Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

Tùy đường diễn nghĩa 1-20

Hồi Thứ Một

Tùy Đế cất quân chiếm đất nhà Trần,

 Tấn Vương tâng công cướp ngôi con trưởng.

 Thơ rằng: 

 Phồn hoa tan hợp tựa bèo mây 

 Danh vẹn công thành bởi đức dày 

 Mưu lớn những mong phò chúa yếu 

 Tài cao há chịu lụy loài ngây 

 Lỡ thời tuấn kiệt đành lòng ẩn 

 Gặp vận anh hùng trải dạ ngay 

 Những tiếc sử xanh ghi chưa đủ 

 Truyền kỳ xin được góp áng hay. 

 Từ xưa tới nay, càng giàu có, càng danh giá, thì lại càng nhiều điều thích chí, tai chỉ được nghe toàn những điều ngon ngọt, mắt toàn được thấy những cảnh lộng lẫy, nhưng chính những cảnh tiêu điều đổ nát đã ẩn bên trong, chẳng phải chịu lời sỉ nhục của nghìn năm, thì cũng thành một trận cười cho thiên hạ. Cung Quán Sa, đài Đồng Tước, không biết bao nhiêu lần trở thành lời than thở, giễu cợt của các nhà thơ, nhà văn. Chỉ có những anh hùng xuất thân nơi rừng rậm, ruộng lầy, vốn không phải những kẠdựng xây sự nghiệp trên rượu chè, sắc dục, phải bao thiên ma bách chiết, những bậc hào kiệt mới xoay chuyển được thời thế, hoặc là thu đất nước về một mối, hoặc thực hiện những cuộc thay đổi quốc gia, vì vậy mà tên tuổi họ sống mãi với trời đất. 

 Cũng biết là tiếng danh đó, có khi mãi sau này mới nổi, nhưng cốt cách anh hùng của họ thì ngay từ lúc còn hàn vi cũng đã lộ rõ rồi. Mặt trời, mặt trăng, bản tính là ánh sáng, dù có lúc bị mây mù, sương giá che khuất đi nữa, cuối cùng ánh sáng vẫn phát lộ, lúc đầu xung quanh không biết nhưng rồi người đời sau sẽ ca ngợi, bút mực phải ghi chép đầy đủ việc hiến công lập nghiệp của người anh hùng, kể cả những lúc hàn vi cũng vậy. Lại như cây tùng cây bách thôi, con hổ, con báo cũng thế, có lúc nhỏ rồi mới có lúc vươn tới mây xanh, nuốt được trâu lớn, khiến người nghe người thấy đều kinh ngạc. Sách này chính là đem những chuyện của các bậc anh hùng hào kiệt đó kể ra tỉ mỉ, rõ ràng, thành một sử thư ghi càng nhiều càng hay những chuyện lạ kỳ mà người đời chưa được nghe được đọc. 

 Đúng là: 

 Búa toang gốc mắt khen rằng sắc 

 Dao mổ gân xương bén tựa thần 

 Nhân định thắng thiên đời dễ biết 

 Kỳ tài nhẹ vượt mọi gian truân. 

 Từ xưa đời này nối đời khác: Ngu, Hạ, Thương, ân, Chu, Tần, Hán, Tam Quốc, Lưỡng Tấn. Nhà Tấn qua sông về nam, thiên hạ chia làm hai, đó là thời Nam Bắc triều. Ở Nam Triều, Lưu Tục cướp ngôi nhà Tấn, lập nhà Tống, Tiêu Đạo Thành diệt Tống xưng nhà Tề; Tiêu Diễn trừ Tề, lập nhà Lương, Trần Bá Tiên lật Tề, xây nhà Trần. Dẫu vẫn mang hết hiệu nước này đến hiệu nước khác, mượn danh chính thống khoác tiếng thiên tử, nhưng thực thì suy yếu, nhu nhược, nằm ép ở phía nam. 

 Bắc Triều vốn thuộc nhà Tấn cả một giải trung nguyên, đã bị vua Hán, Lưu Uyên, vua Triệu, Thạch Lặc; vua Tần, Bồ Kiên, vua Yên, Mộ Dung Quý; vua Ngụy, Thác Bạt Khuê, đều là người Hồ cát cứ vì thế mà còn gọi là thời Ngũ Hồ loạn Hoa. Về cuối nhà Ngụy, triều chính rối ren, lại chia làm hai: Đông Tấn, Tây Tấn. Một bên bị Cao Dương con Cao Hoan cướp ngôi, đổi hiệu nước là Tề, một bên bị Vũ Văn Thái lật, thay hiệu nước là Chu. Chu diệt luôn Tề, Bắc triều thu về một mối. 

 Thời Chu xuất hiện Dương Kiên, hiệu La Diên, người quận Hoằng Nông vùng Hoa âm, cháu tám đời thái úy nhà Hán Dương Chân, bố là Dương Trung, theo Vũ Văn Thái nổi dậy, được ban họ Lục Nhự, lại vì có quân công nên được phong Tây Công. Khi sinh Dương Kiên, mẹ Lã Thị nằm mộng thấy rồng xanh quấn bụng. Kiên mắt sáng như sao, tay có vân rất lạ, xòe ra thì thành hình chữ Vương. Vợ chồng Dương Trung biết là tướng quý, về sau có một ni cô (1) nói với vợ chồng họ Dương: 

 - Đứa bé này phú quý nói không hết, nhưng phải nuôi xa cách cha mẹ mới thành người được, bần đạo xin nguyện nuôi nấng, dạy dỗ cho. 

 Lã Thị bèn phó thác cho ni cô, nhưng vì ni cô chỉ mỗi một thân, ở am vắng, nên đi đâu lại phải nhờ người trông nom. Hôm ấy, ni cô nhờ một bà già tới am trông coi, đang lúc bồng Dương Kiên, thấy đầu Kiên mọc hai cái sừng, toàn thân sinh vẩy cứng, chẳng khác gì hình con rồng, bà già hoảng hốt, la ầm ĩ là quái vật rồi quăng tọt xuống đất, may vừa lúc ni cô trở về, vội ôm ngay lấy mà xuýt xoa, vỗ về: 

 - Làm thằng bé của ta sợ đây mà. Hãy chờ xem vài năm nữa nó làm hoàng đế đấy! 

 Cũng là vì trời muốn khuấy đảo thiên hạ, cho nên cuối cùng là bậc thánh nhân cũng ra đời. 

 Vài năm sau, Dương Kiên lớn, ni cô đem trả cho nhà họ Dương, chẳng bao lâu, ni cô hóa, Dương Trung cũng qua đời, Dương Kiên dược nối chức của cha làm Tùy Công. Chu Vũ Đế thấy Dương tướng mạo kỳ lạ, thường hay ghen ghét, nhiều lần sai người đoán tướng Dương, họ biết Dương có phúc lớn sau này, nên đều che chở cho, Dương cũng biết Vũ Đế ngờ mình, bên đem con gái gả cho thái tử để hòng giữ được lòng tin của vua Chu. Đến khi Chu Vũ Đế lui về làm Thái thượng hoàng. Thái tử lên ngôi, tức Chu Tuyên Đế. Tuyên Đế mỗi khi đi tuần thú, sau khi Thượng hoàng chết, đều giao cho Dương coi giữ kinh thành. Tuyên Đế vốn nhu nhược, Dương lúc này vây cánh đã thành, bèn đoạt ngôi nhà Chu, thay hiệu nước là Tùy, đổi sang năm thứ nhất đời Khai Hoàng. 

 Chính là: 

 Mãng (2) cậy cha hờ toan cướp Hán 

 Thảo mưu gái đẹp cốt nghiêng Lưu 

 Gian hùng một duộc xưa nay thế 

 Đổi chúa thay hoa sớm lại chiều. 

 1 Ni cô: Sư nữ, tiếng Phạn là tỷ khiêu ni, là nhà sư nữ đã thụ giới đủ 400 điều (N.D). 

 2 Tức Vương Mãng, giết con rể, cướp ngôi của cháu ngoại, lập nhà Tần Mãng, được mười lăm năm, bị giết, Quang Vũ lập lại nhà Hán. 

 Vua Tùy mới lên ngôi, lập Độc Cô Thị làm hoàng hậu, Dương Dũng làm thái tử, con thứ là Dương Quảng làm Tấn Vương, mọi chuyện đều trôi chảy, chỉ có hoàng hậu Độc Cô ghen tuông ghê gớm, không bao giờ cho vua Tùy được gần đàn bà. Bá quan trong triều đình, về văn thì có Lý Đức Lâm, Cao Quỳnh, Tô Uy; võ thì có Dương Tố, Lý Uyên, Hạ Nhược Chúc, Hàn Cầm Hồ. Vua sáng tôi hiền, dần dần đã có tính chuyện mở mang bờ cõi, nghĩ chuyện thu chín châu về một mối. Nếu như Nam triều mà kẻ trị vì cũng biết trông coi đất nước, trọng dụng hiền tài, thì cũng chưa chắc hươu về tay ai (1). 

 Thường thì vị vua sáng nghiệp bao giờ cũng cần cù, khó nhọc, các vua giữ nước thì lại ăn chơi nhàn nhã. Vua sáng nghiệp thường gần gũi người chính trực, xa kẻ gian tà, nịnh hót. Vua nối nghiệp thường ghét bậc lão thần, thích bọn trai trẻ. Một trong các vua thuộc loại sau là vua Trần, Trần Thúc Bảo vốn thông minh, nhưng vì sống ở Nam triều, theo thói ăn chơi, hoa lệ, lại ham thích làm phú ngâm thơ với hai viên quan đông cung, một là Khổng Phạm, một là Giang Tổng, vốn mang ít nhiều cốt cách tài hoa, thể chất yếu đuối. 

 Từ xưa đã nói: “Thơ thì làm bạn với rượu, rượu lại là môi giới của sắc dục". Trần Thúc Bảo rong chơi vô sự, thơ phú xong rồi, trong cái say sưa của rượu, lại sa vào những cuộc hoan lạc nơi lầu cao, quán nước, ngay lúc mới lên ngôi, mọi chuyện đã vậy rồi, chẳng nghĩ đến triều chính, nước nhà, càng ngày càng thêm những trò ăn chơi thỏa chí thỏa lòng. Trần Thúc Bảo thăng Giang Tổng lên bộc xạ, dùng Khổng Phạm làm thượng thư đầu triều. Vua tôi chẳng ngó gì đến việc nước, chỉ ngày này qua ngày khác yến tiệc, thơ phú. Trong đám cung tần mỹ nữ, vua Trần tìm được một giai nhân nức tiếng, họ Trương, tên Lệ Hoa, tóc dài bảy thước (2), mượt mà lóng lánh có thể soi gương được; tính tình vốn thông tuệ, cử chỉ lại đoan trang nhàn nhã, khẽ cười khẽ chau mày thì thật là hết điều yểu diệu, quả được cả mười phần. Đặc biệt hơn cả là rất mực khiêm nhường, sẵn sàng tiến cử tần phi, cho nên đến cả hai quý tần Cung, Khổng, hai mỹ nhân Vương, Lý, hai thục viên Trương, Tiết, Chiêu nghi họ Viên, Tiệp Dư họ Hà, Tu Dung họ Giang đều được Trấn Thúc Bảo yêu quý. Vì thế vua Trần còn thời gian đâu mà bàn luận công việc triều đình. 

 1 Sử Ký Viết: “Nhà Tần mất con hươu, mọi người cùng đuổi bắt" chỉ việc tranh cướp ngôi vua. 

 2 Khoảng 0,33m x 7 = 2,3m ngày nay. Mười thước cũ bằng một trượng, vậy 1 trượng = 3m3. 

 Lúc cần phải xem xét, phê chuẩn các tấu chương của trăm quan, vua Trần nửa ngồi nửa nằm trong một cái ghế tựa mềm, đặt Trương Lệ Hoa lên đầu gối, cả hai cùng đối đáp, quyết đoán mọi sự, đến nỗi đàn bà con gái cũng phải đỏ mặt khi nhìn thấy cảnh tượng ấy. Bọn nội thị vì vậy tha hồ mà thừa cơ ăn hối lộ, chuyên quyền. Khổng Phạm cùng Khổng Quý Tân kết làm anh em, thay nhau nắm quyền, người đời chỉ biết họ Giang, họ Khổng, mà không biết đến vua Trần. 

 Tiếng hát sao mà ngọt 

 Hơi men sao mà say 

 Tràn trề muôn tiệc hoa 

 Long lanh ngàn ánh đuốc. 

 Sáu cung toàn những mỹ nhân, đầy người ngọc đeo vàng dát cho xứng với vẻ mặt hoa da phấn, áo biếc xiêm hồng cho hợp với tấm thân yểu diệu. Lại phải sơn hào hải vị lạ kỳ, bát vàng, chén ngọc hòa mới với điệu dẻo lời thanh, nhà vàng lầu ngọc, rèm gấm giường ngà, mới vừa với rừng hoa dặm liễu, chứ làm sao lại có thể dùng những thứ bình thường trong dân gian cho được. Tất nhiên phải kéo theo một loạt bọn tiểu nhân tàn bạo như Thi Văn Khánh, Thẩm Khách Khanh, Dương Huê Lãng, Từ Triết, Kỵ Huệ Cảnh, xua người vào tận hang sâu, vực thẳm, cướp bóc dân chúng, lấy của dâng nạp và bỏ túi. 

 Trước mặt điện Chiêu Quang, dựng thêm gác Lâm Xuân, gác Kết Ỷ, gác Vọng Tiên, mỗi cái đều cao đến mấy chục trượng, dài hàng mấy chục gian, lan can, cửa lớn cửa nhỏ, cửa thấp, cửa cao, đều bằng gỗ trầm hương, đinh hương, lại còn khảm ngọc, dát vàng, ngoài thì rèm gấm rũ tháp, trong thì bày la liệt giường ngà bàn ngọc, màn nhung đệm thúy, toàn do những bậc danh họa nổi tiếng một thời trần thiết. Các chỗ đẹp như Thái Hồ, Linh Bích, Lưỡng Quảng, đều được xây bằng kỳ trân dị thạch, xếp chồng chất cho ra cảnh bồng lai, cung quế, bên núi là suối trong hai bờ đá xếp thành từng từng, lớp lớp chảy dần tới hồ, đá trắng xây thành cầu, theo hàng theo lối là hoa lạ, cây quý chẳng khác gì: 

 A Phòng đành chịu thua xa 

 Dẫu rằng Lãng Uyển vẫn là kém xinh. 

 Vua Trần chọn ở gác Lâm Xuân, Trương Lệ Hoa ở gác Kết Ỷ, hai quý tần Cung, Khổng thì ở gác Vọng Tiên. Cả ba gác đều đầy đủ hành lang nối có mái che quanh co uốn lượn liền nhau. Không ngày nào không chơi bời, yến tiệc, bên ngoài thì bọn Khổng Phạm, Giang Tổng, kéo theo bọnăn sĩ Vương Soa, bọn nội thị, bên trong thì bọn nữ học sĩ Viên Đại chực sau hầu hạ. Rượu say, vua Trần lệnh cho từ phi tần tới nữ sĩ cùng cả bọn Giang, Khổng làm thơ, đặt phú tặng đáp. Trần Thúc Bảo cùng Trương Lệ Hoa bình giá, ai đoạt giải đều có ban thưởng, đem những bài hoa lệ nhất, phổ thành nhạc hát. Mỗi lần yến tiệc, tuyển hàng vài ngàn cung nữ, chia nhóm, chia ban thay nhau ca múa, đốt hương, thay trầm, đêm này sang ngày khác, thật nói không hết cảnh phồn hoa, tả chẳng đủ sự phong lưu, đài các. 

 Ngàn vàng hải vị sơn hào 

 Mồ hôi con đỏ, mỡ dầu dân đen 

 Miệt mài cung điện truy hoan 

 Cỏ cây xơ xác xóm làng kêu rên 

 Còn hiềm ngày ngắn hơn đêm 

 Non đoài trách thỏ vội chênh chênh rồi. 

 Tin tức truyền về triều Tùy, vua Tùy nảy ý cất binh đánh chiếm. Cao Quýnh, Dương Tố, Hạ Nhược Chúc, Tấn Vương Quảng xin nguyện dẫn binh đánh Trần, tâu: 

 - Thúc Bảo vô đạo, tàn hại sinh dân, nếu đem quân xuống nam, khác nào lấy núi Thái mà chặn quả trứng, quân ta một lần kéo xuống, Thúc Bảo tất bị diệt. Nếu Đông cung ngại không thể vì phụ hoàng mà lập công, con xin nguyện dẫn binh hỏi tội, bắt trói hôn quân tàn bạo, thống nhất chín châu. 

 Chinh phạt xưa nay vốn là chuyện một đao một thương, sự nghiệp được thua chưa quyết, Tấn Vương vốn bậc nhân vương của nhà Tùy, tước cao lộc trọng, sao không hưởng cảnh nhàn nhã, lại tự chọn lấy việc nặng nhọc nguy hiểm ấy. Chính vì Tấn Vương chỉ là con thứ của vua Tùy, cùng với thái tử Dũng đều là do Độc Cô hoàng hậu sinh. Khi sinh Tấn Vương, trong lúc mơ màng, hoàng hậu thấy ánh sáng đỏ đầy nhà, bụng nghe như tiếng sấm, một con rồng vàng từ trong người bay ra, lúc đầu còn nhỏ, càng về sau càng lớn dần, bay thẳng lưng chừng trời, cao khoảng mười dặm, nhe nanh múa vuốt, uốn lượn mãi không thôi. Giữa lúc vờn cao rỡn thấp đẹp mắt như thế, bỗng một trận cuồng phong nổi đậy, rồng vàng không hiểu vì sao rơi ngay xuống đất, đuôi lớn quằn quại cuốn thành một vòng, nhìn kỹ lại thì không còn là rồng vàng mà là một con chuột lớn như một con bò vậy, hoàng hậu hoảng hết tỉnh giấc mà sinh Tấn Vương. Vua Tùy nghe tâu hoàng hậu mơ thấy rồng vàng uốn lượn trên không như thế, nên đặt tên lúc nhỏ cho Tấn Vương là A Ma (1). Độc Cô vui mừng nói: 

 - Tên đứa bé thế là tốt lắm. Sao bệ hạ không ban luôn cho một tên chính nữa? 

 Vua Tùy phán: 

 - Làm vua cần phải anh minh, sáng suốt. Đặt là Dương Anh liệu có nên chăng? 

 Nghĩ ngợi một lát, vua Tùy tiếp: 

 - Vua đảm đương việc sáng nghiệp mới cần sự anh minh. Kẻ nối nghiệp lại cần sự khoan dung, rộng rãi. Chi bằng lấy tên Dương Quảng. 

 Đúng là: 

 Chim huyền rồng đỏ, điềm trời mở 

 Sao lượn, trăng xiên số đất nuôi 

 Đức kém Tam Hoàng đành chịu vậy 

 Điện vàng mây tía hãy ngồi soi. 

 Chỉ biết Độc Cô yêu Tấn Vương say đắm, thường thường hay kể cho Tấn Vương nghe giấc mộng trên khi sinh Vương. Vương vì vậy lại càng không cam phận làm kẻ dưới, lòng thường cân nhắc: "Ta với Thái tử là hai anh em. Thái tử là hoàng đế, ta là kẻ thần tử. Mai sau Thái tử lên ngôi cửu ngũ, ta vào chầu tất phải tung hô vạn tuế. Nhưng đó vẫn là chuyện nhỏ. Chẳng may có sai sót dù to dù nhỏ, Thái tử sẵn sàng hại được tính mạng ta. Ta chỉ còn cách run run sợ sợ vâng lệnh Thái tử, những ham muốn của đời người, đến bao giờ cho thành, trừ phi phải bày mưu tính kế, đoạt kỳ được ngôi đông cung, mới thỏa được bình sinh. Nhưng hiện nay ta không chút công danh với xã tắc, làm sao mà giành được vị trí đó?" 

 1 A Ma. Sự việc to lớn, lạ lùng chỉ rồng vàng uốn lượn trên mây. 

 Nghĩ ngợi trăm đường, Tấn Vương thấy hoàng hậu vốn ghen tuông, trong triều vị quan nào có hầu thiếp sinh con, Độc Cô đều khuyên vua Tùy không dùng. Thái tử rất yêu người cơ thiếp là Vân Chiêu Huấn, vì vậy Độc Cô không bằng lòng. Tấn Vương thừa cơ, làm ra vẻ hiếu thuận, ngầm đãi kẻ tâm phúc, nói xấu Thái tử, thưa chuyện hay tốt của mình. Mưu đồ xin đánh Trần, hòng thống nhất chín châu, cũng chính là để lập công, nắm chắc binh quyền trong tay, lại có điều kiện liên kết với bọn quan ngoài triều, dễ bề lập vây cánh. 

 Vua Tùy vốn hay nghi ngờ, không muốn giao binh quyền cho các quan đại thần, nên ban ngay lệnh phong cho Tấn Vương làm Hành quân binh mã đại nguyên soái, Dương Tố làm Hành quân binh mã phó nguyên soái, Cao Quýnh làm Tấn Vương nguyên soái phủ trưởng sử, Lý Uyên làm Nguyên soái phủ tư mã. 

 Cao Quýnh vốn người Bột Hải, hiệu Chiêu Huyền, vốn túc trí đa mưu, theo nghiệp binh từ lâu. Lý Uyên người vùng Thành Kỷ, hiệu Thúc Đức, ngực có ba vú, khi đánh dẹp ở Long Môn, bắn bảy mươi hai phát tên, giết bảy mươi hai mạng. Lại có thêm hai tổng quản: Hàn Cầm Hổ và Hạ Nhược Chúc, đều là những viên tướng giết người không nháy mắt, làm tiên phong, đi theo đường thuyền Lục Hợp còn Dương Tố thì xuất binh ở Vĩnh An, từ thượng lưu mà dẫn xuống. Tổng cộng có chín mươi viên tổng quản, lĩnh sáu mươi vạn binh, tất cả đều đặt dưới quyền tiết chế của Tấn Vương, cùng một lúc ra quân, mặt đông giáp với biển lớn, mặt tây tiếp với Xuyên Thục, cờ kéo, buồm căng, dài hàng mấy nghìn dặm. 

 Quân đồn trú biên giới nhà Trần liên tiếp cáo cấp về triều đình, nhưng bọn Thi Văn Khánh, Thẩm Khách Khanh không tâu lên, đợi đến khi bộc xạ Viên Huệ trần trình, xin cho ngay viện binh giữ cửa Kinh Khẩu và Thái Thạch, Giang Tổng lại ngăn cản. Trần Thúc Bảo không quyết đoán, chỉ phát: 

 - Vương khí ở đây như thế. Quân Tề tiến ba lần, quân Chu hai lần, đều chỉ chuốc thất bại, tan quân tổn tướng, quân Tùy thì làm được trò gì? 

 Khổng Phạm lại củng cố thêm: 

 - Sông Trường Giang là do trời đã bày đặt để phân chia nam bắc, người ngựa làm sao mà bay qua được. Chẳng qua bọn quan quân ngoài biên, muốn kiếm ít công lao, tâu thêm sự nguy cấp. Thần chỉ là một hoạn quan nhỏ, nhưng nếu binh tướng nhà Tùy đến đây, thần xin lĩnh chức thái úy. 

 Thi Văn Khánh tâu: 

 - Trời rét như thế này, người ngựa rồi sẽ chết sống cả, còn gì nữa mà đến đây! 

 Khổng Phạm lại còn đùa: 

 - Tiếc thay, chết mất cả ngựa của nhà ta rồi! 

 Trần Thúc Bảo cười lớn, mắng bọn Viên Huệ là đồ vô dụng. Đấy chính là tình cảnh vua tôi nhà Trần bàn bạc việc chống giặc Tùy, rồi lại vẫn tiếp tục yến tiệc, đàn hát như cũ. 

 Mịt mù khói lửa ngợp Trường Giang 

 Liều đánh ba quân quyết chẳng hàng 

 Đàn sáo du dương trăng vẫn sáng 

 Hồn lâng lâng, thả phách mơ màng. 

 Hôm ấy là ngày Nguyên Đán, tháng giêng, năm Trinh Minh thứ hai, trăm quan tụ tập, vua Trần vì đêm qua rượu quá say, vẫn còn li bì chưa tỉnh, mãi tới chiều mới ngơ ngác tỉnh dậy, thì Hạ Nhược Chúc đã kéo quân vượt qua sông ở Quảng Lăng, Hàn Cầm Hổ với năm trăm tinh binh, đột nhập qua Hoành Giang vào chiếm Thái Thạch. Tướng đóng giữ ở đây là Từ Tử Kiến một mặt cấp báo về triều, một mặt dẫn quân ứng chiến. Nhưng vì là Tết Nguyên Đán nên quân tướng đều say, không một người cầm vững khí giới Tử Kiến chỉ còn cách bỏ mặc binh lính, lên một thuyền nhỏ, chạy về Thạch Đầu, lại gặp lúc vua Trần say chưa tỉnh, chờ mãi đến chiều, mới được dẫn vào để bệ kiến, thì chỉ được phán: 

 - Sáng mai sẽ bàn việc xuất binh! 

 Mấy ngày sau vẫn rối tinh trong cảnh tết nhất, phải mãi tới ngày mùng bốn tết mới cử được Tiêu Ma Hà, Lỗ Quảng Đạt kéo quân đi ngăn giặc. Tiêu Ma Hà thừa cơ Hạ Nhược Chúc vừa mới tới Chung Sơn chưa kịp ổn định quân ngũ, cho Nhiệm Trung lĩnh một vạn quân; Kim Dực kéo ba trăm chiếc thuyền triệt hẳn đường về. Đó là một kế sách rất hay, nhưng vua Trần không nghe. Phải tới ngày mùng tám, các tướng mới kéo quân lên đường. Chỉ riêng Lỗ Quảng Đạt là hết lòng chiến đấu, giết được hơn ba trăm quân của Hạ Nhược Chúc. Khổng Phạm mới đánh một trận đã bỏ chạy. Tiêu Ma Hà thì bị bắt, Nhiệm Trung cũng bỏ trốn về kinh, vua Trần cũng chẳng trách mắng gì lại còn thưởng cho hai hộp vàng, sai Nhiệm Trung ra trận lần nữa. Không ngờ ra đến Thạch Tử Cương, gặp phải Cấm Hổ, Nhiệm Trung đem binh đầu hàng, dẫn quân Tùy tiến về kinh đô. 

 Trong thành lúc này dân chúng, quân nha lính tráng như một đàn chuột tìm đường sống. Vua Trần vẫn như một kẻ mất hồn ngồi trên điện chờ chư tướng báo tin chiến thắng. Đến khi nghe quân Tùy kéo vào thành, mới nhảy khỏi ngai vàng bỏ chạy. Viên Huệ kéo giữ lại thưa: 

 - Mình vàng trân trọng, y quan ngự điện, chẳng ai dám sát hại, xin bệ hạ đừng kinh sợ! 

 Vua Tùy đáp: 

 - Binh mã kéo tới ngay giờ. Đây không phải chỗ yên thân được! 

 Nói rồi vùng chạy về phía hậu cung, tìm Trương Lệ Hoa, Khổng Quý Tần, nói: 

 - Quân Tùy kéo tới nơi rồi, chúng ta phải tìm chỗ trốn ngay, đừng để thất lạc nhau. 

 Rồi tay phải dắt Lệ Hoa, tay trái kéo Quý Tần chạy, đến giếng Cảnh Dương, đã nghe tiếng quân Tuỳ reo hò náo động, bèn nói: 

 - Thôi rồi, hỏng rồi! Chạy không được nữa đâu, cùng nhau chết là xong! 

 Rồi định đâm đầu xuống giếng, vừa may hậu các xá nhân Hạ Hầu Công lấy thân mình che kín miệng giếng, vua Trần vật lộn lôi Công ra, cuối cùng cả ba lần lượt nhảy xuống. Còn may là vào tháng đông hết, xuân vừa tới, giếng cạn khô, không bị ướt, vua Trần băn khoăn: 

 - Trốn ở đây mà qua được cơn hoạn nạn, thì làm sao mà lên được? 

 Khải hoàn thay Hậu đình hoa 

 Trúc tơ im bặt, trống loa dập dồn 

 Lục triều vượng khí héo hon 

 Nực cười đáy giếng, ba con ếch ngồi 

 Ba người ngồi núp rất lâu, chỉ nghe tiếng người huyên náo, chính là quân Tùy đang đi vơ vét cung nữ, vàng bạc. Chỉ thấy chính cung Thẩm Hậu, vẫn ngồi đoan trang trong cung, cùng với Thái tử đóng cửa kín mít, nhưng không thấy vua Trần đâu cả, quân lính tỏa ra bốn bên tìm kiếm. Có cung nữ mách: 

 - Vừa thấy chạy tới bên giếng Cảnh Dương, hay đã gieo mình xuống giếng tự tử rồi! 

 Quân lính nghe ra, kéo tới giếng xem xét, nhìn xuống tối mò, nhưng như vẻ có người ngồi bên dưới, vội lấy câu liêm móc. Vua Trần tránh được, quân lính đang không biết làm cách nào, bèn cầm một viên đá vứt xuống, thử xem nông sâu, để tìm cách xuống, Vua Trần thấy đá vứt xuống liền gào lớn: 

 - Đừng ném vào đầu ta! Mau thả dây xuống, kéo ta lên! 

 Quân lính liền thả thừng xuống, đã dài đến mấy trượng, một hồi lâu vẫn chưa thấy gì, chỉ nghe thấy vua Trần gào: 

 - Các người hãy cố kéo ta lên. Ta sẽ lấy vàng ngọc thưởng cho, phải cẩn thận kẻo rồi nát xương ta nhé. 

 Lúc đầu, hai người kéo, vẫn không lên vì nặng quá, thêm hai người nữa, cũng vẫn không động đậy, có kẻ giải thích: 

 - Đây nhất định là hoàng đế rồi, nên xương cốt mới nặng đến thế này! 

 Người khác cãi: 

 - Có khi chỉ là một thằng sâu bọ, ngốc nghếch nào đó cũng nên. 

 Mọi người cùng hét lớn ngạc nhiên khi kéo lên đến miệng giếng thấy những ba người, cả Lệ Hoa lẫn Quý Tần. Quân tướng Tùy bò ra mà cười, Vương Nguyên Phổ đời Tống có thơ tả cảnh này rằng: 

 Quân Tùy dậy đất hò reo 

 Vua tôi trần vẫn dập dìu tiệc hoa 

 Chật chội núi sông cũ 

 Thênh thang đáy giếng sâu 

 Thành cao khói trắng tỏa 

 Suối xiết máu đỏ ngầu 

 Vô tình thay mảnh trăng thâu 

 Bóng thưa quen thói ra vào lan can. 

 Quân tướng Tùy kéo vua Trần đi, tìm nạp cho Hàn Cầm Hổ, vua Trần vẫn giữ được vẻ thản nhiên, chỉ lạy một lạy. Tối đến, Hạ Nhược Chúc ở ngoài thành vào, đòi vua Trần gặp mặt, vua Trần thấy tướng 

 Hạ dữ tợn, bấy giờ mới sợ run, mồ hôi vã khắp người. Hạ thấy vậy liền cười nói: 

 - Không việc gì phải sợ hãi đến thế. Chưa ai đụng đến cái mạng hàng ấy đâu! 

 Rồi cho vua Trần cùng các cưng nhân ở tạm trong điện Đức Giáo, bên ngoài đặt lính canh gác. Tấn Vương kéo đại quân đến sau, đi trước có Cao Quýnh, Lý Uyên làm nhiệm vụ vỗ yên trăm họ, cấm chỉ việc đất phá cướp đoạt. Người ngựa kéo vào thành Kiến Khang, cầm giữ vua Trần, sắp đặt quan lại cai quản kinh thành. 

 Lâu nay Tấn Vương tính tình thận trọng, không tỏ vẻ ham muốn chuyện sắc dục, nhưng giờ đã xa kinh đô, lại đã từ lâu nghe tới sắc đẹp nghiêng thành của Trương Lệ Hoa, nên Tấn Vương sai con 

 Cao Quýnh là Cao Đức Hoàng, đang giữ chân ký thất, đi trước vào Kiến Khang, tìm cho được Lệ Hoa. Cao Quýnh nói với con: 

 - Tấn Vương đang ở ngôi nguyên soái, trừ bạo cứu dân, đâu phải vì chuyện nữ sắc này! 

 Cao Đức Hoàng khuyên cha: 

 - Tấn Vương binh quyền trong tay, đòi lấy một người con gái, nếu không đưa chỉ sợ mang họa về sau: 

 Lý Uyên liền bàn: 

 - Cao đại nhân, hai họ Trương, Khổng lấy sắc đẹp ma quỷ để mê hoặc nhà vua, làm rối loạn việc triều chính, dẫn đến sự bại vong của nước nhà. Đã thế thì còn dung hai họ này, giữ cái gốc của tai họa làm gì, để rồi lại làm ô uế cả triều Tùy, chi bằng giết quách, cắt đứt tà tâm của Tấn Vương. 

 Cao Quýnh gật đầu đáp: 

 - Đây chính là việc thái công Mông Điện chém Đắc Kỷ ngày xưa, vì chỉ sợ lưu lại kẻ khuynh quốc, hại vua. Thì nay cũng không nên dung Lệ Hoa để hại Tấn Vương làm gì! 

 Rồi sai dẫn Lệ Hoa cùng Quý Tấn ra chém ở bên suối. Cao Đức Hoàng khuyên giải mãi, Cao Quýnh vẫn không nghe. 

 Da tuyết mày ngài gái đỉnh Vu 

 Một cười nghiên sập cả cơ đồ 

 Những thương máu nhuộm bờ khe thẳm 

 Thẹn với Tây Thi dạo Ngũ Hồ. 

 Cao Đức Hoàng giận dữ quay về, vào trướng ra mắt Tấn Vương, Tấn Vương cười như lấy tay vốc được, hỏi: 

 - Lệ Hoa đâu rồi? 

 Đức Hoàng sợ Tấn Vương nổi giận, bèn tìm cách đổ mọi tội lên đầu Lý Uyên: 

 - Hạ quan vâng mệnh đến đòi. Phụ thân hạ quan không dám coi thường, sắp đủ xe tốt, đệm êm, lại còn tuyển thêm mười tám cung nữ da phấn mặt hoa nhất theo đi. 

 Tấn Vương cười: 

 - Nếu không phải chính ký thất đi đòi, thì chưa chắc Cao trưởng sử đã ân cần đến như thế! 

 Đức Hoàng tiếp: 

 - Tất cả là tội ở Lý Uyên. Ông ta bảo tai họa nhà Trần là ở Lệ Hoa mà ra, nên ra lệnh đem cả Lệ Hoa cùng Quý Tần ra chém đầu? 

 Tần Vương kinh ngạc hỏi: 

 - Sao, phụ thân ngươi không làm gì được à? 

 Đức Hoàng thưa: 

 - Thần cùng phụ thân bao nhiều lần khuyên ngăn, nhưng Lý Uyên nhất định không nghe. Còn trách bố con hạ quan bênh Lệ Hoa để làm hại đại vương. 

 Tần Vương nổi giận quát: 

 - Tên tướng già đáng ghét. Nó là phường tửu sắc, thấy hai người đẹp, sợ ta giành mất, nên cố tình giết đi cho bõ ghen tức! 

 Rồi lại than: 

 - Cũng bởi ta quá vội vàng. Chỉ cần chờ vài ngày nữa, ta vào thành Kiến Khang, đòi giải Trần Thúc Bảo cùng toàn bộ gia thuộc đến, không được thiếu một ai, kẻ nào dám chống lệnh. Dù Lý Uyên cũng chẳng làm gì được ta. Cũng chỉ vì ta tính sai, đến nỗi hại mất tính mạng cả hai người đẹp. 

 Đến lúc đứng dậy, vẫn còn ân hận: 

 - Ta tuy không giết Lệ Hoa, nhưng Lệ Hoa vì ta mà chết. Nhất định ta phải giết được thằng giặc già này, để rửa hận cho nàng! 

 Mai sau rất nhiều chuyện thù oán giết chóc đau lòng đều từ chuyện này mà ra. 

 Mất Trần tội gái chém bêu cờ 

 Trung thực ai dè trái ý vua 

 Đông Hải Xi Di (1) soi tích cũ 

 Vẹn minh, vẹn nước, vẹn mưu cơ. 

 Bản chất con người Tấn Vương là thế nhưng lại cố làm ra vẻ ta đây đẹp tốt. Vào Kiến Khang rồi, Tấn Vương phán rằng Thi Văn Khánh thờ vua bất trung, gian trá xiểm nịnh; Thẩm Khách Khanh che mắt nhà vua; Dương Huệ Lãng, Từ Triết, Ky Huệ Cảnh coi thường phép nước, tàn hại trăm họ, cộng là năm nịnh thần, đều cho đem chém đầu trước cửa Thạch Quan. Lại đem Khổng Phạm, Vương Soa đày ra biên tái, để thỏa lòng oán hận của dân Nam Triều. Sai nguyên soái phủ ký thất Bùi Cự, thu nhập sổ sách, niêm phong tất cả các kho tàng, để được tiếng là liêm khiết. Dâng sớ luận tội Hạ Nhược Chúc ngay trận đầu tiên đã vi phạm quân lệnh; Lý Uyên lười nhác không chịu chăm lo nhiệm vụ, xin phải bắt về hỏi tội. 

 Vua Tùy nghe tâu đã dẹp xong Trần, Nhược Chúc lập được công đầu, Lý Uyên lâu nay làm quan trung trực, nên đều được tha tội, lại còn gọi Nhược Chúc về kinh trước, thưởng cho một vạn tấm lụa. 

 1 Đông Hải Xi Di: Tên hiệu của Phạm Lãi, giúp Câu Tiễn, dùng Tây Thi đánh chiếm được nước Ngô, bỏ nước Việt cùng Tây Thi trốn vào Ngũ Hồ. 

 Châu quận chưa bình định được, thì sai các tổng binh, dốc binh đánh dẹp, Xuyên Thục, Kinh Sở, Ngô Triệu, Vân Quý lần lượt thuộc bản đồ nhà Tùy, thiên hạ từ đó thu về một mối. Duy vùng Lĩnh Nam vẫn không chịu quy phục, một số châu quận ở đây, vẫn thờ Thạch Long phu nhân, họ Tiễn thị ở quận Cao Lương làm chủ. 

 Phu nhân là vợ của Thái thú Phùng Bảo, nghe tin quân Tùy đánh Trần, phu nhân thân dấy quân, trông coi bốn mặt, tu bổ thành trì, kiên quyết chống cự, mọi người đều tôn xưng là Thánh Mẫu và gọi thành Cao Lương là Phu Nhân thành. Vua Tùy sai Trụ Quốc Vi Quang đi Lĩnh Nam chiêu an, phu nhân vẫn cự tuyệt, Quang không tiến quân được. Tấn Vương liền bảo Vua Trần viết thư cho phu nhân, báo tin Trần đã mất, khuyên nên hàng nhà Tùy. Phu nhân nhận được thư, triệu tập các thủ lĩnh khoảng vài nghìn người, khóc lóc suốt một ngày trời, quay về hướng bắc bái lạy, rồi mới sai Tôn Áng dẫn mọi người ra đón Vi Quang vào Quảng Châu. Phu nhân tự mang giáp trụ, cưỡi ngựa, dương lọng gấm, dẫn theo kỵ vệ, mang theo chiếu thư xưng là sứ giả, tuyên bố ý đức của triều đình, khắp hơn mười châu, khiến bọn này đều ra hàng. 

 Thế là ba mươi châu, một trăm quận, bốn trăm huyện của vùng Lĩnh Nam đều thuộc nhà Tùy. Tôn Áng được phong làm nghị đồng tam ty, tuyên dương phu nhân làm Thái phu nhân quận Tống Khang, ban cho huyện Lâm Châu làm đất thang mộc (1), một năm chỉ phải một lần triều cống, ba năm một lần được vào gặp mặt nhà vua. 

 1 Đất thang mộc: đất tắm gội, chỉ đất phong, quê hương, nơi ăn tộc của vua, chúa. 

 Trần, lẫn Trần Thúc Bảo rời khỏi Kiến Khang, đến tháng tư thì về đến Trường An, đem tù binh làm lễ ở thái miếu. 

 Người đời lúc bấy giờ làm nhiều thơ ghi lại việc đẹp đẽ này, vẽ lại cảnh xe gấm ruổi rong, tiếng mõ đêm khuya, trăng chiếu ánh cung, rồi trí dũng phúc thọ, bốn thứ đều đầy đủ, bởi mãi đến ngoài tám mươi tuổi, phu nhân mới qua đời, được ca ngợi là Cổ kim nữ tướng đệ nhất. 

 Không nói chuyện phu nhân họ Trần nữa, lại nói tháng ba năm ấy Tấn Vương Lưu Vương Thiều lại làm trấn thủ Kiến Khang, còn tự mình dẫn đại quân, cùng trăm quan văn võ, cung tần mỹ nữ nhà Tấn Vương được phong thái úy, ban cho xe lớn, áo cồn, mũ miện, được đeo ngọc khuê trắng, Dương Tố được phong làm Việt Quốc Công. Hạ Nhược Chúc, Hàn Cầm Hổ được thăng Thượng Trụ quốc, Cầm Hổ được phong Tống Công. Nhược Chúc vì để quân lính làm bậy, gian dâm với cung nữ nhà Trần cho nên không được phong. Cao Quýnh cũng được thăng Thượng Trụ quốc phong Tề Công. Lý Uyên thăng vô úy thiếu khanh, vì Tấn Vương ghét nên không những không kể hết công lao mà còn xin vua khiển phạt, bởi thế Lý Uyên chỉ được khen thưởng rất bạc bẽo. Lý cũng không lấy đó làm điều, cũng may mà Tấn Vương lại được lệnh ra trị Dương Châu, nên không thể luôn luôn xích xiểm. Mặt khác, Tấn Vương uy quyền ngày một lớn, danh tiếng ngày một tăng, nhiều kẻ gian ngoa, lắm mưu nhiều kế luồn lọt làm tay chân dưới trướng, mưu toan ngày càng cấp bách. 

 Tứ hạo (1) về chầu, lông cánh mạnh 

 Lòng tham chê thấp bậc công khanh 

 Lửa đun nồi đậu, đậu thương khóc 

 Hạt đó cành đây một gốc sinh. (2) 

 Huống chi ở bên trong lại có Độc Cô hoàng hậu chủ trì ủng hộ, bên ngoài có Vũ Văn Thuật bày mưu tính kế, làm sao mà lại không thành cho được. Nhưng không biết ý vua Tùy thế nào, xin xem hồi sau sẽ rõ. 

 1 Tứ hạo. Bốn ông già, đều ngoài tám mươi, nổi tiếng đạo đức, ẩn ở Thương Sơn. Cao Tổ nhà Hán muốn phế thái tử lập con thứ. Thái tử theo kế của Trương Lương, hậu lễ mời cả bốn ông về với mình. Cao Tổ thấy thế, cho là vây cánh thái tử đã mạnh nên không nghĩ tới chuyện phế lập nữa. (Từ Hải). 

 2 Tào Thực anh, Tào Phi em, đều là con Tào Tháo. Tháo chết, Phi nối ngôi, định giết Thực, bắt Thực bước bảy bước làm một bài thơ. Thực làm “Cẳng đậu đun hạt đậu, đậu ỡ trong nồi khóc, cùng một gốc sinh ra, đun nhau chi quá gấp”. Hai anh em ôm nhau khóc, Phi tha Thực (Tam Quốc diễn nghĩa) 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Hai

Dương Quảng dèm pha mưu đoạt ngôi Thái tử,

 Độc Cô ghen ngược thẳng tay giết Uất Trì

 Thơ rằng: 

 Người đời muôn nỗi khổ 

 Ta khổ vì dèm pha 

 Hiểm nghi rồi đố kỵ 

 Nhỏ nhen dáng lời tà 

 Nói cười sinh kiếm sắc 

 Oán cừu che mặt hoa 

 Bậc trung lương nuốt tủi 

 Kiếp nào sạch xót xa 

 Lời nịnh như mật rót 

 Cỏ lác hóa gấm là 

 Ngôi cao như tượng gỗ 

 Xúm xít kẻ vào ra 

 Lòng trong sáng thánh thiện 

 Lời người thành quỷ ma 

 Chuyện quốc gia cũng thế 

 Khác gì chuyện mày ta! 

 Đời thường nói: gỗ có mọt, sâu mới sinh, trong lòng có sự nghiêng ngả, thì kẻ khác mới thừa dịp làm cho mười phần hoảng loạn. Nhà Tùy từ khi Độc Cô hoàng hậu sinh lòng ghét Thái tử Dũng, đến nỗi Tấn Vương dòm ngó, tìm mọi cách để được hoàng hậu tin yêu, biết hoàng hậu không cho vua Tùy đi lại với phi tần, Tấn Vương cũng tạm thời gác bỏ hết thói hiếu sắc hàng ngày. Biết hoàng hậu ưa tiết kiệm, giản dị, Tấn Vương cũng cố ý làm cho mọi người thấy cách ăn mặc không diêm dúa, sặc sỡ của mình, sai cất bỏ tất cả những quần áo màn trướng xa hoa, lộng lẫy. Chẳng bao lâu, khiến lòng yêu mến Thái tử Dũng của hoàng hậu chuyển dần sang Tấn Vương. Bọn hoạn quan cung nữ thấy ngay sự thay đổi đó của hoàng hậu, nên nóng lạnh theo mùa, chìa môi uốn lưỡi, bới lông tìm vết, nói xấu Thái tử Dũng, không thèm đưa tin mách nước cho Thái tử. Ngược lại với Tấn Vương lại càng khăng khít, nếu Tấn Vương có chuyện không hay, chúng đều che đậy cho có việc tốt, chúng thêm lên gấp mười gấp trăm, kể lể hết chỗ này lúc khác. Tấn Vương cùng Tiêu Phi lại rất thân mật, rộng rãi với bọn thân tín của hoàng hậu, ngay cả đối với bọn tay chân bình thường đều được Tấn Vương ban thưởng rất hào phóng, vì vậy không kẻ nào trước mặt hoàng hậu lại không ca ngợi Tấn Vương. 

 Bây giờ Tấn Vương tính công việc liệu có thể thành đến bảy tám phần rồi, lại thêm lúc đánh chiếm nhà Trần, Tấn Vương có kết giao với tổng quản An Châu Vũ Văn Thuật, vốn túc trí đa mưu, xung quanh thường gọi Vũ là Tiểu Trần Bình (1), đang ở Dương Châu, được Tấn Vương xin về cho làm thứ sử Thọ Châu để tiện đi lại bàn bạc, tính chuyện giành ngôi Thái tử, Vũ thưa với Tấn Vương: 

 - Đại vương giờ đã được hoàng hậu yêu vì, chẳng còn lo không có người đỡ đầu, nhưng hạ quan xem ra, còn phải lo ba điều này: Thứ nhất tuy hoàng hậu ghét Thái tử, yêu đại vương, nhưng ghét chưa sâu yêu chưa đậm, giờ vào triều đại vương phải làm kế khổ nhục, cho hoàng hậu thương đại vương khiến hoàng hậu thêm kiên quyết. Đại vương lại còn một việc nữa là phải có được một đại thần tin cẩn ở bên ngoài, lời nói của ông ta được chúa thượng tin, ngày ngày đưa những lời dèm pha, dâng những lời khêu gợi, thế là trong ngoài cùng hiệp đồng thì không thể nào sai sót gì nữa. Để làm được việc đổi vị thay ngôi, còn phải làm một tội ác lớn nữa: đó là mua chuộc được những người thân tín của Thái tử, sẵn sàng dâng cả đầu Thái tử cho đại vương, không có chuyện thì làm thành chuyện, chuyện nhỏ thì sẵn sàng xé ra to, làm cho cả thiên hạ thấy, Thái tử dẫu có cãi cũng không lại. Thế thì chẳng sợ đại vương không được ngôi Thái tử nữa. Ba điều hạ quan trình bày này, hạ quan có thể làm được, nhưng vàng bạc châu báu phải tính đến hàng vạn, hạ quan có chi hết của nhà cũng không dám tiếc mà chỉ sợ vẫn không đủ cho. 

 1 Trần Bình: mưu thần nổi tiếng của Lưu Bang. Lưu Bang chết, có công lớn trong việc chống gian thần, yên ngôi nhà Hán. 

 Tấn Vương đáp: 

 - Điều này ta sẽ tự lo đủ. Chỉ cần túc hạ vì ta mà toan tính mọi chuyện xong xuôi, ngày sau phú quý ta cùng hưởng. 

 Năm ấy, lại đúng dịp Tấn Vương về triều cận, cả hai cùng kéo nhau đi, chia nhau lo liệu hành động. 

 Xảo kế những mong che mặt nhật 

 Thâm mưu toan tính hạ làm đông. 

 Về phía Tấn Vương, vào triều gặp vua Tùy, hoàng hậu, cho đến tể tướng, cả hàng liêu thuộc phía dưới đều có quà cáp, biếu xén, bọn hoạn quan, cung nữ trong cung cũng đều được ban thưởng. Chỉ có Lý Uyên tuy là bề tôi cũ, nhưng không có đi lại riêng, nên không chịu nhận lễ vật của Tấn Vương sai người đưa tới. Phía Vũ Văn Thuật, sau khi đi chào thăm các vị đại thần, hỏi han bạn bè quen thuộc, còn tìm gặp Đại lý tự thiếu khanh Dương Ước. Dương Ước vốn là em của Việt Quốc công Dương Tố, Tố hiện đang làm Thượng thư tả bộc xạ, uy quyền hơn cả vua, địa vị cao, danh tiếng lớn. Từ ngày dẹp được nhà Trần, những cung nữ phi tần nổi tiếng đến một nửa chui vào hậu phòng Tố. Tố lại vốn ham mê chuyện thanh sắc, không thích gặp gỡ, trò chuyện, người quen thuộc cũ, có điều gì cầu xin đều qua Dương Ước. Dinh thự họ Dương người tới đông như chợ. Vũ Văn Thuật vốn là quan ngoài kinh thành mới về, chờ đợi rất lâu mới được vào, dâng hơn một trăm lạng vàng ra mắt, uống hết một ấm trà rồi mới xin cáo lui. 

 Giữa Vũ Văn Thuật với Dương ước bình thường vốn là chỗ quen thuộc vong hình cũ, vì vậy Ước tìm đến đáp lễ, Vũ đã chờ sẵn ở nơi ngụ mời vào phòng khách ngồi. Ước nhìn bốn xung quanh tường thấy bày la liệt những đỉnh, những chuông, cùng những đồ tế tự khác của thời nhà Thương, nhà Chu, thêm nữa là những đồ chơi, của quý màu sắc rực rỡ chói mắt. Ước không giấu được vẻ ngạc nhiên thèm muốn, Vũ lên tiếng: 

 - Tất cả đều là của Tấn Vương ban cho, huynh ông biết thưởng thức am hiểu nhiều, xin chỉ giáo thêm cho. 

 Ước đáp: 

 - Tiểu đệ chỉ có những bảo vật của thời nay, loại này rất ít, thường được thấy ở bên dinh thự gia huynh mà thôi. Của đại huynh ở đây so ra còn hơn nhiều. 

 Thấy bên cạnh có bày cả bàn cờ làm bằng ngọc trắng, Ước mời: 

 - Lâu lắm không cùng đại huynh giao thủ. Ở Dương Châu, đại huynh thường so tài cao thấp với những ai? 

 Vũ đáp: 

 - Thường đệ chỉ vui với mấy tiểu thiếp đi cùng. 

 Ước nói: 

 - Hoặc là mới mua ở Dương Châu chăng? Tiểu đệ nghe nói con gái Dương Châu nhiều tài nghệ lắm! 

 Vũ đáp: 

 - Bàn cờ sẵn đây, đệ xin hầu huynh ông mấy ván đã. Hãy khoan nói chuyện Dương Châu vội. 

 Vũ lấy mấy cái đỉnh nhà Thương ngay trên bàn làm giải thưởng, lại cố ý thua luôn liên tiếp mấy ván, những đồ cổ quý giá kia vì thế về tay Ước phần lớn. Tiệc rượu bày ra, trên bàn đều là những thứ đựng từ đời tam đại, chen giữa những mâm vàng, chén ngọc lấp lánh, Ước nói: 

 - Những thứ trên bàn tiệc này, nhất định phải từ Dương Châu mang về. Ở trên phía bắc này không có những loại tinh xảo như thế này được. 

 Vũ đáp: 

 - Huynh ông nếu thích dùng, xin sẽ sai người mang lại. 

 Nói rồi sai chọn ra một bàn đầy, bỏ vào hòm, cùng những thứ lúc trước, bảo thủ hạ mang tới dinh Dương Ước. Ước hai ba lần từ chối: 

 - Cái này thì quả là không dám nhận. Thấy của liền nổi ý tham, đâu dám hưởng lộc mà chẳng có công lao gì cả. 

 Vũ đáp: 

 - Huynh ông, đệ lâu nay làm tổng quản, cái chức quan võ này, lương bổng không đủ sắm quà để biếu xén quan trên. Đến khi chuyển sang làm thứ sử Thọ Châu, thì cũng chỉ đủ để uống nước lã, làm sao mà có gì để biếu huynh ông được? Những cái này là Tấn Vương có việc cần đến huynh ông, ủy cho đệ chuyển đến mà thôi. 

 Ước từ chối: 

 - Nếu là của đại huynh ban cho thì đã không dám nhận rồi, nay lại là của Tấn Vương thì tiểu đệ lại càng không dám nhận. 

 Vũ lấp lửng: 

 - Đây mới chỉ là những thứ lặt vặt đã lấy gì làm lạ, đệ còn đem đến cho anh em huynh ông sự phú quý rất lớn, rất lâu dài nữa kia. 

 Ước hỏi: 

 - Như tiểu đệ đây, chưa thể nói đến phú quý, nhưng còn gia huynh, thì cũng đã phú quý cực điểm rồi còn gì, cần gì phải phái người phải mang phú quý đến nữa? 

