọi bác bằng bà cả đấy. Đứa nào cũng mũm mĩm khỏe mạnh, mặc để lấy khước cho thằng bé cháu ạ.

Thằng cu Tấn, con nàng ra đời vào một đêm đầu đông. Đầu đông mà rét đến cắt da cắt thịt, gió lồng lên như gió bão mùa nước tháng bảy. Gió vật vã xô gãy cây cối, hoa cỏ, lật tung bao mái nhà nghèo che tạm bằng những tấm tôn, mái lá đơn sơ. Căn nhà trọ của nàng cũng vậy, một góc mái bị xô bật lên, vặn vẹo, cong queo.

Đứa trẻ khôi ngô tuấn tú, vuông vức rộng dài giống như thằng bố nó. Ai nhìn thằng bé cũng phải yêu, có điều nàng gần như mất sữa hoàn toàn.

Bà giáo cùng mấy người vừa là hàng xóm, vừa là bạn già đồng nghiệp cũ đã về hưu, chẳng giàu có gì nhưng cũng đủ bát ăn, đủ xông xênh đôi chút, rủ nhau đến thăm nom mẹ con đứa trẻ. Kẻ ít người nhiều gom góp được non triệu bạc và một bọc cho hai mẹ con. Ai cũng thơm mãi vào cái miệng lúc nào cũng toe toét cười của nó, và từ đáy lòng ai cũng cầu chúc cho hai mẹ con có cuộc sống an bình.

Sau đó vài ngày, ông bà giáo nhận được tin vui từ Nguyệt Em: Vợ chồng cô về thăm gia đình, hành trình của họ đầy tình mẫu tử, chị em thiêng liêng: Ông bà giáo sẽ quay vào Sài Gòn, nơi gia đình Nguyệt Chị đang sinh sống. Vợ chồng Nguyệt Em sẽ tập kết ở đó rồi toàn thể gia đình sẽ có một hành trình tuyệt vời: Vũng Tàu, Phú Quốc, Đà Lạt, Nha Trang, Huế... nơi tụ hội cuối cùng sẽ là thủ đô ngàn năm văn vật, nơi có ngôi nhà của ông bà giáo. Lúc cả nhà lên máy bay rời thành phố Huế êm đềm và diễm lệ bay ra Hà Nội, bà giáo cũng chợt nhớ ra và tự nhủ: Thằng cu Tấn cũng được hơn hai tháng tuổi rồi. Bà định lúc về sẽ mang cho mẹ con nó chút quà từ một đất nước châu Âu xa xôi.

Nguyệt Em ở lại với bố mẹ hơn một tuần, rồi ra Nội Bài, bay thẳng về châu Âu...

Thấm thoắt thế mà tết cũng sắp đến nơi rồi còn gì. Bà giáo mang một túi quà cho hai mẹ con thằng cu Tấn. Cánh cửa căn phòng trọ chỉ khép hờ. Bà gõ cửa mãi không thấy tiếng ai liền đẩy nhẹ cánh cửa. Căn phòng trọ vắng ngắt vắng ngơ, gió bấc cuối năm lạnh lẽo run rẩy trên tấm ri đô cũ kỹ bạc phếch. Gió lật đi lật lại mãi tờ họa báo cũ vứt lăn lóc trên giường. Bà cất tiếng gọi:

- Mẹ con thằng cu Tấn ơi! Cô Hương ơi, hai mẹ con đi đâu cả rồi!

Lặng ngắt không một tiếng người. Gió lạnh vẫn khua lao xao, lao xao mãi trong từng góc nhà, từng tấm cót ép đã bắt đầu tơi tả tũa ra.

- Cô Hương ơi! Cu Tấn ơi, hai mẹ con đi đâu cả rồi!

Từ một căn phòng trọ cuối sân, cánh cửa bật mở.

- Ối giời, bà đấy ạ! Tôi cứ định đi tìm bà mấy lần nhưng nào có biết chính xác là bà ở đâu mà tìm cơ chứ? Đến tên của bà tôi còn chưa biết nữa là, khổ thân tôi quá bà ạ.

Trên tay người đàn bà khoảng năm mươi tuổi ấy là thằng cu Tấn. Nó đang ngậm chiếc vú cao su trong miệng, tay hua hua đùa với mấy chùm hoa nắng cuối đông đang lung linh trên cửa...

- Sốt ruột sốt gan quá bà ơi! Con mẹ nó bỏ vạ cho tôi đi suốt hơn chục ngày rồi. Tôi biết làm sao được với thằng bé này đây, biết làm sao được bây giờ bà ơi!

... Vậy là mười ngày trước đây, Hương đã nói với bà chủ trọ nhờ trông hộ cu Tấn một buổi sáng để về chợ Bằng tìm mẹ chồng xem có giúp gì được hai mẹ con nàng trong lúc khó khăn này không. Nhưng hết buổi sáng, hết một ngày, hết hai ngày rồi hơn mười ngày phấp phổng trông chờ, mà mẹ thằng cu Tấn vẫn mất tăm. Bà chủ trọ than thở:

- Tôi đợi hết ngày đầu thì đã thấy hơi ngờ ngợ rồi bà ạ, lúc lấy sữa pha cho thằng bé, thấy trong ngăn tủ xếp ngay ngắn hơn hai chục hộp sữa bò. Quần áo, tã lót được gấp gọn gàng, tất cả để trong một cái túi du lịch, cứ như là đã có chủ định sẵn để bỏ đi thì phải. Cô ta còn thiếu tôi hai tháng tiền nhà, tôi có nỡ đòi đâu. Vậy mà dám bỏ đứa con lại thế này. Nếu cô ấy bỏ trốn đi thật thì tôi biết làm thế nào với thằng bé này đây!

Bà giáo đón lấy thằng cu Tấn ôm nó vào lòng. Những giọt nước mắt bà lã chã ứa ra, rơi vào vai thằng bé mới chưa đầy ba tháng tuổi. Nó đã nhổ cái núm vú cao su ra, nhìn bà toe toét cười...

Ngồi một lúc, bà giáo đặt thằng bé vào tay bà chủ trọ, đưa bọc quà, vài trăm nghìn đồng còn lại trong túi và khẩn khoản:

- Bà ơi, tôi cũng như bà thôi, chỉ như người qua đường, thấy cảnh khổ thì giúp. Nhưng tôi vẫn tin là cô ta không thể bỏ đứa con như thế này mà đi biệt tăm đâu...

Trước lúc về, bà giáo còn cẩn thận ghi lại số điện thoại và địa chỉ của mình cho bà chủ trọ.

Ra khỏi khu nhà trọ, chẳng hiểu thế nào bà giáo lại không quen chân như mọi khi về nhà mình. Như người bị mê lú, bà cứ đi, đi mãi ra tận ngã ba, sát với con đường cao tốc rộng thênh thang. Ngã ba, trong con mắt của một người già yếu thật mênh mông: Bên phải là dòng đường chạy mãi về các làng quê, bến bãi, các chòm xóm nơi núi cao thăm thẳm...

Bà giáo cứ thẫn thờ từng bước chân, thẫn thờ kiếm tìm về phía cây cầu xi măng bắc qua dòng sông nhỏ nối liền đường cao tốc với đường vào chung cư. Bà cứ đứng giữa ngã ba đầy cát bụi, như vô vọng tìm kiếm cái bóng dáng hối hả của nàng đang quay về khu nhà trọ để được ôm chặt thằng cu Tấn của nàng mà hôn hít, mà nức nở

Chỉ tại con vịt chết

Người nọ có một đàn vịt lớn, thường vẫn chăn thả trong đầm. Sớm hôm ấy, khi tới bên bờ đầm, ông ta phát hiện thấy một con vịt dập dềnh mãi một tư thế trên mặt nước. Sinh nghi, ông lội xuống vớt lên, thì hóa vịt đã chết. Ông sờ tay thấy vịt còn mềm, thậm chí còn âm ấm. Người chăn vịt đảo mắt nhìn quanh. Không có dấu hiệu gì cho thấy nó bị cắn bởi rắn, chồn, hoặc cáo.

Người chăn vịt ngồi thừ một lúc, trong lòng vô cùng xa xót. Một con vịt mấy chục đồng chứ đâu ít...

Nâng niu xác con vịt trên tay, thoạt đầu người đàn ông định quẳng nó đi, song nghĩ đi nghĩ lại càng thấy tiếc. Không thể một lúc quẳng đi mấy chục đồng bạc thế được. Chợt nhớ tới việc mình đang thuê thợ sửa nhà, không những chỉ phải trả tiền công mà phải lo ăn uống hàng ngày cho họ, ông ta bèn nảy ra ý nghĩ: Tại sao không mang con vịt này về, chế biến cho họ ăn.

Nghĩ là làm. Về nhà, ông ta đun nước làm lông con vịt một cách sạch sẽ. Không tìm thấy dấu vết cho thấy nó bị con vật nào cắn xé, ông ta yên tâm giao lại cho vợ con ở nhà lo chế biến để khoản đãi tốp thợ.

Xong xuôi, người chăn vịt quay lại bờ đầm để tiếp tục công việc của mình. Vừa làm vừa nghĩ, chợt trong ông nảy lên một mối lo không thể xem thường. Ông hộc tốc chạy về. Lúc này, tất cả đã muộn. Vợ con ông cho biết, con vịt cùng với rượu ngon đã chui tuốt tuột vào bụng đám thợ nề cả rồi.

Thấy chồng ra dáng bần thần, ngỡ là ông tiếc của, bà vợ cố tìm cách an ủi...

Đến nước này người chăn vịt mới thổ lộ, không phải ông tiếc, một con vịt có nhằm nhò gì. Cái chính là ông sợ mọi người ăn nó, ngộ nhỡ xảy chuyện gì.

- Vịt được nấu chín rồi, còn xảy chuyện gì được - Bà vợ thản nhiên đáp.

- Mấy bữa trước bà có xem tivi không đấy? Vụ ngộ độc thức ăn ở Liễu Châu chẳng làm bao người sợ hãi đấy thôi...

- Biết lo thế, sao không vứt quách đi, lại đi tiếc cái con vịt chết - Bà vợ đay đả.

- Hừ! Thế mới thành chuyện! Cũng là do mình lẩm cẩm, cứ nghĩ hồi nhỏ thấy mèo chết, chó chết đều tuốt tuột ăn được, nên nay cũng làm vậy...

- Xưa khác, bây giờ khác. Giờ có lắm thứ dịch lạ kỳ lắm chứ...

Ông chồng thở dài:

- Thì bởi chủ quan nên mới vậy. Mà này, tốp thợ đâu cả rồi? Tôi phải đi thăm họ một lượt mới được.

Lùa nhanh bát cơm bữa tối, người chăn vịt quáng quàng nhảy lên xe đạp, lóc cóc tới thăm từng người thợ đang làm nhà cho ông. Dọc đường, hình ảnh vụ ngộ độc ở Liễu Châu cứ loang loáng trong đầu, đè nặng tâm trí ông.

Trước tiên ông rẽ vào nhà lão Trương. Bấy giờ lão Trương đang xem tivi.

- Ôi trời, tối tăm thế này, có việc gì mà ông phải lặn lội tới tận đây thế?

- Không, không có việc gì. Chẳng qua tiện đây thì ghé thăm bác thôi.

- Không có việc gì thật à? Thế mà tôi cứ nghĩ việc sửa nhà có gì đó không ổn - Lão Trương thở phào.

- Đúng vậy! Không có việc gì cả. Thôi, thấy bác thế là mừng rồi, tôi về đây.

Rời nhà lão Trương, người chăn vịt tìm đến nhà Tiểu Lý. Thoạt đầu, nghe người nhà bảo Tiểu Lý đang đi ngoài, người chăn vịt không khỏi giật mình lo lắng.

Một lát, Tiểu Lý xong việc trở vào. Vừa nhìn thấy ông chăn vịt, anh ta đã cất lời khen:

- Ông chủ xởi lởi quá! Hôm nay còn cho mổ vịt đãi bọn cháu một bữa thật... hoành tráng.

- Không! Không! Chẳng qua tại lão già này lẩm cẩm...

- Sao? Ông chủ tiếc của, thấy hối hận rồi à? Nhưng giờ thì tiếc cũng bằng thừa, chúng cháu chén sạch cả rồi.

- Thì tôi còn biết làm gì được nữa? Hỏi thật, anh không thấy "khó chịu" chút nào à?

Anh ta phá lên cười:

- Ông chủ hỏi mới thật ngộ. Bọn cháu thì khó chịu cái nỗi gì? Ông chủ đã không khó chịu thì thôi, chứ phận làm thuê như chúng cháu, được chủ nhà khoản đãi một bữa thịt vịt sao lại phải khó chịu? Nếu ngày nào ông chủ cũng đối đãi như vậy, chúng cháu lại chẳng béo quay ra ấy chứ.

Ông chăn vịt nghe vậy, thấy nỗi lo giảm đi đến bảy phần.

Tuy nhiên, ông cũng chưa thật yên tâm. Để cho chắc chắn, ông quyết đến thăm một nhà nữa, là nhà ông Năm Vương. Khi ông đến thì ông Năm Vương đã đi nằm. Nghe người nhà ông Năm Vương báo lại, người chăn vịt giật thột: "Chết thật! Sao lại đi ngủ sớm như vậy nhỉ?".

- Nghe nói hôm nay được chủ nhà cho ăn bữa tươi, lại có thêm chén rượu, nên... mặt trời mới lặn sớm thế - Người nhà ông Năm Vương giải thích.

- Trước khi đi nằm, ông ấy có nói... đau đớn, khó chịu gì không? - Người chăn vịt thăm dò.

- Không! Không thấy nói gì cả.

Người chăn vịt nghe vậy, vẫn cứ thắc thỏm. Vậy là, để chắc ăn, trong khi ông Năm Vương ngủ say như chết, ông đành xin phép người nhà ông Năm Vương... ngồi chờ.

Và đến sáng ngày, ông mới chắc chắn rằng, mối lo ấy của mình là... thừa

Người của phố

Thằng Toan xoa xoa bộ ngực phẳng lỳ bóng nhẫy mồ hôi dầu, ngửa cái cổ cũng tròn nhẵn không một đường gân, cùng với chiếc dây chuyền bạc xỉn màu như cái xích chó Nhật lắc lắc một cách sảng khoái như kẻ vừa được tận hưởng một niềm hạnh phúc vô bờ bến. Hắn toét cái miệng rộng cười giòn  giữa đám trẻ trai kin kin 15, 16 tuổi đang há hốc mồm như nuốt lấy từng lời của hắn. Té ra là hắn lại đang ba hoa về những ngày hắn ngồi tù, những ngày mà hắn cho là "sung sướng" nhất.

Có lẽ trên đời chỉ có hắn là người không sợ cuộc sống tù ngục. Hắn coi những ngày hắn bị bắt giam như một kỷ niệm đẹp mà hắn luôn đem ra khoe với lũ trẻ trong phố với một niềm thích thú, nhấm nháp như người ta ăn dè một món ăn ngon. Những chuyện trong tù của hắn là một thế giới đầy lạ lẫm, thú vị đối với  bọn trẻ: "Chúng tao ở trong tù vẫn đánh cờ, đánh phỏm suốt đêm". "Ơ, trong tù mà vẫn có bài, có bàn cờ à". "Làm gì có, quản giáo vớ được thì có mà ăn cùm. Chúng tao đánh bằng ám hiệu, theo tiếng gõ. Bao nhiêu tiếng gõ là ứng với số quân bài, tên quân gì thì ứng với tiếng thanh tiếng đục, tiếng bấc tiếng chì... Thằng nào thắng, ngày mai được xin phần thức ăn của thằng kia. Thằng nào gian lận thì cũng xin lãnh đủ".

"Anh Toan, anh có bị đánh không? Anh có làm đại ca không?". Thằng Toan lại thủng thẳng ngửa cái cổ nhẵn thín cười đầy bí hiểm để bọn trẻ phải chờ đợi đến sốt ruột: "Khi tao vừa bước vào, chưa kịp làm gì thì cả bọn trong đó đã cúi rạp: Xin chào đại ca, đại ca cần gì chúng em xin phục vụ. Thế là tao nghiễm nhiên trở thành đại ca không qua đào tạo của bọn chúng. Sau đó tao mới hiểu, té ra toàn bọn dặt dẹo, thấp bé nhẹ cân. Chúng cần tao để trị một thằng mặt gấu thâm sì vẫn hằm hằm ngồi ở góc phòng nhìn tao trừng trừng như sẵn sàng quyết đấu. Nói thật tao suýt đái ra quần. Nhưng tao nhìn người biết ta. Thế nên tội chó gì, tao liền tiến đến buông giọng hòa bình: Chào người anh em. ở ngoài thì đẳng cấp thế nào không biết, nhưng khi vào đây thì ma cũ vẫn hơn ma mới. Đây vẫn tôn đằng ấy làm sư huynh.

Mặt thằng cha ấy liền chõe ra. Đến lúc bắt tay, tao mới phát hiện ra hắn đang đái ra quần. Hề hề, về danh nghĩa hắn là đại ca nhưng chỉ hữu danh vô thực, tao vẫn được chính hắn phục vụ. Chung quy cũng chỉ vì cái tướng tao nó trường vốn". Rồi Toan tiếp tục rỉ rả những ký ức của mình trong những ngày được làm "đại ca trong tù". Tất nhiên đoạn này thì Toan bốc phét, chứ nếu cứ sung sướng thế, thì dân anh chị đã lũ lượt dắt nhau vào ở tù hết.

Thực ra Toan ngồi tù có được bao lâu, chỉ non một tháng hắn đã phải điệu ra kèm những lời trách mắng của mấy anh cảnh sát: "Tại sao anh lại làm rối hướng điều tra? Nếu còn tái diễn kiểu đó chúng tôi sẽ bắt truy tố anh thật sự". Hắn chẳng cãi lại, hắn chỉ thấy nhớ cái phòng trại giam và lũ đệ tử tội nghiệp, chẳng biết khi hắn đi khỏi, tụi nó có bị thằng mặt gấu ấy hành hạ không? Hắn ra trại mà dùng dằng buồn thiu, làm mấy anh cảnh sát cũng đâm ngờ vực, chẳng nhẽ nó thương ông anh rể vợ thật, bởi ông đã bị bắt. Sự thể là hôm ấy hắn đang ngồi chơi bên nhà người chị vợ, thì bỗng có người chạy vào báo: "Nhanh lên thoát ngay, có kẻ báo, công an sắp đến bắt đề nhà này". Thế là cả nhà đang say sưa với việc ghi ghi chép chép bỗng tán loạn.

Toan biết vợ chồng anh chị vợ hắn là một chủ đề lớn có tiếng ở thành phố. Toan hay đến đây để làm chân sai vặt cho vợ chồng anh chị. Sự việc quá gấp, ngưòi ta cứ cuống cả lên, chẳng biết chạy thứ gì. Người cất vào chỗ này thì người lại mang đi chỗ khác, cái két sắt đựng tiền cứ lôi hết ra bỏ chỗ này một ít, chỗ kia một ít, thấy không ổn lại vơ vào một đống, cứ loanh quanh, luẩn quẩn như đèn cù. Và một chiếc xe cảnh sát đã ập đến trước cửa. Toan nhanh chóng xô ông anh rể vợ vào nhà tiêu, rồi ôm cái hòm phiếu ghi đề bỏ chạy như cố tình để công an nhìn thấy. Tất nhiên sau những thủ tục cần thiết, người bị bắt quả tang chính là Toan với tang vật rành rành.

Tại trụ sở cơ quan điều tra, Toan khai là chủ đề, mượn nhà anh chị là chỗ rộng rãi để thu thập các chủ ghi đề nhỏ lẻ để chi trả tiền hoa hồng. Bà chị vợ lặng lẽ gửi tiếp tế qua người em gái là vợ Toan, kèm một lời nhắn: "Cứ chịu khó ở tù thay anh, khi nào ra chị sẽ trả công xứng đáng".

Vợ Toan không vui cũng chẳng buồn, vì Toan ở đâu mà chả được, miễn là có cái ăn. Mà ở trong tù Toan được ăn ngon hơn ở nhà. Bởi đang trong thời kỳ tạm giam, trại ở gần, ngày nào mà vợ Toan chẳng đem cơm do bà chị chuẩn bị vào cho Toan. Có hôm Toan còn nhận được cả một cái giò và một lon bia heniken chính hiệu. Chà bà chị vợ giỏi thật chứ vợ Toan làm sao biết được kiểu này. Toan ra tù hay ở tù thì cả phố cũng chẳng ai bàn tán, quan tâm, bởi cái thằng trời đánh không chết ấy thì có việc gì mà nó không làm được. Họ biết thừa thằng Toan chả bao giờ lại là một chủ đề. Hắn làm thế chỉ là để cứu ông anh rể vợ đang cần ở ngoài đời hơn hắn.

Toan bước chân ra khỏi trại giam còn ngần ngừ ngửa tay xin mấy anh cán bộ trại giam: "Cho em mấy đồng đi xe ôm về". Tưởng hắn đi xe ôm thật, ai ngờ hắn chạy ra ngoài phố mua lọ thuốc ghẻ, gửi cán bộ trại: "Cán bộ cho em gửi cho thằng Minh phòng em, nó đang bị ngứa ghê lắm". Toan về nhà, lại là cái thằng chuyên chầu rìa các chiếu bạc. Hắn vắng một thời gian, cũng làm cho khối tay cờ bạc đâm sa sút. Hắn mới chân ướt chân ráo về nhà đã có tay đứng chầu chực để rước đi: "Dạo này tao đen quá, sao ngồi lâu thế, thôi an dưỡng thế đủ rồi, về cứu nguy cho tao". Chung quy là thiếu thằng Toan ngồi bên, mất hên.

Toan đắt khách lắm, nhưng hắn chỉ nhận lời với những người mà hắn bảo là hợp vía thôi. Toan chưa bao giờ đánh bạc, dù hắn lê la các chiếu bạc từ năm 10 tuổi. Có hắn ngồi bên, thỉnh thoảng quân sư cho một vài nước, tay bạc thắng, thế là hôm đó Toan có rủng rỉnh chút tiền tùy theo tỷ lệ được thua của con bạc. Hôm nào thua, Toan tiu nghỉu vác cái bụng đói về lục cơm nguội vợ vẫn dành cho mèo. Tuy nhiên phần lớn là được, vì hắn vốn có duyên với thần cờ bạc, và nói đúng ra, hắn cũng có nghề do thâm niên ngồi chầu chiếu.

Ở cái phố nghèo của hắn dân tình đa phần là kém học. Trình độ lớp 7 như thằng Toan thì quá bình thường. Nhưng cái lạ là thằng Toan không bình thường như thanh niên trong phố. Hắn có một bản trích ngang thật "thú vị" cho những ai thích hài hước. Thực ra bố mẹ hắn cũng đã từng sinh sống ở phố này, họ là dân chở thuê, lúc đầu là xe ngựa, sau đến xe trâu, cuối cùng là xe đạp ba bánh. Kinh tế dần đi xuống theo tỉ lệ ra đi dần từng người thân trong gia đình hắn. Đầu tiên là bố mất vì tai nạn cứu chiếc xe ngựa trượt dốc, rồi mẹ mất vì một cơn cảm hàn trong lần gò lưng đạp xe trong mưa. Nhà Toan có ba chị em, hắn là giữa và cũng là đứa con trai duy nhất. Chả hiểu sao bố mẹ hắn lại lấy cái vần oan mà đặt cho cả ba chị em. Chị hắn là Thoan, em gái hắn là Hoan. Nhưng dẫu sao cái tên của họ cũng còn có lý hơn cái tên của hắn. Tại sao lại không thêm cho hắn một cái dấu nào đó cho tên hắn đỡ ương ương dở dở như cuộc đời hắn nhỉ.

Chuyện về thằng Toan bao giờ cũng là những câu chuyện cười về một Chí Phèo thời hiện đại. Có khối người còn bảo hắn chính là hậu duệ của một kẻ có tên là Sơn Tỷ từng tồn tại cách đây ba, bốn chục năm. Mà chả biết đâu được, có thể như thế lắm vì hắn quá giống với vị tiền bối của hắn bởi những hành động bất bình thường đến cười chảy cả nước mắt. Ví dụ như chuyện hắn đi làm thuê (trước khi lấy vợ, hắn là một thằng cù bơ cù bất chuyên đi làm những việc vặt người ta sai bảo). Bao giờ sau khi khuân hàng xong, hắn cũng xin lĩnh tiền luôn. Chủ thuê kỳ kèo muốn bớt đi vài đồng so với đã mặc cả, hắn lẳng lặng vác bao hàng trả về chỗ cũ, mặc cho chủ hàng van nài hứa trả đủ. Hoặc khi làm xong một việc gì đó, chủ bảo khất mai trả, hắn chẳng nói chẳng rằng, ngày mai đến ngồi lỳ cho đến khi nhận được tiền mới về chứ nhất định không chịu làm bất cứ việc gì nữa.

Nhưng thú vị nhất là chuyện hắn lấy vợ. Mà ai ngờ được cô vợ hắn lại là con gái một nhà nề nếp, dịu dàng và duyên dáng hẳn hoi. Thấy hắn dấm dúi cặp kè với cô bé, khối người đã gàn: "Thôi đừng đũa mốc lại chòi mâm son, nhà ông Bật khó tính lắm, rồi lại chuốc lấy cái thất tình cho khổ ra". Người nào thương thì khuyên vậy, người nào coi thường thì cười khẩy: "Tao đố mày lấy được con Bông, chúng tao cược một cái giường cưới, nếu không mày phải hầu hạ chúng tao trong một năm".

Thằng Toan chẳng cãi đi cãi lại, hắn cứ lầm lỳ, thỉnh thoảng còn tủm tỉm cười. Con bé Bông như ăn phải bùa yêu, đêm nào cũng trốn nhà ra ngồi với thằng Toan ở cái nhà bia trong khuôn viên đầu phố. Hôm thằng Toan ngỏ lời cầu hôn với con Bông, Bông chỉ khóc ròng, nó biết chắc chẳng bao giờ nhà nó đồng ý gả nó cho một thằng không cha không mẹ, không nghề nghiệp. Nhưng Bông thì thương Toan lắm, không hiểu nó nhìn thấy cái điểm sáng của thằng Toan vào lúc nào mà mê mệt mụ mị đến không còn nhìn thấy những thằng thanh niên khác trong phố con nhà khấm khá. Thế rồi chả biết sao, đến một hôm, thằng Toan bỗng tươm tất áo bỏ trong quần, trịnh trọng ôm một gói giấy màu hồng điều, tiến vào nhà ông Bật. Mấy người trong phố bấm nhau dõi theo. Và sự kiện đã được truyền miệng cho đến tận ngày nay.

Thì ra, thằng Toan đích thân đi hỏi vợ thật. Hắn ôm khư khư cái gói giấy trước bụng, đường hoàng bước vào nhà người sắp làm bố vợ hắn. Ông Bật đang khâu chăn trong nhà quay ra định quát đuổi thằng Toan hỗn xược, dám cả gan... nhưng thấy thái độ của thằng Toan hơi khác lạ nên ông đâm chột dạ, lững thững bước ra: "Mày đến có việc gì đấy Toan?". "Cháu đến xin cưới em Bông". "Mày đem cái gì đến thế" - Ông hất đầu nhìn cái gói giấy màu bọc rất đẹp đẽ. "Dạ là...là gói thuốc chuột ạ". " Hả..." - Ông Bật trợn tròn mắt, run lập cập. "Dạ thế này ạ, cháu mang gói thuốc chuột này là để cho cháu. Nếu bác đồng ý gả em Bông cho cháu thì cháu sẽ đem về, còn không... thì cháu sẽ uống luôn gói thuốc chuột này ngay tại đây, vì cháu không thể sống mà không có em Bông".

Chẳng biết sau đó ông Bật nói thế nào nhưng nghe đâu ông phải nằm viện mất mấy ngày vì bệnh huyết áp. Thằng Toan túc trực ngày đêm bên giường bệnh, lo đổ bô, lau rửa rồi dìu ông đi lại rất tận tình. Khi ông ra viện thì cũng là lúc nhà ông Bật rục rịch làm đám cưới. Chưa có một cái đám cưới nào trong phố mà người ta lại đi dự đông đủ đến thế. Song nào đã hết chuyện. Chả hiểu đêm tân hôn hôm đó thế nào mà sáng mai người ta lại trông thấy thằng Toan đánh trần nằm ở nhà bia đầu phố, trong giấc ngủ ngon lành.

Thằng Toan lấy vợ, người trong phố tưởng hắn sẽ đổi đời. Nhưng xem ra, cũng chẳng thấy gì hơn. Vợ Toan đúng là con nhà làm ăn, vừa về làm vợ được mấy ngày đã lo xoay sở tìm cách mở cái quán bán ăn sáng ngay trước cửa nhà. Toan có vợ nhưng vẫn không quen được cảnh giường chiếu ấm êm, nên thỉnh thoảng lại tuột xích trốn vợ ra nhà bia nằm cho thoáng. Hàng ngày hắn vẫn quen lang thang la cà khắp phố, hoặc chầu rìa các chiếu bạc, quán nước... Cũng có cái lạ là thằng Toan chưa bao giờ nhúng tay vào một ván bạc nào, mặc dù hắn luôn được chào mời hậu hĩnh.

Sau khi Toan lấy vợ, dân phố không dám gọi Toan  làm các việc vặt vì nể bố con ông Bật. Dẫu sao thì hắn cũng đã là một người đàn ông có gia đình tử tế, ai lại sai đi làm những việc của thằng cửu vạn cù bơ cù bất ngày xưa. Chính vì thế mà thằng Toan đâm thất nghiệp. Vợ hắn khuyên ở nhà phụ giúp bán hàng, hắn cũng nể vợ ở nhà nhưng bữa đực bữa cái. Vợ hắn cũng không phàn nàn vì hàng ngày, hễ làm được việc gì, có đồng tiền nào hắn đều đem về cho vợ hết. Thằng Toan vẫn có cái tật không chịu nhận bất cứ một vật gì của ai cho nếu không phải vì hắn đã làm cho họ cái gì. Thế nên hắn mới bị coi là thằng ương dở, và cái sự ương dở lên đến mức đậm đặc, nên người ta gọi quách hắn là Toan "ngộ". Bây giờ Toan "ngộ" đã trở thành "thương hiệu". Cứ nói đến con phố này là người ta lại nhắc đến Toan "ngộ".

Hôm đó, vào lúc trời nhá nhem tối, đường phố cũng thưa thớt hơn bởi đa phần người ta đều ngồi trước mâm cơm, hoặc trước cái màn hình ti vi xem chương trình thời sự. Đèn trong các nhà đều đã sáng trưng nhưng đèn đường thì luôn đỏ quạch. Bỗng phố xá giật mình bởi một tiếng thét xé trời của một phụ nữ và một tiếng rầm cũng xé toang mặt đường. Lại tai nạn, dân phố lẩm bẩm. Nhưng tiếng kêu của người phụ nữ khi đã nằm trên mặt đường là: "Cướp cướp...".

Chiếc xe máy nằm cách chiếc xe của người phụ nữ không xa cũng đã lăn vài vòng và chổng vó lên trời cùng với hai thân thể bất động nằm quăng quật như hai tấm giẻ rách bị vứt ra đường. Gì thế nhỉ, một vụ cướp hay một vụ tai nạn giao thông?. Khi cảnh sát giao thông xuất hiện thì sự việc mới được rõ qua lời khai của chị phụ nữ. Chị kể: Chị đang đi thì bị một thằng thanh niên đi xe máy áp sát và giật chiếc túi xách chị vẫn khoác trên vai, làm chị bị ngã. Nó vọt đi được một đoạn thì chị thấy nó đâm vào một ai đó và cả hai cùng nằm lăn ra đường. Mọi việc được công an giải quyết nhanh gọn. Chiếc túi xách được công an trao trả cho người bị hại, còn hai người đàn ông bị thương được đưa đi cấp cứu. Lúc này dân phố mới có người ngờ ngợ, hình như một trong hai người đàn ông nằm bệt trên đường là thằng Toan "ngộ". Người ta giật mình hò nhau kéo lên bệnh viện xem sao, thì... ôi thôi, đúng rồi! Chính là thằng Toan, bà già bán quán nước đã theo chân chiếc xe chở thằng Toan đi bệnh viện là nhân chứng duy nhất thấy thằng Toan bỗng từ trong quán lao vọt ra đâm sầm vào chiếc xe máy đang phóng như điên trên đường sau tiếng thét thất thanh của người phụ nữ. Toan ngã sõng soài và bất động luôn từ đó.

Bà già mếu máo khi dân phố kéo đến: "Thằng Toan nguy lắm, bác sĩ bảo nó bị cả chiếc xe lao qua người. Thằng kẻ cướp cũng nằm trong khoa cấp cứu, nhưng nhẹ hơn vì hắn ngã văng ra và may có đội mũ bảo hiểm, nên chỉ bị chấn thương tay chân thôi".

Vợ Toan đang ở cữ, bỏ mặc con ở nhà, thỗn thện cặp vú căng sữa chạy như ma đuổi đến bệnh viện. Như linh tính điều gì, cô chỉ kịp đổ sụp xuống trong tay mấy bà hàng xóm như một tàu rau héo. Một cuộc quyên góp lặng lẽ của hầu hết người dân trong phố, được một người có uy tín mang đến cho ông trưởng khoa của bệnh viện với một lời khẩn cầu: "Hãy cứu lấy thằng Toan". Nhưng vị bác sĩ trưởng khoa chỉ biết lắc đầu. Vết thương của Toan quá nặng.

Đám tang thằng Toan "ngộ" đông hơn hẳn mọi đám trong phố. Hôm đó hình như các sòng bạc cũng gác chiếu, vắng hoe. Đám trẻ đi học về buồn tiu nghỉu, rủ nhau mua nén hương đến viếng chú Toan "ngộ". Suốt mấy hôm tang tóc, cả phố như ngơ ngẩn, hàng quán cũng thưa thớt. Người ta cứ ngỡ ngàng, chẳng nhẽ thằng Toan "ngộ", cái thằng trời đánh không chết ấy lại đã ra đi thật.

Rồi mọi việc cũng đã qua đi. Mộ thằng Toan hoa đã héo khô, dân phố lại lao vào lo làm ăn buôn bán, bên mộ Toan bây giờ chỉ còn cô vợ  bế đứa con gái nằm ngửa khóc hờ trong bóng chiều chạng vạng. Các quán nước thiếu vắng thằng Toan cũng buồn, nhưng vẫn đông những đệ tử của lưu linh trà lá. Trong câu chuyện con cà con kê hàng ngày, người ta lại nhắc đến thằng Toan "ngộ". Bỗng có người sực nhớ hỏi: "Này có ai biết cái chị phụ nữ bị cướp ấy ở đâu không nhỉ, sao không thấy mặt hồi nào

Lão Sìn và khỉ con

Một buổi sáng lão Sìn mang khỉ con vào rừng, đuổi nó lên cây nhưng nó không đi, cứ bám chặt cổ lão. Lão đành mang về. "Trời sinh voi, trời sinh cỏ". Thực phẩm, hoa trái mỗi phiên chợ kiếm được dư thừa. Khỉ con dễ sai như đứa trẻ ngoan: Kiếm củi thổi lửa, dọn thức ăn, nhảy nhót như đang sống với bầy đàn. Thỉnh thoảng nó còn gãi lưng cho lão.

Nắng nhạt dần sau rặng núi. Lão chưa kiếm được thứ gì cho tối nay, cho ngày mai. Những bước chân lò dò, mắt ngơ ngác dán vào các xó lều, gốc cây tìm kiếm vô vọng. Chợt lão nhớ ra khu đỗ xe. Ở đó người ta hay vứt nhiều thứ tồn thừa trước khi lên xe hơn chỗ bán hàng.

Lão căng mắt tìm kiếm. Có tiếng "èn ẹt" lạ tai? Tiếng gì ở đâu đây? Bản năng săn tìm của thính giác, khứu giác, thị giác được phát huy tối đa. Lão nín thở tiến dần tới chỗ có tiếng rên, hy vọng vớ được con gà nhíp què hay con vịt còn lông tơ ngắc ngoải người ta vứt đi. Lão chợt nhận ra chiếc lồng. Một chiếc lồng tre xấu xí bẹp rúm. Lão mừng nhấc lên, chợt sững sờ bởi hai con mắt tròn to nhìn lão trừng trừng. Lão chưa kịp nhận ra con gì đã vứt đi ngay. Lão thường dị ứng về những con mắt nhìn mình. Đôi mắt kia đã làm lão sợ, bỏ đi một đoạn rồi tự nhận ra điều vô lý: Sợ cái gì? Một con gì sắp chết chứ đâu phải người đời nhìn khinh bỉ, thương hại đuổi đi.

Lão quyết định quay lại xem con gì? Làm sao phải sợ? Lão nhặt chiếc lồng lên nhìn sát vào nan tre. Một bào thai? Không! Một con chó? Con mèo? Không! Mãi sau lão mới nhận ra đó là con khỉ con gầy đét nằm dính sát đáy lồng. Chắc nó sắp chết. Nó động đậy cái chân, ngoe nguẩy cái đuôi, mắt nhoè ướt chớp chớp thầm cầu xin người cứu giúp. Nếu không, chỉ đêm nay nó sẽ chết đói vì mấy ngày không có sữa mẹ, hoa trái ăn.

Mẹ nó bị tên thợ săn bắn chết, bắt nó nhốt lồng. Nhớ mẹ, nó gầy yếu run rẩy không còn sức. Hôm nay tên thợ săn mang nó ra chợ, hy vọng kiếm thêm đồng nào hay đồng ấy, nhưng không ai mua. Nhìn nó sắp tắt thở, tên thợ săn vứt ra bãi cho nhẹ gánh rồi bỏ ra về.    

Nó nằm đây, may chết còn toàn thây chứ mẹ nó chết không có xác. Mới cách đây mấy ngày: Trên cành cây cao không lá, mẹ con đang ngồi phơi nắng. Nó rúc vú mẹ. Một mũi tên găm "phập" sau lưng, khỉ mẹ rùng mình loạng choạng giữ con bám chặt cành. Máu chảy nhuộm màu lông vàng tía, nhỏ giọt xuống lá rừng tí tách. Khỉ mẹ dồn hơi sức cuối cùng tìm cho con một chỗ nương thân, nước mắt nhỏ theo giọt máu. Nén đau cố ôm chặt con trong lòng, tay chuyền cành xuống thấp tìm hết gốc cây này đến gốc cây khác đặt con, hy vọng bầy đàn tìm đến mang đi...

Lão Sìn khác với tên thợ săn. Lão nhận ra khỉ con thoi thóp, thương cảm quên cả đói, vội bẻ lồng tre đưa bàn tay nhẹ nhàng nâng khỉ con ra khỏi lồng, áp vào bụng đi thẳng về nhà.

Lão Sìn ở một mình dưới chân núi Văn. Trong ngôi nhà lá, vách đất lụp xụp chỉ có một cửa ra vào che bởi tấm liếp đan bằng nứa. Một cái giường tre mọt kêu cọt kẹt suốt ngày, mấy cái nồi con méo mó bên cạnh sáu viên gạch kê làm bếp.

Lão mang hộp sữa rỉ vàng hết vỏ để dành từ lâu ra đút cho khỉ con: "Ăn đi, ăn đi!". Khỉ con ngửi thấy mùi sữa mút móp má như một đứa trẻ ôm bầu sữa mẹ. Lão hỉ hả: "Ăn đi, ăn đi". Hôm nay lão thay đổi tính, lẩm bẩm nói nhiều, không biết với mình hay với khỉ con niềm vui sướng? Vì lâu quá lão không được nói,  không ai nói với lão.

Cho khỉ ăn xong, lão Sìn cởi cái áo ngoài rách bả vai trải trên giường, đặt khỉ con nằm, thủ thỉ: "Mày phải sống, khỏe tao thả về rừng". Lão hỉ hả đưa tay xoa mặt, xoa mấy dẻ xương sườn nổi cộm trước ngực. Một cảm giác man mát làn da nhăn nheo trên bụng.        

Khỉ con được cứu sống, khôn lớn thông minh nhanh nhẹn. Một buổi sáng lão Sìn mang khỉ con vào rừng, đuổi nó lên cây nhưng nó không đi, cứ bám chặt cổ lão. Lão đành mang về. "Trời sinh voi, trời sinh cỏ". Thực phẩm, hoa trái mỗi phiên chợ kiếm được dư thừa. Khỉ con dễ sai như đứa trẻ ngoan: Kiếm củi thổi lửa, dọn thức ăn, nhảy nhót như đang sống với bầy đàn. Thỉnh thoảng nó còn gãi lưng cho lão.

May trời phú cho lão không ốm nên mới sống đến ngày nay. Nếu lão ốm chắc chỉ nằm chờ chết, bởi xung quanh lão không có ai... Những người lão gặp không ai để ý đến lão, hỏi lão một câu. Lão thích được nói nhưng không ai nghe thì nói với ai? Đành lủi thủi một mình...

Từ ngày có khỉ con, lão Sìn thay đổi lối sống, thường sai khiến khỉ con bằng những ngôn ngữ chỉ có lão biết. Còn khỉ con hiểu lão qua thái độ buồn vui, trên nét mặt hay động tác giơ chân múa tay nhăn nhở giống khỉ hơn giống những người xung quanh. Lão làm như vậy vui hơn, thích hơn. Lại muốn sống, muốn làm một cái gì đó, nhưng không biết bắt đầu từ đâu? Làm gì? Mà hoàn cảnh trình độ của lão thì làm được gì? Thì lão cứ nghĩ vậy, muốn vậy.

Rồi một hôm thầy trò khỉ con đang lang thang kiếm ăn bên gốc cây sung, một đoàn học sinh đi tới. Chúng thấy khỉ con đang hái quả ném cho lão già khèo liền xúm lại trêu. Khỉ con trêu lại, ném bùm bụp quả sung xuống tốp học sinh. Chúng cười. Khỉ con cũng nhe răng cười ngặt nghẹo. Chúng giơ chân múa tay. Khỉ con làm hay hơn chúng. Đoàn học sinh tranh nhau đùa trêu. Đứa cho tờ giấy, đứa đưa quyển sách, cây bút bảo vẽ, nó làm theo ngộ nghĩnh. Tiếng cười, tiếng nói, tiếng vỗ tay vui như xem xiếc. Trước khi chia tay, thầy giáo cho khỉ tiền. Các em vui vẻ làm theo như đền đáp buổi vui chơi thú vị. 

Sau buổi gặp đoàn học sinh, lão Sìn có bao nhiêu thứ mà lão chưa bao giờ có, dù chẳng để làm gì? Nhưng tiền thì tiêu được, cả đời lão mơ có tiền. Muốn có lão phải xin, nhưng lão có chịu xin ai bao giờ? Lão dẫn khỉ con đi kiếm ăn qua những đám đông hay gặp những người hiếu kỳ. Khỉ con đều được cho tiền, cho hoa trái thơm ngon, không thiu thối như lão đi bới, đi nhặt. Lão nhận ra những con người bao lâu lão chạy trốn, họ không thù oán, ghét lão. Mà chính lão không giúp gì được họ. Giá như lão làm trò như khỉ mua vui, chắc họ cũng không nhìn lão như lão nhìn họ. Bây giờ nhờ khỉ con mà lão không sợ những con mắt người đời xung quanh.

Lão đổi đời. Không đi tìm bới thức ăn ở xó chợ chiều chân núi Văn.

Tiếng đồn lão già khèo và con khỉ thông minh đến tai lão Voòng, chủ nhà hàng Đặc sản du lịch Rừng ở thị trấn Cổng Trời. Một hôm lão Voòng cho tay chân gọi lão Sìn mang khỉ con đến biểu diễn tại nhà hàng cho lão xem.

Lão Voòng đứng giữa sân, hai tay chắp sau lưng, bệ vệ trong bộ đồ chàm dân tộc, miệng ngậm chiếc tẩu ngà voi vàng óng, thỉnh thoảng nhả làn khói xanh mờ thơm ngai ngái. Lão liên tục gật gù giữa đám đàn em túc trực hai tay xoa vào nhau xu nịnh.

Khỉ con đâu có biết làm xiếc. Nó chỉ làm theo con người. Ai làm sao nó làm vậy, nhưng khéo hơn, mềm dẻo hơn. Người ta cười nó cười, khóc nó khóc, nhảy múa nó nhảy múa đủ trò. Giống khỉ là vậy. Bắt chước, thông minh nhanh nhẹn hơn loài thú khác là bản chất của tổ tiên truyền cho nó từ khi mới ra đời

Giấc mộng đại gia

ngày hắn mở được cái hiệu ảnh ở nơi phố núi này, hắn vênh mặt lên, chả coi vợ con ra gì...

Nhớ lại cái thời hắn mới tập tễnh từ vùng quê hẻo lánh bước chân ra "thành phố" - Hắn thích gọi thế cho oai, chứ thực ra đó chỉ là một phố huyện miền núi, lèo tèo mấy trăm hộ, cuộc sống của gia đình hắn với gần chục miệng ăn, chỉ trông vỏn vẹn vào nửa nồi chè, vài vạt sắn với mấy vuông ruộng bậc thang - tài sản mà khi cha hắn chết đi để lại. Thành thử mẹ hắn phải tần tảo sớm hôm, đắp đổi qua ngày nuôi năm anh em hắn. Bà đặt niềm tin vào thằng con trai duy nhất của bà, là hắn - thằng Xình của bà. Bà hy vọng, nhờ nó mà rồi đây bà sẽ được nở mặt nở mày.

Của đáng tội, hắn là thằng sáng dạ, lại chăm chỉ học hành và ôm ấp hoài bão lớn. Hắn tự nhủ: "Bằng mọi giá phải trở thành đại gia, ông chủ…". Thế là năm tròn 20 tuổi, vừa tốt nghiệp phổ thông, trượt đại học, hắn khăn gói quả mướp rời làng quê ra phố huyện. Nhờ một gia đình anh em bên ngoại giới thiệu, hắn nhận được cái chân bốc vác tại một cửa hàng vật liệu xây dựng. Nhờ cái "mác" nhà quê chân chất, nhanh nhẹn, khéo léo trong giao tiếp với khách hàng nên chẳng mấy chốc gia chủ đã "chuyển ngạch" cho hắn làm công tác quản lý, phụ trách toàn bộ khâu nhập và xuất hàng. Khách hàng đố ai biết hắn là người làm thuê. Còn một cái "nhờ" nữa, ấy là cái mác "dẻo mỏ", chả thế mà mới chỉ mấy năm làm công dân tạm trú nơi phố huyện mà thằng bạn thân của hắn ớ người ra khi hắn ngang nhiên nẫng tay trên người yêu của mình rồi cưới làm vợ. Vợ hắn tuy không đẹp tới mức "nghiêng nước nghiêng thành" nhưng là người thông minh, giảo hoạt, luôn chăm lo, vun vén cho gia đình chồng. Trời sẽ rất có mắt với vợ hắn nếu như vợ chồng cứ êm đềm, hạnh phúc như lúc ban đầu.

Mấy nhà tử vi miền sơn cước đều sai bét khi phán rằng hắn có số "quý nhân phù trợ". Thực ra, nào phải quý nhân quý ngãi gì đâu. Nhờ cái tài uốn cong ba tấc lưỡi mà hắn gửi gắm được cuộc đời vào nơi gia thế, để bỗng trở thành "thị dân" chính hiệu và ông chủ hiệu ảnh "Tầm Xinh" nổi tiếng nơi phố huyện. Hắn đắc ý với tên gọi này. Bởi đấy là tên gọi lấy tên ghép của vợ chồng hắn từ Xình Tâm thành "Tầm Xinh". Nhiều lúc hắn đắc chí cười thầm cho cái sự đổi đời mau lẹ của mình. Từ một đứa làm thuê, bỗng nhảy tót lên thành ông chủ. Đâu phải có vậy!

Chỉ chưa đầy một năm sau khi cưới vợ, hắn đã rinh được cả mẹ và bầy em ra phố. Hiểu nguyện vọng của chồng, vợ hắn chạy vạy, vay mượn để giúp hắn mở cửa hiệu. Thậm chí chị còn kêu gọi nguồn vốn từ các dì, các cậu để hắn thực hiện ước mơ của mình. Của cải, vốn liếng tích cóp bao năm (kể cả thế chấp nhà cửa để vay ngân hàng) đã giúp hắn thực hiện được hết ý tưởng này tới ý tưởng khác. Hết mở rộng hiệu ảnh, cộng thêm kinh doanh điện thoại di động, sửa chữa tivi, máy tính, tới mở thêm cơ sở kinh doanh vật liệu xây dựng. Không dừng ở đó, hắn huênh hoang quảng cáo rùm beng cho việc thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn tầm cỡ "quốc gia", sẽ thu hút hàng trăm nhân viên phục vụ, khiến bao người chạy điên chạy đáo, hầu mong tiếp cận được hắn - "Vị cứu tinh" giúp con em họ thoát khỏi nỗi vất vả nơi ruộng đồng, nương rẫy.

Nằm trên chiếc giường môđéc còn thơm mùi gỗ, hắn trằn trọc mãi mà không ngủ được. Mảnh trăng cuối tuần treo lơ lửng ngoài khung cửa sổ. Hắn trằn trọc với bao nhiêu viễn cảnh. Rồi đây, số nhân viên sẽ lên tới cả trăm và còn hơn thế nữa. Khi đã trở thành "ông chủ lớn", cố nhiên hắn không thể sống đơn giản, đặc sệt quê mùa như hiện nay. Vậy, ngay từ bây giờ phải tập, phải học làm "ông chủ lớn": Từ điệu bộ, đi đứng, nói năng, tới quan hệ, tiếp xúc… Điều đầu tiên hắn nghĩ tới là phải sớm sánh kịp với bậc "đàn anh" trong vùng về cái khoản ăn chơi, tiêu xài. Hắn đắc ý với một câu tuyên bố xanh rờn của một dân "anh chị" nổi tiếng trong tỉnh rằng: "Biết kiếm tiền thì phải biết tiêu tiền, biết ăn chơi, biết trải mùi đời. Đã là ông chủ thì phải vậy. Nếu không thì chỉ là một lũ "khổ chủ" không hơn không kém…".

Nghe tụi bạn nhỏ to rằng quán "Hương đồng" là "xứ sở", là "vương quốc" của các em chân dài, một đêm nọ hắn tìm đến quán, chọn một góc mờ ảo nhất để dễ bề "thưởng ngoạn mỹ nhân" và tự nhủ "bằng mọi giá phải "sở hữu" được mấy em để lũ bạn phải mở mắt ra, không thể coi thường. Có tiền mua tiên cũng được. Mà tiền thì đang cộm trong túi hắn thì chuyện đó "nhỏ như con thỏ". Đó cũng là lời một "đại gia" phán trong một tiệc nhậu nào đó. Hắn mơ màng chìm đắm vào "giấc mộng đại gia".

- Này anh! Giận người yêu hay sao mà đơn côi vậy? Dùng gì để em được vinh hạnh tiếp ông anh.

- E… hèm… Cho mấy chai ken và bao ba số.

Đó là buổi đầu hắn tập tễnh, mon men trước ngưỡng cửa của chốn giang hồ.

Hắn chỉ có hai mụn con gái, mà theo hắn thì nhất thiết phải có con trai để "nối dõi tông đường". Khát vọng ấy mới bốc lên thời gian gần đây, từ khi hắn năng về quê ăn giỗ và dự lễ cưới. Lũ bố láo (lời của hắn chỉ mấy đứa bạn thân) nói rằng hắn không được phép ngồi "chiếu trên" để khỏi ảnh hưởng tới "gia phong" làng Gò. Chưa hết, có đứa còn vểnh mặt lên, khiêu khích:  "Giàu mà làm gì hả mày? Rồi cũng chỉ là để "xây nhà tình nghĩa" thôi em ạ"… Những lời khiêu khích đó có khác nào những lưỡi dao sắc lạnh cứa vào tim hắn.

Cái thú tụ tập, nhậu nhẹt, gái mú đã trở thành một phần không thể thiếu trong sinh hoạt của hắn. Hắn lăn vào các cuộc chơi vô độ, chẳng cần biết đến người mẹ già đang ốm liệt giường ở nhà, chẳng cần biết cái cửa hàng từng mang cho hắn cuộc sống ngày hôm nay đang trên đà phá sản. Cũng chẳng cần biết vợ và con hắn đang vật lộn để vực cái cửa hàng đó ra sao. Mặc và phó mặc tất tần tật. Hắn chỉ lao vào các cuộc ăn chơi sa đọa, trác táng. Hết tiền lại ghé qua cửa hàng rút két, rồi lại đi tiếp. Rõ là "sống chết mặc bay".

Các con hắn yêu thương hắn lắm. Chúng luôn tự hào về người cha của mình. Đó là lẽ đương nhiên rồi! Hắn thành đạt đến thế cơ mà? Ấy thế mà hắn luôn nhìn những đứa con yêu của hắn với con mắt coi thường, hằn học, mỉa mai "một lũ vịt trời vô tích sự".

Sự tham lam luôn ngự trị trong con người hắn, chẳng bỏ qua một cơ hội nào. "Gà què bới quẩn cối xay", hắn dở chứng lao vào cuộc tình vụng trộm với chính ả giúp việc trong gia đình hắn, tuổi chỉ bằng đứa con gái lớn của hắn. Thật ghê tởm, bỉ ổi. Hắn làm tình với ả ngay trong ngôi nhà của mình, nơi có người mẹ luôn vỗ ngực tự hào về đứa con "danh giá".

Mùa hè năm đó trời nóng lắm. Nóng và khát, và thế là vào một đêm, khi xuống bếp lấy nước uống, vợ hắn đã bắt quả tang hắn và tình nhân đang say sưa mưa gió trong chính căn bếp của nhà mình. Đó là đêm định mệnh của hắn. Cả nhà hắn đã phải chứng kiến sự sa đọa của hắn, kẻ phản bội lại niềm tin và hy vọng của mọi người!...

Làm ăn thua lỗ, vợ con hắn phải bán hết tài sản để trả nợ. Họ kiếm một ngôi nhà nhỏ nằm sâu trong hẻm phố lấy chỗ nương thân. Hắn đã bỏ mặc vợ con rồi thu vén đem theo hầu hết số tiền cả nhà dành dụm được để đi theo một con bồ khác cũng chẳng hơn tuổi con gái hắn mấy tí. Hắn có với ả một mụn con trai nhưng nghe đâu đó là con của tay bồ cũ. Hắn chửi bới, căm thù dư luận và khẳng định đó là con của hắn. Hắn mua một căn nhà và chu cấp đầy đủ cho mẹ con nó. Hắn công khai ra mặt khinh bỉ vợ con. Hắn vỗ ngực tự hào vì đứa con trai ngoài giá thú đó… Trời quả báo! Khi đã hết tiền, cô bồ quay lưng lại với hắn. Ả xua đuổi hắn như đuổi một con chó ghẻ. Nhiều lần, ả tuyên bố thẳng thừng: "Này, tôi nói cho mà biết, từ giờ, đừng có vác mặt đến đây quấy rầy tôi nữa, thằng Xớn không phải con ông đâu!". Uất quá, hắn quyết định mang thằng con quý tử đó đi thử gien và ngầm thề sẽ đem kết quả xét nghiệm nhét vào miệng lũ rỗi hơi, nhất là với cái con bồ tráo trở…

Hắn khuỵu xuống, suy sụp hoàn toàn. Hắn không ngờ cùng một lúc hắn nhận được hai tin dữ, đó là thằng Xớn chẳng mang dòng máu của hắn và hắn đã bị nhiễm căn bệnh thế kỷ!

Mưa rơi lạnh lẽo, gió rít lên từng cơn ai oán, tấm nilon rách che tạm ngoài cửa sổ bật lên phừn phựt. Nằm bơ vơ trong căn nhà trọ ẩm ướt chờ ngày tận thế, hắn đau đớn vật vã. Người hắn nhơ nhớp bụi đời. Không một ai và chẳng có nơi nào để hắn dung thân nữa, chẳng thấy đứa bạn thân cùng thời "nổi tiếng" ngày nào của hắn đến viếng thăm. Hắn khắc khoải trên giường bệnh. Hắn chợt nhớ đến mẹ hắn. Mẹ hắn đã ra đi hơn hai năm rồi… Khi ấy có người họ hàng hối hả tìm đến hắn, nước mắt ngân ngấn: "Chú cố thu xếp mà về gặp mẹ một lần, bà đang hấp hối, rất mong gặp chú lần cuối", "ôi dào chỉ vẽ chuyện" - Hắn chép miệng.

Lần ấy hắn không về và chỉ đến khi mẹ hắn đã mồ yên mả đẹp hắn mới thất thểu về thắp cho mẹ nén nhang. Ân hận chất chồng ân hận! Họ hàng, người thân khinh bỉ không thèm nhìn mặt hắn. Hắn nghĩ đến vợ và con… nghĩ lại cái buổi đầu êm ấm hạnh phúc… và những đứa con gái yêu quý của hắn, những đứa con một thời coi cha chúng là tuyệt vời nhất ấy nay cũng quay lưng lại với hắn, bởi tất cả, tất cả những gì hắn đã gây ra. Nghĩ lại cái thời hắn đang tâm cướp hết vốn liếng của anh em họ hàng, dồn nợ nần lên đầu người vợ đáng thương,  người hắn run bần bật. "Ôi! Hắn chẳng còn mặt mũi nào mà vác mặt đi tìm họ để mà nhờ cậy". "Khát, khát" - ruột gan hắn cồn cào, miệng hắn khô khốc. Hắn thèm ai đó bưng cho hắn một ngụm nước…, và thèm…, mồ hôi hắn vã ra lạnh toát.

Hắn lật người, úp mặt xuống gối. Hai hàng nước mắt tuôn ra thấm ướt mặt gối mốc meo hôi xì. Hắn cố kìm nén để tiếng nấc khỏi bật ra… và… hắn biết đã quá muộn để có thể làm lại từ đầu

Thuê bao chết

Trần An chết. Cái tin thật quá bất ngờ với bạn bè và đồng nghiệp, đặc biệt là với Trần Hùng - cậu em kế của hắn. Theo lời bà lão hàng xóm kể thì hắn ra đi nhẹ nhàng, thanh thản. Người ta thông báo ngay cho một vài người bạn và người thân của hắn, đám ma được cử hành ngay ngày hôm sau, tất cả được diễn ra nhanh chóng.

Ngày hôm đó bầu trời xám xịt, đúng khi hạ quan tài xuống thì trời lất phất mưa. Mưa không đủ to để làm ướt áo hay làm hỏng những mái đầu vuốt gel bóng lộn của đám người đứng lố nhố quanh miệng huyệt, nhưng cũng khiến họ cảm thấy khó chịu.

Muỗi hàng đàn thi nhau bay ra từ những ngôi mả chưa xây, tiếng vo ve đến là khó chịu. Từng đàn bâu quanh những đôi chân trần, bắp tay của những con người khốn khổ ấy mà chích hút không thương tiếc, chúng cứ như bầy quỷ đói từ địa ngục bay lên.

Cả đám người vặn vẹo, oằn oại vì ngứa mà tuyệt nhiên không ai dám kêu ca, họ phải gồng mình lên nén sự tức giận để chìm vào phút mặc niệm cuối cùng dành tưởng nhớ người chết. Riêng Trần Hùng thì khác, hắn ngứa quá, ngứa phát điên

Vẻ bực bội phát ra cả bên ngoài, mặt hắn méo mó đến tội nghiệp, có lúc ngứa quá hắn dùng mũi giày cào cào dưới mắt cá chân, cảm giác thật dễ chịu, thỉnh thoảng hắn lại liếc nhìn xung quanh xem có ai để ý đến hành động ấy không, nhưng mọi người đang chìm sâu vào dòng hồi tưởng bất tận về ông anh quá cố của hắn.

Trần Hùng cười, hàng ria mép mảnh mai rung lên khe khẽ, tay hắn nâng cao hơn ảnh của người anh lên và trong một giây ngắn hắn cúi xuống nói thật khẽ như để cho Trần An nghe: "Bố khỉ, rặt một lũ giả tạo".

Khi chiếc quan tài được chạm đáy huyệt, tạo một âm thanh khô khốc thì đám phu đào huyệt rút nhanh những đoạn dây thừng lên. Đám người đứng xung quanh miệng huyệt mỗi người nhúm một nắm đất vứt xuống huyệt, những nắm đất vứt xuống chạm thành áo quan nghe "cộc…cộc…".

Sau khi mọi thủ tục hoàn tất thì đám phu xúm lại xúc từng xẻng đất to hất xuống huyệt, cái huyệt cứ đầy dần lên, khi cái mộ đã thành một mô đất nổi hẳn lên thì mọi người xúm lại khiêng những vòng hoa trắng phủ lên trên. Trần An chưa có gia đình, đương nhiên sau khi chết người ta phải cho hắn những vòng hoa trắng để chứng nhận cho sự trong sạch của hắn khi từ giã cõi đời.

Trần Hùng cười thầm, riêng hắn chỉ muốn tìm một bông hồng đỏ cắm trên mộ của ông anh như một cách trêu ngươi và tuyên bố cho thiên hạ biết cái gã đàn ông hơn 30 tuổi đang nằm dưới kia chắc cũng chẳng vui sướng gì khi bị thiên hạ gắn cho cái biển "tiết liệt".

Thằng đàn ông sống hơn 30 năm trên cuộc đời này mà chưa có gì thì có mà "tẩm" à! Công việc đã xong, mọi người đến bắt tay chia buồn với gia chủ với dáng vẻ bùi ngùi cảm thông để rồi sau đó họ rảo bước nhanh lên đường với vẻ mặt nhẹ nhõm như thể người ta vừa giải quyết xong một gánh nặng...

Sau đám tang, Trần Hùng chuyển về căn hộ trung cư cao cấp của ông anh để lại cùng một dạng ký sinh khác nữa - cô nhân tình bé nhỏ của hắn. Họ sống trong sự thoải mái của tiện nghi và sự thỏa mãn xác thịt, thiên đường 60m2 ấy được đảm bảo bằng hai tài khoản ngân hàng quốc tế của người quá cố, khoản tiền đủ cho hai kẻ yêu nhau sống vô lo trong vài năm tới.

Đôi lúc ngắm nhìn ngôi nhà, Trần Hùng thấy thật thỏa mãn, sự ra đi của ông anh thế mà được việc! Hắn chợt nghĩ lại quãng thời gian ở nhà trọ mà thấy rùng mình. Hắn lẩm nhẩm: "Mẹ khỉ, sao mình không biết cuộc sống còn có thể sướng như thế này nhỉ?".

*

Hoài Lan gọi điện thoại cho Trần An. Cả tuần nay cô giận Trần An nên không thèm liên lạc với hắn, tự dưng thấy bồn chồn lạ nên cô cầm máy gọi cho người tình. Đầu dây bên kia vang lên tiếng chuông chờ "Tít….Tít…..", Trần An có thói xấu là không bao giờ hắn bắt máy ngay khi người ta gọi đến.

Cô kiên nhẫn đợi. Mãi cho đến khi những tiếng tít kia tắt hẳn và máy báo không thực hiện được cuộc gọi thì cô thẫn thờ buông máy xuống. Nằm ngả xuống giường, cô mông lung nghĩ không biết tại sao Trần An lại không nghe máy, hay là anh ta đang giận?

Cô bật dậy vớ lấy chiếc điện thoại và dò tìm tên anh trong danh mục các cuộc gọi gần đây và lại bấm phím gọi. Đầu dây bên kia lại vang lên những âm thanh rời rạc. Hoài Lan chăm chú lắng nghe, miệng lẩm nhẩm "Nghe máy đi! Em xin anh đấy …".

Tiếng tút kết thúc, cô tưởng không gọi được lại chán nản đặt máy xuống bàn, màn hình báo máy bên kia đã mở được 25 giây, cô vồ lấy máy, nói vồn vã: "Anh à, em đây, sao nãy giờ anh không nghe máy?".

Đầu dây bên kia không có tiếng trả lời. Cô nỉ non: "Anh giận à? Em biết lỗi rồi mà, đừng giận nữa nghe cưng, cưng nói gì với em đi", nhưng đáp lại đầu dây bên kia vẫn tiếp tục im lặng. Hoài Lan đưa máy lên miệng hét to: "Alô! Alô!" nhưng đầu dây bên kia vẫn im lìm.

Cô bực bội nhấn phím kết thúc. Vứt mạnh cái máy xuống giường, cô cáu kỉnh: "Điên! Đồ kiêu ngạo". Cơn giận trong Hoài Lan bốc lên ngùn ngụt khiến cô thấy bức bối quá, cô dắt xe ra khỏi nhà đi kiếm mấy đứa bạn dạo Club cho hạ hỏa.

Lâm Anh vừa đi công tác về, sau chuyến đi này hắn thấy rất hài lòng, đối tác lần này thật là ranh ma, không, phải nói là một lão cáo già. Nhờ sự mách nước của Trần An nên Lâm Anh đã đi trước lão ta một bước khiến lão tâm phục khẩu phục mà ký vào bản hợp đồng.

Sau cái hợp đồng vài triệu đô này hắn sẽ đủ tiền mở một chi nhánh nữa trong Quy Nhơn, công của Trần An quả không nhỏ. Lâm Anh bất chợt nhớ đến khoản hoa hồng hắn hứa chia cho gã sau vụ này, hắn bấm máy gọi cho Trần An.

Đầu dây bên kia vang lên những tiếng tít và sau đấy là có tín hiệu bắt máy, Lâm Anh tuôn một  tràng: "Ông tài thật, thằng cha nó phục sát đất, vụ này tôi sẽ hậu tạ ông xứng đáng, theo quy định trước đây 70-30 nhé!".

Bên kia không có tiếng trả lời. Lâm Anh chột dạ: "Sao? Ông chê ít hả ông bạn? Ông có biết 30% của vụ này là bao nhiêu không? Hơn trăm triệu đấy cha nội". Đầu bên kia vẫn không có tiếng trả lời. Hắn cáu, mặt đỏ gay, nói như gắt lên: "Muốn gì nữa hả? Muốn gì ông cứ nói toạc ra xem nào? Mẹ kiếp, ông còn muốn thế nào nữa?".

Phía bên kia không một tiếng động. Lâm Anh hét lên: "Alô! Nói gì đi chứ?" nhưng đáp lại vẫn chỉ là sự im lặng đáng ghét. Lâm Anh dập mạnh máy đánh cạch một cái làm cho cái bàn rung lên bần bật, hắn tức tối: "Mẹ kiếp, hơn một trăm triệu mà còn chê à! Hay là nó biết mình chia cho nó không đúng theo thỏa thuận nhỉ? Mẹ kiếp".

Hắn nhấc máy gọi cô thư ký vào dặn dò một vài việc. Cô nàng cười cười rồi gật gật cái đầu xinh xắn, nhẹ nhàng nhấc đôi giò ra khỏi phòng giám đốc, trên cửa phòng treo tấm biển "Bận họp".

Hà Trung đắn đo suy nghĩ mãi, bao lần hắn nhấc máy lên lại đặt máy xuống. Hắn không biết phải nói sao với Trần An nữa, hắn biết rất rõ tính cách của Trần An từ thời sinh viên còn ở chung nhà trọ: "Cái gì cho là cho, vay là vay, đúng hạn là phải trả, nếu không thì… thật thảm khốc".

Hà Trung rùng mình, hắn miễn cưỡng nhấc máy lên và bấm số gọi cho Trần An. Những tiếng tít vang lên càng khiến tim hắn đập dồn dập hơn, hắn gần như nghẹt thở. Máy báo không liên lạc được, hắn thở phào nhẹ nhõm. Buông máy xuống, hắn thích chí reo lên: "Tại cậu đấy nhé! Mình đã gọi mà cậu không bắt máy đấy nhé".

Hắn sung sướng huýt sáo, cao hứng hắn rút chiếc áo khoác trên móc xuống quàng vào người và khép cửa phòng lại, loay hoay khóa mãi không được, hắn đưa mắt nhìn vào trong phòng và tặc lưỡi: "Vô phúc cho thằng nào hôm nay vào đây kiếm ăn", rồi mặc kệ cánh cửa khép hờ, hắn ung dung đi xuống quán nước chè đầu ngõ.

*

Trần An đã chết! Sự ra đi của hắn cũng lặng lẽ như chính những phi vụ làm ăn của hắn. Và Trần Hùng thực sự sửng sốt khi ngày 15 tháng sau, cô nhân viên bưu điện chìa vào tay hắn tờ hóa đơn tính tiền điện thoại của thuê bao đứng tên Trần An.

Riêng Lâm Anh và Hà Trung thì khỏi nói cũng biết họ sẽ sung sướng phát khóc khi hay cái tin đau buồn này, một gánh nặng đã được trút khỏi vai họ. Nhưng bao trùm không gian của những người sống ấy là một không khí ảm đạm, nỗi ám ảnh và sợ hãi về sự tồn tại của số thuê bao đó.

Ai đã bắt máy khi họ gọi đến? Ban đầu sự ngờ vực đổ dồn vào Trần Hùng nhưng hắn quả quyết chưa từng động vào điện thoại của ông anh quá cố. Hắn thề trên danh dự cô nhân tình của hắn rằng hắn chưa thấy chiếc điện thoại của ông anh kể từ hôm bước chân vào căn hộ này.

Mọi người đã ép hắn phải gọi điện thoại vào số máy ấy nhưng chỉ nghe được những tiếng tít khô khốc, máy báo không liên lạc được. Những người có mặt mơ hồ nghĩ về sự hiển linh của oan hồn Trần An, mỗi người một tâm trạng nhưng tự sâu thẳm trong lòng họ đều có cùng một cảm giác rờn rợn. Người đã chết, việc đã qua nhưng sức ám ảnh của nó làm họ thấy hoảng hốt.

Bí mật sự linh thiêng của Trần An hẳn sẽ không được giải mã, nỗi ám ảnh của những người kia chắc sẽ dai dẳng nếu như không có một chuyện xảy ra. Ngày bốc mộ cho Trần An, người ta thấy lẫn trong đống xương cốt một chiếc điện thoại di động được đặt ngay dưới tay của người chết

Thí tình

Hắn gào lên trong điện thoại:
- Bà cứu tôi với, tôi bị công an bắt rồi… Đem tiền đến chuộc xe cho tôi mau mau đi. Tôi chỉ có một chiếc xe làm chân xe ôm… Bà thương giùm tôi đi mà... Bà không cứu là tôi chết đó…

Hắn van vỉ, chửi rủa một lúc rồi cũng tắt máy. Chị sợ âm giọng hắn như sợ quỷ ma từ cõi âm nào đó vọng về, nhưng không thể không nghe điện thoại, càng không thể sử dụng dịch vụ chặn cuộc gọi, bởi hắn không dùng một số, chị càng không thể đổi sim xoành xoạch.

Hắn là chồng cũ của chị, mười năm trước chị đã không màng danh dự gia đình, uy tín bản thân, công danh sự nghiệp… để chạy theo tiếng gọi con tim, ngờ đâu con tim quá mù lòa. Mười năm chồng vợ, hắn chưa hề mang về nhà một đồng nào dù nghề của hắn vốn là công việc thời thượng: Sửa máy tính. Chị có một cửa hàng tạp hóa khá lớn ở trung tâm thị trấn nên không mấy quan tâm đến tiền chồng làm ra. Nhưng chị bắt đầu "dị ứng" với chồng khi biết con người ấy quá điêu ngoa.

Không phải ai sử dụng máy tính cũng biết sửa chữa khi máy trục trặc. Yêu cầu của họ là một chiếc máy hoàn hảo, sờ vào đâu cũng thật "ngon lành", còn chuyện tiền nong thì "không thành vấn đề". Nắm được thóp đó, hắn tha hồ tung hoành, nhất là khi thị trấn này chỉ có ba dịch vụ sửa chữa, bảo trì máy.

Khi khách mang cả "bầu đoàn thê tử" gồm CPU, màn hình, chuột, phím đến nhờ hắn xem giùm lý do nào máy vẫn sáng đèn nhưng vào đến chương trình thì dạt ra, ấy là chưa kể màn hình lúc sáng lúc mờ? Thì chiếc miệng giảo hoạt ấy liến thoắng: "Ô kê, máy bị virút, ba mươi giây, ngày mai tới lấy chú nhé, không quá "một vé".

Mai khách đến. "Chết rồi chú ơi, cạc màn hình "có vấn đề", muốn chạy ro ro thì thay cái khác, không quá hai "lụi", chiều đến nhận nghe chú, bảo đảm ngon lành, nếu không chú cứ đè cái đầu… gối con mà cạo!".

Chiều, khách như ngồi trên đống lửa nhấp nha nhấp nhổm chờ hắn "lài vài cham" ở quán bia cạnh nhà rồi ngúc ngoa ngúc ngoắc: "Cái máy của chú hồi đó tay nào ráp mà lắp toàn đồ tạp nham? Con mới phát hiện ra thanh ram cũng yếu quá". "Để dùng đỡ được không hả?". "Được chứ, nhưng không biết khi nào "ngỏm", đồ điện tử chú biết mà, đôi khi tối nay còn ngon như vợ mới cưới, sáng ra đã lụm khụm như bà già hết gân. Ô kê, ô kê, thanh ram có trăm hai, hàng chính hãng, giá hữu nghị với chú luôn! Mai chú nhé, chắc chắn trăm phần trăm, không thì chú cứ nhè… ông cố ngoại vợ của thằng con trai trong bụng vợ con mà chửi!".

Đó là một trong những lý do của hắn, chứ thật ra chiếc máy ấy chỉ nhiễm virut và lâu ngày không được vệ sinh nên "sanh chứng" cà chớp cà tắt. Chị nhăn mày bảo chồng đừng dối trá thế, quen sẽ thành tật mất. Hắn cười sằng sặc: "Em trông xinh đẹp thế mà… ngu bỏ bà! Tôi phải "câu dầm nằm dề" vậy khách mới nghĩ mình đắt hàng lắm, mà đắt hàng thì là thợ giỏi em biết không?".

Chuyện phần cứng như vậy xem ra cũng chưa ăn nhằm gì. Khi cài đặt phần mềm mới thật lê thê. Ngoài các chương trình văn phòng thông dụng, chủ máy còn yêu cầu có cả trình xử lý ảnh, chỉ lấy trình đơn giản nhất thôi vì ông tự học. Cả trình game, hệ thống internet cũng cần hoàn chỉnh vì thằng con và bà vợ ông đều phải "xóa mù vi tính" để biết thế nào là "thế giới trong lòng bàn tay".

Hắn "ém xi bùa" thế nào mà Internet chỉ vào được biểu tượng rồi… sụp mạng. Trầy trật hoài không được thì bảo cổng Internet "có vấn đề". Chủ cằn nhằn: "Hôm trước chú mày ráp máy cho tao, bảo hành một năm mà? Có vấn đề gì thì chú mày phải chịu đó!". "Ô kê, ô kê… con coi lại rồi, không sao, mạng sụp ấy mà". "Mạng sụp à? Tao mới chạy qua hàng xóm, họ vẫn sử dụng ào ào kia?". "Vậy à? Để con "rà" chút nữa xem sao? Ôi… chú ơi, hồi hôm này có em nào sử dụng máy không ạ?". "Có, thằng nhỏ nôn nao quá". "Ôi… con đã dặn rồi, chưa hoàn chỉnh táy máy làm gì để bây giờ lộn tùng phèo hết thế này?

Tiền, hắn kiếm được khá nhờ mánh mung và lừa lọc. Nhưng chưa bao giờ mang về cho vợ bởi thu nhập từ cửa hàng tạp hóa cũng đủ áo cơm cho gia đình. Mấy lại, người chị hay sĩ diện hão, đã là vợ chồng thì cứ gom góp mà lo cho con cái, sao lại xeo nạy từng đồng từng cắc làm chi?

Cho đến một ngày, rất nhiều người kéo tới cửa hàng. Ai cũng đưa ra những mẫu giấy có chữ ký "mượn tiền" của hắn, ở dưới thoòng thêm câu: "Vợ tôi, cô… sẽ giải quyết số nợ này nếu tôi không hoàn lại". Ấy là số nợ của những lần hắn "mượn trước" để lắp ráp máy, mua phụ tùng sửa chữa máy tính cho khách, tư nhân có, cả hệ thống cửa hàng dịch vụ Internet cũng có. Số tiền lên đến gần trăm triệu, có trả thì tốt, không thì chờ hầu tòa! Chị sợ xấu chàng… nên năn nỉ xin được trả dần.

Hắn trốn biệt trong nhà, không dám ho một tiếng.

Mọi người về rồi, chị nhăn nhó, trách hắn sao dám làm không dám chịu. Tiền bạc bao lâu nay anh có bao giờ mang về cho mẹ con em? Hắn bảo, sao mà em xinh đẹp, lanh lợi thế mà… lơ ngơ như bò đội nón! Tôi không nói dóc vậy làm sao có tiền mua khu đất ở ngã ba Cựa Gà? Mà cũng tại họ ấy chứ, có tiền nhưng chẳng có thông minh tí nào! Ham rẻ thì cho chết, giá cả thị trường bao nhiêu họ biết thừa, thế mà tôi bảo sẽ bán bằng một nửa là rối rít đưa tiền.