 Vũ đáp: 

 - Sự phú quý của lệnh huynh*, chỉ có thể nói là đương lúc thịnh, chứ không thể nói lâu dài được. Huynh ông cũng biết lòng ham muốn không cùng của Đông cung chứ? Huynh ông có biết Đông cung ghét lệnh huynh tận xương không? Mai kia Đông cung đắc chí, thì chỉ có bọn thân thuộc Vân Định Hùng, bọn trong cung như Dương Lệnh Tắc là vững vàng, liệu có đến lệnh huynh không? Nay thì họ cúi đầu thờ anh em huynh ông, ngày sau ai biết chính họ lại phản anh em huynh ông, cưỡi lên đầu lên cổ anh em huynh ông? Nay may mắn Thái tử thất đức, Tấn Vương vừa được trong cung yêu vì, chúa thượng cũng đã có ý thay đổi ngôi kế vị, anh em huynh ông lẽ nên ủng hộ, mà lập ít nhiều công tích trong việc này. Tấn Vương sẽ khắc cốt ghi xương những hành động đó, chính là tính lấy sự phú quý lâu dài, đổi lấy cái thế trứng để đầu đẳng mà lập cái thế vững vàng của Thái Sơn. Huynh ông định chọn đường nào? 

 * Lệnh huynh: gọi tôn trọng, nịnh anh của người mình đang nói chuyện. 

 Ước gật đầu đáp: 

 - Đại huynh nói có lý lắm, nhưng chuyện phế lập là chuyện lớn, đâu dám dễ dàng nghe theo, xin cho thư thả để về cùng bàn bạc cẩn thận với gia huynh. 

 Cả hai uống say sưa suốt ngày, mãi tới đêm mới chia tay. 

 Hôm sau, Vũ Văn Thuật nghe tin ở Đông cung có Cơ Uy, được Thái tử rất tin yêu, vốn đi lại rất thân với bạn của Vũ là Đoàn Đạt. Vũ bèn sai đem vàng lụa, lấy danh nghĩa Đoàn Đạt hối lộ Cơ Uy, để Cơ Uy báo cho biết tất cả những động tĩnh ở trong Đông cung. Lại to nhỏ với Đoàn Đạt: "Có việc gì cứ, như thế... như thế... mà hành sự!". Lại hứa sau này giàu sang cùng hưởng, Đoàn Đạt nghe theo, hứa với Vũ sẽ gắng sức, chu đáo. 

 Đến kỳ Tấn Vương phải trở về đất phong của mình ở Dương Châu, theo đúng mưu sách của Vũ Văn Thuật, Tấn Vương vào chào hoàng hậu, khóc lóc thảm thiết đến lăn cả ra đất mà thưa: 

 - Con vốn ngu dại, không biết kiêng kỵ điều gì, nay chịu ơn thương yêu sâu nặng của hoàng hậu, xin sẽ được ngày ngày cho người về thăm hỏi sức khỏe của hoàng hậu. Nhưng chỉ sợ Đông cung lại vu cho có ý mưu đồ đại sự, mà càng thêm giận dữ, tìm cách giết hại. Lại thêm những lời dèm pha, ngày càng được chúa thượng tin theo, lòng con lo sợ vô cùng. Không biết rồi có được hầu hạ mãi hoàng hậu không! 

 Nói xong lại cất tiếng khóc nức nở. Hoàng hậu bèn an ủi: 

 - Hãy đợi đến khi nào không thể nhẫn nại được nữa, ta sẽ cưới con gái nhà Nguyên Thị cho con. Nếu con đối xử với A Văn như vợ chồng thực sự, chỉ thương yêu mình A Văn, ta sẽ như lần áo giáp dày che đỡ cho con. Mai kia ta tròn trăm tuổi, con như miếng thịt trong miệng nó*, thì con cứ lạy họ Nguyên nhà A Văn mà xưng thần, sẽ không ai đụng được đến con. 

 Tấn Vương nghe những lời này, lại dập đầu khóc rống lên, hoàng hậu lại vỗ về một hồi, khuyên cứ an tâm ra đi, không có mật chiếu thì dừng bao giờ về kinh, đừng bao giờ khiêu khích Đông cung. 

 * chỉ Thái tử Dũng. 

 Đợi vài tháng, hoàng hậu sẽ có cách đối phó hiệu nghiệm. Tấn Vương nuốt nước mắt từ giã. Vũ Văn Thuật nghe kể lại xong, liền nói: 

 - Thế là cả ba việc đều xong xuôi. 

 Thoạt tiên giao ngựa ngoài thành 

 Lân la bên cửa nép mình trộm xem 

 Đến giờ lông cánh dày chen 

 Cất bay, bay tận thanh thiên chín tầng. 

 Một phế một hưng, vốn có số trời. Dương Ước được Tấn Vương hối lộ, nên phải vì Tấn Vương mà thương lượng với Dương Tố. Mỗi lần anh em gặp nhau, Ước đều ra vẻ thiểu não, đến nỗi Tố phải hỏi: 

 - Chú có chuyện gì buồn bực trong lòng? 

 Ước thưa: 

 - Hôm trước em đi xe qua cửa Đông cung. Đông cung tản vệ Tô Hiếu Từ định giữ lại hạch tội* mới trình qua Thái tử, Thái tử gàn: "Thôi chờ giết quách lão giặc già một thể?" "Lão giặc già" không phải anh thì còn ai vào đây. Em nghe vừa bực vừa lo. Già bạc trắng đầu như anh rồi, liệu có qua được bước này nữa. 

 * Qua cửa Đông cung phải xuống ngựa, xe đi bộ 

 Tố đáp: 

 - Thái tử liệu làm gì được ta? 

 Ước giảng giải: 

 - Cái này thì chẳng có gì khó. Chúa công đến lúc bỏ chúng ta về trời. Thái tử lên ngôi, bấy giờ cả họ nhà ta lo còn kịp không? 

 Tố hỏi: 

 - Cứ như ý chú, thì giờ nên thế nào. Hoặc là từ quan về để tránh mặt Đông cung, hay là thay lòng đổi dạ về thờ phụng Đông cung? 

 Ước đáp: 

 - Trốn về thì quả là thất thế. Thuận theo Đông cung chưa chắc đã cởi bỏ được oán thù. Chỉ có cách phế bỏ Thái tử, lập một người khác, chẳng còn thù oán phải lo, mà còn có công lớn! 

 Tố vỗ tay nói: 

 - Ta không ngờ chú lại tính được cả những nước ấy, thế mà ta không nghĩ tới. 

 Ước đáp: 

 - Việc này cần phải nhanh, nếu kéo dài, Thái tử đối phó kịp, thì tai họa không biết đến lúc nào. 

 Tố nói: 

 - Ta biết việc này có hoàng hậu đứng chủ ở bên trong rồi! 

 Dương Tố vốn biết vua Tùy rất sợ hoàng hậu, hay nghe lời đàn bà, cho nên nhân lúc tiệc yến chuyện trò, Tố thường ca ngợi nét hiếu thuận của Tấn Vương, với hoàng hậu, đàn bà hay dễ lộ rõ ý khen chê hơn, Tố lại theo đó mà phụ họa. Hoàng hậu biết rõ Tố là người đang được tín nhiệm trong triều, nên cũng muốn lôi kéo Tố đồng tình với công việc của mình, bèn ngầm đem vàng bạc thưởng cho. Ban đầu Tố chỉ mong hoàng hậu nhận Tố vào cánh của mình, nay lại thấy cần mình giúp trợ, thì biết ngay việc có thể thành, nên càng thêm lời đơm đặt, trước mặt vua Tùy lại lôi kéo thêm bọn hoạn quan, cung nữ cứ nhân lúc thuận tiện mà buông lời dèm pha, tán thưởng. 

 Đúng là góp từng nắm đất thì thành núi, ba người hợp lại thành sức hổ. Tháng mười, năm thứ hai mươi đời Khai Hoàng, vua Tùy ngự ở điện Vũ Đức, tuyên chiếu phế Thái tử Dũng làm dân thường, con trưởng của Dũng là Dũng Vương Dương Nghiêm dâng lời xin cho cho được sung vào đội túc vệ, vua Tùy có ý thương xót, nhưng bị Dương Tố gạt đi. Có Ngũ Nguyên công Nguyên Mân thẳng thắn can gián, rồi Dương Hiếu Chính chức Văn lâm lang dâng thư can ngăn, nhưng vua Tùy chỉ nghe theo Dương Tố, mà gia hình, trách phạt những kẻ can ngăn. Dương Tố càng thầm kiêu ngạo vì đã xây được cho mình sự phú quý lâu dài. Tháng mười một, cũng năm ấy, bọn Dương Tố xui vua Tùy lập Tấn Vương làm Thái tử, cho Vũ Văn Thuật làm Hữu vệ tán Đông cung. Tấn Vương tiếp thánh thỉ, liền làm biểu tạ ơn, chọn ngày tốt cùng Tiêu Phi về triều kiến, vào ở ngay trong cấm uyển, hầu hạ vua và hoàng hậu, mười phần hiếu kính, vua Tùy thấy thế, trong lòng cũng rất hân hoan. 

 *** 

 Lại nói, hoàng hậu Độc Cô, trời đã phú cho tính ghen ngay từ ngày còn thiếu nữ. Trong cung tuy không kể hết cung tần tài nữ, như cả vườn hoa, như cả núi gấm, vua Tùy chỉ được phép ngắm nhìn mà không được yêu thương đi lại với một người nào. Hôm ấy Độc Cô chẳng may nhiễm bệnh nhẹ, ở lì trong cung nghỉ ngơi. Vua Tùy nhân buổi không bị ai quấy phiền, với mấy nội thị đi hầu, lẻn thăm các cung, các viện, đến lầu Chi Thước, loanh quanh một hồi, lại trèo lên điện Lâm Phương đứng khá lâu. Thấy nào là tài nhân, thế phụ, tiệp dư, phi tần, thành hàng thành lũ kéo nhau qua lại, tuy gấm phủ đầy người, lụa khoác kín thân, ngọc ánh vàng soi, nhưng sắc đẹp thì quả chẳng thể vua ban. Hoa đào vốn ghét sắc đỏ, hoa lý ghen sắc trắng, nên vua Tùy ngắm nhìn mãi mà vẫn chẳng thấy một người nào vừa ý. Theo gót nội thị, vua Tùy đến cung Nhân Thọ, âu cũng là do duyên trời bày đặt khéo. Một cung nữ, tuổi còn ít, đang cuốn rèm châu, trông thấy vua sợ hãi buông rèm xuống, khuôn mặt thấp thoáng sau mành liễu rủ, đứng tần ngần, ngắm nhìn xuống, đưa vào bình phong gấm. Vua Tùy nhìn kỹ, chỉ thấy người đẹp mặt hoa, nét nguyệt, trăm xinh ngàn đẹp, quả là: 

 Gió đón xuân về hoa nở rộ 

 Ngạo nghễ ngọc lành lộ vẻ xinh 

 Hồ thu mặt sóng lung linh 

 Dáng như Thần Nữ, giật mình Đông Quân 

 Mắt ai sao hiện quên ngày rạng 

 Thùy liễu vương sương sáng lạt mờ 

 Đan thanh nét vẻ còn chờ 

 Đổi ngôi hoàng hậu, chẳng ngờ, vẫn thua! 

 Vua Tùy hỏi: . 

 - Người tiến cung khi nào. Sao không thấy bao giờ ra hầu hạ. 

 Cung nữ nghe vua Tùy hỏi vội quỳ thưa: 

 - Tiện thiếp là cháu của Uất Trì Quýnh, tự nguyện xin vào cung, ơn hoàng hậu xếp cho ở đây, không dám tự tiện ra vào, nên chưa bao giờ có dịp được hầu bệ hạ. 

 Vua Tùy cười: 

 - Người hãy đứng lên. Hôm nay hoàng hậu không có ở đây, tự tiện ra vào cung cũng chẳng sợ gì. 

 Đang chuyện trò thì nội thị mời về cung để ngự bữa chiều. Vua Tùy đáp: 

 - Ăn ở đây cũng được! 

 Không lâu, yến bày ra, vua Tùy gọi Uất Trì Thị cùng đứng hầu ăn uống. Uất Trì Thị tửu lượng vốn kém, vì vua Tùy mười phần xứng ý nên phải cố uống mấy chén. Đêm hôm ấy, vua Tùy ngủ lại cung Nhân Thọ. 

 Sáng hôm sau, vua Tùy đậy sớm coi triều, vô cùng hoan hỉ: 

 - Đêm nay trẫm mới được biết cái vui thú của việc làm thiên tử. Nhưng chỉ sợ hoàng hậu mà biết được thì xử trí ra sao đây? 

 ** 

 Lại nói Độc Cô tuy ốm, nhưng có bao giờ lại quên những việc ấy, không lúc nào không sai bọn tay chân tâm phúc theo dõi, nên đã có kẻ tâu hết mọi chuyện. Độc Cô nghe xong, máu ghen trào tận cổ, lập tức trở dậy, chẳng thấy ốm đau nữa, đem theo khoảng mười cung nhân, vẻ mặt đều dữ tợn kéo đến cung Nhân Thọ. Lúc này Uất Trì Thị cũng vừa mới rửa mặt chải đầu xong, đang vén tay áo xem những vết phong hoàng* đã sạch chưa, bỗng thấy Độc Cô cùng bọn cung nhân rầm rập như ong ập vào, Uất Trì Thị mặt xám như bùn, tay chân hoảng loạn như con hươu mới sinh, vội quỳ xuống đất. 

 *Theo "Từ Hải", thời Tùy Đường, trong cung thường dùng sáp ong trộn với phấn của bướm, gọi là "Điệp phần phong hoàng" làm mỹ phẩm bôi ngoài da. 

 Độc Cô về tới cung, cũng chẳng thèm giấu giếm gì, cho gọi ngay mấy mụ già chuyên làm những việc bắt bớ tra khảo trong cung đến, bọn này chẳng kể gì lưng ong, vóc liễu, mắt phượng mặt khác nào một đám mây đen xà xuống, dằn Uất Trì Thị ra, lôi ngược lôi xuôi, áo gấm, giải lụa tả tơi. Độc Cô vừa chỉ tay xỉa xói, vừa đay nghiến: 

 - Con tiện tỳ yêu quái kia! Mày có những gì tốt đẹp, mỹ miều, mà dám dùng bùa ma thuốc quỷ để mê hoặc nhà vua, làm loạn cả phép tắc trong cung của ta! 

 Uất Trì Thị run rẩy thưa: 

 - Kẻ hầu hạ này vốn bậc thấp hèn, đâu dám không biết đến pháp độ của hoàng hậu, mà dám mong tới sự đoái hoài của chúa thượng. Chỉ vì số đáng chết, chiều tối hôm qua bỗng chúa thượng giáng lâm, lưu lại ngự buổi chiều, sau khi say, mới ở lại trong cung. 

 Tiện tỳ này đã nhiều lần từ tạ, nhưng chúa thượng nhất định không nghe, tiện tỳ không biết làm thế nào, chỉ đành vâng theo. Chuyện này hoàn toàn là ở chủ ý của chúa thượng, tiện tỳ không dám can dự gì xin hoàng hậu thương mà tha cho tội chết. 

 Độc Cô đay nghiến: 

 - Mày là giống yêu ma. Đêm qua sướng như thế, mày đã ra vẻ ái ố mỹ miều, để lừa gạt rủ rê được cả nhà vua, không biết đến liêm sỉ. Nay lại còn khéo đặt bày lời nọ lẽ kia, để hòng phủi cho sạch phải không? 

 Rồi hét bọn tay chân: 

 - Đánh mạnh vào cho ta! 

 Uất Trì Thị cúi lạy 

 - Xin hoàng hậu tha mạng! 

 Độc Cô rủa: 

 - Chúa thượng yêu thương mày đến thế. Mày đi mà xin chúa thượng tha mạng. Sao đêm hôm qua không đem mạng mà tha, nay phải xin ta. Loại yêu ma như mày, ta chỉ mới sơ hở một lúc, mà mày đã lừa cướp vào tay. Hôm nay nhất định ta đánh cho kỳ chết, cũng còn ân hận là quá muộn, còn chưa hả cơn tức giận trong người ta. Sao lại có thể để sống cái gốc của việc phản loạn, để rồi “nuôi ong tay áo” mãi cho được. Chúng bay mau kết quả tính mạng nó cho ta. 

 Thật đáng thương cho Uất Trì Thị, mảnh mai, xinh đẹp là thế, sao chịu nổi gió dập mưa vùi, chả cần đến kiếm dài, dao sắc thì cũng đã hương tan, ngọc nát. Thật đúng là: 

 Duyên may những tưởng tháng năm dài 

 Sáng nở nào hay chiều đã phai 

 Một đêm ân ái, thôi rồi hết 

 Theo nước hoa trôi tận dạ dài. 

 *** 

 Lại nói, vua Tùy tan buổi triều, trong lòng vẫn mang đầy hoan lạc, tưởng lại cuộc vui tối qua, mới quay về cung Nhân Thọ để cùng ân ái với Uất Trì Thị. Vào tới cung, Vua Tùy thấy Độc Cô hoàng hậu sát khí đằng đằng đứng lên, còn Uất Trì Thị thì đã hoa tàn trăng lặn, nằm sóng sượt trên mặt đất, máu me đầm đìa, quần áo tả tơi, người đầy thương tích mới biết chuyện. Vua Tùy hoảng hồn vừa giận dữ, nhưng không nói được một lời, đi nhanh ra ngoài. Vừa may gặp một tiểu hoàng môn* dắt ngựa đi qua, vua Tùy liền lên ngựa, theo lối Vĩnh Cảng ra khỏi triều nội mà lòng chán chường phẫn nộ, những muốn vứt quách cả thiên hạ, tìm vào hang sâu, rừng rậm cho xong. 

 May gặp Cao Quýnh cũng vừa tan chầu về, Quýnh cố sống cố chết khuyên giải, hỏi rõ nguyên do. Vua Tùy đành quay ngựa trở về đại diện, cho gọi quần thần, đem chuyện Độc Cô đánh chết Uất Trì Thị kể lại, đòi thảo chiếu phế bỏ mụ già. Cao Quýnh tâu. 

 *Tiểu hoàng môn: Chức quan trong cung vua, thường là hoạn quan, lo việc xe ngựa cho vua. 

 - Chuyện này thì bệ hạ lầm rồi. Bệ hạ lan tâm khổ tứ vào hang hổ, xuống vực rồng, tốn kém không biết bao quân tướng, khí cụ, mới nhất thống được thiên hạ. Lúc này chính là lúc nghĩ đến việc trị nước, truyền lại cho con cháu, sao lại chỉ vì một người đàn bà mà vứt bỏ cả chín châu? 

 Vua Tùy vẫn chưa nguôi uất giận, Cao Quýnh phải khuyên giải bao lần, mới rời điện về cung. Độc Cô thì phần đang ốm, phần tức giận, phần lo nghĩ, kinh sợ đủ điều, nên bệnh ngày càng nặng, cứ nhắm mắt lại là thấy Uất Trì Thị hiện ra chửi mắng, khóc than đòi mạng, nên biến sang chứng kinh giản, ngày một trầm trọng, mấy tháng sau thì qua đời, tránh được chiếu phế truất ngôi hoàng hậu, lại vẫn được làm tang ma theo như lễ thường. Đời sau có người làm thơ tả tâm địa của Độc Cô như sau: 

 Con mẹ cũng ra chuyện bán mua 

 Yêu ghét thay lòng, đổi quách vua 

 Đừng cãi chết rồi, yêu ghét hết 

 Nhìn xem trăm họ nắng rồi mưa. 

 Từ ngày Độc Cô chết, nội cung vắng lặng. Vua Tùy ban truyền chỉ cho tuyển chọn trong cung tần, phi tử, tài nhân những kẻ đẹp nhất để hầu hạ. Chỉ ban ra, cung nữ ai cũng hy vọng dịp may được hưởng ân của thánh thượng, nhưng ba nghìn xuân sắc, mà chỉ riêng may một hai người. Tuyển khắp sáu cung chỉ được hai người: một là Trần Thị, hai là Sái Thị. Trần Thị vốn là con Trần Tuyên Đế, sinh ra tính tình đã rất ôn hòa, nhã nhặn, phong tư yểu điệu, thật là nhạn sa cá lặn, nguyệt thẹn hoa nhường. Sái Thị vốn quê ở Đan Dương, cũng chẳng kém vẻ kiều mị phong lưu. Vua Tùy được hai nàng, có lần nói. 

 - Ta già rồi. Lòng chẳng thích gì nữa, nay được hai khanh, cũng đủ vui cảnh trời chiều. 

 Vua Tùy phong Trần Thị làm Tuyên Hoa phu nhân, Sái Thị là Dung Hoa phu nhân. Cả hai đều dày ơn mưa móc, nhưng Tuyên Hoa phu nhân được chiều chuộng hơn nhiều. Từ đó vua Tùy ngày nào cũng vui chơi yến tiệc, so với những ngày sánh cùng Độc Cô thì thoải mái, sung sướng hơn nhiều. 

 Nhưng vua Tùy là một vị hoàng đế mở đầu cơ nghiệp nhà Tùy, vẫn còn giữ được ít nhiều đạo lý, tuy có hoan lạc yến ẩm trong cung, nhưng vẫn chú tâm đến công việc triều đình, những tờ chương tấu của trăm quan đều xem kỳ hết, mãi tới tận khuya mới đi nằm. Một đêm, đang ngồi dưới đèn, đọc các tấu chương, thấy người mệt mỏi, mới nằm dựa vào ghế, nội thị không dám kinh động, lặng lẽ túc trực bên bình phong. 

 Vua Tùy trong lúc mơ màng nửa tỉnh nửa mê, thấy một mình đứng trên kinh thành, bốn phía bao la, nhìn rõ là núi sông gấm vóc trải phía dưới, lòng vô cùng khoan khoái. Bỗng thấy trên thành hiện ra ba cây gỗ lớn, cành chi chít những quả, đang ngắm nhìn, lại nghe bên tai tiếng nước reo, cúi nhìn xuống thì kinh thành nước ngập mênh mông, sóng trào cuồn cuộn, cao ngang mặt thành. Vua Tùy vô cùng sợ hãi, vội bỏ chạy, quay đầu nhìn lại, nước dâng ngập trời. Vua Tùy vô cùng hoang mang thét một tiếng lớn, liền tỉnh mộng. Tả hữu vội vàng dâng trà thang. Vua Tùy uống liền mấy chén mới trấn tĩnh, nhớ lại rất rõ ràng từng chi tiết của giấc mộng, cho là điềm không lành. 

 Nên từ đó, vua Tùy lệnh cho coi sóc việc đê điều rất cẩn thận, khai sông, mở cống luôn được coi trọng, những mong trông nom như thế sẽ không thể nào xảy thủy tai nữa. Lại nghĩ kẻ gây nên thủy tai cho kinh thành có lẽ tên tuổi có ít nhiều dính với sự nước nôi, lụt lội, cần phải xem xét, theo dõi tỉ mỉ rồi trừ diệt kỳ hết, để không thể nào xảy ra chuyện giành ngôi, mất nước. 

 Cảnh mộng ích gì có với  

 Xem ra cũng vốn chuyện cùng thông 

 Thiên hạ mênh mông đều họa nước 

 Rồi ra đại nghiệp chảy về đông. 

 Vua Tùy vốn tính hay nghi hoặc, tin chuyện tướng số, điềm triệu, giờ thêm giấc mộng này, lòng càng lo nghĩ gấp bội. 

 Cuối cùng mộng triệu thực hư ra sao, xin xem hồi sau phân giải. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Ba

Lộ hùng tâm, Lý Tĩnh tế Tây Nhạc,

 Bịa sấm ngữ, Trương Hành hại Lý Uyên.

 Từ rằng: 

 Anh hùng chí khí 

 Tìm thẳng thần tiên cầu cát triệu mưa gió đầy trời 

 Chẳng nên rồng thật cũng loài rồng 

 Phao sấm gây oan 

 Mong hại Đường Công cùng Lý tộc 

 Tìm soi gốc Lý 

 Cười cây khô sao chẳng đâm chòi, lan hoa. 

 (Theo điệu "Giảm tự Mộc Lan Hoa") 

 Từ trước tới nay, việc lành dữ họa phúc của một nhà một nước quan hệ ở mệnh trời, nhưng phần không nhỏ cũng bởi người, đã có định số, thì phải có điềm triệu, nếu biết lo sợ mà tu tỉnh thì vẫn có thể chuyển họa thành phúc. Cho nên nói rằng mầm xấu do người sinh, nhưng người cũng có thể giảm, nếu lòng người vẫn ôm giữ sự đố kỵ, cố nuôi gốc loạn, thích sự giết chóc, khiến kẻ gian thừa cơ, nghĩ mưu hại người, thì mối lo vẫn đó, cái gốc của tai họa vẫn còn. 

 Giờ nói chuyện vua Tùy, mộng thấy nước lụt ngập kinh thành, trong lòng thầm nghi kẻ gây nên nỗi họa là kẻ mà tên họ có mang “bộ thủy", là họ chỉ về sự nước nôi. Trong triều lúc này, có một lão thần là Thành Quốc Công Lý Hồn, nguyên là huân lão của nhà Trần cũ nhà Trần đổ về hàng nhà Tùy, vẫn được giữ tước Thành Quốc Công như xưa. Vua Tùy bỗng nghĩ: "Chữ "hồn" là gồm chữ "quân" cạnh "bộ thủy", tước phong lại là Thành Quốc Công, "thành" lại cũng là kinh thành. Vả lại "quân" là chỉ việc binh, không phải người này gây họa thì còn ai nữa. Nhưng tuổi đã già, không còn đủ sức nắm binh quyền, chẳng thể làm nên chuyện gì, trừ phi điềm ứng vào con cháu của y mà thôi". Liền hỏi tả hữu: 

 - Lý Hồn có mấy người con, tên tuổi ra sao? 

 Tả hữu tâu: 

 - Tâu bệ hạ, con trưởng Lý Hồn đã chết, chỉ còn con út, tên là Hồng Nhi. 

 Vua Tùy nghe tên Hồng Nhi lại càng nghi hoặc, nghĩ: "Trong mộng ta thấy kinh thành có cây, cây là "mộc", cây có quả. Quả là con của cây, quả là "tử", "mộc" với "tử”, ghép thành chữ "lý". Nay nhà họ Lý lại có tên là Hồng, đúng như chữ "hồng" là lụt lớn, hệt trong mộng của ta. Đứa trẻ này mai sau không lợi cho nước nhà, nhất thiết phải trừ." 

 Vua sai ngay nội thị đem thủ sắc đến tận nhà họ lý, ban lệnh giết Hồng Nhi. Lý Hồn vì quân mệnh bức bách, không thể không theo. Đáng thương cho Hồng Nhi, vô cớ mà thiệt mạng, cả nhà gào khóc. Đời sau có người làm thơ than: 

 Văn Vương trên cao đài 

 Nằm mơ được tướng tài 

 Vua Sở Vu Sơn mộng 

 Dương Đài sánh cùng ai 

 Buồn thay Tùy Cao Tổ 

 Ác mộng sinh thủy tai 

 Giết người mong yên vị 

 Nhà Tùy đổ nay mai. 

 Vua Tùy nghi ngờ giết trẻ nhỏ nhà họ Lý, việc này truyền đi, làm kinh động cả chín châu. Có một người họ Lý, tên Tĩnh, hiệu Dược Sư, quê ở Tam Nguyên, túc trí đa mưu, tinh thông binh pháp, quen việc lên ngựa bắn cung, đáng bậc văn võ toàn tài, cha mẹ mất từ lúc nhỏ, được nuôi nấng bên họ ngoại. Hàn Cầm Hổ chính là cậu ruột của Lý Tĩnh. Cầm Hổ bàn binh pháp với Lý Tĩnh, thấy tài năng sớm phát của cháu, thường ca ngợi: 

 - Đáng nói chuyện binh pháp với Tôn Vũ, Ngô Khởi, không người này thì còn ai nữa! 

 Dù chưa làm lễ gia quan*, nhưng đã có trí lớn, thấy nhà Tùy dùng hình pháp tàn bạo, cho là thời vận của nhà Tùy chẳng còn được bao lâu, lại nghe vua Tùy đoán mộng nên giết người, Lý Tĩnh cười thầm nghĩ: "Bậc vua chúa không thể nào chết, nên dù có giết thế cũng chẳng ích gì”. Lại nghĩ: "Cứ như trong mộng thấy cây sinh quả, thì đúng là chữ Lý rồi, nước lụt ngập trời, là điềm thiên hạ loạn lạc lớn. Mai này người có được chín châu phải là người họ Lý". Từ đó Lý Tĩnh không khỏi nghĩ tới mình. 

 Lần ấy, bỗng có việc đi Hoa Châu, Lý Tĩnh phải qua đường núi Hoa Sơn, nghe nói thần núi này là Tây Nhạc đại vương rất linh ứng, Lý Tĩnh bèn sắm đủ đèn hương, tìm đến miếu bái yết, lại thầm khấn một bài sớ sau đây: 

 Lý Tĩnh áo vải, chẳng lường cuồng vọng 

 Sớ dâng trước điện, Tây Nhạc đại vương. 

 Tĩnh nghe. 

 Trên trong dưới đục, rõ chia trời đất lưỡng nghi 

 Ngày trắng đêm đen, vốn phân thần dân nhất đạo. 

 Lại nghe: 

 Thông minh chính trực, người vốn riêng theo 

 Thành trí cảm thần, trời cho yên vị. 

 Cúi trông: 

 Đại vương ngôi cao đức cả, uy trấn hiên ngang 

 Phép thiêng ngự trị bách thần, danh hùng tú nhạc. 

 Vậy nên: 

 Lập tượng xây đền, nghiêm giữ một phương 

 Sáng đức nổi danh, bốn mùa tế tự. 

 Tuôn mưa nổi gió, trên dưới nguyện theo 

 Chuyển dữ thành hiền, cửa muôn kẻ đến. 

 Tĩnh nay: 

 Tiến không đất dụng, thoái chẳng cứu dân 

 Thở than nào khác cá hèn ao cạn 

 * Gia quan: Lễ đội mũ cho đàn ông, từ 20 tuổi trở lên. 

 Đứng ngồi y hệt chim mất rừng thưa 

 Vũ trụ ngữa nghiêng, mịt mù xã tắc 

 Lòng những rầu rầu, chí luôn áy náy 

 Gian hùng đua nổi, quận huyện nát tan 

 Những mong thấy nghĩa dấn thân 

 Lại được mây chùi sấm quét 

 Chém kình nghê cho yên bốn biển 

 Cuốn lam chướng để sạch chín châu 

 Cứu vạn dân sống lại 

 Vớt muôn vật nổi chìm 

 Cũng chỉ là ứng thiên thuận thời mà hành động 

 Những mong cho trên ngóng dưới nhìn mà yên tâm 

 Bao phen lăm cầm kiếm vung gươm 

 Ý còn chờ mây lành rồng hiện 

 Dâng lòng trung nghĩa, nghiêng thân cứu thế 

 Mong thần chứng giám, dãi dạ can trường. 

 Tĩnh mong: 

 Mách dùm tiến thoái thời cơ 

 ỉ hộ phế hưng nguồn gốc 

 Chọn thời đua đức 

 Giống trống khua chiêng 

 Nếu như ba đài không ứng 

 Lẽ nào thần pháp còn thiêng. 

 Tĩnh này: 

 Trảm đại vương chi đầu, tìm lẽ phế hưng 

 Thiêu đại vương chi điện, truy đường tiến thoái 

 Cũng là chưa muộn 

 Xin thần chứng cho. 

 Khấn xong, lại lẩm nhẩm thử gieo một quẻ: “Ta là Lý Tĩnh, nếu có phận làm thiên tử, thì xin Đại Vương cho một quẻ”. Lạ lùng thay, cả hai đồng tiền đều dựng đứng trên nền điện. Lý Tĩnh hoang mang lại nhặt gieo lần nữa, vẫn như trước. Thấy vậy Lý Tĩnh nổi giận đùng đùng ưỡn ngực, đập bàn quát lớn: 

 - Lý Tĩnh này nếu không có đại phúc thì sinh ra thân này làm gì. Còn thần thông tuệ, đã hỏi là đáp, sao đã hai lần gieo quẻ, âm dương chẳng phân biệt. Nay ta lại gieo lần thứ ba nữa, nếu không hiển ứng rõ ràng, ta sẽ chém đầu, đốt miếu! 

 Nói xong lại gieo quẻ. Cả hai đồng tiền xoay tít một lúc rồi nằm yên, nhìn ra thì được quẻ dương. Lý Tĩnh thầm nghĩ: "Dương là tượng trưng cho vua, cũng là điềm lành vậy". Lý Tĩnh thu dọn xong xuôi, vái dài rồi ra khỏi điện. Lúc này những người có mặt, thấy Lý nói lảm nhảm, toàn những lời nửa điên nửa tỉnh, chê Lý khinh nhờn thần thánh, cũng có kẻ cho Lý là phường điên dại. Cũng là "yến tước sao hay hồng hộc chí", mà thôi. 

 *** 

 Lại nói Lý Tĩnh đêm hôm đó ở phương trượng mộng thấy thần nhân đội mũ, cầm giản, áo đen, đai nhỏ đưa cho Lý một tờ giấy vàng, nói: 

 - Ta là phán quan Tây Nhạc, vâng mệnh Đại Vương, đưa ngài tờ giấy này, sự nghiệp cả đời ngài, đều ghi rõ trong đó. 

 Lý Tĩnh cầm lấy, mở ra xem, chỉ thấy trên giấy viết: 

 Nam quốc hãy dừng lưu lạc 

 Tây phương sẽ gặp chuyện kỳ 

 Với người tơ hồng chân buộc 

 Việt phủ cưỡi phượng nhất thời 

 Đường đời đi tìm kim mã 

 Nên nhà nhờ ở dương cung 

 Cờ một cuộc biết chân long 

 Lấy trời Nghiêu nâng mặt nhật. 

 Lý Tĩnh xem mấy lần, cố nhớ kỹ. Phán quan nói tiếp: 

 - Mọi việc đều có số mệnh, không thể cuồng vọng, cũng không thể vội vã mà phải đợi thời cơ đến mới có thể làm, chọn chủ mà thờ, đừng lo rồi sẽ không phú quý. 

 Nói xong không thấy đâu nữa, Lý chợt tỉnh, mọi chuyện nhớ như in, thầm nghĩ: "Xem ra ta không có số thiên tử, chỉ làm được kẻ giúp đỡ một vị chân chúa nào đó thôi. Những lời thần phán, phải chờ ứng nghiệm dần”. Từ đó, Lý cũng nguôi dần ý muốn đồ vương đoạt bá, mà chỉ yên phận đợi thời, Chính là: 

 Giờ thời hãy tạm nhún nhường 

 Còn bằng thỏa chí, ai lường mai sau. 

 Một hôm, Lý Tĩnh đi thăm bạn ở vùng Vị Nam, nghỉ lại quán trọ bên đường, nhàn rỗi, cưỡi ngựa ra ngoài rừng đi săn cho khuây khỏa. Lúc này là cuối xuân đầu hạ, nhà nông đang bận rộn ngoài đồng, lại thêm lâu nay hạn nặng, ruộng nương khô cứng, nên lại càng khó nhọc. Lý lang thang mãi cũng đã mệt, mới xuống ngựa xin một bác nông phu nước uống. Bác ta thấy Lý có vẻ bậc quan nha, không dám coi thường, gọi vợ về nhà pha một ấm tràang đến mời Lý. 

 Lý uống xong, cảm tạ rồi lại lên ngựa đi, bỗng thấy một con thỏ chạy men sườn núi. Lý giục ngựa đuổi theo thỏ hết rẽ phải lại ngoắt trái, cứ lúc ẩn lúc hiện phía trước, Lý không tài nào đuổi kịp mới bắn một mũi tên, thỏ mang cả tên mà chạy, Lý lại càng cố, chẳng biết đã theo hết bao đường đất, thì không thấy thỏ đâu nữa, quay ngựa trở về thì chẳng còn nhớ đường, đành mặc “ngựa theo đường cũ" mà về. 

 Trời đã gần tối, Lý buồn phiền nghĩ: "Trời tối, đường nhiều ngã, biết tìm chỗ nào ngả lưng đêm nay"?. Đưa mắt nhìn quanh, thấy phía rừng xa trước mắt điện các nguy nga, Lý nghĩ: "Đường kia có nhà rồi, hãy tìm đến ngủ nhờ đêm nay". Nghĩ rồi giục ngựa nhằm phía trước mà đi. 

 Tới nơi, nhìn ra thì là một biệt thự lớn, lúc này trời đã tối, cửa lớn đóng chặt, Lý xuống ngựa gõ mạnh vào cửa, một người đầy tớ già ra hỏi. Lý đáp: 

 - Ta bị lạc trong rừng, trời tối chẳng tìm ra lối, xin ngủ nhờ một đêm nay. 

 Người đầy tớ già đáp: 

 - Các cậu chủ đi vắng, hiện chỉ còn Lão phu nhân ở nhà. Đợi già vào thưa lại, nếu phu nhân bằng lòng sẽ xin mời vào. 

 Lý đem ngựa buộc vào gốc cây, đứng dựa vào cửa chờ. Không lâu có tiếng ở bên trong gọi: 

 - Lão phu nhân mời khách vào. 

 Lý xốc áo bước vào, bên trong thấy đèn đuốc sáng trưng, tòa ngang dãy dọc, nhìn không khắp. Chỉ thấy: 

 Cột sơn cửa chạm, rèm rũ màn che 

 Trong nhà la liệt, quáng mắt của lạ vật kỳ 

 Trên bàn lấp lánh bầy đầy đồ chơi thức ngắm 

 Nàng hầu gót đỏ hàng hàng thềm dưới đứng hầu 

 Áo xanh áo tía, rực rỡ trước hiên 

 Chủ nhà nghiêm trang, bước bước điện trên ra đón 

 Rõ ràng nguy nga vương phủ 

 Ngỡ ngàng hổ mặt khách trần. 

 Phu nhân trông khoảng ngoài ngũ tuần, mặc áo tím, quần xanh lục, cử chỉ khoan thai, đầy vẻ vương giả, ngồi ngay trên sập lớn giữa điện, xung quanh hầu gái xúm xít đứng hầu, kẻ dâng khăn, đứa kính cẩn bưng lò hương, có người lại chấp ngọc như ý, cô thì cắp phất trần. 

 Lý Tĩnh bước lên thềm cúi lạy, Phu nhân khẽ đáp lễ rồi hỏi: 

 - Xin quý khách cho tường quý tính, vì sao lại lạc bước tới đây? 

 Lý Tĩnh đáp họ tên, kể chuyện đi săn, bắn thỏ lạc đường, xin nghỉ qua đêm, rồi hỏi thêm: 

 - Ơn phu nhân cho biết, biệt thự tráng lệ này là thuộc dòng họ nào? 

 Phu nhân đáp: 

 - Đây vốn là biệt thự của họ Long. Ta ở đây với con trai, đêm nay các cháu lại không có mặt ở nhà, đáng ra không tiện giữ khách, nhưng ngài lạc đường tìm tới, nếu từ chối, đêm hôm biết đi đâu, vậy nên tạm lưu quý khách, xin chớ lấy làm đường đột. 

 Bèn sai hầu gái, bày tiệc rượu đãi khách. Lý Tĩnh vừa đứng dậy cảm tạ đã thấy tiệc rượu bày ra, chén bát la liệt, đều là những thứ rất lạ mắt. Phu nhân khẽ khàng vòng tay mời khách vào tiệc, tự mình ngồi ở một bên, sai hầu gái rót rượu dâng khách. Lý Tĩnh thấy phu nhân nghiêm trang, lịch sự, hầu gái cung kính, sợ thất lễ nên không dám uống nhiều, mới chỉ vài chén đã đứng dậy cáo từ. Phu nhân lên tiếng: 

 - Ngựa quý của ngài, đã đem vào chuồng sai cho ăn uống cẩn thận. Phía hữu điện trướcbảo dọn sẵn giường màn, xin mời ngài đi nghỉ. Đêm khuya, nếu các cháu có về, người ngựa huyên náo, xin quý khách đừng giật mình, nghi ngại. 

 Nói xong, phu nhân quay vào nhà trong. Hầu gái dẫn Lý Tĩnh ra điện trước đi nằm, từ giường màn cho tới chăn gối đều cực kỳ hoa mỹ, Lý thầm nghĩ: "Họ Long thuộc dòng dõi nào mà phong lưu đến thế này, lại đãi khách rất chu đáo". Lại nghĩ: "Con trai phu nhân mà về nghe nói trong nhà có khách, có khi cũng muốn gặp, ta làm sao ngủ được." Lý bèn đóng cửa vẫn để nến cháy, ngồi đợi sáng. Nhìn lên giá sát tường thấy chất đầy các loại sách lớn nhỏ, dày mỏng bèn lấy ra mấy quyển xem cho đỡ buồn thì thấy toàn những chuyện dị kỳ về hà bá, long vương, cùng các loài thủy tộc, Lý chưa từng được đọc bao giờ. 

 Lý Tĩnh giở sách xem một hồi, khoảng sau canh hai, bỗng nghe ngoài cửa lớn có tiếng dõng dạc: 

 - Có thiên phù đến ra lệnh đi làm mưa. 

 Rồi lại thấy cảnh nhộn nhịp bên trong, với lệnh truyền: 

 - Mời lão phu nhân ra nghênh tiếp thiên phù. 

 Lý Tĩnh ngạc nhiên nghĩ: "Làm sao thiên phù sai làm mưa lại đến nhà này, không thể nào ngờ rằng nơi này lại không phải cõi người được!" Lòng đang nghi hoặc, hầu gái gõ cửa, trình với Lý rằng phu nhân có chuyện muốn thưa, mời khách ra gặp. Lý vội vàng ra cửa lên điện. Phu nhân từ tốn giảng giải: 

 - Ngài dừng ngạc nhiên, nơi đây thực là thuộc long cung, ta chính là Long Mẫu, hai con trai đều có tên trong sổ thiên tào, có nhiệm vụ phải làm mưa. Vừa có thiên phù ban lệnh: từ đây kéo sang phía tây, từ tây kéo xuống phía nam, trong vòng năm trăm dặm, hạn canh ba đêm nay phải làm mưa, cho đến tận mờ sáng mới thôi. Thời gian định rất rõ, không được sai lệnh. Khốn nỗi cả hai cháu lớn nhỏ đều đưa chị về nhà chồng rất xa, cháu thứ hai lại ở với con dâu ở tận hồ Đồng Đình, có gọi cũng không kịp, lão lại phận đàn bà, bọn đầy tớ thì không được làm việc này. Ngài vốn là bậc quý nhân, may lại có ở đây vào đúng lúc này, xin nhờ ngài tạm thay cho các cháu một chuyến, công việc xong xuôi, thế nào cũng xin có lễ tạ gọi là, vạn lần xin đừng từ chối. 

 Lý Tĩnh vốn là người can trường, nghe những lời của phu nhân cũng không hề ngạc nhiên, sợ hãi gì, chỉ nói: 

 - Tiểu nhân vốn người phàm, xác tục, làm sao lại có thể thay Long thần làm mưa cho được? 

 Phu nhân tiếp: 

 - Ngài nếu bằng lòng nhận làm cho, thì sẽ tự có cách làm mưa. 

 Lý Tĩnh thưa: 

 - Nếu quả như vậy, thì chẳng có điều gì khó khăn mà lại không làm thay được các tôn huynh được. 

 Phu nhân mừng lắm, sai bưng đến một chén rượu. Phu nhân đón lấy rồi đưa mời Lý Tĩnh: 

 - Xin mời ngài uống chén rượu này, nó có thể chấn được sấm sét gió mây, giữ được tinh thần lẫm liệt. 

 Lý Tĩnh đỡ chén rượu cầm tay, đã nghe hương vị khác thường, bèn dốc ngay một hơi uống cạn, bỗng thấy trong người sảng khoái, tỉnh táo lạ lùng. Phu nhân nói tiếp: 

 - Ngoài cửa đã sắp sẵn long mã, xin ngài lên ngựa, long mã sẽ đưa ngài lên mây, việc này cũng chẳng có gì đáng ngại. Bên yên có buộc sẵn một chiếc bình bằng lưu ly, bình chứa đầy nước trong, loại nước này gọi là "thủy mẫu”, cổ bình có gài sẵn một chiếc thìa nhỏ bằng vàng. Lúc nào ngài thấy long mã nhảy vọt cao hẳn, thì ngài rót một giọt nước vào thìa, đổ vào bờm ngựa, không được rót nhiều hơn, cũng không ít hơn. Đó chính là cách làm mưa, xin ngài nhớ kỹ, đừng lầm lỡ. Làm mưa xong, long mã sẽ tự quay về, không có gì phải lo lắng. 

 Lý Tĩnh nhất nhất vâng nghe, lập tức ra cửa, lên ngựa. Ngựa vừa cao, vừa to màu hồng thật kỳ lạ, bước mới được vài bước đã bay vọt lên từng không, cưỡi gió mà bay tới, êm ái nhẹ nhàng, càng bay càng cao. Một lát sau đã thấy tiếng sấm, ánh chớp từ chân ngựa phóng ra. Lý Tĩnh không chút sợ hãi, cứ nhớ đúng lời dặn của lão phu mà làm, chỗ nào thấy ngựa nhảy vọt, thì lại tưới một giọt nước lên bờm ngựa, cũng không biết là đã rót được bao nhiều giọt nước lên bờm cả thảy, thì đã thấy sắc trời dần dần sáng ra. Tới một xứ khác, thấy ngựa lại nhảy vọt, Lý Tĩnh lại tưới một giọt, nhưng trong ánh chớp sáng nhìn ra, chính là chỗ ban ngày Lý Tĩnh khát nước phải xin uống. Vì vậy Lý Tĩnh nghĩ thầm: "Ta rõ mắt thấy vùng này đồng ruộng khô cạn, chỉ một giọt nước thì làm nên chuyện gì. Nay làm mưa quyền ở tay ta, sao không rộng rãi thi ơn. Vả lại ta được người vùng này cho một ấm trà rất kính cẩn, càng nên cho thêm ít giọt mẫu thủy". Nghĩ thế rồi rót đến hơn hai mươi giọt tưới vào bờm ngựa. 

 Mọi chuyện đâu vào đấy, ngựa quay trở về. Đến gần cửa, ngựa từ từ hạ xuống mặt đất. Lý Tĩnh xuống ngựa vào cửa. Thấy phu nhân đầu tóc rối tung, ăn mặc sơ sài mặt mày thiểu não, ra đón Lý Tĩnh mà than: 

 - Ngài làm lỡ to việc của ta rồi, một giọt nước trong bình rót ra, thì cõi trần mưa đúng một thước nước, ta đã dặn mỗi lần chỉ rót một giọt, sao chỉ một nơi mà ngài rót tới hơn hai mươi giọt? Nay nơi đó nước dâng hơn hai mươi trượng, đồng lúa, nhà cửa dân gian đều đang chìm đắm. Ta chỉ vì quá coi thường, nhờ ngài, giờ sẽ bị trời phạt, lưng này sẽ bị đánh hàng trăm roi. Bọn trẻ sẽ phải tội. 

 Lý Tĩnh thất kinh, dậm chân hối hận, hổ thẹn không nơi giấu mặt. Phu nhân nói tiếp: 

 - Thôi thì cũng là chuyện số mệnh, ta nào có dám trách chi ngài. Ngài một phen khó nhọc, cũng phải được đền ơn. Nhưng châu ngọc, vàng lụa thì tất không phải thứ ngài chuộng, xin có thứ đặc biệt này tặng ngài là hợp hơn cả. 

 Phu nhân gọi ra hai cô gái đều mặc áo xanh, mặt mày cực kỳ xinh đẹp, nhưng một cô có vẻ đang cười, một cô có vẻ đang giận. Phu nhân nói: 

 - Thưa ngài, đây là một hầu văn, một hầu võ, xin ngài chọn lấy một, hoặc lấy cả hai cũng được. 

 Lý Tĩnh từ tốn cảm tạ : 

 - Tĩnh này đã phụ sự ủy thác của phu nhân, vì thế mà phu nhân và các con tôn huynh mang lụy, Tĩnh này áy náy vô cùng. Đã không bắt tội là may mắn lắm rồi, đâu dám nhận thưởng lớn thế này. 

 Phu nhân nói: 

 - Ngài không cần phải từ chối. Mau nhận rồi đi cho, nếu không bọn trẻ nhà ta về, sợ xảy ra nhiều chuyện không hay. 

 Lý Tĩnh nghĩ: “Ta mà nhận cả thì thật là quá tham, nếu chọn cô hầu văn, thì sợ lại quá yếu đuối". Nghĩ vậy, Lý bèn chỉ cô hầu võ mà với phu nhân: 

 - Nếu được nhận, xin phu nhân cho người này. 

 Phu nhân bảo người đầy tớ già dắt ngựa trả Lý Tĩnh, lại sai dắt thêm một con ngựa cho cô hầu v cưỡi. Cả hai từ biệt lên đường. 

 Lý Tĩnh ra cửa lên ngựa, cùng đi với người hầu gái xinh đẹp. Mới đi dược vài bước, quay đầu nhìn lại, thì đã không thấy biệt thự đâu nữa. Được vài dặm, người hầu gái nói: 

 - Vừa rồi nếu ngài nhận cả hai chúng tôi, thì ngài sẽ tài kiêm văn võ. Mai kia một mình ngài sẽ vào tướng văn, ra tướng võ, nay ngài bỏ văn mà lấy võ, ngày sau chỉ làm viên tướng võ nổi tiếng mà thôi. 

 Nói rồi rút trong ống tay áo ra một quyển sách, đưa cho Lý Tĩnh, nói tiếp: 

 - Cái này ngài có thể dùng để thắng được đối thủ, phò trợ chân chúa thành công vậy! 

 Người hầu gái cầm roi chỉ phía trước dặn Lý Tĩnh: 

 - Đường không còn xa mấy, sắp đến quán trọ của ngài. Mong ngài cẩn thận, giữ gìn. Phu nhân sai tôi theo ngài, chính là đưa binh thư cho ngài thôi. Về sau ngài sẽ được gặp gỡ với người đẹp nghiêng nước, nghiêng thành. Tôi vốn không phải bậc nữ nhi dưới nhân gian, không thể theo hầu khăn áo được. Xin từ biệt ở đây! 

 Nói xong, lập tức ngựa bay thẳng lên không trung, phút chốc đã không thấy đâu nữa rồi. Lý mười phần ngạc nhiên, hoang mang, giục ngựa ruổi mau, dần dần mới nhận rõ đường mình vừa đi hôm qua thì nay nước ngập mênh mông như biển lớn, chẳng một dấu vết người. 

 Lý vô cùng ăn năn, buồn rầu, tìm đường về quán trọ. Về đến nơi, Lý giở cuốn sách ra xem, thì toàn là những phép dùng binh, chế vũ khí, quân xa, giáp trụ, với những chỉ dẫn rất rõ ràng về hình dạng, cách thức, chính là: 

 Người thay thần thánh làm mưa gió 

 Nước ngập sinh linh khó chỗ nương 

 Tội này đâu phải tội thường 

 Binh thư vẫn được trời thương, lạ gì? 

 Lý Tĩnh từ khi được kỳ thư, binh pháp ngày càng tinh thông, sâu sắc. Chuyện không nói nữa. Hãy nói chuyện hồng thủy vừa rồi, lập tức các quan nha làm văn thư báo về triều đình, vua Tùy liền lệnh cho các ty tìm cách trị thủy, lại sai mở kho phát chẩn cứu tế cho trăm họ vùng thủy tai. Vua Tùy nhân việc lụt lớn chưa từng thấy, lại nghĩ: "Rõ ràng ta đã mộng thấy nạn hồng thủy này. Nay lại hiện ngay ở gần kinh thành. Thật đúng , là giấc mộng của ta đã nghiệm rồi?" Từ đó trong lòng cũng đỡ nghi ngờ lo lắng. 

 Tháng sáu, năm Nhâm Thọ thứ nhất*con thứ ba của vua Tùy là Thục Vương Tá, thấy Tấn Vương Quảng được phong là Thái tử, trong lòng rất hậm hực. Tấn Vương sợ Thục Vương sẽ nổi loạn, mới ngầm sai Dương Tố nói xấu Thục Vương. Vua Tùy nghe theo những lời dèm pha đó, bèn triệu Thục Vương về kinh đô, sai Dương Tố trị tội. Dương vu cho Thục Vương tội khốc hại trăm họ, vua Tùy chuẩn tấu phế Thục Vương làm dân thường. 

 * Tức năm 601 , sau công nguyên. 

 Duy chỉ Lý Uyên không sợ liên lụy, viết tấu can gián việc phế Thái tử Dũng và giáng Thục Vương, xin cho hai người này được làm vương ở tiểu quốc mà không phải giáng làm thứ dân. Vua Tùy tuy không nghe theo lời tấu này, nhưng cũng không trị tội thêm Thái tử Dũng và Thục Vương. Vì vậy Thái tử Quảng càng thêm oán ghét Lý Uyên, nên bàn bạc với bọn Trương Hành, Vũ Văn Thuật: 

 - Các ngươi có mưu kế gì, trừ được Lý Uyên. Ngôi Đông cung Thái tử của ta mà yên ổn, thì sự phú quý của các ngươi cũng chắc chắn. 

 Vũ Văn Thuật thưa: 

 - Nếu Thái tử nói chuyện gạt Lý Uyên sớm thì cứ ghép y vào cùng với hai kẻ vừa bị giáng xuống làm thứ dân, chí ít cũng sẽ bị diệt cả họ. Nhưng bây giờ thánh thượng đang tin y là người trung thực, nên khó mà lay đổ được y. 

 Trương Hành thưa: 

 - Điều này không có gì khó. Chúa thượng vốn rất hay ngờ vực, từ khi nằm mộng nước lụt ngập kinh thành, lòng lại càng lo lắng. Chuyện Thành Quốc Công Lý Hồn, vì ngờ ứng với giấc mộng nên chúa thượng đã bức hại Hồng Nhi. Nay hạ quan chỉ cần học cách của Tô Đỉnh người Bắc Tề giết Học Luật Quang, truyền lời đồng dao rằng Hồn với Uyên cùng đều họ Lý, tên đều có "bộ thủy" ỡ bên, nhất định chúa thượng sẽ tin, thì làm sao mà Lý Uyên thoát khỏi thân tan nhà nát cho được. 

 Thái tử nghe Trương nói, gật, đầu mừng rỡ. 

 Mưu gian ác hơn quỷ 

 Đêm tối bắn tên ngầm 

 Đời loạn người hiền tủi 

 Vô cớ họa đến tầm. 

 Trương Hành cho người phao lời đồng dao, trước là vùng quê, sau đó là phố chợ, lúc đầu còn ở cửa miệng trẻ con, sau đó là người lớn đều bàn tán to nhỏ khắp nơi: "Con họ Lý, họ Đào sẽ được thiên hạ”. Lại thêm: "Dương thị diệt, Lý thị hưng” không ai biết bắt đầu từ miệng người nào, ở đâu quân quan tra hỏi, bắt bớ cũng không thể dập tắt. Dần dần chuyện lan cả vào cung cấm. Tấn Vương cố ý tâu với vua Tùy: 

 - Thưa phụ hoàng, khắp trong thành ngoài nội đều truyền nhau những lời đồng dao không lành. Xin phụ hoàng ra lệnh cấm chỉ. 

 Vua Tùy nghe tâu thế, lòng càng lo lắng, Lý Uyên giờ cũng bị buộc vào một bó, đứng ngồi không yên. Nhưng còn may, nỗi ngờ vực của vua Tùy lâu nay vẫn mới chỉ đồn vào một thân và họ hàng nhà Lý Hồn. 

 Vào những ngày này, trong triều lại có thêm một kẻ chuyên nịnh hót vua Tùy để hãm hại kẻ khác, đó là Trung lang tướng Bùi Nhân Cơ. Y tâu với vua Tùy: 

 - Tâu chúa thượng! Thành Quốc Công Lý Hồn tên ứng lời đồng dao, gần đây nhân chuyện chúa thượng tứ tử Hồng Nhi, Lý Hồn mang lòng oán hận, những mong tính chuyện phản loạn. 

 Vua Tùy liền cho lệnh thẩm xét, thế là một lũ phụ họa được thời. Chỉ đáng thương cho Lý Hồn, cả họ ba trăm hai mươi người, đều bị đem ra xử chém giữa chợ. 

 Sau việc này, Lý Uyên cũng ít bị để ý một thời gian. Nhưng bọn Trương Hành vẫn chưa thôi bày mưu tính kế hăm hại Lý Uyên. Chúng mua chuộc hối lộ một thầy tướng số, tên gọi An Gia Đà, rất được vua Tùy tin. Lão này nhỏ to với vua Tùy, họ Lý vẫn đầy vương khí, khuyên vua Tùy hãy giết tất cả những kẻ họ Lý. May lại còn Thượng thư tả thừa Cao Quýnh can: 

 - Những lời đồng dao ấy, có thứ chẳng có quan hệ gì, cũng có câu rất gắn bó với vận mệnh của đất nước. Thật cũng có, giả cũng có. Không quan hệ như chuyện trời đổ mưa lớn với việc họ Cao Dương nhà Thương nổi dậy. Có quan hệ như chuyện cung dâu giấu trong giỏ là điềm nhà Chu suy. Là thật, chính là chuyện "nước Sở dẫu còn ba hộ, thì kẻ làm mất nhà Tần vẫn là nước Sở", sau này Sở Bá Vương chẳng diệt nhà Tần là gì. Là giả, những chuyện như núi không xô mà đổ, mặt trời, mặt trăng tự nhiên hiện ra. Rồi những lờiấm của Tô Đình khiến Hộc Luật Quang mất nước, những lời xiểm nịnh với Tần Thủy Hoàng: "Làm mất nước Tần là Hồ" thì không phải Hồ Hợi là gì. Tấn Tuyên Đế lấy bò thay ngựa, tức là chuyện Tiểu Lại Ngưu, cùng với Lang Nha Vương phi tử, tư thông với nhau sinh ra Nguyên Đế. Đạo trời ẩn hiện tinh vi không lường, muốn thay đổi ý trời, chẳng gì bằng tu sửa đạo đức, chứ không phải bởi những hình luật hà khắc. Nay vì những lời đồng dao ấy lại xôn xao, khiến thánh thượng lo lắng thì không gì bằng thánh thượng đừng cho những người họ Lý dự việc triều chính nữa, bãi chức những kẻ họ Lý nắm giữ quân cơ thì yên hết mọi việc thôi. 

 Cũng vì vậy mà Bồ Sơn Công Lý Mật, đang giữ chức thiên ngưu, vua Tùy thường nghi Lý có tướng làm phản, nhưng Lý lại chơi rất thân với Dương Tố, được Dương chu toàn cho, nay có lời của Cao Quýnh, Dương ngầm bảo Lý từ quan, những kẻ họ Lý khác theo đó mà xin về quê cũ. Lý Uyên cũng xin về quê ở Thái Nguyên dưỡng bệnh, nhà vua y cho, lại phong cho Uyên làm Thái Nguyên phủ thông thủ, tiết chế Tây Kinh. Thế là chỉ một lời tâu của Cao Quýnh, đã cứu được cả họ nhà Lý Uyên, âu cũng là chuyện đã mang mệnh vương giả thì không dễ mà chết được. 

 Thả cho hổ dữ khỏi chuồng 

 Chim ưng cao cánh thoát vòng lưới nguy 

 Quay nhìn cửa khuyết rụng rời 

 Tạm về vườn cũ lánh đời, náu thân. 

 Lúc này là tháng bảy, năm thứ nhất đời Nhân Thọ nhà Tùy. Thái tử nghe nói Lý Uyên từ nhiệm, nói với Vũ Văn Thuật: 

 - Trương Hành mưu kế kỳ diệu, nhưng cũng chỉ hại được Lý Hồn, còn Lý uyên thì lại giữ được thân, được gia quyến an toàn về quê. 

 Vũ thưa: 

 - Nếu Thái tử muốn tha thì coi như mọi việc thế là xong. Bằng thấy không thể tha được cho Lý Uyên, thì hạ quan có kế này, có thể kết liễu cả Lý Uyên lẫn gia quyến. 

 Thái tử cười nói: 

 - Sớm có được kế này, có phải đỡ hao tốn biết bao nhiêu tâm lực không? 

 Vũ thưa: 

 - Nhưng kế này lại chỉ đến bây giờ mới có thể dùng được. 

 Rồi ghé tai Thái tử nói mấy câu. Thái tử vỗ tay khen. 

 - Diệu kế! Việc này mà thành, ta sẽ đem tất cả đàn bà, của cải của y ban thưởng cho khanh. Nhưng y cũng là viên tướng quen chiến trận, vị tất đã dễ dàng diệt nổi. 

 Vũ thưa: 

 - Kế này của hạ quan, nhất định không nhục lệnh Thái tử sai khiến. Bất quá không giết được y, thì cũng làm y khiếp vía kinh hồn, không còn hơi sức đâu mà trở lại làm quan nữa. 

 Cả hai bàn định chi li kế sách, để hại bằng được Lý Uyên. 

 Không rõ tính mệnh Lý Uyên ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Tư

Thành Tế Châu hào kiệt lập thần,

 Sườn Tra Thụ Đường công gặp cướp.

 Thơ rằng: 

 Tri kỷ không ai, biết thế nào 

 Đầy trời mây kéo, chẳng trăng sao 

 Kiếm báu bụi đầy, thời chưa gặp 

 Than dài quán trọ, khách lao đao. 

 Bài thơ trên đây có tên là "Bảo kiếm thiên", nói cảnh người tài mai một, có cũng như không, bởi lẽ thiên hạ vô dạo, chẳng dung nổi kẻ hào kiệt, đến nỗi kẻ có tài như Lý Uyên, triều đình cũng không dùng. Lại còn bao kẻ anh hùng ở đầm ruộng, mấy người biết đến, lăn lóc giữa đám bụi đời, chờ thời mà hành động. Lòng trời đã quyết hưng Đường diệt Tùy, nên đã trữ sẵn hàng loạt sự việc làm tan nát nhà họ Dương Quảng, đã dành sẵn nhiều công thần, không chỉ tay đao tay thương, khai sáng cơ nghiệp nhà Lý trên chiến trận, mà còn là những cuộc gặp gỡ không ngờ, cứu họ Lý thoát khỏi hiểm nguy. 

 Một trong những anh hùng đó là Tần Quỳnh, hiệu Thúc Bảo, người Lịch Thành, thuộc Sơn Đông, ông nội là Tần Húc làm tới Vũ vệ đại tướng quân nhà Bắc Tề, cha là Tần Di làm tới Vũ vệ đại tướng quân nhà Bắc Tề, mẹ là Ninh Thị. Lúc Tần Quỳnh ra đời, ông nội là Tần Húc nói: 

 - Nay nhà Bắc Tề, phía nam thì đánh phá nhà Trần, phía Tây thì chiếm đất nhà Chu, việc binh đao không lúc nào ngừng, làm sao mà ông con cùng cháu nhà ta dựng được cảnh thái bình cho giang sơn. 

 Nhân thế, mới đặt tên tự cho cháu là Thái Bình. 

 *** 

 Lại nói, lúc Tần Quỳnh mới ba tuổi, vua Tề sai Tần Di đi giữ Tế Châu, Tần Di đem theo cả gia quyến đến nơi nhậm chức. Tần Húc thì hộ giá vua Tề ở Tấn Dương. Vua Tề hà khắc, dân chúng nổi dậy, nhà Chu kéo quân sang đánh, quân Tề thua to, vua chạy về Tế Châu sai Tần Húc và Cao Đình Tôn ở lại giữ Tấn Dương, cầm cự được khá lâu, nhưng rồi thành bị hạ, Cao Đình Tôn bị bắt, Tần Húc hy sinh trong lúc đánh nhau. Sử thần có làm thơ ca ngợi: 

 Quyết chiến khói lửa mù 

 Nhẹ thân báo quốc thù 

 Nuốt Ngô còn ôm hận 

 Dẫu chết chí không từ. 

 Vua Tề tới được thành Tế Châu, sợ có ngày quân Chu kéo đánh, nên sai thừa tướng Cao A Na hiệp sức với Tần Di tìm cách quyết giữ thành Tế Châu, còn mình bỏ chạy sang Phấn Châu. Cao A Na muốn mở thành ra hàng, Tần Di không chịu nghe: 

 - Triều đình sợ một mình Di này binh ít, lực mỏng, mới sai thừa tướng cùng coi giữ. Thời nào cũng vậy, việc giữ thành thì chính là phải biết cầm cự, làm quân địch nhụt chí. Thừa tướng vốn là bậc đại thần của triều đình, sao lại có thể ham sống mà sinh hai lòng? 

 A Na đáp: 

 - Tướng quân chưa quen nhìn thời thế. Quân nhà Chu đến, thế như chẻ tre, Tinh Châu, Nghiệp Châu thành trì kiên cố là thế, mà cũng chẳng giữ được, huống chi mấy bức tường mỏng này. Ta chịu ơn sâu của triều đình, nhưng còn có chữ tòng quyền thì sao, xin tướng quân đừng cố chấp quá thế! 

 Tần Di cương quyết: 

 - Cha con Tần Di này thề chết vì giang sơn. 

 Rồi sai phái quân lính quyết giữ thành. Tần Di nói với Ninh phu nhân: 

 - Nay chúa thượng sai Cao A Na cùng ta giữ thành, không ngờ A Na lại thành giặc bên trong, thế lớn đã hỏng. Ta thề chết với thành, mong được thấy tiên nhân dưới suối vàng, dòng dõi họ Tần sau này, chỉ trông cậy vào phu nhân. 

 Vừa nói xong thì đã thấy bên ngoài vào báo: 

 - Cao thừa tướng đã mở cửa thành đón quân nhà Chu vào. 

 Tần Di vội xách hỗn thiết thương chạy ra, đã thấy quân địch như một dòng sông dữ tràn vào. Tần Di kéo khoảng vài trăm quân tinh nhuệ, làm sao đương nổi, đánh cho đến khi máu thấm mấy lần áo bào, thương tích đầy người, quân lính mười không còn lấy một, Tần Di nhìn cảnh chiến trường thét lớn: 

 - Sức ta kiệt rồi! 

 Tay liền rút đoản đao, giết thêm mấy tên lính nhà Chu nữa, rồi Tần Di mới đâm vào cổ mà tự vận. 

 Cửa quan trăm lính chết 

 Tử chiến tướng không sờn 

 Thành quách rồi đổ hết 

 Nghĩa khí dậy giang sơn ! 

 Lúc này Ninh phu nhân thu thập gia tư, chạy khỏi Tế Châu, nhưng quân dân chạy loạn tắc nghẽn tất cả các đường mọi lối, kẻ hầu người hạ đều kinh sợ bỏ trốn cả, một mình phu nhân ẵm Thái Bình. Giữa lúc không biết chạy đâu thì may lạc vào một phố vắng, mọi nhà đều đóng chặt cửa, nhưng nghe trong nhà có tiếng trẻ con khóc, biết là có người. Ninh phu nhân liền gõ cửa, một người đàn bà ra mở, trong nhà còn thấy một đứa trẻ ba tuổi nữa. Người đàn bà ấy tự xưng là vợ góa của Trình, con nhỏ tên là Nhất Lang, chỉ có hai mẹ con, không còn ai khác. 

 Ninh phu nhân xin ở nhờ qua cơn loạn lạc, yên ổn rồi, nhờ mang theo được ít vàng bạc, Ninh phu nhân tìm mua được một ngôi nhà nhỏ, cũng ở một ngõ hẻm gần nhà họ Trình, hai nhà vẫn đi lại thường xuyên. Nhà Tề mất, nên chẳng ai đoái hoài đến vợ con kẻ tử tướng, sống lẫn lộn trong đám dân Tề. Hai đứa trẻ càng lớn càng khỏe mạnh, nghịch ngợm, đến năm hai mươi ba tuổi, thì suốt ngày sinh sự đánh nhau ngoài phố. ít lâu sau, nhân năm mất mùa, mẹ con Trình Nhất Lang về quê cũ Đông A, còn Ninh phu nhân cùng Thúc Bảo thì về ở Lịch Thành. 

 Đến tuổi trưởng thành Tần Thúc Bảo cao lớn khác thường, mắt to miệng rộng, đầu hổ, hàm én, rất nhác đọc sách, chỉ thích múa côn luyện kiếm, đánh quyền đấu vật, khắp thành đều nổi tiếng vì chuyện bênh vực kẻ yếu, trừng trị lũ ngang ngược, hành hiệp dù chết cũng không quản. Ninh phu nhân thường vừa khóc vừa khuyên con: 

 - Ba đời họ Tần, còn mỗi mình con, múa thương luyện quyền, vốn nghiệp tướng nhà ta, mẹ cũng không cấm, nhưng không thể khinh thường tấm thân, cậy sức mình, mà phải giữ hiếu đạo, nối nghiệp họ Tần. 

 Vì vậy dù sinh sự ngoài phố, chỉ nghe mẹ gọi một tiếng, Thúc Bảo liền vứt cả mọi sự trở về nhà. Mọi người thấy Thúc Bảo có sức lực võ nghệ hơn người, thừa nghĩa khí, lại rất có hiếu với mẹ, rất giống với Chuyên Chư người nước Ngô thuở xưa, nên đều gọi Thúc Bảo là Trại Chuyên Chư. Tần lấy người vợ họ Trương, nhà cũng có ít nhiều vốn liếng, Thúc Bảo thường lấy tiền bạc kết giao bạn bè, giúp đỡ kẻ khó khăn, hoạn nạn. 

 Lúc đầu thì làm bạn với những kẻ hào kiệt trong vùng: một người giữ chức đô đầu, chuyên việc bắt trộm cướp của thành Tế Châu, tên là Phàn Hổ, tự Kiến Uy; một anh học trò trong thành là Phòng Ngạn Tảo, một người có cửa hàng bán yên cương ngựa Giả Nhuận Phủ. Họ thường xuyên gặp nhau, khi thì cùng luyện võ nghệ, khi thì bàn binh Pháp, lại cùng nhau thăm tìm, tiếp đãi các bậc anh hùng ở nơi xa, chuyện này đâu phải chỉ một lần. Thường thì những kẻ không có bản lĩnh, vì đồng tiền mà quen biết nhau, anh thấy bạn hơn mình đã không chịu tiến cử bạn, mà còn dùng đủ thủ đoạn để chèn ép, bạn bè sẽ chê anh ta là hẹp hòi, chẳng ai phục, tên tuổi anh ta vì vậy cũng chẳng bao giờ có người biết đến. 

 Nói đến bản lĩnh của Thúc Bảo, ngoài chuyện cưỡi ngựa bắn cung, múa giáo thông thường, thì từ xưa tổ tiên họ Tần truyền lại một đôi lưu kim giản*, nặng tới một trăm ba mươi cân, Thúc Bảo múa đôi giản đó lúc đầu như một đôi mãng xà uốn xuống lượn lên, sau như một đám tuyết phất phới bay, thật chẳng thể ai bằng. Còn về chuyện kết giao, thì Thúc Bảo hết lòng giúp đỡ kẻ anh hùng lỡ vận, người hào kiệt gặp bước long đong, ngay cả Ninh phu nhân và con dâu Trương Thị đều là những phụ nữ sẵn sàng cắt tóc mình bán lấy tiền đãi bạn bè, mỗ thịt ngựa tiếp khách của con của chồng. Cho nên, khi nói đến võ nghệ của Thúc Bảo, cả một vùng Hà Bắc đều tôn xưng hàng đầu, khi nói đến đạo đức Thúc Bảo, ai ai lại cũng hết lời ca ngợi thực tình. Chính là: 

 Kỳ tài thiên hạ sợ 

 Trung nghĩa thế gian nghiêng 

 Đừng buồn không tri kỷ 

 Bên trời toàn đệ huynh. 

 * Giản: Binh khí Cổ bằng kim loại, thanh dài có bốn cạnh, có thể có cán. 

 Một hôm Phàn Kiến Uy tìm gặp Thúc Bảo nói: 

 - Gần đây cả một vùng Tề Lỗ mất mùa đói kém, trộm cướp như ong, không tài nào dẹp hết. Hôm qua, thứ sử Tế Châu gặp tiểu đệ bàn chuyện lập đội chuyên bắt trộm cướp, tiểu đệ có tiến cử đại ca, võ nghệ hơn người, anh hùng cái thế, nguyện xin nhường đại ca làm đô đầu tiểu đệ làm phó. Thứ sử bằng lòng ngay, bảo tiểu đệ đến mời đại ca. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Hiền đệ, thân không phải có làm quan mới quý. Ta vì theo nghiệp tướng nhà, đắc chí thì cầm đầu một đội người ngựa, trảm tướng đoạt cờ mở mang đất nước, để vinh phong phụ mẫu, ấm tử phong thê. Nếu bất đắc chí đã sẵn mấy ruộng xấu, vài gốc lê táo, có thể phụng dưỡng mẹ già, nuôi đủ vợ con. Lại sẵn mấy gian nhà nát, đủ rượu chè gà lợn, để cùng bạn bè tri kỷ cười đùa, đàm luận. Còn chí bay nhảy anh hùng, nếu chưa nguôi hẳn được, thì tạm ngâm thơ làm phú, đánh trống dạo đàn, vớ thương kiếm múa một hồi giải khuây, cũng đủ một đời. Việc gì phải cúi đầu làm tay chân cho bọn phú huyện ăn bẩn, phải nghe theo chúng sai phái. Bắt được cướp thì công của chúng cả, tìm lại được của thì chúng vơ vét, thành mình chỉ lao tâm khổ lực, làm giàu cho chúng. Không bắt được bọn trộm cướp, lại bị chúng vu cho tội thông đồng. Nếu cùng vào hùa với bọn phủ huyện thì lại thành phường giá áo túi cơm, phản nước hại dân. Làm làm gì, ta không đi! 

 Kiến Uy nói: 

 - Đại ca, làm quan thì cũng phải từ thấp rồi mới cao. Lập công thì cũng có nhỏ rồi mới có lớn. Ban đầu Hàn Tín cũng chỉ từ người lính mà nên. Đại ca không học cầm bút, thì sao có thể làm thơ viết phú. Đại ca quên rằng, các bậc tiền bối của nhà ta, không cần vào sự che chở của cha ông dòng dõi, mà chỉ cần một thương một đao làm nên sự nghiệp. Thậm chí chỉ để mưu sống thì cũng vẫn phải làm kia mà. 

 Buồn chẳng văn chương, tuyết, nguyệt, hoa 

 Đành theo đao kiếm nối nghiệp nhà 

 Ngọc lành ẩn núi ai người biết 

 Gặp vận rồi ra rạng sơn hà. 

 Đang nói chuyện, thì thấy Ninh phu nhân từ nhà trong ra, nói chuyện nhỏ to với Kiến Uy rồi bảo Thúc Bảo: 

 - Con quá khí khái. Nhưng Phàn đại ca của con cũng có lý đấy, con suốt ngày chỉ rong chơi không có việc gì nên hồn, cái này không thể lâu dài. Nếu nhận một chức quan nào đó, chí ít cũng có được một ràng buộc, chẳng còn thì giờ mà lêu lổng. Bắt cướp trừ trộm, lập ít công danh buổi đầu cũng là tốt. Ta từng nghe kể, ông nội con từ chức vệ sĩ của Đông cung mà làm nên. Con đừng câu chấp quá thế. 

 Thúc Bảo vấn hiếu thuận, nghe mẹ nói thế, đành phải nghe theo không dám cãi. Ngày hôm sau, cùng Kiến Uy đến gặp thứ sử. Viên thứ sử này họ Lưu, tên Phương Thanh, thấy Thúc Bảo: 

 Hiên ngang mây hiện đủ màu 

 Lẫm liệt tuyết phơi phong độ 

 Lưng hùm tay gấu vẻ uy nghi 

 Hàm én tai voi thân tuấn tú 

 Đôi mắt lấp lánh chi sao sa 

 Khác gì Quan Vũ chi bạch diện. 

 Lưu thứ sử hỏi: 

 - Anh là Thúc Bảo à? Công việc này của anh cũng phải nói cho rõ. Kiến Uy có xin nguyện nhường chức đô đầu cho anh, ta cũng nghĩ anh là một tay được việc, vậy nên ta xếp cả hai giữ chức đô đầu. Anh nên tận tâm mà làm việc. 

 Hai người tạ ơn lui ra, Kiến Uy nói: 

 - Đại ca, bọn trộm cướp ở châu này xem ra đều là bọn cưỡi ngựa giỏi, mình chỉ chạy bộ thì không bao giờ tóm được bọn chúng. Đại huynh cần phái sắm một con ngựa thật tốt mới được. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Nếu thế ngày mai hiền đệ đi cùng ta đến cửa hàng của Giả Nhuận Phủ xem. 

 Hôm sau Thúc Bảo gói một đùm bạc, cùng Kiến Uy tìm về phía tây thành, gặp ngay Nhuận Phủ ở nhà. Chào hỏi xong, Kiến Uy nói: 

 - Đại ca Thúc Bảo vừa ra nhận chức đô đầu, muốn đến đây để cho đôi chân thêm mạnh. 

 Nhuận Phủ nói với Thúc Bảo: 

 - Xin mừng đại ca được bổ chức này. Đó thật là chỗ có thể hái ra bạc, nhưng cũng nhiều chuyện rầy rà, đổi sống lấy chết, vu tội cướp của. Việc này, đáng ra đại ca không nên nhận mới phải. Còn nếu nhận, thì sợ rồi sẽ không còn nâng nổi đôi giản gia truyền của họ Tần nữa đâu! 

 Thúc Bảo gạt đi: 

 - Chuyện cũng rắc rối lắm, ta không bàn nữa. Không biết ở đây hiền đệ có con ngựa nào tốt không? 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Vừa dịp hôm qua bọn lái ngựa vừa dắt đến mươi con. 

 Mọi người cùng ra chuồng ngựa sau nhà, thì thấy nào là thanh tổng, tử lưu, xích thố, Ô truy, nào là hoàng phiêu, bạch dực, ngũ hoa, con hí, con nhảy, con cúi, con ngẩng, con ăn cỏ, con uống nước, chẳng khác gì một đám mây sắc màu sặc sỡ, thật đúng là: 

 Lá trúc hai tai dựng 

 Gió lùa vó nhẹ bay 

 Trận tiền nề sống thác 

 Muôn dặm tựa tầm tay. 

 Kiến Uy xem một hồi, chỉ một con vừa cao vừa to, khỏe mạnh nói: 

 - Con này tốt, con này tốt! 

 Rồi chọn con tử lưu màu đỏ. Thúc Bảo lại ưng con hoàng phiêu màu vàng. Nhuận Phủ khuyên: 

 - Xin mời hai đại ca cưỡi thử xem! 

 Hai người bèn dắt ngựa ra khỏi chuồng. Kiến Uy cưỡi con tử lưu, Thúc Bảo cưỡi con hoàng phiêu, rồi phóng ra khỏi cửa, bụi bay mù. 

 Xem ra con tử lưu có vẻ khí thế, hoàng phiêu có vẻ bình tĩnh hơn. 

 Đến lúc quay về, tử lưu có vẻ mệt, dưới chân có một lớp bụi, hoàng phiêu vẫn nhởn nhơ, chân không hề có bụi, lại vẫn thuần thục. 

 Nhuận Phủ nhận xét: 

 - Thì ra hoàng phiêu lại hay hơn. 

 Thúc Bảo quyết định lấy con hoàng phiêu. Lái ngựa đòi một trăm lạng bạc, Thúc Bảo trả bảy mươi lạng. Nhuận Phủ đứng giữa bàn giá tám mươi lạng, lái ngựa vẫn không chịu. Nhuận Phủ phải lấy tiền của mình cho thêm, giá cả mới xong, làm văn khế, rồi sửa soạn tiệc rượu ngay ở hàng Nhuận Phủ, uống nửa say nửa tỉnh, mọi người mới giải tán. Từ đấy về sau, công việc của Thúc Bảo đều có sức lực của con hoàng phiêu. 

 Ít lâu sau, phủ Tế Châu bắt được một nhóm cướp đường, bọn này tuy chưa cướp được của, giết được người, nhưng theo hình luật, cũng phải tội sung quân, một nửa đi Lộ Châu, một nữa đi Trạch Châu, đều thuộc phủ Bình Dương. Lưu thứ sử sợ sinh chuyện, nên cử hai đô đầu làm hai đội trưởng dẫn bọn tội phạm đi, Kiến Uy đi Trạch Châu, Thúc Bảo đi Lộ Châu. Thúc Bảo chuẩn bị hành lý, từ biệt Ninh phu nhân và Trương Thị lên đường, trước tiên về qua bộ Binh ở Trường An lấy công văn, sau cả hai cùng lên đường đi Sơn Tây. 

 Con đi nghìn dặm thẳm 

 Mẹ già một cửa trông 

 Níu áo ân cần dặn 

 Cá nhạn đừng thong dong. 

 Không nói chuyện Thúc Bảo phải đi giải bọn tội phạm nữa. Hãy nói chuyện Lý Uyên nhận thánh chỉ về làm Hà Bắc đạo hành đài Thái Nguyên quận thủ, Thánh chỉ thật chẳng khác gì lệnh xá tội, Lý Uyên vội thu thập hành trang lên đường. Trước tiên, Lý cho gọi tất cả gia đinh, tụ tập ngay dưới thềm đài bán nguyệt, mọi người đều kéo tới bằng hết, Lý ngồi ngay trên thềm, nhìn thuộc hạ quen thân một lượt nghĩ đến cả bọn lâu nay lao dao, vất vả, Lý rơi nước mắt mà nói: 

 - Ta thực cũng chỉ mong làm quan ở Trường An thì còn giúp được các ngươi mở mang mày mặt với dời. Không ngờ có những lời đồng dao, nên ta phải quay về quê cũ. Các ngươi lâu nay vẫn ở dưới trướng ta, nay thì tùy lựa chọn. 

 Lý Uyên ngày thường đãi mọi người rất ơn nghĩa, nên gia đinh nghe nói thế, ai cũng sụt sùi, giọt ngắn giọt dài. Lý thấy vậy nước mắt cũng khó cầm, nhưng rồi Lý cố nén, khuyên mọi người: 

 - Các người không nên thở than làm gì. Nay ta không ở chức cũ nữa, có đem tất cả đi cũng chẳng biết giao việc gì cho xứng cả. Nay ta có hai đường, tùy các ngươi: hoặc ở lại Trường An, lãnh ruộng nương của ta mà cày cấy, sinh sống qua ngày, nếu đã có nhà cửa. Còn nếu ở Trường An mà không có nhà cửa thân thích, thì hãy cùng ta về Thái Nguyên, giơ thì cao, hạ thì thấp, thế nào rồi cũng có cách sinh sống. 

 Trong số tay chân, có nhiều kẻ muốn theo, nghe thấy Lý Uyên nói thế, liền thưa lớn: 

 - Chúng con đều tình nguyện đi theo đại nhân. 

 Đông người cũng phiền, không rõ ai muốn đi, ai không. Lý Uyên vốn mưu lược, đời nào lại chịu bó tay trước chuyện nhỏ này, bèn lên tiếng: 

 - Giờ ta chia làm hai nhóm. Nhóm đi Thái Nguyên thì đứng về phía bên đông. Nhóm ở lại Trường An đứng sang bên phía tây, đâu vào đấy rồi, ta còn có chuyện muốn nói. 

 Lý Uyên miệng thì nói thế, còn trong lòng thầm nghĩ: "Bọn theo về Thái Nguyên, cuối cùng cũng chẳng bao nhiêu”. Nào ngờ phần lớn đều nguyện đi Thái Nguyên, có kẻ đã đứng bên phía tây rồi, nghĩ thế nào rồi lại chạy sang phía đông, so ra thì số ở thềm đông nhiều gấp hai số ở thềm tây. Bọn còn lại ở thềm tây lúc này không khỏi băn khoăn tính toán: ở lại Trường An, không còn được sự che chở của Lý đại nhân, nhưng về Thái Nguyên, thì thân bằng cố hữu, quen thuộc lâu nay, chỗ buôn bán, nơi công việc, làm sao mà đem theo được. Lý Uyên hỏi nhóm này: 

 - Các người đều muốn ở lại Trường An sao? 

 Một viên quan nhỏ tiến lên thưa: 

 - Tiểu nhân ơn được đại nhân nâng đỡ, cũng mong được tiến thân. 

 Những kẻ khác, kẻ thì kể có vốn liếng, có cửa hiệu buôn bán ở Trường An, người thì xin nhận ruộng nương của Lý Uyên ở Trường An, hàng năm nạp hoa lợi. Lý nghe xong, sai đem sổ sách, rương hòm ra, không kể nam nữ, già trẻ, cứ một người phát cho hai tấm vải, một đỉnh bạc. Thưởng xong, còn dặn dò thêm: 

 - Ta không còn ở Tràng An, các ngươi ở lại cũng nên cẩn thận, im hơi lặng tiếng, giữ lề thói sinh hoạt lâu nay. Hãy nhớ kỹ lời dặn của ta. 

 Bọn này lạy tạ ra đi. Lý Uyên lại quay về phía bọn đứng ở thềm phía đông hỏi: 

 - Các ngươi quyết theo ta về Thái Nguyên cả sao? 

 Tất cả kéo lại vây quanh Lý Uyên thưa: 

 - Tất cả chúng tôi cùng vợ con đều nguyện theo đại nhân về Thái Nguyên. 

 Lý Uyên lại sai giở sổ sách, phát cho mọi người lương thực, quần áo, tiền bạc, đầy đủ hành trang đi đường, lại dặn không được sách nhiễu dân chúng, mua bán phải sòng phẳng, nếu để dân chúng kêu ca, sẽ trách phạt không tha. Sắp đặt xong xuôi, Lý mới quay vào nhà trong, thì đã thấy Đậu phu nhân đến nói với chồng: 

 - Giờ được về quê, thì quả là may mắn. Nhưng chỉ ngại thiếp đã đến tháng thứ sáu rồi, đường núi dốc đèo, xe ngựa lên xuống, sợ không yên ổn, phu quân chờ cho dăm hôm, nửa tháng nữa có được không? 

 Lý Uyên giảng giải: 

 - Phu nhân thử tính xem: Chúa thượng da nghi, xung quanh lại nhiều bọn đơm đặt, lúc nào cũng gào đòi giết sạch họ Lý. Ở lại lúc nào là như ở trong hang cọp lúc ấy. May được thế này, dẫu có chết cũng về quê mà chết. Phu nhân không nhớ chuyện Lý Hồn sao, cả nhà Lý Hồn chỉ mong được về quê mà bây giờ đành về trời cả rồi. 

 Đậu phu nhân yên lặng không nói, chuẩn bị hành lý lên đường, Lý Uyên từ biệt bạn bè, đồng liêu, vào từ tạ vua Tùy, rồi cùng Đậu phu nhân và con gái cành vàng lá ngọc vừa mười sáu tuổi, ngồi xe có đệm êm lên đường. Có em họ Lý Uyên, Lý Đạo Tôn và con trai cả Lý Kiến Thành cưỡi ngựa kèm sau xe. Gia đinh khoảng trên bốn chục người, đều là những kẻ khỏe mạnh, can đảm quê vùng Quan Tây, cung giương sẵn, kiếm tuốt khỏi vỏ, khí thế oai nghiêm theo hộ vệ. 

 Trông Trường An, nhớ những ngày 

 Thân danh chìm nổi, trời đầy mây đen 

 Người đời rặt kẻ bon chen 

 Gió tung mưa táp, nhiều phen sững sờ. 

 Lúc này là giữa tiết thu, Lý Uyên chọn ngày tạnh ráo ra khỏi cửa thành, lên đường rất sớm. Kẻ đưa tiễn cũng không nhiều, chỉ vài người bạn thân uống mấy chén rượu tiễn hành, Lý cũng không dám nói gì đến chuyện quốc gia, chỉ ngắn ngủi vài lời cảm tạ bạn bè rồi từ biệt lên đường. Người ít, ngựa khỏe, nên chẳng ao lâu đã cách Trường An hơn hai mươi dặm. Quãng này vốn có tên là sườn Tra Thụ, người qua kẻ lại, khói bếp ngày càng thưa vắng, xa xa thấy một vách núi, chen chúc rừng cây rậm rạp, đầy vẻ âm u, nguy hiểm. 

 Vợ chồng Lý Uyên buộc phải thận trọng, không thể đi nhanh hơn, mấy chục gia đinh cưỡi ngựa, hộ vệ chung quanh không dám rời một bước. Đạo Tôn cùng Kiến Thành đi trước với mấy gia đinh, cách xa cả đoàn khoảng trên dưới một dặm, Kiến Thành đội mũ tử kim, khoác áo bào đỏ. Đạo Tôn thì đội mũ vải cứng màu lục, mặc áo bào màu đen bằng vải gai, phía trước có thêu một đóa hoa mẫu đơn lớn, vai lại khoác thêm một tấm khăn choàng, thêu cảnh chim cắt cổ long kim đang tha một con thỏ, chân mang giày trắng. 

 Phía chân núi bỗng thấy một người dáng to lớn khỏe mạnh, lấp ló rồi mất hút vào rừng cây. Nếu không có bọn Đạo Tôn đi trước, mà Lý Uyên với gia quyến cùng một lúc chui vào rừng, không có chuẩn bị vừa phải trông coi hành lý, vừa phải giữ gìn gia quyến, thì không sao tránh khỏi tổn thất, mấy người đi trước đã báo động được cho cả đoàn. 

 Vốn là Vũ Văn Thuật sai sẵn người ngựa, từ giờ dần* đã ra khỏi kinh thành, chờ lâu mới thấy một đoàn người ngựa tiến vào rừng, có người mặc áo bào ra dáng quan viên, thêm một chàng trai trẻ đúng vẻ công tử con quan đại thần, đinh ninh là gia quyến Lý Uyên, nên sau một tiếng thét lớn làm lệnh, cả bọn xông ra, ai nấy đều khăn trắng trùm kín đầu, mực đen bôi đầy mặt, người hùng hổ, ngựa dữ tợn, cầm toàn thương dài, đao lớn, gào thét ầm ĩ. 

 - Thằng khốn không râu kia, đem ngay tiền mãi lộ ra đây! 

 *Giờ dần: trong khoảng 3 đến 5 giờ sáng. 

 Kiến Thành thấy vậy sợ quá, thúc ngựa quay chạy thẳng. Đạo Tôn tuy cũng giật mình, nhưng vẫn cố ý giữ bình tĩnh lên tiếng quát: 

 - Chúng bay có lẽ đã được uống mật gấu, hai tai vểnh lên như hai cái gầu tát nước, đến nỗi không biết ông nội chúng bay là người Lý phủ ở Lũng Tây hay sao mà dám ngăn đường chặn lối. 

 Nói rồi rút dao lớn bên lưng mà chém tới, mấy gia đinh cũng giơ cao đoản đao xông vào đánh. Còn Kiến Thành nằm rạp trên mình ngựa bỏ chạy, vừa thấy xe ngựa của Lý Uyên đã vội la lớn: 

 - Nguy to rồi, nguy to rồi! Bọn cướp phía rừng đang vây kín thúc phụ rồi! 

 Vừa mừng thân thoát khỏi hang hùm 

 Thì khổ chân sa vào ổ sói. 

 Lý Uyên nghe xong tức tối: 

 - Sao còn trong đất kinh thành mà đã có cướp là làm sao? 

 Rồi nhảy xuống xe, Lý sai phái: 

 - Các người chia làm hai đội, một nửa chạy lên tiếp viện cho Đạo Tôn, một nửa giữ gìn gia quyến, xe ngựa, đưa về phía sau, chỗ có làng xóm dân chúng mà đóng giữ. 

 Lý Uyên tự mình cất mũ Trung Tĩnh, thay bằng một mũ vải cứng, cởi y phục đi đường, mặc áo vải gai, bên phải có ống đựng tên, bên trái dắt cung, tay giơ thiên phương họa kích, cưỡi ngựa bạch long, dẫn hơn hai mươi gia đinh, phi như bay về phía rừng, thì đã thấy bốn năm chục tên cướp, vũ khí trong tay đang vây kín Đạo Tôn. Đạo Tôn cùng mấy gia đinh, đều cầm đoản đao, cố chống đỡ. Lý Uyên muốn bắn, nhưng lại sợ trúng người nhà, nên đành phải thúc ngựa xông vào thét lớn: 

 - Lũ cướp này ở đâu, sao coi thường cái chết mà đón đường quân quan ta. 

 Mới nghe, cướp cũng hoảng sợ, đã vội dồn lại thành một vòng, Lý Uyên cùng gia đinh lập tức xông vào cùng Đạo Tôn kết thành một khối. Đến khi nhìn ra, bọn cướp thấy viện quân kéo tới cũng chỉ hơn hai chục người ngựa, bọn này lấy lại được tinh thần. Vả lại việc chủ lệnh là hại Lý Uyên, nay thấy Lý tới, lẽ nào lại bỏ chạy ngay, vì vậy chúng lại giơ thương múa bổng vào, vây Lý cùng bọn gia đinh vào giữa. Chính là: 

 Hạng Vương cậy sức nâng nổi đỉnh 

 Nhưng ách Ô Giang liệu thoát không? 

 Không biết Lý Uyên làm thế nào mà thoát khỏi vòng vây, xin xem hồi sau sẽ rõ. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Năm

Tần Thúc Bảo giữa đường cứu Lý công,

 Đậu phu nhân trong chùa sinh thế tử.

 Từ rằng: 

 Trời đất vô tình 

 Nam nhi hữu chí 

 Xưa ôm mộng vá trời lấp biển 

 Ứng, chiên* giữ chí xông tầng biếc 

 Loan phượng cánh rù trong gai góc 

 Tình rầu rầu 

 Hận thăm thẳm 

 Hai mái đầu 

 Lửa lòng nào biết thuở nào nguôi 

 Thân hèn những muốn dâng tri kỷ 

 Tha hương chẳng ngại chợ Hàm Dương 

 Rửa phấn sơn khôn rửa tiếng danh 

 Bất bình bao thuở sạch can trường 

 Hận chừ xuôi 

 Chí chừ lặng 

 Lòng chừ nguôi 

 Theo điệu "Thiên thu tuế dẫn" 

 *Ửng, chiên: tên hai loại chim dữ, mạnh, chuyên bắt các chim khác ăn thịt. Thường được nuôi làm chim để săn. 

 Chuyện sống chết, lợi hại trên đất trời này chẳng gì không phải số mệnh, lẽ trời vẫn có nhưng không hình thù, sấm sét đùng đùng giận dữ, bất ngờ khó đương nổi, những lúc ấy đành phải chờ kẻ anh hùng đội trời đạp đất, cứu khốn phò nguy. 

 Lúc đầu Đường Công cũng nghĩ đây chỉ là lũ cướp đường tầm thường, thấy Đường Công xuất hiện thế nào bọn chúng cũng kinh sợ mà chạy biến. Không ngờ chính lại là lính tâm phúc của Đông cung do Vũ Văn Thuật sai đi, đều được chọn kỹ trong đám tinh thông võ nghệ, sẵn sàng xả thân vì chủ. Bọn cướp đường tầm thường, nếu thấy không lợi thế thì cứ thế bỏ chạy chẳng gì ràng buộc, nhưng bọn này vâng lệnh Vũ Văn Thuật mà hành động, nếu không giết được Đường Công cùng gia quyến, thì trở về biết thưa với họ Vũ ra sao, vì vậy chúng phải liều mạng xông vào. Chỉ tính riêng về quân số chúng cũng đã đông gấp hai lần số gia đinh của Đường Công, nhất tề vây kín Đường Công và gia đinh vào giữa, cứ thế lăn xả vào đâm chém. 

 Bốn mặt mây sầu mù mịt 

 Đầy trời sương lạnh giăng giăng 

 Trống nện rầm rầm, pháo nổ ran 

 Trời soi rõ mặt, giáo sáng loáng 

 Tướng đối tướng, như thiên thần địa quỷ tranh giành 

 Ngựa đấu ngựa, như rồng biển, hổ núi đoạt miếng 

 Ngựa cưỡi là: ngàn giải trãi, ngũ hoa thông, tủ sất bát, hỏa long câu, lục truy thông, lưu kim quai, chiến dạ bạch, ngọc đào dủ, mãn tiêu mã, đích lư mã 

 Con nào cũng như rồng thiêng nhẹ cưỡi, ngựa thần cất vó 

 Sắc trắng như vạn đóa hoa lê nổi sóng 

 Sắc đỏ như nghìn bông hồng hạnh đua tươi 

 Sắc xanh như sương mù giăng núi 

 Sắc vàng như mây nổi che trời 

 Tay múa kiếm là: tùng văn đao, tang môn kiếm, hòa tiêu thương, phương thiên kích, ngũ minh san, tuyên hoa chỉ, sâm kim chùy, tất ngạn qua, lưu kim đảng, đảo mã độc 

 Cái nào cũng: kiếm sắc như gươm, mũi giơ sáng tuyết 

 Phất phới như vạn ngọn thần đao cùng múa 

 Cuồn cuộn như muôn trùng sóng cả đều dâng 

 Ráng bay chớp giật, kiếm kích ngang trời 

 Sao rời nguyệt lặn, qua mâu chói mắt 

 Khác nào biển lật trời nghiêng 

 Chỉ để tao thua mày được. 

 Hai bên quần nhau từ giờ thìn* cho mãi đến lúc mặt trời sắp ngả về tây. Đường Công trong lòng càng lo cho vợ con, nên quyết mở một đường máu thoát khỏi vòng vây, nhưng đánh phía đông thì lũ giết người che kín phía đông, trở phía tây, lũ chúng lại kéo đầy phía tây mình tuy chưa mang một thương tích nào, nhưng thân thì khó thoát, thỉnh thoảng lại thầm nhắc gia đinh giữ gìn vợ con, không được liều mạng. Dù cẩn thận, giữ gìn thì bọn Đường Công càng ngày càng yếu thế, thế nguy như ngay trước mặt vậy thôi. 

 Nhưng số họ Lý vốn có kẻ cứu mạng. Lúc ấy, Tần Thúc Bảo và Phàn Kiến Uy từ Trường An giải bọn phạm nhân vừa kịp đến cửa Đồng Sơn, đang đi qua Tra Thụ Cương, cả hai nghe trong rừng tiếng hò hét, tiếng binh khí chiêng trống rầm trời, vội trèo lên gò cao nhìn, thì thấy năm bảy chục lũ giết người đang vây kín Đường Công vào giữa. 

 * Giờ thìn: khoảng từ 7 - 9 giờ. 

 Họ Tần bèn nổi với họ Phàn: 

 - Thật là vùng núi hoang này, trông về phía Hà Nam Sơn Đông đều mờ mịt, quả là chốn đắc địa cho bọn cướp, mặc dù chỉ mới cách kinh kỳ chưa quá hai mươi dặm đường. Thế mới biết bọn này thật to gan lớn mật. 

 Họ Phàn chi đám Đường Công trả lời: 

 - Đám người đang bị vây kia, dáng cũng là quân quan gì đấy, nhưng "quả bất địch chúng" xem ra có vẻ mệt mỏi, yếu thế. Trong sáu phủ của tỉnh Sơn Đông ta, thường ca ngợi là Trại chuyên chủ, nào phải chỉ vì chuyện bất bình ở vùng Sơn Đông mà ra tay. Nay giữa đường gặp việc nghĩa, sao nỡ bỏ qua. Xin đại huynh hãy dùng bản lĩnh cao cường của mình, giúp họ một trận, để thiên hạ một phen thấy vẻ trượng phu ở đại huynh. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Hiền đệ, ta cũng có ý đó. Nhưng chỉ sợ hiền đệ không chịu giúp ta. 

 Họ Phàn hỏi: 

 - Tiểu đệ đã khuyên đại huynh ra tay, sao đại huynh còn nói chuyện giúp đỡ gì nữa. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Nếu đã như vậy, hiền đệ phải giải mấy phạm nhân xuống núi, ra tận ngoài cửa quan, tìm chỗ nào đó ngồi chờ ta. 

 Họ Phàn hỏi: 

 - Tiểu đệ ở đây, còn có thể giúp đại huynh một tay, sao đại huynh lại bảo tiểu đệ đi trước? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Một mình ta cũng có thể dẹp tan đám cướp này, hiền đệ cũng muốn giúp ta một tay nữa, thì đám phạm nhân kia, lấy ai trông coi? 

 Họ Phàn đành trả lời: 

 - Xin đại huynh hãy thận trọng. 

 Nói rồi, Kiến Uy giải đám phạm nhân đi trước. Còn Thúc Bảo buộc thật chặt lại chiếc mũ Phạm Dương, xem lại giải áo, thắt lưng, nhảy lên ngựa, giơ cao giản, lựa theo đường núi lao xuống. Chẳng khác gì "Mãnh hổ mới rời hang, gầm vang trăm thú sợ", Thúc Bảo vừa phi như bay, vừa thét lớn. 

 - Lũ cướp không được vô lễ, có ta tới đây! 

 Tiếng thét dữ dội khác nào sấm mùa xuân, sắc nhọn khác nào ánh chớp phóng tới. Thấy chỉ một người một ngựa, nên bọn giặc cướp cũng chẳng hoang mang, mà Đường Công cũng không tin là có thể giúp được gì cho mình. Bọn cướp đang say sưa vây Đường Công, chờ cho Thúc Bảo tới gần, mới thấy có hai tên ra đối địch. Bọn này vì đánh nhau từ sáng đã mệt mỏi, gặp phải đối thủ như Thúc Bảo, bản lĩnh cao cường dũng mãnh, khí thế đang hăng hái, vũ khí lợi hại, nên vừa mới vài hiệp, cả hai tên lính đều ngã ngựa. Thấy vậy, cả bọn cướp la thét ầm ĩ, bỏ Lý Uyên, vây lại đánh Thúc Bảo. Thúc Bảo không chút sợ hãi, cứ điềm nhiên múa tít hai ngọn giản. 

 Đao qua thương lại giằng co 

 Ngựa mỏi người mệt trời chiều 

 Ngựa mới đến 

 Cướp chạy tứ phía 

 Giản mới giương 

 Núi sông lạnh gáy 

 Mịt mù bụi bay che mặt trời 

 Rồi tung ngựa chạy cày đất núi 

 Giao long rời vực thẳm 

 Hồ thỏ trốn hang sâu. 

 Trước đó bọn cướp ỷ đông người, bắt nạt Đường Công cùng bọn gia đinh, hết sức hùng hổ dữ tợn, đến giờ Thúc Bảo xuất hiện, bọn này hết trốn đường đông lại chạy đường tây, núp đường nam lẩn đường bắc, nhiều đứa trốn theo khe núi mà chạy. Đường Công lúc này mới dừng ngựa, sai phái bọn gia đinh hỗ trợ Thúc Bảo. Bọn cướp thì kẻ thức thời đã bỏ chạy hết, những đứa cố chấp vẫn ham đánh thì không ít đứa gãy tay, gãy chân, mang đầy thương tích trên mình, chẳng khác nào: 

 Khác gì lá rụng gió bão cuốn 

 Giống như băng mỏng nắng trời tan. 

 Có thằng bị giản đánh trúng lăn xuống ngựa, bọn gia đinh túm lấy giải tới trước mặt Đường Công. Đường Công quát: 

 - Bọn lang sói chúng bay sao dám tụ tập đón đường giết người cướp của, lại dám đụng đến bậc quan quân chúng ta? Đem ra chém quách cho xong! 

 Thằng này run rẩy thưa: 

 - Bẩm ngài, chúng con không phải kẻ cướp, mà là lính tâm phúc của Đông cung, lệnh của Vũ Văn Tướng công truyền rằng ngài với Đông cung vốn có thù lớn, sai chúng con ra đây chờ đón đường ngài. Đó là lệnh trên, không phải lỗi ở chúng con. 

 Đường Công nói: 

 - Ta với Đông cung nào có thù hằn gì. Mày bịa ra điều này để hòng thoát chết. Đáng ra nên chặt quách cái đầu chó của mày, nhưng lại thương mày vốn cũng là kẻ nghèo khổ, sống cũng chẳng hại dược ai nên cũng tha cho cái mạng mày, mau tìm đường mà xéo! 

 Thằng này nghe Đường Công nói thế vội bỏ chạy như bay. 

 Đường Công nhìn ra kẻ hảo hán đến cứu mình vẫn đang hăm hở đuổi đánh bọn cướp, bèn sai gia đinh: 

 - Mau mời tráng sĩ lại đây gặp mặt. 

 Một gia đinh cưỡi ngựa phi theo sau Thúc Bảo gọi lớn: 

 - Tráng sĩ? Đại nhân mời tráng sĩ lại gặp mặt. 

 Thúc Bảo quay lại hỏi: 

 - Đại nhân là ai? 

 Gia đinh thưa: 

 - Là Đường Công Lý đại nhân. 

 Thúc Bảo dừng ngựa, trù trừ, lại thấy gia đinh cho ngựa lại gần nói tiếp: 

 - Xin tráng sĩ lại ngay cho, Lý đại nhân chúng tôi nhất định sẽ tạ ơn tráng sĩ rất hậu. 

 Thúc Bảo thấy nói tới chuyện tạ ơn, liền cười ha hả nói rằng: 

 - Ta cũng chỉ vì "giữa đường thấy sự bất bình", cũng không nghĩ đó là đại nhân nhà ngươi, cũng không nghĩ đến chuyện tạ ơn của chủ ngươi đâu! 

 Nói rồi quay ngựa theo đường lớn đi thẳng. 

 Bình sinh lòng nghĩa hiệp 

 Cứu nạn chẳng lưu danh 

 Sống chết đều một kiếp 

 Nghĩ gì đến nghìn vàng. 

 Đường Công thấy gia đinh không mời được tráng sĩ liền hối hận nói: 

 - Đáng ra ta phải thân lại tạ ơn mới phải, bây giờ làm sao mời được tráng sĩ quay trở lại được. Chuyện này đúng là lỗi ở ta. 

 Nói rồi dặn bọn gia đinh: 

 - Chúng bay thu dọn xe ngựa, hành lý lại để chuẩn bị lên đường, ta tự đuổi theo tạ ơn mới xong. 

 Rồi giật mạnh dây cương, Đường Công rượt theo Thúc Bảo, gọi lớn: 

 - Xin tráng sĩ dừng ngựa, cho Lý Uyên tôi được vái chào một lần. 

 Thúc Bảo vẫn không muốn xuất đầu lộ diện lần nữa, nên vẫn cho ngựa ruổi dài. Đường Công phóng theo sau không chịu dừng: 

 - Tráng sĩ, cả nhà ta chịu ơn cứu mạng của tráng sĩ, xin tráng sĩ hãy cho biết tính danh, còn chuyện báo đức đền ơn xin để sau này thưa lại cũng chưa phương hại gì. 

 Cả hai đuổi theo nhau có đến hơn mười dặm. Thúc Bảo nghĩ: Kiến Uy chờ phía trước, thế nào người ta cũng hỏi ra họ tên, chi bằng cứ nói, để người ta khỏi đuổi theo. Thúc Bảo bèn quay đầu lại đáp: 

 - Lý đại nhân không cần đuổi theo làm gì. Tiểu nhân họ Tần, tên Quỳnh, thế là được rồi. 

 Vừa nói vừa giơ cao tay, xòe đủ năm ngón tay vẫy qua vẫy lại, ra roi, như một mũi tên lao thẳng. Chính là: 

 Sắc núi khó truyền lòng nghĩa hiệp 

 Nước khe khôn tả hết hùng tâm 

 Chữ ơn chưa tạc đồng ghi đá 

 Tên tuổi đã truyền suốt cổ câm. 