Một mùa trẩu không nở hoa

Cái tin lão Thiệu vừa tạ thế bay loang khắp khu Đồng Quang. Dân làng được tin lũ lượt kéo đến hỏi thăm. Bây giờ người ta mới truyền tai nhau kể lể về lão, một con người xưa nay hiền lành tốt tính, nhưng vì số phận cay nghiệt đã bị đẩy vào chỗ cùng cực, bi đát.

Thời trai trẻ, lão từng tham gia du kích chiến khu, hoạt bát dũng cảm có thừa. Ai ngờ cuối đời bỗng dưng dở rồ, dở dại, chết thảm. Sáng nay một người trong làng đi chợ sớm, tinh mơ đã phát hiện ra lão nằm dưới gốc đa, người cứng đờ từ bao giờ. Chỗ lão chết chỉ cách cổng ngôi nhà của lão vài chục mét, thế là người này hô hoán mọi người trong xóm ra đưa lão vào nhà. Tắm rửa, mặc quần áo mới cho lão xong, mọi người ngồi bàn nhau, cắt cử chuẩn bị lo việc hậu sự cho lão.

Lão Thiệu ở một mình, vợ và các con lão đã bỏ lão về tiên tổ trước. Gần chục năm nay lão phát bệnh ngớ ngẩn. Những lúc lên cơn là lão lại đi lang thang. Cứ đi như người mộng du, không kể giờ giấc nào. Nhưng không bao giờ lão đi ra khỏi làng, kể cả những lúc không còn hay biết gì nữa. Không một con đường làng nào ở khu Đồng Quang này là lão không nhớ, không thuộc. Nhiều khi lão đang đùng đùng đi, mà sực tỉnh ra là lại quay về. Bất kể ngày hay đêm, nắng hay mưa, dân làng vẫn thường bất chợt gặp lão rũ rượi, thất thểu những bước  vô định như thế. Được cái người làng hay thương tình, đến nhà nào mà gặp bữa cũng cho ăn uống tử tế, có lúc trời nắng gắt hoặc mưa dầm gió bấc, cho lão ăn rồi giục lão mau mau mà về nhà, kẻo gặp thời tiết thế này nhỡ ốm thì chết.

Dù bệnh tật đọa đày thế, mà lão vẫn thọ đến ngoài bảy mươi tuổi. Cuộc đời lão có thể chia làm ba giai đoạn. Thời thanh niên trai trẻ lão gia nhập du kích chiến khu đánh Pháp. Đây là thời oanh liệt của lão, lão vẫn tự hào lắm. Lão là người cuối cùng của đội du kích còn lại ở khu Đồng Quang này. Sau ngày hòa bình lập lại, lão giải ngũ ở quê làm ăn, rồi lấy vợ sinh con. Vợ lão sinh cho lão liền ba thằng con trai, đều đặn cách nhau ba năm một. Lão đặt tên các con là Tân, Tấn, Tới với hy vọng sinh ra ở cuộc đời mới, các con lão ngày một phát triển, khấm khá hơn đời cha nó. Các con lão lớn lên đều khỏe mạnh, ngoan ngoãn. Cả họ đặt niềm hy vọng vào ba đứa con của lão. Nhưng số phận trớ trêu, khắc nghiệt chỉ trong vòng hơn chục năm, gia đình lão liên tiếp bị tai họa giáng xuống.

Đầu tiên là thằng Tân con lớn lão, năm nó vừa mười tám tuổi, một lần cùng đứa em út - thằng Tới - mười hai tuổi vào hố trẩu để hái quả trẩu về ép dầu bán. Khu vực hố trẩu có nhiều cây trẩu mọc tự nhiên, nhưng rất rậm rạp. Thằng Tân đi trước rẽ lối, thằng Tới theo sau. Bước qua một đám lá khô, thằng Tân vô tình dẫm đúng phải một con rắn và nhanh như chớp bị nó cắn cho một miếng vào chân. Con rắn hành động tự vệ xong chuồn mất. Bị rắn cắn, hai anh em ngờ nghệch không biết sơ cứu thế nào. Cả hai không lấy trẩu nữa mà quay về. Nhưng chỉ đi được một đoạn, thì thằng Tân không thể đi được nữa, vết cắn đã sưng vù lên. Khu vực hố trẩu xa nhà dân, không có một ai qua lại. Thằng Tới nhỏ bé không thể cõng được anh, đành để anh nằm đấy chạy về gọi bố. Phải gần một giờ sau, ông Thiệu mới vào đến nơi đưa con về nhà. Lúc ấy vết thương của thằng Tân đã tím tái. Ngày đó, bệnh viện ở xa, đường xá đi lại khó khăn, ông đi tìm thuốc nam điều trị cho con tại nhà. Nhưng thằng Tân đã bị rắn độc cắn rất nặng, đến khi tìm được thuốc thì đã quá muộn. Đau đớn mất con, ông Thiệu đập tan bộ đồ ép dầu trẩu giữa sân.

Khi nỗi đau nguôi ngoai qua đi, cuộc sống gia đình ông trở lại bình thường, thì vài năm sau bỗng một hôm, thằng Tới nhà ông có biểu hiện bị sốt nhẹ, tưởng là viêm nhiễm, cảm cúm qua loa, ông tìm các loại thuốc cho nó uống, nhưng không thấy giảm. Rồi nó kêu đau đầu, người vã mồ hôi như tắm, lên cơn co giật, sợ gió, sợ lửa và bắt đầu la hét. Bấy giờ cả nhà mới biết nó bị chó dại cắn, cuống quýt cáng xuống bệnh viện. Đến nơi thăm khám xong, bác sĩ gặp ông nói gay gắt: "Bệnh nặng thế sao chủ quan bây giờ mới đưa xuống, rất khó hy vọng". Ông chỉ biết trông chờ các bác sĩ ra tay giúp. Dù bệnh viện cố gắng hết mức, vẫn phải bó tay không thể cứu được con ông. Lúc đưa nó về nhà, ông không bước đi nổi nữa.

Nhìn lại những năm đó, công tác tuyên truyền dự phòng của ta còn sơ sài dẫn đến nhận thức của người dân còn ngờ nghệch. Ở làng quê thường có tập quán nuôi chó hàng đàn, nhưng không hề có tiêm phòng. Con người sống chung với bầy chó, đã có nhiều trường hợp bị chó cắn mà vẫn chủ quan. Thằng Tới nhà ông Thiệu vốn tính nghịch ngợm, đến nhà nào cũng trêu chó, cho nó cắn sủa um lên mới thích. Nó bị vết cắn định mệnh cũng do một lần đá lại con chó dữ nhà hàng xóm xông vào nó. Chỉ bị xước một tý, nên nó chủ quan, đâu ngờ con chó mang vi rút dại mới thành tai họa.

Niềm hy vọng cuối cùng vợ chồng ông dành hết cho thằng Tấn, thứ hai. Khác hẳn với thằng Tân, thằng Tới, thằng Tấn sức vóc yếu, da dẻ thì trắng xanh, nói năng thỏ thẻ, ăn uống nhỏ nhẹ. Mặc dù ông bà rất mực quan tâm chăm sóc cho nó, mà nó vẫn không béo khỏe lên được. Cứ mỗi lần nó ốm là ông bà sợ lắm. Việc nặng, việc nhẹ ông bà cố sức mà làm, dành cho nó nghỉ ngơi. Thằng Tấn cũng biết thế là không phải đạo, nhưng không làm gì hơn được. Từ năm nó ngoài hai mươi tuổi, ông bà đã giục nó lấy vợ, nhưng xem ra nó ngại, không muốn. Theo thời gian, sức khỏe của nó có biểu hiện ngày càng xấu đi. Thỉnh thoảng người bị phù nề, kêu đau lưng, khó thở, bí đái. Ông bà đưa nó về bệnh viện khám, phát hiện thằng Tấn bị viêm cầu thận nặng. Bấy giờ bệnh viện chưa có chạy thận, chỉ điều trị bằng thuốc, nhưng không khỏi, người nó trông như cái dải khoai. Cứ lay lắt như thế, từ năm nọ sang năm kia, đến khi chỉ còn nằm một chỗ. Bệnh tật càng tăng, sức khỏe suy sụp, thằng Tấn cầm cự được thời gian ngắn rồi cũng đi theo anh và em nó. Vợ lão vốn không được khỏe, sức chịu đựng của bà có hạn, nỗi đau về hai đứa con trước đã khiến bà suy sụp, nhưng gượng dậy được. Từ ngày thằng Tấn chết thì bà qụy hẳn. Hàng tháng liền, đêm đêm bà nằm nhớ các con thút thít khóc hoài. Có khi hàng tuần, cả hai ông bà chả thiết ăn uống gì. Hàng xóm thay nhau sang động viên cũng chỉ nguôi ngoai được một chút.

Ba đứa con dứt ruột đẻ ra, đầu xanh tuổi trẻ lần lượt bỏ ông bà ra đi đột ngột, tức tưởi, khiến nỗi đau này đau gấp trăm lần cắt da cắt thịt. Nó tan nát tận tâm can. Mất con, hai ông bà trở nên chới với như đất dưới chân sụt lở đi đâu mất. Chả khác nào cái cây chỉ còn trơ rễ, ủ rũ sau một trận lũ quét. Ở khu Đồng Quang này, chưa một gia đình nào lại lâm vào cảnh éo le như ông bà, phải chịu một tai họa quá lớn. Từ đó, lão Thiệu tính tình đổi khác, lầm lì ít nói, nhiều lúc lão có biểu hiện như người bị trầm cảm. Còn vợ lão cũng sinh bệnh từ tâm mà ra, khiến bà cứ quặt quẹo, ốm lên ốm xuống. Con người ta những lúc tinh thần bị suy sụp, thì sự gắng gượng là cách duy nhất để thoát khỏi trạng thái đó. Cũng như duy trì nguồn ánh sáng để đẩy lui bóng tối đang lăm le tràn ngập. Một khi cơ thể rã rời, không còn sinh lực và động lực để tồn tại nữa, thì cũng là lúc ngã rẽ của bệnh tật mở cửa chờ sẵn. Vợ lão đã không gắng gượng nổi, đã bước sâu vào ngã rẽ của bệnh tật.

Mặc dù lão Thiệu chạy vạy khắp nơi, tìm thuốc về chữa cho bà, nhưng không có thứ thuốc nào chữa lành vết thương tâm can mà bà đã mang. Bệnh của bà cứ trầm trọng dần, không ăn uống được gì, mấy tháng giời chỉ nằm nguyên một chỗ. Hàng ngày ông phải lo tất tật mọi thứ cho bà. Rồi những phút cuối cùng, bà trở nên tỉnh táo, bà dặn dò ông chuyện nhà, chuyện cửa, chuyện làng, chuyện xóm và còn giao hẹn: "Tôi đi trước để tìm các con đây, chờ ông ở dưới đấy nhé". Nhìn ánh mắt đờ dại còn vương chút lưu luyến của bà từ từ khép lại, ông không cầm được nước mắt, bật khóc lên thành tiếng.

Đám tang của lão Thiệu do chính quyền xã và Hội Người cao tuổi đứng ra lo liệu. Trong bài điếu văn đọc trước linh cữu có đoạn ghi nhận lão là một người sớm có chí hướng, đã cùng những người du kích năm xưa, dưới sự lãnh đạo của thượng cấp đã có công xây dựng chiến khu Đồng Quang anh dũng, đánh trả quân xâm lược, góp phần cùng phong trào cả nước tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Đó là thời kỳ khó khăn, gian khổ, ác liệt, nhưng rất đỗi tự hào của những chiến sĩ du kích Đồng Quang.

Ngày ấy, quân Pháp đang trong chiến dịch lăm le đánh lên ngược. Khi biết vùng núi Đồng Quang có lực lượng du kích hoạt động, một lực lượng quân Pháp từ thị xã Phú Thọ, ngược sông Hồng bằng tàu chiến lên lập đồn bốt ở đất Đồng Quang, nhằm truy lùng, tiêu diệt hoặc chí ít cũng kiềm chế hoạt động của lực lượng du kích nơi đây. Lúc đó người dân Đồng Quang nghe tin quân Pháp lên thì hoảng loạn, đã bỏ nhà cửa, ruộng vườn kéo nhau đi tản cư lánh nạn. Một số thanh niên ở làng, không chạy theo gia đình, mà tìm vào núi xin gia nhập đội du kích. Hàng ngày du kích có nhiệm vụ tập luyện và thường xuyên tổ chức lực lượng phục kích đánh trả quân địch, nhằm ngăn chặn chúng phá nhà cửa, ruộng vườn của người dân.

Địa hình khu Đồng Quang toàn gò đồi, ruộng dộc được trải từ chân núi ra sát sông Hồng. Từ bờ sông vào đến lớp lớp dãy núi cao ngất hiểm trở, nơi trú ngụ của lực lượng du kích, phải hơn chục cây số đường chim bay. Đường vào quanh co đèo dốc và phải qua hai thung lũng lớn. Một thung lũng mọc toàn một thứ cây trẩu, cứ mỗi độ cuối tháng ba, cả thung lũng ngập tràn một màu trắng muốt, tạo nên cảnh sắc thiên nhiên rất đẹp. Tiếp đến là một thung lũng mọc toàn cây dâu rừng. Người dân ở đây quen gọi là Hố Dâu, gần tiếp giáp với chân núi. Chỉ hơn chục cây số đường chim bay, nhưng quân Pháp chưa thể bén mảng được đến khu vực này. Ngoại trừ có một lần, do ta sơ suất trong việc phòng gian bảo mật, bọn Việt gian chỉ điểm mò vào đã phát hiện ra nơi giấu lương thực của du kích ở Hố Dâu, báo cho quân Pháp. Thế là một hôm vào khoảng 3 giờ sáng chúng tổ chức một lực lượng mạnh, theo chân bọn chỉ điểm dẫn đường, bí mật đánh úp. Do bị động bất ngờ, bên ta bị hy sinh mất hai đồng chí thuộc tổ quân lương, bị mất một số lương thực. Cũng may địa điểm Hố Dâu là nơi tiền trạm phía ngoài, tập kết lương thực mới thu mua được, chưa kịp vận chuyển vào kho trong núi cất giữ.

Nhận thấy quân địch có âm mưu dò la tấn công vào địa bàn đóng quân của du kích, lãnh đạo du kích liền cắt cử một tổ bảo vệ, do ông Thiệu làm tổ trưởng. Tổ bảo vệ có nhiệm vụ phát hiện, ngăn chặn không cho người lạ mặt vào khu vực. Quy định nếu bắt được bọn Việt gian, bọn chỉ điểm xâm nhập thì được phép trừ khử, để tránh hậu họa. Tổ du kích của ông Thiệu ngày đó đã lập công lớn, chỉ trong vòng chưa đầy bốn tháng đã ngăn chặn gần chục vụ xâm nhập trái phép, trong đó có một số đối tượng đã giả bộ là người đi hái măng, hái củi vào thăm dò khu vực của ta. Có kẻ khi bắt được, khám trong người có cả sơ đồ vẽ đường đi. Có đứa ông láng máng nghe tên từng làm việc cho địch, cũng có kẻ ông chưa từng nghe tên, chưa từng biết mặt. Từ đấy vành đai bảo vệ chiến khu du kích được tuyệt đối an toàn. Lực lượng du kích ngày thêm lớn mạnh, đủ sức tổ chức được một số trận đánh tập kích vào đồn trú của quân Pháp, gây cho chúng nhiều tổn thất, khiến chúng ăn không ngon ngủ không yên.

Chiến công của lực lượng du kích gắn liền với khu Đồng Quang và từng nổi tiếng khắp vùng. Mấy chục năm sau hòa bình lập lại, những nhà nghiên cứu về tìm hiểu khu Đồng Quang để viết sách địa chí, có tìm hiểu kỹ về lực lượng du kích trong kháng chiến và những chiến công của lực lượng này. Khi ấy, người ta đã mời ông Thiệu là nhân chứng đến, cho dù lúc đó tuổi tác ông đã cao và không còn minh mẫn. Nhưng cái việc ông cùng tổ du kích bắt bọn Việt gian chỉ điểm, thì ông vẫn nhớ như in, không bỏ sót chi tiết nào. Chỉ có điều là ông không nhớ được chính xác ngày tháng cụ thể, nhưng ông quả quyết năm ấy là năm cây Trẩu mất mùa, cả rừng trẩu không nở hoa...

Cả khu Đồng Quang bây giờ thật trù phú yên bình, không còn dấu tích gì là của cuộc kháng chiến từ hơn nửa thế kỷ trước; ngoại trừ còn lưu lại cái địa danh mang tên Gò Đồn, là chỗ quân địch đóng đồn bốt ngày xưa. Nhưng hầm hào, công sự cũng đã bị người dân san phẳng để trồng sắn ngay sau khi quân địch rút đi. Giờ nhìn lại, dù năm tháng ấy đã dần trôi vào quá khứ, nhưng sự kiện ngày giặc đến làng, người dân Đồng Quang đã đứng lên chống lại quân giặc xứng đáng là cái mốc son ghi dấu ở vùng đất này. Trong đó có một thế hệ người như lão Thiệu đã góp công sức xương máu.

Dẫu tất cả đã trở về đời thường và số phận về sau này mỗi người một cảnh, nhưng ý chí chống giặc ngoại xâm, giữ gìn độc lập dân tộc vẫn còn tỏa sáng và tiếp tục truyền lại cho các thế hệ tiếp nối

Vì sao họ cười?

Gã đàn ông đang bước lại gần, nhìn từ xa đã thấy gã béo phì nộn. Gã đi ngang qua chỗ tôi, gã không hề để ý tôi đang chăm chú quan sát gã cười. Tất cả những chỗ lồi lõm trên thân hình gã, một thân hình vĩ đại như một cường quốc mà bản thân cũng không biết chính xác biên giới của mình tới tận nơi đâu, run bắn lên. Khi đã qua chỗ tôi, tiếng cười của gã xa dần về phía chợ.

Tôi bước tiếp trên con đường sạch đẹp, hai bên đường là những ngôi nhà nhỏ xinh xắn. Thình lình tôi nghe thấy những tiếng cười rầm rầm của hai gã béo ịch mặc quần áo vải gai màu xanh đầy những vết bẩn các màu. Họ đang sơn xanh hàng rào lưới sắt bao quanh một trong những ngôi nhà trên phố. Sau hàng rào lưới là hàng rào tự nhiên bằng cây trồng dày và từ đó nghe thấy tiếng cạch cạch đang cắt của kéo làm vườn. Mấy gã béo thợ sơn ngả nghiêng vì cười, vung vẩy chổi quét sơn, tiếng cười ở đằng kia đáp lại mỗi trận cười của họ. Tôi đứng lại, sau đó nhìn qua cánh cổng hé mở.   

Phía sau hàng rào bằng cây có ba gã béo mặc quần nhung dây đeo, quần bó chặt mông rộng, họ đang chặt cành cây, các ngón tay họ phải nắm rất cẩn thận, vì họ cười và thân người rung lên đáng sợ.

Một ngôi nhà lạ lùng - Tôi nghĩ - Còn có ai ở trong đó không nhỉ, nếu có thì có béo phì như những gã kia hay không? Và tại sao họ lại cười nhiều như vậy? - Tôi rất muốn biết hư thực ra sao, cho nên dẫu không ưa đường đột, tôi vẫn quyết định đột nhập vào bên trong hàng rào.

Tôi nơm nớp lo, bụng bảo dạ: "Nếu họ phát hiện ra thì mình giả vờ là người đi đưa sữa tươi". Khi đi gần tới góc tường, tôi nghe thấy những tiếng cười khác. Cách tôi vài chục mét có bốn gã béo phì đang kéo con lăn làm con đường sỏi -  nom y như cảnh thời xưa, khi con người còn du ngoạn bằng xe súc vật kéo. Quần áo họ mặc là vải màu, áo sơmi kẻ ô vuông càng tôn thêm cái bề dày của thân người họ - bốn anh chàng béo ịch đang cười. Bởi lẽ bây giờ tôi rất mẫn cảm với sự cười, cho nên tôi phân biệt rất rõ tiếng cười nhỏ "hu-hu" của người này với tiếng cười chân thành "ha-ha" của người thứ hai; tiếng cười hoài nghi, trí tuệ "hê-hê" của người thứ ba với tiếng cười mộc mạc "hô-hô" của người thứ tư. Họ chẳng nói năng gì, cứ lúc lúc lại bục cười, chỉ cần người nọ nhìn người kia, như nhắc điều gì đó, là những tràng cười lại đồng thanh vang lên. Chân bước chậm, ngực thở mạnh, trong các khoảng ngừng ngắn ngủi giữa các trận cười, họ kéo con lăn về phía cuối vườn.

Lợi dụng lúc này, tôi lẻn vào hiên nhà. Tôi nghe thấy đàng sau cửa chính diện có tiếng đập, nghiền, cạo, tiếng ồn, tiếng sôi sùng sục và tiếng cười đồng thanh. Tôi nhìn qua lỗ khóa. Một cái bếp màu trắng, to, tại đó bốn gã béo phì đang bận bịu tíu tít, cười hết cỡ.

Tôi đẩy cửa phía bên phải. Ở đó có một hành lang dài dẫn vào sâu ngôi nhà. Khi tôi khép cửa lại thì không còn nghe thấy một tiếng cười nào, tiếng ồn cũng không và ngay tức khắc hoàn toàn im ắng. Trên chiếc ghế bành bọc da, trũng sâu - mùi da bọc ngập ngụa căn phòng tối om, lạnh lẽo -  một gã gầy còm, gân guốc, đang ngồi. Mặt gã dài thuỗn, khô khốc, quắt lại. Trước mặt gã một quả địa cầu đặt trên chiếc bàn nhỏ.

Gã gầy mắt buồn rầu nhìn tôi, chẳng nói năng gì.

- Họ cười cái gì thế hả ông? - Tôi hỏi.

Gã gầy đảo mắt. Ngón tay mảnh mai, dài và gầy guộc của gã búng vào quả địa cầu. Quả địa cầu nhẹ nhàng, chậm rãi quay quanh trục.

- Sao lại cười cái gì? - Rốt cuộc gã nói - Họ cười tôi

Lão Nhị Đao

Đứng trước gương ngắm nghía một hồi rồi lão Nhị Đao mỉm cười bước ra khỏi nhà. Đã thành thói quen, từ ngày về hưu lão thích tản bộ dọc con phố có vô số nhà hàng quán nhậu sang trọng nối tiếp nhau trải dài bất tận vào lúc chiều tà. Hai tay xỏ túi quần, lão vừa thong thả nện gót trên vỉa hè, vừa nghĩ ngợi vẩn vơ...

Khi còn đương chức, lão phải sắp xếp "lịch tham dự những cuộc vui" sau tám giờ vàng ngọc làm việc ở cơ quan. Tuy là cấp phó của sở, chỉ được "sờ nội vú", không được sờ lung tung, như mọi người gọi đùa, nhưng lão có uy quyền khiến bao kẻ phải nghiêng mình kính nể !

Đề bạt ai, cất nhắc ai, do lão tham mưu. Ý kiến của lão mang tính quyết định. Lão gật, lãnh đạo tỉnh chấp nhận ngay. Còn lão lắc, tất nhiên anh bị liệt vào diện "cần xem xét lại"! Điều đó có nghĩa là, anh đã đánh mất một cơ hội trời cho để tiến thân... Nhận ra lão là người quan trọng nên có không ít "cán bộ choai choai" luôn tìm cách cầu cạnh kết giao...

Lão Nhị Đao tản bộ đến cuối phố.

Đoạn đường hai cây số đã lùi lại phía sau. Và cánh đồng không mông quạnh mở ra trước mắt. Cố giấu vẻ mặt bẽ bàng thất vọng hiện trên nét mặt, lão Nhị Đao lững thững quay về lại nơi xuất phát. Các nhà hàng quán nhậu sang trọng trong sân ngoài ngõ đều chật cứng xe máy. Có nhiều kiểu dáng xe, biển số xe quen thuộc, nhưng chủ nhân của chúng ngồi ở chỗ nào, lão không nhìn rõ. Còn họ? Liệu họ có trông thấy lão không?

Tiếng cười nói ồn ào vọng ra. Và đôi chân cứ xúi lão hãy mạnh dạn bước vào. Nhưng đầu óc tỉnh táo lại can ngăn lão quyết liệt: "Miếng ăn là miếng tồi tàn... Dẫn xác vô, có nghĩa là mi tự biến mình thành nhân vật chính trong chuyện tiếu lâm “Ai kêu tui đó? Có tui đây!". Đấy là chuyện được dân ăn nhậu sáng tác dựa trên thực tế để chửi khéo những kẻ không mời mà tới! Rằng, có anh chàng nọ thích bia bọt rượu chè nhưng lại nghèo kiết xác. Chiều chiều, anh ta lân la đến các quán xá, những mong có ai quen ngoắc vô nhập hội cùng "nâng tửu bôi đả phá thành sầu"! Chẳng có ma nào vẫy gọi! Anh ta đành muối mặt nói to: "Ai kêu tui đó? Có tui đây!".  Và anh ta nhận thấy có lỗi với mọi người bởi đến trễ nên tự phạt năm ly khi ngồi vào bàn...

Hết quan hoàn dân. Lão Nhị Đao chẳng còn là người quan trọng. Những kẻ được lão o bế để leo lên từng nấc thang danh vọng vội quên công ơn trời bể, coi lão như đồ bỏ đi. Chúng nó nhậu tỳ tỳ, nói cười rổn rảng ở trong kia, không thèm đếm xỉa gì tới lão đang cố tình đi chầm chậm ngoài này. Nếu biết vậy, trước đây lão không gật mà lắc tất tần tật chúng nó cho bõ ghét! Nhưng lão đâu có suy nghĩ được sâu xa mọi nhẽ.

Đã bao năm trôi qua, song lão vẫn không sao quên được buổi tối hôm ấy... Cơm nước xong, ông cụ thân sinh bảo lão lên nhà trên có chút việc cần trao đổi. Ông cụ ngồi sát bên cạnh, đưa tay sờ nắn khắp mặt mũi lão và hỏi: "Anh thấy đầu của mình thế nào, có bình thường không?". "Dạ, bình thường! Mà tại sao cha lại hỏi như vậy?". "Anh thấy bình thường, nhưng tôi thấy nó không bình thường vì có hai cái sừng to tướng...". Im lặng một lát rồi ông cụ bảo: "Tôi nói đúng hay sai, anh xem lại vợ anh, khắc rõ!".

Tản bộ trở về, lão Nhị Đao cảm thấy mỏi chân.

Gần cây si cổ thụ bên đường có quán nước chè xanh. Lão ghé vào cho cặp cẳng nghỉ giải lao. Quả như lời ông cụ bảo. Vợ lão ngoại tình. Thị không chối cãi. Thị lại còn dẩu môi: "Tôi không hề yêu thương gì thằng chả! Chẳng qua, tôi cần tiền, còn thằng chả cần tình! Nói trắng ra là thằng chả cần "cái vốn tự có" của tôi! Và cả hai lợi dụng lẫn nhau. Khi nào móc sạch hầu bao thằng chả, tôi sẽ bái bai... Lúc đó, tôi lại là người vợ ngoan hiền của ông! Đừng có ghen tuông vớ vẩn. Nó chẳng "hao mòn" đâu mà sợ!". Lão tức lộn ruột. Nhưng rốt cuộc lão cũng đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt!

"Mời chú uống nước kẻo nguội mất ngon!" - Bà già từ tốn bảo khiến lão giật mình. Lão cười ngẩn ngơ. Hồi đó, không hiểu vì sao lão lại sợ vợ đến vậy? Và bây giờ vẫn thế! Lão nghĩ mãi không ra. Lão từng hạ sát không biết bao người bằng ba tấc lưỡi không một chút run tay. Nhà lão đầy của chìm của nổi cũng là nhờ lão đánh thằng này, nâng đỡ thằng kia. Và người ta hàm ơn lão, biếu xén đút lót... Nhị Đao không đần, cũng chẳng phải bị thiểu năng trí tuệ. Nhị Đao là kẻ có hai cây đao giấu trong người với ngón nghề "thọc gậy bánh xe" cực kỳ lợi hại. Lão chỉ múa có một đao mà lắm đứa tài năng đức độ thuộc diện cán bộ dự nguồn đã phải thân bại danh liệt...

Lão Nhị Đao uống hết ấm nước chè xanh cũng là lúc ngày dần chuyển sang đêm. Đèn đường bật sáng trưng. Những chiếc xe máy láng cóng cõng chủ nhân của nó mặt mày đỏ như gà chọi, rời các nhà hàng quán nhậu sang trọng, phóng qua trước mắt lão. Trông bọn họ no say mãn nguyện. Lão quen thân với hầu hết bọn họ. Bởi đa số thậm thụt tới nhà nhờ vả lão bảo kê để ngoi lên từng nấc thang danh vọng. Vậy mà bây giờ bọn họ đều vong ơn bội nghĩa.

Lão ngồi phơi mặt nơi quán nước này đây. Chúng nó thấy nhưng lại giả vờ làm như không thấy, cứ vù xe chạy thẳng. Đời là thế đấy! Mới ngày nào còn đương chức đương quyền, lão phải sắp xếp "lịch tham dự những cuộc vui" sau tám giờ vàng ngọc làm việc ở cơ quan. Chừ về hưu chưa được bao lâu, lão trông mong chờ đợi, đi tới đi lui mỏi rạc cả cẳng cũng chẳng có ma nào mời nhậu...

Thực ra, lão đâu phải hạng người "có tâm hồn ăn uống", lão chỉ ham vui mà thôi! Về hưu rồi, ngồi nhà mãi, lão đâm nhớ đám gái tơ tiếp viên nhà hàng "áo váy ngắn trắng màu hoa huệ, không đủ che những chỗ cần che, ngực - mông - đùi tất cả đem khoe...". Thế mà chúng nó lại đối xử cạn tàu ráo máng với lão, tệ thật!

Ruột gan lão Nhị Đao quặn thắt vì uống nước chè xanh hãm đặc.

"Mất công toi một buổi chiều tà tha thẩn dọc con phố có vô số nhà hàng quán nhậu sang trọng nối tiếp nhau trải dài bất tận" - Lão vừa nghĩ vừa móc ví trả tiền nước cho bà già và tản bộ trở về nhà. Chắc giờ này mụ vợ lão đang nằm chàng hảng trên đivăng, dán mắt xem tivi. Thị mà trông thấy lão tỉnh như sáo, thế nào cũng giở giọng châm chọc. Không biết thị học ở đâu những câu nói mát mẻ, văn vẻ, khiến lão xấu hổ muốn độn thổ, nếu được!

Phía trước là ngôi nhà ba tầng xinh xắn của gia đình lão. Không nhìn ngang ngó dọc, chẳng mấy chốc lão sắp về đến nơi xuất phát. Sợ mụ vợ ác khẩu, lão tạt vào con hẻm sâu hun hút có hàng quán di động phục vụ giới bình dân, gọi một đĩa ốc xào, một chai rượu gạo, ngồi nhâm nhi. Khi mặt mày đỏ như gấc, mồm miệng nồng nặc mùi men, lão mới đứng dậy lững thững đi về nhà. "Chu cha! Lỡ vui bạn vui bè, tôi say quá, bà ơi! Làm cho tôi ly nước chanh...". Lão đứng trước cửa, vừa cười nói như người biết lỗi, vừa cởi giày cởi tất. Vợ lão rời mắt khỏi tivi, nhìn lão, nhếch mép. "Tôi bảo, bà có nghe không đấy? Ấy dà! Ngồi cả buổi, uống có mấy chai dầu gió Heineken đã ngà ngà say! May mà chúng nó chở về tận cổng ngõ..." - Lão than.

Đang nằm chàng hảng trên đivăng, vợ lão ngồi bật dậy. Thị cười khẩy: "Nếu được như vậy, con này hãnh diện lắm thay! Ấy mà tôi cứ nghĩ, ông đi tới đi lui, dài cổ đợi chờ có người quen trông thấy mặt, ngoắc vô... Chẳng có ma nào cả! Và rồi mỏi chân, ông ghé vào quán bà già ở gần cây si cổ thụ bên đường, uống một bụng nước chè xanh hãm đặc đến quặn thắt ruột gan! Sau đó, ông tản bộ về con hẻm sâu hun hút nằm đối diện với nhà ta, gọi một đĩa ốc xào, một chai rượu gạo…".

Lão há hốc mồm nhìn thị, kinh ngạc. Thị nhếch mép cười nhạt: "Chắc tôi nói trúng chóc, không sai?". Lão im lặng. Mồm miệng đắng ngắt. "Vì tiền, ông bán đứng bạn bè thân thiết. Vì tiền, ông trù dập người ngay, đưa tay che chở kẻ gian. Sống như ông, về hưu rồi, chẳng còn ai nể trọng nữa đâu! Đừng có mà hoang tưởng! Thôi, cơm canh dọn sẵn trên bàn, có đói thì xin mời cứ tự nhiên cho..." - Thị khó chịu bảo.

Lão Nhị Đao chẳng nói chẳng rằng, lẳng lặng đi xuống nhà dưới với tâm trạng ê chề...

Người quản trang

Nắng chiều nhạt dần, khu nghĩa địa chìm trong một màu vàng ma quái. Tiếng cú bắt đầu u lên đâu đó nghe thảm như tiếng ho của người sắp chết. Bóng tối rụt rè bò ra từ trong bụi cây, từ sau những ngôi mộ. Lão Túc khệnh khạng bước về lều, vừa đi vừa hát, giọng nhão nhoẹt rợn người. "Thàng Bờm í..ì i..! Cắc, tùng cắc!".

Lão bước liêu xiêu,  mặt ngửa lên trời, tay buông thõng. Tự dưng lão dừng lại, vênh mặt nhìn đám mây mỡ gà cuối chân trời mà cau mày. Nhưng rồi đột nhiên lại cười, tiếng cười ướt và lạnh. Lão loạng choạng bước qua cái cổng tre sơ sài của nghĩa địa, đảo mắt nhìn qua.

Ngoẹo đầu một bên, lão nói lớn: "Quý ông, quý bà cứ yên tâm. Tui chưa say đ..â..u !" Chữ "đâu" cuối cùng kéo dài nhão nhượt rồi dần tắt trong cổ họng khản đặc. Lão lẩm bẩm gì đó rồi khoát tay đi về phía lều của mình ở cuối nghĩa địa.

Lão Túc có cái nghề đặc biệt. Ấy là bảo vệ sự bình yên cho những cư dân đã sang thế giới bên kia ở cái vương quốc lạnh lẽo này. Lão như một lãnh chúa thời trung cổ, có điều thần dân là những hồn ma bóng quế! Thời buổi làm ăn phát đạt, người sống sung sướng thì nghĩ đến người chết.

Không nghĩ sao được! Không có người nằm dưới kia thì làm gì có kẻ sống trên này! Vậy mà thỉnh thoảng những con bò tai quái vào nghĩa địa gặm cỏ, chẳng ý tứ gì, cứ xả bừa bãi, hôi hám không chịu được, rồi dây leo thừa cơ mọc um lên. Thế là lão Túc, một lão già suốt ngày khom lưng trên chiếc xe xích lô được đặc cách lên làm chân bảo vệ.

Lão Túc về đến lều liền cởi phăng áo treo lên đầu giường, đặt lưng xuống chõng. Những chiếc nan tre rít lên ken két dưới sức nặng tấm thân lão. Nóng bức quá, lão đưa tay vuốt ngực.

"Ôi, những chiếc xương sườn của ta!- Lão già lẩm bẩm - Sao chúng bay bày lên cả thế này? Ta không xơi đâu mà chúng bay dọn cỗ! Đã lâu lắm rồi chẳng ai âu yếm, mơn trớn chúng mày cả. Vợ tao chết rồi, hai chục năm rồi. Mà có nói chúng bay cũng chẳng biết".

Lão nhếch mép cười, khuôn mặt rúm ró thảm hại. Ối, mình lẩm cẩm mất rồi, lão thoáng sợ cho chính bản thân lão.

Lão bình tâm xem xét lại công việc trong ngày, thói quen này đã bén rễ trong con người, có dứt ra cũng không được. Ngày hôm nay làm gì nhỉ? Buổi sáng ta đã chung sức làm một cái huyệt. Chẳng biết sao họ đào sâu đến vậy. Mà chẳng ý tứ gì cả. Làm nhà cho người chết mà cứ nói cười rổn rảng.

Chắc là vớ được bẫm. Lại cởi trần trùng trục nữa chứ! Mồ hôi mồ kê tong tong nhỏ ra đáy huyệt. Hừ, cái quân cục súc! Mà đây là làm nhà cho một cô gái. Rõ tội nghiệp! Mới mười chín tuổi! Hừ, giá ta có con, ta không để nó làm chuyện dại dột thế đâu.

Trời đất ơi, mười chín tuổi! Dại dột! Trông ảnh con bé mới đáng thương làm sao! Lão thấy ngực trĩu nặng, trái tim như bị một nhát xẻng xói vào, đau buốt. Trời, mười chín tuổi, con người ta mới sống được bao lăm! Nghe nói con bé thất tình. Lão thấy vô lý quá. Thậm vô lý!

Con người ta hợp thì sống với nhau, không thì thôi. Hiểu lầm thì cố giải thích cho hiểu, mà không hiểu thì... cóc cần! Cứ như lão thì lão nhổ toẹt cái thứ tình yêu nhặng xị ấy đi. Con bé mới mười chín tuổi, có biết bao thứ nó chưa biết.

Thật vô lý, thật dại dột! Con người ta yêu có phải để chết đâu? Nếu như nó là thằng con trai thì lão chẳng cần bận tâm làm gì, lão sẽ rủa cho vài câu "hèn nhát" rồi ngủ khì. Đằng này... Cái giống người thật khó hiểu!

Lão trở mình, đưa tay đấm lưng. Ối, lưng lại nhức nữa rồi! Ê ẩm quá! Suốt buổi sáng hì hục đào, xúc. Mấy thằng cục súc kia chỉ biết bặm trợn lên mà vung thuổng, chả quan tâm gì đến hình dạng cái nhà ra làm sao, bắt lão phải chỉnh sửa suốt. Buổi chiều nữa, người ta đưa con bé đến. Đám gì đông thế không biết.

Toàn là một lũ trẻ quần áo như đi hội. Sao chúng vô tâm thế? Giày đinh to đùng, guốc nhọn hoắt, hàng chục hàng chục đôi cứ tót lên trên nhà người ta bên cạnh mà đứng. Lẽ ra phải tôn trọng hàng xóm mới của bạn mình mới phải. Chúng nó nhặng xị lên làm lão cuống cả chân.