 Đường Công ý vẫn còn muốn đuổi theo, nhưng đánh nhau cả ngày, người ngựa đều mỏi mệt, một mình một ngựa chạy trên đường, lỡ ra gặp một tên cướp còn sống sót nào đó, thừa cơ sinh chuyện, vả lại chỉ chạy đuổi theo sau mãi cũng chẳng ích gì. Trong lúc gió rít bên tai, lẫn tiếng nhạc ngựa, Đường Công chỉ nghe được mỗi một tiếng “Quỳnh", lại thấy tráng sĩ xòe năm ngón tay vẫy vẫy, Đường Công nghĩ thầm rằng tráng sĩ ra hiệu tiếng "Ngũ", nên đinh ninh nhớ kỹ trong lòng tên "Quỳnh Ngũ", cũng chẳng lường được bao giờ mới báo được ơn. Trong lúc phóng ngựa trở về, thấy một đám bụi mù mịt trước mặt, ló ra một người ngựa phi tới, Đường Công nghĩ: "Lại rắc rối rồi đây, hãy chờ thằng này lại gần, sẽ biết tay ta". Rồi nhẹ nhàng lên dây cung, tên vừa bay khỏi, đã thấy người kia ngã lăn xuống ngựa. 

 Nhìn kỹ lại chỗ đám bụi lúc nãy, chính lại là gia quyến của mình, Đường Công bèn kể lại cho mọi người nghe mọi chuyện, nhắc mãi ơn lớn của “Quỳnh Ngũ” , thì thấy mấy người dáng vẻ phu khiêng kiệu, lẫn với mấy người dân làm ruộng ở một trang trại ấp nào đó cũng kéo đến trước ngựa Đường Công khóc lóc, kể lể: 

 - Thưa đại nhân, không biết ông chủ chúng tôi có việc gì xúc phạm đến đại nhân, mà vừa bị đại nhân bắn chết! 

 Đường Công ngạc nhiên đáp: 

 - Ta chưa từng bắn chết chủ nhân các người. 

 Bọn người này khóc thưa: 

 - Chúng tôi vừa nhổ mũi tên ở yết hầu, thấy rõ có ghi họ tên đại nhân. 

 Đường Công nghĩ ngợi: 

 - À vừa rỗi dẹp xong lũ giặc cướp, thấy một kẻ phi ngựa lại, ta chắc rằng du đãng của bọn này, mới bắn một mũi, không ngờ lại làm chết chủ của các ngươi, rõ là ta nhầm. Chủ các ngươi tên gọi là gì, quê quán ở đâu? 

 Bọn này đáp: 

 - Chủ chúng tôi là Nhị Hiền trang thuộc Lộ Châu, họ Đơn tên Đạo hiệu Hùng Trung, trên đường từ Trường An bán lụa về vừa đến đây. 

 Đường Công đành an ủi: 

 - Thôi thì người chết làm sao sống lại được, bảo ta phải làm gì bây giờ. Dù có đem đến quan nha nữa chỉ là chuyện ngộ sát, cũng phải đến lo liệu ma chay mà thôi. Ở Nhị Hiền trang các ngươi, hiện còn những ai? 

 Bọn này thưa: 

 - Thưa còn Nhị viên ngoại Đơn Thông, hiệu Hùng Tín. 

 Đường công giảng giải: 

 - Các ngươi về thưa lại với viên ngoại, ta nhân đánh cướp, lỡ tay bắn chết chủ các ngươi, thực là không cố ý. Nay ta đưa tạm năm mươi lạng bạc, gọi là làm phí tổn khâm liệm, các ngươi đưa linh cữu về quê đợi ta cũng về quê quán xong xuôi, sẽ sai quan tới Lộ Châu, tìm nhà viếng lễ. 

 Bọn này đều nghĩ: "Nghèo không thi với giàu, giàu không đấu với quan”. Vả lại chuyện giữa đường hai bên đều nhường nhịn cho xong, nên cuối cùng ai lo phận ấy. 

 Đường Công nói như thế nhưng không nỡ bỏ mặc, cũng lại coi sóc cho bọn người nhà Đơn Hùng Trung lo liệu cho chủ, dềnh dàng mai mới đi được cách Trường An khoảng năm sáu mươi dặm. Vùng này lại không có quán dịch, chỉ thấy cổ một ngôi chùa, chữ đề "Vĩnh Phúc Tự”, Đường Công tính gia quyến đông, khó có một nhà dân thường nào chứa hết, nên sai gia đinh vào chùa xin nghỉ lại. 

 Sư cụ trụ trì có đạo hiệu là Ngũ Không nghe thấy thế, vội cho thỉnh chuông lớn, tụ tập chúng sư tiểu, xuống núi tiếp đón. Một mặt cho quét dọn phương trượng, sắp xếp bếp củi, sau đó khoác cà sa, dẫn các vị cao tăng ra làm lễ chào hỏi. Đường Công cho xếp đặt gia quyến, xe tạm ngoài cửa chùa, rồi tự mình vào trước, chỉ thấy: 

 Nền móng nghìn năm kiên cố 

 Điện các vạn tuế nguy nga 

 Cửa chùa tả hữu, gió hòa mưa thuận tứ thiên vương 

 Điện phật trong ngoài, quá khứ vị lai Tam Đại sĩ 

 Lụa thắm cửa son, chạm khắc quỳ lựu khéo tay 

 Tường mờ rêu biếc, tranh vẽ núi sông đậm nhạt 

 Quan âm cao bệ, ngói đồng cổ lớp lớp sen vàng 

 La Hán điện tôn, bát bạch ngọc long lanh sắc nước 

 Vượn núi, thú rừng, nghe "Kim cương kinh” đều được siêu thăng 

 Hươu nội, hoa ngàn, nghe "Pháp ngữ lục" thảy thoát nghiệp chướng 

 Ánh sáng muôn luồng xông mây bức 

 Khí lạnh nghìn đạo ngự từng không. 

 Lại có người làm thơ ca ngợi: 

 Phật điện trông vàng son lấp lánh 

 Như Lai ai dám sánh công lao 

 Tháp ngoài nghìn trượng vươn cao 

 Điện trong đèn nến như sao sáng ngời 

 Càn khôn từ thuở chuyển rời 

 Công đây quả đấy muôn đời còn ghi. 

 Ỡtrên điện, tả hữu đã sắp sẵn giường đệm, sư tiểu lần lượt lên chào Đường Công. Sau đó, Đường Công dẫn gia đinh xem xét phương trượng, các tăng phòng xung quanh, người nhà chùa tạm thời di chuyển nơi khác, sau đó đưa gia quyến vào nghỉ ngơi, rồi lại đóng cửa cài then. Đâu vào đấy rồi, Đường Công lại trở về ngồi ở tiền điện ngẫm nghĩ: "Nếu chỉ là bọn cướp bình thường, thì bị đánh đến thế, không thể nào còn dám tới. Nhưng nếu đúng là lính tâm phúc của Đông Cung sai đi, chưa chắc chúng đã chịu yên, sớm muộn chúng còn xuất hiện". Vì vậy, Đường Công lệnh cho gia đinh, tuần tiễu canh gác trong ngoài, đề phòng bất trắc, còn mình cũng nai nịt gọn ghẽ, kiếm đeo bên mình, ngồi dưới đèn xem sách. Có ngờ đâu rằng, bọn này ở trong rừng, chùi bỏ hóa trang thay quần áo, hội họp nhau lại, ngay sẩm tối hôm đó kéo nhau về Trường An, còn đâu nữa mà tới. Về phía Vũ Văn Thuật với Thái tử, kế tuy không thành, nhưng còn mừng khi Lý Uyên không biết, chưa bị vạch mặt làm trò cười cho thiên hạ, lại thêm bọn tay chân đi về, tô vẽ thêm giết bao nhiêu mạng, đâm bao nhiêu gia đinh, thân thuộc của Lý Uyên, làm bọn họ tả tơi chạy dài ra sao cũng thấy hả dạ, nên coi như cho chuyện đó ra ngoài cửa. Nhưng Đường Công như con chim vừa phải tên, vẫn phấp phỏng lo sợ mà thôi. 

 Ngồi cho mãi tới canh hai, Đường Công bỗng thấy một mùi thơm lạ lùng, nhìn kỹ mấy lò hương thì đã tro lạnh khói tàn từ bao giờ. Lúc dầu hương thơm còn thoang thoảng, càng lâu hương càng thơm nức, sai người đi xem ở các cửa điện khác, đều trở về thưa các lò hương không nơi nào đốt. Đường Công lấy làm lạ, ra sân nhìn trời, thấy mây đẹp rực rỡ, sao sáng lấp lánh, khí ấm điềm lành đầy đất. 

 Vốn là lúc ở hậu tự, sao tử vi đến giờ giáng hạ trấn thế, mới rời khỏi cung Đâu Xuất nên hương lành đầy trời đất, mừng tử vi đầu thai. Đương lúc ngửa nhìn trời, bỗng thấy bọn gia đinh gác đêm đến báo phu nhân vừa mới sinh được hai thế tử. Lúc này chính là năm đầu của triều Nhân Thọ, tháng tám ngày mười sáu, giờ tý* vậy, Đường Công vội vàng đến bên cửa sai người hỏi rõ sức khỏe của phu nhân và hai thế tử. Người nhà thưa rằng nhân giữa đường gặp bọn cướp trong lòng không khỏi kinh sợ, sau may gặp được bậc hào kiệt ra tay, lại tìm được chỗ trú chân yên ổn, nhưng phu nhân do đi lại nhiều vì vậy mới sinh sớm ít nhiều, may thay mẹ con đều bình yên. Đường Công nghe nói thế mới đỡ lo lắng. 

 * Giờ tý: khoảng 11 giờ đến 1 giờ đêm 

 Chờ đến sáng ngày, Đường Công lên điện, tạ ơn Như Lai, khắp gia quyến đều có mặt. Sau đó lại tới phòng phu nhân vấn an. Sư cụ Ngũ Không, dẫn chúng tăng, đem câu đối, viết trên giấy hồng đều đến mừng. Đường Công băn khoăn nói: 

 - Thưa trưởng lão! Ta vốn ở nhờ nhà chùa, lại gặp việc khai hoa này, chỉ sợ làm ô uế sự thanh tịnh của cửa thần, tội đều ở hạ quan này, có gì vui đâu mà dám nhận lời mừng của quý vị chúng tăng. 

 Bèn sai gia đinh lấy mười lạng bạc ra gửi sư cụ, nhờ nhà chùa sắm các loại trầm hương, tốc hương, đàn hương, để đốt ở khắp các điện, giải trừ uế huyết. Đường Công lại hỏi sư cụ: 

 - Ta trông cảnh chùa tuy có tráng lệ, nhưng đã thấy có nhiều chỗ đã đổ nát hư hỏng, cũng muốn sửa sang ít nhiều. Không biết ý trưởng lão thế nào? 

 Sư cụ thưa: 

 - Bần tăng từ lâu đã định làm việc này, nhưng chỉ cần sửa chữa nhỏ cũng phải có hàng nghìn lạng bạc, sửa lớn thì không thể dưới vạn lạng, nếu không gặp được bậc đại thí chủ, mà chỉ là những khách đàn việt bình thường, bần tăng nào dám kêu ca, nên cũng không nghĩ đến chuyện hưng công tu tạo được. 

 Đường Công nói: 

 - Ta sẽ làm đại thí chủ cho trưởng lão. Cũng chằng cần trưởng lão kêu ca, ngay khi về đến Thái Nguyên, ta sẽ sai người đem tiền bạc tới. 

 Liền sai người đem nghiên bút, sư cụ bảo mấy chú tiểu giăng ra một tấm lụa hồng lớn, có thêu kim tuyến. Đường Công cầm bút, nhúng đẫm mực viết một hàng chữ lớn: "Tín quan Lý Uyên, nguyện dâng cho vạn lạng bạc trùng tu Vĩnh Phúc Tự, tái tạo kiên thân điện tượng". Sư tiểu đứng nhìn, không ai là không lắc đầu lè lưỡi, cùng nhau bàn tán: 

 - Có mua sắm bao nhiêu vật liệu, rồi thuê thợ làm vẽ vời hoa lá đi nữa, cũng chẳng tài nào hết chừng ấy bạc. 

 Lại có người nói: 

 - Ta tính nhà chùa một ly cũng chẳng có, cứ chờ quyên giáo từng tiền, từng lạng, thì đừng nói một vạn lạng, mà ngay chỉ khoảng năm sáu trăm lạng cũng chẳng bao giờ có được. 

 Nói chuyện linh tinh một hồi, ngày hôm sau, sư cụ lại sắm đủ đèn nến, trầm hương đủ loại quý giá, mời Đường Công tới các điện dâng hương, chuông trống rộn ràng, kẻ trước người sau chật lối. Từ hôm ấy, Đường Công ngồi nhàn trong chùa, chờ phu nhân đầy tháng sẽ lại khởi hành.

 Không biết sự thể ta sao, xin xem hồi sau phân giải. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Sáu

Ngũ hoa trận, Sài Tự Xương chùa núi đính hôn,

 Không bạc tiền, Tần Thúc Bảo đường cùng mất vía.

 Thơ rằng: 

 Lưu lạc đừng than thở 

 Tài cao vận hội mở 

 Loan phượng đậu đài cao 

 Khổng tước trên tranh vẽ 

 Ngọc lành nên duyên đẹp 

 Đàn lạ thành khúc hay 

 Sống mái rồi gặp gỡ 

 Rồng mây sẵn có ngày. 

 Thế gian hợp tan vốn ở duyên may phận rủi, cố mưu đồ thì thất bại, chẳng để tâm thì lại nên duyên phận. Đường Công vốn là bề tôi giỏi của nhà Tùy, Đậu phu nhân cũng dòng dõi nhà Chu. Khi vua Tùy cướp ngôi nhà Chu, phu nhân mới bảy tuổi, mà đã nhiều phen vật vã trên giường than thở: "Thân này sinh ra sao không phải là nam nhi, để cứu nạn cho cậu, dựng lại nhà Chu!". Một cặp vợ chồng như thế, nhất định con cái sẽ hơn người. 

 Lý tiểu thư, con gái đầu của Đường Công và Đậu phu nhân, năm nay tuổi vừa mười sáu, rất giống Tôn phu nhân của Lưu Huyền Đức, em gái Tôn Quyền thời Tam Quốc, chẳng ham thêu thùa kim chỉ, riêng thích giương cung múa kiếm. Vợ chồng Đường Công thấy tính tình con gái khác thường như thế, nên cũng lưu tâm tìm một chàng rể giỏi giang. Kẻ dạm hỏi không thiếu, Đường Công đều chê là phường tục tử, chưa thấy đám nào vừa ý. Chuyện gia thất của Lý tiểu thư vì vậy vẫn còn canh cánh bên lòng. 

 Giai nhân theo việc anh hùng 

 Tuổi vừa đôi tám, bạn cùng cung thương 

 Phượng loan chẳng chịu thói thường 

 Lẽ nào đứng sánh với phường quạ đen. 

 Hàng tháng nay, Đường Công cả ngày ngồi nhàn ở chùa Vĩnh Phúc, cho nên dẫu có lo toan chuyện gì, cũng là chưa phải lúc hành sự. Bạn bè không ai, thỉnh thoảng lọt bên tai vài lời qua lại thì thầm của người nhà chùa, của bọn gia đinh. Đường đường là một bậc đại nhân, nhất cử nhất động đều có người phục dịch, hầu hạ tận nơi, sư trụ trì Ngũ Không, ngày ít nhất cũng một lần tới thăm hỏi, hầu chuyện. Khoảng vài ngày một lần, nhà chùa lại đèn hương, trống mõ rộn rã, Đường Công thong thả dạo quanh, xem cảnh tăng ni đi lại, công việc; quan sát phép tắc nhà chùa, nghe cầu kinh, xem sách Phật. Thấp thoáng từ xa, Đường Công vẫn nhận ra những ánh mắt tò mò, chăm chú của các nhà sư trẻ, của các chú tiểu. Dạo chán, Đường Công lại tìm đến sư trụ trì nói chuyện. Đường Công đi trước Ngũ Không theo bên, trên những lối vườn rải đá, che kín bóng cây để đến dãy nhà phía đông cửa tam quan. Đường Công nói: 

 - Thưa trưởng lão, chỗ này nhà cửa quanh co sân vườn yên tĩnh, sạch sẽ, thật không nhiễm chút bụi trần. 

 Sư trụ trì thưa: 

 - Đây là trai phòng của bần tăng. Xin mời đại nhân vào dùng trà . 

 Đường Công thấy Ngũ Không ân cần liền bước vào phòng rộng, không một chút bụi bám, vài cửa sổ nửa khép nửa mở. Trà nước xong, Ngũ Không đứng dậy, mở rộng cửa sổ khiến Đường Công nhìn rõ bảo tháp ngoài vườn, vàng son rực rỡ chói mắt, nổi giữa vườn cây xanh, lấp loáng nắng trời, thật là những cảnh đẹp hiếm có. Nhìn lên bình phong trước tháp, thấy đề một câu dối. 

 Tháp quý chọc trời, đưa mắt giang sơn, một vùng thanh tĩnh 

 Đèn vàng thay nguyệt, mười phương thế giới, đâu cảnh sáng trong. 

 Dòng lạc khoản ghi rõ: "Sài Thiệu Huân, người Phần Hà, trai giới kính đề". 

 Đường Công thấy lời lẽ hiên ngang, chữ viết thoáng đạt, gật gù khen, rồi hỏi sư trụ trì: 

 - Thưa trưởng lão, Sài Thiệu Huân là ai thế? 

 Ngũ Không thưa: 

 - Công tử họ Sài này, vốn người Phấn Hà, con trai Lễ bộ thượng thư triều trước, lâu nay ở trong chùa đọc sách, thấy quang cảnh góc này, lấy làm ưng ý, tự tay viết tặng bần tăng. Từ lúc viết đến giờ, quan viên qua lại, nhiễu người khen lắm. 

 Đường Công gật gù, đứng dậy: 

 - Ta xin cáo từ. Trưởng lão cứ tự nhiên. 

 Về đến phòng mình, trăng vừa nhô khỏi núi xa, lặng lẽ soi qua thảm lá. Đường Công vì ngổn ngang tâm sự, công việc trong triều ngoài trấn, muôn chuyện phải theo dõi, toan tính, hành động, nay bất ngờ phải ngồi chờ ở giữa cánh rừng xa vắng, nên giấc ngủ càng khó đến. Đường Công lại trở dậy, tìm đến phòng Ngũ Không, gõ cửa: 

 - Trưởng lão đã đi nằm chưa? 

 Ngũ Không vội thưa: 

 - Đại nhân còn chưa yên chỗ, bần tăng đâu đã dám yên thân. 

 Cửa mở, Đường Công vào phòng, tiếp: 

 - Trăng sáng, cảnh đẹp, ta cũng đừng nên phụ đất trời. 

 Ngũ Không bàn: 

 - Bổn chùa có nơi sườn núi dốc vừa phải, ngắm trăng rất hợp, xin mời đại nhân ra xem. 

 Đường Công tán đồng: 

 - Thế thì tốt lắm! 

 Ngũ Không gọi chú tiểu cầm đèn đi trước. 

 Đường Công gàn: 

 - Trăng sáng thế này, cần gì đèn đèn. 

 Ngũ Không thưa: 

 - Chỉ sợ lối trúc quanh co, đại nhân lại chưa quen đường. 

 Đường Công đáp: 

 - Bọn ta đã từng dọc ngang chinh chiến. Đêm tối, mưa gió đi lần giữa rừng núi là thường. Đây chỉ là lối hoa ngõ trúc, chỉ cần trưởng lão dẫn đường, cũng chẳng cần kẻ hầu hạ theo sau làm gì. 

 Ngũ Không đi trước, Đường Công theo sau, men theo đường trúc quanh co, ra khỏi một cổng nhỏ phía nách chùa thì tới sườn núi. Vầng trăng hiện rõ giữa không trung, không cây che, chẳng mây khuất. Bên dưới đồi núi, nhà cửa nhấp nhô, núi cao thấp thoáng, rừng cây miên man, người không cảnh vắng, tiếng chó sủa từ thôn xa vẳng lại, như điểm thêm sự thanh vắng của cảnh đất trời. Đường Công nhìn ngắm một hồi, đang định quay về thì bỗng thấy trong đám trúc phía tay phải, ánh đèn le lói, nghe như có tiếng đọc kinh, bèn hỏi: 

 - Trường lão quá giờ đọc kinh buổi tối chăng? 

 Ngũ Không thưa: 

 - Vì sợ phu nhân mệt, cần yên tĩnh, việc đọc kinh, giảng đạo buổi tối, bần tăng cho tạm nghỉ đã mấy tuần nay. 

 Đường Công gật đầu, nhưng đến dãy nhà phía tay phải lại hỏi: 

 - Tiếng gì như tiếng đọc kinh vậy? 

 Ngũ Không đáp: 

 - Nhà này là nơi Sài công tử đọc sách. Câu đối buổi ngày đại nhân xem, chính là công tứ đề đấy, thưa đại nhân! 

 Nghe giọng đọc trong trẻo, Đường Công dắt tay Ngũ Không, nhẹ nhàng bước tới thư phòng, nhìn qua cửa sổ thấy một thanh niên, mặt mũi khôi ngô da trắng như thoa phấn, môi đỏ như bôi son. Kiếm quý đặt ngang bàn, thánh thót đọc một chương nào đấy của sách binh thư Ngô Khởi, hoặc Tôn Vũ mà Đường Công cũng chưa kịp nhận ra. Đọc xong, thanh niên lại lấy kiếm múa vài đường, xem như xung quanh không có ai. Đặt kiếm xuống bàn, thanh niên cao giọng gọi: 

 - Sài Báo đâu rồi! Đem trà ra cho ta! 

 Rồi cất giọng sang sảng ngâm: 

 Anh hùng đầy uất khí 

 Cô độc biết hỏi ai? 

 Cánh bèo là tri kỷ 

 Vỗ gươm than ngắn dài. 

 Đường Công nghe xong, lặng lẽ trở ra, lòng mừng thầm nghĩ: “Thời bình chuộng văn, thời loạn chuộng võ, giờ mà ngồi đọc "Tử viết,Thi vân"* thì phỏng ích gì. Phải là tài kiêm văn võ, lên ngựa đuổi giặc xuống ngựa thảo hịch, mới xứng với con gái ta. Có việc cần kíp, chàng rể loại này còn có thể giúp một tay!” . 

 *"Tử viết, Thi vân": Khổng Tử nói rằng, kinh thi có câu... cách học thưởng xuyên của nhà nho. 

 Gần đến phòng mình, Đường Công nói với Ngũ Không: 

 - Ta xem Sài công tử, tài mạo khác thường, mai kia hẳn làm nên. Ta có một con gái, tuổi vừa cập kê, đoan trang thùy mị, chưa kiếm được rể hiền, phiền trưởng lão làm mai mối, đem việc tốt đến cho cả hai họ. 

 Ngũ Không nghiêng mình thưa: 

 - Đại nhân đã dạy, bần tăng này xin "cầm búa chặt cây”*. sáng mai sẽ xin đưa Sài Công tữ tới gặp mặt, để đại nhân xem công tử ăn nói ra sau. 

 * Kinh Thi có câu: "Phạt kha như hà, phi phủ phất khắc. Thủ thê như hà, phỉ môi bất đắc” . Chặt cây thế nào, không búa không xong. Lấy vợ thế nào, không mối chẳng xong. Vì thế người ta gọi việc làm mối là "chấp kha phạt mộc", cầm búa chặt cây! 

 Đường Công đáp: 

 - Thế thì tốt lắm. Xin đa tạ trưởng lão! 

 Đường Công về đến phòng, sư cụ cũng lui gót. 

 Hôm sau, trời vừa rạng sáng, sư cụ Ngũ Không vì đang có việc phải lo, đã vội trở dậy, rửa mặt thay áo, đến phòng Sài Tự Xương. 

 Công tử hỏi: 

 - Đã mấy ngày nay không được gặp trưởng lão. 

 Sư cụ đáp: 

 - Bần tăng mấy hôm nay phải bồi tiếp Đường Công, nên thất lễ với công tử. 

 Sài Công tử hỏi: 

 - Thưa trưởng lão, Đường Công đến đây có việc gì? 

 Sư cụ đáp: 

 - Đại nhân có thánh chỉ hồi hương, ngày mười lăm vừa rồi đến chùa, vừa dịp phu nhân khai hoa, vì vậy phải ở lại, chờ phu nhân khỏe mạnh, lại mới đi tiếp về Thái Nguyên được. 

 Công tử tiếp: 

 - Tôi nghe Đường Công có tiếng hiền đức, sự thực thế nào, thưa trưởng lão? 

 Sư cụ đáp: 

 - Bần tăng đã thấy nghìn thấy vạn, nhưng chưa thấy người nào đức hạnh hơn đại nhân. Bởi phu nhân khai hoa ở chùa, e sự sinh nở ô uế đất Phật chăng, đại nhân liền đưa ngay mười lạng bạc, sai sắm hương đèn thắp khắp các điện; lại nguyện cúng một vạn lạng bạc xây lại nhà chùa, mở mang cảnh Phật. Trưa hôm qua đại nhân tới phòng bần tăng uống trà, trông thấy câu đối của công tử, khen ngợi không ngớt. Tối đến lại cùng bần tăng ngắm trăng, thấy công tử đọc sách, đại nhân đứng ngoài cửa sổ nhìn vào xem xét mãi. 

 Công tử nói: 

 - Lúc ấy đồ đệ này đang làm gì? 

 Sư cụ đáp: 

 - Công tử xem sách xong, cầm lấy kiếm múa mấy đường. 

 Công tử tiếp: 

 - Lúc ấy mới canh một, phải không trưởng lão? 

 Sư cụ đáp: 

 - Bấy giờ đã nghe trống canh lần thứ nhất rồi. 

 Công tử lại hỏi: 

 - Đường Công nói những gì, xin trưởng lão cho nghe lại. 

 sư cụ đáp: 

 - Bần tăng đặc biệt đến báo tin mừng. 

 Công tử vội hỏi: 

 - Tin mừng gì thế? 

 Sư cụ đáp: 

 - Đại nhân có một quận chúa, nghe nói tuổi độ mười sáu, đoan trang ít nói, chưa kén được rể hiền, nhờ bần tăng "chấp kha phạt mộc" đem sự lành đến cho cả hai họ Sài, họ Lý. 

 Công tử cười thưa: 

 - Hôn nhân là chuyện lớn, không thể coi nhẹ. Nhưng từ lâu tôi đã ngưỡng mộ danh tiếng của Lý tướng quân, nếu được làm tôi con dưới trướng, để được thường ngày gần gũi học hỏi, thật là chuyện may mắn cho kẻ hậu sinh này. 

 Sư cụ tiếp: 

 - Giờ đại nhân muốn gặp công tử ngay, vậy mời công tử lên Phật điện, ý công tử thế nào? 

 Công tử đáp: 

 - Đại nhân là bậc trưởng quan, sao lại có thể đến đường đột được. Xin cho đến ngày mai, sửa soạn lễ nghi cẩn thận, mới dám tới bái kiến đại nhân được. 

 Sư cụ khuyên: 

 - Đại nhân ái mộ công tử, không chấp nệ lễ tiết, bần tăng xin đi cùng công tử. 

 Công tử nhận lời: 

 - Nếu đã như thế, đồ đệ xin mời trưởng lão cùng đến. 

 Công tử mặc áo lễ, sư cụ dẫn lên Phật điện bái kiến. Đường Công thấy công tử quả thật là: 

 Mày như trăng khuyết, một tựa sao đêm 

 Mũi tạc thợ trời, răng như ngọc dát 

 Dáng thần lanh lẹ, ngoài trắng cốt trong 

 Khí phách hiên ngang, rồng bay hổ nhảy 

 Kiếm ẩn cung tàng, ra hình khanh tướng, chửa đến thời 

 Giỏi văn tài võ, thật kẻ anh tài, chưa gặp hội. 

 Đường Công lấy lễ chủ khách ra tiếp. Sài Tự Xương hai ba lần khiêm nhường, xin lấy lễ thấy trò ra đãi. Đường Công hỏi chuyện gia thế, đủ vẻ gần xa. Tự Xương thưa gửi đâu ra đấy, tiếng như ngọc rót. 

 Đường Công thấy thế bằng lòng lắm, giữ lại uống trà xong mới cho về, còn mình thì tìm đến phương trượng nói chuyện cho phu nhân hay. Phu nhân bàn: 

 - Việc này tôi với phu quân đều bằng lòng rồi. Nhưng hôn nhân là việc lớn trăm năm, cũng phải nói lại cho con xem nó có bằng lòng. 

 Đường Công đáp: 

 - Hôn nhân là bởi ở cha mẹ, con cái trong nhà, sao có thể tự quyết. 

 Phu nhân cãi: 

 - Phu quân lầm rồi. Hiểu con gái không ai bằng mẹ, hiểu con trai chẳng ai bằng cha. Con gái tôi, tôi biết lắm, nó không phải là đứa tầm thường. Tôi xem xét hàng ngày, mỗi việc nó đều có ý riêng đúng đắn, khác hẳn mọi người. Hãy chờ tôi nói chuyện với nó, xem ý nó thế nào, nếu nó yên lặng thì phu quân cứ việc mình mà làm, nếu nó tỏ ý không bằng lòng, thì đành phải chờ ít lâu nữa. Xem ra cậu này, chưa chắc đã có ai gọi đến làm rể đâu, cho nên nếu chưa xong được ngay thì hãy cứ về Thái Nguyên rồi lo liệu sau cũng chưa muộn gì. 

 Đường Công bằng lòng. 

 Nói xong, Đường Công đi khỏi phương trượng, phu nhân cũng ra phòng ngoài, tiểu thư đón vào. Phu nhân đem chuyện Đường Công kén Sài Tự Xương làm rể kể tỉ mỉ. Tiểu thư ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nghiêm trang thưa: 

 - Có cha mẹ ở trên, nói đến chuyện này, làm con gái trong nhà vốn không nên nhiều lời, nhưng là việc hôn phối trăm năm, vinh nhục đều từ đó, nếu quá vội vàng, sau hối không lại. Cứ như mẹ nói, diện mạo thế là được rồi, tài năng thế cũng xong. Nhưng thời thế bây giờ chỉ trông vào diện mạo là không đủ để đánh cướp dẹp loạn. Nếu gặp nạn binh đao, cái lũ người nhai văn nhá chữ chỉ có việc ngồi chờ chết, chẳng dùng được việc gì. 

 Phu nhân cướp lời: 

 - Chính như cha con đã nói. Cậu ấy múa kiếm giỏi lắm, nhìn dưới đèn, chẳng khác gì hoa tuyết phơi phới, nhất định cũng có ít nhiều bản lĩnh. 

 Tiểu thư thấy mẹ nói thế, khẽ cười thưa: 

 - Nếu quả như thế, xin hãy cho con nghĩ lại xem sao, đừng trả lời họ vội, đợi khoảng hai ngày nữa, con xin quyết ý có được không? 

 Phu nhân thấy con nói thế, ra tìm kể lại với Đường Công. 

 Tiểu thư nghe mẹ nói xong, băn khoăn trăm đường. Cũng muốn đi nhìn trộm Tự Xương xem mày mặt thế nào, nhưng lại thấy không phải phép, đúng lễ nên không dám, phần vẫn băn khoăn lỡ làng chuyện cả đời, nên phân vân không định được điều gì. Bỗng thấy Hứa Thị, vú nuôi bước vào, đến trước tiểu thư hỏi: 

 - Vừa rồi phu nhân nói thế, ý tiểu thư liệu đường nào? 

 Tiểu thư đáp: 

 - Ta cũng đang nghĩ nên thế nào cho phải. 

 Hứa Thị thưa: 

 - Chuyện này thì có khó gì. Chỉ yên lặng làm thế này, tiểu thư cứ gọi cậu ta đến thử thách một hồi, hay dở tất biết. 

 Tiểu thư gật đầu khen hay. Chính là: 

 Bạch lạp sáng bừng soi yến tước 

 Ngọc tiêu vang điệu họa uyên ương. 

 *** 

 Lại nói Sài công tử từ hôm gặp Đường Công, thấy Đường Công đối xửmình rất tử tế, vừa khiêm tốn, vừa chân tình nên trong lòng rất vui, chuyện nhân duyên, bởi chưa thấy tiểu thư lại chả biết việc sẽ đến đâu, tự mình không thể quyết đoán, nên lại càng thắc thỏm. Lúc ấy đang ngồi xem sách dưới đèn, công tử bỗng nghe thấy bên ngoài có tiếng ho khẽ, rồi mở cửa ra, ngẩng đầu nhìn lên thì thấy một phụ nữ mắt to, lông mày rậm, người cao, chân to, tuổi chưa nhiều. Công tử đứng dậy hỏi: 

 - Bác là ai. Đến đây có việc gì? 

 Người này đáp: 

 - Ta là bảo mẫu của tiểu thư ở Lý phủ. Nhân phu nhân có chuyện định kén công tử làm khách đông sàng vỗ bụng*. Tiểu thư ta vốn tài sắc song toàn, chỉ thích đọc binh pháp Tôn Ngô, lục thao tam lược không gì không hiểu thấu đáo sâu xa. Thế chỉ sánh với người giỏi võ tài văn, túc trí đa mưu. Vừa rồi nghe đại nhân rất khen văn tài diện mạo công tử, lại nói công tử giỏi múa kiếm. Cứ thế mà suy, đại nhân ta rất bằng lòng. Nếu quả thực công tử thực lòng ước nguyện nhân duyên với tiểu thư, không hề thay trước đổi sau, thì xin hãy đi theo hành lang phía tây, ra sau Quan Âm các, bên vườn rau, xem tiểu thư bày thế trận, công tử mà hiểu được thì Tần Tấn mới đẹp duyên. 

 *Khước Giám đến nhà họ Vương kén rể, con trai họ Vương ai cũng ra vẻ tốt đẹp riêng Vương Hy Chi vẫn vỗ bụng nằm trên giường phía đông ăn bánh. Khước Giám thấy thế cười lớn: "Người ấy mới là rể quý của ta". Rồi gả con gái cho. Về sau Vương trở thành danh sĩ nổi tiếng đời Trần, văn hay, chữ cực tốt 

 Công tử nghe xong, khẳng khái đáp: 

 - Nếu vậy, lúc nào hết canh một, bác đến đón, dẫn ta đi xem thế trận có được không? 

 Hứa Thị bằng lòng, quay trở ra. 

 Họ Sài ăn tối xong, nghe ở ngoài, lính tuần điểm canh lần thứ nhất, ánh trăng như sáng hơn mọi ngày. Đọc được mấy hàng binh thư, lại ra sân nhìn trăng, bất giác trống canh đã điểm lần hai, công tử thầm nghĩ lời nói bảo mẫu chưa chắc đã đáng tin, đang định quay trở vào lên giường, bỗng có tiếng ho khẽ, rồi thấy bảo mẫu đứng từ đằng xa, vẫy tay làm hiệu. Công tử gọi Sài Báo, mở hòm lấy ra chiếc áo chẽn thêu rồng năm màu, lại lấy thắt lưng lụa quấn chặt, đeo bảo kiếm, rồi bảo Sài Báo khóa cửa phòng, cả hai cùng đi theo bảo mẫu ra phía vườn rau. Vốn ở sau Quan âm các, có một vùng đất hoang rộng, xa tít đầu kia là ngọn núi đất, men theo sau Quan Âm các là một dãy tường thấp, bên nách có một cửa ra vào nhỏ. Công tử trông một hồi, đang định đi qua cửa, thì Hứa Thị ngăn lại: 

 - Tiểu thư ta dặn, hai bụi trúc này coi như cửa viên môn, công tử hãy đứng chờ đó, đợi bày xong trận thế hãy ra xem. 

 Công tử nghe theo, rĩ tai Sài Báo mấy câu. Chỉ thấy một cô gái tiến lại, tóc đen búi cao, mặc áo thêu ngắn, gài thoa vàng, những chuỗi ngọc rũ che kín mặt, ống tay áo bó sát, cầm một lá cờ nhỏ, dừng lại trên một gò đất. Công tử hỏi: 

 - Đấy có phải là tiểu thư không? 

 Hứa Thị đáp: 

 - Tiểu thư có phải dễ thấy thế đâu. Đó chỉ là giáo nữ chuyên bên cạnh phục dịch tiểu thư, được phái đến để bày trận thế. 

 Lời chưa dứt, chỉ thấy giáo nữ vẫy cờ lệnh, đội nữ binh xuất hiện, một người y phục màu đỏ, đi với người y phục màu trắng, một người y phục màu xanh, đi với người y phục màu vàng, đều chít khăn, áo gọn gàng, tay cầm giáo dài sáng loáng, tất cả có một trăm hai mươi người. Đội bên hữu kéo đi, đội bên tả quay lại, bày thành hình chữ nhất, Hứa Thị hỏi: 

 - Công tử có biết thế trận này không? 

 Công tử đáp: 

 - Đây là “Trường Xà trận”, chẳng lấy gì làm lạ. 

 Lại thấy nữ giáo phất cờ hiệu, đám nữ binh quay thành bốn vòng, phân làm năm nhóm, mỗi nhóm thêm bốn người, vác giáo đứng kề phía sau. Công tử đứng nhìn kỹ, chỉ thấy: 

 Một điểm đỏ, một điểm trắng 

 Chẳng khác gì tuyết trắng hoa hồng phơi phới 

 Một vòng xanh, một vòng vàng 

 Chẳng khác oanh vàng thúy biếc chập chờn 

 Đừng lầm Tôn Võ Tử dạy nữ binh 

 Những tưởng Cố phu nhân dàn trận thế. 

 Thấy đội nữ binh hình chữ nhất yên vị, Hứa Thị hỏi. Công tử cười trả lời: 

 - Giờ là "Ngũ hoa trận". 

 Hứa Thị lại hỏi: 

 - Công tử biết thế, có dám vào phá trận không, vào được, ra được mới biết bản lĩnh công tử. 

 Công tử đáp: 

 - Cái ấy thì có khó gì. Hãy xem đây! 

 Công tử liền nịt chặt áo, tuốt bảo kiếm giơ cao bước tới. Hai hàng nữ binh thấy thế, giáo dài múa tít, ánh thép loang loáng đâm tới, công tử vội múa kiếm đỡ. Năm đội nữ binh, thấy công tử xông về phía đông, họ lại kéo tới ngăn lại, không được, công tử lại quay sang phía tây, họ đã xông về phía tây trước ngăn lối. Công tử trù trừ nghĩ cách thoát khỏi cảnh tuyệt lộ, làm sao đánh lui được 120 nữ binh này, đem kiếm quý ra đương, nhưng sợ tổn thương thiện ý đối phương. 

 Thêm hai đội vây đến, hai nữ binh đi đầu, cầm dây lụa đỏ dài, chờ lúc công tử quay sang phía sau, tung dây lụa ra, nhằm thẳng đầu rơi xuống. Trước nguy cơ bị giải lụa cuốn chặt, công tử chỉ còn cách vung kiếm múa tít đỡ nhưng vẫn không tài nào thoát khỏi trùng vi. Công tử nhìn ra xung quanh, thấy từ cửa sổ đằng xa, treo hai cây đèn lồng màu hồng rực rỡ, ở giữa ẩn hiện một khuôn mặt tựa phật Quan âm tạc bằng ngọc trắng, chỉ thấy nửa phần trên của thân hình. 

 Bấy giờ nữ giáo vẫn đứng ở gò đất ban đầu, vội vã phất cờ lệnh về phía sau, từ phía đó liền xuất hiện bốn năm mươi nữ binh mặc toàn áo trắng, vác giáo dài, ùn ùn kéo ra. "Ngũ hoa trận" bỗng biến thành "Lục hoa trận". Công tử lại múa tít bảo kiếm, che chở toàn thân, vừa lui về phía viên môn để mong thoát khỏi vòng vây. Sáu đội nữ binh, nhất tề như bay tới, bốn năm giải lụa tung ra, khiến cho tầng không nhằng nhịt muôn màu. Tình thế thật nguy nan, công tử vội quát lớn: 

 - Sài Báo đâu rồi! 

 Sài Báo nghe gọi, rút ngay trong ống tay áo một chiếc pháo hoa, đánh lửa châm ngòi, rồi nhằm đám nữ binh mà ném tới. Bọn nữ binh nghe trên đầu mình một tiếng nổ lớn, lửa khói mịt mù, thuốc pháo nồng nặc. Sài công tử đang chăm chú nhìn, chỉ thấy tiếng gió rít, quay lại, một mũi tên bay tới, cắm nhẹ lên vành khăn. Công tử giơ tay rút nhẹ, thì ra "Hoa lệnh tiễn , không bịt nhọn, lại có buộc một quả cầu ngũ sắc xinh xắn. Nhìn về phía chùa, thì giai nhân đã biến mất, hai cánh cửa sổ đã đóng chặt. Quay lại đám nữ binh, thì họ cũng đã rút từ lúc nào, hương thừa quanh quất. Lắng nghe ra, trống canh tư đã điểm. Chủ tớ cả hai, vội quay về thư phòng, lăn ra ngủ kỹ. 

 Mặt trời đã lên cao, Sài công tử vẫn còn đang đóng cửa ngủ, thì sư trụ trì Ngũ Không đã tới gọi. Sài công tử bàng hoàng ra mở cửa, sư trụ trì hân hoan bảo: 

 - Mới sáng ra, Lý đại nhân đã gọi bần tăng tới lệnh chọn ngày tốt chuẩn bị nghi lễ, nhận công tử làm rể. 

 Sài công tử cha mẹ đều mất sớm, ruộng vườn nhà cửa đều giao cho họ hàng cai quản, không một chút vướng bận gì, liền theo Đường Công về Thái Nguyên làm lễ thành thân. Về sau, khi Đường Công khởi binh đánh Trường An, có cả một đội nữ binh, đó chính là quân bản bộ của vợ chồng họ Sài. 

 Trời vì họ Lý gây đế nghiệp 

 Người xui hào kiệt hóa đông sàng. 

 *** 

 Không nói chuyện Đường Công về Thái Nguyên, lại tiếp chuyện Thúc Bảo đuổi ngựa theo kịp Phàn Kiến Uy. Phàn hỏi: 

 - Đại huynh lo chuyện bất bình, kết cục ra sao rồi? 

 Thúc Bảo trả lời cặn kẽ, Phàn không giấu nỗi kinh ngạc. Ngày hôm sau, ăn sáng xong, chia đôi hành lý, mỗi người giải hai phạm nhân, rồi người nào đi đường người ấy, Phàn về Trạch Châu, Thúc Bảo tới Lộ Châu, Thúc Bảo tìm đến quán trọ ngay trước cổng phủ, buộc ngựa vào cọc, đưa hai phạm nhân vào, nói với chủ quán: 

 - Đây là hai phạm nhân, nhờ bác chủ trông coi cẩn thận cho, có phòng nào khóa chắc chắn không? 

 Chủ quán đáp: 

 - Quý khách có việc quan trọng giao cho, xin hãy cứ tin ở tiểu nhân. 

 Thúc Bảo lên phòng trọ ngồi, dặn chủ quán: 

 - Nhờ bác chủ mang hộ hành lý trên ngựa vào cho, rồi cởi yên cương, nhưng đừng cởi chăn phủ, sợ ngựa bị lạnh, dẫn vào tàu ngựa, cho thức ăn tốt cho. Sau đó hãy cho ta một phòng nào sạch sẽ để nghỉ ngơi. 

 Chủ quán làm vẻ chiếu cố: 

 - Thưa quý khách, có mỗi một phòng nhỏ ở trước cửa, chuyên dành cho các bậc quan chức dưới các huyện có việc về phủ, nên ít khi phải mở, nay mời quý khách hãy tạm thời nghỉ ở đấy. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Thế thì tốt! Xin đa tạ bác chủ! 

 Chủ quán cầm đèn, đem hành lý vào, bày trà nước, rồi cơm rượu, ân cần đứng bên rót rượu, cười nói vui vẻ: 

 - Xin quý khách cho biết cao danh quý tánh để tiểu nhân ghi vào sổ trọ. 

 Thức Bảo đáp: 

 - Ta họ Tần, là công sai của phủ Tế Châu, tỉnh Sơn Đông, đến trình công văn ở phủ đây. Thế còn bác họ gì? 

 Chủ quán đáp: 

 - Tần quý khách, quý khách không nhìn thấy biển hàng ở ngoài cửa sao: "Thái Nguyên Vương điếm", cả họ tên là Vương Thị, Thị là cáo thị ấy mà. 

 Thúc Bảo nói: 

 - Tôi với bác là chỗ chủ khách, ai lại dám gọi tên húy của bác. 

 Chủ quán cười đáp: 

 - Các quan khách vãng lai, lấy chữ Thị tên tiểu nhân đảo ngược, gọi là Vương Tiểu Nhị *. 

 * Chữ thị, nghĩa là bày ra, gồm trên chữ thị, dưới chữ tiểu, nên khách hàng “chiết tự" thế. 

 Thúc Bảo nói: 

 - Đó cũng là cách đùa lý thú đấy. Thường thì ai mở quán trọ, người ta hay gọi là Tiểu Nhị, như kẻ làm bà mối, gọi Vương bà vậy thôi. Ta gọi bác là Tiểu Nhị là gọn hơn cả. Cho ta hỏi bác chủ, Sái thái thú nhận phát công văn vào những ngày nào? 

 Tiểu Nhị đáp: 

 - Tần quý khách không phải lo lắng gì chuyện đó. Sái thái thú chúng tôi rất là tài hoa. Sáng mai vào công đường nạp công văn, đến sáng ngày hôm sau thì vào lĩnh công văn. Quý khách ở quán trọ này chỉ phải hai ngày chờ đợi. Chỉ sợ Tần quý khách còn phải đi thăm bạn bè, hoặc mua sắm ít sản vật địa phương thì mới phải tính toán, còn việc công đường thì chẳng có gì đáng ngại. 

 Thúc Bảo nghe xong những lời dài dòng rồi đi ăn chiều, sau đó đóng cửa ngủ kỹ. 

 Sáng hôm sau, Thúc Bảo dậy rất sớm, rửa mặt, thay quần áo, chuẩn bị đầy đủ, vào phủ đường nạp công văn có gắn niêm phong cho Sái thái thú, giải phạm nhân vào. Thái thú sai mở công văn xem xong, truyền mở công khóa, hẹn Thúc Bảo ngày mai vào lĩnh công văn trở về. Rồi giao hai phạm nhân xuống nhà ngục thu nhận, Thúc Bảo mới xách gông khóa về quán trọ, ăn cơm trưa, ra phố xem chợ búa, chùa chiền, trời vừa kịp tối, thế là hết ngày hôm đó. Ngày mười bảy vậy. 

 Sáng ngày mười tám, Thúc Bảo vào phủ lĩnh công văn, lúc này mặt trời đã cao bằng ba cây sào, vào khoảng giờ tỵ*, cổng phủ vẫn chưa mở, người ra vào vẫn chẳng thấy một ai, các dãy nhà cửa, công đường vẫn lặng như tờ. Gần cổng rất nhiều quán rượu lớn hôm qua còn thấy đông đúc huyên náo, hôm nay cũng thấy đóng cửa, ngay cả cánh cửa treo ở cổng phụ cũng chẳng thèm kéo lên. Có một quán rượu, cửa nửa đóng nửa mở, Thúc Bảo bước vào thấy cạnh quầy, mấy gã thanh niên đang cười đùa, Thúc Bảo chắp tay hỏi: 

 - Chào các bạn trẻ, sao đến giờ mà vẫn chưa thấy Sái thái thú ra công đường các bạn? 

 * Giờ tỵ: Khoảng từ 9 giờ đến 11 giở sáng, theo cách tính thời gian của Trung Quốc. 

 Một thanh niên trong đám đông hỏi: 

 - Ông anh hình như nói không phải tiếng vùng Lộ Châu chúng em. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Tiểu đệ vốn là công sai của Sơn Đông. 

 Thanh niên kia tiếp: 

 - Ông anh không biết Sái thái thú có việc đã đi rồi sao! 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Đi đâu kia? 

 Thanh niên kia đáp: 

 - Đi phủ Tinh Châu, thuộc Thái Nguyên này. 

 Thúc Bảo hỏi tiếp: 

 - Có việc gì mà phải đi Thái Nguyên hở bạn trẻ? 

 Thanh niên kia đáp: 

 - Đường Công Lý đại nhân vừa được thánh chỉ cho về quê là Đạo hành Hà Bắc, trông coi các châu, huyện thuộc Hà Bắc, tỉnh đường Thái Nguyên vừa có văn thư xuống, đòi các quan đứng đầu phủ, châu huyện về dự lễ mừng. Quan thái thú được báo tin vào lúc canh ba, đã lập tức lên đường đi Thái Nguyên mừng Lý đại nhân rồi. 

 Thúc Bảo thầm nghĩ: "Đây chính là Lý đại nhân mà mình đã cứu thoát bọn cướp ở Đồng Sơn đây". Chàng hỏi tiếp: 

 - Xin làm ơn mách cho tiểu đệ, bao giờ thì thái thú mới về. 

 Thanh niên kia đáp: 

 - Còn lâu. Lý đại nhân danh vị lớn, lại nhân hậu, quan viên lớn nhỏ tới mừng, nhỏ thì có lẽ không được dự tiệc, quen biết thì chẳng mấy khi gặp gỡ, nhất định là yến ẩm chuyện trò. Đường lại xa, nên lâu cũng phải hai mươi ngày, chóng ra thì cũng phải nửa tháng mới trở về được. 

 Thúc Bảo nghe thấy thế, nghĩ cũng chẳng còn hỏi gì thêm nữa, quay ra về quán trọ, ngày ba bữa ăn rồi chờ đợi quan thái thú trở về. 

 Người ta ở nhà mình, ngày ngày vô sự, ăn rồi là xong, nhưng Thúc Bảo là khách trọ, cơm hàng cháo chợ, đã hơn mười ngày trời, Vương Tiểu Nhị phải cung đốn. "Thái Nguyên Vương điếm” lại là nơi bọn công sai lui tới nhiều hơn cả, lúc này quan phủ không làm việc, chẳng ai đến công đường làm gì, cho nên biển hàng, đèn lồng ngoài cửa, Tiểu Nhị cũng chẳng buồn treo. Tiểu Nhị bàn bạc với vợ ở nhà trong: 

 - Mình xem, ông khách họ Tần này đúng là tướng tinh con hổ trắng hãm tài. Từ ngày ông ta đến đây, có mỗi một ông thái thú cũng bỏ công đường đi mất, được vài ba lạng bạc vụn, chui tất vào bụng của ông khách quý này rồi. Hôm qua, ông ta đi đâu chán rồi về ăn, canh rau không thèm đụng tới, xô bàn vứt bát đứng dậy. Tôi cũng đã định mở miệng đòi ít tiền. Mình lâu nay vẫn thường chê trách tôi không biết ăn nói, để đến nỗi khách khứa ghét mặt, tìm sang các quán khác cả, nay mình hãy mở miệng hỏi ông ta lấy mấy lạng bạc. Lời của đàn bà, dù nặng dù nhẹ, ông ta cũng còn chịu nổi chăng? 

 Vợ Vương Tiểu Nhị là Liễu Thị, vốn hiền lành, biết điều, lại chịu khó, yên lặng nghe chồng nói xong mới nhẹ nhàng khuyên giải: 

 - Mình chẳng cần hỏi. Vào phòng ông ta, nhìn sự thể ra sao, nét mặt thế nào là biết ngay thôi mà. Xem ra ông khách họ Tần này cũng không phải không có tiền đâu. Từ tận Sơn Đông tới đây công cán, chờ lấy được công văn trở về, ông ta sẽ tính toán đầy đủ thôi. 

 Hai ngày nữa nặng nề qua đi. Tiểu Nhị dành phải tìm cách hỏi tiền ông khách trọ. Chờ đến lúc Thúc Bảo sắp ăn trưa, Tiểu Nhị chưa dọn ăn vội, mà tự mình bưng một ấm trà nóng vào phòng, rồi quay ra, đứng dựa vào cửa sổ, cười nói với Thúc Bảo: 

 - Tiểu nhân có điều muốn nói, xin Tần quý khách đừng giận. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Ta với bác chủ là quan hệ chủ khách, chẳng có gì mà phải giận, dù chỉ là một câu cũng vậy. 

 Tiểu Nhị làm ra vẻ từ tốn: 

 - Mấy bữa nay quán kiếm không ra tiền, lãi đã không mà có ít vốn cũng hao hụt, đến rau canh cũng không dám mua nhiều, định nói với Tần quý khách chi cho ít nhiều để lấy cái mua bán, không biết có được hay không? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Chuyện này thì đúng quá, sao bác chủ còn phải giữ ý mãi thế. Ta cũng quên mất, chưa từng đưa cho bác đồng nào bác lấy đâu ra vốn nhiều mà cung đốn ta mãi được. Nhờ bác vào trong hòm, mang hành lý của ta ra đây, ta sẽ lấy bạc đưa bác. 

 Tiểu Nhị chỉ còn chờ đến thế, chạy ngay vào phòng, mở hòm ở đầu giường Thúc Bảo, lôi ngay gói hành lý ra, bưng cẩn thận đến trước mặt Thúc Bảo. Rõ là: "Đầu giường tiền của hết, tráng sĩ ngẩn ngơ hồn". 

 Lúc này Thúc Bảo trong lòng thầm nghĩ: "Tiếng tăm của cải đáng ra là không bao giờ nên rời khỏi thân mình. Bây giờ bao nhiêu tiền đi đường, đều để Phàn Kiến Uy mang đi Trạch Châu cả, làm thế nào bây giờ?". 