Tê quá! Ê ẩm quá! Nhưng mà có hề gì. Đau thế này có chết đâu mà lo. Tội là tội con bé ngoài kia. Chẳng biết thằng con trai ác ôn kia hồi chiều có đi trong đám kia không nhỉ? Giá lão biết, lão sẽ phang cho nó một trận.

Ngày xưa, lão có yêu bao giờ đâu, hay là có mà không biết? Hồi ấy, cu Túc được lệnh lấy vợ. Thấy hay hay thì cu cậu gật đầu. Ấy a, người ta lấy vợ, mình cũng lấy vợ, sợ gì! Cậu chẳng biết vợ mình là ai. Mọi việc có người lớn lo cho cả, cu cậu chỉ có việc có vợ thôi! Cô dâu mười ba tuổi, là cậu nghe người ta nói thế.

Bão đêm

Mới ngày nào...
Căn hộ hai mươi lăm mét vuông tầng ba ở khu tập thể quân đội T5 vang ấm tiếng cười. Tối thứ bảy, từ trường anh ào về ôm hôn hai mẹ con. Trước khi mâm cơm được dọn ra, anh làm "ngựa" để thằng Thành nhong nhong cưỡi dạo khắp nhà. Nhiều lúc, hai đầu gối anh tê nhức, mặc, Thành vẫn không tha.

Nó vỗ bồm bộp vào vai anh bắt "ngựa" phi nước đại. Anh cố bò vài vòng rồi lăn đùng ra "chết". Thằng Thành tưởng thật, mắt tròn xoe, tay vỗ vỗ vào "má ngựa". Chị cười khúc khích…

Đến lúc ấy anh mới được "tha". Bữa cơm nồng ấm, dễ tưởng sấm sét mây mưa trên đời chẳng thể nào khuấy đảo được sự bình yên, thi vị ở căn hộ nhỏ bé, giản dị này.

Sáng sáng, chị đưa thằng Thành đến trường mầm non Hoa Hồng. Sau những cái hôn chùn chụt vào đôi má phúng phính của nó, chị tất tả đạp xe đến bệnh viện thành phố. Dọc đường, dẫu nhìn thẳng, chị vẫn biết không ít đôi mắt liếc xéo, có cả đôi mắt nhìn chị chằm chằm.

Ở viện cũng vậy, cánh đàn ông luôn tỏ ra "quan tâm" đến chị. Họ nhìn, liếc đâu đã đủ, họ kiếm đủ cớ để được tiếp xúc với chị, làm chị bận bịu rất nhiều bởi những giờ phút vô bổ.

Ông Viện phó: "Cô ở khoa đó ổn chứ? Nếu cô thích, tôi có thể chuyển cô về một khoa khác hợp với cô hơn. Bác sĩ điều động cần phải cân nhắc, trung cấp y tế như cô ở khoa nào cũng được. Mong cô hiểu thiện chí của tôi…".

Ông Trưởng khoa: "Chồng cô bộ đội, công tác xa thành phố, cô cần nghỉ cứ báo với tôi. Đừng ngại. Tạo điều kiện cho cô chính là thực hiện công tác hậu phương quân đội. À này, cô chú ý giữ gìn sức khỏe. Tôi thấy cô hơi xanh đấy…".

Phiên - bác sĩ điều trị: "Có người thân ốm, cô cứ báo với tôi. Có thể khám và điều trị tại nhà. Các cụ khỏe chứ? Xin biếu cụ ông lọ thuốc bổ, tôi đã ghi kỹ cách sử dụng"…

Chao ôi! Chị thấy quá thừa sự quan tâm, chỉ thấy thiếu sự yên tĩnh. Cũng tại chị, những người quan tâm đến chị đâu có tội tình gì? Nguyên do tất cả bởi chị có vẻ đẹp mặn mòi: Đôi mắt tròn đen lóng lánh vừa thân thiện vừa thẳm sâu đến lạ kỳ, bờ môi hồng mọng gợi nên nhiều suy tưởng; mái tóc đen dày quăn tự nhiên ôm lấy đôi vai tròn lẳn, eo lưng thắt hợp lý chia cơ thể thành hai phần đầy đặn đến chuẩn mực…

Lạ nữa, chị không quá "ý thức" về cơ thể hoàn hảo của mình, chị sống giản dị, hồn nhiên, hay nhịn nhường và dễ xúc động… Chị có biết đâu, chính tính cách ấy càng làm chị có sức hút mãnh liệt đối với cánh mày râu. Chị càng cảm thấy bình thường, chị càng trở thành đặc biệt…

Một đêm giữa tuần, mưa bão đùng đùng. Cửa sổ căn hộ hai mươi lăm mét vuông đã đóng chặt, vậy mà nước vẫn ứa vào lênh láng. Thành bỗng sốt cao, người nóng như hòn than. Những biện pháp thủ công: quạt, chườm khăn, uống thuốc hạ sốt… không hiệu quả. Thành chuyển sang co giật, nấc nghẹn. Chị hoảng loạn, nước mắt, mồ hôi đầm đìa.

Nhìn những tia chớp xanh lét, đầu chị muốn vỡ tung. Chưa bao giờ chị thấy nhỏ nhoi, bất lực trước bệnh tình của con đến thế. Một suy nghĩ lóe lên trong óc, không cần cân nhắc, chị bấm máy điện thoại. Khoảng ba mươi phút sau Phiên xuất hiện, đầu tóc ướt đẫm. Chị như kẻ đang chới với giữa dòng nước xiết vớ được phao.

Sau khi được khám, tiêm, cho uống thuốc với những động tác chuẩn mực, quyết đoán của Phiên, Thành thôi co giật, nấc nghẹn. Nó thiếp đi trong hơi thở nhè nhẹ. Chị đặt tay lên trán con, dìu dịu. Chị lặng lẽ nhìn Phiên, anh đang hí húi ghi gì đó lên tờ giấy, hình như  đó là những lời căn dặn việc điều trị, chăm sóc thằng Thành thì phải… Ngoài trời mưa vẫn ào ào, Phiên đứng dậy. "Anh ở lại. Để ngớt mưa đã…". Chị không đang tâm để Phiên dầm mưa một lần nữa.

Mưa đâu có ngớt. Đêm ấy, chị và Phiên cùng tự nguyện vượt qua cái ranh giới truyền thống, vô hình…

Chị xin nghỉ để chăm sóc Thành. Không an tâm, đêm sau Phiên lại đến. Trời vẫn mưa. Ngày nắng rát là thế, tối đến trời lại dở chứng. Chị ngoan ngoãn đun nước, lấy bông, tẩm cồn, pha nước cam… theo ý Phiên như thể vẫn giúp việc Phiên ở bệnh viện. Thằng Thành bắt đầu khỏe lên, nghịch ngợm, cười đùa với Phiên, nhưng rồi cũng chỉ được một lát, nó lại thở nhè nhẹ, cái miệng chúm chím như nụ hoa… Phiên ở lại, cả hai đều thấy hợp lòng. Không còn hoảng loạn, lo toan. Rồi đêm thứ ba… Chưa bao giờ chị thấy mãn nguyện đến thế.

Chồng chị chu đáo, chân thành, trời sinh ra anh là để hy sinh vì người khác. Người tốt như anh trên thế gian này không nhiều… nhưng so với Phiên về "chuyện ấy" anh còn thiếu kinh nghiệm, nói chính xác hơn, anh ít để tâm, tích lũy. Cứ lo những việc lớn nào phải đã hoàn thiện… Phiên sung sức, dồi dào, đủ đầy từ những chi tiết tinh tế, nhạy cảm… Chị thầm so sánh, đỏ mặt, thầm xua đuổi sự so sánh ấy.

Tối sau - thứ bảy, anh không về. Anh gọi điện nói bận. Chị cũng chẳng kể chuyện thằng Thành bị sốt co giật… Lần đầu tiên kể từ khi lấy anh, cái cảm giác mong chờ tối thứ bảy vợi hẳn trong lòng chị.

Chị đi làm. Vừa muốn gặp Phiên vừa muốn tránh mặt. Tinh tế mấy cũng là phụ nữ, cái tâm trạng nhùng nhằng, lúng túng ở họ bao giờ cũng bộc lộ những sơ hở. Một số người đã bắt đầu để ý. Sự quan tâm mà chị vẫn cảm thấy thường ngày giờ khang khác, chị có biết đâu, nguyên nhân chính từ sự khang khác của chị. Chị bạo dần lên, thế là mối quan hệ giữa chị và Phiên được công khai dần. Cùng một khoa, cùng trên "một con thuyền", giấu thế nào được, họa chăng có là bỏ đi, nhảy xuống biển…

*

Anh đã linh cảm đến điều chẳng lành. Khi chị quyết định thú tội trước anh và mong anh độ lượng, đồng tình với giải pháp của chị, anh bình tĩnh đến lạ lùng, mặc dù nước mắt anh đã chảy… Anh bảo: “Đó là sự lựa chọn của em. Anh tôn trọng. Chỉ mong em đừng mang thằng Thành đi. Thiếu con, anh không thể sống nổi".

Vụ việc được tòa xử chóng vánh. Hàng tháng sau, anh vẫn hẫng hụt, ngỡ ngàng.

Phiên cũng đã giải quyết xong với cô vợ của mình. Phiên và chị về ở một căn hộ rộng gần một trăm mét vuông phía nam thành phố.

Ưu tiên hoàn cảnh của anh, đơn vị cho anh chuyển vùng về thành phố. Ngày ngày, hai bận anh đưa đón thằng Thành đi, về. Các cô ở trường mầm non Hoa Hồng và bà con khu tập thể nhìn thấy bố con anh tất bật mà nao lòng. Tối tối, thằng Thành vu vơ hỏi: "Bố ơi! Sao mẹ không về?". "Bố ơi! Mẹ bỏ quên cái gối, cả cái đèn, cái ghế nữa…"…

Anh lảng tránh, chỉ lên tivi: "Con mèo kìa… Nó đang rình con chuột đấy… Chuột, chạy đi, chạy đi". Thằng Thành tròn mắt nhìn. Người anh nóng râm ran, tưởng như hàng trăm nghìn mũi kim đang đâm vào trái tim đau buốt.

Đêm. Thằng Thành vẫn tưởng ngủ với mẹ, bàn tay nhỏ xíu luồn vào ngực anh rồi thở nhè nhẹ. Nước mắt anh ứa ra, nhỏ xuống chiếc gối đôi có thêu hình trái tim và hai chữ "hạnh phúc".

Mão - cô giáo Trường mầm non Hoa Hồng thật tốt bụng. Cô tự nguyện đưa đón, chăm sóc Thành mỗi khi anh đi công tác đột xuất, kể cả khi thằng Thành đã vào tiểu học. Anh đành bỏ phương án đưa thằng Thành sang nhờ vợ chồng người chị gái. Sự nhiệt tình của Mão lúc đầu làm anh rất ái ngại. Anh không muốn những lời dị nghị về bố con anh, nhưng phần thấy thằng Thành quá bện cô, phần Mão làm "công tác tư tưởng" rất tốt nên anh đành ưng thuận. Anh trao toàn bộ chìa khóa nhà cho Mão.

Mão đã ngoài ba mươi, từng yêu đôi người nhưng không thành. Mão xưng "mẹ" với thằng Thành ngọt ngào, tự nhiên như mẹ đẻ. Với thằng Thành, từ ngày có Mão, anh không còn nghe thấy những câu hỏi vu vơ của nó về mẹ nó nữa. Người lớn không bao giờ tìm được những giây phút bình yên nhanh chóng như trẻ thơ.

Mặc dù có cuộc sống đủ đầy, nhiều lúc chị vẫn nhớ anh và thằng Thành, nhớ căn hộ hai mươi lăm mét vuông đến bần thần. Một tuần, hai, ba lần chị lén vòng qua căn hộ ấy. Nép bên gốc cây, chị nhìn lên ban công, nơi ấy sợi dây phơi do chính tay chị căng vẫn còn nguyên. Một góc dây, bộ quân phục của anh bạc phếch, khoảng dây còn lại là quần áo thằng Thành. Lòng chị khấp khởi vì bộ quần áo thằng Thành ngày một dài rộng, lại khá đẹp nữa. Chị liên tưởng đến giây phút hai bố con đi mua áo quần - một việc anh chúa vụng.

Cô bán hàng sẽ hỏi: "Mẹ đâu?". Không biết anh và con sẽ trả lời thế nào? Chắc lại lúng túng gãi đầu, gãi tai lảng tránh thôi… Mắt chị ngân ngấn ướt… Rồi chị thầm mong "Đừng bao giờ có áo quần phụ nữ trên chiếc dây phơi ấy".

*

Bé Diệu Anh ra đời trong niềm vui ngây ngất của Phiên, trong sự lâng lâng khó tả của chị. Người vợ trước chưa kịp sinh cho Phiên một "hoàng tử" hay một "công chúa". Phiên tất tả mua sắm. Căn hộ rộng thênh thang là vậy nay bỗng hẹp lại bởi chất ngất nào là tủ, bàn, giường, xe nôi, quạt đứng quạt ngồi, máy sấy quần áo, máy say sinh tố…

Hàng ngày, trước khi đi làm, Phiên đều thực hiện đầy đủ các thủ tục: đun nước, xếp đặt đồ dùng để chị tiện lấy, dặn dò chị phải ăn bữa chính bữa phụ, rồi ôm hôn hai mẹ con. Không hiểu sao, đủ đầy nồng ấm là thế, chị vẫn chạnh lòng nghĩ đến căn hộ hai mươi lăm mét vuông: "Giờ này, thằng Thành ăn gì? Anh chắc lại nhịn đói đi làm thôi… Cái giường long chân không biết anh đã đóng lại chưa, mấy cái xoong móp mép hết cả rồi…". Chị tặc lưỡi: "Âu cũng là cái số, thôi thì…".

Diệu Anh càng lớn càng giống mẹ, Phiên vui lắm. Phiên hùng hồn tuyên bố với chị: "Lớn lên, Diệu Anh đi thi đoạt vương miện hoa hậu là cái chắc. Lúc đó anh và em tha hồ mà chọn con rể". Chị cố cười, trong lòng thăm thẳm buồn…

Phiên đưa một người giúp việc về mà không cần bàn với chị. Người giúp việc là một phụ nữ khắc khổ, tầm trên dưới năm mươi, ít nói, hay làm. Từ ngày có người giúp việc, chị nhận thấy mình đẫy ra, chậm chạp hơn trước… Chị động đến việc gì, người giúp việc cũng bảo "để em". Chị đâu biết Phiên đã giao nhiệm vụ kỹ càng cho người giúp việc và trả lương hàng tháng khá hậu.

Chị đi làm, mọi người trong viện trầm trồ: "Đi bước nữa như cô, ai chả muốn", "Gái hai con trông mòn con mắt", "Thời nào gái đẹp vẫn nhất", "Thế gian được vợ được cả chồng"… Chị chẳng thấy vui, chỉ thấy ngài ngại…

Chị tập thể dục rất đều, sáng, trưa, chiều, tối nhưng cơ thể vẫn không ngót mà ngày một đẫy đà hơn. Những bộ quần áo chị mang theo từ ngày chia tay anh đều đã chật, chị đành gấp lại cẩn thận thể ngay ngắn dưới đáy vali.

Phiên dần dần khoán trắng cho người giúp việc. Thức ăn trong tủ lạnh vơi dần. Thủ tục mỗi sáng không còn đều đặn nữa, không cả những lời dặn dò bữa chính bữa phụ. Những nụ cười gia giả cùng những câu hỏi ngớ ngẩn, những lời khen nhàn nhạt bắt đầu xuất hiện. Đêm, "chuyện ấy" được Phiên thực hiện hời hợt, bổn phận, những chi tiết tinh tế nhạy cảm ngày nào được thay bằng những cử chỉ lúng túng, vội vàng, thô bạo… "Mình đâu còn trẻ nữa… Hai mặt con rồi… Phiên phải lo bao việc trên đời…" -  Chị thầm lý giải.

Tuy nhiên, chị không thể lý giải được những lời bóng gió ở viện. Lúc đầu, những lời bóng gió ấy còn thưa thớt, xa xôi, sau mau dần, sát sàn sạt: "Có chồng chẳng biết giữ chồng/ Chỉ ngồi bó gối mất không có ngày", "Hai lần đò đâu đã xong/ Thà rằng một bến đục, trong cả đời"… Chị bắt đầu ngại đi làm. Hơi mệt, chị xin nghỉ luôn. Chị cần yên tĩnh. Sự yên tĩnh của chị không được lâu. Phiên đi về thất thường, nhiều tối không trực, Phiên cũng chẳng về.

Một ngày, chị cùng người giúp việc đưa bé Diệu Anh đi tiêm phòng theo dự định. Phiên nghỉ ở nhà vì mới hết ca trực. Hôm đó, trung tâm y tế đóng cửa bởi có việc đột xuất. Chị đành quay về, còn người giúp việc rẽ vào chợ. Cửa nhà khóa chặt, chị nhẹ nhàng rút chùm chìa khóa. Cánh cửa vừa hé mở, chị muốn đổ sụp xuống. Phiên và một cô gái rất trẻ trần như nhộng. Cô gái đang quỳ trên đệm xa lông, Phiên đứng sau, hai tay ôm chặt lưng cô gái… Chị đóng sầm cửa, bế bé Diệu Anh chạy vội xuống cầu thang, người rừng rực như bốc lửa…

Sau ba ngày ở nhờ nhà người bạn gái độc thân, chị não nề cùng bé Diệu Anh trở về. Không một chút bận tâm, Phiên trơ tráo đưa ra tờ đơn ly dị, miệng ráo hoảnh: "Em đã nhiều lần ca ngợi người chồng cũ của em rất độ lượng, luôn tôn trọng sự tự nguyện của người khác. Hy vọng em cũng sẽ độ lượng, tôn trọng sự tự nguyện của anh để xứng đáng với người chồng cũ của em…".

Chị hét to: "Câm đi. Đồ đểu giả… Không được động đến anh ấy". Phiên vẫn nhơn nhơn: "Em có thể ở lại căn hộ này, nếu em muốn. Còn bé Diệu Anh, chắc tòa sẽ xử theo mẹ…". Tai chị ù đặc, bé Diệu Anh khóc lặng người, mềm oặt trên tay chị.

Phiên cười khềnh khệch, dằn tờ đơn ly dị xuống bàn rồi bỏ đi. Tại căn hộ Phiên mới mua ở khu chung cư sang nhất thành phố, cô gái trẻ mà Phiên đã đưa về làm tình hôm nào đang đợi…

Mưa ào ạt, sấm chớp đùng đùng. Chị liên tưởng đến đêm mưa thằng Thành bị sốt co giật, tim nhói buốt. Tủi nhục ê chề, chị chẳng thèm đóng cửa sổ, cứ để cho mưa thỏa thuê táp vào người.

Trên giường, bé Diệu Anh đã ngủ say. Chị vội vã mở vali, lần tìm quyển sổ anh tặng ngày mới cưới. Những trang nhật ký anh viết về chị cùng những vần thơ mộc mạc hiện lên mờ nhòe, chói nhức… Chị lật bật giở trang cuối, ngòi bút nghiến trên giấy: "Anh, con… Em tội lỗi, em nhơ nhuốc, em đã làm khổ hai bố con… Em không có quyền sống nữa…".

Rồi chị lần tìm lọ thuốc ngủ dưới đáy vali. Đã đôi lần chị nghĩ đến nó. Ánh chớp làm căn phòng xanh lét gợi cho chị một thế giới lạnh lẽo đang đón chờ… Bỗng tay chị chạm vào những bộ quần áo xinh xinh, thơm phức - chị mới mua cho thằng Thành nhưng chưa kịp gửi. Chị áp chặt những bộ quần áo vào ngực tưởng như đang ôm ghì lấy thằng Thành bé bỏng…

Đêm ấy, ở căn hộ hai mươi lăm mét vuông phía bắc thành phố, thằng Thành vẫn luồn tay vào ngực anh như mọi khi. Đôi lúc, tiếng sấm làm nó giật nảy nhưng rồi nó lại thở nhè nhẹ. Anh cũng thiếp đi. Giữa bầu trời không bình yên, hai bố con là khoảng trời bình yên của nhau

Chàng ngố mua thịt

Một hôm, Lưu Rỗ - chủ cửa hàng thịt trông thấy chàng Ngố trong thôn ra chợ mua thịt. Lưu Rỗ vẫy tay gọi anh chàng đến chỗ mình mua. Chàng Ngố đến trước cửa hàng của Lưu Rỗ, nói:
- Lấy một cân.
Lưu Rỗ nghĩ bụng, anh chàng dở hơi, đầu óc ngu muội, bớt xén một lạng hắn biết cái quái gì. Thế là gã cố ý cân thiếu một lạng. Chàng Ngố không biết thật, xách thịt về.

Hai hôm sau, chàng Ngố lại đến mua thịt. Lưu Rỗ lại gọi chàng Ngố đến mua ở cửa hàng mình. Chàng Ngố lại mua một cân. Lưu Rỗ lại ăn gian, bớt tiếp của anh chàng một lạng.

Hai hôm sau, chàng Ngố lại ra chợ mua thịt. Lưu Rỗ lại gọi chàng Ngố đến mua. Chàng Ngố chưa đến trước phản thịt, Lưu Rỗ đã xẻo thịt cân xong, chỉ chờ chàng Ngố đến trả tiền lấy thịt. Nhưng khi đến trước cửa hàng thịt, chàng Ngố đột nhiên thay đổi ý định, nói:

- Cân một lạng thịt.

- Chỉ mua có một lạng?- Lưu Rỗ sợ mình nghe nhầm, hỏi lại lần nữa.

- Phải, chỉ mua một lạng - Chàng Ngố trả lời.

Nghe chàng Ngố nói thế, Lưu Rỗ lắc lắc đầu, thời buổi này mua một lạng thịt, e rằng chỉ có đồ dở hơi như Ngố. Mặc dù vậy, Lưu Rỗ vẫn cân một lạng thịt đút vào túi nilông đưa cho Ngố. Nhưng lạ quá, chàng Ngố không vội đi ngay, một lát sau lại bảo:

- Cân cho lạng nữa.

Lưu Rỗ ngạc nhiên nhìn chàng Ngố, thầm nghĩ, hôm nay thằng dở hơi dở trò gì vậy. Thế là lại cân một lạng, bỏ vào túi của chàng Ngố, bảo chàng Ngố trả tiền.

Chàng Ngố lại nói:

- Cân thêm lạng nữa.

Lần này Lưu Rỗ có vẻ khó chịu, nói với chàng Ngố:

- Này Ngố, rốt cuộc cậu định mua bao nhiêu thịt? Nói tử tế để tôi tiện cân cho cậu một thể!

- Còn mua tám lạng - Chàng Ngố đáp.

Lưu Rỗ vừa nghe nói đã  định giơ dao xẻo thịt. Chàng Ngố chặn lại nói:

- Không, tôi cần cân từng lạng, từng lạng.

Hừ! Làm thế chẳng phải hành hạ người ta? Lưu Rỗ nghĩ bụng, hôm nay thằng cha dở hơi này sao lạ thế. Vậy là quyết định hỏi cho ra nhẽ. Lưu Rỗ nói:

- Chàng Ngố nghe ta hỏi, tại sao lại cứ phải cân từng lạng từng lạng?

Chàng Ngố nghĩ một lát, trả lời:

- Mẹ tôi bảo lần nào mua thịt ở chỗ ông cũng thiếu một lạng. Chúng ta là người cùng làng, tôi không tin ông cân thiếu cho tôi, tôi nghĩ có lẽ tại cái cân có vấn đề, nên bảo ông cân từng lạng từng lạng, cân đủ mười lạng, như vậy sẽ không thiếu.

Lưu Rỗ nghe nói, bỗng dưng đỏ mặt tía tai

Sương mù

lâu hắn đã đứng vào hàng tỉ phú ở cái thị xã miền biên ải này. Thế quái nào mà sau ngần ấy năm, bây giờ đầu mỗi đứa đã hai thứ tóc, mà chúng tôi vẫn chơi được với nhau. Thi thoảng, hắn vẫn gọi tôi đi nhậu và trịnh trọng giới thiệu với bằng hữu: ''Đây là anh bạn. Nhà báo!''. Tôi biết thừa là hắn dùng tôi, một đại diện của ''giới trí thức'', để khoe mẽ.

- Này! Vào bản Coóc một lần đi, ăn thịt lợn rừng, uống rượu bản, đảm bảo cậu sẽ mê!

Thằng bạn mời đến lần thứ ba tôi mới nhận lời. Không phải vì tôi bận quá mà vì ngại. Hắn là một tay nổi tiếng kỳ quái, đi với hắn thể nào cũng có chuyện. Nhưng kiểu gì cũng phải đi với hắn một lần, vì câu cửa miệng của hắn khi gặp tôi bao giờ cũng là: "Cậu lười đi bỏ mẹ, dân viết mà cứ ru rú một chỗ thì có quái gì để viết. Đi với tớ một chuyến, tha hồ mà cảm xúc!".

*

Tôi quen hắn từ khi chúng tôi còn là những gã trai tơ, lúc đó tôi mới tập tọng viết báo, còn hắn chẳng nghề ngỗng gì, suốt ngày ngồi trên xe máy, lượn như cá cảnh. Sau này tôi xin được chân phóng viên ở tòa báo tỉnh, lấy vợ rồi nuôi con, an phận làm anh nhà báo địa phương. Còn hắn, vẫn lượn suốt ngày như cá cảnh mà tiền ở đâu cứ ''vào'' như nước.

Từ lâu hắn đã đứng vào hàng tỉ phú ở cái thị xã miền biên ải này. Thế quái nào mà sau ngần ấy năm, bây giờ đầu mỗi đứa đã hai thứ tóc, mà chúng tôi vẫn chơi được với nhau. Thi thoảng, hắn vẫn gọi tôi đi nhậu và trịnh trọng giới thiệu với bằng hữu: ''Đây là anh bạn. Nhà báo!''. Tôi biết thừa là hắn dùng tôi, một đại diện của ''giới trí thức'', để khoe mẽ. Nhưng những nơi hắn đưa tôi đến, cả những người mà hắn tiếp xúc đều là những loại mà thường ngày tôi rất ít có cơ hội gặp nên tôi cũng tranh thủ.

Bây giờ thì tôi đang ngồi đằng sau tấm lưng hộ pháp của hắn. Chiếc "Hắc-lây" có một không hai với những phụ kiện kỳ quái chẳng kém gì ông chủ của nó đang lướt êm ru trên con đường rời xa thị xã. Con đường ngày một nhỏ lại và xấu đi.

Như đoán được ý nghĩ của tôi, hắn cười ha ha: "Đường này còn ngon chán!". Đi một mạch đến huyện lỵ, hắn dừng xe ở một quán cóc mua vài bao thuốc lá và một chiếc đèn pin. Người quen ở thị trấn chào hắn oang oang: "Lại vào bản Coóc hả?".

Đường vào bản Coóc thật tệ. Con đường đất đỏ, bụi mù mịt, cua gấp tay áo, lên dốc rồi lại xuống dốc, hai bên toàn cỏ dại, mặt đường như có kẻ nào đó tức giận mà băm vằm, đầy những vết lồi lõm chằng chịt. "Lâm tặc đấy - Hắn giảng giải - bọn nó chạy gỗ cả đêm. Đường hỏng hết. Mưa đếch đi được". Hắn điều khiển tay lái vòng vèo điệu nghệ. Mấy lần tôi trực nhảy xuống thì hắn cười khùng khục trong cổ họng: "Bình tĩnh. Bình tĩnh đi!".

Tôi nhìn đồng hồ, mới hơn bốn giờ chiều mà nắng đã tắt, chỉ còn vương vài vạt trên những mỏm đồi cao. Ở dưới thấp, không khí dường như đã bảng lảng sương. Qua một con dốc dài và khá cao, đổ về phía bên kia, bất ngờ hiện ra một bản nhỏ với độ mươi nóc nhà. Không gian im ắng. Vài sợi khói bốc lên gặp phải hơi sương đùn lại thành những đụn thẳng đứng, lờ đờ.

Hắn cho xe tách khỏi con đường, trôi xuống một con dốc ngắn rồi đột ngột dừng lại trước một ngôi nhà sàn chung quanh có hàng rào tre phủ kín những dây leo đã khô quắt. Một vài chú chó thò cổ ra sủa nhấm nhách vài tiếng rồi thôi.

Một người phụ nữ đang làm gì đó ở ngoài sàn phơi, ngẩng lên nhìn chúng tôi rồi lại cúi xuống tiếp tục công việc của mình. Mùi phân chuồng xộc vào mũi nồng nồng. Hắn loay hoay dựng xe, tôi ngắm nhìn ngôi nhà sàn trong ánh sáng nhập nhoạng.

Ngôi nhà được làm trên một nền đất dốc, vì vậy phía trước có cột chống, sàn phơi, còn phía sau, sàn nhà được kê luôn lên mô đất, nếu đi lối cửa sau sẽ không phải leo cầu thang.

- Ông Sảng ơi! Ông Sảng ơi! -  Hắn gọi.

Trong nhà có tiếng lục đục, rồi một khuôn mặt đàn ông vuông vức ló ra chỗ cửa sau, cười hề hề:

- Vào nhà đi! Vào nhà đi!

Hắn theo người đàn ông vào nhà qua lối cửa sau. Trước khi bước vào nhà, hắn với lấy cái gáo làm bằng một đoạn ống tre múc nước ở trong một cái chum vại ra rửa chân. Tôi cũng làm theo hắn. Cửa sau thông với bếp. Sàn bếp được rải bằng những mảnh tre, bước đi kêu cót két. Một người phụ nữ đang lúi húi bên bếp lửa cháy sáng rực quay lại cười chào chúng tôi với một gương mặt đỏ hồng hào. Phía ngoài là phòng khách, nền rải ván, rộng thênh thang.

Một bên kê một dãy giường ngủ, chắc là dành cho đàn ông, còn bên kia, những gian buồng được thưng kín lại bằng phên nứa, chắc là dành cho đàn bà. Trong nhà tối om. Chúng tôi ngồi xuống bộ bàn ghế cũ kỹ, đen xỉn. Ông chủ nhà xắp ra mấy cái chén đít bằng, đoạn rót đầy chén thứ nước màu trắng từ một chiếc ấm nhôm to.

- Uống nước đi! Uống nước đi!

Đang cơn khát, tôi cầm chén tu một hơi, suýt nữa thì sặc vì đó là rượu trắng. Thằng bạn cười khùng khục.

- Dân vùng này chẳng mấy khi pha trà, uống rượu thay nước.

Ông chủ nhà cười hề hề, rót đầy chén rượu mà tôi vừa uống cạn rồi lại bảo:

- Uống nước đi! Uống nước đi!  

- Có thịt lợn rừng không ông Sảng?

Hắn hỏi chủ nhà, ông chủ lắc đầu. Hắn nhìn tôi cười cười.

- Thế vẫn còn thịt trâu khô chứ?

- Còn!

- Cả món sáy cáy lẩu van nữa?

- Còn. Yên tâm, uống nước đã! - Ông chủ nhà thủng thẳng.

- Măng đắng mọc chưa nhỉ?

- Mọc rồi. Có rồi. Thích ăn à? Để bảo thằng con đi lấy đã!

- Hay là thôi. Tối rồi - Tôi ngại nên nói vậy.

- Ngay gần nhà thôi mà!

Ông chủ đi ra ngoài sàn, nói một tràng tiếng dân tộc. Cậu con trai đang làm gì đó ở ngoài sàn lẳng lặng vào nhà, không nói một lời, rút phắt con dao dắt trên vách nứa rồi bước ra khỏi nhà theo lối cửa sau.

Quay đi quay lại một lát, mâm cơm đã được dọn ra trên chiếc chiếu trải giữa nhà. Ông chủ nhà đi ra ngoài sàn phơi hú to rồi nói to một tràng tiếng dân tộc, đoạn ông quay trở vào nhà. Ngay lập tức, một chiếc bóng điện ám khói treo giữa nhà mà tôi không hề để ý bỗng sáng lên, một thứ ánh sáng màu đỏ đọc, tất nhiên vẫn hơn là thắp đèn dầu hỏa.

Ông chủ nhà giải thích, đây là nguồn điện từ chiếc máy phát điện nhỏ lắp dưới suối nước chung với hai nhà hàng xóm. Họ đã bị mất trộm hai lần, vừa mua cái này là cái thứ ba, ông không muốn lắp chung nữa vì nhà ông chỉ thắp sáng, còn hai nhà kia thì có tivi. Ông kể lể một hồi rồi lại xua xua tay:

- Thôi, ăn cơm đi! Ăn cơm đi! Cầm chén đi!

Lại cạn một chén đít bằng. Ông chủ múc cho chúng tôi mỗi người một bát con thứ gì đó nóng hổi mà thoạt trông như súp.

- Ăn đi, ăn đi!

Tôi đưa lên ngang miệng, mùi rượu bốc lên ngào ngạt. Bỏ một miếng vào mồm, thấy vị cay cay, ngọt ngọt của rượu nếp, hương thơm của mật ong và đặc biệt là vị ngọt, mùi thơm của lòng đỏ trứng gà chín ngấu.

- Sáy cáy lẩu van đấy! Trứng gà ngâm rượu nếp, mật ong, hạ thổ một trăm ngày rồi mới đào lên. Trước khi ăn đem hấp cách thủy. Thứ này đúng ra là để bồi dưỡng bà đẻ, phải không ông Sảng?

Thằng bạn tôi bỗ bã, ông chủ nhà cười khà khà. Sau món khai vị ấn tượng, tôi thấy phấn kích. Mâm cơm có thịt trâu khô xào với tỏi tươi, một đĩa măng đắng xào với lá mắc mật non - một loại lá cây có mùi thơm rất đặc biệt, một bát củ măng đắng luộc chấm với tương ớt. Lần đầu tiên tôi được ăn củ măng đắng luộc, quả là đã đời.

Sau vị đắng đến gần như khó chịu thì vị ngọt mát thấm vào lưỡi, có cảm giác như ta vừa làm xong một việc gì đó vừa rất khó khăn, vừa cực kỳ thú vị. Thêm nữa, tương ớt là do chủ nhà tự chế, trong thành phần gia giảm có cả bột của vỏ quả mắc mật rang khô, nghiền nhỏ, nên nó là thứ tương ớt mà một thằng "cầm tinh" con... chào mào như tôi chưa từng được ăn bao giờ, rất khoái khẩu.

Mâm cơm dọn ở giữa nhà chỉ có bốn người đàn ông, bố con ông chủ nhà và hai chúng tôi, đàn bà và trẻ con thì ngồi mâm dưới bếp. Thằng con ông Sảng ăn thoáng cái đã xong mấy bát cơm rồi xin phép đứng dậy. Ông Sảng bảo:

- Kệ nó đi xem ti vi ở nhà bên.

Biết tửu lượng của tôi kém nên thỉnh thoảng thằng bạn tôi lại giơ chén lên cạch với ông chủ, bỏ qua tôi, vậy mà đến cuối bữa tôi cũng say đứ đử. Phải nói là bữa nhậu rất ấn tượng nếu thỉnh thoảng tôi không phải khó chịu bởi mùi phân chuồng xộc lên từ gậm sàn.

Căng da bụng chùng da mắt, tôi đảo mắt nhìn mấy chiếc giường trong nhà. Như đoán được ý nghĩ của tôi, thằng bạn vỗ vai:

- Đi tiếp. Nhà ông chủ đây chỉ là trạm giao liên thôi. Đêm nay tớ đãi cậu một bữa ngủ, đấy mới là món chính!

Hắn nháy mắt với ông chủ nhà:

- Ông nhắn bà Mui là hôm nay tôi vào chưa đấy?

- Bảo rồi. Bảo rồi.

Hắn cười, ông Sảng cũng cười theo nhưng tôi trông cái cười của ông chủ nhà lần này cứ méo mó thế nào - đấy là tự nhiên tôi có cảm giác thế.

- Đi lên đèo Mây Phủ một đêm đi ông già!

Vừa khoác áo thằng bạn tôi vừa nhấm nháy, ông Sảng xua xua tay:

- Không đi đâu, không đi đâu. Đi đi...

Tôi cũng khoác áo và đứng dậy. Chui ra khỏi cái khuôn cửa thấp mà hồi chiều tôi đã chui vào, tự nhiên tôi thấy tỉnh táo hẳn. Một luồng gió lạnh phả vào mặt, tôi ngẩng đầu lên, bất giác đưa tay giụi mắt. Ánh trăng đêm cuối  xuân lại đẹp đến thế này sao? Một thứ ánh sáng dịu dàng trong trẻo như mơ, nó không đủ sức soi tỏ cảnh vật nhưng lại làm cho chúng lúc ẩn, lúc hiện, lung linh, huyền ảo.

Ông Sảng soi đèn pin cho hai chúng tôi, ánh sáng quét một đường vàng đục. Hắn rút từ trong túi ra cái đèn pin và dúi vào tay tôi rồi nhảy phốc lên xe, tôi leo lên ngồi sau, hắn giơ tay chào ông chủ nhà rồi cho xe vọt khỏi con dốc nhỏ. Chúng tôi tiếp tục đi sâu vào trong theo con đường độc đạo nhỏ xíu, mỗi lúc lại ngoằn ngoèo. Dưới ánh trăng lúc mờ lúc tỏ, tôi trông thấy từng đám mây lơ lửng trên đầu.

Xe bắt đầu leo dốc. Hắn bảo: sẽ là một con dốc khá dài. Tôi chỉ cảm nhận được độ dốc khủng khiếp khi phải bíu chặt lấy hắn. Rồi ánh trăng mờ dần và sương buông mỗi lúc một dày.

Xe leo dần lên cao và chúng tôi cũng dần dần bị cuốn vào trong một màn sương dày đặc như mây. Tôi không còn trông thấy gì. Sương mù nuốt chửng hai chúng tôi. Chỉ còn nghe tiếng gió bạt vù vù bên tai. Tôi có cảm giác như hai chúng tôi đang trườn lên con dốc trong một cái kén bằng sương. Phía trước, ánh đèn pha xe máy vón lại thành một quầng vàng ệch.

Lạnh. Sương dày đặc. Hắn điều khiển chiếc xe bằng cảm giác, chứng tỏ hắn rất quen đường. Cứ thế, chúng tôi trườn lên trong màn sương vây bủa và cái lạnh thấu dần vào da thịt.

Bỗng "phực", hắn cho xe dừng lại:

- Đến rồi đấy!