 Vì sao có chuyện tiền bạc của Thúc Bảo lại bị Kiến Uy mang đi? Vốn cả Tần lẫn Phàn, đều là những kẻ hào kiệt ở phủ Tế Châu, khi cả hai được điều đi giải bốn tên phạm nhân đến Trạch Châu, Lộ Châu xung quân, lệ phí đều nhận ở viên thư lại coi kho trong phủ, viên này cũng vốn biết tình thân giữa Phàn với Tấn, nên y cân bạc luôn một lần phát cả cho Phàn. Sau mấy ngày đi cùng, đến chỗ phải chia hai, hành lý, công văn thì nhớ chia cẩn thận, nhưng đến tiền bạc thì lại quên không chia, vì vậy, bao nhiêu tiền đi đường Phàn mang đi Trạch Châu mất cả. Giờ lục tìm đồ đạ trong túi, Thúc Bảo mới nhớ ra, lại đã trót nói với Tiểu Nhị, giờ biết làm thế nào, Thúc Bảo lúng túng, máu dồn cả lên mặt đỏ bừng. 

 Tiểu Nhị thấy Thúc Bảo cứ khoắng tay mãi trong túi, y sinh nghi tự hỏi: "Không biết trong đó tiền nhiều ít, ông ta đưa cho mình bao nhiêu, mà mãi không thấy lấy ra được thế kia?". Không rõ rồi Thúc Bảo làm thế nào để qua được chuyện này với Vương Tiểu Nhị, xin xem hồi sau phân giải. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Bảy

. Sái thái thú thưởng phạt kịp thời,

 Vương tiểu nhị nắng mưa trở mặt.

 Thơ rằng: 

 Gió vàng hiu hắt khách áo đơn 

 Đêm tối lạnh lùng dế kêu hờn 

 Một ngọn đèn bóng vách chập chờn 

 Trăng sao vằng vực lòng héo hon 

 Con trẻ phương trời tình chon von 

 Mẹ già tóc bạc dựa lan can 

 Túi không tiền lủi thủi một thân 

 Tri kỷ nào ai vắng tin nhàn 

 Mắt đẫm lệ trông vời quan san 

 Tráng sĩ ca:”Đường đời gian nan” . 

 Người đời thường nói: "Nghèo trong nhà chưa phải nghèo, nghèo giữa đường mới giết người". Thúc Bảo đãng trí, hứa trả tiền cho Tiểu Nhị, không nhớ tiền bạc của cả hai do Kiến Uy mang đi. Một lời đã nói, biết làm thế nào bây giờ, đang lúc băn khoăn, lục khăn gói may sao lại thấy một gói bạc. Gói bạc này ở đâu ra? Đó chính là tiền của mẹ Thúc Bảo đưa mua lụa ở Lộ Châu, dành may có lúc trăm tuổi, Thúc Bảo đành lấy ra, đưa cho Tiểu Nhị: 

 - Đây có bốn lạng, mai kia tính toán một thể, hãy cứ cầm lấy đã. 

 Tiểu Nhị đáp: 

 - Quý khách chưa đi, tính toán làm gì, xin ghi vào sổ cho nhớ thôi? 

 Tiểu Nhị lấy được bạc, mặt mày hớn hở, vào nhà trong báo cho vợ biết, rồi phục dịch Thúc Bảo như cũ. Thúc Bảo chưa hết lo lắng, túi không tiền, công văn chưa lĩnh được, đã thêm mấy ngày nữa rồi, mà thái thú vẫn chưa về, đừng nói chuyện lần lữa nơi đất khách, Tiểu Nhị lại đòi tiền, biết lấy đâu ra. Miệng tuy không nói ra, nhưng lòng luôn áy náy, Thúc Bảo chẳng biết bàn bạc với ai, ăn no xong, nằm dài trên giường chờ đợi. Đúng là: 

 Khi mừng mặt nở như hoa 

 Khi buồn ngủ gật ngủ gà ngẩn ngơ. 

 Ba ngày nữa qua, Sái thái thú mới về. Công đường mở ra, trống nghe rộn rã, nha dịch, phòng lại phòng rộn rịp ra vào. Thúc Bảo là công sai đến làm việc ở châu, nên đi cùng với bọn quan nha ra đón thái thú. Cách thành mười dặm mới gặp thái thú cùng tùy tùng trở về đường xa khó nhọc, thái thú lặng lẽ ngồi trên kiệu vào thành. Thúc Bảo vì nóng ruột chờ lâu nay, nên chẳng nghĩ đến nghi lễ gì, đến ngay trước kiệu, quỳ lạy thưa: 

 - Tiểu nhân là công sai của phủ Tế Châu thuộc Sơn Đông giải phạm nhân tới đây, chờ xin công văn của quan lớn để trở về đã lâu. 

 Đang giữa đường, lại mệt nhọc, ở tư thế nửa nằm nửa ngồi, nửa thức nửa ngủ, quan nào chịu làm việc. Bọn lính khiêng kiệu, cáo mượn oai hùm, nạt lớn: 

 - Đứng dậy mà cút cho mau. Quan thái thú chúng tao không có nha môn, công đường làm việc hay sao, mà phải phê văn giữa đường giữa chợ cho mày! 

 Thúc Bảo đành đứng dậy, lính kiệu lại chạy tiếp. Thúc Bảo nghĩ thầm: "Lại phải thêm một ngày nữa. Cả tiền lẫn thức ăn cho ngựa nữa là lại thêm một lạng. Thái thú vừa đường xa mệt nhọc trở về, biết đến ngày nào mới làm việc?". Thúc Bảo liền chạy lên phía trước, định xin lính kiệu đi chậm lại, để lạy trình thái thú. Nhưng Thúc Bảo không lượng sức mình níu tay một lính kiệu, lính kiệu vội lăn ra, làm cả ba lính kia bất ngờ giữ không kịp, kiệu nghiêng ngửa. Thái thú đang nửa thức nửa ngủ, vì thế ngã lăn quay, nổi giận thét lớn: 

 - Thằng này vô lễ! Tao không có nha môn sao? 

 Rồi quát tay chân đè Thúc Bảo ra mà đánh. Thúc Bảo không còn đường cãi, ngay trước cổng phủ, bị bọn lính hầu lột quần áo đánh cho mười trượng. Nếu là người quen, chúng đã nhẹ tay, đường nào Thúc Bảo là người nơi khác đến, nên chúng càng ra tay, đến nỗi nát da lòi thịt, máu chảy lênh láng. 

 Ông Văn Vương xưa còn bị ngồi tù 

 Chàng Tôn Tẩn trước bị bạn nó thù nó cắt gân chân. 

 Vương Tiểu Nhị lúc ấy đứng trước quán trọ của mình trông thấy rõ cả, bèn vào nói với vợ: 

 - Cái anh chàng họ Tần này thật không rõ là loại người thế nào. Ở quán ta cả tháng, chỉ mỗi một gói quần áo. Trong phủ đường, không biết đường thưa gửi, chẳng biết lễ phép, vừa rồi ngay trước cổng phủ, bị lính chặn ra đánh mười trượng! 

 Quan thái thú vào công đường. Thúc Bảo lê về quán trọ. Tiểu Nhị ra đón thăm dò: 

 - Chào Tần quý khách đã về! 

 Giọng nói Tiểu Nhị không bình thường như mọi ngày, mà có ý giễu cợt: 

 - Tần quý khách! Quý khách có vẻ không giống bậc hào kiệt ở công môn. Ý tứ quan nha, quý khách không biết sao. Quan thái thú đây thế là còn nhân từ đấy, gặp phải tay khác, quý khách còn lâu mới được tha về? 

 Thúc Bảo tức tối quát: 

 - Không dính dáng gì đến bác! 

 Tiểu Nhị cãi: 

 - Đánh là đánh trên người quý khách, liên quan gì đến tiểu nhân. Đấy là tiểu nhân nói thế thôi, xin đi dọn bàn cho quý khách ăn vậy! 

 Trong lòng vẫn còn tức tối, Thúc Bảo đáp: 

 - Chẳng ăn uống gì nữa. Cho một chậu nước nóng đây! 

 Tiểu Nhị đáp: 

 - Có nước nóng ngay! 

 Thúc Bảo lấy nước nóng, rửa sạch đất bụi bám ở vết thương. Lúc này trời cũng vừa chập choạng tối. 

 Ngày hôm sau, cố nhịn đau, Thúc Bảo vào công đường lĩnh công văn, tới bên thềm, không quên cúi đầu làm lễ. Sái thái thú quả là vị quan đức độ, hiển lành, đi xa mệt mỏi về, mờ sáng ra đã lên công đường. Văn từ, cáo trạng rất nhiều, nhưng xử lý rất thứ tự, rõ ràng, ai nấy đều bái phục. Thúc Bảo vừa cúi lạy vừa thưa: 

 - Tiểu nhân là công sai của Lưu thái thú ở Tế Châu, chờ xin quan lớn công văn trở về. 

 Sao lại có chuyện hôm nay Thúc Bảo kể đến tên Lưu thái thú, vốn là suốt đêm hôm qua, mình mẩy đau xót không ngủ được, nghĩ ra Lưu thái thú vốn là bạn đồng niên rất thân với Sái thái thú, xưng mình là công sai của Lưu thái thú, có lẽ làm Sái thái thú để ý, vừa lòng chăng. Sáng nay, quả như thế. Thái thú đổi giận, vồn vã hỏi: 

 - Anh là công sai của Lưu thái thú sao? 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Dạ vâng! Tiểu nhân là công sai dưới trướng Lưu thái thú. 

 Sái thái thú giảng giải: 

 - Hôm qua trước cổng phủ đường, anh cũng có hơi lỗ mãng. Ta phạt anh mười trượng, nghĩ cũng quá, phải không? 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Dạ, quan lớn đánh thật đáng tội ạ! 

 Chờ cho nha lại làm xong công văn, Thái thú cầm bút ký vào, nhưng vẫn chưa đưa ngay cho Thúc Bảo. Thái thú ngẫm nghĩ: "Lưu đại huynh ở xa, có biết đâu chuyện nghiêng kiệu, mình ngã lăn, lại cho rằng mình hẹp hòi, bạc bẽo, viên công sai tin cậy của Lưu thái thú từ nghìn dặm tới mà nỡ đánh mười trượng". Sái thái thú bèn gọi thầy lại coi kho, lấy ba lạng bạc trong mục công vụ, thưởng cho Thúc Bảo làm lộ phí. Lát sau đã thấy thầy lại mang bạc đến, đưa cho Thúc Bảo, kèm cả công văn. Thúc Bảo cúi đầu tạ ơn, nhận cả hai thứ, về quán trọ. 

 Vương Tiểu Nhị đang ở trong quán tính sổ sách, thấy Thúc Bảo về hỏi: 

 - Lĩnh được công văn rồi. Tiệc rượu tiễn hành còn chưa kịp sửa soạn, làm thế nào bây giờ? 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Tính toán hết bao nhiêu lạng cả thảy? 

 Tiểu Nhị đáp: 

 - Ngồi nhẩm thử tính phác trước xem sao! 

 Thúc Bảo giục: 

 - Nào thử nói xem nào? 

 Tiểu Nhị kể lể: 

 - Quý khách vào từ ngày mười sáu tháng tám, hôm nay là ngày mười tám tháng chín, tháng tám đủ, cộng tất cả là ba mươi hai ngày. Quán này đã có lệ ngày đến, ngày đi không tính tiền, mà gói vào bữa rượu tiễn hành, vậy là còn ba mươi ngày tròn. Thức ăn ngon cho ngựa, gộp với mỗi ngày ba bận cơm rượu của quý khách, tất cả là một lạng bảy một ngày, thế là hết hai mươi mốt lạng, đã đưa bốn lạng, hiện còn thiếu mười bảy lạng*. 

 *Cách tính cân lạng, ly ngày xưa rất phức tạp, không hoàn toàn theo hộ thập phân. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Đây là ba lạng của Sái thái thú vừa mới cho, hãy cứ biết thế đã. 

 Tiểu Nhị tính: 

 - Thế là còn thiếu mười bốn lạng nữa. Cũng chẳng giấy tờ lôi thôi làm gì, chỉ cần quý khách thanh toán sòng phẳng. Tiểu nhân xin cân lại số bạc này! 

 Thúc Bảo gàn: 

 - Bác chủ cứ từ từ. Ta chưa đi ngay được đâu. 

 Tiểu Nhị hỏi: 

 - Tần quý khách đã lĩnh được công văn rồi. Còn việc gì nữa đâu? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Ta có một người bạn họ Phàn, cùng đi công sai cho Tế Châu nhưng đến mãi Trạch Châu, tất cả tiền lộ phí đều ở khăn gói họ Phàn cả. Có lẽ Mã thái thú ở Trạch Châu, cũng đi Thái Nguyên mừng Lý đại nhân rồi, nên vài ngày nữa, họ Phàn lĩnh được công văn, tới tìm ta, ta sẽ thanh toán đầy đủ. 

 Tiểu Nhị đáp: 

 - Tiểu nhân mở cửa hàng đón khách. Quý khách cứ lần lữa như thế, thì quả đem lời lãi cho quán nhiều lắm! 

 Tiểu Nhị miệng nói thế, nhưng trong lòng thầm tính. "Ông khách này còn nợ những mười bốn lạng nữa, có mỗi gói hành lý, liệu đáng mấy đồng. Chỉ còn con ngựa, há mồm chờ ăn, ông ta mà cưỡi đi là xong, ai ra đó mà gàn dược. Có chạy đến phủ đường, thì ai mà xét xử việc này cho mình, rồi thì vừa tiền của, vừa tốn công hầu hạ. Không chứa nữa, không cho ăn nữa, đến bữa đừng dọn nữa liệu có xong. Chỉ có cách này là hay thôi. Công văn ông ta đang để kia, nhất định phải có nó mới về gặp quan Tế Châu được, chi bằng cứ giữ chặt lấy là ổn hơn cả”. Nghĩ rồi, Tiểu Nhị cầm công văn còn để trên mặt bàn xem, rồi bảo vợ: 

 - Cầm lấy công văn này. Để ở trong phòng trọ, quý khách thường khóa cửa đi vắng, trời cuối thu rồi, mưa liên tiếp, phòng trọ thì dột nát, lỡ ướt nát thì lại phiền đến nhà hàng. Mình cầm lấy, cất kỹ vào trong hòm, đợi lúc nào quý khách lên đường, ta sẽ trả lại đầy đủ. 

 Thúc Bảo trong lòng cũng không biết rõ tâm địa của Tiểu Nhị giả vờ cẩn thận, nên cũng lựa lời đáp: 

 - Thế thì tốt lắm! 

 Nói chưa dứt lời, Tiểu Nhị đã đưa công văn cho vợ đem vào trong nhà. 

 Mẹo quỷ níu đuôi khanh tướng lại 

 Trò ma nuốt ngọc Nguyệt Cô đi* 

 * Khanh tướng xưa có dắt đuôi con điêu dài trên mũ. Hồ Nguyệt Cô, một con cáo thành tinh say mê tướng nhà Đường Tiết Giao, bị Tiết Giao lừa nuốt mất ngọc quý, cũng lả chuyện đời Đường. 

 Tiểu Nhị bảo bọn đàn em: 

 - Không cần phải bày rượu tiễn hành nữa. Tần quý khách còn chưa đi đâu, nếu bày tiệc rượu, lại ra ý đuổi khách mất, chỉ cần dọn bữa ra đây cho khách thôi. 

 Bọn đàn em đã biết cách nói làm hiệu của ông anh, bát đĩa bày ra, nhưng giảm bớt thức ăn hai đĩa, mọi thứ cũng ít hơn, xấu hơn, trông thật thảm hại. Bữa cháo sáng cũng vậy, vừa nguội vừa nhạt. 

 Thúc Bảo không biết làm thế nào, đành yên lặng chau mày uống chén trà, rồi chẳng biết làm gì, đành ra khỏi cửa, theo đường quan ngóng bóng Kiến Uy. 

 Bơ phờ dốc túi tiền lưng cạn 

 Ngàn dặm xa vời ngóng cố nhân. 

 Xưa thường nói: "Ngờ người thì người dễ xấu, chờ người thì người càng lâu tới". Thúc Bảo chờ mãi đến tối mịt, thấy gió thu đã tắt nắng vàng, lá úa trên cây bay lả tả, trên cầu, trên đường, xe ngựa về chiều càng cố đi nhanh hơn, nhưng nào thấy bóng Kiến Uy đâu? Một ngày dài đã qua, Thúc Bảo thẫn thờ bước dưới hàng cây ven đường, miệng lẩm bẩm: 

 - Phàn Kiến Uy, Phàn Kiến Uy! Hôm nay mà anh vẫn không tới, ta cũng chẳng còn mặt mũi nào mà về quán trọ để chịu sự coi rẻ nữa đâu! 

 Nhưng rồi tối hắn, cũng đành phải về. Thực ra Kiến Uy cũng chưa từng hẹn với Thúc Bảo ở Lộ Châu, chẳng qua trong lúc luống cuống, Thúc Bảo quên hẳn, lại thêm tiền bạc Kiến Uy đều mang đi cả nên càng chắc chắn Kiến Uy sẽ trở lại Lộ Châu, nhưng càng chờ càng xa thăm thẳm. 

 Sáng hôm sau, Thúc Bảo lại ra đón, vừa nghĩ: "Hôm nay mà Kiến Uy vẫn không thấy, nhất định phải tìm đường quyết cho xong chuyện này thôi". Tối đến vẫn chẳng thấy bạn đâu, chim đã lần về tổ mẹ con xum vầy ríu rít, Thúc Bảo âm thầm từng bước, nghĩ tới mẹ già ở quê nhà mỏi mất chờ mong, ai ngờ con đang gặp đoạn gian nan, mỗi bước mỗi khó thế này. Chờ mãi tới lúc lên đèn, Thúc Bảo mới lần bước về quán trọ. 

 Thúc Bảo bỗng thấy trong phòng mình có đèn thắp sáng, lòng nghi hoặc nghĩ: "Hôm nay sao lão chủ quán lại tử tế thế này"? Đứng lại nhìn kỹ, thấy trong phòng có nhiều người đang hét hết "yêu” lại “lục"* bát chén bày đầy, có cả Vương Tiểu Nhị. Thấy Thúc Bảo, Tiểu Nhị vội nói: 

 - Ông anh, quả thật tiểu nhân khi không phải. Hôm nay có một toán khách tới. Bọn họ toàn hạng vàng bạc đầy người, xưa nay hiếm thấy mà hiện chỉ còn mỗi phòng của ông anh, ai ngờ chuyện thế này, nếu ông anh ra đi khóa chặt cửa phòng lại là một nhẽ. Tiểu nhân gàn không cho họ vào. Họ bảo "Chủ quán thì chỉ cần tiền thuê phòng, còn ông khách họ Trương, hoặc ông họ Lý trọ cũng thế cả thôi. Chúng ta trả nhiều tiền hơn, thế là được rồi"! Tiểu nhân thấy họ nói thế, chẳng biết làm thế nào, chỉ sợ họ nổi nóng. 

 * Những tiếng hô trong một cách đánh bạc như đánh chẵn lẻ của ta. 

 Nghỉ lấy hơi xong, Tiểu Nhị lại liến thoắng: 

 - Thế là họ cứ ùa vào, không chịu ra nữa. Tiểu nhân sợ họ đụng đến hành lý của ông anh, nên đã mang cất vào một chỗ cẩn thận phía đằng sau. Thôi thì ông anh ở đây đã lâu, cũng coi như người trong nhà. Còn đối với bọn khách này, tiểu nhân phải lột được họ ít nhiều mình phải biết quyền biến, ông anh đừng lấy làm lạ. Ông anh hãy rộng lòng tha lỗi cho tiểu nhân! 

 Đã mấy hôm nay Thúc Bảo không hề thấy Tiểu Nhị mặt mày rạng rỡ thế này, lại vốn có tấm lòng khí khái của bậc hào kiệt, sẵn sàng bỏ qua những tính toán nhỏ nhặt của kẻ tiểu nhân, nên vẫn ôn tồn nói với Tiểu Nhị: 

 - Bác chủ ơi! Hàng quán của bác là tùy bác sử dụng. Nhưng liệu có còn chỗ nào cho ta có thể ở tạm chăng. Ta thì thế nào cũng được thôi! 

 Tiểu Nhị liền cầm đèn dẫn đường, Thúc Bảo đi theo, quanh co khuất khúc, ra mãi tít sau nhà, Tiểu Nhị vừa đi vừa soi từng bước, rồi chỉ cho Thúc Bảo một góc. Thúc Bảo nhìn kỹ, thì không phải buồng ngủ không phải nhà bếp, mà là một gian nhỏ, một mái thấy trời, mái còn lại cũng dột nát, áp sát vào hồi nhà bếp, chất đầy rơm rạ. Hành lý của Thúc Bảo đã thấy vứt lăn lóc trong đó, nửa gian đầy củi, cỏ khô cho ngựa, bốn vách trống không, gió lùa thông thông. Chỗ để cái đèn cũng không có, nên đành đặt dưới cái nền đất, lại phải lấy mấy viên gạch vỡ che lại cho khỏi gió. Tiểu Nhị nói với Thúc Bảo: 

 - Ông anh hãy tạm ở đây ít ngày. Chờ lúc nào bọn khách kia đi rồi, ông anh lại trở về phòng cũ thôi mà. 

 Thúc Bảo cũng chằng buồn đáp, Tiểu Nhị quay mặt đi thẳng. 

 Thúc Bảo ngồi bệt xuống đống rơm. Đặt chiếc giản ngang đùi, lấy ngón tay bật bật mấy sợi dây tua buộc ở đầu giản, hát: 

 Lạnh lùng quán trọ gió lùa mưa 

 Trời thử anh hùng thật đủ trò 

 Chí khí bình sinh lòng vốn hẹn, 

 Thở dài một tiếng tỉnh hay mơ? 

 Đang ngâm, Thúc Bảo nghe như có tiếng chân người mỗi bước mỗi gần, rồi nghe có tiếng gõ khẽ vào khung cửa. Thúc Bảo vốn là kẻ hào kiệt, sẵn sàng chịu đựng mọi chuyện khổ, nhưng đến lúc này không thể nhẫn nại được, Thúc Bảo phải lên tiếng: 

 - Người nào gõ cửa đấy? Người đừng mang dạ tiểu nhân mà nghi ngờ con người Thúc Bảo này. Ta đường đường mà tới đây, ta cũng sẽ minh bạch mà ra đi. Huống chi văn thư, hành lý, yên cương, ngựa cưỡi đều đang ở trong nhà ngươi, dù ta có muốn trốn nữa cũng không xong kia mà! 

 Bên ngoài có tiếng đáp: 

 - Tần quý khách không cần phải to tiếng. Thiếp là Liễu Thị, vợ của Vương Tiểu Nhị đây mà. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Ta nghe mọi người khen chị hiền hậu, giữa đêm tăm tối thế này, chị tới đây làm gì? 

 Liễu Thị đáp: 

 - Anh chồng thiếp lỗ mãng, lại tính toán tiểu nhân, thấy Tần quý khách thiếu mấy lạng bạc, nói ra những điều không tử tế. Quý khách vốn là bậc đại trượng phu, xin hãy bỏ qua cho anh ấy. Thiếp vẫn thường khuyên anh ấy đừng theo thói thường lúc trắng lúc đen, anh ấy còn chửi mắng thiếp thậm tệ; hắt cả nước bẩn lên người thiếp. Mấy ngày hôm nay, không được gặp quý khách, chờ anh ấy ngủ rồi, còn một ít thức ăn buổi chiều, xin đem đến, quý khách ăn tạm vậy! 

 Than rằng khăn gói nhẹ như không 

 Trần thế nào ai giúp kẻ cùng 

 Cơm nắm Hoài âm thương quốc sĩ* 

 Có chăng nhi nữ biết anh hùng. 

 * Hàn Tín đời Hán, phải câu cá ở sông Hoài để sống, vẫn đói, được bà già đập sợi ở sông cho cơm ăn. Về sau theo Lưu Bang, giúp Lưu bình định thiên hạ, được phong Tề Vương, đem nghìn vàng tạ ơn bà già. 

 Thúc Bảo nghe thấy thế, rơi nước mắt, đáp: 

 - Chị đúng là Phiếu Mẫu ở Hoài âm, thương Hàn Tín mà cho cơm. Chỉ giận Tần Quỳnh này mai sau không được phong tới Sở Vương để báo ơn nghìn vàng. 

 Liễu Thị thưa: 

 - Thiếp là vợ của một tiểu nhân, không dám tự ví mình với bậc quân tử, sao nghĩ tới chuyện được đền ơn, chỉ thương quý khách trong cơn hoạn nạn. Mấy tuần nay gió thu thổi mạnh, mà quý khách vẫn ăn mặc đơn, vùng Lộ Châu thiếp vốn cao, gió lạnh nhiều, mà trên người chỉ có mỗi một tấm áo rách, hở cả da thịt, thì làm sao chịu nổi. Ngay cạnh mâm thiếp có để cả kim chỉ, ngày mai quý khách tìm chỗ kín gió, chịu khó khâu lại cẩn thận, cho kín da thịt, đợi đến lúc họ Phàn ở Trạch Châu tới, có tiền rồi thay bộ quần áo khác vậy. Sáng sớm mai, nếu không chịu được lời ra tiếng vào của chồng thiếp, thì cũng đừng ăn sáng nữa, hãy ra khỏi nhà cho xong. Thiếp góp nhặt được mấy đồng tiền, cũng để ngay bên mâm, quý khách hãy mua mấy cái bánh bột to mà ăn cho no lòng. Tối đến thì gắng về quán sớm. 

 Nói xong bấy nhiêu lời, Liễu Thị quay ra. Thúc Bảo ra cửa bưng mâm cơm vào, thấy một chuỗi tiền xâu bằng một sợi vải xanh, khoảng ba trăm đồng, một sợi chỉ dài, một cây kim. Thúc Bảo cầm cất cẩn thận một bên đống rơm. Trên mâm, một bát canh thịt hãy còn nóng, loại canh này, mấy hôm mới đến quán này, Thúc Bảo cũng từng ăn, thấy rất ngon. Nhưng từ ngày Tiểu Nhị tính toán chi li, thì đến rau cũng chẳng đủ, nói chi đến canh này, có lẽ hôm nay vì có mấy khách trọ giàu có, nên mới nấu, còn thừa một bát. Thúc Bảo định chưa ăn, nhưng bụng đói cồn cào liền nâng bát dốc một hơi hết sạch. 

 Trời đêm thu rất sáng, trằn trọc mãi không ngủ được, chợp mắt một lát, lại đã tỉnh, vẫn chưa sáng. Nhìn mái tranh chẳng còn, ánh trăng chiếu mờ mờ, Thúc Bảo cởi áo đơn mặc trên người, lấy kim chỉ khâu nhằng nhịt vài đường, rồi khoác vào người, nhân lúc chưa sáng rõ, ra khỏi nhà. 

 Sợi chỉ đường kim con nhớ mẹ 

 Tay nâng vạt áo lệ tuôn rơi. 

 Đem theo ba trăm đồng tiền, đã thấy người mạnh dạn hơn, dám nghĩ tới chuyện đi Trạch Châu, nhưng lại sợ lật đường, không gặp Kiến Uy, thì làm sao mà trở về, rồi Tiểu Nhị lại ngỡ bỏ trốn. Chi bằng hãy mua mấy cái bánh bột to nướng nóng lên ăn cho ấm bụng rồi ngồi trong một cái lều nào đó chờ xem sao vậy. Đứng lên ngồi xuống vài lần, trời đã về chiều, từ đường xa thấy một người mặc áo xanh đi lại, đầu đội nón Phạm Dương, lưng dắt đoản đao, vai khoác túi vải trông rất giống Kiến Uy, chờ lại gần, hóa ra không phải. Rồi thêm mấy người cưỡi ngựa đi săn về, Thúc Bảo nép sang bên đường tránh, bước ngang gần cửa một nhà ven đường, trước mặt có đặt một chậu than, một người đàn bà khoảng trên năm mươi tuổi, đang ngồi cầm một dây tràng hạt, hơ tay bên lửa. Thấy Thúc Bảo lại gần, người đàn bà nhìn kỹ từ đầu đến chân, rồi khuyên: 

 - Bác phải giữ gìn chứ, trông có vẻ rét lắm, chi bằng ngồi đây sưởi cho ấm đã. 

 Thúc Bảo thấy nói thế, liền đáp: 

 - Thật phúc đức! 

 Rồi liền ngồi xuống. Người đàn bà nói tiếp: 

 - Trông bác đường đường một kẻ đàn ông cao lớn, sao lại đến cảnh này. Có lẽ bác không phải người vùng này chăng? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Tôi người Sơn Đông, nhân chờ một người bạn mà mãi không thấy tới, bao nhiêu tiền bạc đều hết sạch, giờ không về quê được. 

 Người đàn bà nói: 

 - Nếu như thế, bác hãy nói rõ ngày giờ sinh, tôi sẽ bói cho bác một quẻ, xem bạn bác có đến không? 

 Thúc Bảo bên kể ngày giờ sinh. Người đàn bà lẩm nhẩm tính toán, rồi nói: 

 - Về đường công danh thì bác rất sớm làm nên. Sách đã nói rất đúng: "Sớm mừng lòng muốn gấp, kẻ tới chẳng vội vàng". Tới thì nhất định sẽ tới rồi, có điều còn hơi sớm. Phải hết tháng này, may ra mới có tin tức được. 

 Thúc Báo hỏi: 

 - Nghe giọng của bác, hình như cũng không phải người nơi đây. Xin cho biết quý tính? 

 Người đàn bà đáp: 

 - Tôi họ Cao, người Thương Châu. Nhân năm trước chồng qua đời cho nên mẹ con đến đây nương nhờ người thân. 

 Thúc Bảo nói: 

 - Con bác tên là gì, bao nhiêu tuổi rồi, giờ làm nghề gì để kiếm sống? 

 Người đàn bà đáp: 

 - Tôi chỉ có mỗi mình cháu, tên là Khai Đạo, vì nó cũng có sức, lại biết múa thương đánh kiếm, nên chẳng chịu làm nghề gì, thường chẳng bao giờ có nhà. 

 Nói rồi đứng dậy, nhìn Thúc Bảo, lại tiếp: 

 - Bác có lẽ chưa ăn uống gì. Tôi còn ít miến đây. 

 Nói xong vào nhà, bưng một bát miến nóng, mấy nhánh hành, một đôi đũa tre đặt trên bàn, mời Thúc Bảo. Thúc Bảo suốt ngày ngong ngóng, lại chuyện trò một hồi, trong bụng nào còn gì, không từ chối, liền ngồi ăn. Ăn xong, cảm ơn: 

 - Ơn bác cho ăn, chả biết Tần Quỳnh này còn có ngày báo được nghĩa bác không! 

 Người đàn bà đáp: 

 - Xem ra tướng mạo bác như thế, mai sau nhất định không chịu ở mãi dưới kẻ khác đâu. Sao lại nói những lời như thế. Giết người, cứu người mới nghĩ tới chuyện báo ơn, trả oán. Còn một miếng ăn, có đáng là bao. 

 Lúc này mọi nhà đều lên đèn. Thúc Bảo gật đầu, cảm tạ người đàn bà, rồi ra khỏi cửa, vừa đi vừa nghĩ: "Thật đáng hổ thẹn cho Tần Quỳnh này, ra khỏi nhà chưa từng giúp ai được một lần, lại gặp được hai người đàn bà phúc đức, làm cho lòng này cũng bớt uất ức". Vừa nghĩ, vừa đi, chính là: 

 Qua sông nước cuốn trôi vàng 

 Ở đời Phiếu mẫu dễ dàng gặp đâu! 

 *** 

 Lại nói Tiểu Nhị thấy Thúc Bảo chưa về, liền nghi ngờ nói với vợ: 

 - Chẳng biết ông khách họ Tần này là loại người nào đây. Không có tiền trả ta, nhưng biết đâu lại kiếm được tiền ăn uống chỗ khác rồi chắc? 

 Liễu Thị đáp: 

 - Người ta có thể kiếm ra tiền, có khi gặp bạn bè quen biết, mời đi một hai ngày, cũng chẳng biết được. 

 Tiểu Nhị nói: 

 - Nếu đã thế, tôi nhất định khảo tiền ông ta cho mà xem! 

 Sáng sớm hôm sau, Thúc Bảo vừa mới ra cửa đã thấy hai thanh niên trai tráng mặc áo xanh đứng bên cửa đón. 

 Chẳng biết có chuyện gì xin xem hồi sau sẽ rõ. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Tám

Cầm giản phường Tam Nghĩa, nếm miếng tân toan,

 Bán ngựa trang Nhị Hiền, gặp người hào kiệt.

 Thơ rằng: 

 Tuấn mã đen, tuấn mã vàng 

 Ấy tài thiên lý rõ ràng, ai hay 

 Tôn Dương vắng khách cao tay* 

 Nghìn vàng xương ngựa, xưa nay mấy người** 

 Trong tàu, nghểnh cổ than dài 

 Tít mây xanh, động đất trời, hí vang 

 Vó câu khấp khểnh dặm tràng 

 Hiên ngang leo núi Thái Hàng cao cao. 

 (Theo điệu "Điểm giáng thần") 

 Kiếm quý dù sắc bao nhiêu cũng không làm được nhà văn thích thú, ngựa giỏi bao nhiêu, người cày ruộng cũng chả mừng. Anh hùng tuy có ôm mưu cơ mở nước, yêu dân, nhưng mấy ai biết đến mà quý trọng, không những thế mà còn bị chế giễu, lăng nhục. Hai tay trai tráng, vái chào Vương Tiểu Nhị rồi hỏi: 

 - Đây có phải Tần quý khách không? 

 Tiểu Nhị đáp: 

 *Theo Sử Ký: Tôn Dương, tức Bá Nhạc, người thời Xuân Thu, giỏi xem tướng ngựa. Tôn qua Thái Hàng thấy một tuấn mã đang kéo xe, Tôn xuống xe, ôm cổ ngựa mà khóc. Ngựa hả hê, hí vang. 

 **Vua sai đem nghìn vàng mua xương ngựa hay. Lái ngựa thấy thế đổ xô tìm ngựa tốt đến bán. 

 - Đúng rồi! 

 Hai tay cùng níu: 

 - Xin mời quý khách đi theo chúng tôi! 

 Thúc Bảo cũng chẳng hiểu ra sao, theo ra đến nhà ngoài, chào hỏi xong, hai người ngồi xuống ghế. Thúc Bảo ngồi bên, Tiểu Nhị mang lại ba chén trà, mọi người uống cạn. Thúc Bảo lên tiếng trước: 

 - Hai anh có điều gì chỉ giáo. 

 Một người đáp: 

 - Chúng tôi cũng làm công sai ở phủ đường đây. Nghe tiếng Tần quý khách, muốn đến hỏi một vài câu. 

 Thúc Bảo giục: 

 - Có gì xin hai anh cứ hỏi. 

 Người kia tiếp: 

 - Bác Vương Tiểu Nhị đây mở quán trọ trước cổng phủ đường đã lâu năm, vốn có tiếng là người trung hậu, cũng từng biết đến chuyện nghìn ngày là dài, một ngày là ngắn, có lỗi gì với quý khách, mà quý khách nỡ làm tình làm tội Tiểu Nhị, chúng tôi chỉ hỏi quý khách có thế. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Thật không có chuyện ấy. Không biết ai nói với các anh vậy? 

 Một người đáp: 

 - Ai cũng nói quý khách đánh lừa chủ quán, kiếm chuyện không trả tiền ăn ngủ. Nếu quả như thế, cũng chẳng có gì khó, chúng tôi sẽ làm cho ra chuyện ngay thôi! 

 Thúc Bảo vốn cũng từng trải, thấy chuyện trắng đen cũng lắm, nên hiểu ngay hai người này là do Tiểu Nhị mời đến, dùng miệng người khác để hăm dọa mình, bèn đáp: 

 - Không hề có chuyện như thế. Xin thành thật nói với hai anh, tôi không hề lừa dối gì vợ chồng bác Vương Tiểu Nhị, chỉ bởi trong túi không còn một đồng, có bao nhiêu tiền đi đường thì người bạn họ Phàn mang theo cả. Anh ta đi công cán ở Trạch Châu, chẳng sớm thì muộn sẽ quay lại đây, lúc ấy sẽ thanh toán cho nhà hàng đầy đủ. 

 Lại một người nói: 

 - Quý khách Sơn Đông ơi! Bác tính toán thế nào đây, cho là có chờ bạn nữa, thì vẫn phải ăn bánh, ăn cơm, mới chờ được. Tiểu Nhị đây mở hàng ăn, quán trọ đi nữa thì cũng khó mà phục dịch như thế, tiền của đâu mà bù vào. Nhược bằng hắt hủi quý khách, tai tiếng đồn vang, Vương Tiểu Nhị thể tình ấm lạnh, thì con ma nào dám tới hàng, thôi thì dẹp quách quán trọ cho xong. Người ta thường nói: “Cậy người không bằng cậy mình", cầm bằng họ Phàn một năm qua đi vẫn không tới, phủ đường Tế Châu không thấy quý khách trở về giao công văn, lại không truy tìm cho ra, chuyện thành ầm ĩ ngay. Mọi chuyện tự mình phải tính toán vậy thôi! 

 Thúc Bảo nghe như tĩnh cơn say, nói với hai người: 

 - Được hai anh chỉ giáo. Đúng là không thể nào chờ anh bạn họ Phàn cho được. Có hai cây giản đây, đem bán quách, lấy tiền trả cho chủ quán, còn thừa bao nhiêu làm tiền ăn đường trở về. 

 Một người gọi Vương Tiểu Nhị lại, bảo: 

 - Bác Vương Tiểu Nhị ơi! Tần quý khách không định lừa bác đâu. Bán được đôi giản này, quý khách sẽ thanh toán bác đầy đủ. Hãy phục dịch quý khách như cũ đi! 

 Rồi cũng chẳng xưng họ tên, hai người vái chào ra đi. Chẳng khác nào: 

 Nhốt lồng chim quý im không hót 

 Mắc cạn rồng thiêng kẹt khó bay. 

 Vương Tiểu Nhị nghĩ thầm: “Cái lão họ Tần này thật gian trá, có hai thanh giản quý như vậy, mà vẫn không chịu bán ngay, phải đợi ta thuê hai thằng này dọa cho một hồi, mới nói chuyện bán. Có lẽ không nên để lão bán ra ngoài, sợ chúng nó sẽ mua rẻ mất. Ta phải nói lão cầm quách cho hiệu cầm đồ Long Mậu ở Lộ Châu này. Trả tiền cho hết bao nhiêu, còn thì sáng cho lão về. Ta kiếm thêm ít tiền, trả ngay cho hiệu cầm đồ, lấy đôi giản về, bóc hết lớp vàng mạ, đánh thành vòng cho vợ đeo, còn thì đem bán quách cả. Biết đâu vợ chồng mình phát to cũng nhờ đôi giản này đây". Nghĩ thế, mặt mày Tiểu Nhị rạng rỡ, quay vào nhà trong. 

 Thúc Bảo ngồi trên đống rơm, đặt đôi giản ngang đùi, nhìn mặt giản đã lên nước xanh lóng lánh. Đôi giản này không phải là đồng thường mà vốn là đồng hun, bên ngoài mạ một lớp vàng, từ ông nội Tần Húc, truyền lại cho cha Thúc Bảo là Tấn Di, đến Thúc Bảo nữa là ba đời. Thường treo bên yên ngựa, nên lớp mạ bên ngoài mòn đi gần hết, đến nỗi có chỗ lõm sâu, sáng loáng, đặt trên đống rơm, màu xanh lại càng nổi rõ. Thúc Bảo v một nắm rơm chùi kỹ thêm nữa, màu sắc lại càng rực rỡ. Bỗng thấy Tiểu Nhị đứng sững trước cửa, nói lấp lửng: 

 - Tần quý khách! Đôi giản này chẳng cần phải bán nữa. 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Sao lại không bán nữa? 

 Tiểu Nhị đáp: 

 - Ở Lộ Châu này có một hiệu cầm đồ là hiệu Long Mậu, sẵn sàng cầm mua bán bất kỳ đồ đạc gì. Nhưng chỉ một mình quý khách đem đôi giản này đến, thì chúng sẽ bắt nạt, trả chẳng khác gì củi mục. Chi bằng lâu nay tiểu nhân vốn đã phục dịch quý khách, xin đi theo cùng quý khách để cầm cho họ lấy được ít nhiều. Chờ họ Phàn ở Trạch Châu về, ta sẽ kiếm ít tiền chuộc lại, quý khách thấy thế có được không? 

 Thúc Bảo vốn không muốn bán đôi giản cho người khác, nên bằng lòng ngay: 

 - Ý bác chủ cũng hợp ý tôi, thế là xong nhé! 

 Bèn cùng nhau kéo đến phường Tam Nghĩa, tìm đến một ngôi nhà vừa cao vừa rộng, ở cửa treo biển đề: "Hiệu cầm đồ Long Mậu". Thúc Bảo bước vào, cầm đôi giản ném lên bàn cân, nghe hai tiếng inh tai. Chủ hiệu liền tức tỏ ý giận dữ, càu nhàu: 

 - Ha! Chẳng cần phải phá cái cân đòn của ta làm gì! 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Ta muốn cầm hai thanh giản này! 

 Chủ quán đáp: 

 - Cái đồ này dùng làm gì được, bán làm đồng nát vậy thôi? 

 Thúc Bảo cãi: 

 - Vũ khí của ta đấy, sao lại bảo là đồng nát được! 

 Chủ hiệu phán: 

 - Anh cầm nó mà múa máy được, thì mới gọi là vũ khí. Còn chúng ta, cầm không nổi, thì làm sao mà dùng nó. Chỉ có cách nấu chảy đúc nồi mà bán thôi. Thế không phải đồng nát là gì? 

 Thúc Bảo nói: 

 - Thôi thì đồng nát cũng được! 

 Rồi xách những quả cân to lại cân, cả hai thanh giản được một trăm hai mươi tám cân. Chủ hiệu lên tiếng kỳ kèo: 

 - Anh bạn, phải trừ hao ít nhiều chứ? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Lớp vàng tráng bên ngoài này đã không tính rồi, còn trừ nỗi gì nữa! 

 Chủ hiệu dè bỉu: 

 - Chẳng qua bôi tí cho đẹp, tính toán cái gì. Lại còn hai cái cán gỗ này nữa, làm sao mà tính bằng giá đồng được. Có cho vào lò nấu cũng thành than chứ ích gì, lại đen như sắt đóng chuồng ngựa, càng nặng! 

 Thúc Bảo dễ dãi: 

 - Thôi thì trừ quách tám cân lẻ. Còn lại vừa tròn một trăm hai mươi cân. 

 Chủ hiệu tính: 

 - Đồng này không phải đồng ở vùng Lộ Châu này nấu ra, nên giá mỗi cân là bốn phân. Cầm thì trừ đi năm lạng hai tiền. Thêm một phân đây cũng chẳng lấy. 

 Thúc Bảo nhẩm tính được bốn mươi lăm lạng, trả được mấy tuần tiền cơm, rồi vẫn không còn tiền về quê, nên lại cầm giản quay ra. Tiểu Nhị thấy vậy không bằng lòng ra mặt. Thúc Bảo về quán, ngồi buồn bã một mình trong phòng. 

 Gầm trời toàn mắt thịt 

 Ai kẻ biết trân châu 

 Thương bấy bao hào kiệt 

 Nổi chìm mấy lao đao. 

 Tiểu Nhị lại tìm vào bức bách Thúc Bảo: 

 - Ông anh làm thế nào có tiền trả cho tôi bây giờ đây? 

 Thúc Bảo phân bua: 

 - Bác chủ này, sao bác ngớ ngẩn vậy. Ta đi công cán thế này trừ vũ khí tùy thân, còn có mang theo cái gì đáng giá nữa đâu? 

 Tiểu Nhị vẫn lằng nhằng: 

 - Ông anh thử nghĩ kỹ xem? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Ta còn con ngựa hoàng phiêu nữa. Có người nào cần đến nó không? 

 Tiểu Nhị trách móc: 

 - Ông anh ở đây với tiểu nhân bao lâu rồi, mà chưa từng nghĩ tới chuyện này. Nói tới đôi giản đồng, thì người vùng Lộ Châu tiểu nhân còn chẳng biết thế nào là giả, thế nào là thật, chẳng biết dùng cái của ấy làm gì. Chứ còn nói đến ngựa, thì vùng Lộ Châu này vốn là vùng đất núi, nhà giàu, nhà nghèo đều cần đến đôi chân. Tiểu nhân xem ra con hoàng phiêu của ông chạy có vẻ khỏe đấy, nếu bằng lòng bán, thì có thể sớm về được. Việc công việc tư đều xong ngay! 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Liệu có được tiền không? 

 Tiểu Nhị đáp: 

 - Ngựa ra khỏi cửa, tiền lập tức vào nhà. 

 Thúc Bảo lại hỏi: 

 - Ở đây có chợ bán ngựa không? Chợ ở đâu? 

 Tiểu Nhị đáp: 

 - Chợ ngựa ở đường lớn phía cửa tây. 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Họp vào lúc nào? 

 Tiểu Nhị đáp: 

 - Canh năm đã bắt đầu có người, sáng rõ là đã tan rồi! 

 Tiểu Nhị gọi vợ dọn bữa cho Thúc Bảo ăn cơm nghỉ ngơi độ sáng mai đi bán ngựa. Đêm hôm ấy Thúc Bảo thao thức không ngủ được chỉ sợ ngủ quên, lỡ mất phiên chợ, thì phải đợi thêm một ngày dài nữa, khác nào ngồi trên chăn có cắm kim. Mới sang canh năm, Thúc Bảo đã trở dậy, dội nước lạnh rửa mặt, chải đầu. Tiểu Nhị soi đèn, dắt ngựa ra khỏi chuồng, Thúc Bảo nhìn đến ngựa, thì thất kinh: 

 - Lại đến nỗi gầy đói thế này sao? 

 Chỉ còn nhìn tình cảnh con hoàng phiêu này, cũng đủ thấy thể tình ấm lạnh. Từ khi tính toán tiền nong, thì đừng nói thức ăn tinh, ngay cả cỏ khô, hoàng phiêu cũng chẳng được ăn, đói hí vang trong chuồng mãi, thấy vậy Liễu Thị thương hại, vụng chồng cho một ít cỏ khô, vừa già vừa đắng, ăn được thì ăn, không ăn được cũng chẳng ai lo cho. Vì thế từ một con tuấn mã ngày đi ngàn dặm, trở thành một con ngựa gầy, chân xoạc như que, mũi rộng toác, bụng ỏng, lông xù ra. Thúc Bảo giận vô cùng nhưng không đám to tiếng, chỉ mới phàn nàn thế đã sợ Tiểu Nhị sừng sộ, ngay đến người còn không có mà ăn nữa là. Nên Thúc Bảo đành nín thinh dắt ngựa ra. 

 Tiểu Nhị mở cửa, Thúc Bảo ra trước, nhưng hoàng phiêu nhất định không chịu ra, là biết chủ nhân có ý bán nó. Bình thường thì giống vật làm sao mà biết dược điều đó, nhưng nó là một con vật rất nhạy cảm. Lúc này là đầu canh năm, nếu là lên đường về, thì ngay từ canh ba đã phải lo yên cương cho nó, treo buộc hành lý vào. Dắt ra khỏi chuồng lúc này, thì hoặc là uống nước, hoặc là gặm cỏ xanh, nhưng có uống nước lẫn gặm cỏ thì không phải giờ này, vì vậy hoàng phiêu hai chân trước trụ chặt ở bực cửa, hai chân sau như muốn khuỵu xuống nhất định không chịu ra. Với sức lực của Thúc Bảo, chả nói đến ngựa gầy, ngay hổ dữ cũng có thể lôi băng, nhưng giờ ấy hoàng phiêu gầy giơ xương, Thúc Bảo cũng không còn lòng nào co kéo với nó, chỉ nhẹ nhàng vỗ về gọi nó. Tiểu Nhị vốn là kẻ ác nghiệt, thấy ngựa nhất định không chịu ra, cầm ngay then cửa lại, cứ nơi chân sau gầy chỏi xương mà nện liên tiếp, đau quá, ngựa phải nhảy khỏi cửa. Tiểu Nhị đóng cửa lại, miệng nói theo: 

 - Không bán được, thì đừng có mà quay về nữa nhé! 

 Thúc Bảo dắt ngựa tới khu chợ cửa tây, chợ ngựa đã bắt đầu họp. Mua ngựa rồi bán ngựa đều là bọn công tử, vương tôn giàu có, áo gấm, quần lụa đi lại rối rít, khách xemlượn đi lượn lại kể không hết. 

 Có mấy tay thấy thúc Bảo dắt hoàng phiêu đến, bảo nhau: 

 - Các ngài ơi! Lại mà xem, có một tay khố rách dắt một con ngựa ốm đến đây này. Ngựa này thì chả cần xô cũng ngã cho mà xem! 

 Thôi thì mỗi đứa mỗi câu, đều thuộc loại mồm năm miệng mười cứ loạn xị cả lên. Thúc Bảo cố len được vào trong chợ, đi mấy vòng, nhưng chẳng ai thèm hỏi một câu, chỉ còn nhìn ngựa mà than thở: 

 - Hoàng phiêu ơi! Lúc ở Sơn Đông đi đuổi cướp thì mày tiếng tăm đến thế, dũng mãnh đến thế, sao hôm nay đầu mày gục xuống, chí khí đi đâu mất cả. Ta làm sao mà có thể oán trách mày được. Đến như chủ mày đây, thiếu mấy đồng bạc của chủ quán cũng đến thân tàn ma dại, huống hồ gì mày! 

 Thật đúng là: 

 Người nghèo vụng nói vụng bày 

 Giơ xương, ỏng bụng, ngựa gầy còm nhom 

 Ăn no mèo khỏe như hùm 

 Cắt lông, nhổ cánh thì vẹt nom không bằng gà. 

 Lúc đầu thì người dắt ngựa, về sau thì ngựa kéo người. Thúc Bảo suốt đêm không ngủ, đầu canh năm đã đậy, bụng không ra khỏi quán trọ, vào chợ không ai thèm nhìn ngó, toàn những kẻ châm chọc, chế giễu cả người cả ngựa. Trời đã sáng rõ, chợ ngựa đã tan, cửa thành đã mở rộng, dân quê lũ lượt gánh củi vào thành bán. Lộ Châu vốn thuộc tỉnh Sơn Tây, mùa gặt vừa qua đi, nhìn ra chi còn trơ gốc rạ, vài mảnh ruộng tốt lúa mạ gặt rồi nhưng mầm cỏ xanh đã kịp nhú lên. Đó thật là thức ăn hấp dẫn với ngựa, hoàng phiêu thích thú, cắm cúi gặm mãi đến nỗi làm đổ cả gánh củi một ông lão dựng ở ngay ruộng. Thúc Bảo vội chạy lại dựng lên, ông lão trông vẫn quắc thước, kéo tay Thúc Bảo lại, từ tốn: 

 - Anh bạn trẻ ơi! Chả việc gì mà vội vàng, đổ thế, củi cũng chả sao đâu! 

 Lúc này nhìn rõ hoàng phiêu yên cương không có, ông lão hỏi: 

 - Anh dắt ngựa mà không cưỡi, lững thà lững thững, đem bán sao? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Đúng là đem bán, nhưng cả chợ chẳng ai thèm nhìn đến hai thầy trò. 

 Ông lão an ủi: 

 - Con ngựa vàng này tuy gầy ốm, nhưng nếu đóng yên cương cẩn thận vào, vẫn còn có dáng lắm! 

 Thúc Bảo đang lúc ảo não, thấy ông lão nói thế, lòng cũng dịu ít nhiều. 

 Mừng thay gặp Bá Nhạc 

 Bỗng trội hơn cả chuồng. 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Lão chống gậy đi như thế, liệu có phải thầy thuốc chuyên chữa bệnh cho ngựa không? 

 Ông lão đáp: 

 - Đây chẳng phải gậy, ta cũng chẳng phải thầy thuốc. Lão năm nay tròn sáu mươi, nhà ở cách thành mười lăm dặm, bốn đoạn củi này khoảng một trăm cân*, lão gánh vào thành, mà chẳng cần đổi vai. Cứ nhìn cách ngựa của anh gặm cỏ, ta thấy ngay ngựa tốt lắm. Chỉ tiếc anh tìm bán không đúng chỗ, đem ngựa đến chợ mà bán, thì chỉ gặp bọn không cùng chẳng khổ thôi! 

 *Trên dưới 45 cân hiện nay. 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Thế nào là bọn không cùng chẳng khổ? 

 Ông lão giảng giải: 

 - Đại phàm bọn công tử giàu có, chúng nó có phải là đi mua ngựa đâu. Việc trước tiên là chúng sai đầy tớ vác theo một bộ yên cương, cứ chọn con ngựa nào có vẻ ngoài tạm được, đặt bộ yên cương của chúng lên, cưỡi thử vài vòng, vừa ý, thế là mua, thế thì đời nào chúng nó chịu mua ngựa gầy này của anh để về chăm. Từ xưa đã có nói rồi: "Bán vàng phải tìm người biết vàng". Đến giữa chợ này mà bán con ngựa này, thì anh có ngồi đến mấy phiên nữa, cũng chẳng có ma nào hỏi đến đâu! 

 Thúc Bảo lại hỏi: 

 - Cứ như lão nói, thì ngựa này phải đem đi đâu bán mới được? ông lão đáp: 

 - Ta còn phải đi bán củi, nếu không, ta sẽ dẫn anh đến một nơi, thì con ngựa này có người mua ngay. 

 Thúc Bảo bàn: 

 - Bán củi là chuyện nhỏ. Lão dẫn ta đi bán con ngựa này, mọi chuyện xong xuôi, ta sẵn sàng biếu lão vài lạng ngay. 

 - Cách cửa tây này khoảng mười lăm dặm, có một trang chủ, tên kép là Hùng Tín, con thứ hai của họ Đơn, mọi người đều gọi ông ta là Nhị viên ngoại. Ông ta chuyên kết giao với các bậc hào kiệt khắp nơi, thường mua sẵn ngựa tốt để cho bạn bè. 