Tôi chẳng biết là đến đâu. Hắn tắt máy. Một màn đêm đen đặc bao trùm lấy hai chúng tôi. Tôi chẳng nhìn thấy gì, chỉ hình như nghe tiếng gió hú từ rất xa vọng lại. Chân tay tôi tê cóng vì lạnh. Tôi móc túi lấy chiếc đèn pin bật lên nhưng cũng chẳng thể xác định được phương hướng. Bỏ lại chiếc xe cả trăm triệu bạc bên bờ đường, hắn kéo tay tôi:

- Đi lối này!

Tôi lò dò theo hắn vượt qua một bờ cỏ dại. Tôi đi như mộng du vì chẳng nhìn thấy tí gì trước mặt. Sương trên lá cỏ làm ướt hết cả quần áo. Mò mẫm đi được một lúc, hắn bắt đầu cất tiếng gọi:

- Hú!.. Hú!

- Hú u u... Hú u u...

Có tiếng trả lời. Vất vả lê bước một hồi nữa. Lúc tôi nhìn thấy một quầng sáng mờ đục trong màn sương phía trước cũng là lúc trán tôi suýt va phải mái hiên của một căn lều thưng bằng tre nứa. Hắn tự tay mở cửa. Bên trong căn lều là bếp lửa cháy sáng rực. Một người đàn bà với đôi mắt sắc lẻm cười chào chúng tôi. Tôi sà ngay vào ngồi bên bếp lửa, hơi nước từ quần áo tôi bốc lên ngùn ngụt. Hắn kéo bà chủ ra chỗ có kê chiếc bàn gỗ với mấy cái ghế dài, dưới gậm bàn xếp đầy những can, những chai to nhỏ, mùi rượu nồng nặc. Hắn nói gì đó với bà ta bằng tiếng dân tộc. Tôi chẳng thèm để ý. Say rượu, lạnh và cả cái cảm giác như bị mộng du làm cho đầu óc tôi lâng lâng, mê mê. Hắn từ ngoài bước vào khoát tay:

- Sang bên này!

Tôi đi theo hắn ra phía đằng sau. Hắn dẫn tôi đến một căn lều khác nhỏ hơn, cũng thưng bằng nứa. Trong lều cũng có một bếp lửa chất những cục củi to bằng bắp chân đang cháy hồng rực. Một chiếc phản nằm với một chiếc chăn bông gấp vuông vắn. Hắn vỗ vai tôi:

- Này! Vui vẻ nhé! Hàng sạch đấy! Cứ vui vẻ đi! Không phải suy nghĩ! Tớ trả tiền! Không phải suy nghĩ! Hôm nay chỉ tìm được một suất, ưu tiên cậu đấy, tớ đi uống rượu đây!

Hắn nói một hồi rồi đi ra ngoài. Thú thực, sau này tỉnh rượu, tôi mới nhớ là hình như hắn đã nói những lời như thế chứ lúc đó tôi chỉ nhớ là hắn có vỗ vỗ vai tôi.

Tôi cời than cho lửa cháy to rồi cởi quần áo dài chui vào chăn. Tiếng củi nổ lép bép, hơi lửa nồng nồng. Bên ngoài, gió giật lên từng hồi, lúc nghe rõ tiếng ầm ầm ù ù như tiếng xay thóc phát ra từ chiếc cối khổng lồ, lúc lại mơ hồ như tiếng rú rít của bầy thú hoang từ rất xa vẳng lại. Cảm giác vừa nồng ấm vừa hoang vu. Tôi thiếp như mê đi.

Một lúc lâu sau, có lẽ khi bếp lửa đã lụi bớt, hơi lạnh ở ngoài xâm chiếm căn lều, tôi nửa tỉnh nửa mê, cảm giác như có người nằm bên mình. Hay là hắn đi uống rượu ở đâu đã về rồi. Không mở mắt, tôi xoay người bỗng chạm phải một thân hình mềm mại, ấm rực và thơm.

Vẫn vô thức, tôi xoay người ôm lấy cái khối thơm nồng, ấm rực và đang run lên bần bật ấy. Một luồng rung cảm dữ dội truyền qua tôi. Tôi lờ mờ đoán rằng đó là một người đàn bà. Mà không, phải là một cô gái còn nguyên sự trắng trong bởi tôi cảm nhận được sự sợ hãi đến tột cùng nhưng cố nén. Em đã trút bỏ hết quần áo. Tôi đã úp mặt vào ngực em, nơi nhú lên hai đọt măng rừng kiêu hãnh.

Đầu óc tôi mụ mị, còn trái tim em thì điên cuồng loạn nhịp vẫy vùng trong lồng ngực như một con cá sa lưới. Tiên sư hắn. Đúng lúc đó tôi nhớ đến câu nói của hắn: "Hàng sạch đấy, cứ vui vẻ đi... Hôm nay chỉ có một suất...".

Giá như hắn đừng nói có hơn không. Tôi choàng mở mắt, ngây dại nhìn em. Trong ánh tranh tối tranh sáng của bếp lửa đã gần tàn, sáng lên một thân hình vệ nữ. Đẹp quá, non tơ quá. Em như một bộng ong rỏ mật ngay trước mũi một con gấu đói là tôi. Nhưng cả khuôn mặt em nhạt nhòa nước mắt, đang cố giấu vào mái tóc xổ tung, rối bời. Tôi không thể nào...

Tôi vùng dậy ra ngồi bên bếp lửa, lập bập châm thuốc, lập bập cời than cho lửa cháy lên. Em cũng ngồi bật dậy, hai tay bưng mặt. Tôi vô cùng bối rối. Em khóc, những đường cong rung lên theo tiếng nấc, suối tóc đổ xuống một bên vai, bắt ánh lửa lấp lánh như kim tuyến. Tôi như bị dính chặt vào khúc gỗ làm ghế ngồi kê trên nền đất.

Một lát sau, em như bừng tỉnh, luống cuống mặc quần áo, đôi bàn tay run bắn đến tội nghiệp. Tôi rít liền mấy điếu thuốc. Em cũng đã thôi nức nở, lặng lẽ đến ngồi vào khúc gỗ kê đối diện. Giữa hai chúng tôi là bếp lửa bập bùng. Em ngồi yên lặng, mắt chăm chăm nhìn lửa cháy, đôi bàn tay ôm lấy bờ vai, đầu hơi cúi, đôi mí mắt mọng đỏ. Biết em còn đang sợ hãi, lòng dạ tôi rối bời, muốn nói điều gì đó với em mà không thể cất được thành lời. Chúng tôi ngồi như thế thật lâu.

Hít một hơi thật sâu, tôi hỏi: "Em tên gì?". Em không trả lời. "Em tên gì"- Tôi lại hỏi. Khoé miệng em run run: "Moóc". "Moóc à?". Em gật đầu. "Em... em bao nhiêu tuổi?". "Mười bẩy". "Lần đầu đến đây phải không?". Lại gật đầu sau khi tôi kịp nhìn thấy hai giọt nước vụt trào ra khoé mắt, lăn xuống lấp lánh. "Em..." - Tôi bỏ lửng câu hỏi. Biết nói thế nào nhỉ. Có thể tôi là một thằng khùng nhưng tôi không muốn làm em bị tổn thương bởi trông em bây giờ nhỏ bé, yếu ớt như con chim sẻ ngô sa bẫy.

Chúng tôi lại ngồi im lặng, lửa vẫn cháy bập bùng. Ở bên ngoài, gió như thể mệt nhoài đã thôi gào rít. Tôi nhìn thấy một bàn tay em nhuốm màu xanh tím, bàn tay của những cô thôn nữ nhuộm chàm. "Nhà em ở gần đây à?". Em gật đầu. "Bên kia con dốc phải không ?". Em lại gật đầu, tôi kịp nhìn thấy hai giọt nước vụt trào ra khoé mát, lăn xuống đôi cánh mũi phập phồng. "Em... em…".

Một lần nữa, tôi lại bỏ lửng câu hỏi. Quả thực là giờ đây tôi chẳng còn biết nói gì. Có thể em đang có một nỗi éo le nào đó. Hẳn rồi. Có thể em đang cần tiền. Hẳn rồi. Không có tiền cũng là một nỗi éo le. Hay tôi đúng là thằng khùng, tôi có quyền gì mà suy đoán như vậy chứ.

Nhưng tôi tin em, tin vào những suy đoán của mình. Ném điếu thuốc vào đống lửa, tôi không biết làm gì hơn là lại lập bập châm điếu khác. Tôi, một thằng đàn ông đã quá nửa đời người lại vô dụng đến thế ư, trước vẻ ủ dột của em, trước nỗi buồn của em? Em khóc.

Những giọt nước mắt lóng lánh nối đuôi nhau. Tôi ngạo mạn về sự nhạy cảm của mình hay là tôi ngu ngốc, tôi điên? Tôi biết gì về em cơ chứ, về sự éo le của em? Hay là chẳng có sự éo le nào hết? Không? Không thể. Trong ví tôi có tiền, hình như là vài triệu. Nhưng vài triệu bạc của tôi phỏng có ích gì? Liệu tôi có nên đưa chúng cho em? Tôi sẽ phải nói thế nào, hay sẽ phải làm gì. Khốn nạn. Tôi có thể làm được gì kia chứ, chỉ là vài triệu thôi mà, có mua nổi nỗi buồn của em, có đổi được sự éo le của em? Tôi có thể làm được điều gì đây để em đừng bao giờ đến nơi này nữa. Đừng đến nữa!... Tôi quay cuồng bao ý nghĩ. Em thì vẫn ngồi yên. Bếp lửa đã tàn.

Một tiếng gà rừng gáy phá tan im lặng. Lần đầu tiên, em bỗng thảng thốt nhìn vào mắt tôi. Tôi nhìn ra ngoài trời, vẫn một màu trắng nhờ nhờ như ánh trăng. Hơi sương lọt qua khe cửa như những sợi khói mỏng manh. Em nhìn tôi chăm chắm rồi đứng vụt dậy, nhao ra cửa mở toang cánh liếp chạy ra ngoài. Hơi sương ùa vào kín đặc cả căn phòng. Gió ùa vào thổi tung những hạt tro bé xíu, bụi tro lẫn với hơi sương mù mịt. Tôi nhao ra cửa, chỉ bắt gặp tứ bề một màn sương trắng đục. Sương theo gió táp vào mặt tôi những hạt nước li ti. Em đã chìm khuất vào mù sương không một chút dấu tích. Như là tôi chưa từng nhìn thấy em giữa đỉnh đèo hoang sơ và mịt mùng sương lạnh này.

*

Tôi quay trở lại căn lều đã kín đặc hơi sương, nằm vật ra trên tấm phản. Không biết tôi nằm như thế bao lâu thì hắn xuất hiện. Trông hắn thật kỳ quái với bộ quần áo dính đầy những sợi cỏ màu nâu, ướt mèm. Hắn ngó vào mặt tôi bảo: "Sao thế? Trông như người mất hồn ấy!". Rồi hắn bỗng lăn ra cười: "Ha ha ha... Mà đúng là cậu mất hồn thật rồi, buồn cười quá, ha ha ha...". Nhìn hắn, tôi chỉ muốn cho một quả đấm mà thôi.

Chiều hôm đó tôi và hắn xuống núi. Qua nhà ông Sảng, hắn cũng chẳng rẽ vào, hắn bảo giờ này ông đi đồi, chẳng có nhà.

Sau này, mỗi khi gặp tôi, nhắc lại cái đêm trên đèo Mây Phủ, hắn lại nhìn tôi cười hô hố, tôi cũng đành giả ngô giả ngọng cười theo. Hắn bảo thực ra cái tên "Mây Phủ" là do hắn tự đặt ra, không phải cái loại sành chơi như hắn, chưa chắc đã biết đường tìm ra nơi ấy.

Có lần tôi hỏi hắn: "Moóc - tiếng dân tộc nghĩa là gì?". "Moóc à - Hắn lơ đễnh - Moóc là sương. Sương mù ấy mà

Tình sim

Hắn cũng nhiều lúc định hỏi nàng, tại sao tốt nghiệp đại học loại khá hẳn hoi mà cam tâm sống kiểu ấy, tháng tháng nhận tiền bao của một lão trọc phú chơi trống bỏi…Rồi hắn tặc lưỡi, thôi! Kệ việc của nàng! Ngay như ta đây từ quê ra tỉnh với ước mơ đổi đời, rốt cuộc nhiều ngày cũng chỉ gặm bánh mì với nước lã mà không biết đến bao giờ mới "nên người"…

1.Bất giác, hắn quờ tay sang bên cạnh, không thấy nàng đâu! Thường là như vậy.  À! Có thể nàng lại đi mua mấy lon nước ngọt, hai cái bánh mì nhân bơ, mấy quả quít Tầu bọc giấy bóng trông thì tươi roi rói vì ngâm hóa chất, nhưng ăn hơi thum thủm vì để lâu ngày… Biết tìm gì trong cái xóm trọ hun hút này khi người ta không muốn đi thật xa hơn nữa.

Hắn hiểu tính nàng, hễ ngấu nghiến cái này xong, thì y như rằng, phải nhấm nháp cái gì khác. Nhiều khi hắn bật cười vì hình dung miệng nàng không khác một đứa trẻ lên năm hay đòi quà vặt…

Ồ! Hay nàng về rồi! Về với lão chồng hờ đang "thuê bao" nàng. Cái lão thích hàng hiệu nhưng lại là nhà kinh tế vi mô. Chi cho nàng tiền ăn, tiền thuê nhà, tiền quần áo, tiêu vặt… chính xác quá.

Nàng bảo, lão không dưới mười lần ề à đọc nàng nghe câu "danh ngôn" chết tiệt: "Có ba thứ trung thành với ta, đó là chó già, vợ già và tiền trong túi". Cái lão dù xót tiền điện thoại thỉnh thoảng vẫn gọi điện kiểm tra làm nàng nhiều phen mất hứng mà vẫn phải nũng nịu, rằng: Em đang đi gội đầu lá thơm… em đang mát xa chân Hàn Quốc… em đang ăn gà tần ở Ngã Tư Sở… huyên thuyên một hồi rồi nàng quẳng điện thoại xuống cái chăn rách của hắn, chồm lên người hắn, hôn hắn tới tấp…

2.Trông bắt mắt như một chiếc điện thoại xêri mới nhất, bộ váy áo vải bóng bó sát thân thể nàng, khiến hắn nuốt nước bọt khan, liên tưởng đến nắp trượt sành điệu sắp trượt hẳn ra. Đôi mắt nàng như hai ống kính camera kỹ thuật số xoay 360 độ và đèn flat lóe sáng… làm hắn choáng người khi gặp lần đầu…

Hắn cũng nhiều lúc định hỏi nàng, tại sao tốt nghiệp đại học loại khá hẳn hoi mà cam tâm sống kiểu ấy, tháng tháng nhận tiền bao của một lão trọc phú chơi trống bỏi…Rồi hắn tặc lưỡi, thôi! Kệ việc của nàng! Ngay như ta đây từ quê ra tỉnh với ước mơ đổi đời, rốt cuộc nhiều ngày cũng chỉ gặm bánh mì với nước lã mà không biết đến bao giờ mới "nên người"…

Ừ! Kể ra nàng là chút gia vị của đời hắn hay là ngược lại cũng được lắm chứ..  Hắn nhớ cái hôm hắn đi bán rao thẻ sim điện thoại. Đấy là một sáng kiến marketting vĩ đại của hắn.

Thời buổi nhà nhà  di đông, người người di động. Hỏi thăm nhau cũng thêm cái khoản: bác đang dùng mạng nào? Lâu không gặp lại hỏi: vẫn dùng số cũ đấy chứ? Càng không phải đại gia càng dùng nhiều sim cho rẻ. Dùng đến mức chẳng nhớ nổi số đang dùng. Lại sinh ra khái niệm di động di động và di động cố định.

Một máy thì thỉnh thoảng tháo sim cũ, lắp sim mới vào gọi. Sang nữa thì chơi hai ba máy. Có lúc hai con dế trong túi quần đều gáy mới khổ. Gọi cho bồ mua một sim, đánh ghen mua một sim, bịt mũi gọi dọa sếp - một sim, nhá máy chơi xả stress - một sim… hoặc cứ mua chơi để làm gì tính sau. Mất gì của bọ. Rẻ thiu rẻ thối. Dùng cho chán đi. Nay mai các mạng bắt đăng ký thông tin cá nhân thì hết vị. Thế nên cảnh mua sim như mua rau, vứt sim  hết tài khoản như vứt cọng rau thừa là thật rồi…

Đã thế hắn đi bán rong như một chị buôn rau đích thị từ chợ đầu mối… Ai sim đ..â..y… Ai sim n..à..o… thuê bao hòa mạng mới có cơ hội trúng thưởng một xe Méc xê đéc  đ…â…y…

Nàng mời hắn ngồi trên giường. Nàng còn giả vờ ngây ngô bắt hắn dạy đi dạy lại cách lắp sim vào máy… dạy mãi đến khi  nàng gục vào vai hắn mà khóc rằng: "Đời em không bằng một chiếc sim còi…".

Hắn đã dẫn chiếc sim  về căn phòng trọ tồi tàn rẻ tiền mà vẫn lãng mạn trong sự cảm thông được khuyến mại… Ôi! Thật đáng yêu vì đời sinh ra những chương trình khuyến mại, ước gì những khuyến mại hay đúng hơn là khuyến mãi cứ kéo dài bất tận. Em ơi… em… hãy cùng khóc và cười đi…

Ôm nàng trong tay ngủ. Hắn mơ thấy bọn sim đẹp, tứ quý, lục quý, lộc phát lộc phát, vĩnh cửu… hầu hết đang cùng ông chủ vi vu trong những chiếc xe hơi sang trọng, khệnh khạng trong những vila đắt tiền. Say quắc cần câu nào những rượu tây rượu ta, những đặc sản cả thú và người, hay cuồng quay với các loại thiếu gia, tiểu thư động cỡn…

Bước ra ngoài, những sim xấu bị bỏ rơi nơi vỉa hè, bãi rác, xó xỉnh… Chúng khi khóc ti tỉ thê lương, khi lặng câm dưới những gót giày vô cảm. Muốn làm phế liệu cũng chẳng được, chúng quá nhỏ. Chưa ai nghĩ đến chuyện thu gom để tái chế bao giờ. Người ta không để ý rằng, chúng cũng đã từng hòa mạng, cũng  từng có một tài khoản hẳn hoi, cũng tính vào tốc độ tăng trưởng vũ bão của mạng. Rồi có thể chỉ sau một cuộc gọi - chúng đang ở đâu đó dưới đất…

Khác gì nhau lúc đầu? Những chiếc sim vô tội. Chúng đã góp phần nuôi hắn trong mấy năm trời nơi xa lạ, cùng bao người khác như hắn, hơn hắn, có kẻ đã giàu to.

Khách hàng của hắn, kẻ nào không muốn sở hữu một số đẹp hoặc chí ít cũng phải là số tiến để mong phát đạt, mong nhiều lộc từ trên trời rơi xuống…

Sẽ có hàng vạn chiếc sim bao năm chẳng ai thèm để ý trừ khi có những toan tính thực dụng của những thượng đế bình dân và tiếp thị khôn ngoan của chủ mạng… Thân sim như hạt mưa sa…   

Mơ gì mà chảy cả nước mắt vậy anh. Nàng gọi hắn. Đồ ngốc. Làm quả quýt cho tỉnh. Lại quýt! Sao thành phố chỉ sẵn quýt ung ủng là thế nào. Em biết mùa này ở quê ăn quả gì rất ngon không. Sim. Những đồi sim thuở nhỏ. Hôm qua, anh đang mơ thấy mình chạy từ  nhà ở chân đồi lên tới đỉnh đồi, hái một quả sim chín mọng đang bỏ vào miệng chờ vị ngọt rất dịu thơm của nó thì lại là vị quýt ủng. Trời ạ!

Nàng cười ngặt nghẽo rồi chìa đôi môi tô son tím ra. Sim chín của anh đây. Em đền. Hắn lắc đầu. Nàng giận dữ bỏ về…       

4.Như một sự tình cờ gặp lại ở quán cơm bình dân cạnh nhà trọ của hắn, nàng đang vô cùng phấn khích. Phải chăng vì lão chồng hờ đã cộng vào tài khoản của nàng khá hơn sau khi trúng mánh. Cũng để giữ chân nàng vì nàng còn trẻ, "thời hạn sử dụng" còn dài dài và biết đâu sẵn sàng xuất hiện kẻ "cạnh tranh không lành mạnh" với lão.

Nàng say sưa khoe hắn những thứ mới sắm. Rủng rỉnh tiền trong thẻ nhưng nàng không bỏ sót một chương trình big sale- giảm giá nào.

Cho em về nhà anh nhá. Hắn cũng chẳng còn thấy lạ gì những tỉ phú đi mua hàng vẫn sướng mê khi được thêm một chiếc lót nồi miễn phí…Và đương nhiên, lần này nàng lại khoe với hắn một con dế sáng choang.

Em đang lắp sim nào vậy? Chiếc sim hắn tặng nàng hồi đó đã hết tiền từ lần gặp cuối, chắc nàng đã vứt lâu. Đôi khi hắn thấy ghen vu vơ. Nàng cũng từng dùng nhiều sim lắm. Có phải mỗi chiếc sim kia là một cuộc tình mưa bóng mây. Bao tài khoản ảo đã được dùng phung phí. Một sự bóc ngắn cắn vào tay được gọi là tình khuyến mại?

Không phải chỉ nháy máy, hắn đã chủ động gọi nàng mấy lần. Gọi vào chính cái số hắn chọn - số năm sinh - và tặng nàng vì hắn không bao giờ thèm biết cái số lão chồng hờ của nàng cấp. Không được. Chỉ có tổng đài tự động trả lời. Tìm em như thể  tìm chim/ Vì  em đổi số, thay sim mất rồi… - Hắn đã từng bật ra câu đó…

Vậy mà bỗng nhiên nàng lại trở về với hắn sau nửa năm im bặt. Lại rực lửa, hoang dại làm cho hắn như kẻ khát gặp bia hơi. Khuyến mại đây rồi, ai chẳng thích. Nhưng nốt lần này phải rõ ràng đấy nhé. Dùng mạng nào, gói cước nào cho dứt khoát. Không chơi một máy nhiều sim nữa đâu. Hay là về quê mang sổ đỏ mấy đồi sim đi thế chấp vay vốn mở hẳn một đại lý viễn thông ra hồn.

Với kinh nghiệm của những ngày lọ mọ mưu sinh của hắn, với tiềm năng của nàng, hắn tin có thể sống được. Hắn định bàn vậy, thế mà trong lúc hắn đang thiếp đi sau cuộc gọi hết cả pin, nàng đã chuồn đi đâu để hắn một mình ngủ rồi mơ mơ màng màng chẳng biết là sáng hay chiều…

Hắn trở mình. Bỗng thấy hơi vướng vướng ở sườn. Ôi! Là chú "dế'' của nàng chứ gì nữa. Hắn choàng dậy bật điện. Nàng không mang theo, chắc là sắp quay về. Đẹp quá! Cẩn thận kẻo xước. Hắn hồi hộp.

Trời! Bất ngờ đến rụng tim. Nàng đang lắp sim của hắn tặng... Tin nhắn mới gì đây. À, của mạng. "Trân trọng thông báo, quý khách kích hoạt lại sim khóa hai chiều được tặng… đồng vào tài khoản…''. Hóa ra là vậy, nàng dùng lại sim này và nhớ đến hắn chỉ vì chương trình sim cũ hồi mạng.

Hắn chưa kịp cụt hứng thì: Toẹt! Cái vỏ con dế bóng loáng rơi ra, bên trong máy bay ra lả tả những bụi là bụi…

Và nàng mở cửa với nụ cười nhợt nhạt, giơ trước mặt hắn một… túi quýt thật to

Anh chồng "tầm gửi

Hắn tru tréo trong điện thoại: "Cô ở đâu, về nhà ngay, chồng cô bị tai nạn giao thông hết đi được rồi nè!". Chị thật sự lo lắng, hắn mà bị tai nạn không khéo chị phải nuôi cơm thuốc cả đời vì ai lại quá vô tâm với người đã một thời đầu gối tay ấp, dù với chị, thời gian ấy là chuỗi ngày tủi nhọc và đau hận nhất…

Trung tâm thương mại lúc nào cũng tấp nập người vào ra. Nhất là vào những buổi chiều cuối tuần, tám cửa chợ đầy đặc người chen vai mua mua sắm sắm. Chợ thì to, người thì nhiều nhưng hình như không ai chú ý tới một người phụ nữ bé nhỏ cùng chiếc xe đồ chơi trẻ em cũng bé nhỏ đang chống chằng chịt những cây tó tự chế cho xe khỏi ngã trong những cơn gió chiều đang thốc ràn rạt từ nhiều phía.

Một chiếc xe chở hai em bé chạy chầm chậm ngang, đôi cách tay nhỏ xíu vẫy vẫy dừng lại nhưng tiếng máy vẫn nổ giòn, niềm hy vọng bán được một món đồ gì đó, một chiếc bong bóng hay cây chong chóng giấy của người chủ xe đồ chơi cũng tan biến theo làn khói xe sau câu nói: "Thôi con, qua xe khác mà mua, xe này đồ ít sịt, không có gì lựa hết".

Rồi một bác chở cậu cháu trai chạy rà rà tới: "Có siêu nhân kiếm không? Lấy một con cho cháu nội tui đi!". "Dạ, không có siêu nhân kiếm, có siêu nhân dơi thôi ạ, bác m…ua…gi…ù…m?". "Người ta tìm siêu nhân kiếm, mà mời mua siêu nhân dơi cho nó lăn đùng ra khóc à?". Tiếng máy xe lại hòa giòn trong dòng chiều ồ ạt.

Một bé gái biết đi lẫm chẫm đưa tờ tiền một ngàn về phía người phụ nữ bán đồ chơi và cánh tay non tơ ngắn ngủn ấy huơ huơ chỉ lên phía chiếc bong bóng màu đỏ. Người phụ nữ trao cho bé chiếc bóng. Nó chạy ào về hướng người mẹ đang đứng trò chuyện dưới gốc cây me tây trong hành lang chợ:

"Bơm cái khác, nhỏ nhỏ thôi cho lâu bể, con nít mà đưa cái bong bóng to đùng cho nó đập đặng bán cái khác liền à?" - Mẹ bé hướng về phía người bán đồ chơi trẻ em, bảo. Cô búp bê nhỏ nhắn lúp xúp chạy lại trả chiếc bóng này và chờ nhận chiếc bóng khác.

Đường chiều mỗi lúc một rộn ràng thêm, không gian như chật chội hơn khi bóng hoàng hôn đã xuống thấp sau rừng ăng ten, nhà cao tầng.

Sau những câu cù cưa, chê bai lấy lệ, hai con vịt con, một con siêu nhân, bảy cây chong chóng; mười cái bong bóng đã được bán đi…

Với chị hôm nay là ngày "bội thu".

Thằng con hai tuổi đón mẹ ở cổng. Từng tiếng nói của nó còn chậm chạp, vài tiếng khó phát âm còn ngòng ngòng nhưng cu cậu vẫn líu lo:

- Mẹ ơi… hồi nãy… Khang thấy con… chụp (chuột) bự lắm. Thấy nó… Khang hết… đi … được luôn…

- Tội nghiệp con tôi! - Chị ôm thằng bé vào lòng, siết chặt - Rồi con làm sao?

- Thì Khang… chờ nó bò… bò… đi  mất … rồi Khang… mới đi. Mà mẹ ơi… con chụp không có… nhiều lông…

- Con có sợ không? - Chị dụi mặt vào đôi má phính phính lông tơ của con, không ngớt trận mưa hôn.

- Sợ… Khang sợ lắm… mai mốt… mẹ đừng bỏ… Khang nữa nghen… lỡ con chụp  nó… ăn… thịch Khang thì sao?

Nghe con nói mà chị chết từng đoạn ruột. Nó còn quá nhỏ để hiểu cuộc sống này. Làm sao nó biết được để có cơm cho nó ăn, sữa cho nó uống, thuốc cho nó dùng lúc ốm đau… chị phải bươn bả trong dòng đời khi con còn chưa rời vú mẹ.

Nó vô phúc có một người cha quá vô tâm. Với anh ta, cuộc sống là phù du. Anh ta không cần lo toan chi cả, ngày có ba bữa ăn bỏ vào bụng là hạnh phúc rồi. Bao nhiêu tầm thường cuộc sống đều trút lên đôi vai bé nhỏ của chị. Cái nghèo, cái ăn, cái mặc đã khiến con người ta bần cùng đi, tia nhìn của chị đục như nước vo gạo vì món nợ đời: ăn và sống.

*

"Em có còn nhớ anh không?" - Tiếng anh trầm ấm thân thương qua sóng điện thoại của ngàn cây số. Chị run lên, người như khuỵu xuống trong lời đáp "Dạ, còn…" như gió thoảng. "Anh tìm em bao nhiêu lâu nay, em có tội gì mà nỡ đọa đày mình như vậy? Bỏ ngay, bỏ những thực tế đáng buồn và quay về với chính mình, nếu còn nhớ đến anh".

"Nhưng anh ơi, còn con em, còn cuộc sống…?". "Em tưởng con em sẽ tự hào vì cuộc sống vá víu, nhọc nhằn mà em đang nuôi dưỡng nó à? Em hãy cho con mình một cuộc sống khác hơn đi!".

Chị đã giấu mình như trốn chạy. Lấy anh ta chị không dám nói là sai lầm, chỉ có thể chép miệng gạt mình "âu đó là duyên phận". Ra đường chị nón áo sùm sụp, chỉ chừa đôi mắt, nhưng bạn bè, người thân tinh ý vẫn nhận ra. Họ hỏi, chị giả vờ như người câm, chỉ đưa tay "ra dấu" số tiền và gật đầu khi đồng ý lời trả giá; không thì lắc thế là xong.

Những con vịt cánh cam, những thiên nga xanh lục, hồng tươi, những siêu nhân đỏ chót, xanh biển bóng ngời, những cánh chong chóng nhiều màu sặc sỡ… chị mang đi tô đẹp cho tuổi thơ bao nhiêu đứa trẻ, nhưng với con mình, chị gói gọn tuổi thơ nó trong cuộc chiến áo cơm.

Vậy mà anh tìm đâu ra số điện thoại của chị, một cái S-phone cũ kỹ của một người không quen bán lại, chỉ cần "nghe mãi mãi" ấy mà, để liên lạc với chủ cửa hàng khi cần chứ có se sua đáng giá gì cho cam.

Hắn vẫn vậy, vô tâm và vô tình, chỉ có cái miệng nói là không bao giờ dứt. Ai đó thử nói với hắn về lĩnh vực kinh tế đi, từ vườn ruộng rầy nâu, rệp sáp tới bệnh vàng lùn, xoắn lá… hay sang văn hóa đi, hắn sẽ khiến người nghe phải bái phục.

Tại sao ở tỉnh ta có địa danh "ngã tư chiêu hồi", giờ làm gì còn chuyện chiêu hồi, sao trong tập địa chí lại dùng tên đó? Rồi "ngã tư nhà đèn" là sao, bây giờ nơi đó là trụ sở của điện lực tỉnh, sao trong sách địa chí không in là "ngã tư điện lực" cho bà con dễ biết? Trên thế giới có bao nhiêu anh hùng vượt qua được ải mỹ nhân? Hitler vì sao phải kết thúc sự nghiệp của mình sớm như vậy? Ông Sadam Hussen chết vì sao? Rồi gần nhất là cuộc đua vào Nhà Trắng của cựu đệ nhất phu nhân và một "anh da màu", hay cái chết của cựu nữ thủ tướng nước nọ… Hắn đều nói như một cái máy đã được lập trình sẵn.

Chị mệt mỏi với những hiểu biết của hắn, có người cho chị sướng quá hóa rồ, có phúc mà không biết đường mà hưởng, có một người chồng uyên bác như vậy mà không bảo hạnh phúc. Hay muốn vồ lấy một anh chàng trí ngắn như củ lùn, tối ngày chỉ biết mang gạo về đong vô khạp rồi xoay ra đo lọ nước mắm, đếm củ dưa hành…

Oan không? Chị nào muốn vậy, chỉ muốn hắn thực tế một chút, hay lam hay làm một chút. Nhưng hắn bảo: "Em đừng khinh tôi, 47 tuổi tôi sẽ là tỉ phú đó, sách tử vi nói rồi. Cuộc sống này là kiếp tạm, có cái ăn hàng ngày đã phúc rồi, lo chi nhiều cho mệt".

- Trời ơi, giờ mới ngoài 30, không chịu lao động, lấy gì ra mà để 47 tuổi là tỉ phú? - Chị muốn gào lên như vậy nhưng hắn đã nằm úp xuống, hai tay giấu dưới ngực - dấu hiệu hắn ngủ và đừng ai lay dậy nếu không muốn sinh chuyện. Nuốt nước mắt, chị lại dắt xe đồ chơi trẻ em ra khỏi nhà, lòng thầm vái hôm nay bán được khá, vì thằng nhóc đã tái chứng viêm phế quản…

Những buổi mai anh dắt tay chị đi trên đường thủ đô ngập nắng. Nhìn nét mặt rạng ngời của chị, người ta cứ ngỡ người này có vấn đề về trí não. Chứ ai lại nhẩn nha giữa dòng xe cộ đầy bụi khói mà trên môi không lúc nào tắt nụ cười. Ngày hai lượt qua con dốc cao và ngắn này, chị không gọi con dốc theo tên mà gọi là "dốc chó đá" vì đầu dốc, ngôi nhà hai tầng nọ, ông chủ không biết thâm ý gì mà đặt hai con chó đá to sầm dưới giàn hoa giấy lúc nào cũng khoe màu hồng tím ngập khoảng trời xanh.

Công ty nước trái nhàu đặt văn phòng giao dịch và bán sản phẩm quảng cáo ở tỉnh chị. Họ cần nhân viên bản địa, cần cù với công việc, kiến thức không cần qua đại học mà chỉ cần qua một khóa maketing ngắn hạn. Thế là chị đăng ký, hồ sơ được duyệt còn ưu ái: khi chị đi học, họ ở nhà xây dựng văn phòng và trở về chị sẽ là trưởng phòng với điều kiện chị phải làm việc lâu dài cho công ty và giữ nguyên "vùng nguyên liệu" là cả hécta nhàu của bà ngoại chị để lại.

Những cây nhàu với lá thon dài xanh thẫm lâu nay tưởng là cây hoang, trái để trẻ em làm "đạn" chơi ống thụt giờ bỗng dưng lên hương một cách lạ kỳ, lá nhàu cũng là một vị thuốc chữa đau lưng, nhức mỏi. Lá nhàu non ăn được, mềm nhưng rất đắng, lá già xắt nhuyễn xào với dấm ta lót lưng nằm sẽ bớt chứng đau lưng tuổi già.

Nhưng hắn không cho chị đi!

- Em lạ thật đó, cứ phải làm "ông này bà nọ" mới chịu à? Sao em không an phận sống như các gia đình khác. Em đi làm chi để con vắng mẹ, vợ thiếu chồng?

- …

- Có được cái ăn là hạnh phúc rồi. Mình còn có cái xe đồ chơi trẻ em, chứ ngoài đời thiếu gì kẻ phải đi lượm ve chai mà gia đình vẫn hạnh phúc kìa!

- Sao anh biết họ hạnh phúc?

- Sao lại không, nhìn mắt họ là biết họ thế nào rồi.

- Vậy có bao giờ anh nhìn mắt em xem em có hạnh phúc không?

- Em quá hạnh phúc! Tôi không bài bạc, gái trai thì còn đòi gì nữa?

- Nếu anh bài bạc, gái trai chắc em dễ xử hơn! - Chị nói với chính mình khi luôn tay dọn quần áo vào vali cho chuyến đi ngày mai. Ngoài sân, hắn vẫn tru tréo:

- Tôi nói không cho đi là cô không được đi nghe không? Cãi lời tôi thì tôi bỏ mặc. Cả thằng con của cô nữa, đi thì nhớ mà mang nó theo giùm! Đừng để ở nhà báo cơm tôi!

- Anh không lo. Con tôi sẽ gửi về ngoại!

Nhưng khi chị kéo vali và tay bồng con ra cổng thì hắn níu lại:

- Bích Trân… em suy nghĩ lại đi… Anh xin lỗi… Nếu em đi… anh… anh lấy gì sống?

- Anh đừng lo, tôi vẫn lo đủ gạo, mắm cho anh mà…

Và chị đi. Ba tháng học không quá nhiều về thời gian nhưng với tình mẫu tử sao mà dài thăm thẳm. Nhiều đêm chị mơ mình xoa tấm lưng bé xíu mịn màng và ấm nóng đó, rồi ôm con vào lòng như ôm báu vật, rồi say sưa ngắm con như ngắm thiên thần…

Chị lại hôn lên đôi má bầu có lúm đồng tiền sâu hoăm hoắm của con, đôi mắt một mí, đôi chân mày như cây chổi xể giắt ngang đầy nghị lực. Chị trở mình mới nhớ ra đang ở nơi xứ lạ. Ôm chặt chiếc gối, chị mở điện thoại định gọi cho con nhưng chợt nhớ bây giờ chưa 5 giờ sáng.

Ưm… thì cứ gọi, biết đâu… "Tài khoản của bạn đã hết, vui lòng quay 900 để…" - giọng nói nhẹ nhàng đã được mặc định từ tổng đài làm chị ngẩn ngơ. Ưm, sao mình mau quên thế nhỉ, hết card hai hôm nay, ở nhà chồng chị bảo đã nhận tiền của văn phòng công ty và chuyển nhanh cho chị nhưng ba hôm nay vẫn chưa thấy.

Anh lại dắt chị đi trên những con phố dài của thủ đô. Vì câu nói của anh mà chị dám vứt bỏ thực tế để về với chính mình, chị thừa khả năng và tài sức để làm được công việc khác. Anh bảo, con người em không phải được sinh ra rồi chết dần đi bên góc chợ cùng xe bong bóng. Tuổi em còn quá trẻ, tương lai thì rất dài, sao lại để thui chột đời mình vì món nợ đời không đáng có?

Sống trên đời, ai không phải ăn cơm, mặc áo nhưng mỗi mâm cơm khác nhau, mỗi chất liệu vải may áo khác nhau, sao mình không chọn cho mình điều tốt đẹp hơn khi có thể?

Hà Nội cổ kính và thong thả. Buổi sáng không quá nhiều hàng quán với cảnh chèo kéo khách, càng không thấy chuyện "nói thách" như ở trung tâm thương mại tỉnh chị. Chị còn nhớ mãi những gánh trái cây: quất hồng bì, vải, đào, chuối… của các mẹ, các chị. Sao họ nhẫn nhịn một cách lạ kỳ, khách cứ tha hồ lựa, lựa đến giập bầm cả thời gian nhưng cũng không mua một món nào, thì mình lại gánh đi. Nếu ở nơi khác chủ hàng sẽ bảo:

- Không tiền hả, thì xin người ta cho. Bày đặt lựa làm gì, tay bị thúi à?