 Thúc Bảo lại một lần nữa như tỉnh cơn say, thầm tự trách mình: “Ta lại lầm lỡ một lần nữa rồi. Ở nhà đã thường nghe bạn bè nói: Nhị Hiền trang của Đơn Hùng Tín ở Lộ Châu là nơi chiêu nạp hào kiệt. Làm sao ta đến đây lâu nay, không nghĩ đến chuyện lại thăm ông ta. Nay quần áo rách rưới thế này, chẳng khác gì cò rù gặp bão, mới tìm đến gặp, thì đã quá muộn rồi, chẳng khác nào lúc khát mới nghĩ đến chuyện đào giếng, hối thì đã không kịp!.Nhưng nếu không tới Nhị Hiền trang thì làm sao mà qua được đoạn này, tìm cách nào bây giờ? Thôi thì cứ đến, chỉ bán ngựa thôi, chả cần phải xưng ra một tiếng Đơn Hùng Tín mà đến là được. Ông già ơi! Ông cứ dẫn ta đi, nếu quả bán được con ngựa này, ta xin thành thực biếu ông già vài lạng." 

 Ông lão tham mấy lạng bạc Thúc Bảo hứa, đem củi gửi ở trước cửa hàng đậu hủ, nhắc di nhắc lại người bán đậu hủ quen thuộc: 

 - Bác trông cẩn thận cho lão với nhé! 

 Ở đầu đòn càn của ông lão, còn có buộc một cái túi vải xanh, trong túi đựng ít đậu tương, định đem vào thành đổi lấy trà uống, nay thấy ngựa đói, ông lão dốc cả túi đậu vào máng, vơ thêm một nắm cỏ non vào cho ngựa ăn. Xong xuôi, ông lão chống đòn càn đi trước dẫn đường, Thúc Bảo dắt ngựa theo sau, ra khỏi cửa tây. Đi được khoảng mười dặm, quả thấy một trang trại lớn, nhìn khắp chỉ thấy: 

 Nước xanh quanh quất 

 Cây biếc um tùm 

 Nước xanh quanh quất, ngược xuôi cá lượn tung tăng 

 Cây biếc um tùm, trên dưới chim ca ríu rít 

 Cong cong cầu uốn, cảnh sắc thanh u 

 Ngất ngất nhà cao, quy mô tề chỉnh 

 Không dòng lệnh tộc 

 Cũng bậc vinh môn. 

 Ông lão chống đòn càn, qua cầu vào cửa, còn Thúc Bảo buộc ngựa dưới một gốc cây phía ngoài cầu. Nhìn lại con ngựa của mình, vừa gầy vừa bẩn, Thúc Bảo thầm nghĩ: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân*. Ta nhìn còn thấy không xong, bảo sao người khác mua cho được?" Cũng bởi lâu nay ngựa chẳng mấy khi thấy chủ, cũng chẳng ai dắt đi uống nước gặm cỏ gì, bờm đuôi đều không được chải, bết lại thành từng túm, Thúc Bảo xăn tay áo phải lên, vuốt vuốt lưng ngựa, tay trái lần nhẹ bờm ngựa mà chải nhẹ, chỉ sợ ngựa bị đau. Ngựa quay đầu lại, nhìn chủ mà cánh mũi phập phồng, mắt gần như rơi lệ. 

 * Luận ngữ: cái gì mình không muốn, thì dừng đem cho người khác. 

 Thúc Bảo lòng đau như cắt, chỉ lặng lẽ vuốt ve, vỗ nhẹ vào cổ ngựa, thủ thỉ: 

 - Hoàng phiêu ơi! Hoàng phiêu với ta một thầy một tớ. Hồi ở sáu phủ Sơn Đông, ai cũng biết tiếng, một phần cũng ở công mày. Nay ta gặp lúc mạt vận, đến nỗi phải đem mày bán ở trang trại này, mày lưu luyến không muốn rời ra, thế mà ta nhẫn tâm bán mày. Thật ta không bằng mày vậy! 

 Hoàng phiêu thấy chủ vừa vuốt ve vừa to nhỏ, cũng như muốn nói thành lời, bốn vó dậm liên tiếp, hí vang, Thúc Bảo càng rầu rĩ hơn. Chính là: 

 Hèn kém sá chi loài 

 Hàng nghìn dặm trổ tài 

 Thẹn không người trau chuốt 

 Cất tiếng hí bi ai. 

 *** 

 Lại nói Hùng Tín vốn giàu có, mùa màng xong xuôi, ngồi nhàn trước cửa, thấy ông lão chống đòn càn đứng bên cửa, chắp hai tay thưa : 

 - Lão giờ này vào thành bán củi, thấy một người ở Sơn Đông, dắt một con hoàng phiêu muốn bán, ngựa tuy gầy ốm, nhưng dáng vóc rất đẹp. Hiện đang đứng chờ ngoài cổng trang trại. Xin mời viên ngoại ra xem! 

 Hùng Tín hỏi: 

 - Chính thị hoàng phiêu. 

 Hùng Tín đứng dậy, cùng ông lão ra cổng. 

 Thúc Bảo nhìn qua suối thấy người cao hơn một trượng, mặt mày phương phi, đầu chít khăn chữ vạn bằng lụa tím óng ánh; mặc áo dài bằng nhiễu nhỏ sợi rất đẹp chân đi hài trắng. Nhìn lại mình, Thúc Bảo thấy quá tiều tụy nên vội nép sau gốc cây, xốc lại quần áo, phủi sạch tay, chùi sạch ngấn nước mắt. Hùng Tín qua cầu, chỉ nhìn ngựa, không để ý đến người. Hùng Tín vốn rất giỏi xem tướng ngựa, xắn tay áo lên, tay phải đặt lên lưng ngựa. Sức Hùng Tín tuy khỏe, nhưng gân cốt hoàng phiêu cũng không vừa nên không hề thấy động đậy suốt từ đầu tới đuôi dài hơn một trượng, từ chân lên tới bờm cũng đủ tám thước, khắp thân lông vàng như tơ, không hề pha một màu nào khác, cái hay chính là chỗ này. 

 Tung vó đường xa nổi bụi hồng 

 Ký kỳ than mã phải hay không? 

 Cương tơ, chuông ngọc, yên thêu bạc 

 Cao chín từng mây, vốn ngựa rồng. 

 Hùng Tín xem xong ngựa, mới quay lại hỏi Thúc Bảo: 

 - Ngựa này bác lái bán bao nhiêu? 

 Hùng Tín tin chắc đây là một tay lái ngựa nào đó, nên chỉ xưng hô gọn gàng thế thôi. Thúc Bảo không nhận là lái ngựa chỉ nhận bán ngựa, nên đáp: 

 - Tiểu nhân không phải lái ngựa. Nhưng gặp lúc cùng đường, phải bán ngựa đó thôi. 

 Hùng Tín đáp: 

 - Ta cũng chẳng cần biết bác mua ngựa để cưỡi hay để bán. Chỉ cần bác bán bao nhiêu là đủ rồi? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Nhân bần vật tiện, không dám nói giá, chi xin năm mươi lạng, đủ tiền đi đường. 

 Hùng Tín đáp: 

 - Con ngựa này mà đổi năm mươi lạng cũng không phải là nhiều, chỉ phải gầy quá, có thức ăn tốt cho nó, chăm sóc chu đáo, thì tha hồ ngang dọc, nếu không sẽ là đồ bỏ đi. Nay nghe bác nói ta cũng thương tình, ta trả bác ba mươi lạng, cũng đủ tiền để đi đường rồi? 

 Hùng Tín nói thế, rồi quay lại, qua cầu sang cổng trang trại, cũng không cần biết ý người bán thế nào. Thúc Bảo đành qua cầu trả lời: 

 - Viên ngoại muốn trả bao nhiêu xin tùy ý! 

 Hùng Tín vào nhà, đứng trên hè, thấy vậy, Thúc Bảo bèn lên đứng cạnh sân bán nguyệt. Hùng Tín sai người nhà dắt ngựa vào tầu, đem thức ăn cho ngựa ăn thử xem thế nào. Một lúc sau, tên người nhà quay lại, nói nhỏ vào tai Hùng Tín: 

 - Con ngựa này dữ tợn lắm, cắn nát cả tai con Nhân Chi của ông chủ rồi. Ăn hết cả một đấu đậu tương nấu chín, vẫn còn ăn tiếp cỏ nước ở trong chuồng ấy, không lúc nào chịu ngơi hàm. 

 Hùng Tín vui vẻ nói với Thúc Bảo: 

 - Này bác, bọn đầy tớ vừa nói ngựa bác vẫn chưa chịu ăn bột ngon, nhưng vì đã nói với bác, tôi vẫn trả bác ba mươi lạng nhé. 

 Thúc Bảo cũng chẳng biết rõ ngựa có ăn hay không ăn, chỉ đáp: 

 - Xin tùy lượng chủ nhân. 

 Hùng Tín đi vào nhà trong lấy tiền. Thúc Bảo bước vào nhà ngồi chờ. Hùng Tín chỉ mất ba mươi lạng, được tuấn mã ngày đi ngàn dặm, nên mặt mày hớn hở, còn Thúc Bảo đã lâu không thấy lạng bạc, thấy Hùng Tín mang ra một bọc nặng, cho nên so với cái mừng được ngựa tốt của Hùng Tín cũng kẻ tám lạng, người nửa cân. Thúc Bảo cũng chẳng cần các đỉnh bạc dày mỏng thế nào, nhưng vốn là một người con có hiếu, nấn ná mãi ở đất khách, nhớ mẹ già; ngày đêm lòng không yên, nay thấy mấy lạng bạc, sắp được trở về, mừng như thấy mẹ già, bất giác. 

 Mát lòng, tít mắt gật 

 Thích chí hé môi cười. 

 Thúc Bảo hai tay đỡ gói bạc, Hùng Tín thì việc mua bán đã xong xuôi tiền đã giao, ngựa đã dắt, nên lúc này mới vui vẻ hỏi Thúc Bảo: 

 - Bác ở Sơn Đông, ở phủ nào kia? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Tiểu nhân ở phủ Tế Châu. 

 Hùng Tín bỗng buông ngay gói bạc, rơi tọt xuống vạt áo Thúc Bảo, làm trũng hẳn xuống như một cái giỏ, Thúc Bảo giật mình, không hiểu tại sao. Chính là: 

 Cách mặt nên khó tỏ lòng 

 Tay cam vàng sợ bỗng không rơi vàng. 

 Không rõ ý tứ Hùng Tín thế nào xin xem hồi sau sẽ rõ. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Chín

Vào quán rượu, bỗng gặp người thân,

 Trả tiền cơm, lo về quê cũ.

 Thơ rằng: 

 Thổi sáo xin ăn bước lạc loài(1) 

 Chí cao rắp để dạ tài trai 

 Vợ không biết thì bạn rằng biết 

 Ngoài dễ sai nhưng lòng khó sai(2) 

 Hàm Cốc áo the thương chú Phạm(3) 

 Lâm Cùng chén rượu cảm chàng hai (4) 

 Trượng phu sắt đá giao tình nặng 

 Không lẽ sang hèn nghĩa đổi thay. 

 1 Ngũ Viên, người nước Sở, cha anh bị vua Sở giết, trốn chạy, phải thổi sáo ăn xin giữa chợ, nhưng về sau vẫn phá được Sở, quật mả vua Sở báo thù. 

 2 Dự Nhượng, chủ bị giết, nuốt than, sơn mặt cho khác bề ngoài để lo báo thù, đến nỗi vợ không nhận ra, sau bị vua Triệu giết. 

 3 Phạm Thư làm đến tướng quốc nước Tần, giả đói rét đến gặp người cũ, người này thương cho một cái áo mỏng. 

 4 Tư Mã Tương Như, thuở hàn vi phải mở quán bán rượu ở Lâm Cùng, sau trở nên nổi tiếng văn chương thời Hán. 

 Kết bạn mà dựa vào gia t giàu nghèo, thì cũng chẳng khác gì chuyện phường cáo cầy, ruồi nhặng, lúc có tiền sẵn sàng chung cửa nhà vườn rộng, lúc hết tiền coi nhau như mây nổi bèo trôi. Cho nên muốn kết giao lâu dài gắn bó, thì phải tìm đến đạo đức, tài năng. 

 Đơn Hùng Tín đương lúc đưa gói bạc cho Thúc Bảo, nghe đến hai tiếng Tế Châu, liền nghĩ ngay đến tiếng lành đồn xa, đang muốn tìm cách kết giao, cũng ở Tế Châu nên vội mời Thúc Bảo: 

 - Xin mời bác ngồi uống trà. 

 Rồi sai người nhà mang trà nước lên. Ông lão bán củi thấy vậy đứng bên ngoài nghe chuyện, lưng dựa vào cửa sổ. Hùng Tín lên tiếng: 

 - Xin bác chỉ giùm, ở Tế Châu, có một người tên tuổi rất được mến mộ, không biết bác có biết không? 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Xin viên ngoại cho biết tên người đó. 

 Hùng Tín đáp: 

 - Người này họ Tần, cũng chả biết tên húy của ông ta là gì nhưng tên hiệu là Thúc Bảo, nổi tiếng trong sáu phủ của tỉnh Sơn Đông, thường được tôn là Trại Chuyển Chư, làm công sai ở phủ đường Tế Châu. 

 Thúc Bảo thấy mình áo quần lam lũ, lấy làm hổ thẹn, nên không dám nhận: "Chính tôi", nên chỉ nói lấp lửng: 

 - Thúc Bảo cũng làm với tiểu nhân đây ở phủ đường Tế Châu. 

 Hùng Tín vội nói: 

 - Thật đáng tội! Thì ra bác vốn là chỗ quen thuộc của Thúc Bảo, xin được biết quý tính, cao danh. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Tiểu nhân họ Vương. 

 Cũng vì Thúc Bảo trong lòng lúc nào cũng nhớ tới món tiền nợ của Vương Tiểu Nhị phải trả, nên buột miệng, trả lời thế. 

 Hùng Tín mời: 

 - Xin bác ở lại uống với chúng tôi một chén rượu nhạt. Chúng tôi còn muốn nhờ bác chuyển đến Thúc Bảo một lá thư nữa! 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Rượu thì không dám uống, thư thì viên ngoại cứ viết, nhưng xin nhanh lên cho. 

 Hùng Tín quay vào nhà trong, gói ba lạng bạc, và hai tấm lụa Lộ Châu, đem ra ân cần nói với Thúc Bảo: 

 - Đáng ra phải viết một vài hàng, nhờ bác đưa cho Thúc Bảo, nhưng vì chưa từng gặp mặt nhau, nên cũng không biết nói năng thế nào, chỉ xin nhờ bác thưa hộ cũng được rồi. Mai kia xin đến tận nhà để được chuyện trò. Tiền mua ngựa ba mươi lạng đã giao đầy đủ, ngoài ra xin biếu bác ba lạng, không tính vào chuyện mua bán. Còn hai tấm lụa này, vốn dệt trên khung cửi nhà, xin nhờ bác đưa hộ Thúc Bảo, gọi là một chút quà mọn. 

 Thúc Bảo thấy Hùng Tín đối xử như vậy, càng thấy không tiện ngồi chờ ăn uống, chỉ sợ trong lúc nói năng lộ cả chuyện giấu giếm của mình thì không tiện chút nào, nên đứng dậy, cáo từ. 

 Tuấn mã khi già ốm 

 Anh hùng vận lao đao 

 Ngày thường lòng tưởng nhớ 

 Gặp mặt ngỡ chiêm bao. 

 Hùng Tín nói chuyện về bạn bè đã xong, nên không khẩn thiết giữ khách nữa, tiễn Thúc Bảo ra cửa trang trại, hai bên vái chào chia tay. Lúc này ông lão bán củi vẫn ngủ say sưa, dãi chảy cả hai bên mép, Hùng Tín phải gọi lớn: 

 - Sao ông già chưa về à? ông lão đáp: 

 - Nghe viên ngoại nói chuyện lâu quá, mệt mỏi ngủ lúc nào không biết. Ông khách bán ngựa di rồi sao viên ngoại? 

 Hùng Tín đáp: 

 - Vừa mới đi xong. 

 Rồi quay vào nhà trong. ông lão vơ vội đòn càn, chạy theo Thúc Bảo, nhân lúc nghe Thúc Bảo tự xưng là họ Vương, nên cũng gọi: 

 - Bác Vương ơi! Tiền bác hứa cho ti đâu? 

 Thúc Bảo vốn khẳng khái, mở ngay túi bạc Hùng Tín đưa sau, lấy ra một đỉnh, chẳng biết nhiều ít, đưa cho ông lão. Ông lão mừng ra mặt, cầm lấy, cám ơn rối rít rồi tìm đến hàng đậu hũ xin lại gánh củi. Chuyện không nói nữa. 

 Lại nói Thúc Bảo đến cửa tây thì chợ ngựa đã không còn hàng quán đã mở cửa cả. Một cửa hàng ăn mới khai trương, thức ăn đồ uống bày la liệt, mùi thơm ngào ngạt. Thúc Bảo vốn thích ăn ngon, thấy thế nước dãi cứ ứa mãi, từ sáng ở trang trại Hùng Tín chẳng ăn uống gì, bụng vẫn rỗng không, bên nghĩ thầm. "Giờ mà ở cửa hàng Vương Tiểu Nhị, ăn bữa ăn vừa nguội vừa vô vị thì chi bằng về ăn trưa ở cửa hàng này, trở về trả nốt tiền cho Tiểu Nhị là lên đường thôi." Thúc Bảo bèn vào hàng. Mọi người thấy Thúc Bảo nách cắp hai tấm lụa, quấn áo rách rưới, vẻ chẳng khác gì một anh xẩm hát rong, bọn tay chân bèn kéo tới ngăn Thúc Bảo lại: 

 - Cửa hàng vừa mới mở cửa, không cần phải hát hỏng gì cả, vô làm gì? 

 Thúc Bảo chỉ cần lấy tay đẩy ra, mấy người này lập tức lăn quay ra đất: 

 - Ta vào mua rượu uống, sao các anh lại ngăn không cho ta vào. 

 Đúng là: 

 Thói đời sớm nắng chiều mưa 

 Lúc xưng xỉa mặt, lúc thưa lạy hoài. 

 Bên trong bỗng có người nhảy ra: 

 - Bác muốn uống rượu thì hãy lại quầy nạp tiền, sao lại ầm lên thế? 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Sao ta lại phải nạp tiền trước? 

 Người này đáp: 

 Bác muốn uống rượu thì đưa tiền rồi cứ đến nơi ấy mà uống chứ ở Lộ Châu này đã có lệ rồi: các cửa hàng mới khai trương, chỉ sợ ăn uống xong, tính toán không rành mạch, cho nên trước tiên hảy giao tiền đã rồi mới ăn uống sau. 

 Thúc Bảo nghĩ: "Không cậy khỏe mà bắt nạt đám đông được”. 

 Bèn đến trước quầy, giở gói bạc của Hùng Tín, lấy một ít, còn lại bao nhiêu gói chung vào số bạc bán ngựa, nhưng trước khi đưa, Thúc Bảo vẫn hỏi chủ quán: 

 - Tiền thì trước sau cũng trả thôi. Nhưng nếu là lệ của cửa hàng đúng như thế, thì xin trả trước vậy. 

 Chủ quán nãy giờ đã biết mọi chuyện, khẽ cười trả lời: 

 - Ông bạn ơi! Xin hãy cầm lấy tiền. Thiên hạ ở đâu cũng thế cả thôi, cũng một thứ chữ, cũng một cỡ bánh xe như nhau. Chẳng đâu lại có chuyện đưa tiền trước, rượu uống sau cả, bọn người nhà không rõ hay dở, nên đùa khách ở nơi khác đến về chuyện lệ trước, lệ sau đấy thôi. Xin ông bạn cứ uống đi rồi trả tiền sau. Cứ uống cho đàng hoàng, cho xứng với đồng tiền bỏ ra, ai chả biết nhà hàng buôn bán cũng muốn thu hút được khách tứ phương. Riêng với quý khách lại là bậc phóng túng, cử chỉ, ngôn ngữ đều đường đường, khoáng đạt, cứ như cách nhìn nhận của tiểu đệ thì rõ là một bậc trượng phu, tâm địa ngay thẳng. Xin mời quý khách cứ ngồi vào bàn, tiểu nhân sẽ gọi rượu nóng ra ngay để quý khách dùng. 

 Thúc Bảo thấy chủ quán nói năng nhã nhặn lịch thiệp, nên quên cả giận dữ: 

 - Bác chủ nói đúng lắm. Chả cần phải cãi cọ chuyện này làm gì. 

 Gói bạc lại, cầm hai tấm lụa, Thúc Bảo vào bàn ăn, thì thấy ba gian nhà trong rộng rãi, cao lớn, tất cả đều kê bàn lớn, ghế dựa, bốn xung quanh treo la liệt những bức tranh vẽ, chữ viết rất đẹp, ngay cả cột cửa ra vào, treo đôi câu dối, ngợi cảnh ngăn nắp, thịnh vượng của nhà hàng. 

 Ấm rót trân châu, phát tiết đất trời, một dòng hòa khí, 

 Chén tràn hổ phách, nấu nung gan phổi muôn vẻ phong tình. 

 Thúc Bảo nhìn xung quanh cảnh nhà hàng, lại nghĩ tới bộ quần áo rách rưới của mình, mới thấy bọn họ ngăn không cho mình vào là chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Giờ ngồi đàng hoàng trên ghế, Thúc Bảo mới thấy rõ: "Với một quán ăn như thế này, chỉ là để bán cho kẻ giàu, nào là nơi của kẻ nghèo đâu?". Thúc Bảo đưa mắt nhìn hai hàng lan can bằng gỗ tỳ bà, hai bên là những phòng ngủ, giường tủ, tường cửa, nền trần đều bóng lộn! Thúc Bảo đứng dậy, khẽ cười nghĩ: "Sạch sẽ hơn cả mặt mũi của người nghèo khổ". Rồi đi lại dãy bàn phía đông, chọn bàn đầu tiên, đặt gói lụa xuống bàn, ngồi chờ. 

 Hoa bởi gió mưa nên kém sắc 

 Người vì đói rét chí cùn trơ. 

 Hầu bàn mang tới: Một đĩa cơm đã hết hơi nóng, một bát cá muối, một đĩa thịt trâu cũng lạnh ngắt, hai cái bát chén xấu, rượu cũng chẳng nóng, ông già hầu bàn dọn xong, lặng lẽ bỏ đi. Thúc Bảo buồn rầu nghĩ: "Có lẽ trời đã bắt Thúc Bảo này phải ăn những thức ăn nguội lạnh thế này chăng. Ta có thể cho cả cái dinh cơ của chúng nát ra như cám, cũng chỉ vài lần vung tay là xong. Nhưng chỉ phiền một nỗi, mai kia tiếng tăm sẽ về đến Sơn Đông ngay, bạn bè sẽ truyền nhau: Thúc Bảo đi Lộ Châu, chỉ vì thiếu tiền cơm của quán trọ, mà bị hành đủ chuyện, vào hàng làm chén rượu mà mấy lần cũng không xong. Rồi một thành mười, trở thành trò cười cho mọi người. 

 Chi cho bằng cố nhịn đi mà ăn uống là hơn". Lúc này, bụng lại đã đói nên mặc bọn tiểu nhân, hãy tự thương lấy bước đường lưu lạc của mình, thế rồi yên lặng uống mấy chén rượu lạnh, ăn mấy miếng thịt trâu nguội. Chính là: 

 Cục đất đùa Trùng Nhĩ (1) 

 Vườn hoang khốn Hán Quang. (2) 

 1 Trùng Nhĩ chạy trốn, đói rét, có người đùa cho một nắm đất. Sau về làm vua Tấn đánh chiếm được vùng đất ấy (Đông Chu liệt quốc). 

 2 Hán Quang Vũ, thuở hàn vi trốn ở vườn rậm, được Phùng Dị nấu cháo đậu cho ăn. 

 Bỗng có tiếng huyên náo phía ngoài quầy hàng, rõ lên tiếng chào đon đả của chủ quán: 

 - Xin mời hai vị vào nhà trong ngồi chờ cho một lát! 

 Rồi thấy hai người đàn ông xuống ngựa ngay trước cửa hàng, năm sáu người đấy tớ đi theo sau, đi vào trong nhà, vừa đi vừa cởi áo khoác ngoài phủi nhẹ cho sạch bụi đường. Chủ quán đi trước dẫn đường. Người đi trước đội khăn tiến sĩ, khoác áo nâu sẫm, người đi sau chít khăn đầu rìu, mặc áo màu tím. Lúc đầu Thúc Bảo không nhận ra, mãi sau mới nhận ra người đi sau chính là Vương Bá Đương. 

 Cả hai: 

 Áo cừu ngựa béo về nghênh ngang 

 Kẹp nách gươm dài, ánh sáng choang 

 Ai bảo có tài mà chịu khuất 

 Nhờ tay hiệp khách thỏa lòng chăng? 

 Chủ quán vào trước lau ghế, quét bàn, kéo ghế mời hai khách ngồi yên vị, rồi quát nạt tay chân: 

 - Pha trà ngon, lấy thứ trà cánh nhỏ sao thật vừa than. Rồi dọn ngay tiệc rượu để hai vị quý khách khỏi phải chờ lâu nhé ! 

 Nói rồi, chủ quán cũng thân đi soạn sửa. Chỉ thấy bọn đầy tớ bưng ra hai chậu nước nóng, để hai quý khách rửa tay. Thúc Bảo ngồi ở dãy phía đông, chỉ sợ Bá Đương nhận ra, nên đứng ngồi không yên, định cầm hai tấm lụa đi ra, nhưng cả hai đều đang đứng ngay ở lan can, chặn mất đường ra. Hai người vào bàn, Thúc Bảo chỉ còn cách nhảy qua cửa sổ mới ra được phía ngoài, nên đành xoay lưng ngồi 

 Bá Đương vừa uống rượu vừa quay nhìn bốn phía, nhưng vẫn chưa nhận ra Thúc Bảo, mãi đến khi đứng dậy định đi đâu đó, Bá Đương mới nhìn thấy, liền hỏi người kia: 

 - Anh hãy nhìn người đang ngồi bên dãy bàn phía đông kia xem, anh ta giống ai nào? 

 Rồi quay hẳn người, Bá Đương tiếp: 

 - Liệu có giống Tần đại huynh ở Lịch Thành không? 

 Chính là: 

 Hiên ngang hạc giữa đàn gà 

 Áo khăn tơi tả vẫn ra anh hùng. 

 Thúc Bảo nghe Bá Đương nói thế, chột dạ: "Thôi! Bá Đương nhận ra mình rồi!" Bá Đương nói thêm: 

 - Khổng Tử với Dương Hóa vẫn có thể giống nhau kia mà. Thúc Bảo vốn là con rồng giữa mọi người. Rồng ở đâu, nơi đó có nước. Thúc Bảo sao lại đến nỗi thế! 

 Thúc Bảo thấy Bá Đương không tin, lòng cũng đỡ lo lắng. 

 Nhưng chàng trai trẻ đi với Bá Đương nhanh mắt nhanh tay, muốn mọi chuyện rõ ràng nên đứng dậy lại gần Thúc Bảo, đến nỗi Thúc Bảo ngập ngừng không cất nổi đầu, đũa cũng không động đến, co dúm lại như một con hổ đang rình mồi vậy. Thấy thế anh ta bèn nói với Bá Đương: 

 - Anh này thấy chúng ta nhìn ngó như vậy, mà vẫn ngồi lặng im. Liệu thiên hạ có ai ngồi uống rượu đến thế không? 

 Rồi lại nói tiếp: 

 - Có vẻ giống Thúc Bảo lắm. Hãy đợi tôi hỏi kỹ xem sao! 

 Thúc Bảo thấy anh ta tiến sát lại, nghĩ khi mọi chuyện đã rõ ràng cũng khó coi, nên đành lên tiếng. 

 - Vương hiền huynh ơi? Liệu có phải là Tần Quỳnh đang khốn khổ ở đây không nào? 

 Bá Đương thấy đúng là Thúc Bảo, vội đứng dậy cởi áo tím đang mặc, chạy sang khoác vào vai Thúc Bảo, ôm lấy mà khóc. Chủ quán chạy lại, ngạc nhiên thấy ba người xúm lại thành một khối, một người khóc hai người không. 

 Gặp khốn trượng phu không lẽ khóc 

 Tuy mừng tri kỷ có lòng thương. 

 Thúc Bảo thấy Bá Đương thương cảm, liền lựa lời an ủi: 

 - Vương hiền đệ bất tất phải khóc, tiểu đệ tuy gặp phải nạn này, nhưng cũng chẳng có gì đáng ngại. Chẳng qua vì chờ đợi mãi mới lấy được công văn, thiếu của nhà trọ ít tiền, nên mới phải khổ sở thế này thôi. 

 Rồi hỏi người đi với Bá Đương là ai, Bá Đương đáp: 

 - Đây chính là người bạn kết giao từ xưa của tiểu đệ, họ Lý, tên Mật, hiệu Huyền Thúy, nối nghiệp nhà giữ chức quận công ở Bồ Điền, hiện ở Trường An, đã từng cùng tiểu đệ giữ chức Điện tiền tả thiên ngưu, rất thân với tiểu đệ. Vì họ Lý, ứng với lời sấm, sợ thánh thượng nghi ngờ, nên Huyền Thúy bỏ quan đi đây đó. Tiểu đệ cũng nhân Dương Tố chuyên quyền, chính sự ngày càng hôn ám, nên cũng theo Huyền Thúy bỏ quách việc quan. 

 Thúc Bảo lúc này cùng Huyền Thúy mới vái lạy nhận nhau. Bá Đương lại hỏi Thúc Bảo: 

 - Đại huynh ở đây đã từng gặp Đơn nhị ca chưa? Sao không lại Nhị Hiền trang của Đơn nhị ca? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Tiểu đệ trong lúc vội vàng, không còn nhớ ra Đơn nhị ca. Đến lúc gặp chuyện, thì quá muộn rồi, không còn cách nào khác, phải đến Nhị Hiền trang bán ngựa cho Đơn nhị ca. 

 Bá Đương vội hỏi: : 

 - Đại huynh bán con hoàng phiêu cho Đơn nhị ca rồi sao? Được bao nhiêu tiền? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Cũng bởi nó gầy ốm quá, nói năm mươi lạng, nhị ca vừa nói ba mươi lạng, tiểu đệ bằng lòng ngay. 

 Bá Đương vừa ngạc nhiên vừa buồn cười: 

 - Đơn nhị ca vốn là bậc hào kiệt nổi tiếng, nếu có chuyện mua bán nực cười với đại huynh như thế này, thì quả không còn là Đơn nhị ca nữa rồi. Giờ ta hãy cùng nhau đến đó, ngựa sẽ trả lại đại huynh, rồi đùa nhị ca vài câu chơi. 

 Thúc Bảo từ chối: 

 - Hiền huynh, tiểu đệ không đi đâu. Đến Lộ Châu mà lại không đến bái kiến nhị ca, thật là lỗi lớn. Đến lúc phải bán ngựa, hỏi đến họ tên, tiểu đệ nói dối họ Vương. Nhị ca hỏi đến Tần Thúc Bảo ở Lịch Thành, tiểu đệ lại bịa ra đó là bằng hữu thân thiết, nhị ca lại cho thêm hai tấm lụa, cùng ba lạng bạc. Bây giờ mà cùng chư huynh đi Nhị Hiền trang thì chẳng khác gì tự vạch bộ mặt giả dối của mình sao. Hiền huynh đến đó, nói hộ tiểu đệ, kẻ bán ngựa chính là Tần Thúc Bảo, đầu vì chưa đến yết kiến nhị ca, lỗi không chối được, sau vì quá lam lũ nên phải thác ra họ Vương. Nhưng cử chỉ ân cần của nhị ca, xin ghi lòng khắc cốt, ngày khác tới Lộ Châu, xin đến bái tạ. 

 Huyền Thúy nói: 

 - Ở đây chúng đệ chọn Nhị Hiến trang làm nơi gặp gỡ anh em tứ phương, thật là thuận tiện muôn phần. Đại huynh thân nương đất khách cũng lâu, ngày mai đệ cùng Bá Đương tới đó mời cho bằng được nhị ca, cùng nhau gặp gỡ, rồi hãy chia tay cũng chẳng muộn gì. Đại huynh hiện đang ngụ ở đâu? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Đi lâu ngày cũng nhớ gia đình, lại đã lấy được công văn, ngày mai tiểu đệ thu xếp hành lý phải trở về Tế Châu ngay. Chẳng còn rủ nhị ca đến tìm tiểu đệ làm gì! 

 Bá Đương cùng Huyền Thúy cùng nói: 

 - Đại huynh hiện ngụ ở đâu? Thế nào chúng đệ cũng phải biết đã! 

 Thúc Bảo đành đáp: 

 - Chếch phía tây, trước cổng phủ đường, quán trọ của Vương Tiểu Nhị. 

 Bá Đương vội nói: 

 - Tay Vương Tiểu Nhị này vốn nổi tiếng đen bạc. Anh em giang hồ thường gọi y là Vương hổ già. Y đã làm tình làm tội đại huynh những gì? 

 Thúc Bảo nghĩ tới sự chăm sóc ân cần của Liễu Thị, nên cũng không muốn kể những việc làm xấu xa của Vương Tiểu Nhị trước mặt hai bạn, bèn trả lời. 

 - Vương Tiểu Nhị tuy cũng có tính toán chi ly, nhưng cũng là kẻ biết người. Vợ chồng họ đối xử với tiểu đệ cũng khá chu đáo. 

 Đứa ngu bụng dạ hẹp hòi 

 Anh hùng nghĩa nặng tình dài ai ơi! 

 Liễu Thị hiền đức, vì vậy đã đem được tiếng tốt, bớt điều lầm lỗi cho chồng. Vợ hiền, đến chồng đỡ tai họa, thật quả không sai. 

 Ba người ngồi uống đến tận chiều tối. Bá Đương trả tiền cơm rượu cho chủ quán xong xuôi, nói với Thúc Bảo: 

 - Giờ thì hãy mỗi người mỗi việc. Ngày mai thế nào cũng phải gặp nhau đã. Đại huynh lưu lạc đất khách này đến thế, chúng đệ nhất định chưa để đại huynh về ngay đâu. Mai gặp nhị ca, phải sắp sửa ít thứ, để tiễn đại huynh, nhất định không được trốn đâu đấy! 

 Thúc Bảo ầm ừ, rồi cùng ra cửa hàng, chia tay nhau, Vương, Lý lên ngựa ra cửa tây, tìm đến Nhị Hiền trang. 

 Thúc Bảo cắp hai tấm lụa về quán Vương Tiểu Nhị. Cũng bởi gặp bạn bè nên về chậm, Tiểu Nhị thấy đã quá trưa vẫn chưa về, nghĩ Thúc Bảo vẫn không chịu bán ngựa, lòng càng tức tối, không chờ Thúc Bảo về đã khóa cửa cẩn thận. Thúc Bảo gõ cửa, Tiểu Nhị lạnh nhạt đáp: 

 - Ông anh phải về sớm hơn chứ. Hôm qua nhiều khách trọ lắm, chỉ sợ cửa không chu đáo, nên đã khóa tất cả. Chìa khóa khách giữ trong phòng ngủ, ông anh chẳng sợ không có chỗ ngủ, có cái sạp quầy hàng ngoài đó, tiểu nhân đã lau quét sạch sẽ, ông anh cứ việc nằm mà ngủ. Canh năm trở dậy nấu nướng, khách trọ cũng thức giấc, cửa mở, ông anh vào ngủ đến bao giờ cũng được. 

 Thúc Bảo nghiến răng, mắt đục ngầu, chân tay ngứa ngáy, lòng giận dữ nghĩ thầm: "Cái cửa này không đứng nổi sau một cú đấm trời giáng của ta, nhưng cũng cần thế là đã ầm ĩ cửa công đường này, rồi lại thêm rắc rối, không biết đến khi nào gỡ cho ra. Ngày mai, chiều tối hay ngay sáng mặt trời mới mọc, Hùng Tín cùng Bá Đương, Huyền Thúy sẽ tới thăm ta. Còn ta thì gây lộn với chủ quán trọ rồi kéo nhau lên quan, liệu đó có phải là việc làm của kẻ hào kiệt chăng. 

 Với mồm miệng của Tiểu Nhị như thế, y sẽ kể nào ta thiếu bao nhiêu lạng bạc, lừa dối y như thế nào, phá cửa y ra sao. Chiều nay, trước mặt Bá Đương, Huyền Thúy ta vừa khen y, nay lại kể tội y, liệu có nên chăng. Cái nhỏ mà không biết nhịn thì sẽ không được việc lớn. 

 Chịu đựng đến thế này cũng là nhất hạng rồi, đã thế thì hãy chịu đựng cho đến cùng. Đối với bọn tiểu nhân này, cứ nói rõ đã có bạc trả, thì nhất định y sẽ mở cửa thôi”. 

 Tiểu nhân hám lợi, bon chen 

 Người hiền rộng lượng, không kèn cựa ai. 

 Thúc Bảo đứng lặng một lát, cố lấy giọng bình tĩnh: 

 - Bác chủ ơi! Ta bán ngựa rồi, đã có tiền trả bác đây, ở ngoài này ngủ cũng tốt chán, nhưng ta không an tâm, lỡ có xảy ra chuyện gì ta không biết đâu nhé! 

 Tiểu Nhị thấy Thúc Bảo nói vẻ đúng đắn, biết là đã bán được ngựa, bèn thử nhìn qua khe cửa, ngựa không thấy, bạc tất nhiên có, liền vui vẻ đáp: 

 - Ông anh ơi! Tiểu nhân đùa ông anh cho vui đấy thôi. Chủ ta ai nỡ để khách ngủ ngoài trời, giữa tiết thu đầy sương giá thế này. Bà chủ đâu rồi, hãy vào phòng trọ lấy chìa khóa cửa ra đây, mau lên. 

 Liễu Thị vẫn cầm chìa khóa bên mình, nhưng không có lệnh của Tiểu Nhị, không dám mở cửa, nay thấy nói thế, liền đáp: 

 - Chìa khóa đây rồi! 

 Tiểu Nhị mở cửa, Thúc Bảo vào nhà đặt hai tấm lụa xuống bàn. Tiểu Nhị liền hỏi: 

 - Chẳng lẽ đây lại là tiền bán ngựa sao? Ông anh lại bán hời rồi. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Đây không phái tiền bán ngựa đâu? Tiền bán ngựa đây kia mà! 

 Nói rồi giở gói bạc ra. Tiểu Nhị thấy rõ, liền bảo: 

 - Ông anh xưa nay chu đáo. Tối rồi, đừng giở tiền bạc ra làm gì vội, gói kỹ lại. Hãy ăn cái gì chút đã. Ngày mai tiểu nhân sẽ làm cơm rượu tiễn ông anh vậy. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Chẳng cơm nước gì nữa đâu. Bác chủ hãy tính tiền đi! 

 Thúc Bảo cũng có nhớ những ngày gần đây mình bỏ quán đi cả ngày, chẳng hề cơm nước gì, nhưng tính tình vốn rộng rãi, nên cũng không tính toán cả số bạc ba lạng Sái thái thú cho, trả cả mười bảy lạng cho Tiểu Nhị, lại nói với Liễu Thị: 

 - Ta vội lên đường về, không biết cám ơn chị thế nào cho phải, mai sau sẽ có dịp đền ơn chị. 

 Liễu Thị đáp: 

 - Tần quý khách ở đây, đối xử không chu đáo, thật quả là tội chúng tôi, xin quý khách tha tội cho, nói gì đến việc cảm ơn. 

 Thúc Báo nhắc: 

 - Xin cho lại công văn. 

 Liễu Thị hỏi: 

 - Bây giờ mà quý khách còn định đi đâu nữa? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Giờ cửa thành vẫn còn chưa đóng. Ta nóng lòng muốn trở về, hãy cứ ra được khỏi cửa đông đã rồi hãy liệu sau vậy. 

 Tiểu Nhị cũng vờ giữ lại qua quýt, rồi đem công văn giấy tờ trả lại cho Thúc Bảo. Thúc Bảo gói ghém hành lý, cầm đôi giản, chào vợ chồng Vương Tiểu Nhị, đi vội ra cửa đông. Chẳng biết rồi sự thể ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Mười

Miếu Đông Nhạc anh hùng mắc bệnh,

 Trang Nhị Hiền tri kỷ giải lòng.

 Thơ rằng: 

 Cùng khốn biết lòng trời 

 Lòng trời chăm chút người 

 Dùi mài mong ngọc sáng 

 Tôi luyện đặng vàng mười 

 Xương cứng gian nan gánh 

 Mưu sâu sóng gió cười 

 Bỗng dưng gặp thất ý 

 Vạt áo lệ tuôn rơi. 

 Người bấy giờ gặp chuyện không vừa lòng, lập tức oán trời trách đất, mà không nghĩ được rằng, trời đất dẫu có làm được gì cũng bởi người mà ra cả vậy. Người dù gặp vận cùng, cũng đừng buông lời oán than vội, trời chẳng bỏ ai đâu. 

 Vương Bá Đương, Lý Huyền Thúy, từ biệt Thúc Bảo, vội ra khỏi cửa tây, đến Nhị Hiền trang thì trời đã tối mịt, cửa đã đóng chặt. Nghe tiếng chó sủa rộn rã, Hùng Tín sai người ra cửa, xem ai dám đến náo động trước trang trại. Khi đã nhận rõ khách chẳng ai lạ, Hùng Tín liền cùng Bá Đương, Huyền Thúy bắt tay vào nhà. Sai cởi yên, dắt ngựa vào chuồng cho ăn uống cẩn thận, sắp chỗ nghỉ ngơi cho người nhà đi theo, rồi mới cùng Bá Đương, Huyền Thúy vái chào, mời vào ghế ngồi, sai người nhà pha trà, bày rượu ra. 

 Khi đã yên vị, Bá Đương lên tiếng: 

 - Nghe nói huynh trưởng vừa mới mua được một con ngựa tốt lắm phải không? 

 Hùng Tín đáp: 

 - Hôm nay chỉ mất có ba mươi lạng bạc mà mua được thiên lý long câu. 

 Bá Đương tiếp: 

 - Ngựa thì tiểu đệ biết, rõ là ngựa tốt rồi. Nhưng chuyện người bán con ngựa đó mới là chuyện cần nói. 

 Hùng Tín hỏi: 

 - Ngựa này là ngựa ăn trộm sao? 

 Bá Đương đáp: 

 - Chẳng phải ngựa ăn trộm đâu. Nhưng huynh trượng có biết người bán ngựa là ai không? 

 Hùng Tín chắc chắn: 

 - Người họ Vương ở Sơn Đông. Ta vì đang mừng được ngựa nên cũng không hỏi kỹ. Hai hiền đệ cũng biết chuyện sao, hay có quen người bán ngựa họ Vương chăng? 

 Bá Đương đáp: 

 - Chúng đệ cũng không biết người họ Vương nào. Nói quanh co chẳng bằng nói thẳng vậy. Người bán ngựa chính là Tần Thúc Bảo. Vừa rồi may gặp ở quán ăn cửa tây, Tần đại huynh nói cho nghe hậu tình của nhị ca. 

 Hùng Tín ngạc nhiên phàn nàn: 

 - Thảo nào thấy khách như có điều gì muốn nói, rồi lại thôi. Thì ra là Thúc Bảo, bây giờ Tần đại huynh đang ở đâu? 

 Bá Đương đáp: 

 - Hiện đang ở quán trọ của Vương Tiểu Nhị ở trước cổng phủ đường chẳng bao lâu nữa sẽ về Tế Châu. 

 Hùng Tín nói: 

 - Thôi đêm nay chẳng ngủ ngáy gì nữa nhé. Mượn chén rượu ngồi chờ sáng, rồi sẽ đi tìm Tần đại huynh. 

 Bá Đương, Huyền Thúy bằng lòng: 

 - Xin theo nhị ca ngay! 

 Ba người ngồi uống đến tận canh năm. 

 Uống tràn quên sớm tối 

 Thức ngủ dạ anh hùng. 

 Ngựa thắng yên cương đã xếp đặt đâu đấy, Hùng Tín lại sai dắt thêm một con ngựa, cũng đóng sẵn yên cương theo để Thúc Bảo cưỡi, rồi cả ba lên ngựa vào cửa tây, tìm đến quán trọ Vương Tiểu Nhị, thì Thúc Bảo đã đi khỏi. Tiểu Nhị sợ bạn bè đuổi theo tìm, Thúc Bảo sẽ nói hết những cái xấu của mình, nên không nói Thúc Bảo đi bộ, mà lại nói chắc chắn rằng: 

 - Tần quý khách phải về gấp, vì có ngựa của phủ Tế Châu đến đón về có việc cần. 

 Nếu có đi ngựa nữa thì chỉ cần Hùng Tín ruổi theo bằng thiên lý long câu cũng sẽ đuổi kịp, nhưng đột nhiên từ Nhị Hiền trang, có người nhà đến tìm Hùng Tín đưa tin dữ: Anh ruột của Hùng Tín, Hùng Trung, vừa ra khỏi Trường An, bị Đường Công Lý Uyên bắn nhầm chết ở giữa đường, thủ hạ mang linh cửu vừa đến trang trại, Hùng Tín vội vàng trở về lo việc tang ma, không còn tâm địa đâu mà nghĩ đến chuyện đuổi theo Thúc Bảo. Bá Đương, Huyền Thúy vì thấy Hùng Tín có chuyện chẳng lành, nên cũng không muốn bàn đến Thúc Bảo nữa. Việc gác lại, ai đi đường ấy. 

 *** 

 Lại nói Thúc Bảo ra đi đêm hôm ấy, mãi đến sáng rõ, mà cũng chỉ được năm dặm. Phúc không tới hai lần, họa không đến một lượt. Thúc Bảo đã đi thì trăm dặm cũng là chuyện thường, nhưng ngựa đã bán rồi, lâu nay bị Vương Tiểu Nhị hắt hủi, vai khoác hành lý, tay xách giản, thì dù có đi giữa ban ngày cũng còn mệt huống chi lại đi giữa đêm khuya, càng đi càng mỏi và bị lạc vào giữa vùng núi nhấp nhô, cứ thế mà lần mãi mới ra được đường cái quan thì đã sáng rõ. Quay lại nhìn, tường thành Lộ Châu vẫn ở phía sau, chỉ cách khoảng năm dặm. 

 Nghèo khó giàu sang số sẵn bày 

 Tính theo năm tháng đoán giờ ngày 

 Ôm chí lớn, anh đừng khoe chí 

 Mong tài cao, chí nhớ cậy tài. 

 Thúc Bảo lúc này chính lúc gian nan. Hôm qua, trong cửa hàng uống rượu lạnh, ăn thịt trâu nguội, lại gặp Bá Đương, Huyền Thúy, về quán Tiểu Nhị phải sắm sửa lên đường cho mau, suốt đêm lần mò trong núi, tiết cuối thu sương giá xuống nhiều, nội thương ẩm thực, ngoại cảm hàn khí. Sáng ra, ngày mùng hai tháng mười, thì người đã thấy ngấy sốt, mặt mũi đỏ bừng, trong người như có lửa đốt, đầu váng mắt h, chân bước không nổi, nhưng may vốn có sức, nên vẫn cố lê được năm dặm nữa. 

 Lúc này cách thành mười dặm, là vùng Thập Lý điếm, có khoảng hai ba trăm nóc nhà, ở ngay đầu đường là một tòa miếu lớn, chính là miếu Đông Nhạc. Thúc Bảo thấy miếu cao rộng hiên ngang, nên ghé vào định nghỉ một chốc cho đỡ mệt lại sẽ đi tiếp. Qua cửa tam quan, vào đến thềm tiền dường, trông lên còn cao như núi, trèo lên đến nơi, giơ tay định vái lạy thần linh, chở che cho tai qua bệnh khỏi thì hai chân đã đứng không vững, ngã lăn ra, bất tỉnh nhân sự, đầu va chạm vào cái bệ cứng kê lò hương ở dưới nền, nghe một tiếng vừa mạnh vừa khô, chẳng khác gì Cung Công va đầu vào núi Bất Chu (1), chùy Bác Lăng đánh vào xe Tần Thủy Hoàng (2), cũng chỉ đến thế mà thôi. Hai thanh giản nặng, đập xuống nền gạch, một sau một trước, làm vỡ đến bảy tám viên gạch. Ông từ giữ cửa miếu thấy vậy, chạy lại đỡ Thúc Bảo lên, nhưng không tài nào đỡ nổi, liền chạy ngay vào Tùng Hạc hiên thưa với đạo sĩ trụ trì. 

 1 Cung Công, một trong bốn kẽ hung dữ thời Nghiêu Thuấn, Cung Công tranh ngôi vua với Chiêu Húc, không được, giận dữ húc đầu vào núi Bất Chu, cột trời gãy, giềng đất đứt, trời nghiêng vùng tây bắc, đất lệch vùng đông nam (Liệt Tử). 

 2 Trương Lương thuê lực sĩ, dùng một chiếc chùy nặng một trăm hai mươi cân, rình đánh Tần Thủy Hoàng ở bãi Bác Lăng, nhưng đánh nhầm vào xe của tùy tùng. Trương phải bỏ trốn (Sử Ký). 

 Đạo sĩ trụ trì suốt ngày không lúc nào nhàn rỗi. Đạo sĩ họ Ngụy, tên Trưng, người Khúc Thành thuộc Ngụy Châu, từ nhỏ đã mồ côi nghèo khổ, nhưng chẳng chịu học nghề gì để sinh sống, chỉ thích một việc là đọc sách. Chẳng sách nào là không qua mắt Ngụy Trưng, đừng nói đến tam phần ngũ điển, mà tam giáo cửu lưu, bách gia chư tử thiên văn địa lý, cả Tôn Tử, Ngô Khởi binh pháp đều tinh thông. Lại thông thạo cả thơ từ, ca phú, các tạp kỹ khác. Ngụy Trưng vốn từ lâu nuôi chí lớn, nên tìm cách kết giao với các hào kiệt bốn phương. Đương giữa triều Tùy, chỉ chú trọng.đến dòng dõi, không ai nhìn ngó gì đến kẻ thân cô thế cô lại nghèo đói. Từ khanh tướng điều khiển triều đình, đến những viên thủ lệnh đều rặt phường võ quan, vì triều đình chỉ chú trọng sức mạnh, chẳng nhìn ngó gì đến văn chương, nên Ngụy Trưng cho mình sinh ra không gặp thời, bỏ đi ẩn cư ở Hoa Sơn, khoác áo đạo sĩ. Về sau gặp một đạo hữu, họ Từ, tên Hồng Khách, rất tâm đầu ý hợp. Có lần Hồng Khách bàn với Ngụy Trưng: 

 - Nhà Tùy làm nhiều điều càn rỡ, liên tiếp đánh dẹp, nay lại nhất thống được thiên hạ, nhưng thực ra đó cũng vì trời dẹp yên bốn cõi đón vị chân quân lâu dài. Đệ xem thiên văn, thì thấy chân chúa đã sinh, loạn lớn đến nơi, huynh có quý tướng, có cốt cách công khanh, chẳng dính dáng gì đến phận thần tiên, hãy tự lo cho mình một ít vốn liếng mà phò vua giúp nước, gặp thời sẽ theo mà làm nên nghiệp lớn. Sớm tối hãy đọc, hãy bàn cho đủ thiên văn địa lý, mưu lược nơi màn trướng, kế sách nơi biên ải. 

 Lại ít lâu sau, Từ đạo sĩ bảo Ngụy Trưng: 

 - Đêm qua xem thiên văn, đệ thấy vương khí sáng ở phận Sâm, phận Tĩnh, ứng với việc xuất hiện của đấng chân quân. Sao Cơ lại đi vào Triệu, Ngụy phân đã ứng với điềm kẻ phò tá vương vị cũng ra đời. Nhưng xem kỹ thì vương khí chưa thật sáng tỏ, nên bậc chân quân có lẽ chưa đến lúc đắc chí, sao Cơ thì mờ tối, xem ra kẻ phò tá cũng đang lúc khốn khổ. Chi bằng đệ với huynh hãy chia nhau đi tìm gặp kết giao với các hào kiệt chưa gặp thời. Ngày sau chúng ta sẽ gặp nhau. 

 Từ đạo sĩ về phía Thái Nguyên, Ngụy Trưng về phủ Lộ Châu, Sơn Tây. Thấy Đơn Hùng Tín anh hùng hiếu khách, có tướng mạo của bậc khai quốc công thần, vì vậy, Ngụy Trưng vào tu ở miếu Đông Nhạc này, để tiện việc kết giao, từ đó nghĩ đến chuyện cứu khốn phò nguy cho các bậc anh hùng. Sáng hôm sau, Ngụy Trưng ngồi ở Tùng Hạc hiên của miếu Đông Nhạc đọc "Hoàng Đình kinh". 

 Chính là: 

 Không muốn bay cánh hạc 

 Có ý xòe vuốt ưng. 

 Ông từ chạy vào thưa: 

 - Thưa đạo trưởng, có một người say rượu, ngã lăn quay trước điện. Lưng đeo vũ khí, đập vỡ cả mấy viên gạch, lay thế nào cũng không chuyển, xin vào thưa với đạo trưỡng. 

 Ngụy Trưng nghĩ thầm: "Đêm qua xem thiên văn, thấy Sao Cơ đi vào đất này, ứng với người này chăng, ta hãy ra xem sao!". Liền rời khỏi Tùng Hạc hiên ra phía điện ngoài, thấy Thúc Bảo vẫn còn nằm mê mệt, hành lý vẫn vứt một bên, chưa ai kịp thu dọn, một tay bị người chận lên, một tay áo rách mướp, hở cả da thịt, đưa lên che lấy mặt. Ông từ kể thêm: 

 - Lúc nãy hai chân còn gác lên cả bậc cửa, mới vừa co lại. 