- Mở hàng chết giang kiểu này, bán không được chiều tao mang lại trước nhà đổ cho biết mặt!

- …

Ba tháng học trôi như cổ tích, chị trở về với công việc, nhưng kỷ niệm êm đềm của một tình yêu cũ đã dắt dìu nhau qua nhiều lớp sóng mới của cuộc đời không làm sao chị quên được.

Một công việc mới ổn định nhưng tan vỡ một gia đình liệu cái giá ấy có ngang tầm? Ở nhà, chồng chị đã bán tất cả những gì có thể của 5 năm chung sống, từ chiếc xe máy cà tàng, chiếc tủ quần áo đèm đẹp, cả giàn máy tính mà cơ quan cấp cho chị và khoản nợ gần chục triệu mà hắn mượn của tất cả bạn bè, người thân với lý do "Gởi nuôi vợ tôi đi học", nhưng kỳ thật chị không nhận bất cứ một đồng nào.

Thằng em họ xa của hắn bảo chị đừng hỏi tiền đi đâu, hắn đã "nướng" hai tuần lễ thời gian ở quán bia ôm thì… còn cái nóc nhà là may lắm!

- Bây giờ cô có vai có vế, có ông  này  bà nọ trong xã hội rồi cô đòi ly hôn tôi phải không? Tôi cho cô biết, cô ly hôn tôi chứ tôi không bao giờ ly hôn cô. Vì "thôi" cô ra, tôi sẽ không kiếm được con vợ nào như cô!

- Biết vậy sao anh không trân trọng tôi?

- Tôi chỉ trân trọng người biết bổn phận, thứ học đòi như cô giờ thiếu gì thằng thừa cơm ra phở nó thèm rỏ dãi! Nhưng tôi không ký đơn ly hôn, tôi cứ "treo" cô đó, cho không thằng nào dám nhảy vào, cô chết già cho đáng kiếp!

- Anh ký thì mọi việc nhanh gọn, không thì nửa năm cũng xong thôi. Anh đòi tôi biết bổn phận nhưng trách nhiệm anh là gì?

- Là làm chồng của cô và cha của con cô!

- Là tối ngày chỉ biết ăn và phá của?! - Máu nóng bốc lên tận đỉnh đầu, chị không còn kiềm nén được nữa. Vơ vội những thứ cần thiết chị cùng con lên xe.

Đứa con ba tuổi của chị đã vào mẫu giáo bán trú, sáng sáng mẹ đi làm, con đi học. Hạnh phúc như vầng trăng mùng bốn.

Hắn lại mò tới văn phòng, ném về phía chị túi hồ sơ xin việc.

- Ở đây tôi không có trách nhiệm nhận thêm nhân viên. Anh mang tới nơi có thẩm quyền đi!

- Chưa gì mà bà trưởng phòng đã nổi nóng rồi. Trong phép kinh doanh, nóng vội là hạ sách đó bà ạ! Mời bà xem giùm, mai tôi đến nhận lại cũng không muộn gì! - Hắn nhún người, nghiêng vai theo kiểu phương Tây. Chị phải dịu giọng mời ngồi.

"Hồ sơ xin việc…

Sơ yếu lý lịch…

...

...

Vợ: Trần Thị Bích Trân, năm sinh…  Chức vụ: trưởng phòng maketting chi nhánh tỉnh H. Công ty THHH…".

- Đề nghị anh bỏ dòng này, vì vài hôm nữa tôi và anh cũng không còn là chồng vợ!

- Bao giờ tới đó hẵng hay! Bây giờ vợ mình ngồi cao thế, mình phải ghi vào để "hưởng xái" chứ! Hừ… cô tưởng tôi ham cái chức vụ của cô lắm à? Tôi viết như vậy để thiên hạ cười vô đầu cô đó!

- ???

- Hừ… ai đời vợ trưởng phòng… mà chồng phải vác đơn đi xin việc. Vợ chồng người ta, công danh sự nghiệp của người này là nhờ người kia, còn tôi gần bốn mươi tuổi đầu không có sự nghiệp gì hết là tại cô đó, cô có biết không? Biết không hả?

Nhưng đó là lời hằn học của hắn từ ba tháng trước. Bây giờ chán, chị không nghe điện thoại thì tin nhắn lại rít lên: "Cô có về nhà ngay không? Chồng cô bị tai nạn giao thông, thằng nhỏ đi xe đạp tông vô làm tôi xi cà que rồi nè! Chồng cô quan trọng hơn hay cái ghế trưởng phòng kia quan trọng hơn hả con vợ khốn kiếp kia?"

Vợ chồng lão Hậu

Vậy là ban nãy thị ngủ mê. Lão khẽ nhếch mép cười. Nhưng một lúc lâu sau, hai tai lão lại dựng lên, vì rõ ràng ngoài nhà đang có tiếng động lạ. Lần này thì không thể nhầm được, đó là tiếng giày. Phải rồi, tiếng giày. Lão nghiến răng khẳng định, khi nghe rõ tiếng giày đang nhỏ dần, nhỏ dần từ chỗ giường của vợ lão ra phía cổng.

Lão Hậu thức giấc bởi tiếng đuổi nhau chí chóe của những con chuột nhắt ở bồ thóc bên cạnh. Lão thở dài, ngán ngẩm nhớ đến mấy lỗ thủng ở cái bồ quên không bảo vợ bịt kín lại. Lão lấy tay đập đập vào thành giường. Lũ chuột im bặt. Nhưng chỉ được một lúc tiếng chí chóe lại nổi lên. Bực quá, lão cố ngồi dậy, rút cái cọc màn, nằm xoay đầu lại, lấy cọc màn chọc chọc vào cái bồ. Góc màn cũ, lâu không giặt, chẳng thơm tho gì trùm lên mặt lão. Mặc kệ, lũ chuột còn làm lão khó chịu hơn nhiều. Gian nhà ngoài vẫn im lặng, chắc vợ lão đang ngủ say…

Lão Hậu ốm đã lâu. Thực ra ở cái tuổi 61 như lão chưa thể gọi là già. Nhưng trông lão tiều tụy, da thịt nhăn nheo, cóc cạnh. Từ ngày lão ốm, vợ lão bỏ ra nằm ở nhà ngoài. Mấy hôm đầu lão cũng bực mình, hậm hực. Sau thấy mình "lực bất tòng tâm", chả làm được gì, lão mới chịu xuôi đi.

Người đàn bà ấy kém lão đến hơn chục tuổi, có dáng người tròn lẳn, quyến rũ với khuôn mặt đẹp lúc nào cũng hây hây, vẫn còn giữ được những nét sáng sủa, thông minh thời con gái.

Ngày ấy, ở cái thị trấn nửa thành phố, nửa thôn quê này, thị nổi lên như một thứ của hiếm. Vậy mà thị lại bị lão Hậu chinh phục. Nói đúng hơn thì chính thị tự nguyện đến với lão, mê mẩn lão, rồi ngoan ngoãn ngã vào vòng tay ôm ấp của lão. Ngày ấy, nơi đây náo loạn bởi bọn cướp đến bằng thuyền gắn máy, có vũ khí, lại liều lĩnh. Chúng vào thị trấn giữa ban ngày, mặc sức hoành hành. Nhà nào, nhà ấy cửa đóng im ỉm. Cả thị trấn chìm trong nỗi khiếp sợ.

Vậy mà từ đâu lại xuất hiện anh chàng Hậu. Hệt như thần thoại, anh chàng khá điển trai, võ nghệ cao cường, lại có tài kêu gọi. Mấy tháng sau đám cướp đại bại. Anh chàng lọt vào mắt xanh của cô con gái gia đình chủ đồn điền nọ. Ông bố, bà mẹ kiên quyết không chịu. Nhưng không làm thế nào được, họ đành buông xuôi thở dài: "Hắn là kẻ có công, cả thị trấn này mang ơn hắn, nể sợ hắn. Vả lại, hắn có ép buộc gì con gái mình đâu, thôi thì cũng đành…". Vậy là đám cưới được tổ chức với đầy đủ lễ nghi, nhưng chỉ thiếu họ nhà trai. Anh chàng giải thích như phường tuồng: "Tôi chỉ là người đi ở, lưu vong nơi đất khách, lâu nay vẫn coi bố mẹ là trời, đất, các cụ và em có thương thì cho ở nhờ…". Cho Hậu ở rể được ít lâu, một hôm, vợ chồng chủ nhà gặp riêng con gái. Người cha nói rành rẽ: "Ta xem, thằng này tướng ác, khác người, tên Hậu mà không có hậu. Cơ sự đã rồi, nhưng kể ra vẫn còn chưa muộn. Hay con dứt bỏ mà theo cha mẹ đi khỏi xứ này".

Nghe thế, cô gái đang yêu khóc rống lên, giãy nảy: "Trời ơi, sao lại như thế được? Cha mẹ bỏ chúng con mà đi đâu?". Bà mẹ nghẹn ngào: "Cha mẹ nào có bỏ con. Nhưng phải bỏ nó, kẻo sau này lại hối không kịp". Và, họ đã quyết định ra đi trong một ngày mưa bão. Nước từ khắp nơi đổ về, như phút chốc muốn nuốt chửng cả cái thịt trấn, cùng thằng Hậu và đứa con bất hiếu của họ…

*

Buổi sáng, khi mở then cửa buồng bước vào (gần đây mụ có thói quen cài then cửa buồng phía ngoài, trước khi đi nằm), thấy lão Hậu vẫn ngủ, cổ ngoẹo sang một bên, tay vẫn khư khư cái cọc màn, mụ hoảng hồn hét lên:

- Ông làm cái trò gì thế này?

Lão Hậu giật mình tỉnh giấc, trả lời nhát gừng:

- Đuổi, đuổi chuột ấy mà. Hôm nay mình nhớ lấy giẻ đút nút mấy lỗ thủng ở cái bồ lại cho tôi.

Mụ gắt:

- Bộ đút giẻ mà nó chịu à? Bịt chỗ này, thì nó cắn chỗ khác. Bảo đánh bả cho nó tiệt giống đi, thì ông lại sợ lũ mèo nó chết lây.

Nghe vợ nhắc đến mèo, lão mới nhớ ra, mấy hôm nay hai mẹ con "mi mi" không còn meo meo và nằm khoanh tròn ở đuôi giường lão nữa. Vậy là chúng cũng bỏ lão mà đi rồi. Theo thói quen, thông qua mụ vợ, lão lại cắt đặt công việc trong ngày cho những tá điền, lâu nay vẫn làm mướn trên những thửa ruộng được coi là của hồi môn của bố mẹ vợ để lại. Nhưng vợ lão chỉ ậm ừ, ậm ừ, chẳng ra đồng tình cũng chẳng ra phản đối. Mụ nghĩ, khốn nạn cái thân lão. Từ ngày biết chính xác là lão không còn đi ra ngoài được, tức là không còn hét ra lửa và tung ra những miếng chưởng ghê người được nữa, thì họ đâu còn chịu sự răn dạy, chỉ đạo theo lối áp đặt của lão. Họ đã làm theo ý họ.

Vậy mà mụ lại thấy họ có ăn, hơn là cứ phải răm rắp rập theo cái khuôn công việc mà nhiều khi mới chỉ kịp lóe lên như một tia chớp trong đầu lão. Họ sợ lão là phải, bởi họ đã được thấy bao nhiêu gương nhỡn tiền. Lão Bê là một tri điền, có con Tây học. Anh con trai nho nhe cùng bố rủ thêm mấy gia đình kéo đến nhà lão đòi trả ruộng. Vậy là lão cho biết thế nào là lễ độ. Cha con lão Bê, cùng đám tá điền đã phải bò lê bò càng, báo hại vợ con phục thuốc hàng tháng trời.

Thị biết, những ngày đầu nghe lão Hậu đổ bệnh, họ kéo nhau mang quà cáp đến thăm, chẳng qua là để xem thực hư thế nào, chứ trong thâm tâm, họ có thương xót gì lão. Thì ngay như thị đây, ngày cưới, thị được lão tưng tiu như hòn ngọc. Vậy mà sau khi bố mẹ thị bỏ đi, trong cách đối xử, thị đã thấy lão có ý khang khác. Lão xét nét thị từng tý. Công việc trong nhà, ngoài đồng, trước đây bố mẹ thị giao cho người quản lý du học từ Pháp về, bị lão xới tung lên, lộn tùng phèo. Việc không như ý, vậy là lắm lúc lão ra tay ngay với vợ.

Tuy ít chữ, nhưng lão cũng ranh ma lắm. Lão dạy cho thị một bài học theo cách đặc biệt, chỉ dành riêng cho những người thuộc đẳng cấp của thị, sao cho không để lại một dấu vết gì, còn tay lão thì vẫn sạch. Đó là điểm huyệt. Mỗi lần như vậy, thị buốt đến tận óc, chân tay tê dại, bọt mép xùi ra, không kêu được một tiếng. Hàng xóm có chạy sang, lão bảo thị trúng gió. Thế là xong. Từ chỗ sùng bái lão, tin yêu lão hết mình, nay thì thị căm ghét lão "như xúc đất đổ đi". Thị không có con với lão. Vậy là lão đã tuyệt tự. Thế mà lại hay. Nghĩ vậy, mặt thị bỗng đỏ dựng lên.

*

Không biết lão Hậu ốm vì bệnh gì mà thuốc nào cũng không khỏi, chỉ bớt được một thời gian rồi lại nặng thêm. Lão bị buốt đầu, bước đi lảo đảo mất phương hướng như người say. Bác sĩ bảo lão bị thiếu máu và rối loạn tiền đình. Nhưng nếu bệnh chỉ đơn giản có vậy, thì làm gì đến mức cả cái cơ nghiệp này lão phải bán đi chạy thuốc mà vẫn vô hiệu. Có người cho là lão bị bệnh đen não, phải mổ. Lão gạt phắt và nghĩ "dẫu danh y Hoa Đà của nước Tàu có sống lại, ta cũng không chịu. Vì đục đầu, cạo não thì còn chó gì là người".

Cùng với tình yêu nhanh chóng lụi tắt của vợ, là những tài sản lâu nay lão ki cóp, vắt nặn của đám tá điền, đều lần lượt đội nón ra đi. Giờ lão chỉ còn lại hai gian nhà tranh và cái bồ thóc thủng. Từ ngày lão không còn đi ra ngoài được, vợ lão phải hầu lão như hộ lý trong bệnh viện. Được cái thị vẫn vui vẻ. Và, dạo này trông thị lại như đẫy đà hơn, trẻ ra.

Lão Hậu đâm nghi cái con người mấy chục năm ăn cùng mâm, nằm cùng giường, mà lão chưa bao giờ hiểu hết này. Lão nghi là phải. Vì suốt ngày chết dần trong buồng kín, lão làm sao mà biết được sự đời. Toàn bộ sinh lực của lão bây giờ được dồn vào đôi tai. Hồi còn trẻ, có người xem tướng bảo, tai lão to nhưng lại lệch, không cân, nên đoản sự nghiệp và kém thọ. Mặc kệ! Miễn là bây giờ nó phải giúp lão, phát hiện cho lão...

Từ ngày "chỉ đạo" cho vợ bịt những lỗ thủng ở cái bồ thóc, lão Hậu vẫn thấy lũ chuột nhắt chẳng chịu buông tha cái gian buồng tối om. Đêm đêm, chúng hết thi nhau cào quèn quẹt vào cái bồ, lại đuổi cắn nhau, kêu chí chóe. Những tiếng động này cứ lặp đi lặp lại hàng đêm, nên lão đã quá quen thuộc rồi. Vậy mà đêm nay, những tiếng động nghe khác lắm. Không phải từ phía bồ thóc. Không phải từ trên cái kèo nhà. Cũng không phải từ mấy cái hốc tường, mà từ đó vẫn phát ra tiếng chí chí của lũ chuột nhắt mới đẻ.

Tiếng huỳnh huỵch, xen lẫn tiếng rên khe khẽ từ phía gian nhà ngoài vọng vào. Lão khẽ nhỏm dậy, căng mắt trong đêm, trừng trừng nhìn ra phía cửa buồng. Tai lão dỏng lên, tim đập thình thịch. Đúng rồi, làm thế nào bây giờ? Nhưng chợt thần kinh lão trùng hẳn xuống. Biết đâu, vợ lão ngủ mê thì sao? Thỉnh thoảng thị chẳng hay nằm mơ, nói lảm nhảm là gì. Nhưng rồi lão lại nhíu mày, phải kiểm tra lại cho chắc ăn. Vừa lúc mấy con chuột đuổi nhau dưới chân. Lão đập tay độp độp vào thành giường và khàn khàn réo tên vợ.

- Ông làm cái gì mà ầm lên thế, không nằm yên được hả. Ngày mai tôi sẽ đánh bả cho tiệt giống đi - Vợ lão gắt.

Vậy là ban nãy thị ngủ mê. Lão khẽ nhếch mép cười. Nhưng một lúc lâu sau, hai tai lão lại dựng lên, vì rõ ràng ngoài nhà đang có tiếng động lạ. Lần này thì không thể nhầm được, đó là tiếng giày. Phải rồi, tiếng giày. Lão nghiến răng khẳng định, khi nghe rõ tiếng giày đang nhỏ dần, nhỏ dần từ chỗ giường của vợ lão ra phía cổng.

*

Suốt ngày hôm sau, lão Hậu không chịu ăn uống gì. Tha hồ cho cô vợ nài nỉ, lão cũng không chịu nuốt lấy một thìa cháo. Lão thều thào đòi thị nói cho lão, thằng đàn ông đi giày tối hôm qua là ai. Chẳng lẽ cứ để lão lè nhè mãi. Vả lại, giờ thì lão chẳng còn đủ sức mà áp chế thị nữa rồi. Nghĩ vậy, thị nói luôn một hơi tỉnh bơ:

- Anh Tư, anh ấy yêu tôi lâu rồi, tôi sắp có con với anh ấy.

- Sao? Thẳng Tư hả? Trời ơi!

Lão Hậu vục dậy, rít lên những tiếng khàn khàn, đưa hai bàn tay xương xẩu bứt bứt vào đôi tai lệch.

- Thằng Tư con lão Sáu Đô chứ gì? Trời ơi là trời! Cái thằng ba đời làm con buôn ấy! Ông nó, bố nó muốn phá tao mà đâu có được. Bây giờ thì trời ơi là trời... Con đĩ, lại đây, lại gần đây...

Không tìm cách trốn khỏi đòn trừng phạt của lão, thị tiến đến gần lão, giơ ra cái chỗ mà trước đây lão vẫn thường bấm vào, bằng những ngón tay hộ pháp. Chỉ đợi có thế, ngón tay phải của lão bắt đầu hành động. Mồ hôi lão vã ra, hai mắt trợn ngược, trắng dã. Nhưng nét mặt người đàn bà vẫn bình thản. Lát sau, thị gỡ tay mình ra khỏi bàn tay đã trở nên cứng đờ, lạnh ngắt của lão. Từ cái hốc nhỏ trên tường, chỉ còn nghe thấy phát ra tiếng chí chí của lũ chuột nhắt đòi ăn

Đêm qua, ta làm gì?

Lãnh đạo huyện đến Thái Bạch Sơn kiểm tra công tác. Ủy ban xã chuẩn bị  sẵn đặc sản địa phương, gói to gói nhỏ, chất đống ở văn phòng, để bày tỏ chút ít tấm lòng của nhân dân miền núi khi lãnh đạo đến thăm.

Không ngờ số quà đó lại bị mất cắp. Khẩn trương tra tìm, cuối cùng cảnh sát cũng đã tóm được kẻ lấy trộm. Khi định giải hắn lên đồn, kẻ cắp xin lập công chuộc tội. Hỏi lập công như thế nào, hắn nói hắn có công năng đặc biệt, cách xa ngoài mấy chục mét biết được hoạt động của người trong nhà. Nếu được tha, từ nay về sau, hắn có thể phối hợp với cảnh sát tìm bắt tội phạm khác. Lãnh đạo tỏ ra hứng thú, đồng ý sáng mai đến nghiệm chứng.

Ngày mai, nhận quà xong, lãnh đạo lập tức lên xe về huyện, bỗng nhớ tới kẻ cắp, gọi đến hỏi:

- Ngươi bảo ngươi có công năng đặc biệt, vậy ta hỏi ngươi, canh một đêm qua ta làm gì?

Kẻ cắp trả lời:

- Xin thưa lãnh đạo, canh một đêm qua ngài không nghỉ, vẫn tranh thủ thời gian bàn bạc công việc với Hội trưởng phụ nữ. Lãnh đạo ngồi trên giường, sau đó sơ ý ngã xuống đất.

Lãnh đạo nói:

- Láo toét! Người lớn như ta, sao lại có chuyện ngã xuống đất?

Kẻ cắp nói:

- Thế sao con nghe thấy Hội trưởng Phụ nữ giục: "Lên đi, lên đi!". Chẳng phải lãnh đạo ngã xuống đất là gì?

Lãnh đạo nghĩ một lát, gật đầu, hỏi:

- Thế canh hai ta làm gì?

Kẻ cắp trả lời:

- Canh hai ăn bồi dưỡng đêm, lãnh đạo ăn cua.

Lãnh đạo bảo:

- Nói láo, xưa nay ta không bao giờ ăn đêm. Dạ dày và đường ruột của ta tồi lắm, ăn vào không ngủ được.

Kẻ cắp nói:

- Thế sao con nghe thấy lãnh đạo bảo: "Tách chân ra". Đấy chẳng phải ăn cua thì làm gì?

Lãnh đạo suy nghĩ, ừ một tiếng, hỏi:

- Vậy canh ba ta làm gì?

Kẻ cắp đáp:

- Để tìm hiểu thêm tình hình đời sống của dân chúng miền núi, lãnh đạo đã mời hẳn mẹ của Hội trưởng Phụ nữ đến hỏi tình hình.

Lãnh đạo nói:

- Đúng là láo toét! Ban ngày ta đã tìm hiểu tình hình. Buổi tối dứt khoát  không  có chuyện mời mẹ Hội trưởng Phụ nữ.

Kẻ cắp nói:

- Rõ ràng con nghe thấy Hội trưởng Phụ nữ gọi một tiếng "ối mẹ ơi" mà!

Lãnh đạo nín thinh, hỏi tiếp:

- Thế còn canh tư?

Kẻ cắp trả lời:

- Canh tư lãnh đạo bàn công việc đã  mệt, lấy nước lã rửa mặt cho tỉnh táo đầu óc.

Lãnh đạo nói:

- Lại nói bậy! Hoàn toàn không có chuyện rửa mặt rửa miếc gì hết!

Kẻ cắp nói:

- Nếu không rửa mặt, tại sao lãnh đạo bảo: "Em rửa rồi à, rửa cho anh một thể!".

Như chợt hiểu ra, lãnh đạo lẩm bẩm mấy câu, hỏi tiếp:

- Canh năm, canh năm ta làm gì?

Kẻ cắp đáp:

- Canh năm bàn xong công việc, lãnh đạo khéo biết điều tiết sinh hoạt, đã chơi cờ với Hội trưởng phụ nữ.

Lãnh đạo nói:

- Nói láo! Nói láo! Đã  mấy giờ rồi còn chơi cờ?

Kẻ cắp đáp:

- Rõ ràng con nghe thấy lãnh đạo bảo: "Chơi ván nữa, chơi ván nữa" mà lị! Không phải đánh cờ hay sao?

Lãnh đạo phì cười, bảo:

- Cũng được, có công năng đặc biệt, ta sẽ bảo đồn cảnh sát miễn tội cho ngươi

Lá đơn ly dị

chiều hôm ấy, cứ hôm nào bà vợ lên xe máy của con trai ra khỏi nhà là hắn lại tranh thủ lên tầng ba kiểm tra tay nghề các nhân viên mát-xa. Ngoài cô bé xinh đẹp ở phòng số 5, thỉnh thoảng hắn cũng ghé phòng của bốn nhân viên khác theo cách của Tần Thủy Hoàng đến với các cung nữ. Nghĩa là cô nào trang điểm đẹp, có ánh mắt và nụ cười mời gọi...

Hắn vừa khai trương thêm nhà hàng mới.Trong bữa tiệc mừng, hắn nhận được biết bao lời chúc tụng của quan khách. Lời nào cũng như có cánh, nâng hắn lên chín tầng mây. Xế chiều, tiễn xong vị khách cuối cùng dự lễ khai trương hắn lui về phòng riêng để nhâm nhi niềm hân hoan từ những câu chúc, lời khen. Và chương trình buổi tối hắn cũng đã dự tính sẵn trong đầu từ lúc thằng con trai dắt xe máy ra khỏi nhà ra theo yêu cầu của mẹ nó. Chắc bà ấy lại đi chùa cầu trời khấn phật phù hộ, độ trì. Đợi hai mẹ con khuất hẳn, hắn khoác vội áo, xỏ chân vào đôi dép lê nhẹ nhàng bước lên tầng 3. Tầng ấy hắn bố trí tới 5 phòng mát-xa xông hơi thuộc loại hiện đại.

Năm cô nhân viên cũng mới trên dưới tuổi đôi mươi. Con bé mới tuyển chiều hôm qua, có lẽ chỉ mười tám. Xinh đẹp, múp míp, trắng trẻo, ăn mặc khá môđen và cách đặt vấn đề của cô ta có vẻ thoáng lắm. Khi hắn hỏi về nghiệp vụ và kinh nghiệm của nghề mát-xa, cô ta nở một nụ cười thật gợi cảm rồi nói thẳng tưng: "Anh chủ ạ, công việc này chẳng ai phải dạy, mà chủ yếu là vừa làm vừa học. Anh chủ cứ tin đi, đôi bàn tay của em sẽ hút khách cho nhà hàng hơn cả nam châm hút sắt. Chỉ có điều, ngoài tiền boa của khách cho, thỉnh thoảng anh chủ phải thưởng riêng cho em đấy!".

Trong khi đôi tai của hắn còn ngân nga giọng hót oanh vàng của cô nhân viên trẻ thì đôi chân đã đưa hắn lên đến tầng 3.

Rồi hắn chui tọt vào phòng số 5. Cô bé chốt luôn cửa và tiếp tục cách ăn nói thoáng hôm trước:

- Anh chủ sướng hơn Tần Thủy Hoàng.

Vừa nói cô bé vừa sán đến giúp hắn cởi  quần áo ngoài. Khi trên người hắn chỉ còn một chiếc quần đùi rộng thùng thình, cô bé cũng kêu nóng và  cởi luôn chiếc áo ngắn cũn cỡn đang mặc. Trước mắt hắn cả một tấm thân trắng nần nẫn, non mơn mởn hiện ra. Giọng hắn chùng xuống chen với tiếng thở gấp gáp:

- Này, chỉ riêng với anh mới được phép cởi thế này nhá. Còn với khách mà thoáng quá, người ta đồn thổi là không có được đâu.

Từ chiều hôm ấy, cứ hôm nào bà vợ  lên xe máy của con trai ra khỏi nhà là hắn lại tranh thủ lên tầng ba kiểm tra tay nghề các nhân viên mát-xa. Ngoài cô bé xinh đẹp ở phòng số 5, thỉnh thoảng hắn cũng ghé phòng của bốn nhân viên khác theo cách của Tần Thủy Hoàng đến với các cung nữ. Nghĩa là cô nào trang điểm đẹp, có ánh mắt và nụ cười mời gọi...

*

*     *

Chưa đầy một tháng sau ngày khai trương, nhà hàng Túy Hậu đã chứng tỏ được sức sống mãnh liệt của nó. Khách đến ăn nhậu ngày một thêm đông mà khách sành chơi đến thư giãn cũng ngày mỗi thêm nhiều. Doanh thu của nhà hàng tăng vọt. Cứ mỗi đêm trước khi đi ngủ, hắn có thể thản nhiên ném năm, bảy triệu tiền lãi vào két sắt. Nhưng cái sự ăn gia làm nên của nhà hàng hình như lại khiến vợ hắn không vui. Nhiều lúc hắn còn thấy bà ấy trở nên đăm chiêu, khó hiểu. Hắn chẳng mấy bận tâm về bộ dạng ấy của vợ. Mấy năm nay, mọi quyền lực trong cái gia đình này đã chuyển về tay hắn. Hắn ở thế thượng phong.

Chỉ cần bà vợ trái lời là hắn sẽ tạo cớ để đâm đơn li dị. Và khi tòa xử có thể hắn sẽ chia cho bà ấy một nửa cơ nghiệp để sửa chữa một cuộc hôn nhân sai lầm, một cuộc hôn nhân chỉ vì ơn nghĩa chứ không hề có tình yêu. Đã vài lần hắn tuyên bố như vậy. Vì thế mấy hôm nay, bà ấy vui hay buồn, hắn chẳng để ý. Điều hắn quan tâm lúc này là phải cấp tốc mở thêm dăm phòng mát-xa nữa. Năm phòng đã trở nên quá tải so với nhu cầu của thượng đế trong vùng. Hắn nhẩm tính nếu thêm 15 phòng, mỗi ngày số tiền lãi phải từ mươi triệu đổ lên. Mỗi tháng, trừ tất cả các khoản quà cáp, biếu xén, hắn sẽ có trong tay thêm vài trăm triệu.

Nhưng đúng lúc cái ý tưởng của hắn đang thăng hoa thì có một chuyện xảy đến khiến hắn cảm thấy bị hẫng hụt. Buổi chiều hắn vừa đi ký hợp đồng với cánh thợ xây dựng dãy nhà mát-xa ở lô đất sau vườn thì có một người lạ mặt chuyển đến cho hắn gói quà. Gói quà được gói trong mấy lần túi nilon, chằng buộc bằng cả một đống dây. Khi mở gói, hắn há hốc mồm vì kinh ngạc. Đó là ba cái bánh chưng ruột bằng đất sét và một tờ biên bản phạm pháp quả tang mà chính hắn là đương sự. Hắn gieo mình xuống ghế nghĩ ngợi. Ai là người còn giữ được đống tang vật và tờ biên bản này nhỉ. Mà sao người ta lại gửi cho hắn vào đúng lúc này. Nhìn tờ biên bản hắn bỗng nhớ lại bàn tay người viết nó. Bàn tay có sẹo và cụt một ngón. Chính bàn tay ấy đã tát vào má hắn một cái nổ đom đóm mắt mà thỉnh thoảng nghĩ lại hắn vẫn còn thấy đau.

*

*     *

Ngày ấy hắn chỉ là đứa trẻ nghèo khổ, lam lũ. Đêm đêm hắn theo vài đứa bạn cùng trang lứa bán bánh chưng ở ga tàu hỏa gần làng. Và không hiểu tại sao, thời kỳ ấy trong rổ bánh chưng của bọn trẻ thường có thêm vài chiếc bánh chưng ruột đất. Những chiếc bánh chưng ấy chúng chỉ bán khi tàu bắt đầu chuyển bánh. Có nghĩa là, khách có phát hiện ra bánh đểu thì cũng chỉ có thể ngó đầu ra khỏi cửa sổ chửi vài câu cho bõ tức chứ chẳng ai dám nhảy xuống tàu đòi lại tiền.

Một buổi tối hắn rao rạc cả họng mà khi tàu kéo còi rời ga, ba buộc bánh gai và dăm chiếc bánh chưng vẫn nằm chềnh ềnh trong thúng. Trong khi đó con cái Tớn dẻo mỏ bán hàng cứ nhoay nhoáy. Hình như nó bán được cả loại bánh "ruột đất". Chỉ cần nghe khách trên tàu chõ mồm ra chửi là hắn đoán được sự tình. Thường thì khách chửi khách nghe, bọn trẻ chả bận tâm. Nhưng hôm nay cùng với lời chửi của bà khách mua phải "đặc sản" của con Tớn, người ta còn ném cả cái bánh đất vào người ông Kiên - công an khu vực mới về thay cho ông Lượng. Ngay lập tức ông Kiên chạy về phía lũ trẻ bán hàng và quát lớn:

- Đứa nào bán cái bánh chưng này?

Lũ trẻ bỏ chạy tán loạn. Chỉ còn  mình hắn đứng lại. Hắn đã bán được chiếc nào đâu mà lo. Vậy mà hắn vẫn bị ông Kiên tóm cổ về đồn. Hắn không ngờ ông Kiên ghê thế. Ông bắt hắn cởi lạt, gỡ lá xem cả thúng bánh. Ba cái bánh chưng ruột đất phơi ra trên bàn. Ông Kiên lập biên bản và bắt hắn phải nộp phạt. Chưa hết, ông còn căn vặn hắn đủ điều: Đã bao nhiêu lần bán bánh dởm? Lấy thứ hàng này ở đâu? Trong số những người cùng hội, cùng thuyền, còn ai có loại bánh đất này? Nhưng ông Kiên cứ hỏi còn hắn cứ không trả lời.

Trong hội bán rong, hắn nổi tiếng là lì lợm và láu cá. Hỏi chán không được, ông Kiên bắt hắn ký vào biên bản. Hắn cũng không ký. Vậy là suốt đêm hôm đó ông Kiên phải thức cùng hắn. Gần sáng, chắc là không chịu nổi sự lì lợm của "đối thủ", ông Kiên đành phải thả hắn về. Nhưng thúng bánh của hắn thì vẫn bị tịch thu. Ra đến cửa, nhìn thúng bánh trên bàn hắn mới thấy tiếc và thấy ức. Hắn hét lớn:

- Ông thu bánh về để cho vợ con ông ăn chứ gì. Ông ăn cướp miếng ăn của trẻ con! Sao ông ác thế!

Hắn không ngờ lời nói ấy lại khiến ông Kiên trở nên dữ tợn. Ông kéo hắn lại rồi giơ thẳng bàn tay đầy sẹo tát vào mặt hắn. Sau đó ông ngồi phịch xuống ghế, ngồi ngây ra như bức tượng để mặc cho hắn lầm lũi đi ra đường. Suốt ngày hôm ấy hắn không muốn về nhà và cũng chẳng đến cơ sở sản xuất nhận hàng đi bán nữa. Hắn chỉ nghĩ cách trả thù ông Kiên. Buổi tối, hắn vẫn ra ga. Ra để xem ông Kiên có làm như ông đã tuyên bố không? Ra để xem bọn con Tớn sẽ xoay xở ra sao với những chiếc bánh nhân đất  trước thái độ cương quyết của ông Kiên.

Trong khi hắn đang lang thang ngẫm nghĩ mưu kế trả thù ông Kiên thì Hậu, con gái ông chủ làm bánh, vợ của hắn bây giờ xuất hiện. Hậu hơn hắn ba tuổi, không xinh nhưng hiền lành và hay thương người. Mấy lần hắn bán bánh ế, mang về trả, Hậu thường an ủi:

- Buôn bán thì cũng có lúc lỗ, lúc lãi, khi được nhiều, khi được ít. Ế thế này có để cũng thiu, Túy cứ mang về mà ăn. Hậu không tính tiền đâu mà lo.

Nhưng hôm ấy Hậu đến tận ga tìm hắn chắc là vì thúng bánh chưng bị thu. Hắn cố tìm những câu trả lời chống chế nhưng nghĩ mãi chẳng ra. Chỉ có cách là lì cái mặt, rồi hứa hẹn: khi nào có sẽ trả...Trái với dự đoán của hắn, Hậu vẫn như mọi ngày, điềm tĩnh và tỏ ra thông cảm:

- Chuyện Túy bị thu bánh, Hậu biết rồi. Hậu nghĩ, chắc chẳng phải Túy là người đầu têu ra chuyện ấy.

Hậu đã nói đúng.Việc làm bánh đất là do bọn con Tớn đầu têu. Sau vài lần bắt chước trót lọt, được nhiều tiền hơn bán bánh thật, lũ trẻ sinh ham. Trong khi hắn chưa kịp phân bua, Hậu lại tiếp:

- Từ bây giờ Túy có ra ga cũng không còn lòng dạ đâu mà bán chác nữa. Chi bằng Túy về làm công cho bố Hậu. Nhà mới mở thêm một cơ sở sản xuất bánh gai và bánh đậu xanh.

Từ hôm ấy hắn trở thành người làm công cho cơ sở sản xuất bánh đậu của gia đình Hậu và không còn phải lo đối phó với ông Kiên như lũ con Tớn nữa.

Chuyện đã ba nhăm năm chỉ có hắn và lão Kiên biết với nhau. Vậy chắc chắn chỉ có lão "khốt" ấy mới là kẻ "xới" lại. Nhưng lão "xới" lại nhằm mục đích gì nhỉ? Chẳng lẽ thấy hắn trở nên giàu có, sang trọng mà lão Kiên muốn vòi tiền? Phải rồi, cái hôm khai trương nhà hàng, hắn chỉ mời lão Lượng, tiền nhiệm của lão Kiên. Hắn chẳng thích gì lão Lượng, nhưng cứ nghĩ đến cái tát của lão Kiên, tự nhiên hắn lại muốn mời tất cả những người đã chứng kiến một thuở hàn vi của hắn.

Nên xử sự với lão Kiên "khốt" thế nào nhỉ? Nghe người ta nói, từ khi về hưu cuộc sống của lão Kiên vất vả lắm. Vợ lão mất sớm một mình "gà trống nuôi con" hơn chục năm trời bằng đồng lương còi. Thằng con lớn học xong Trung cấp An ninh, nghe đâu phải vào tận Tây Nguyên hơn chục năm chả được ra. Đứa con gái không đỗ đại học phải xin đi làm công nhân da giầy với đồng lương chết đói. Vậy thì phải đến nhà lão. Đến để xem lão khổ ra sao. Đến để lão biết thằng bé đã bị  tát ở ngoài ga ngày trước bây giờ giàu có, sung sướng như thế nào. Đến để nói với lão vài câu mát mẻ. Rằng lão có phôtô vài trăm tờ biên bản thời đói kém ngày trước gửi cho ai cũng chỉ tổ làm trò cười cho thiên hạ. Hắn tự nhủ như vậy rồi lập tức rời nhà bằng chiếc xe Camry ba chấm còn đang chạy rốt đa đến nhà ông Kiên.

*

*     *

Ông Kiên đặt cuốn sách nhìn hắn khá chăm chú. Lát sau, nhận ra khách ông hỏi:

- Sao hôm nay anh Túy lại tìm đến nhà tôi nhỉ? Chắc là phải có sự kiện gì quan trọng  lắm đây.