 Ngụy Trưng kéo tay Thúc Bảo nhìn thấy mặt đỏ bừng, có lẽ sốt nặng, trông dễ nhầm với kẻ say rượu, hai mắt vẫn trừng trừng không động đậy, không nói được. Ngụy Trưng gật gật đầu mà rằng: 

 - Anh ta bị sốt nặng. Không phải say rượu đâu! 

 Thúc Bảo trong người vẫn tỉnh táo, nhưng cổ họng như có gì tắc nghẹn. Một lát sau, mới hơi tỉnh, Thúc Bảo lấy tay phải viết lên nền hai chữ: "Ốm nặng". Gạch nền nhà tuy sạch, nhưng vẫn có một lớp bụi mờ, nên chữ Thúc Bảo viết, đọc cũng dễ dàng. Ngụy Trưng nói: 

 - Anh bạn không phải say rượu mà. Chính là bị sốt nặng thôi! 

 Thúc Bảo khẽ gật dầu. Ngụy Trưng liền an ủi: 

 - Không có gì đáng lo đâu anh bạn ạ! 

 Rồi sai ông từ: 

 - Vào phòng trong lấy cho ta chiếc chiếu tĩnh tọa ra đây. 

 Ông từ mang chiếc chiếu nhỏ hình tròn, đặt ngay cạnh Thúc Bảo, Ngụy Trưng nửa ngồi nửa quỳ cầm tay Thúc Bảo đặt lên đấu gối mình, xem mạch. Nhận ra thiếu dương kinh bị tổn thương, nội thương ẩm thực, ngoài cảm phong hàn, chỉ là sự tổn hại bên ngoài, hoàn toàn không có gì trầm trọng. 

 Nhưng ở đại điện là nơi đón gió, không thể để người bệnh nằm được, phía hậu đường cũng không có phòng nào trống, nên Ngụy Trưng sai dìu Thúc Bảo vào một gian liền với gian để củi, ngay cạnh phía trái đại điện. Tuy không được sạch sẽ lắm nhưng lại kín gió, giải một ít cỏ khô, đặt chiếc chiếu tròn lên. Hai chiếc giản quá nặng, không ai mang được, đành để lại trên điện. Ngụy Trưng mở khăn gói của Thúc Bảo ra thì thấy hai tấm lụa, một chiếc áo màu tím, một công văn trả về Tế Châu, khoảng hơn mười lạng bạc, bèn nói với Thúc Bảo: 

 - Những thứ lặt vặt này, sợ trong lúc ốm đau, anh không trông nom được, bầđạo sẽ giữ trong phòng, bao giờ lành bệnh, trả anh có được không? Còn đôi giản, bần đạo sai người lấy dây buộc kỹ lại một chỗ, ngay góc đại điện, chẳng ai đụng đến làm gì, cũng có thể nhờ nó mà xua bớt tà khí âm phong đấy! 

 Thúc Bảo nghe xong, cúi xuống đất lạy. Ngụy Trưng đem hành lý Thúc Bảo về phòng mình, rồi quay ra Tùng Hạc hiên, bốc một thang thuốc trị cảm mạo phong hàn, sắc lên cho Thúc Bảo uống, lát sau mồ hôi vã ra đầy người. Đến ngày hôm sau thì đã nhẹ hơn, nói năng cũng đỡ khó khăn hơn. Ngụy Trưng vẫn tiếp tục cho Thúc Bảo uống thuốc, lại thường đến bên chiếu nói chuyện, dần dần cho ăn cháo nóng. Bệnh ngày càng lui. 

 Chẳng bao lâu, đã mười bốn ngày trôi qua, hôm đó nhằm ngày mười lăm tháng mười, là lễ "Tam nguyên thọ điển", được làm ngay trong miếu Đông Nhạc. Canh năm vừa điểm, cửa lớn của miếu đã mở rộng, trống lớn trên đại điện đánh ầm ĩ. Tuy Ngụy Trưng tận tình chăm sóc, Thúc Bảo vẫn còn mệt mỏi, không thể nào chịu nổi với cảnh huyên náo xung quanh, luôn vò tai bứt tóc phàn nàn. 

 Nằm trong vỏ trứng ai ngờ phượng 

 Lẫn đám kình nghê dễ biết rồng. 

 Đại phàm tăng hay đạo đều thế, thường có một nhà giàu, có thế lực ở trong vùng che chở, đứng ra làm hộ pháp cho, lấy rượu thịt chận họng những tay vô lại trong vùng để chúng khỏi phá phách, chỉ có thế nhà sư, đạo sĩ mới có thể yên ổn hành pháp. Ngụy Trưng tuy khoác áo vàng của đạo sĩ, nhưng mang khí cốt của bậc hào kiệt, sao thèm đi lại với bọn vô lại, cầu cạnh bọn trọc phú cho được. Bọn này lâu nay vẫn thù ghét Ngụy Trưng, nay lại càng lên tiếng chê bai, phao tin Ngụy Trưng chứa chấp bọn người vô lương không rõ tung tích, làm ô uế cả điện thánh. Thúc Bảo cũng có nghe, lòng càng hậm hực, tức tối, thấy mình quả không chốn nương thân yên ổn, thì may sao vừa gặp lúc Đơn Hùng Tín tới miếu. 

 Hùng Tín dẫn đầy tớ tới miếu Đông Nhạc để làm lễ đưa linh cho anh trai Hùng Trung. Ai nấy trong miếu đều ra đón Hùng Tín ở cửa tam quan: 

 - Đơn viên ngoại đến đúng lúc lắm! 

 Hùng Tín hỏi: 

 - Có chuyện gì thế? 

 Mọi người thưa: 

 - Miếu Đông Nhạc ta là nơi cầu phúc của toàn hạt Lộ Châu này, Ngụy đạo trưởng quên cả thiên chức của mình, đem miếu làm nơi chứa chấp bọn vô lại, không biết gốc tích ở đâu đến, làm nhơ nhớp cả đất thánh. Đơn viên ngoại phải bàn bạc cho ra nhẽ với đạo trưởng mới được! 

 Hùng Tín vốn là người từng trải, hiểu mọi lý lẽ, chẳng nhận phúc đầu, chẳng ban họa trước, liền chậm rãi cười: 

 - Xin đạo hữu cứ bình tĩnh, ta sẽ nói chuyện với đạo trưởng, mọi chuyện sẽ đâu có đó. 

 Nói xong, bước lên đại điện, sai đầy tớ mời Ngụy Trưng, còn mình thì dạo bốn tường nhìn quang cảnh đại điện. Bỗng thấy phía sau giá treo chuông, trong góc tối có ánh sáng lấp loáng, Hùng Tín bước lại gần nhìn cẩn thận, thì ra là một đôi giản, có dây lớn buộc vào một góc tường, Hùng Tín nhìn thật kỹ, có vẽ nghĩ ngợi, hỏi mọi người: 

 - Vũ khí này ở đâu ra thế? 

 Cả bọn nhất tề nhao nhao: 

 - Chính cái nhà anh đau ốm, bệnh hoạn ấy mang tới đây, thưa viên ngoại! 

 Hùng Tín định hỏi thêm, thì thấy Ngụy Trưng mặt mày rạng rỡ, thong thả bước ra, vái chào Hùng Tín, Hùng Tín bèn hỏi: 

 - Ngụy đạo trưởng, đạo hữu ở đây đều nói, Đông Nhạc miếu này là nơi cầu lộc phúc của vùng Lộ Châu, cần phải giữ cho thanh khiết, để mọi người còn chiêm bái. Nay đạo trường chứa chấp kẻ nào trong miếu, đến nỗi ô uế cả thánh thất, đạo hữu đều tỏ vẻ không bằng lòng, vì vậy xin hỏi đạo trưởng, không rõ là loại người nào vậy? 

 Ngụy Trưng thong thả đáp: 

 - Bần đạo là kẻ xuất gia, đâu dám làm việc gì càn rỡ, chỉ vì người này ốm nặng ngã lăn bất tỉnh trước điện, bần đạo phải mạnh thuốc lắm, bệnh tình mới thuyên giảm. Vả lại người này cũng không giống kẻ tầm thường, cho nên không nỡ đuổi đi. Ai thấy mà chẳng động lòng trắc ẩn, xin viên ngoại lượng thứ cho, nhờ viên ngoại cũng nói rõ để các thí chủ khác hiểu rõ. 

 Hùng Tín vội hỏi: 

 - Đôi giản ở góc đại điện, là vũ khí của người đó sao? Anh ta bản quán chốn nào. 

 Ngụy Trưng đáp: 

 - Người Tế Châu, Sơn Đông. 

 Hùng Tín vốn nghĩ tới Thúc Bảo ngay từ đầu, nay nghe đến “Sơn Đông, Tế Châu", bỗng giật mình, hỏi không ra lời: 

 - Họ gì? 

 Ngụy Trưng đáp: 

 - Hai ngày đầu, bệnh nặng không nói được. Xem công văn của phủ Tế Châu thì thấy ghi tên Tần Quỳnh, gần đây đã lanh lợi, trong khi trò chuyện thì xưng tên là Thúc Bảo, vốn dòng dõi công thần nhà Bắc Tề. 

 Hùng Tín hỏi rối rít: 

 - Thế nay đang ở đâu? 

 Ngụy Trưng đưa tay chỉ nói: 

 - Ở gian nhỏ lai thêm ở đầu hồi nhà chứa củi kia kìa! 

 Hùng Tín kéo tay Ngụy Trưng, đạp cửa ra ngoài hiên, gọi đầy tớ: 

 - Mau đỡ Tần đại huynh lên điện tương kiến? 

 Ba bốn người chạy đi ngay, nhưng chẳng thấy Thúc Bảo đâu cả. Hùng Tín băn khoăn: 

 - Hay vì biết ta đến, Tần dại huynh bỏ đi rồi cũng nên. 

 Ông từ thưa: 

 - Vừa thấy Tần quý khách ra phía sau đi giải, có lẽ còn đang ở phía hậu đường chăng? 

 Hùng Tín nghe nói thế, liền kéo Ngụy Trưng ra phía hậu đường. 

 Thì ra Thúc Bảo được Ngụy Trưng thuốc thang chăm sóc nửa tháng trời, bệnh tình cũng đã đỡ nhiều, tinh thần cũng đã thư thái, sáng nay thấy trời ấm ấp, ngoài đại điện ồn ào đông đúc, nên gượng dậy ra phía hậu đường, tìm hiên nhà vắng vẻ ngồi, tránh con mắt nhìn thù ghét của mọi người trong miếu. Thấy một đầu bếp, lấy vạt áo gói mấy ống gạo, tay kia cầm mấy bó rau đi ra, Thúc Bảo liền hỏi: 

 - Bác đi đâu vậy? 

 Người đầu bếp đáp: 

 - Không dính dáng gì đến anh cả. Tôi có mẹ già đã nhiều tuổi. Vừa mới đến đây coi kho, kiếm ít ống gạo đem về nấu cháo cho đỡ xót lòng người già mà! 

 Thấy thế, Thúc Bảo chạnh nghĩ: "Đến kẻ tiểu nhân còn nghĩ đến cha mẹ. Ta cũng có mẹ già như ai, chẳng lo tròn chữ hiếu, để mặc mẹ già ở quê nhà, ngày đêm tựa cửa trông chờ”. Nghĩ tới đó, bất giác rơi nước mắt. Lại thấy trên án thư bên hè, có một cây bút lông đã cùn, bèn cầm lấy. Tuy lâu nay làm công sai ở phủ đường, nhưng vẫn chưa quên chữ nghĩa, Thúc Bảo đề lên tường mấy câu thơ sau: 

 Rằng giận bấy phương trời lận đận 

 Mắt đăm đăm mây trắng dõi trông 

 Dưới khe cá lượn thong dong 

 Hồ ly nào rõ được lòng bằng côn 

 Níu trẻ tạo bồchồn định hỏi 

 Hỏi cớ sao nghẽn lối về quê 

 Thân bảy thước sợ tri mi 

 Gươm ba thước, những chờ khi vẫy vùng 

 Lưu sử sách danh lừng sông núi 

 Vỗ ngực ca sớm tối không nguôi 

 Rằng không để thẹn kiếp người... 

 Thúc Bảo vừa viết xong, quay lại thấy một toán người rầm rộ tiến lại, nhìn kỹ, thấy cả Đơn Hùng Tín trong đó, giật mình, chẳng biết ẩn vào đâu, chỉ biết cúi đầu, dựa vào lan can, nghe Ngụy Trưng nói đấy vẻ mừng rỡ: 

 - Thì ra ở đây! 

 Đơn Hùng Tín bước lên, giang hai tay, ôm lấy Thúc Bảo, gần như quỳ xuống nói: 

 - Hiền huynh đến Lộ Châu, gặp phải cảnh này. Hùng Tín thật không đáng mặt chủ nhà, thật hổ thẹn với hào kiệt trong thiên hạ. 

 Thúc Bảo cũng không nén nổi xúc động, vội quỳ xuống, lạy sát đất thưa: 

 - Xin huynh trưởng đứng dậy, chỉ sợ cái thân hình ô uế này làm bẩn lây cả quý thể huynh trưởng. 

 Hùng Tín rơi nước mắt đáp: 

 - Hùng Tín này nếu gánh được hoạn nạn cho hiền huynh, cũng chẳng dám tiếc thân, nói gì đến ô uế! 

 Chính là: 

 Hương lan thơm nức cửa 

 Đừng hỏi vết bùn mây. 

 Rồi quay lại nói với Nguy Trưng: 

 - Đạo trưởng, xin đạo trường hãy tạm đình lễ đưa linh cho tiên huynh, đợi vài ngày nữa. Tần hiền huynh đang đau yếu, Hùng Tín nay không còn lòng dạ nào mà dâng hương khấn nguyện nữa. Xin đạo trưởng cho thu dọn đèn hương. Hùng Tín này cùng Tần hiền huynh về Nhị Hiền trang. Đợi đến khi hiền huynh khỏe mạnh hẵn, sẽ cùng đến miếu tạ ơn, chẳng phải là "nhất cử lưỡng tiện" sao? 

 Bèn lệnh cho đầy tớ: 

 - Tần hiền huynh còn chưa cưỡi được ngựa, hãy kiếm một cái kiệu tốt đến đây! 

 Lúc này ở bên ngoài, nghe nói là bạn của Đơn viên ngoại, các thí chủ, đạo hữu không ai dám nói năng chi, lặng lẽ giải tán. Ngụy Trưng về Tùng Hạc hiên, lấy hành lý của Thúc Bảo, hai tấm lụa Lộ Châu, cái áo tím, công văn và mười lạng bạc, giao cho Hùng Tín. Hùng Tín trông thấy, thầm nghĩ: "Số bạc này chính là số bạc bán ngựa còn lại đây!”. Thúc Bảo chắp tay cảm tạ, từ biệt Ngụy Trưng cùng Hùng Tín về Nhị Hiền trang. Từ đấy Ngụy Trưng, Tần Thúc Bảo, Đơn Hùng Tín trở thành tri kỷ. 

 Về đến thư phòng, Hùng Tín sai tẩm rửa, thay quần áo, dọn giường, trải đệm dày, lại cùng nằm chung giường với Thúc Bảo, để tiện cùng nhau bày tỏ tấm lòng. Bệnh tình Thúc Bảo ngày càng đỡ dần, ngày nào Hùng Tín cũng chăm sóc thuốc thang, ăn uống tẩm bổ cho Thúc Bảo rất chu đáo, thỉnh thoảng lại mời cả Ngụy Trưng đến cùng nhau bàn luận, chẳng khác gì anh em một nhà. 

 Phải đâu lưu luyến tha phương 

 Bởi chăng bệnh nặng, vấn vương như nhà. 

 Chỉ có thân mẫu Thúc Bảo ở Sơn Đông, nhớ con không biết để đâu cho hết, sớm tối trông chờ mỏi mắt, chẳng biết sống chết ra sao. Thôi thì tế lễ bói toán, càng chẳng thấy tăm hơi, đến nỗi lâm bệnh nặng, chỉ nằm liệt giương, không đi lại được nữa. Chính là: 

 Lòng theo ngàn dậm xa xa 

 Bệnh theo một mối, sầu da diết sầu. 

 Cũng may có mấy nhà lâu nay vẫn đi lại thân thiết với Thúc Bảo, biết rõ Thúc Bảo chưa về, mẹ già bị ốm nặng, nên cùng nhau kéo đến, kẻ biếu cái này, người cho cái khác, cùng nhau thăm hỏi. 

 Tần mẫu lên tiếng: 

 - Con cháu, thông gia đều đến thăm nom già này, thật chẳng mấy khi, xin mời vào trong này. 

 Đến ngồi ngay bên giường có bốn người, ngoài cửa Tây mở cửa hàng là Giả Nhuận Phủ, cùng làm việc công sai với Thúc Bảo ở phủ đường Tế Châu cũng ba người: Đường Vạn Nhân, Liên Minh, cả Phàn Kiến Uy cũng có mặt. Tần mẫu gượng ngồi dậy trên giường, vợ Thúc Bảo, Trương Thị đứng hầu phía sau, lấy chăn khoác lên người Tần mẫu. Thấy đầy đủ bạn bè Thúc Bảo, Tần mẫu bất giác rơi nước mắt: 

 - Các cháu của già, đã không bỏ già này, lại còn tới thăm nom, đủ thấy nghĩa nặng tình sâu. Nhưng chẳng biết Tần Quỳnh của già lưu lạc ở dâu, một đi không về, khiến lòng già này thật như đứt từng khúc vậy. 

 Bọn Giả Nhuận Phủ thưa: 

 - Tần đại huynh đi mãi không về, thật là kỳ quái. Bá mẫu hãy yên lòng, đừng nên lo nghĩ nhiều quá, chẳng sớm thì muộn, thể nào Thúc Bảo đại huynh cũng sẽ trở về thôi! 

 Tần mẫu oán trách Kiến Uy: 

 - Tần Quỳnh tháng sáu ra làm việc với cháu, cùng nhau lên đường một lần, cháu thì tháng chín đã về, nay đã giữa mùa đông rồi. Tần Quỳnh của già vẫn chẳng tin tức gì cả. Thật chuyện không phải lòng người không lo được! 

 Nàng dâu nghe mẹ chồng nói thế, không dám khóc to, nhưng cũng thổn thức. Ai nấy đều lên tiếng trách móc Kiến Uy: 

 - Phàn Kiến Uy, hiền đệ không thể trốn được lỗi mình trong chuyện này rồi. Người đời vẫn thường nói "Cùng đường đừng bỏ bạn". Rủ nhau ra khỏi cửa một lần, dù Tần đại huynh trên đường có gặp trở ngại gì khác đi nữa, thì cũng phải có mặt ở nhà rồi chứ sao nay vẫn chẳng thấy đâu. Bá mẫu lại sinh được mỗi Tần đại huynh, vắng nhà lâu ngày, nhìn quanh chẳng người thân thích, ruột rà, làm sao mà bá mẫu chịu được! 

 Kiến Uy lên tiếng thanh minh: 

 - Có chư huynh ở đây, bá mẫu trách mắng, tiểu đệ không dám phân giải gì. Chư huynh là bậc hào kiệt trên đời, lại không biết ở nhà nghìn ngày đều tốt đẹp, ra cửa một lúc gặp nạn hay sao. Tháng sáu là từ Sơn Đông đi Trường An lĩnh được giấy tờ ở Bộ binh về, thì đã hai tháng trôi qua rồi, đến mãi mười lăm tháng tám, lại mới cầm công văn lên đường, Tần đại huynh đến Lâm Đồng Sơn, gặp lúc Đường Công bị cướp, đang hồi gay go, Tần đại huynh nổi máu bất bình, cứu được Đường Công, ra đến ngoài cửa quan, thì chia hành lý, Tần đại huynh đi Lộ Châu, tiểu đệ đi Trạch Châu. Chẳng ngờ tất cả bạc tiền đều ở hành lý của tiểu đệ, mãi đến khi chia tay nhau rồi mới biết ra, số tiền đó trên đường, tiểu đệ cũng tiêu hết rồi còn đâu. Nay chẳng thấy Tần đại huynh trở về, tiểu đệ xin bù đủ số tiền ấy vậy thôi! 

 Nói xong liền đưa cho một gói bạc, đặt lên giường. 

 Tần mẫu nói: 

 - Ta có bốn lạng bạc, đưa Tần Quỳnh bảo mua lụa Lộ Châu, có lẽ ở trong hành lý của Quỳnh chẳng? 

 Kiến Uy tiếp: 

 - Tiểu đệ tới Trạch Châu, Mã tứ sử cũng phải đi Thái Nguyên mừng Lý đại nhân, lại thêm hai gã phạm nhân đi theo; củi rau, gạo, muối mắm đều đắt như vàng, đến khỉ lĩnh được công văn trở về, thì chẳng còn một lạng bạc nào nữa. Còn như số bạc của bá mẫu, cháu không được. 

 Tần mẫu lại hỏi: 

 - Những chuyện ấy đều là chuyện của cháu, còn sau đó cháu có nghe được tin tức gì của Tần Quỳnh nữa không? 

 Kiến Uy đáp: 

 - Nếu tính ngày đi, đường ngắn dài, Lý đại nhân tới Thái Nguyên, thì Tần đại huynh cũng về tới Lộ Châu rồi. Lúc này có lẽ Sái thái thú chưa đi Thái Nguyên thì công văn có thể nạp được rồi. Đệ biết Tần đại huynh đã lĩnh được công văn trở về, mà lại còn ở lại Lộ Châu làm gì. Tiểu đệ nếu còn tiền đi đường, cũng cố đi vòng đường Lộ Châu tìm Tần đại huynh, nhưng vì tiền nong chẳng còn, phải vội về, nào biết được Tần đại huynh còn chưa trở về. 

 Mọi người kết luận: 

 - Đối với hiền đệ thì chuyện ấy là không có gì lạ. Nhưng bây giờ thì hiền đệ không thể từ chối khổ sở, gian nan tới Lộ Châu tìm Tần đại huynh, thì mới là thỏa đáng. 

 Kiến Uy đáp: 

 - Bá mẫu bất tất phiền não, xin viết cho một lá thư, cháu xin đến Lộ Châu, tìm kỳ được Thúc Bảo cho bá mẫu mới quay về. 

 Tần mẫu sai hầu gái đem bút mực, giấy tờ viết thư cho Thúc Bảo, xong xuôi đưa cho Kiến Uy, lại không quên trả lại gói bạc cho Kiến Uy, còn dặn thêm: 

 - Bạc này cháu cứ cầm lấy làm lộ phí, tìm được Tần Quỳnh về đây cho già là tốt rồi! 

 Kiến Uy thưa: 

 - Cháu xin nhanh chóng lên đường, tìm được đại huynh sẽ về ngay, quả không dám đụng đến số tiền này của Tần đại huynh. 

 Tần mẫu bảo: 

 - Cháu cứ cầm, lấy cái đi đường cho rộng rãi. 

 Mọi người đều khuyên: 

 - Giờ chỉ cần mau mau tìm được Tần đại huynh về, hiền đệ cứ cầm tất cả đi, chi bằng nghe lời bá mẫu là tốt hơn cả. 

 Kiến Uy nói: 

 - Vậy cháu xin cáo biệt bá mẫu, lên đường đi tìm Tần đại huynh. 

 Tần mẫu đáp: 

 - Thôi thì cháu chịu khó vì bạn bè, vì bà già này vậy! 

 Bạc tiền đem đến giúp đều được đặt cạnh giường Tần mẫu, mọi người mới ai về nhà nấy. Kiến Uy cũng về nhà, xếp đặt quần áo khăn gói, rời khỏi Tế Châu, qua đường Hà Giang đi Lộ Châu tìm Thúc Bảo. 

 Không biết có tìm gặp được Thúc Bảo không, xem hồi sau sẽ rõ. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Mười Một

Dầm bão tuyết, Phàn Kiến Uy tìm bạn hiền,

 Lo thuốc thang, Đơn Hùng Tín sinh gái quý

 Thơ rằng: 

 Tuyết đè quan ải cảnh nao nao 

 Gió bấc đưa về phủ trắng đầu 

 Nằm bẹp Lạc Dương hai gối nhác(1) 

 Nhớ sôi Diễm Thủy một chèo mau (2) 

 Bông sơ cuống quýt toan bay thốc 

 Bọt nước mong manh chực thổi vèo 

 Dừng ngựa Lam Quan chiều nghẽn lối (3) 

 Tri âm gặp mặt thỏa lòng nhau. 

 1 Tuyết phủ kín Lạc Dương, dân cào tuyết ra đường kiếm ăn, Viên An vẫn đóng cửa nằm co, chịu đói, Thái thú phá cửa vào thăm, Viên An trả lời: “Thiên hạ đều đói. Ta cũng thế, nhưng ta chả muốn phiền người". 

 2 Đang đêm, tuyết xuống đầy, Vương Hy Chi chợt nhớ bạn, chèo thuyền trên suối Diễm Khê, đến thăm bạn. Gần tới nơi, lại quay thuyền về, có người hỏi, Hy Chi đáp: "Hứng lên thì đi, không thích nữa thì về". (Từ Hải) 

 3 Hàn Dũ, đời Đường, bị đẩy đi làm quan, làm thơ than: "Tần Lĩnh mây che nhà chẳng thấy, Lam Quan tuyết phủ ngựa khôn qua”. (Thơ Đường, tập 1) 

 Trên đây là một bài thơ vịnh cảnh tuyết, ca ngợi vẻ đẹp sự thanh cao của tuyết. Tuyết khiến chén rượu nóng uống càng đậm đà, tuyết khiến mối sầu của khách đi đường càng tăng vẻ thê lương, có khi tuyết gợi hứng, làm nguyên cớ của những gặp gỡ giữa bạn bè, tri kỷ, Kiến Uy rời Sơn Đông, qua Hà Đông, tìm vào phủ đường Lộ Châu, hỏi tin Thúc Bảo, trở ra quán trọ của Vương Tiểu Nhị, hỏi: 

 - Bác chủ xin hỏi bác một chuyện, gần đây có ai là người phủ Tế Châu, thuộc Sơn Đông, họ Tần, tên là Thúc Bảo, đến ở trọ quán bác không? 

 Tiểu Nhị đáp: 

 - Có Tần quý khách trọ ở hàng tiểu nhân, nhưng ngày mùng một tháng mười vừa rồi, đã bán ngựa lấy tiền đi đường, về quê ngay đêm hôm ấy rồi. 

 Kiến Uy nghe nói, thở dài rơi nước mắt. Còn Tiểu Nhị, vì khách trọ đông, gọi rối rít, đã bỏ đi từ lúc nào. 

 Liễu Thị thấy thế, bèn để ý, lại gần hỏi: 

 - Quý khách cho biết quý tính? 

 Kiến Uy đáp: 

 - Ta họ Phàn. 

 Liễu Thị tiếp: 

 - Có phải Phàn Kiến Uy chăng? 

 Kiến Uy tiến vội hỏi: 

 - Nhà chị sao lại biết ta là Phàn Kiến Uy. 

 Liễu Thị đáp. 

 - Tần quý khách vướng víu ở đây mãi, ngày ngày trông đợi Phàn quý khách. Chúng tôi đối xử với Tần quý khách chẳng được chu đáo. Tối hôm đầu tháng mười vừa rồi, Tần quý khách đã lên đường về. Lại có chuyện chưa đến nhà sao? 

 Kiến Uy: 

 - Chính vì chưa thấy về, nên ta phải đi tìm. 

 Kiến Uy thầm nghĩ: "Giờ đã là đầu mùa đông, không thể có chuyện đi đường đến hai tháng, nhất định xảy ra việc gì. Có ở lại đây cũng vô ích". Kiến Uy ăn bữa cơm trưa, trả tiền chu đáo rồi ra cửa đông, quay về Sơn Đông. 

 Trời thổi gió mạnh, tuyết đồ càng dày, Kiến Uy dầm trong gió tuyết, đầu cổ trùm kín, cứ trong tuyết mà đi mãi, lạnh cứng cả mặt mũi, hai tay, nhìn bốn bên chỉ thấy: 

 Tung bay trút từ trên ải bắc 

 Phơi phơi rơi rắc khắp cô thành 

 Vườn Lương cầu Bá quanh quanh 

 Quật lên úp xuống thình lình dừng quay 

 Như có sức đổi thay tạo hóa 

 Như có tài tuốt lá nhổ cây 

 Vừng hồng tối sẫm mặt mày 

 Rừng xanh nhạt sắc, đông tây lạc đường 

 Dòng Trường Giang, cá dường lặn đáy 

 Tầng mây cao, cánh sẩy nhạn xa 

 Cọp gầm vượn hú xa xa 

 Lúa đồng vùi nát, hoa nhà dập tan 

 Kể sao xiết muôn vàn tai hại 

 Điềm lành sao, địa quái thiên tai? 

 Cằn gốc liễu, trụi cành mai 

 Đường xa lối nghẽn, đền đài phôi pha 

 Phủ đầy cửa ra vào quán lạ 

 Nguồn cơn này hồ đã biết vay! 

 Buôn lắm thay, khổ lắm thay 

 Cảnh nhà hàn sĩ đắng cay to 

 Cầu khẩn đến trời cao giáng phúc 

 Tâu Ngọc Hoàng chí đức chí nhân 

 Mây thiêng kíp kíp xoay vần 

 Vừng dương sáng chói, khí xuân chan hòa 

 An cư lạc nghiệp, câu ca. . . 

 Kiến Uy lặn lội trong cảnh gió tuyết, rét thấu xương, đến được Thập Lý điếm thì trời cũng đã chiều. Chưa biết ngủ trọ nơi nào, lại cũng tìm đến miếu Đông Nhạc, nơi Thúc Bảo bị ốm mấy tuần trước. Cho nên nếu không có trận tuyết lớn này, làm gì Kiến Uy phải vào miếu Đông Nhạc này. Gặp đúng lúc ông từ đứng đó đóng cửa, thấy có người đến xin nghỉ trọ, ông từ liền vào Tùng Hạc hiên thưa. Ngụy Trưng vốn thương người, liền cho Kiến Uy vào phòng phía sau. Đặt hành lý vào một góc, rũ hết tuyết trên áo mũ, Kiến Uy vái chào Ngụy Trưng. Ngụy Trưng lúc này mới hỏi: 

 - Khách trọ đâu đến? 

 Kiến Uy đáp: 

 - Tiểu đệ họ Phàn, người Tế Châu thuộc Sơn Đông đến Lộ Châu tìm người bạn, gặp tuyết lớn, vào đây xin nhờ đạo trưởng qua đêm nay, sáng ra sẽ xin hậu tạ. 

 Nguy Trưng đáp: 

 - Khách có phải Phàn Kiến Uy chăng? 

 Kiến Uy giật mình vội hỏi: 

 - Đạo trưởng sao lại biết tiểu đệ? 

 Ngụy Trưng đáp: 

 - Thúc Bảo hiền huynh thường hay nói đến tên khách. 

 Kiến Uy vui mừng hỏi tiếp: 

 - Thúc Bảo hiện ở đâu? 

 Ngụy Trưng đáp: 

 - Khách đừng vội vàng thế! Nhanh hay chậm thì cũng chỉ gặp mặt Thúc Bảo thôi. 

 Kiến Uy vẫn dồn dập: 

 - Thúc Bảo đâu rồi! 

 Ngụy Trưng từ từ: 

 - Ngày mùng hai tháng mười, Thúc Bảo đến đây nhưng bị ốm nặng. 

 Kiến Uy dậm chân: 

 - Thế là thế nào? Hiện đâu rồi? 

 Ngụy Trưng vẫn thong thả: 

 - Ngày mười lăm tháng mười, Đơn viên ngoại đưa về Nhị Hiền trang để dưỡng bệnh. Đến mười lăm tháng mười một thì bệnh đã khỏi, có đến tạ ơn ở miếu này, nhưng vì trời lạnh nên vẫn ở Nhị 

 Hiền trang, Đơn viên ngoại giữ chưa cho về. 

 Kiến Uy nghe đến đây mới yên tâm. Chính là: 

 Tráng sĩ được vàng ngàn lạng 

 Hàn nho tên rạng tam nguyên 

 Đêm động phòng hoa chúc như tiên 

 Buổi họp mặt thân quen rạng rỡ 

 Như hùm thêm cánh vỗ 

 Như rồng gặp sấm ran 

 Lão nông được trận mưa tràn 

 Tuổi già thêm cành đan quế.  (Theo điệu "Tây gian nguyệt") 

 Ngụy Trưng sai lấy trà rượu, hoa quả, ngồi tiếp Kiến Uy. Kiến Uy vì suốt ngày xông pha ngoài gió tuyết, người mệt mỏi, nên cũng uống khá nhiều rượu nóng, rồi ngủ kỹ. Mới sáng mai ra Kiến Uy đã trở dậy, mở hành lý, lấy bạc tạ ơn Ngụy Trưng. Nhưng biết là bạn Thúc Bảo, Ngụy Trưng nhất định không chịu nhận, lại giữ Kiến Uy lại dùng bữa sáng, rồi đưa ra khỏi cửa tam quan, chỉ đường tắt về Nhị Hiền trang, Kiến Uy cứ theo thế mà đi. 

 Lúc này Hùng Tín cùng Thúc Bảo đang ngồi trong thư phòng sưởi ấm, uống rượu, thưởng cảnh tuyết bên ngoài rất là thích ý. Đầy tớ vào thưa có ông khách xưng là họ Phàn, đem thư của Tần mẫu tới. 

 Thúc Bảo vui mừng: 

 - Đơn nhị ca, lão thân cho Kiến Uy đem thư tới rồi! 

 Hai người vội chạy ra đón. Thúc Bảo vui mừng reo lên: 

 - Đúng là hiền đệ rồi! 

 Kiến Uy cũng vội nói: 

 - Lần ấy chia hành lý, tiền bạc đều ở chỗ tiểu đệ, quên không chia. Tiểu đệ đã đưa lại cho bá mẫu, nhưng bá mẫu nhất định không cầm, bảo tiểu đệ giữ làm lộ phí để đi tìm đại huynh. 

 Thúc Bảo nói: 

 - Tiền bạc chẳng có bên mình, bao nhiêu chuyện rầy rà xảy ra. 

 Hùng Tín bàn: 

 - Những chuyện ấy khoan nói, hãy xin mời vào nhà đã! 

 Hùng Tín gọi đầy tớ cất hành lý, còn mình thì dẫn Kiến Uy vào thư phòng sưởi ấm. Hai bên lúc này mới làm lễ chủ khách. Thúc Bảo cũng chắp tay vái tạ Kiến Uy đã khó nhọc vì mình. Hùng Tín sai người nhà bày tiệc rượu. Thúc Bảo hỏi: 

 - Thân mẫu tiểu đệ sức khoẻ ra sao? 

 Kiến Uy đáp: 

 - Có thư của bá mẫu, đại huynh cứ xem sẽ rõ! 

 Thúc Bảo xem thư xong. Nước mắt chan hòa, lặng lẽ đứng đậy, thu xếp hành lý. 

 Một thư chữ mẹ đầy mong nhớ 

 Muôn dặm lòng con nỗi xốn xang. 

 Hùng Tín thấy thế, cứ yên lặng khẽ cười. Tiệc rượu đã bày ra, ba người cùng ngồi, gối kề gối, vai sát vai. Hùng Tín hỏi: 

 - Thúc Bảo, lệnh đường có khỏe không? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Thân mẫu hiện ốm nặng! 

 Hùng Tín hỏi: 

 - Thấy hiền huynh chuẩn bị hành lý, có lẽ định về Sơn Đông, ngay chăng? 

 Thúc Bảo chùi nước mắt đáp: 

 - Không phải tiểu đệ là kẻ vô ơn, ăn no rồi ưỡn bụng ra đi. Nhưng quả tình mẫu thân bệnh nặng, xin tạm biệt nhị ca. Sang năm sẽ quay lại xin tạ ơn tái tạo của nhị ca. 

 Hùng Tín đáp: 

 - Hiền huynh trở về, Hùng Tín này không dám ngăn trở. Nhưng đã là bạn bè thì phải làm cho nhau trở nên hoàn thiện hơn. Thần trung con hiếu, đời nào không có. Nhưng cần phải làm kẻ có lòng thành thực, chứ không phải để mua cái danh tiếng bề ngoài thôi! 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Xin nhị ca dạy cho. Thế nào là hiếu thật, thế nào là hiếu giả? 

 Hùng Tín đáp: 

 - Kẻ có hiếu lớn là hiếu thật, kẻ chỉ chăm sự hiếu nhỏ là hiếu giả. Vội vàng làm theo ý mình là hiếu giả. Cũng như bây giờ, hiền huynh ngày đêm lặn lội về quê, có vẻ là hiếu thật, nhưng thật ra là hiếu giả. 

 Thúc Bảo nước mắt lúc này đã khô, bất giác khẽ cười hỏi: 

 - Tiểu đệ gặp lúc vừa nghèo túng, vừa bệnh tật không nơi nương tựa xa cách thân mẫu đã lâu ngày, cũng là sự bất đắc dĩ, nay nghe thân mẫu bệnh nặng, ngày đêm trở về, cũng là sự chí tình của kẻ làm con, sao lại nói là hiếu nhỏ, hiếu giả được? 

 Kiến Uy đỡ lời cho Thúc Bảo rằng: 

 - Tần đại huynh nghe tin thân mẫu ốm là một lẽ, lẽ thứ hai là thân mẫu bệnh phải trở về ngay, nên vội lên đường, đó chính là hiếu lớn còn gì! 

 Hùng Tín giải thích: 

 - Chư huynh biết một mà không biết hai. Lệnh tiên quân (l) làm tướng nhà Bắc Tề, Bắc Tề mất, thân vong, những cái đó đều có nghĩa lớn, đại thần của một nước sắp mất, không thể tính đến chuyện sống còn của mình. Nhưng trời không nỡ nhìn thấy bậc trung thần tuyệt hậu, nên vẫn còn để lại cái vẻ anh hùng của hiền huynh. Hiện giờ chính là hiền huynh giữ lấy thân mình, chờ ngày lập nên sự nghiệp lẫy lừng, rạng rỡ họ Tần. Nay hiền huynh xông pha mưa tuyết gió lạnh, bệnh vừa mới đỡ, nếu giữa đường bệnh trở lại, nguyên khí không thể giữ nổi, vạn nhất có lúc hai là dài, ba là ngắn, đến nỗi mất cả kẻ nối dõi họ Tần, mất cả sự kỳ vọng suốt đời của bá mẫu, thì dù cho là chí tình, nhưng vẫn không phải là đạo hiếu. Kẻ quân tử đi, nhưng không chịu đi đường tắt, ngồi thuyền chứ không chịu bơi tay không, dù gặp lúc phải đi vội, nhưng cũng không dám quên chữ hiếu. Xông pha trong tuyết lớn như thế. Hùng Tín này không dám nghe theo vậy! 

 1 Gọi kính cẩn cha đã mất của bạn bè. 

 Thúc Bảo bèn hỏi: 

 - Nếu thế thì tiểu đệ không về nữa, mới là hiếu hay sao? 

 Hùng Tín cười đáp: 

 - Ai bảo hiền huynh không về. Chẳng qua chỉ là hãy biết chờ thêm ít lâu. Vả lại bá mẫu là bậc hiền thục, hiểu mọi lý lẽ. Nay nhờ Kiến Uy đi tìm hiền huynh, cũng chỉ vì lòng yêu con của người mẹ, không hiểu tình cảnh con mình ra sao, không thể ngồi yên. Nay hiền huynh viết một phong thư, kể cả rõ việc lãnh công văn lâu ra làm sao, đang khi trở về thì ngã bệnh làm sao, đến này thì đã khỏi hắn, nhưng vẫn chưa thể dãi tuyết dầm sương, nghe mẫu thân ốm nặng bảo về ngay, nhưng Hùng Tín này giữ lại chưa cho về. Lệnh đường thấy hiện huynh đã có nơi chốn dưỡng bệnh, thì sầu não càng vơi dần, biết rõ bệnh tình của hiền huynh chưa thật khỏi, cũng không lòng nào để con dầm sương tuyết. Hùng Tín này với hiền huynh đã là “Nhất bái chi giao", mẫu thân của hiền huynh cũng là mẫu thân của Hùng Tín này, ta sẽ sắm ít lễ vật, gửi về an ủi bá mẫu, nhờ luôn Kiến Uy đem theo công văn về nạp cho phủ đường Tế Châu, trình rõ với Lưu thái thú, ốm đau ở Lộ Châu thế nào, đến nỗi hiền huynh chưa về được. Thế là việc công việc tư đều đầy đủ. Đợi đến ngày xuân nắng ấm, lúc đó Hùng Tín sẽ vì hiền huynh mà kiếm ít vốn liếng, để khi hiền huynh trở về, không thèm làm công sai ở phủ đường nữa. “Cầu vinh bất tại chu môn hạ” . Làm các việc này, luôn bị sai phái, mất cả tự do, để đến nỗi bá mẫu ngày ngày trông đợi, lo lắng, thật không tròn đạo hiếu vậy! Ngồi đợi thời, không phải là không có hiếu đâu! 

 Thúc Bảo nghe Hùng Tín nói có tình có lý, lại cũng thấy mình chưa dãi dầu tuyết lạnh, đường xá xa xôi, bèn nói với Kiến Uy: 

 - Tiểu đệ biết làm thế nào bây giờ, nên về cùng với hiền đệ hay viết thư về trước đã? 

 Kiến Uy đáp: 

 - Đơn nhị ca nói rất hợp tình, hợp lý. Bá mẫu mà biết đại huynh ở đây, lập tức yên tâm, bệnh tình tự nhiên sẽ khỏi, cũng không đòi đại huynh phải về ngay nữa đâu! 

 Thúc Bảo quay lại nói với Hùng Tín: 

 - Nếu thế, tiểu đệ xin viết thư gửi về để yên lòng thân mẫu. 

 Thúc Bảo viết xong thư, đưa kèm cả công văn cho Kiến Uy, nhờ nạp lại cho phủ đường Tế Châu. Hùng Tín quay vào nhà trong, lấy ra bốn tấm lụa Lộ Châu, ba mươi lạng bạc, gửi về biếu Tần mẫu, lại thêm hai tấm lụa Tô Châu, mười lạng bạc đưa tặng Kiến Uy. Ngay hôm đó, Kiến Uy từ biệt trở về Sơn Đông, đem thư từ, tiền bạc trình Tần mẫu, và nạp công văn cho phủ đường Tế Châu. 

 Hùng Tín vẫn giữ Thúc Bảo ở Nhị Hiền trang dưỡng sức. Hôm ấy Thúc Bảo đang nhàn rỗi trong thư phòng, xem hoa ngắm tuyết, Hùng Tín nói vào mấy câu chuyện phiếm, nhưng mặt mày ủ dột thảng thốt như có điều lo lắng. 

 Thúc Bảo thấy thế, sợ Hùng Tín chán khách rồi chăng, nhịn chẳng nổi, bèn hỏi: 

 - Nhị ca mọi hôm nói cười vui vẻ, hôm nay xem ra có điều gì không vui? 

 Hùng Tín đáp: 

 - Hiền đệ không biết, Hùng Tín này ít khi chợt vui, chợt buồn. Gần đây, vong huynh lỡ phải tên mà mất, Hùng Tín này mất ăn mất ngủ luôn mấy ngày, nhưng rồi mọi chuyện xếp dặt xong xuôi, coi như bỏ ngoài cửa. Nay lại gặp chuyện khó nói khác, vốn là chuyết thê (l) chẳng may mắc bệnh xoàng, thuốc thang vẫn chưa khỏi, vì vậy Hùng Tín này không khỏi có chút lo lắng. 

 1 chuyết thê: người vợ vụng về. Tiếng khiêm nhường để chỉ vợ mình, trước mặt người khác. 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Quả là tiểu đệ quên hỏi nhị ca, nhị tẩu vốn thuộc tôn tộc nào, về Nhị Hiền trang này đã bao lâu? 

 Hùng Tín đáp: 

 - Chuyết thê vốn là cháu của đô dốc Thôi Trường Nhân, ngày xưa nhạc phụ cùng phụ thân Hùng Tín này đi lại với nhau thân thiết, chẳng bao lâu, cả phụ mẫu đều mất, gia cảnh khốn đốn, lúc này mới về Nhị Hiền trang. Cũng mừng là nàng vừa hiền vừa lanh lợi, có điều đã lấy nhau bảy tám năm nay mà chẳng sinh đẻ gì, mãi tới mùa xuân năm nay mới mang thai, tính ra thì tháng mười một này đã phải sinh, vì vậy có phần lo lắng không yên. 

 Thúc Bảo lựa lời an ủi: 

 - Tiểu đệ nghe các cụ ngày xưa nói, sinh con hổ, con lân thường không phải dễ. Phương chi, trời cũng lựa tướng mà trao điềm lành, theo thời tiết, dưa đến kỳ sẽ chín, nhị ca cũng chẳng nên lo lắng thái quá! 

 Trò chuyện chưa dứt, thấy đầy tớ vội vàng chạy vào thưa: 

 - Ngoài cửa có một nhà sư người Phiên (1) gõ cửa đòi bố thí, đuổi mấy cũng không đi. 

 1 "phiên quốc tăng nhân": Có lẽ là nhà sư, người vùng Tây Tạng, theo đạo Phật thuộc dòng Lạt ma? 

 Hùng Tín thấy nói thế liền cùng Thúc Báo ra xem, thì thấy một nhà sư người Phiên, mặc áo cà sa bằng lông thú đủ màu sắc rực rỡ, vai quảy một cây trượng dài, nhìn dáng người thì: 

 Hô sâu tròng mất 

 Nét rậm lông mày 

 Sống mũi cao như mỏ ưng bay 

 Râu tóc xoắn như bờm sư tử 

 Miệng lẩm bẩm đọc kinh niệm chú 

 Tay rung chuông, tay gõ phèng la 

 Tòa sen hiện Phật Thích Ca 

 Thiết Quài nhập xác, Lạt Ma giáng trần. 

 Hùng Tín hỏi: 

 - Sư trưởng định dùng cơm chay hay rượu thịt? 

 Nhà sư đáp: 

 - Ta không ăn chay! 

 Hùng Tín liền sai đầy tớ bưng ngay ra một đĩa thịt bò lớn, một đĩa bánh bao, đặt trước mặt nhà sư, rồi cùng Thúc Bảo ngồi bên xem xét. Nhà sư múa tít hai tay một lúc, thì cả hai đĩa đều sạch nhẵn. 

 Thấy thế Hùng Tín bèn hỏi: 

 - Bây giờ sư trưởng đi đâu? 

 Nhà sư đáp: 

 - Giờ bần tăng phải đi Thái Nguyên, rồi từ đó chuyển đường đi Tây Kinh. 

 Hùng Tín hỏi: 

 - Tây Kinh vốn là vùng đất hoang vu, trưởng lão là nhà tu hành, đến đó làm gì? 

 Nhà sư đáp: 

 - Nghe nói hiện nay chúa thượng mỏi mệt, công việc triều chính, đều giao cho Thái tử coi sóc. Thái tử là người ương ngạnh, không muốn yên ổn, cho nên bần tăng muốn tới Tây Kinh, hái dược liệu làm thuốc, dâng Thái tử. 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Thế hiện nay trong khăn gói trưởng lão, có loại thuốc nào đặc biệt chăng? 

 Nhà sư đáp: 

 - Tất cả các loại thuốc đều có. 

 Hùng Tín hỏi tiếp: 

 -Xin hỏi trưởng lão có thuốc điều kinh thôi sản, xin cho một liều. 

 Nhà sư đáp: 

 - Có 

 Rồi lấy trong tay nải ra một cái hồ lô, dốc ra một viên thuốc chỉ bằng hạt đậu lớn, lấy một miếng giấy màu vàng gói lại, đưa cho 

 Hùng Tín dặn dò: 

 - Cầm lấy, bao giờ có trống điểm canh thì cho uống, dùng nước trầm hương mà tiêu, nếu uống xong mà sinh ngay là con gái, ngày hôm sau mới sinh nhất định là con trai. 

 Nói xong thì đứng dậy ra cửa, cũng chẳng một lời ơn nghĩa, nhìn theo, đã không thấy đâu nữa rồi. Hùng Tín kéo tay Thúc Bảo lại thư phòng. Thúc Bảo cảm thán: 

 - Chúa thượng bỏ bê chính sự, bốn bể giặc giã như ong dậy, đến nỗi mãi ở Phiên quốc đều hay. Tương lai chúng ta rồi sẽ thế nào đây nhị ca? 

 Hùng Tín đáp: 

 - Lo lắng chuyện ấy làm gì. Nếu như có biến đi nữa, bọn ta càng có điều kiện để mở mày mở mặt với thiên hạ, xây được cơ nghiệp cho bản thân. Chẳng hơn cứ dấm dúi qua ngày như thế này sao? 

 Nói xong, Hùng Tín bỏ vào nhà trong. 

 Đêm hôm đó, Hùng Tín lấy viên thuốc nhà sư người Phiên cho, đưa Thôi phu nhân uống. Đến đúng giữa giờ tý* bỗng thấy khắp nhà hương hoa sen thơm ngát, phu nhân liền sinh con gái, vì vậy đặt tên là ái Liên. Vợ chồng đều mừng rỡ khôn tả. Thúc Bảo được tin cũng rất hân hoan. 

 * Giờ tý: từ 23 giờ đến 1 giờ, giữa giờ tý là 24 giờ đúng. 

 Thấm thoát quang âm, chẳng bao lâu đã tới ba mươi tết, Hùng Tín ngồi uống rượu với Thúc Bảo bên lò sưởi mãi tới sáng, chuyện trò đến quên cả cảnh tha hương, khách địa. Sáng mai ra đã là tháng giêng, năm thứ hai đời Nhân Thọ* rồi. Rượu uống mừng năm mới, Thúc Bảo nửa tỉnh nửa say nghĩ đến công nghiệp chưa thành, thân thế nổi trôi, xa mẹ, bỏ vợ con lòng vô cùng xốn xang. 

 * Tức năm 602, sau công nguyên, ở Việt Nam ta là năm thứ 32, thời Lý Phật Tử, hậu Lý Nam Đế. 

 Rượu rót mừng đuổi sầu đi 

 Sầu trông còn đó, rượu thì cạn không. 

 Rồi lại đến rượu của đêm nguyên tiêu, tết rằm tháng giêng. Hùng Tín suốt mấy tuần khó nhọc, nên đến chiều ngày mười tám, tháng giêng thì vì quá mệt mỏi, lui vào nhà sau nằm ngủ. Thúc Bảo vì nhớ người nhà, không thể nào ngủ được, chỉ đành quanh quẩn dạo dưới đèn. Mấy người đầy tớ trong trang trại, thấy thế bèn hỏi: 

 - Tần quý khách vẫn chưa đi nằm sao? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Ta thật nóng lòng muốn về Sơn Đông quá chừng. Nhưng vì hậu tình của viên ngoại, đến nổi mở miệng xin về cũng khó nói. Các người hãy chịu khó giúp ta ra về. Ta sẽ để lại một lá thư, tạ lỗi cùng viên ngoại. 

 Chỉ vì chủ nhà hiếu khách, nên bọn đầy tớ cũng rất ân cần, bèn thưa: 

 - Tần quý khách ở đây, chính là chẳng có nơi ở nào tốt hơn. Bọn tôi tớ chúng tôi, sao lại dám để Tần quý khách ra đi được! 

 Thúc Bảo bèn nói: 

 - Nếu thế, ta sẽ có cách! 

 Thế rối trong phòng nhìn ngang nằm ngửa, chỉ tay, gật đầu, như kiểu đang mưu tính gì. Bọn đầy tớ sợ giữ Thúc Bảo không xong, lỡ Thúc Bảo bỏ trốn mất, thì thật không biết trình với chủ thế nào, cho nên cả bọn bàn tính. kẻ thì ở lại hầu hạ trông chừng, kẻ vào nhà trong báo với chủ : 

 - Tần quý khách muốn về quê, thưa chủ nhân! 

 Hùng Tín nghe nói thế khoác áo, lê dép vội ra, hỏi: 

 - Hiền huynh nồi hứng muốn về chăng? Không phải vì Hùng Tín này đối xử khiếm khuyết gì chứ? Nếu quả thế thì thật đáng tội Hùng Tín này. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Tiểu đệ nôn nóng muốn về quê, ngày đêm không yên dạ, nhưng thấy nhị ca nặng tình, nặng nghĩa, nên không dám ngỏ lời. Nay thật không thể nào ở lại được nữa, ngồi đứng không yên, xin nhị ca tha tội! 

 Nói rồi rơi nước mắt, cảnh này, tình này thật hợp với bài "Tập Đường thi"* của đời sau: 

 *“Tập Đường thi": dùng lại hoàn toàn, hoặc chữa một hai từ, những câu thơ Đường khác bài, khác tác giả để chấp thành bài mới. Giống hình thức “Tập Kiều” của ta vậy! 

 Xuân về, đất khách vẫn lân la 

 Gặp tết, bâng khuâng lại nhớ nhà 

 Ôi hỡi, trông vời mây khói nọ 

 Dài sông xa núi não lòng ta! 

 Hùng Tín an ủi: 

 - Hiền huynh chẳng cần phải thương cảm đến thế. Ngày mai, Hùng Tín sẽ đưa hiền huynh lên đường về với bá mẫu. Đêm nay hãy xin ngủ một giấc thật ngon lành, sáng mai lên đường sớm. 

 Thúc Bảo vội hỏi: 

 - Có thật thế không? 

 Hùng Tín đáp: 

 - Hùng Tín một đời chẳng từng thay lời. Chẳng nhẽ lại định nói dối hiền huynh sao! 

 Nói rồi vào nhà trong sửa soạn. Thúc Bảo lại càng thấp thỏm, đứng ngồi không yên. Bọn đầy tớ đùa: 

 - Tần quý khách từ lúc được viên ngoại hứa cho về quê, mặt mày trông thật rạng rỡ hẳn. 