Một câu hỏi khá trịch thượng và không mấy thiện cảm! Một câu hỏi có ý bóng gió về cái trò gửi quà chăng? Hắn nghĩ vậy và đáp lại theo cách vừa châm chọc, vừa thách thức:

- Chả có gì quan trọng cả. Ông bây giờ cũng đã ngoài sáu mươi và tôi cũng đã xấp xỉ năm mươi rồi. Chỉ có điều số phận ông cảnh sát hét ra lửa và thằng bé bán hàng rong ở ga ngày trước và bây giờ cũng đã an bài. Một sự an bài có hậu. Vậy thì chuyện cũ có xới lại cũng chả thay đổi được gì.

Ông Kiên nhìn như xoáy vào mặt hắn và vẫn cái giọng đầy uy lực ngày trước:

- Anh là khách không mời và những điều vừa nói ra thật lạc lõng và khó hiểu đối với tôi.

Hắn cười nhạt:

- Có gì mà không hiểu. Ông không mời nhưng gói quà ông gửi cho tôi buộc tôi phải đến đây...

Ông Kiên đứng phắt dậy. Mặt ông tái đi, đôi môi ông run run:

- Gói quà nào. Tôi mà lại thèm gửi quà cho anh à...

- Ông đừng vờ vịt nữa. Nếu không phải là ông thì ai là người còn giữ được tờ biên bản phạm pháp quả tang do chính tay ông viết. Tiếc rằng tờ biên bản ngày ấy tôi không ký nên chẳng có giá trị gì. Nói cho ông biết nhá, nếu cần, xin mời ông đến nhà hàng của tôi. Tôi sẽ đãi ông tất cả những của ngon vật lạ và thậm chí có cả phong bao cho ông mang về nữa. Còn ông bày ra cái trò đó, chỉ khiến nỗi đau vì cái tát ngày xưa trỗi dậy trong tôi.

Toàn thân ông Kiên run lên. Đôi mắt trở nên hoang dại, thất thần. Ông giơ cánh tay đầy sẹo và cụt một ngón về phía hắn. Nhưng hắn đã kịp bước nhanh ra ngõ chui vào ôtô và phóng đi. Suốt ngày hôm sau, ánh mắt đêm ấy của ông Kiên vẫn còn ám ảnh hắn. Linh tính mách bảo sẽ có chuyện xảy ra từ ánh mắt ấy.

Một buổi tối khi hắn vừa xếp xong mấy buộc tiền lãi vào trong két thì vợ hắn xồng xộc bước vào. Hắn hất hàm hỏi vợ:

- Đi đâu mà bây giờ mới về?

- Tôi đi đâu thì ông hỏi làm gì?

Hắn há hốc mồm vì kinh ngạc. Lần đầu tiên vợ hắn dám trả lời hắn như thế. Hắn chưa hiểu sự tình ra sao thì bà đã đặt tờ giấy lên bàn và tiếp:

- Đây là đơn li dị của tôi. Ông ký vào đi.

Chắc bà ta lại ghen tuông vì mấy cô gái mát-xa đây thôi - Hắn đoán như vậy.

- Tôi nói cho ông biết - Vợ hắn tiếp tục nói mà như xối nỗi tức giận vào hắn - Ông đã làm cho ông Kiên phải vào bệnh viện cấp cứu. Ông ấy mà không qua khỏi thì tôi không để cho ông yên đâu. Ông tưởng ông Kiên gửi cho ông mấy cái bánh chưng đất phải không? Ông cạn nghĩ lắm. Ông Kiên là một người suốt đời đàng hoàng, chính trực. Ông Kiên là người đã giúp ông có ngày hôm nay. Chính tôi đã nhận từ tay của ông Kiên tờ biên bản và giữ gìn nó hơn ba mươi năm trời. Cũng chính ông Kiên đã nhờ tôi tìm việc cho ông làm. Và tôi đã xin với bố tôi nhận ông. Ngày ấy dẫu ông có láu cá nhưng trong mắt tôi ông vẫn là một thằng bé chịu khó và dễ bảo... Rồi không hiểu trời xui đất khiến thế nào tôi lại yêu ông. Tôi biết ông lấy tôi chỉ vì cái cơ sở làm bánh của bố tôi đang làm ăn phát đạt. Bây giờ mọi mưu đồ  đạt được rồi, ông quên ơn, quên nghĩa, quên hết chuyện xưa. Ông tưởng bao nhiêu lần ông lên đú đởn với mấy con bé mắt xanh mỏ đỏ ở trên gác ba mà qua được mắt tôi đấy à?... Ông tưởng thiên hạ người ta mù phải không? Không đâu. Người ta đang đồn ầm lên rằng cái cơ sở mát-xa Túy Hậu là ổ chứa mại dâm trá hình. Tôi không muốn làm vợ gã Tú ông. Tôi muốn các con tôi tránh xa cái chốn lầu xanh này. Vì thế tôi gửi cho ông gói quà ngày xưa, là muốn gửi thêm cho ông một cái tát nữa để ông tỉnh ngộ mà làm lại cuộc đời

Há miệng mắc quai

Trong giới nhà văn, ông nổi tiếng là một tay cực kỳ keo kiệt. Ông có biệt tài biến mất tăm cứ mỗi lần phải thanh toán trong quán cà phê, khách sạn, thậm chí trong rạp chiếu bóng. Người ta đàm tiếu đủ chuyện về tính keo bẩn của ông, cả trước mặt lẫn sau lưng.

Dạo ấy tôi còn là một sinh viên nghèo, sống đạm bạc bằng đồng nhuận bút văn học hết sức còm cõi. Và tôi thật vô cùng ngạc nhiên khi một lần nhà văn nổi tiếng này đến gặp tôi và mời tôi đi ăn tối với ông ta tại khách sạn “Metropole”. Đơn giản vậy thôi, không vì một lý do gì.

- Nhưng em không có tiền - Tôi trả lời một cách lúng túng.

- Ồ, sao lại nói chuyện tiền nong ở đây? Tớ vui lòng được mời cậu mà. Chẳng nhẽ tớ lại tiếc tiền ư? Tiền là cái quái quỷ gì! Tiền cần phải tiêu, tiêu, tiêu!

Và chúng tôi bắt taxi đến khách sạn, nơi ông ta đã đặt cho riêng tôi một bữa ăn thịnh soạn với rượu sâm banh, thịt cừu nướng và trứng cá đen.

Bản thân nhà văn không ăn gì cả, cứ ngồi nhìn tôi chằm chằm ra chiều căng thẳng lắm. Của đáng tội, hồi ấy tôi rất hiếm khi cảm thấy ăn không ngon miệng.

Trong suốt cả bữa tối tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi một ý nghĩ: Không hiểu sao nhà văn lại hào phóng với mình như vậy, có chuyện gì xảy ra với ông ta, hay là ông ta cần nhờ mình giúp đỡ điều gì? Nhưng điều gì mới được chứ? Ông ta là một nhà văn cỡ bự, còn tôi chỉ là một sinh viên mới tập tọng làm thơ.

Sau bữa ăn, khi chúng tôi lên taxi, nhà văn ghé sát tai tôi thì thầm tâm sự:

- Cậu biết không, trong giới nhà văn chúng ta nhan nhản những tên đố kị, đểu cáng, ác khẩu. Chúng vu khống cho tớ là một kẻ keo kiệt. Tớ mà lại keo kiệt ư? Tớ vừa chi cho cậu những 762 rúp 50 côpếch. Mà tớ cần gì ở cậu? Cậu là ai? Không phải tổng biên tập, không phải chủ xuất bản, không phải người phản biện. Cậu thì giúp ích gì cho tớ mới được chứ? Cậu có thể trả lời tớ được không? Phải, cậu im lặng!

Và bây giờ cậu hãy đi nói với tất cả mọi người rằng tớ, một nhà văn nổi tiếng, tớ đã chi cho cậu, một sinh viên vô thưởng vô phạt 762 rúp 50 côpếch một cách hết sức vô tư! - Ông ta liếc nhìn đồng hồ tính cước - Vâng, chúng ta đang đi, nhưng tiền taxi chắc sẽ không dưới 25 rúp 40 côpếch... Tớ keo kiệt ở chỗ nào? Hỡi những tên ác khẩu, đố kị trong giới văn chương! Nhưng tại sao cậu lại không nói gì? - Bỗng nhiên nhà văn gào to lên - Tớ mời cậu ăn, uống, còn bây giờ thì im lặng sao? Vâng, thế là tớ đã ném qua cửa sổ 762 rúp 50 côpếch cộng với tiền taxi hai lượt đi về chẳng để làm gì! Sao cậu lại im lặng, hở?

Đi ăn thịt... “tiểu hổ

Sau hai năm học nghề chế biến thịt “tiểu hổ” ở Hải Phòng, anh Nguyễn Văn Tốn cùng vợ và em từ Thái Bình vào TPHCM “lăng xê” thịt mèo. Bây giờ, 30 quán thịt mèo đã mọc lên ở Gò Vấp, quận 12, Hóc Môn. Dân nhậu ghiền đã đành mà nhiều quý bà, quý cô cũng khoái khẩu thịt mèo

Ăn thịt mèo... nghèo      ba năm” là chuyện của ... ngày xưa. Bây giờ  ăn thịt mèo - “tiểu hổ” - đang trở thành “mốt” của dân nhậu TPHCM. Mà chẳng riêng dân nhậu, nhiều quý cô, quý bà cũng “khoái khẩu” với loại đặc sản này.

Theo lời của Trí, bạn tôi, một tay nhậu thịt mèo “chuyên nghiệp”, muốn ăn thịt mèo tươi, ngon và... rẻ thì phải đổ về miệt Gò Vấp, Hóc Môn và quận 12. Tại những nơi này có khoảng trên 30 chục quán chuyên đặc sản “tiểu hổ”. Một vài quán có những “độc chiêu” chế biến... thịt mèo là quán của anh Nguyễn Văn Tốn, đường Lê Đức Thọ, phường 13, quận Gò Vấp; quán Hùng Thanh ở khu Làng Hoa, quận Gò Vấp; quán Lương Hồng ở xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn...

Rượu mật mèo đen: Hàng hiếm

“Có những quán rất bình dân, cà tàng nhưng chủ nhân của nó là những tay làm mèo lâu năm có kinh nghiệm. Bảo đảm ăn vào ông sẽ phát ghiền luôn... Rượu mật uống với thịt mèo, ăn vào sẽ thấy hết nghèo thành sang... hì..hì...”, Trí khẳng định với tôi như vậy.

Chiều hôm nọ, Trí cùng hai người bạn khác dẫn tôi ghé vào quán “đặc sản tiểu hổ” của anh Nguyễn Văn Tốn. Quán chỉ toàn bàn gỗ thấp như kiểu quán cóc, nhà lụp xụp nhưng vài chục khách sang có, bình dân có đang “say sưa” đánh chén thịt mèo. Trước quầy, có 5, 6 phụ nữ ngồi trên xe gắn máy đang chờ mua thịt mèo đem về nhà. Trí chọn một con mèo 3 kg, bảo rằng muốn chế biến 9 món, gồm: nướng chả, tái riềng, xào lăn, chân giò hầm, sườn chiên và lẩu... Chủ quán là một người đàn ông trạc chừng 40 tuổi, gật đầu ra vẻ hiểu ý, đáp bằng giọng Bắc: “ Vâng ạ...”. Tôi nói  muốn đi theo chủ quán để tận mắt chứng kiến việc chế biến, anh ta dẫn tôi ra phía sau. Tại đây có khoảng 5, 6 chiếc lồng, mỗi lồng  chứa gần chục con mèo lớn, nhỏ. Anh Tốn chọn một con mèo vàng đem ra bàn mổ là một thớt đá lớn cạnh vòi nước. Con mèo bị cột chặt bốn chân, đặt nằm xuống, chủ quán dùng một cái chày lớn bằng đá nện mấy phát vào đầu con mèo. “Tiểu hổ” gào lên ngao ngao lần cuối rồi sau đó giãy chết... Tiếp theo là đến công đoạn nhổ lông, mổ thịt.

Một lát sau, những đĩa thịt mèo thơm phức đã được dọn lên bàn nhậu. Anh Tốn đem ra một hũ keo 3 lít rượu ngâm mật của một con mèo đen. Theo lời giới thiệu của anh, nhiều người vẫn cho rằng ăn thịt mèo phải uống với rượu huyết khỉ là ngon nhất, nhưng thật ra phải uống với mật  mèo đen mới là dân nhậu “thứ thiệt”. Một cái mật trên 70.000 đồng, chỉ ngâm một nước rượu, phải là khách quen quán mới cung cấp vì đây là... hàng hiếm. “Rượu mật mèo trị bệnh suy nhược, đau lưng, đau dạ dày... trong khi thịt mèo rất bổ, có tác dụng bài độc... Kết hợp lại là hết ý”, anh  vừa nói vừa nâng ly mời chúng tôi. Thiệt tình, tôi không biết thịt mèo và rượu mật mèo có bổ đúng như lời anh Tốn nói hay không nhưng uống vài chung rượu, gắp một miếng chả mèo chấm nước tương chao ăn cùng với rau má  thì quả thật... “tuyệt cú mèo”.

“Hành phương Nam” khai sinh phố thịt mèo

Anh Tốn kể, quê anh ở huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Anh đã ra Hải Phòng phụ việc cho một quán đặc sản thịt mèo gần 2 năm để học nghề. Sau đó hai vợ chồng  “hành phương Nam” mang theo công nghệ... thịt mèo mà mình đã học được. Vào TPHCM, thuê nhà ở quận Gò Vấp, cách nay một năm, anh cùng vợ và 2 đứa em quyết định “lăng xê” thịt mèo. Ngày mới khai trương quán, nhiều người đi đường còn lạ lẫm . Dân nhậu ghé vào vì tò mò, ai ngờ đâm... nghiện. Quán trở nên đông. Có ngày cả trăm khách. Vậy là dọc tuyến đường này xuất hiện thêm chục quán nữa. Trong đó có 3 quán là của người phụ việc của anh tách ra làm riêng. Nghe đâu còn 4 quán “tiểu hổ” nữa đang chuẩn bị khai trương....

Tuy vậy, quán anh Tốn vẫn không sợ vắng khách vì “thịt mèo ngon hay không hơn nhau ở chỗ biết chế biến gia vị... Nếu không biết cách làm, thịt mèo sẽ rất dai và có mùi hôi hăng hắc...”, anh Tốn nói vậy. Mỗi ngày anh tiêu thụ khoảng chục con mèo. Bình quân khoảng 30.000 đồng/kg, mèo đen và mèo tam thể giá nhỉnh hơn chút đỉnh. Một con chế biến ra chục món, bán với giá bình dân khoảng 10.000 đồng/dĩa, một cái lẩu cũng chỉ 20.000 đồng nên “thu hút” được dân nhậu mọi giới. Cũng theo lời anh, vào những ngày nghỉ cuối tuần, dân TP đi xe gắn máy có, xe hơi có ghé vào thưởng thức thịt “tiểu hổ”. Có người mua cả 2, 3 con mèo quay để đem về thưởng thức. Mèo được tận dụng tối đa, thịt để bán cho khách, dạ mèo ngâm rượu làm thức uống, còn xương mèo thì bán cho mấy lò thuốc Bắc nấu cao, làm thuốc chữa đau cơ, nhức mỏi.... Tính ra, trừ đi mọi chi phí, vợ chồng anh cũng còn dư dả vài triệu đồng một tháng.

Theo anh Tiến và chủ một số quán thịt mèo ở Hóc Môn, Gò Vấp, lúc nào họ cũng “thủ” tại quán 1-2 tạ thịt mèo nhưng có khi vẫn thiếu vì khách nhiều một cách đột xuất. Tôi hỏi nguồn mèo ở đâu cung cấp, anh Trần Văn Hoàng, chủ quán thịt mèo Quê Hương ở xã Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn, cho biết: “Chỉ cần phôn một cái là... bao nhiêu mèo cũng có...”. Thì ra nguồn mèo chính cung cấp cho các quán là qua các thương lái mua lại của những người bắt trộm mèo nuôi, nhưng nhiều nhất vẫn là nguồn mèo được thu gom từ Lâm Đồng, Đắk Lắk... Ở những nơi này có những hộ nuôi mèo chỉ để... bán.

Hết dế, bò cạp... đến mèo

Theo dân nhậu nhận xét, thịt mèo trở nên thịnh vì thịt con vật này nếu biết chế biến thì ngon không kém gì thịt chó, giá cũng rẻ ngang ngửa. Nhưng quan trọng nhất, nó còn là món ăn khá... lạ. “Gu” của dân nhậu lẫn người dư dả tiền bạc hiện nay là thích những món ăn mới lạ, độc đáo. Do vậy, nhiều quán nhậu bày ra đủ món đặc sản như dế, bò cạp, cào cào... và bây giờ tới những chú  miêu. Nói gì thì nói, đến lượt con vật nuôi gần gũi với con người này bị đem ra xẻ thịt vẫn cảm thấy xót xa...

... Buổi tối, sau khi no say với đặc sản “tiểu hổ”, ghé vào nhà cô bạn gái thấy nàng ra mở cửa đón tôi, tay ôm con mèo mướp, rươm rướm nước mắt kể rằng nhà vừa bị mất hai con mèo tam thể.  Cách nay  một tháng, một con mèo bị bệnh chết, cô bạn khóc hết cả buổi và nhất định đòi tự tay đem chôn. Chẳng biết  cô bạn sẽ nổi giận như thế nào khi biết tôi vừa đi ăn thịt loài vật mà cô yêu quý. Nhìn chú mèo bỗng dưng tôi cứ thấy cặp mắt nó nhìn mình căm phẫn...

Dạo này, nhiều người trong xóm tôi than bị mất mèo liên tục. Biết đâu trong số đó lại có những con đã được chế biến thành đặc sản mà tôi vừa ăn hồi chiều. Không khéo sau nạn trộm chó sẽ lại rộ lên nạn trộm mèo

Các “đại gia” ăn thịt mèo đầu tháng lấy… hên; mâm cỗ cưới có thêm đĩa thịt ”tiểu hổ” càng thêm phần sang trọng; khách ở xa đến cũng được dẫn ra quán thịt mèo… Những "restaurants thịt mèo" mọc lên như nấm sau mưa tại Thái Bình. Nhiều nhà hàng, quán ăn không còn phải giết mèo thủ công như trước kia mà họ trang bị những máy móc tân kì và hiện đại để “tận diệt” loài mèo một cách không thương tiếc…


Các kiểu đả tiểu hổ của "Võ Tòng thời hiện đại"…

Nếu ai đã từng chứng kiến cảnh "vồ" tiểu hổ của các "Võ Tòng" thì mới thấy hết "tài nghệ" của họ và số phận của những con mèo có thể bị định đoạt bất cứ lúc nào. Loài mèo thường ngủ ngày, đêm đi rình chuột, chúng có đặc tính sinh học là mắt cực tinh trong đêm tối và có phản xạ nhanh gấp khoảng 9-10 lần con người.

Tuy vậy, "hoàng hôn buông xuống", khi “đụng” phải các "tay săn pờ rồ", loài mèo cũng khó lòng thoát chết. Nếu"Võ Tòng" nhìn thấy chú mèo nào lang thang cạnh đường hoặc đang tập trung cao độ để vồ chuột, họ đi ngang qua tiếp cận "đối phương", chỉ cần một "kĩ năng" lắc nhẹ cổ tay, chiếc roi bằng thép dẻo, độ đàn hồi cao vụt trúng gáy là mèo kia chết không kịp ngáp. Một cách bắt mèo khác theo kiểu đánh "vu hồi":

Lợi dụng đặc tính "bắt đèn" của mắt mèo khi bị rọi đèn pin, mắt chúng đang tập trung vào nguồn sáng có cường độ mạnh phía đối diện, lập tức nhanh như chảo chớp, chiếc đinh ba từ một kẻ đứng phía sau cắm phập vào lưng mèo.

Đến mùa động đực, mèo cái "ngoao, ngoao" gọi bạn tình, thường có khoảng 2 - 3 con mèo đực vây quanh, lợi dụng thời điểm này, "đội săn" nhốt sẵn mèo cái ở những nơi có khả năng mèo đực đi qua, những con đực đang lượn lờ "màn chào hỏi" gần mèo cái chưa kịp thực hiện "bản năng gốc" đã bị sập bẫy.

Và "restaurants" thịt mèo đủ món

Chỉ riêng TP Thái Bình, một TP loại ba nhỏ bé mà cứ đi một đoạn lại thấy một quán "đặc sản thịt mèo","tiểu hổ" hoặc tế nhị và mĩ miều hơn là "đặc sản đồng quê". Còn nhớ, sau Chỉ thị số 19 của UBND tỉnh về việc cấm giết mổ mèo, "phong trào" giết mổ và xơi thịt mèo không "hồn nhiên" như trước, tạm "thoái trào" rút vào "hoạt động bí mật". Những chiếc xe ô tô treo khẩu hiệu đỏ hai bên thành xe với nội dung tuyên truyền nghiêm cấm việc bắt trộm, kinh doanh, giết mổ, ăn thịt mèo.

Trên nóc xe, những chiếc loa công suất lớn đọc nội dung Chỉ thị, xe chạy chậm hơn khi đến "tiêu điểm"- các quán nhậu bán thịt mèo. Sau khoảng một vài tháng, tình trạng giết mổ và xơi thịt mèo được hạn chế, nhưng rồi lại đâu vào đó. Một số quán sợ "lộ hàng" nên không dám đề thẳng chữ "mèo" ra, các quán khác thì "hiên ngang" đề thẳng "đặc sản thịt mèo".

Không chỉ riêng trên địa bàn TP mà cả các vùng quê cũng nhan nhản quán thịt mèo. Quán thịt mèo Đông La, Đông Hưng nổi tiếng về cách pha chế, ướp tẩm...Cánh lái xe tuyến Thái Bình - Hải Phòng thường "họp" tại đây vào đầu tháng. Các ngả đường đi Kiến Xương, Vũ Thư… cũng vậy. Trên đường đi Thái Thụy, gần cầu Vô Hối có quán thịt mèo khá nổi tiếng và đông khách, chủ quán tỏ ra là người khá tế nhị, xóa chữ “èo” đi chỉ để lại chữ M. - Quán thịt M.

Theo ước tính, tại Thái Bình mỗi ngày có khoảng vài trăm con mèo bị làm lông. Thịt mèo được chế biến thành nhiều món: Hấp, xào sả ớt, rựa mận, xáo măng tươi... Mật mèo, nhất là mật mèo đen, pha rượu được các đệ tử lưu linh đánh giá khá cao bởi "chồng uống vợ khen".

lưỡi cày, loại đã dùng lâu ngày bóng loáng như gương đặt lên lò than củi cho nóng rực, dùng da chuột đồng đã làm sạch thui qua lửa gói ruột mèo, nướng trên lưỡi cày làm mồi nhậu.

Nhân quả

Tại tỉnh thuần nông Thái Bình, vựa lúa của đồng bằng Bắc bộ, điều khiến người nông dân lo lắng là nạn chuột tàn phá mùa màng, mà đặc tính sinh học của loài gặm nhấm có hại kia là 2 chiếc răng cửa hàm trên cứ mọc dài theo thời gian, buộc chúng phải cắn tất cả những gì có thể trên "lộ trình" đi qua.

Những thửa mạ, cánh đồng lúa đang làm đòng, hoặc lúa chín vàng chờ thu hoạch gặp các "anh chí" kia thì không còn gì để nói. Lũ chuột đồng tinh ranh kia đã dạn người, đến nỗi người đến rất gần chúng mới chịu lủi, có con còn giương mắt thao láo như trêu ngươi khi khắc tinh của chúng - loài mèo bị lên thớt, chúng càng được thể lộng hành.

Thực tế, “phương pháp” diệt chuột bằng mèo là hiệu quả cao nhất vì mỗi năm, chúng bắt

được khoảng 500 con chuột. Theo thống kê chưa đầy đủ thì hằng năm tại Thái Bình vẫn còn những cái chết thương tâm bởi điện giật vì dùng điện diệt chuột bảo vệ hoa màu.

Buổi tối, dọc đường về huyện Thái Thụy, Tiền Hải, Kiến Xương,... người đi đường vẫn thường thấy những bóng đèn đỏ lừ - tín hiệu cảnh báo nguy hiểm trên cánh đồng - đó là những cánh đồng dùng điện diệt chuột.

Dọc đường hai bên sông Vĩnh Trà, Bồ Xuyên, đường Trần Thánh Tông, Kì Bá... địa bàn TP Thái Bình, dân đi bộ tập thể dục thường thấy những con chuột cống lụ khụ, lông đuôi trụi thùi lụi dưới ánh đèn cao áp, chúng mặc nhiên tồn tại như “một phần không thể thiếu của đường phố" khi mà trong những ngôi nhà sáng trưng, những chú mèo bị xích cổ ngồi buồn thiu trong góc nhà vì chủ của nó sợ nếu thả mèo lang thang, lớ ngớ lại đụng phải "Võ Tòng".

Quê lúa Thái Bình đã nhiều lần điêu đứng vì nạn chuột hoành hành, nhưng xem ra những quán kinh doanh thịt mèo và khách nhậu cũng không quan tâm lắm về điều này.

Mà cũng thật ái ngại khi nghe loa phát thanh đọc Chỉ thị ra rả chỉ vì... cái sự ăn thịt mèo. Chỉ thị ban hành rồi đâu lại vào đấy. Con vật hữu ích ngàn đời nay của nông dân vẫn tiếp tục lìa đời.

Chẳng biết từ bao giờ, các bợm sành ăn đã chuyển món cầy tơ, một món ăn nổi tiếng từ Nam ra Bắc, để thay vào đó là món tiểu hổ (thịt mèo), một món ăn còn khá mới lạ đối với nhiều dân nhậu. Nhưng nay thì khác, hầu như quán cầy tơ nào cũng có kèm theo món tiểu hổ, thậm chí có quán chuyên cầy tơ cũng không ngần ngại chuyển từ cầy sang tiểu hổ.

Dù đây là con vật đứng thứ tư trong 12 con giáp. “So với thịt chó, rắn, kỳ đà, hay các loại thịt thú rừng, thịt tiểu hổ cũng ngon, bổ, rẻ không kém, nhưng hiện nay nhiều dân nhậu lại thích chơi món tiểu hổ hơn, vì tên gọi của nó nghe sang và còn xả được xui nữa!” - Đ.S. một bợn nhậu cho biết.

Mèo đổi xoong nồi

Cũng giống như săn cẩu, thợ săn tiểu hổ muốn hành nghề phải có xe gắn máy, và các dụng cụ chuyên nghiệp. Có người còn săn kiểu kết hợp “2 trong 1”. Nhưng so với săn cẩu thì săn tiểu hổ có ăn hơn, vì 1kg thịt tiểu hổ cao gấp vài lần so với thịt cầy, với lại nghề này mới thịnh, nên ít người theo.

“Ngày nào bèo lắm cũng có đôi trăm bỏ túi, còn ngày nào gặp phải người thích đổi mèo lấy hàng thì trúng đậm.” - Nguyễn H., một thợ săn tiểu hổ cho biết. Nghe kể cũng ham, thế là tôi xin H. cho mình gia nhập đội quân săn tiểu hổ. “Chuyện này thì vô tư, tui không nghĩ ngợi gì đâu, ông cứ về chuẩn bị đi, có gì mai tôi gọi!” - H. đồng ý và dặn.

Mặc dù mục đích của tôi là đi săn cho biết, chứ không phải vì xem đây là kế sinh nhai, nhưng không hiểu sao tôi vẫn thấy nao nao. Đúng hẹn, tôi và H. gặp nhau tại khu nhà trọ trên đường D2 (Q.Bình Thạnh).

“Nếu hôm nay gặp may, đổi được phân nửa số hàng này cũng ấm” - H. nói và chỉ tay về chiếc xe cà tàng, chở lỉnh kỉnh nồi niêu xoong chảo. Vì không chuẩn bị đồ nghề như H., nên hắn chia sẻ cho tôi một mớ nồi xoong để làm màu. Tuy hơi ngại phải chở những thứ này, nhưng vì thấy H. quá nhiệt tình, nên tôi cũng đành chấp nhận.

“Ông mới đi lần đầu thì xuống Thủ Đức cho gần, khi nào quen nghề rồi đi xa...” - H. nói giọng rất nhân đạo.

Căn nhà đầu tiên chúng tôi ghé vào, có vẻ bề ngoài rất nghèo, nhưng trong nhà thì nuôi đến 5 con mèo. Sau tràng cười cầu tài và nói vài câu “nịnh đầm” bà chủ nhà, H. gạ gẫm:

- Chị Ba có đàn mèo đẹp quá, đổi cho em vài con lấy xoong nồi nấu đồ nhậu cho ông xã...

- Thôi chú ơi, nghe lời chú khác nào tập hư cho ổng, chú thích thì tôi bán cho chú không đổi chác gì hết.

Thỏa thuận không được đáp ứng, mặt H. buồn như nghĩa địa chiều mưa, bởi so với bán thì đổi lời hơn nhiều.

- Ừ thích bàn thì bán, chị bắt đi để em cân.

Chẳng biết có phải vì bà này chán nuôi mèo rồi hay vì lý do gì đó, mà bà ta bắt cả 5 con dồn vào bao. Có lẽ 5 con mèo này cũng biết số phận bi đát của chúng, nên chúng la như bị chọc tiết. Sau một hồi cân kéo, H. lên tiếng:

- Có 7kg hà chị ơi!

Nghe thế bà ta giẫy nẩy như đỉa phải vôi:

- Trời ơi, chú cân gian ác ôn vừa thôi, chứ 5 con mèo này tôi ước hơn chục ký lận.

Biết mánh sửa cân bị lộ, H. nói là cân lộn và cân lại. Lần cân lại này H. bảo là hơn 8kg và thề rằng:

- Cân em đàng hoàng lắm, không như người ta đâu, hồi nãy do em nhìn không kỹ thôi, chứ ăn gian gì vài ký thịt mèo để ra đường xe đụng chết à?

Nghe thề độc, bà chủ nhà không nói gì. Rời khỏi nhà bà chủ nọ được một đoạn, H. cười như trúng số bảo;

- Con mẹ đó tưởng khôn, hóa ra vẫn còn dại, 5 con mèo này bét lắm cũng 12kg chứ không ít! Tưởng đâu chỉ có mèo lớn H. mới mua, hóa ra mèo nhỏ bằng bắp tay H. cũng mua. “2 con này nhỏ quá, em chỉ đổi cho chị cái nồi nhỏ thôi...” - H. nói với bà chủ nhà tên Oanh, và chỉ vào cái nồi nhỏ tí. Chẳng biết cái nồi của H. đưa cho có nấu được 1 lon gạo không, vậy mà bà ta cũng đồng ý.

Mèo nào cũng xơi

Theo lời “bật mí” của H. thì trước đây, những con mèo có trọng lượng từ 1kg trở lên mới được các chủ lò thu mua, còn mèo nhỏ bằng nắm tay thì “có cho họ cũng không lấy”, vì so với mèo lớn, mèo sữa ăn vào rất tanh, và khó làm tủy, thế nhưng vì “cung không đủ cầu” nên họ lấy tất. Và sau đó, họ lấy thịt mèo sữa trộn chung với mèo lớn theo công thức 7 - 3, thậm chí mèo  bệnh, mèo chết cũng được họ thu vào với giá thấp, rồi phù phép biến chúng thành những miếng thịt mèo thơm phức để lừa “thượng đế”.

Để được “tận mục sở thị” kiểu chế biến kinh dị, tôi năn nỉ H. cho mình được phụ việc trong một lò mổ kiêm quán nhậu “tiểu hổ” có vẻ bề ngoài khá sang trọng trên đường K. (Q.Thủ Đức). Nhìn tôi chằm chằm, ông chủ quán người cao lều nghều lên tiếng:

- Ở đây, anh không thiếu người làm, nhưng nể thằng H., anh nhận em vào làm thử thời gian coi sao.

Tôi ậm ừ cho qua chuyện và xắn tay vào nhiệm vụ được giao. “Nhiệm vụ” của tôi là nấu nước sôi trụng mèo, cạo lông, còn những công việc quan trọng như dìm nước, đập đầu, xả thịt do một người tên Trung đảm nhận. Không chỉ xẻ thịt để bán tại quán, mà Trung còn xẻ thịt để phân phối cho nhiều quán quen khác, nên mỗi ngày Trung “xuống tay” đến vài trăm con mèo là chuyện thường.

Nhưng cái đáng nể ở Trung không phải là có “bàn tay sát mèo” mà là “thủ thuật” chế biến. Cầm con mèo bị chết hơn 2 ngày, đã trương phình, bốc mùi hôi hám, đã được làm lông sạch sẽ, Trung xẻ thịt nhanh như máy, sau đó cho vào một nồi nước màu đỏ. Nồi nước này Trung gọi là “nước phụ gia”. Ngâm khoảng 5 phút lấy con mèo ra, thì thật kỳ lạ, mùi hôi đã không còn, mà thay vào đó là một mùi thơm rất hấp dẫn.

“Ngay cả chính tay mình chế biến, lấy ra nhìn cũng muốn ăn, huống gì dân nhậu!” - Trung nói như thế để tưởng thưởng cho tài chế biến mèo chết ươn thành “mèo sạch” của mình. “Làm ở đây mấy năm rồi, chế biến đủ thứ loại mèo, từ mèo bị xe cán nát, cho đến mèo chết bị vứt xuống ao hồ 3, 4 ngày, nhưng chưa bị ai chê bao giờ!” - Trung “méc” thêm, vẻ tự hào.

Viện lý do không đủ sức để làm việc, tôi xin nghỉ trước thời hạn. “Anh biết ngay mà, thế nào chú cũng phải bỏ việc sớm thôi!” - Ông chủ quán bảo thế và cười đầy bí hiểm.

Bây giờ, mỗi khi nhớ lại công nghệ chế biến của Trung là tôi lại rùng mình. Không biết các bợm nhậu có rùng mình giống tôi khi biết mình ăn thịt “tiểu hổ” được chế biến như thế?!

Cách đây vài ba năm, người dân ở một số thành phố lớn rộ lên phong trào ăn thịt "tiểu hổ"- thịt mèo- nhưng từ khi nạn chuột hoành hoành ở nhiều nơi, Chính phủ đã ban hành chỉ thị cấm buôn bán thịt mèo thì phong trào ấy đã dịu đi và có phần lắng lại. Nhưng hiện nay ở một thành phố thuộc đồng bằng Bắc Bộ mà sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, chỉ cách Hà Nội hơn một trăm cây số, nạn buôn bán và giết thịt "tiểu hổ" vẫn diễn ra một cách công khai.

Hàng loạt hàng quán phục vụ dân nhậu thịt mèo mọc lên từ thành phố đến nông thôn, treo biển quảng cáo xanh đỏ đập vào mắt người đi đường, thậm chí họ còn làm thịt mèo trước cửa nhà hàng, ngay bên vệ đường với số lượng hàng trăm con mỗi ngày giữa thanh thiên bạch nhật nhưng vẫn không bị các cơ quan chức năng "sờ gáy", mặc cho dư luận nhân dân tỉnh Thái Bình không ít lần lên tiếng và có phần phẫn nộ. Mặc, người giết vẫn giết, người ăn vẫn cứ đi ăn...

"Hoá kiếp cho mày, mày làm kiếp khác..."
Gần sáu giờ sáng, khi những người đi tập thể dục bắt đầu trở về nhà thì quán "Tiểu hổ đồng quê" trên phố Nguyễn Thái Học cũng bắt đầu mở cửa chuẩn bị hàng cho một ngày hứa hẹn đông khách. Một chiếc lồng sắt hoen gỉ được những người làm khiêng ra, bên trong nhốt đến hàng trăm con mèo. Ngồi ở hàng nước bên cạnh, cũng là một điểm "mua bán mèo" quan sát, nghe tiếng mèo kêu meo meo đến sốt ruột nhưng tôi thấy gương mặt những người làm công của quán- những tay đồ tể- vẫn không biểu lộ cảm xúc gì. Có lẽ vì họ đã quá quen với công việc này? ấy là túm cổ từng con mèo đút vào sợi dây thòng lọng rồi thít lại cho thật chặt. Mặc cho những con mèo giãy giụa, tay đồ tể cười khùng khục rồi quẳng những chú mèo tội nghiệp vào một cái bể nước đen ngòm. Những con mèo đáng thương bị vứt vào bể nước không còn sống được bao lâu, có khi chỉ kêu lên vài tiếng tắc nghẹn, giãy giụa mấy cái rồi chìm nghỉm. Tay đồ tể vẫn cần mẫn làm công việc của mình, vứt vào bể nước hết con này đến con khác. Xong công đoạn giết, tay đổ tể dừng tay nhìn vào bể nước rồi chạy sang quán “ăn" điếu thuốc lào, cũng vừa lúc nồi nước quân dụng trên bếp sùng sục sôi. Tôi vờ như vô tình hỏi: "Ông anh không thấy ghê tay à?". Tay đồ tể khoan khoái nhả khói, trả lời có vẻ thành thật: "Mới đầu thì cũng ghê thật nhưng làm riết rồi cũng quen! Mình chỉ là người làm thuê, chủ sai gì thì phải làm nấy chứ biết làm sao được. Với lại, biết đâu mình lại hoá kiếp cho nó ấy chứ! Ông bà ta mỗi lần giết gà chẳng bảo "hoá kiếp cho mày mày làm kiếp khác..." là gì! Tôi vẫn thường đọc câu ấy mỗi khi "ra tay" đấy...". Tay đồ tể cười khùng khục với tôi rồi quay trở về tiếp tục công việc của mình. Từng con mèo được vớt ra, rồi quẳng vào chiếc máy làm lông mèo bằng i- nox bầu bầu giống như một chiếc máy... trộn bê tông thu nhỏ chạy ầm ầm ngay cạnh đó. Để tìm hiểu về chiếc máy... công nghệ cao này, buổi trưa tôi quay trở lại... mua thịt mèo và được ông chủ quán cho biết chiếc máy do ông tự nghĩ ra và đặt làm (?). Trong máy có sẵn nước sôi và hai quả lô. Khi máy vận hành, hai quả lô quay và đánh tuột hết lông mèo. Mèo khi đã làm sạch lông được lôi ra chất thành đống trắng ởn ngay bên vệ đường để thui cho đến khi lên màu vàng óng. Sau đó là công đoạn xẻ thịt mèo. Hai, ba chiếc mẹt được đưa ra. Những người làm công tay dao tay thớt thoăn thoắt mổ bụng, cắt đầu và phân chia từng bộ phận của con mèo ra từng mẹt riêng để chế biến thành các món nhậu phục vụ "thượng đế". Nhưng đó chỉ là loại hàng phục vụ khách bình dân hoặc được đặt hàng nhờ chế biến sẵn để mang đi. Đối với những "thượng khách" là các quan chức hay những người làm ăn có máu mặt, lắm tiền nhiều của thì chỉ cần a lô hẹn trước đặt chỗ, khi đến mới xuống bếp tự tay chọn mèo sau đó đưa nhà hàng chế biến. Với những vị "thượng khách" này thì những con mèo đen tuyền luôn là sự lựa chọn số một, có con giá lên tới cả triệu đồng!
Tuy không đến nỗi đem mèo ra vệ đường để xả thịt giữa thanh thiên bạch nhật với "công nghệ hiện đại" như quán "Tiểu hổ đồng quê" nhưng mức độ "diệt mèo" ở "nhà hàng Tuấn béo" nằm trong một con ngõ ngang trên đường Lý Thường Kiệt cũng chẳng thua kém gì, hàng trăm con mỗi ngày. Hàng xóm của vợ chồng ông chủ Tuấn "béo" cho biết trước đây họ là những "tay" lô đề có tiếng ở cái thành phố nhỏ bé này, do vỡ nợ nên chuyển hướng làm ăn sang kinh doanh nhà hàng mà chủ yếu là thịt mèo. Mở quán nhậu "tiểu hổ" được vài năm họ xây được nhà năm tầng khang trang bề thế, đến nỗi ai quen biết cũng phải kinh ngạc. "Đồ tể" của "nhà hàng Tuấn béo" là... mấy cô gái tuổi chừng hai mốt hăm hai. Mèo được làm thịt ngay ở tầng trệt của ngôi nhà, cũng là chỗ để xe của thực khách. Không cần phải lấy dây thòng lọng thít cổ những con mèo đáng thương cho đến chết rồi mới làm thịt. Khoảng tám, chín giờ sáng mèo được những người "lái buôn"đưa đến, các cô lựa những con béo tốt đẹp mã để dành cho khách "vip", còn lại các cô "tặng" cho mỗi con mèo một cái chày gỗ vào đầu. Chỉ nghe đánh "choác" một cái, con mèo đã nằm xuội lơ, không kịp kêu lấy một tiếng. Gọn ghẽ và dứt khoát đến từng động tác, ngay cả khi quẳng con mèo vào thùng nước sôi gần đấy rồi nhấc ra mẹt để cho đám người làm khác cạo lông và làm nốt những công đoạn còn lại. Cứ thế, suốt từ sáng cho đến chiều tối, tiếng băm băm chặt chặt không lúc nào ngơi. Qua tìm hiểu chúng tôi được biết, "Nhà hàng Tuấn béo" là nơi lui tới thường xuyên của các quan chức, những vị "tai to mặt lớn" trong tỉnh hoặc những "thượng đế" lắm tiền nhiều của mỗi khi có tiệc tùng chiêu đãi mà ít thực khách bình dân nào dám đến đây. Phần vì giá cả hơi "chát", nhưng còn vì vợ chồng ông chủ nắm được tâm lý khách hàng, họ chia ngôi nhà thành những phòng riêng kín đáo nên các "thượng đế" đến đây không sợ ai dòm ngó.
Một buổi sáng loanh quanh ở thành phố Thái Bình tìm hiểu để viết bài này, tôi đếm được không dưới ba mươi nhà hàng treo biển "đặc sản thịt mèo". Nổi tiếng như "Duyên thịt mèo" trên đường Lý Thường Kiệt, "Thanh Vân đặc sản chó mèo" ở phố Lý Bôn, "Thịt mèo Ngọc Thao" và hàng chục quán lấy tên là "Tiểu hổ đồng quê"... còn có những quán không treo biển nhưng chỉ nhìn những chiếc lồng nhốt hàng trăm chú mèo đang chờ được "hoá kiếp" như lời tay đồ tể quán "Tiểu hổ đồng quê", hay những con mèo đã được làm lông trắng ởn hoặc hàng đống đầu mèo chưa kịp đem đi chế biến mà mới nhìn qua đã thấy rùng mình vì sự tàn ác của con người, là đã biết ở đó có bán thịt mèo!
"Đại dịch" nhậu thịt mèo ở Thái Bình
Không biết từ bao giờ và vì đâu mà nhiều quan chức và cả những người dân ở thành phố Thái Bình cho rằng ăn thịt mèo rất hên và giải được xui? Có phải vậy không mà khoảng hai ba năm trở lại đây, thịt mèo được liệt vào hàng đặc sản. Làm ăn thua lỗ, ăn thịt mèo để giải xui. Ký được hợp đồng béo bở, nhậu thịt mèo mừng thắng lợi. Các quan chức tiếp khách cũng chọn quán thịt mèo. Liên hoan, chia tay, bạn bè gặp mặt... hay bất cứ một lý do gì cũng dù "bé bằng con kiến" người ta cũng dẫn nhau đi nhậu thịt mèo, bất kể đầu tháng âm lịch hay cuối tháng. Thậm chí, tôi từng được biết có đám cưới làm hơn trăm mâm cỗ, mỗi mâm cũng đặt vào đó đĩa thịt mèo hấp và lòng mèo xào cho thêm phần... sang trọng. Nhìn vào thực đơn của các nhà hàng tôi được biết người ta có thể chế biến thịt mèo thành nhiều món: hấp, rựa mận, mèo xào xả ớt, giả cầy... thậm chí đến mật mèo người ta cũng cho vào ngâm rượu thành... rượu mật mèo, chẳng biết thật giả ra sao nhưng cứ theo lời những chủ nhà hàng thì uống rượu mật mèo "bổ âm, bổ dương, bổ giường, bổ chiếu"? Không chỉ thành phố Thái Bình mà ở các thị trấn và trên dọc những con đường xuống các huyện, đặt biệt là quốc lộ 10 đoạn qua thị trấn Đông Hưng đi Hải Phòng và thị trấn Vũ Thư đi Hà Nội các quán treo biển đặc sản thịt mèo cũng mọc lên nhan nhản. Chưa có một thống kê nào cho thấy số lượng "tiểu hổ" bị đem đi xả thịt ở Thái Bình mỗi ngày, nhưng theo chính những người làm công cho những nhà hàng nói trên ước tính với tôi dễ đến hàng... nghìn con(!). Khi tôi ngỏ ý muốn biết với lượng tiêu thụ mỗi ngày lớn như vậy, các nhà hàng lấy mèo ở đâu ra mà xả thịt thì tôi chỉ nhận được những cái lắc đầu.
Cách đây gần chục năm, trước "đại dịch chuột" hoành hoành dữ dội phá hoại mùa màng, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 09/1998/CT- TTg quy định rõ: "Thu hồi giấy phép kinh doanh, dẹp ngay các quán thịt mèo, xử lý nghiêm những đối tượng chuyên đi bắt mèo, buôn bán mèo..." và nhiều địa phương đã thực hiện nghiêm chỉnh nhưng không hiểu sao chỉ riêng tại Thái Bình các quán đặc sản tiểu hổ vẫn mọc lên ngày một nhiều mà cơ quan chức năng không xử lý?

Con mèo đẹp thế mà nhoằng cái, "con mèo, nó rất ngoan, nó thường hay vào trong xó bếp" mà các bé vẫn hát, đã thành những đĩa thịt ê hề. Thịt mèo là đặc sản, nhưng cũng là nỗi ngậm ngùi của những người còn tình với con vật gần gũi này.

- Con mèo đẹp thế mà nhoằng cái, "con mèo, nó rất ngoan, nó thường hay vào trong xó bếp" mà các bé vẫn hát, đã thành những đĩa thịt ê hề. Thịt mèo là đặc sản, nhưng cũng là nỗi ngậm ngùi của những người còn tình với con vật gần gũi này.
 
Không biết từ bao giờ và vì đâu mà nhiều người ở Thái Bình cho rằng ăn thịt mèo giải được vận xui! Có lẽ vì thế mà thịt mèo được liệt vào hàng đặc sản tại quê lúa. Làm ăn thua lỗ, ăn thịt mèo. Ký được hợp đồng béo bở, nhậu thịt mèo. Các quan khi tiếp khách cũng chọn quán thịt mèo. Liên hoan, chia tay, bạn bè gặp mặt... người ta dẫn nhau đi ăn mèo, bất kể đầu hay cuối tháng âm lịch.
 
Đến Thái Bình, dễ nhận thấy hàng loạt hàng quán bán thịt mèo treo biển quảng cáo đập vào mắt người đi đường, thậm chí người ta còn làm thịt hàng trăm con mèo mỗi ngày trước cửa nhà hàng, ngay bên vệ đường. 

''Bài viết sau là cuộc trò chuyện giữa khách hàng và chủ quán (anh sỹ) đc ghi lại từ báo CA Đà Nẵng''.     Đi qua cái mặt tiền cỏ mọc um tùm, quán 69-Trần Nhân Tông, P. Tây Lộc, TP Huế có vẻ hiu quạnh lắm, nhưng vừa ngồi xuống bàn đã nghe phía sau của tửu quán “bốp, bốp” liền mấy phát, anh bạn buông lời: “Một chú tiểu hổ đã ra đi!”. Chủ quán nói vọng vào với anh bạn hàng: “Chú đến hơi sớm, ráng chờ khoảng 15 phút là xong chừ”. Ngó qua cửa sổ, độ chục chú miu đã bị “khò” lông trắng hếu treo trên dây. Cái món “tiểu hổ” này không phải ai cũng ăn được, nhưng rõ ràng là quán của Sỹ và hàng chục quán khác ở Huế vẫn tồn tại được, thậm chí còn “sống” mạnh nữa là đằng khác đã chứng minh một điều: thịt mèo vẫn là mồi ngon đối với dân nhậu.  

Không giống như những quán nhậu khác là ngoài món chủ lực “tiểu hổ” thì kiêm thêm một vài món nữa để phục vụ cho những khách không dám “xơi” thịt mèo, quán 69-Trần Nhân Tông của Sỹ “chuyên canh” duy nhất món tiểu hổ nên cứ bắt thóp vui vui theo ngôn ngữ của dân nhậu là quán... toàn mèo (như người ta gọi quán thịt chó là... toàn chó

Sau cái tiếng “bốp” khô khốc, anh chủ quán còn trẻ về tuổi đời nhưng có vẻ già dặn tuổi nghề tay cầm cuốn sổ chỉ đạo mấy thợ cạo đẩy nhanh tiến độ vì nhìn cái màu mưa trắng trời này thì khách đông là cái chắc. Tay “khò” lông cũng chuyên nghiệp không kém so với tay đập mèo lúc nãy. Đầu đội mũ lưỡi trai, môi ngậm điếu thuốc vênh vênh, mắt nheo, tay đưa nhanh bình gas gắn liền với ống dẫn lửa lướt khắp cơ thể chú miu mềm ẹo, máu còn dính bên miệng. Chỉ một chốc là từng con được treo lên dây trong mùi khét khét, thơm thơm (theo cảm nhận của mấy cậu bạn kinh nghiệm).

Kiểu thui này không được hấp dẫn như kiểu lấy rơm thui “mộc tồn” nhưng lại nhanh, làm được theo dây chuyền, chứ kéo dài thì dạ dày người ta tiết hết men tiêu hóa rồi ăn không được bao nhiêu nữa. Khò xong, anh thợ này lập tức với tay lấy một thanh “bảo đao” sắc lẻm, chạm đến đâu ngọt đến đó. Nghe đâu anh này được tuyển từ một quán tiểu hổ khác đến với mức lương cao hơn, nhìn kiểu mổ và lấy nội tạng ấy thì chắc chắn phải có thâm niên. “Mấy thằng không xem được phim kinh dị, rùng mình trước mấy cảnh Samurai hay phim thời La Mã thì cho tiền cũng không dám bén mảng tới đây” - cậu bạn người Quảng Trị khoe, mắt liếc sang tôi, tủm tỉm cười.

Trong lúc anh thợ đang chuẩn bị đến khâu chế biến, Sỹ hỏi vọng vào: “Các chú vẫn như cũ chứ?”. “Răng biết? Mà nè, lấy mật cho chuẩn, còn óc, mắt và ruột thì đây chưa bao giờ chê” - anh bạn trả lời chủ quán rồi quay sang tôi thuyết trình: “Uống rượu mật mèo cực kỳ hay, hiệu nghiệm hơn cả mật gấu về cái khoản... ấy. Mắt mèo om với... óc miu thì cực kỳ bổ não, tăng thị lực. Đó là món cuối sau khi thưởng thức đùi và ruột nướng chấm muối tiêu”... Rồi món tiểu hổ cũng được đưa ra, tôi thì chẳng kể, tội 2 ông bạn vốn sành sỏi mấy quán mộc tồn ở Đà thành mà còn ngồi ngơ ngơ trước những lời diễn thuyết kiểu... đàn anh rồi “chén” theo hướng dẫn của thổ địa. Một anh bạn lên tiếng: “Phải năng ra Huế thôi, còn ngon hơn... thịt cẩu”. “Cái món mộc tồn ấy à, phải kêu tiểu hổ bằng cụ”.

Chẳng mấy chốc, tửu quán đông nghịt người, bàn nào bàn nấy khói bốc lên nghi ngút, số mèo ngoài dây cũng vơi dần, chủ quán lấy đó làm minh chứng rằng chẳng có con nào đủ thời gian vào tủ lạnh, “mèo thiệt trăm phần trăm, không có giả mèo như những quán... giả cầy”. Nom khắp quán, hình như có đầy đủ thành phần, từ anh công nhân đến mấy cậu sinh viên, cả những người có dáng cán bộ và có cả... nữ nhi. Muốn khía Sỹ, chúng tôi nửa đùa nửa thật: “Đông thế này lấy đâu ra mèo mà đáp ứng đủ”. Như chạm vào lòng tự ái của một tay chơi thứ thiệt, Sỹ phả khói thuốc hình tròn lên trần nhà nói lớn giữa bàn dân: “Ai chơi lâu với tui thì biết rồi, hết mèo ở Huế thì có mèo Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Trị.

Cả cố đô có gần vài chục quán mèo, không nhanh nhẹn tạo đường dây thì lấy đâu mà cung ứng. Ai sành điệu, nhìn vào bàn thấy không có màu đen do hun khói, nhuộm màu thì biết tui liền”. Bị thuyết phục bởi lời hùng biện, anh bạn trong nhóm chống chế: “Nhưng chính quyền cấm...”. “Biết vậy, nhưng có người ăn thì phải có người bán. Thịt rừng cũng cấm đấy, mà bao nhiêu chồn, mang, nhím, nhông, heo rừng cũng nườm nượp đổ về phố, quán lâm sản cũng mọc lên khắp nơi”. Cái lý sự này hơi cùn nhưng mà đúng thiệt, cả quán vỗ đùi khen hay, rồi lại râm ran “dzô, dzô!”.

Trời chiều Huế càng mưa to hơn, tôi đưa ly lên hợp một ngụm rượu, chợt nghĩ, xứ Huế vốn nổi tiếng với mè xửng, bún Huế... làm nức lòng giới sành ẩm thực nay lại có thêm món tiểu hổ dưới mỗi thực đơn của dân nhậu sành điệu. Ai ra xứ Huế thì ra... Muốn thưởng thức món thịt mèo thì đến “Tiểu hổ” quán đường Phan Bội Châu, quán Cây Đa ở đường Đào Tấn, rồi sang khu vực gần lăng Minh Mạng. Còn sành ăn rồi cứ hỏi quán Sỹ mèo(sỹ tiểu hổ), ai cũng biết

Cũng thật lạ kỳ, ngay tại quê lúa Thái Bình mà người ta lại có phong trào biến mèo thành món nhậu. Thịt mèo được "vu" cho vô vàn công năng thượng thặng, được dân nhậu gọi với chữ mỹ miều "tiểu hổ". Rồi bên bàn nhậu "tiểu hổ", người ta lại kể câu chuyện lạ kỳ không ai hiểu nổi, câu chuyện mà ai cũng đã từng được học từ thuở bé thơ.

Công nghệ hóa kiếp "tiểu hổ"

Thái Bình được xem là "thủ phủ các quán nhậu tiểu hổ" với các quán thịt mèo rải khắp từ thành phố đến các huyện Kiến Xương, Vũ Thư, Đông Hưng, Thái Thụy… Chỉ riêng ở thành phố Thái Bình, quán thịt mèo cũng giăng đầy các ngả: Lê Đại Hành, Lý Bôn, khu Kỳ Bá…

Nhan nhản các biển hiệu kiểu như: mèo đủ món, tiểu hổ đồng quê, nhậu tiểu hổ… Nhưng bây giờ thì khác, quán thịt mèo hầu như núp bóng các quán nhậu. Hài hước hơn, có quán còn "ẩn dụ" bằng cách vẽ hẳn tấm biển một đàn mèo… thay cho lời muốn nói.

Phải nhờ một đồng nghiệp làm báo ở Thái Bình và là khách quen của nhiều quán nhậu, tôi mới được mục sở thị nơi việc chế biến “tiểu hổ” tại bếp các quán thịt mèo ở khu Kỳ Bá, khu dọc bờ sông, gần sân vận động tỉnh Thái Bình. Trong các quán, có lẽ quán Tuấn Béo nằm kín đáo trong ngõ trên đường Lý Thường Kiệt là nơi tập trung nhiều dân làm ăn, quan chức nhất: "Giới làm ăn, kinh doanh, giang hồ máu mặt hay quan chức đều vào đây cả. Những ngày đầu tháng anh em báo chí mà vào lò mèo này thì tha hồ mà giao lưu, phỏng vấn".

7h sáng, cả lồng mèo mấy chục con được kéo ra vỉa hè, ước tính hơn trăm con phục vụ cho cả ngày. Chẳng phải đợi lâu, khi tôi đang lân la trò chuyện với mấy người phục vụ thì một cậu thanh niên từ trong nhà đi ra, cầm theo một sợi dây thép (ruột dây phanh xe đạp) buộc kiểu thòng lọng thả vào cổ một chú mèo. Con mèo tội nghiệp bị lôi ngược lên, thít chặt, chỉ kịp kêu "ngoéo" một tiếng, ngay lập tức bị ném vào thùng nước bên cạnh. Chưa đầy 2 phút sau thì chết ngạt.

Trước đây khi công nghệ chế biến "tiểu hổ" còn chưa phát triển, người làm phải rất vất vả để vặt lông một con mèo vì mèo là giống lắm lông. Vài năm trở lại đây đã có hẳn máy vặt lông mèo bằng inox, có sẵn nước sôi trong đó. Chỉ cần thả con mèo vừa dìm nước vào, máy sẽ vừa dội nước sôi, vừa đánh sạch lông,  chỉ trong vài phút nó đã cho ra thành phẩm là một "tiểu hổ" trắng ởn. "Tiểu hổ" này sau đó được thui vàng và chế biến thành đủ các món theo yêu cầu của khách.

Một số món mà dân nhậu tiểu hổ ưa thích thường là: thịt mèo hấp, lòng mèo nấu sả, rựa mận, hấp ngũ vị… Mật mèo thì được thả vào rượu (theo như các "đệ tử rượu" thì mật mèo mà ngâm với rượu Kim Sơn, Ninh Bình thì… quên sầu).

Nhậu thịt mèo kiểu ...“VIP”

Cũng phải trải qua mấy chầu nhậu thịt mèo thì tôi mới tổng kết được vài ba kinh nghiệm trong việc thế nào là ăn thịt mèo kiểu "vip", thế nào là ăn thịt mèo kiểu "thường dân".

Trong các loại mèo thì đắt và hiếm nhất là mèo mun, bộ lông càng bóng, càng đen thì càng có giá. Giá của loại này ở mức… vô biên, thường thì chủ quán bán vài trăm nghìn đồng một con, nhưng khi khách mà "bồ kết" thì có khi "vặt" được cả mấy triệu đồng. Sở dĩ mèo đen được săn lùng là vì: Xương mèo đen nấu cao thuộc hàng đại bổ, ăn vào dãn cốt, cường gân; mật mèo đen ngâm rượu được quảng cáo là "tối ông uống sáng mai bà vừa quét sân vừa hát dân ca". Rượu mật mèo đen được xem như viagra tự nhiên.

Quay lại câu chuyện mèo đen. Quý và được săn tìm là thế nhưng theo như kinh nghiệm của nhiều người làm nghề buôn bán mèo thì còn… khướt mới tìm được mèo mun thứ thiệt. Biết nhiều thượng khách thích mèo đen nên nhiều nhà kỳ công nhuộm mèo mướp thành mèo mun, lấy dầu bóng đánh lông rồi nhốt vào chuồng tối. Khi khách đến chọn, nhìn vào chuồng thấy đen ngòm, mắt lại xanh lè trong bóng tối (mắt mèo trong bóng tối con nào chả long lanh) thế là đích thị mèo đen, là rút tiền chi không tiếc.

Còn một món đại bổ nữa của nhậu "tiểu hổ" là mèo chửa. Nếu chuyến hàng nào mà gặp được mèo chửa thì coi như chuyến đó lãi gần gấp đôi bình thường. Con mèo chửa sẽ được cắt nguyên phần bào thai, nhau thai thả vào bình rượu và được dân nhậu ca tụng như thần dược, không chỉ bổ dương mà là bổ "đủ các thể loại".

Để phục vụ cho thú xơi mèo đen, còn có một công đoạn cực khó là cắt tiết mèo. Đa số mèo được thịt thì không cần cắt tiết vì để nguyên như thế sẽ ngọt thịt. Tuy nhiên, cũng có thực khách thích ăn tiết mèo, đặc biệt là mèo "thửa".

Cắt tiết mèo đòi hỏi tay nghề cực cao bởi nếu không nhanh gọn thì hỏng bét. Con mèo quá sợ hãi (sợ mất mật) làm cho mật của nó bị tẩu tán ra mạch máu vào từng thớ thịt và thịt không được thơm ngon nữa, không có mật để mà hòa rượu uống khi ăn thịt mèo. Cắt tiết không khéo thì con mèo sẽ không chết và cách duy nhất để giết được nó là dìm nước cho chết ngạt. Vì thế, không phải ai cũng cắt được tiết mèo.

Trên thực tế là do việc mua thu gom, bắt mèo để phục vụ cho các quán đặc sản diễn ra trong nhiều năm liên tục nên loài mèo trở nên cạn kiệt. Giống mèo vốn đẻ nhiều, nhưng tốc độ sinh sản của mèo vẫn không theo kịp… tốc độ nhậu. Thế là mèo ở các địa phương lân cận được thu mua về, thậm chí được chuyển từ miền Nam ra.

Ghét chuột lại đi… xơi mèo

Trước khi lên thành phố Thái Bình - "thủ phủ nhậu tiểu hổ", tôi ghé thăm nhà một người bạn ở huyện Vũ Thư, đang nói chuyện viết bài về thịt mèo thì bà mẹ chạy ra than thở: "Mới tuần trước chứ đâu, tôi ngồi nhặt rau ở sân, con mèo nhà đang chạy loăng quăng trên tường rào thì bỗng có tiếng xe máy vè vè đến rồi một đứa thò tay túm ngoéo lấy con mèo lôi đi. Ông nhà tôi chạy ra thì 2 thằng mất dạy tót lên xe máy, lại còn đưa tay "bai bai" trêu ngươi. Thế mới tức".

Cay cú bọn bắt trộm mèo là thế nhưng đến gần trưa, bà cũng giục giã: "Thôi chẳng mấy khi các cháu về Thái Bình chơi, anh em ra ngoài thị trấn mà ăn bữa đặc sản thịt mèo cho biết". Đúng là, về Thái Bình giờ ít ai mời đặc sản bánh Cáy nữa mà chuyển sang mời đi "nhậu tiểu hổ" như một món sang đãi khách.

Ăn thịt mèo ngay trên đất Thái Bình, một tỉnh thuần nông nghiệp, vựa lúa của đồng bằng Bắc Bộ - nơi bà con nông dân luôn xem mèo là bạn, xem chuột như kẻ thù, tôi trộm nghĩ hài hước rằng: Người ta "thêm bạn bớt thù" chứ ai lại bỏ mặc thù mà "xơi" bạn như thế!

Ông Nguyễn Văn Đức - Chi cục trưởng Chi cục Thú y tỉnh Thái Bình cũng có chung nỗi băn khoăn như chúng tôi: "Trước đây, khi dịch chuột hoành hành đe dọa nền nông nghiệp các tỉnh phía Bắc, Chính phủ đã ra Chỉ thị số 09/1998/CT-TTg quy định rõ: "Thu hồi giấy phép kinh doanh, dẹp ngay các quán thịt mèo, xử lý nghiêm những đối tượng chuyên đi bắt mèo, buôn bán mèo...".

Tỉnh Thái Bình có thời điểm đã thực hiện hỗ trợ cho mỗi hộ dân 50 nghìn đồng để nuôi mèo diệt chuột. Bởi không có biện pháp nào diệt loài gặm nhấm có hại này hiệu quả và an toàn bằng việc nuôi mèo. Theo tính toán của các nhà chuyên môn về nông nghiệp, một năm, một đôi chuột có thể trực tiếp, gián tiếp cho "ra lò" tới 2.000 con chuột và nếu cánh đồng có 1.000 con chuột thì mỗi ngày sẽ đẻ ra thêm 6.000 con. Theo tính toán thì một con mèo có thể săn được khoảng 400 con chuột mỗi năm.

Đáng buồn thay, sau những đợt kêu gọi rầm rộ thì số mèo được nuôi với mục đích diệt chuột có lẽ cũng đã bị các quán nhậu "tiểu hổ" cho đi gần sạch.

Hẳn không một cô bé cậu bé nào lại không biết đến câu chuyện "Cái tết của mèo con" của nhà văn Nguyễn Đình Thi ở sách giáo khoa cấp 1. Với niềm tin trong veo của tuổi thơ, chúng ta đều đã từng nghĩ rằng, mèo là đại diện cho cái tốt, cái thiện, còn chuột là đại diện cho cái ác, cái xấu. Mèo con tuy nhỏ nhưng đã đánh thắng chuột cống, cái thiện ắt chiến thắng cái ác.

Nếu cứ soi qua "niềm tin cổ tích" ấy thì hẳn chúng ta sẽ lại phải giật mình: Ai cũng biết càng ít mèo thì chuột càng hoành hành, vậy sao con mèo cứ bị xơi thịt, để tạo điều kiện cho con chuột phá hoại mùa màng?

Thôi thì, ghét chuột, chớ có ăn thịt mèo

iện thoại nhà bà Thìn chợ Ông Tạ reo liên tục. Căn cứ vào những câu trả lời khi gắt gỏng, khi cộc lộc của bà Thìn, người ngoài cuộc có thể tái lập toàn bộ câu chuyện. Rằng thì là, cuối năm, thịt mèo tươi rất đắt. Mèo hơi chắc giá 80,000 đồng/ký. Mèo đã làm, xẻ miếng, 140,000 đồng/ký. Mèo đen tuyền, còn sống, nặng ba ký đổ lại, giá 800,000 đồng/con. Muốn mua loại nào phải dặn trước cả tuần, đặt cọc hai phần ba tiền. So với thịt chó có nguồn cung nguồn tiêu tương đối dồi dào ổn định, thịt mèo có phần bấp bênh hơn. Chủ lò mổ chó, bán thịt chó kiêm mổ mèo, bán mèo không trữ sẵn mèo sống, chỉ khi có ai đặt, họ mới gọi điện huy động bọn trộm, đánh bả, dí điện “đi hàng”.

Mèo sa lưới, hầu hết đều là mèo nuôi, béo mập, sạch sẽ, bị bắt khi đang nằm lim dim phơi nắng đầu hè, đứng bới rác, bới đất ngoài đầu hẻm hay nhảy lên nóc nhà tán tỉnh, yêu đương... Bọn “sát thủ” đi qua, quan sát địa hình, thấy vắng vẻ, lập tức ra tay. Độc giả có thể nghĩ “Mèo nhỏ con, lại nhanh nhẹn, nhút nhát, có động nhảy đánh vút một cái, biến mất, dễ gì bắt được”. Bọn trộm cũng biết thế, nên toàn lựa mèo hoang đang đói hoặc mèo... lối xóm quen biết. Bắt xong, tập trung về “trạm trung chuyển”, vỗ béo một thời gian, mới bán cho lò mổ. Nghề bẫy mèo là nghề không vốn, hơi ác đức nhưng được cái nhàn, “một đêm ăn trộm bằng ba năm làm” nên dân đánh bẫy các quận Thủ Đức, Tân Bình, Gò Vấp rất “an tâm công tác

Khi tìm hiểu về thịt mèo Nam- Bắc, kẻ viết bài hết sức ngạc nhiên về “tầm phủ sóng” của các quán thịt mèo. Rất lặng lẽ âm thầm nhưng liên tục, chỉ chừng vài năm trở lại đây, Lạng Sơn xuất mèo sang Trung Quốc từng xe tải. Hỏi chở làm gì nhiều thế, chủ hàng nhún vai buông gọn đúng một chữ “Ăn!”. Hà Nội, Sài Gòn, Bà Rịa, Bình Dương, Long An cũng mọc đều các tấm bảng ven đường “Đây rồi tiểu hổ”, “Ngon bổ rẻ- mèo 30,000 đồng”. Nói về sự ngon, thịt mèo không thể sánh được với thịt chó, thịt dê, thịt bò, thịt heo! Chó nấu rựa mận, dê nấu càri, bò bảy món, heo nướng...toàn những món kinh điển. Còn mèo, vừa nhỏ con lại ít thịt (chưa kể thịt có mùi gây, khét, rất khó tẩy sạch) hỏi nấu, nướng, hầm, luộc cách gì cho ngon? Thắc mắc nọ, “đệ trình” lên chủ quán tiểu hổ Cầu Bươu- nằm cách Hà Nội 15 cây số, anh này gật đầu, thịt mèo đúng là khó làm ngon, khó ăn mạnh miệng, nhất là với phụ nữ, người mới ăn lần đầu. Miền Bắc xưa nay chỉ thích thịt chó. Nhờ năm nay Tân Mão, năm ngoái Canh Dần, thiên hạ mới chiếu cố thịt mèo. Quán anh, tầm 5 giờ chiều mở cửa bán tới 11- 12 giờ đêm. Bảy tám bàn nhậu thịt chó mới có một bàn gọi đĩa thịt mèo luộc, mèo hấp ăn với lá mơ, củ riềng, mắm tôm. Cũng bán thịt mèo nhưng trong Nam chế biến đa dạng hơn. Quán tiểu hổ nào cũng có vài món cơ bản: mèo nướng, mèo xào cà ri nước dừa, mèo hầm tương hột bún tầu, mèo nấu cháo đậu xanh. Anh chủ quán Ngon Bổ Rẻ- ở Dĩ An- Bình Dương, sau hai năm kinh doanh tiểu hổ, bước đầu rút ra nhận xét, đàn bà ít ăn mèo hơn đàn ông, dân áp phe ít ăn (sợ xui) hơn dân bạt mạng, người Nam ít ăn hơn người Bắc. Vì thế, mỗi ngày quán anh chỉ dám “ngả” một con mèo. Một địa chỉ khác, không tên, nằm cheo leo ven quốc lộ 20, vừa nấu cao tiểu hổ (cao nấu bảy ngày đêm liên tục, từ 12 bộ xương mèo đen), vừa kiêm bán mua mèo sống, chín, vừa mở quán nhậu. Anh Vi văn Quýnh, chủ quán, cho biết “mèo chọn anh chứ anh không chọn mèo”. Mua phải cao mèo giả, tức! Ăn phải thịt mèo nấu dở, tức! Bị khích, tức! ba cái tức cộng lại, thành ra cái... quán. Quán anh, trông như cái lều vịt. Ấy vậy nhưng ghé vào, ngồi xuống, làm tí men, trình “nguyện vọng”. Thể nào cũng được bữa nhớ đời! Nói nhớ đời thì hơi quá nhưng quả thực món thịt mèo anh Quýnh bán đúng là rất impressive, gọi là món “Mèo Cung Đình”, tục truyền rất bổ, chỉ dành cho vua chúa đời xưa.

Ngoài thịt mèo là nguyên liệu chính ra, món Mèo Cung Đình còn thêm ba loại thịt khác, tổng hợp thành “long- lân- quy- phụng”. Long là...rắn. Lân là...mèo. Phụng là...gà. Còn rùa thì là...rùa (có thể thay rùa bằng ba ba, càng ngon). Bộ tứ long- lân- quy- phụng tốt nhất nên màu đen hết- rắn đen, mèo đen, gà đen, rùa đen (nhược bằng không có đen thì cũng thôi vì làm lông rồi, đen trắng như nhau cả). Lọc hết thịt nạc ra, thái mỏng, để làm bốn nhóm riêng trên đĩa. Xương rùa, rắn, mèo, gà cho vào nồi, cùng một thang thuốc bắc bí truyền, cứ thế om nhỏ lửa. Lòng rùa, rắn, mèo, gà xào chín, nêm nếm vừa ăn, xúc ra đĩa.

Khi ăn, có thể nhúng thịt vào nước lèo cho tái, vừa ăn vừa nhắm rượu. Có thể gắp bún vào tô, rải thịt sống, lòng chín lên mặt, chan nước lèo cho ngập, ăn kèm cải non, cải cúc, ngải cứu, rau thơm các loại. Món Mèo Cung Đình của anh Quýnh, nghe cầu kỳ, làm cũng cầu kỳ lâu lắc (muốn ăn phải dặn trước cả mấy ngày) nhưng ăn thì không dám bảo đảm là ngon. Kẻ viết bài lỡ miệng tuyên bố “trừ bù loong con tán ra kỳ dư thứ gì người ta ăn được, mình ăn được”, ngồi đối diện món Mèo Cung Đình cũng hơi chợn, đành phải bưng ly rượu khà một hơi, nhai lúng búng mớ thịt dai dai, tanh tanh của rắn, mèo, rùa, gà... Đúng là nhớ đời!


Quán mèo Ông Tạ

Chợ Ông Tạ nhìn bên ngoài, san sát hàng làm móng tay, bán giò chả, bán vàng bạc, bán đồ khô (gấc, trái nhàu, chuối hột, trầu cau). Hàng thịt chó mèo chỉ chiếm dung lượng rất ít dù chính nó mới làm nên danh tiếng một thời của chợ Ông Tạ. Khách phương xa mộ tiếng thịt chó (cả thịt mèo) Ông Tạ, không ai ngồi chường mặt ra đường bao giờ. Đoạn từ cầu Ông Tạ tới đầu đường Cách Mạng Tháng Tám, chưa tới một cây số, hẻm chằng chịt. Cứ luồn hẻm sẽ thấy “Đây rồi! Kia kìa! A! Tiểu Hổ”, toàn tên quán mà nghe như tiếng reo của Archimde khi tìm ra chân lý (!). Quán thịt chó- mèo chợ Ông Tạ, từ bàn ghế, các bức tường, nền nhà, cả đũa chén lẫn mặt người bán, người bưng bê đều xám xịt, bóng mỡ, trông bẩn thế nào! Ấy vậy nhưng nếu thay bằng bán ghế inox sạch sẽ, phòng máy lạnh, bát đĩa sáng trắng, lập tức khách đi hết, vì “hồn” thịt chó giảm năm chục phần trăm. Một bạn vong niên của kẻ viết bài đã “đau khổ” nhận xét, món chó (mèo), có lẽ xuất phát từ nhà quê, nhà nghèo. Mà nghèo thì chúa ăn xó mó niêu. No say vứt xương xẩu bát đũa đấy, ngủ chỏng quèo. Đầu thềm, cuối vườn chỗ nào cũng “làm” được. Mãi thành quen. Ăn thịt chó (mèo), bán thịt chó (mèo), cứ phải lấy thoải mái, bỗ bã làm đầu. Bẩn một tí không chết, càng có vẻ “hương xưa” (!).


Hương xưa - Người nay

Thứ “hương xưa” đó, người nay, nhất là người trẻ, không mặn mà lắm nữa. Phần vì kinh tế khá hơn, nguồn thực phẩm dồi dào hơn, cho phép họ có nhiều lựa chọn sạch sẽ hơn, “nhân đạo” hơn tiền nhân, phần vì theo đà tiến hóa, mèo chó- nhất là mèo- từ chỗ để trị chuột cắn phá đồ đạc, nấu cao trị phong thấp, làm món nhậu trị đói, còn có thể làm bạn, trị cô đơn. Và vì thế, thay vì ăn mèo, nấu mèo, họ chuyền sang “kết mô đen” với mèo. Các bà các cô hôn hít bồng ẵm, chưng diện cho mèo cưng, xách giỏ đi chợ, nghĩ đầu tiên là mua cá cho mèo cưng. Mèo đau, mèo đẻ,... nhất nhất đều cuống queo, sùi sụt, thậm chí mèo chết còn lập “miu miu chi mộ” đàng hoàng. Các ông cũng yêu mèo dữ dội không kém. Mèo càng đẹp, càng bé bỏng càng yêu. Bao nhiêu sức lực, tiền của, thời gian đều “cúng hết cho mèo”. Hỏi mười ông nuôi mèo nhí, ông nào cũng thở dài, liếm môi, cúi mặt, thú nhận, tuy có bị cào cắn, bị thân bại danh liệt nhưng cái vị thịt mèo tươi, rất “khốn lịn”, ăn rồi là nhớ, ăn một lần chỉ muốn ăn mãi...




Đám cưới chuột - tranh Đồng Hồ


Kẻ viết bài chả còn hiểu làm sao! Từ cao tiểu hổ tới mèo cà ri, mèo nướng khoái khẩu, tới mèo cục cưng hai chân là bước vinh quang vô cùng. Cớ sao, ở đâu lòi ra con mèo cường hào hiểm ác trong tranh Đông Hồ, to đùng, ngồi lù lù một góc khiến cả đám cưới chuột sợ rúm ró. Ngoài ra, còn nhiều ông già bà cả đồn mèo nhẩy qua xác chết, lập tức xác đứng dậy. Xe (ghe) chở mèo, không bị công an “vịn”, cũng bể bánh, lật xe (ghe). Bản thân mèo, ban đêm hay đi “dog cat” với... ma quỷ (mới có câu “mèo mả gà đồng”). Đầu năm- dù là năm Mão- mèo tới nhà, kêu ngheo là cả năm nghèo, kêu ngao, là cả năm nghêu ngao, thất nghiệp...
Xem ra, sự gì, vật gì trên đời hình như cũng đều có hai mặt. Có mặt ngon lành, cũng có mặt dễ ớn. Có mặt ích lợi cũng có mặt “trời ơi”. Bởi vậy, từ chuyện công mèo- tội mèo, mà suy, tốt nhất, sống cứ vững lập trường, thẳng đường ngay mà tiến, khỏi cần lo “đeo chuông cổ mèo”, vì xét cho cùng, chuyện trăm năm ngàn năm, cũng chỉ là chuyện “mèo lại hoàn mèo”. Chả có gì đáng nao núng!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top