 Thúc Bảo cố tình lên giường nằm ngủ. Vì sao Hùng Tín phải giữ Thúc Bảo mãi đến nay mới cho về, thì ra từ ngày mùng một tháng mười, mua được con hoàng phiêu của Thúc Bảo, sau đó được Bá Đương, Huyền Thúy nói cho biết mọi chuyện, Hùng Tín liền gọi thợ yên ngựa giỏi, theo kích thước của con hoàng phiêu làm một bộ yên cương thật đẹp, khảm bạc, bịt đồng hẳn hoi, mãi tới tết nguyên tiêu vừa rồi mới xong, thật tinh xảo, ánh kim lấp lánh. Lại muốn tặng Thúc Bảo một số vốn lớn, nhưng chỉ sợ Thúc Bảo không chịu nhận, nên mới làm một cái khăn lớn phủ trùm lên yên ngựa. Phía sau cái khăn này là một cái túi lớn, bạc đánh thành từng thỏi dẹp bỏ vào túi buộc lại phía sau yên ngựa, không hề nói gì với Thúc Bảo về số bạc này, coi như chỉ khăn phủ trên yên mà thôi. Rồi mới dắt con hoàng phiêu ra, để Thúc Bảo thấy ngựa đã cường tráng, yên cương đầy đủ, sẵn sàng cho Thúc Bảo lên đường. 

 Thúc Bảo ý muốn tới Đông Nhạc chào Ngụy Trưng, Hùng Tín liền cho người mời Ngụy Trưng tới nhị Hiền trang. Chủ khách cũng ngồi vào bàn tiệc. Bàn bên bày ra mười tấm gấm Lộ Châu ngũ sắc, đủ để làm bốn chiếc áo bông lớn và năm mươi lạng bạc làm lộ phí. 

 Hùng Tín mời Thúc Bảo cạn một chén rượu, chỉ lễ vật trên bàn bên, nói: 

 - Đây là lễ mọn, xin hiền huynh nhận cho. Xin hiền huynh nhớ kỹ đừng quên câu "Cầu vinh bất tại chu môn hạ", nhé! 

 Ngụy Trưng tiếp lời: 

 - Thúc Bảo hiền huynh chịu nép dưới kẻ khác, làm tổn thương cả chí khí kẻ anh hùng. Huống chi, Ngụy Trưng này đã từng gặp bậc dị nhân mách rằng: chân chúa đã ra đời, nhà Tùy chẳng còn được bao lâu. Anh hùng như hiền huynh, nhất định phải là kẻ công thần khai quốc. Ngụy Trưng này, dẫu có khoác chiếc áo vàng của đạo sĩ, chẳng qua cũng để đợi thời mà hành động. Hiền huynh hãy nghe lời viên ngoại. Trời sinh ta có tài, đừng để uổng phí? 

 Thúc Bảo trong lòng thầm nghĩ: "Ngụy Trưng nói thế còn cóý. Còn Hùng Tín biết ta rất rõ, chỉ cần lưu lạc ở quê người vài tuần, đã trở thành kẻ khố rách ngay. Nay với mấy chục lạng bạc này, mà bảo ta đừng vào làm việc ở phủ đường nữa. Có ngờ đâu rằng, ta tuy làm việc ở phủ đường nhưng chỉ cần đi lại với bạn bè trên dưới, những chi phí lễ nghĩa, thì một năm cũng được mấy trăm lạng rồi! Thế mà Hùng Tín nói chuyện đâu đâu!”. Thúc Bảo nghĩ vậy nhưng vẫn đáp lời Ngụy Trưng: 

 - Những lời vàng đá của các vị huynh trưởng, tiểu đệ xin ghi nhớ vào gan dạ. Lòng trở về như tên bắn, không thể uống nhiều. 

 Hùng Tín lấy chén, rót ba chén, cùng Thúc Bảo uống cạn. Ngụy Trưng cũng rót ba chén cùng uống với Thúc Bảo. Thúc Bảo nhận tặng vật của Hùng Tín, buộc vào sau yên, chắp tay vái biệt. Chính là: 

 Dùng dằng không nỡ rời tay 

 Rượu ngon mà chẳng dám say chén kề 

 Đốt lòng ta, nỗi nhớ quê 

 Nào đâu dám nhẹ chia ly buổi này. 

 Ra khỏi cửa vừa lên ngựa, Thúc Bảo đã kéo thẳng dây cương. Hoàng phiêu đã nhận ra chủ cũ, ngựa mạnh, người khỏe, đi một hơi đã thấy ba mươi dặm. Lúc này mới dừng cương, Thúc Bảo quay nhìn, thì thấy hành lý sau yên đã sa hẳn một bên. Nếu Thúc Bảo tự chuẩn bị hành lý, yên cương, thì đã cân đối, chắc chắn, nhưng đây lại là bọn đầy tớ của Hùng Tín buộc không chặt, nhất lại bạc nặng gói bên trong, ngựa chỉ cần phi một đoạn đã lỏng thêm rồi. Thúc Bảo trông thấy nghĩ thầm: "Buộc không chắc, bạn bè cho gì, rơi dọc đường hết, thật là phụ lòng tốt của bạn. Không được chậm, nhưng cũng không được sai sót, phía trước đã là thôn trấn nào đó, hãy nghỉ lại đêm nay. Sáng sớm canh năm, ta trở dậy buộc lại mọi thứ hãy đi, thì chẳng mất mát gì được nữa?" Thúc Bảo liền tìm vào quán trọ. Vùng này vốn là rừng Tạo Giác, cũng bởi vận hạn của Thúc Bảo chưa hết, nên vẫn phải còn một tai họa lớn nữa. 

 Chẳng biết tính mạng Thúc Bảo ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Mười Hai

Rừng Tạo Giác hở cửa chuốc tai ương,

 Thôn Thuận Nghĩa trên đài gặp địch thủ.

 Thơ rằng: 

 Giàu nghèo vốn chuyện rủi may 

 Giàu mà rủi, nghèo gặp may, sự thường 

 Túi đầy châu nặng, dễ vương 

 Nhà thanh bạch, trí như gương, khác gì 

 Thạch Sùng (1) chuyện cũ còn ghi 

 Băn khoăn nữa, thì cứ đi hỏi trời. 

 1 Thạch Sùng: giàu nổi tiếng đời Tấn. Rất xa hoa lấy nến làm củi, bạn với Vương Khải. Bị dèm pha, đến nỗi Triệu Vương giết giữa chợ, vợ con, của cải mất hết. Tương truyền cùng Vương Khải thi giàu bị thua, hóa thạch sùng, tắc lưỡi vì tiếc của. 

 Phàm người ta, không tiền của khó mà mở mày mở mặt, nhưng trong tay nhiều tiền của thì thường hay mắc lụy. Làm một người dân thường, lắm của nhiều tiền, trước nhất được mang tên thằng tù giữ của, rồi quan ty nhìn ngó, thân hữu ghét ghen. Nếu để người ngoài thấy túi nặng, tất xảy chuyện cướp đoạt, đi một bước ngại ngần, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, thật là trong phúc có họa, rất dễ mang họa vào thân. 

 Nói chuyện vào lúc Thúc Bảo đặt chân đến rừng Tạo Giác. Vùng này thường vẫn có cướp, chuyên cướp đoạt hành lý của khách lại qua. Đơn gửi về phủ Lộ Châu kể cớ hàng mấy chục, nhưng quan quân vẫn chẳng làm gì nên chuyện. Ở đây, có một chủ quán trọ họ Trương, tên Kỳ, lâu nay vẫn là bảo chính trông coi cả vùng. Vợ Trương thì cả ngày ngồi sau quầy hàng, đon đả chào mời, sai phái đàn em, lôi kéo hành lý, tranh nhau khách khứa với các hàng khác. Hôm ấy họ Trương vừa bị Sái Thái thú Lộ Châu đánh cho mười roi, bắt phải tóm cho kỳ được bọn cướp ở rừng Tạo Giác. Từ quan chí dân, ai cũng biết giữa bọn cướp với những quán trọ trong vùng đều một cánh với nhau, chính vì biết thế, nên Sái Thái thú mới khoác chặt việc này lên cổ Trương Kỳ. Trời vừa tối, họ Trương cũng vừa kịp kéo bọn lính của bọn phủ về tới cửa quán. Thúc Bảo đang trong phòng trọ, nghe bên ngoài ồn ào tiếng người, tiếng ngựa, tưởng có khách trọ mới tới nên không để ý. 

 Trương vào nhà, kể lể với vợ: 

 - Bọn cướp thì được của rồi chuồn mất. Lão Thái thú thì ôn dịch hồ đồ, đem cái việc khổ sở này buộc vào cổ ta chẳng khác gì bắt gió, giỡn trăng. Bảo ta tìm đâu ra bọn cướp để nạp bây giờ. 

 Vợ Trương khẽ ra hiệu, vợ chồng dẫn nhau vào nhà trong, bọn lính bám theo để nghe vợ chồng rương bàn bạc ra sao. Vợ Trương thì thầm: 

 - Vừa chiều có một khách trọ mới vào, rất đáng nghi ngờ. 

 Bọn lính nghe thế, vội xúm lại hỏi: 

 - Xin bà chủ nói rõ xem nào. Việc này quả rất đáng quan hệ đến mạng sống chúng tôi đấy! 

 Vợ Trương đáp: 

 - Các bác đừng to tiếng thế. Khách hiện vẫn đang trong quán mà! 

 Một tên lính hỏi dồn: 

 - Làm sao bà chủ biết được người khách trọ này đáng ngờ nào? 

 Vợ Trương đáp: 

 - Người này mặc quần áo mới, dây khăn chỉnh tề, lại mang khí giới, cưỡi một con ngựa cao lớn. Nếu là nhân viên phải có lính tráng theo hầu, là khách buôn thì cũng phải có bạn bè, đầy tớ, đằng này lại một mình vào quán, không đáng nghi ngờ còn gì nữa? 

 Bọn lính cùng khen nịnh: 

 - Bà chủ nói có lý lắm. Trước hết là cứ xem con ngựa của hắn ra sao là biết! 

 Cả bọn cầm đèn ra phía chuồng ngựa, thì rõ là một con ngựa to khỏe không phải là vùng Lộ Châu mà là ở nơi xa đến, không khác gì ngựa của bọn cướp vẫn thường có. Một người lính khẽ hỏi: 

 - Hắn đang ở phòng nào? 

 Vợ Trương giơ tay chỉ: 

 - Hiện đang ở phòng ngay gần cửa kia. 

 Cả bọn lại tắt hết đèn đóm, giờ chỉ còn mỗi phòng Thúc Bảo sáng đèn. Cả chủ quán lẫn bọn lính rón rén nhìn qua khe cửa thì thấy Thúc Bảo vừa ăn bữa tối xong, mọi thứ đã thu dọn tươm tất, rồi đóng chặt cửa phòng, sửa soạn hành lý, chăn gối định đi ngủ để mai còn đi sớm. Mở túi hành lý ra, Thúc Bảo mới biết có rất nhiều thỏi bạc trong đó, tò mò không rõ ít nhiều lại cũng chưa thể ngủ ngay được nên Thúc Bảo đổ tất cả ra giường, thì thấy một giường đầy những thỏi bạc đã được đập dẹp lại, vuông vắn chẳng khác gì những viên gạch nhỏ. Thúc Bảo vừa mừng vừa ngạc nhiên cảm kích, thầm nghĩ: "Đơn Hùng Tín, Đơn Hùng Tín! Đại huynh bảo Tần Quỳnh ngày trở về Sơn Đông, đừng nên nhận làm tiếp công sai ở phủ đường, là do những thứ đại huynh đã chuẩn bị sẵn cho thế này đây. Nhưng sợ ta từ chối, nên phải giấu kỹ trong khăn gói. Đơn nhị ca thật hết lòng với bạn bè!". Vì chưa biết mỗi thỏi nặng bao nhiêu, Thúc Bảo đặt từng thỏi lên lòng tay ướm thử. Có ngờ đâu “bên vách vẫn có tai, ngoài đâu có vắng". Bọn lính thấy vậy, bàn với nhau: "Đúng là tướng cướp rồi. Nếu là khách thường, tiền ở nhà đem đi, nhiều ít nặng nhẹ, thì biết rõ cả. Hoặc nữa, tiền chủ giao cho, thì đã cân đếm rõ ràng, chẳng thể có chuyện không biết, để đến nỗi giữa quán trọ, ngồi xem nặng nhẹ. Số bạc này khó mà chối là không phải của ăn cướp, còn tay này rõ là cường đạo không còn hồ nghi gì nữa". Có kẻ giục: 

 - Trói hổ không nên trù trừ. 

 Trước hết, bọn lính dắt ngựa giấu đi chỗ khác, rồi chọn lấy cái dây thật tốt, đến trước cửa phòng Thúc Bảo, buộc vào cột, vào càng xe, vào chân hòm lớn nhằm làm vướng ngã Thúc Bảo. Giờ chỉ cần một người có gan vào phòng dụ Thúc Bảo ra. 

 Chủ quán họ Trương từ lúc thấy bạc của Thúc Bảo bày trên bàn, trong lòng đã nghĩ: "Của này ở đâu ra, ai mà khảo được, chi bằng xông vào trước cướp lấy mấy thỏi, sợ gì tay này". Họ Trương bèn nói với bọn lính: 

 - Xin các bác thư thả. Các bác vốn không quen đường ra cửa vào của quán, hãy đợi tôi xông vào trước, dụ hắn ra có tốt không? 

 Bọn lính vốn dày dạn, đáp ngay: 

 - Vâng, xin nhường bác vào trước! 

 Họ Trương nguyên đã uống tới hai ba bát rượu hâm nóng, hùng hổ đạp mạnh cánh cửa. Cửa quán vốn đóng mở đêm ngày, lại cũng đã lâu nên chỉ cần họ Trương đạp nhẹ cũng gãy nát, Trương lập tức xông vào. Thúc Bảo hoàn toàn bất ngờ, thấy có kẻ đột nhiên xuất hiện, cướp bạc của mình, nổi giận đùng đùng, hai tay đấm tới tấp, nghe bịch, bịch liên tiếp mấy cái, đã thấy họ Trương bắn ra tường, chỉ kịp rú lên một tiếng khủng khiếp, đầu đã vỡ nát, óc bắn tung tóe khắp phòng. 

 Chính là: 

 Những tưởng bạc vàng vào túi cạn 

 Nào ngờ tính mạng gửi trời cao. 

 Bên ngoài cảnh tượng càng nhốn nháo, tiếng la hét ầm ĩ: 

 - Kẻ cướp đánh lính, giết người! 

 Cả nhà họ Trương thi nhau gào khóc. Thúc Bảo thoáng nghĩ: “Thôi đã lỡ tay đánh chết người, nếu vào thành thú tội, nợ không biết bao giờ gỡ cho xong. Ta lại chưa khai họ tên gì với chủ quán, chi bằng vứt quách hành lý, bỏ trốn là hơn." Lập tức Thúc Bảo lao thẳng ra khỏi cửa, không ngờ vướng ngay dây, ngã lăn quay ra đất. Bọn lính xúm lại dùng câu liêm vừa chặn vừa kéo, lại vác năm sáu cây thủy hỏa côn, nện tới tấp. Thúc Bảo chỉ còn cách nằm co dúm lại, hai tay ôm chặt lấy đầu, mặc cho bọn lính đánh, cán dao gãy, đoản côn nát, chúng lại lấy roi sắt, gậy, đây xích quật tiếp,ra: 

 Hổ lọt hang sâu khôn giơ vuốt 

 Rồng trong lưới sắt khó bay cao. 

 Khi khắp người Thúc Bảo đã đầy thương tích, chúng cởi hết quần áo, lấy dây trói chặt, đem giấy bút lại, bắt Thúc Bảo ký nhận là cường đạo. Thúc Báo chối: 

 - Các bác xem lại. Tôi đâu có phải là cường đạo. Mà là công sai của phủ Tế Châu, dưới trướng Lưu thái thú. Tháng tám năm ngoái phải giải phạm nhân, đem công văn tới phủ Lộ Châu, không may bị ốm đau, được bạn bè chu cấp tiền về quê. Nào ngờ các bác nhận nhầm người là cường đạo, đến nỗi lỡ tay đánh chết người, xin các bác cứ giải lên quan xét xử rõ ràng. 

 Bọn lính đâu dễ tin, chúng thu thập tất cả tiền bạc, đồ đạc, khai rõ từng tang vật, trói Thúc Bảo lên lưng ngựa. Vợ con Trương Kỳ nhờ người trong thôn viết sẵn đơn kiện, rồi cả bọn rời khỏi rừng Tạo Giác đi về phủ Lộ Châu. Đây là lần thứ hai, Thúc Bảo đến thành Lộ Châu. 

 Đến cổng thành thì đã canh ba, cả bọn gào gọi lính gác: 

 - Rừng Tạo Giác bắt được giặc cướp, đánh lính, giết người, nhờ báo hộ với quan Thái thú! 

 Lính gác vào trình, Sái thái thú lập tức sai lính ra mở cổng thành, đưa cả đoàn vào phủ, cho gọi tham quan tới xét hỏi. Tham quân Lộ Châu vốn là Hộc Tư Khoan, người Liêu Tây, đang ngủ say bị gọi dậy, rượu lại chưa tỉnh, liền gọi bọn lính hỏi trước, nghe xong, nôi ngay: 

 - Thu được hơn bốn trăm lạng bạc, có ngựa khỏe, có vũ khí nặng thì rõ là kẻ cướp rồi còn gì nữa! 

 Rồi cho giải Thúc Bảo vào, quát: 

 - Tên kia, họ tên gì, quê quán ở đâu? 

 Thúc Bảo vội thưa: 

 - Trình quan lớn, tiểu nhân không phải kẻ cướp, mà là Tần Quỳnh, công sai của phủ Tế Châu. Tháng tám năm ngoái đến đây, có giấy tờ của Lưu thái thú nhận thực hẳn hoi. 

 Tham quân họ Hộc hỏi: 

 - Giấy tờ đâu? 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Thưa đã gởi bạn cầm về trước cả rồi! 

 Họ Hộc lại nạt: 

 - Lại nói láo rồi! Tại sao mày đến phủ này từ tháng tám, giờ vẫn còn ở đây, nhất định lại ẩn náu ở sào huyệt gần đây hẳn thôi! 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Tiểu nhân bị ốm đau nên chưa về được! 

 Họ Hộc lại truy: 

 - Số bạc lớn này lấy đâu ra? 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Của bạn bè cho ạ! 

 Họ Hộc lại quát: 

 - Nói láo, thời buổi bây giờ, một đồng cũng khó kiếm, ai có mà cho mày một lúc bấy nhiêu. Nhưng sao lại dám chống cự lại lính, đánh chết Trương Kỳ? 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Chiều tối ngày mười chín, tiểu nhân vào trọ quán Trương Kỳ, bỗng dưng Trương Kỳ dẫn người xông vào phòng trọ cướp bạc của tiểu nhân. Tiểu nhân lỡ tay, Trương Kỳ đâm đầu vào tường chết. 

 Họ Hộc lại truy tiếp: 

 - Đánh lính, giết người, tội đã rõ. Lúc này đem công văn tới Đây, ăn ngủ ở đâu. Nếu thật có ốm đau nữa, thì nằm ở đâu, ai trông nom, khai rõ tên từng người, ta sẽ cho gọi tất cả lên đối chứng rõ ràng, phải có phải, trái có trái, rồi sẽ kết tội cũng chưa muộn. 

 Thúc Bảo chỉ còn cách khai Vương Tiểu Nhị, Ngụy Trưng, cùng Đơn Hùng Tín, tham quân họ Hộc ghi tất cả vào biên bản, kiểm tra tang vật, cho nhốt ngựa vào chuồng, chờ gọi đủ nhân chứng đến thẩm vấn, đưa Thúc Bảo xuống giam trong nhà ngục. 

 Chính là: . 

 Bỗng không thân ơi vòng tù tội 

 Nghìn miệng khó chối nỗi tai ương. 

 Ngày hôm sau, Hộc Tham quân trình với Sái thái thú: 

 - Phạm nhân hôm qua đại nhân cho đưa xuống, tên gọi Tần Quỳnh, phạm tội chống lính giết người, khai là công sai của phủ Tế Châu, nhưng không có công văn làm bằng cứ, lại có rất nhiều bạc, kèm cả khí giới ngựa khỏe, rất đáng khả nghi. Việc đánh chết Trương Kỳ đã có xác thực, nhưng còn chờ khám nghiệm tử thi, thẩm vấn tội phạm, cùng can phạm, lúc đó mới có kết luận trình đại nhân. 

 Sái Thái thú nói: 

 - Việc này lớn, phiền tham quân lưu ý tra xét cẩn thận cho. 

 Họ Hộc trở về phòng, xem xét lại giấy tờ, cho gọi Vương Tiểu Nhị, Ngụy Trưng, Đơn Hùng Tín vào phủ đối chứng. 

 Vương Tiểu Nhị ở ngay trước cửa phủ, chưa cháy hết cây hương đã tới. Y khai quán trọ của mình vốn là nơi ăn ngủ của công sai các phủ, ngoài ra không biết gì khác. Phủ đường Lộ Châu ai cũng biết tên tuổi, tâm địa y, nên được tha ngay. Ngụy Trưng bị gọi đến, bởi có chứa chấp Thúc Bảo, cũng bị dọa nạt ít nhiều, phải mất một thỏi bạc lớn mới được tha về. Còn Hùng Tín sai đầy tớ mang theo hàng nghìn lạng bạc sớm tối tự mình cùng đầy tớ đi khắp nơi trong phủ, lại vốn quen biết Đổng Hoàn, hiệu Bội Chi và Kim Giáp hiệu Quốc Tuấn, đều là những bậc đàn anh trong đám nha lại của phủ Lộ Châu. Hùng Tín giao cả số bạc lớn đó cho hai người này lo lót các nơi trong phủ. 

 Đông Kim vì thế tìm vào tận ngục gặp Thúc Bảo nhiều lần, bàn cách khai báo cho khớp. Cho tham quân họ Hộc cũng được lo lót trước tiên, vì thế những vụ liên can đến Ngụy Trưng cũng được nhẹ nhàng, trôi chảy. Việc khám nghiệm tử thi ở Tạo Giác, Bội Chi cùng Quốc Tuấn đã đút lót cho bọn tay chân, đổ cho Trương Kỳ đập đầu phải tường mà chết. Bọn lính ở đội bắt cướp lần đó, vì cũng đã được lót tay rất hậu, nên cũng không tên nào kêu ca gì. Còn số bạc nhiều đến thế, cả bọn đã dặn Thúc Bảo khai là của Bồ Sơn Công Lý Mật và Vương Bá Đương cho. Từ đó, Thúc Bảo không bị hành hạ, đánh đập gì nữa. 

 Tờ thẩm vấn được viết lại như sau: 

 Thẩm tra Tần Quỳnh, công sai phủ Tế Châu, có công vụ tới Lộ Châu, công vụ đã xong, công văn trở về đã nhận. Nhân vì ốm đau, chưa về ngày được. Lần lửa nơi quán trọ. Trương Kỳ thấy bạc nhiều, đã vội nghi ngờ, xông vào làm dữ. Tần Quỳnh trong lúc hốt hoảng, ra sức chống trả, khiến Trương Kỳ dập đầu vào tường mà chết. Nếu ghép tội cố sát thì cũng quá nặng, chỉ nên định tội ngộ thương là đúng. Số bạc hiện có, cả hai lần tra, đều khai là của Lý Mật và Vương Bá Đương cho. Bởi không thể gọi bọn Lý Mật đến cửa quan đối chất, tạm coi như của bị cáo vậy. 

 Vì được ghép tội ngộ thương, nên Thúc Bảo chỉ phải xung quân. Cũng vì các triều vua, luật pháp khác nhau, nếu không phải của ăn cướp thì tiền bạc hành lý của phạm nhân hoặc được trả lại, hoặc đưa vào kho cất giữ. Thúc Bảo do còn lo đỡ bị tội nặng, nên tiền của, vũ khí, cho đến cả ngựa đều phải nạp vào kho phủ Lộ Châu. Bắt người, đánh đập, vu cho là cướp, đáng cũng phải xử tội nhưng đám lính đều đổ lên đầu Trương Kỳ đã chết, phía Thúc Bảo cũng không dám làm găng chuyện này, nên bọn lính chẳng những không bị tội tình mà còn được chấm mút ít nhiều. 

 Hôm xét xử ở công đường, tham quân họ Hộc giảng giải hồi lâu. Sái Thái thú bằng lòng, mọi chuyện xong xuôi. Thúc Bảo thoát tội chết, phải phát phối xung quân dưới trướng tổng quản U Châu. Đến hôm giải đi, Hùng Tín lại lo lót để Bội Chi, Quốc Tuấn làm luôn việc công sai giải Thúc Bảo. Nên chỉ vừa mới ra khỏi thành, cùm tay đã được cởi, các hình cụ được bỏ hết, lại còn được vào trang Nhị Hiền, gặp Hùng Tín để tạ ơn cứu mạng. 

 Hùng Tín từ tạ: 

 - Chuyện này là chính Hùng Tín này làm lụy đến hiền huynh còn tạ ơn nỗi gì. 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Cũng vì tiểu đệ đang hồi vận hạn mới gặp phải vạ này, nếu không được Đơn nhị ca thủy chung lo trọn thì cũng đã làm ma trong nhà ngục rồi. 

 Hùng Tín lại xin Bội Chi, Quốc Tuấn ở nhà với vợ con vài hôm, để Thúc Bảo được ở lại Nhị Hiền trang vài ngày, tắm rửa, thay quần áo nghỉ ngơi, rồi chuẩn bị hành lý, gói thêm một trăm lạng bạc cho Thúc Bảo. 

 Vài ngày sau, theo hẹn, Bội Chi, Quốc Tuấn kéo đến, Hùng Tín bày tiệc rượu tiễn hành. Ăn uống no say, Hùng Tín lấy ra một phong thư đưa cho hai người, dặn dò: 

 - Xin hai vị nhớ cho, nếu ở Sơn Đông, Hà Nam thì Thúc Bảo đây bạn bè rất nhiều. Nhưng ở U Châu, Hà Bắc thì lại ít người quen thuộc. Chỉ sợ mai kia, có việc phải lo liệu mà lại "tứ cố vô thân" nhưng thêm khốn khổ, nên Hùng Tín viết thư này giới thiệu Thúc Bảo và các vị với Trương Công Cẩn, ở thôn Thuận Nghĩa, thuộc Trác Quận, vốn là bậc hào kiệt trong vùng, cùng Hùng Tín này là quan hệ “bát bái chi giao". Nhờ Công Cẩn cùng đi với các vị đến U Châu, việc đi lại ở cửa công, Công Cẩn sẽ giúp thêm một tay với các vị. 

 Hai người đáp: 

 - Chúng tiểu đệ nhớ rồi! 

 Từ biệt Hùng Tín, cả ba rời Nhị Hiền trang. 

 Chính là: 

 Dặm dài vui đón xuân về 

 Liễu điều vội rũ tóc thề xanh xanh. 

 Cả ba vừa đi vừa trò chuyện, tình thân càng thêm gắn bó. Bất giác mấy ngày sau đã tới Trác Quận, khoảng giờ tỵ thì đến thôn Thuận Nghĩa. Giữa thôn là một đường lớn, quây quần xung quanh là bốn năm trăm nóc nhà. Phía đầu đường thứ hai thấy có một quán trọ khá tươm tất, Thúc Bảo dừng lại, nói: 

 - Hai vị, vào tìm Trương Công Cẩn đưa thư, mà bụng đã đói, lẽ nào lại đòi ăn ngay. Người đời thường bảo: "Vào nhà quen, chẳng bằng lên quán trọ". Ta hãy vào quán này ăn bữa trưa, sau đó hãy tìm đưa thư cũng chưa muộn. 

 Bội Chi, Quốc Tuấn đều đáp: 

 - Đại huynh nói có lý lắm! 

 Chủ quán đon đả bày chè nước, rồi sau đó cơm rượu. Ăn uống xong, Thức Bảo cùng Bội Chi, Quốc Tuấn ra cửa quán đứng nhìn. 

 Chỉ thấy vô số thanh niên, phụ lão, có kẻ cắp côn, người cầm giáo kéo đi lũ lượt, chuông trống rộn rã. Trên ngựa lớn, một người to khỏe, đầu chít khăn chữ vạn, đính hai đóa hoa bạc, y phục toàn bằng lụa màu sặc sỡ, giải bay phấp phới. Theo sau là một đoàn tráng đinh gươm giáo tuốt trần. Thúc Bảo hỏi chủ quán: 

 - Hảo hán được đón rước kia là ai? 

 Chủ quán thưa: 

 - Thôn Thuận Nghĩa chúng tôi lâu nay được đón Thái tuế về mở Đả lôi đài (1) 

 1 Thái TuẺ từ của phép tử vi, bói toán, chỉ sự vận hạn hung dữ. 

 Thúc Bảo hỏi tiếp: 

 - Sao lại gọi bằng cái tên khác thường này? 

 Chủ quán đáp: 

 - Quý khách không biết. Ông này vốn họ Sử, tên kép Đại Nại, nguyên là tướng Phiên, vào trung nguyên rồi không về nữa. Gần đây đầu quân dưới trướng La Thái thú ở U Châu. La Thái thú thấy Sử Thái tuế có tài, nhưng cũng muốn xem bản lĩnh thực hư ra sao, mới lệnh cho thôn Thuận Nghĩa chúng tôi mở Đả lôi đài trong ba tháng, nếu không có ai thắng nổi, sẽ cho thực giữ chức kỳ bài quan. Từ mùa đông năm ngoái đã dựng đài, nay là tiết thanh minh. Lúc đầu một vài hảo hán gần đây, sau cũng thêm vài hào kiệt xa tới, đấu đã nhiều trận, nhưng chưa ai thắng nổi Thái tuế, một trận hòa cũng không. Hôm nay đón Thái tuế lên đài ngày cuối. 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Hôm nay có còn đấu nữa không? 

 Chủ quán đáp: 

 - Dạ, thưa còn đấu một ngày hôm nay nữa. Ngày mai thì vừa hết hạn ba tháng. 

 Thúc Bảo lại hỏi: 

 - Chúng ta đi xem có được không? 

 Chủ quán đáp: 

 - Đừng nói xem, quý khách muốn lên đài dự đấu cũng xin cứ tự tiện. 

 Thúc Bảo dặn: 

 - Chủ quán trông coi hành lý cho chúng ta ra "Đả lôi đài" xem, về sẽ thanh toán tiền nong sau. 

 Nói rồi rủ Bội Chi, Quốc Tuấn, giắt theo ít bạc cẩn thận vào lưng áo ra đi. 

 Ba người ra khỏi quán, đi theo dòng người tấp nập kéo về phía bắc đường lớn, ngay ở miếu Linh Quan. Võ đài được dựng trên mấy mẫu ruộng bỏ hoang trước miếu, cao tới chín thước, chu vi tới hai mươi tư trượng, xung quanh đài xúm xít hàng mấy nghìn người. Sử Đại Nại đang vênh vang bước lên đài. Ba người chen vai thích cánh mãi mới vào được cạnh cánh gà, vẫn chưa thấy ai lên thách đấu. Lại thấy ở đầu cánh gà bên trái có hai hàng lan can sơn đỏ, có đến chục người xung quanh. Ở trong lan can, đặt một cái hòm lớn, trên hòm có một cái cân treo, lại có mấy người cân bạc bỏ vào hòm. Ba người chen lại gần lan can. Thúc Bảo hỏi: 

 - Võ đài là nơi tỷ thí võ nghệ, đặt hòm và cân ở đây làm gì quý vị? 

 - Quý vị không biết. Sử Thái tuế chúng tôi thu lệ phí lên đài. 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Thì ra đấu võ để kiếm lời à? 

 Người kia đáp: 

 - Quý vị không biết. Lúc đầu đã làm gì có chuyện này. Lập đài xong, "Một tiếng sấm vang trời đất biết, Ngũ hồ bốn biển thảy đều nghe". Anh hùng hào kiệt quần tụ dưới đài. Sử Thái tuế chúng tôi vốn cẩn thận, sợ những kẻ võ nghệ tầm thường dễ bị trọng thương, rồi chẳng có bằng cứ gì để xem xét, nên người nào muốn lên đài, đều phải viết một giấy nhận thực, khai rõ họ tên, tuổi tác, quê quán, sau đó cam đoan dẫu bị thương, chết chóc cũng không tranh kiện. Những việc khai báo này nhiều vị không thích. Trong lúc đua tranh hơn kém, ai chẳng muốn phần thắng, nhưng thua thì tên tuổi, quê quán trong giấy khai, rửa đến bao giờ cho sạch. Cho nên, Sử Đại Nại không bắt làm giấy nhận thực nữa, mà lại lập thêm cái quầy này, của vốn liền người, ai muốn lên đài thì đến đây nộp bạc là xong. 

 Thúc Bảo tiếp: 

 - Nạp bao nhiêu? 

 Người kia lại đáp: 

 - Không nhiều. Mỗi người chỉ năm lạng. Không kể nhiều hay ít người, cứ giao đủ số bạc. Sử Đại Nại sẽ phất lệnh lên đài. Người thứ nhất đã lên đài rồi, người thứ hai làm thủ tục. Đã xuống đài thì không được lên nữa, cứ thế đến người khác. Trong lúc thi đấu, ai đánh được Sử Đại Nại một đòn, sẽ được gấp mười lần bạc. Ai thắng được một trận, sẽ được năm mươi lạng bạc. Nếu thắng được vì dùng “song phi cước" sẽ được một trăm lạng, vì dùng "vạn dịch thôi quý" làm đối phương ngã ngửa, sẽ được một trăm năm mươi lạng. Ngược lại nếu bị đánh đến tàn tật cũng không được oán thán. Từ khi khai mạc "Đả lôi dài" đến giờ, đã có tới hơn hai trăm vị bị Sử Thái tuế đánh bại. Chỉ trong vòng một tháng, thu được hơn nghìn lạng bạc. Những kẻ có tiền mà không có bản lĩnh, vì vậy cũng không dám tham dự. Kẻ tự cho mình là có bản lĩnh nhưng không có tiền cũng có cớ để không lên đài. Cho nên hai tháng sau, kẻ đấu ít hẳn. Hôm nay, ngày kết cục, chúng tôi lại bày mọi thứ ra đây; may ra có bậc hào kiệt nào đến vào ngày hôm nay chăng. 

 Thúc Bảo cười nói với Bội Chi, Quốc Tuấn: 

 - Kẻ hào kiệt cũng phải giỏi cả những việc tính toán như vậy, phải không hai vị? 

 Bội Chi thăm dò Thúc Bảo: 

 - Đại huynh thử lên một chuyến. Biết đâu lại mở được đường tiến chức thăng quan. Bản lĩnh của đại huynh, chúng tiểu đệ đây đều rõ cả rồi. Lại được thêm một trăm năm mươi lạng bạc, đến nha môn U Châu cũng thêm tiền chi dụng. 

 Thúc Bảo nói: 

 - Hiền đệ ạ! Hơn thua đều có mệnh. Thời vận của tiểu đệ chưa đến. Tiền bạc của Đơn nhị ca cho, cũng chả có phúc cầm, nên mới xảy ra chuyện ở rừng Tạo Giác, rồi lại chuyện đày đọa ở Lộ Châu vừa rồi. Nếu thắng người, được từng nấy bạc, cũng hay đấy. Nhưng chưa đến thời, thì hãy biết đứng dưới mà xem là tốt hơn cả. 

 Bội Chi ý muốn lên, bèn nói: 

 - Hội này ít gặp, tiểu đệ phải lên mới xong. 

 Bội Chi, Quốc Tuấn vốn không phải loại tiểu tốt vô danh, mà cũng là bậc hào kiệt ở phủ Lộ Châu. Việc đi lại giữa Thúc Bảo với hai người cũng chưa lâu, chẳng qua do việc quan, được Đơn Hùng Tín manh mối mà quen biết nhau, lại chưa từng cùng nhau thử sức, đọ tài. Thấy Bội Chi cao hứng, Thúc Bảo khuyến khích: 

 - Hiền đệ "phùng trường tác hí" là chuyện đáng khích lệ. Tiểu huynh xin thay hiền đệ nạp đủ năm lạng bạc lệ phí. 

 Thúc Bảo nạp xong, Bội Chi lên đài. Đài cao chín thước chia làm mười tám bậc. Bội Chi mới lên lưng chừng, thì hàng nghìn người phía dưới đã hò reo vang dội, khiến Bội Chi như thấy gân cốt rã rời. Thực ra, người xem hàng tháng nay, ít thấy người lên đài thách đấu, hôm nay ngày cuối cùng, thấy Bội Chi xuất hiện, khán giả đều hò hét cổ vũ. Bội Chi không nhận ra cử chỉ thân thiện đó của mọi người, nên có vẻ mất tinh thần chỉ yên lặng bước tiếp. Phía dưới, nhiều người gào to, khuyến khích: 

 - Hảo hán! Hãy mạnh dạn lên! 

 Về phía Sử Đại Nại, giữ đài đã ba tháng nay, chưa từng gặp một địch thủ tương xứng, nên càng "mục hạ vô nhân". Thấy kẻ vừa lên có vẻ do dự, Đại Nại đã coi thường, dáng như sư tử đứng trấn trước cửa, không cho người qua lại, dù bay phía trên, dù chui phía dưới. Bội Chi thấy đối thủ cao to, khó lòng đánh từ phía dưới, nên Bội Chi từ xa tung mạnh hai, rơi từ trên cao xuống trước mặt Đại Nại. Thấy vậy họ Sử dùng ngay thế "Vạn địch thôi quỳ", quét ngang chân Bội Chi, thành một đường dài sát mặt đất. Bội Chi nhún chân nhảy thoát. Rồi tay tả dưới thấp, tay hữu giơ cao, định túm mặt Đại Nại. Đại Nại chuyển sang "Chức nữ xuyên thoa", từ phía sườn cụt bên phải, chuyển sang tấn công vào sau lưng đối phương, nhanh như chớp, đã túm được giải thắt lưng lụa của Bội Chi, nạt lớn: 

 - Ta không thèm chấp cỡ ngươi. Hãy cút đi cho khỏi bẩn mắt ta. 

 Rồi chỉ với một tay, Đại Nại giơ đối thủ từ trên đài thả xuống. Từ dưới đài nhìn lên, chẳng khác gì chim yến ngậm sáp thả từ trên cao, khiến Bội Chi ngã lăn quay, mặt mày xám như bùn, hổ thẹn lủi ngay xuống đám đông. 

 Thúc Bảo thấy thế, lửa giận bừng bừng, quát vang cả võ trường: 

 - Hãy đợi đấy! 

 Họ Tần định xông lên, nhưng bị ngay bọn phục dịch ngăn lại. 

 - Xin tráng sĩ hãy nạp thêm bạc đã. Năm lạng lúc nãy thua hết rồi còn gì? 

 Thúc Bảo không cãi nửa lời, lấy ngay ra một đỉnh bạc, vứt ngay vào trong quầy: 

 - Còn thừa bao nhiêu, đấu xong ta sẽ xuống tính toán với các anh sau. 

 Rồi từng bước, từng bước thoăn thoắt lên đài. Họ Sử ngước nhìn, lòng đã không dám coi thường. 

 Đi vài đường "Tứ bình quyền " 

 Đá mấy vòng "Song phi cước" 

 Xương sườn nhô cao 

 Bụng thời thóp sát 

 Hai mắt sư tử giương to xanh biếc 

 Hai chân đuôi cá quẫy mạnh tít mù 

 Như hổ đói vồ mồi 

 Như giao long rỡn nước 

 Một tay Quan âm giơ thấp 

 Hai chân La Hán nhún cao 

 Đưa đường quyền dài tự nhiên trông đã sợ 

 Quét đường quyền ngắn lo đỡ cũng chẳng xong. 

 Trông không giống hai địch thủ đánh nhau, mà chẳng khác gì đôi hổ dữ tranh mồi, võ đài huyên náo lạ thường. Mẫu đơn tuy đẹp, cũng nhờ lá xanh nâng đỡ, Đại Nại ba tháng giữ đài ở thôn Thuận Nghĩa, chưa từng gặp đối thủ, một mình đóng vai hảo hán như một hổ một núi, lại cũng vì ở thôn Thuận Nghĩa có bậc chủ nhân Trương Công Cẩn, mới có dịp cho Thúc Bảo tìm tới đưa thư, để đến chuyện anh hùng tương ngộ. 

 Bấy giờ Công Cẩn cũng đang ở Linh Quan miếu, trông coi nhà bếp chuẩn bị rượu thịt, chỉ chờ dỡ rạp là ăn mừng Sử Đại Nại. Lại có cả Bách Hiển Đạo, một bậc hào kiệt trong vùng, vốn là bạn rượu lâu nay của Công Cẩn. Cả hai đang ngồi trước bàn, sai bọn đàn em bưng mấy đĩa hoa quả trên điện xuống, cùng một vò rượu lạnh uống suông cho đỡ sốt ruột đợi chờ, thì thấy hai gã trai hoảng hốt chạy vào: 

 - Hai vị đại huynh ơi! Sử Thái tuế coi chừng mất hết công lao mấy tháng nay mất! 

 Công Cẩn vội hỏi: 

 - Chỉ còn hôm nay nữa là xong công quả. Sao lại còn chuyện gì nữa? 

 Một trong hai gã tranh nói trước: 

 - Mới đầu Thái tuế thắng một trận rất nhẹ nhàng. Sau đó một khách lạ khác lên đài. Cả hai quần nhau đến ba bốn mươi hiệp vẫn không phân thắng bại. Chúng tôi ở dưới nhìn lên, thấy Thái tuế chân tay bắt đầu loạn xạ, không đương nổi địch thủ nữa, nên vội về báo hai vị đại huynh, liệu có cách nào đối phó chăng? 

 Công Cẩn nói: 

 - Lại có chuyện thế nữa sao? Trèo cây đã sắp tới ngày hái quả rồi, thì lại gặp miếng khó gặm. Biết đối phó thế nào bây giờ? 

 Rồi rủ Hiển Đạo: 

 - Bạch Hiền đệ, chúng ta hãy bỏ vò rượu đó đã, ra đài xem sao! 

 Ra khỏi miếu, rẽ đám đông vào, thấy trận đấu vẫn đang lúc gió thảm mưa sầu, trời long đất lở. 

 Chính là: 

 Trùy nặng đấu với cọp đen 

 Thần thông sức quỷ thử xem thê nào 

 Thanh thiên đối mặt đài cao 

 Yếu thua khô rách tránh sao bây giờ! 

 Công Cẩn thấy trận đấu đang lúc dữ dội, không thể lên đài, bèn hỏi người xem bên cạnh: 

 - Vị này ở đâu tới thế? 

 Người xem bèn chỉ Bội Chi, Quốc Tuấn nói: 

 - Vị từ đầu chí thân đầy bùn đất, là vừa mới thua ở trên đài xuống. Vị quần áo còn đang sạch sẽ kia thì chưa từng lên đài. Cứ hỏi hai vị đó, thì biết ngay vị đang đấu trên đài là ai. 

 Công Cẩn vốn cũng bậc hào kiệt, danh uy một cõi, nên cũng nhã nhặn, đường hoàng, chấp tay thi lễ rồi hỏi Bội Chi: 

 - Quý hữu, vị đang đấu trên đài là ai thế? 

 Bội Chi trong lòng đang bực bội, vừa lau sạch bụi đất trên mặt, nhưng tay chân, quần áo vẫn đầy bùn đất, lại hăm hở theo dõi Thúc Bảo đang thắng thế, nên chẳng còn lòng nào chuyện trò: 

 - Quý hữu, hỏi chuyện lôi thôi làm gì, cứ xem họ đánh là đủ. 

 Công Cẩn đáp: 

 - "Tứ hải chi nội, giai huynh đệ dã", chỉ sợ bạn bè đụng độ, hối lại không kịp. 

 Quốc Tuấn chưa lên đài, bình tĩnh hơn, tiến lại vái chào, trả lời: 

 - Quý hữu, chúng tôi cũng đều là những người có tên tuổi, cũng muốn lên đài tỷ thí xem sao, nhưng cũng không muốn bàn bạc dài dòng, nhỡ có thua trận, ở thôn Thuận Nghĩa này cũng lại còn bạn bè quen biết. 

 Công Cẩn hỏi: 

 - Chư huynh quen biết ai trong thôn? 

 Quốc Tuấn đáp: 

 - Đơn nhị ca ở Nhị Hiền trang thuộc Lộ Châu có thư, gửi tới đại ca Trương Công Cẩn ở Nghĩa Thuận, nhưng cũng chưa kịp tới nhà đưa thư. 

 Công Cẩn cười ha hả. Bạch Hiển Đạo chỉ Công Cẩn: 

 - Đây chính là Trương đại ca. 

 Quốc Tuấn vội vàng: 

 - Thì ra Trương đại ca, chúng tôi thật đắc tội. 

 Công Cẩn hỏi: 

 - Thưa hai vị, xin cho biết quý tính, cao danh. 

 Quốc Tuấn đáp: 

 - Tiểu đệ là Kim Giáp, vị này Đổng Hoàn. 

 Công Cẩn tiếp: 

 - Thì ra là hào kiệt ở Lộ Châu. Còn vị trên đài là ai thế? 

 Quốc Tuấn đáp: 

 - Chính là Tần Thúc Bảo người Lịch Thành, Sơn Đông. 

 Công Cẩn vừa giơ tay vừa vẫy vừa gào lớn: 

 - Sử hiền đệ hãy dừng tay ngay, đấy chính là đại huynh Tần Thúc Bảo vẫn thường nghe. 

 Thúc Bảo và Đại Nại cùng thu quyền. Công Cẩn dắt Bội Chi, Hiển Đạo kéo Quốc Tuấn, cả bốn lên đài, nói cười vui vẻ. Sáu bạn gặp nhau, vái chào nhận lỗi. Công Cẩn nói lớn: 

 - Xin mời chư vị khán giả giải tán thôi. Chẳng phải người xa lạ mà phải so tài cao thấp, nguyên đều là bạn bè đến thăm hỏi nhau cả thôi. 

 Rồi phân phó tay chân đem hòm xiểng vào miếu Linh Quan, mời Thúc Bảo xuống đài, trải chiếu làm lễ giao bái, chắp tay mời nhau vào chỗ ngồi. Công Cẩn giơ tay hỏi: 

 - Xin quý vị cho biết hành lý hiện nay đang ở đâu? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Ở quán trọ, nhà thứ hai ở đầu đường vào. 

 Công Cẩn sai tay chân đi lấy hành lý về, lại lấy hai đỉnh bạc lớn trong hòm trả lại Thúc Bảo. Thúc Bảo giở hành lý, lấy thư Hùng Tín ra. Công Cẩn xem xong nói: 

 - Hà! Thì ra đại huynh có việc ở U Châu, cái này thì tiểu đệ xin cáng đáng. Giờ chỉ là có chén rượu nhạt, để mừng Sử đại ca. Còn phải mời đến tệ trang nữa đã. 

 Sáu người uống luôn mấy chén, bất giác đã chiều tối. Công Cẩn đưa mọi người về nhà, quát đầy tớ đốt nến sáng trưng, rồi đỉnh trầm nghi ngút tỏa thơm, mời Thúc Bảo cùng mọi người vào nhà, lúc này mới chính thức lạy chào nhau nhận bạn bè, ngôi thứ. Xong xuôi, tiệc rượu dọn ra, uống mãi tới canh năm ngày hôm sau. 

 Sáng ra, Sử Đại Nại, phải về soái phủ U Châu phúc trình tổng quản, Bạch Hiển Đạo cũng phải đi với bạn, nên Trương Công Cẩn sai dắt ra sáu ngựa tốt, kén mười gia đinh, cùng là hành lý, bạc tiền lên đường đi U Châu.

 Không biết sự thể đến U Châu ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Mười Ba

Trương Công Cẩn vì nghĩa giúp bạn,

 Tần Thúc Bảo đi đày gặp cô.

 Từ rằng: 

 Mây quay mưa trút 

 Gặp nạn chưa chi đã vội khóc 

 Riêng đấng anh hùng 

 Tâm đầu ý hợp chí kiên trung 

 Thư đưa bụng cá (1) 

 Hăm hở bấy, tử sinh nào sá 

 Cứu nạn giúp nghèo, 

 Quản, Bảo bạn hiền gương sáng treo (Theo điệu "Giảm tự Mộc lan hoa")

 Bạn bè nhạt nhẽo xưa nay nhiều, tình bạn thắm thiết vốn cũng không ít. Sự bội bạc thường là lúc phú quý thì gắn bó keo sơn, lúc hoạn nạn thì chẳng khác gì những hạt cát khô rã rời, không thể nào viên lại thành hòn. Còn nếu có tấm lòng của một bậc hiệp sĩ thì sao lại không xả thân mà cứu giúp cho được, chỉ cần một lá thư đã là như một tờ chiếu, một đạo sắc chỉ của hoàng đế rồi. Tấm gương Quản thúc ngày xưa (2), Trần Lôi ngày nay (1) còn đó. 

 1 Thơ cổ: "Khách từ xa đến, cho ta đôi cá chép. Gọi trẻ mổ cá chép, trong bụng có lá thư”. Chỉ việc đưa thư từ tin tức. 

 2 Quản Trọng và Bảo Thúc Nha cùng nhau buôn bán. Quản Trọng lấy phần hơn, Thúc Nha không chê Quản Trọng tham, Quản Trọng chưa làm nên, Thúc Nha không chê Quản Trọng bất tài, lại giới thiệu Quản Trọng với Tề Hoàn Công để Quản Trọng có cơ hội giúp Hoàn Công làm cho nước Tề cường mạnh, trở thành bá chủ. Quản Trọng nói: "Sinh ta là cha mẹ, biết ta là Bảo Thúc..." (Đông Chu liệt quốc). 

 1 xem ở hồi thứ 22. 

 Thôn Thuận Nghĩa cách U Châu chừng ba mươi dặm, sáng canh năm lên ngựa, thì mặt trời mọc đã tới rồi. Trương Công Cẩn, tìm đến soái phủ U Châu, thu xếp chỗ ăn, ở hành lý xong xuôi, một mặt chuẩn bị cơm rượu, một mặt cho tay chân đến Tây viên môn, mời hai vị Uất Trì tới. Hai vị này, tuy không phải thân thuộc, gần gũi với Uất Trì Cung, nhưng vốn là cháu Uất Trì Quýnh, tổng quản Tường Châu triều Chu trước, nên cũng dòng dõi họ Uất Trì này cả. Anh em hai người, anh là Uất Trì Nam, em là Uất Trì Bắc, từ lâu đã đi lại rất thân thiết với Công Cẩn, hiện đều dưới trướng La Công và là những viên kỳ bài quan quyền hành. Soái phủ Đông viên môn là sảnh đường của bọn văn quan, soái phủ Tây viên môn là sảnh đường của bọn võ quan. Kỳ bài quan nhận được kỳ bài rồi, viên môn sẽ chuông trống nổi đúng ba lần, đội trung quân tiến ra cửa, một tiếng pháo nổ, lúc ấy cửa soái phủ mới được mở ra. Lúc này, Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc, võ phục chỉnh tề, đang ngồi chờ lệnh, hai bên tay chân kính cẩn vào bẩm: 

 - Thưa hai ngài, Trương đại nhân có lời mời. 

 Uất Trì Nam hỏi: 

 - Các anh có phải ở Trương Gia trang đến không? 

 Cả hai vội thưa: 

 - Vâng ạ! 

 Uất Trì Nam hỏi tiếp: 

 - Chủ các ngươi hiện ở đâu? 

 Một tên thưa: 

 - Dạ, hiện ở ngay cửa tây soái phủ. Mời hai người tới thưa chuyện. 

 Uất Trì Nam phân phó thủ hạ cai quản ban phòng, rồi tìm đến chỗ Công Cẩn. Cũng bởi anh em Uất Trì đang toàn thân mang cân đai, giáp trụ nên không tiện thi lễ. Thúc Bảo, Bội Chi, Quốc Tuấn, ở phòng sau, đợi để trò chuyện với khách xong xuôi, sẽ ra sau. Công Cẫn, Đại Nại cùng Hiển Đạo đang ngồi chờ, thì thấy hai anh em Uất Trì tới. 

 Chào hỏi xong, chừa ghế chủ khách, Uất Trì Nam nhận ra Đại Nại, bèn hỏi ngay: 

 - Trương hiền huynh hôm nay vào soái phủ sớm thế này, có lẽ vì việc mở Đả lôi đài đã hết hạn kỳ, cần phải vào trình bản quan chăng? 

 Công Cẩn đáp: 

 - Việc ấy cũng có, nhưng còn một chuyện khác nữa, xin trình nhị vị. 

 - Có việc gì xin hiền huynh cứ chỉ giáo! 

 Công Cẩn lấy thư trong tay áo ra, đưa cho anh em Uất Trì, hai người cùng xúm lại xem, xem xong, Uất Trì Bắc lên tiếng: 

 - Ái chà! Thì ra nét chữ của Đơn viên ngoại ở Nhị Hiền trang Lộ Châu, giới thiệu Tần bằng hữu tới đầu quân ở vệ môn này, xin nhờ tiến dẫn. Tần bằng hữu hiện nay ở đâu, xin cho gặp mặt! 

 Công Cẩn quay vào cửa trong mời: 

 - Xin mời Tần đại huynh ra ngoài này. 

 Tiếng xích sắt leng keng, Bội Chi cầm công văn, Quốc Tuấn xách dây xích, Thúc Bảo lom khom đi ra, kéo lê dây xích. Anh em Uất Trì biến sắc mặt, đứng dậy: 

 - Trương hiền huynh, hiền huynh thật không nể mặt anh em chúng tôi, "tứ hải chi nội, giai huynh đệ dã". Chữ viết của Đơn viên ngoại còn đó. Thân với thân là thân, đều là bạn thân thiết, sao lại đối xử với nhau thế này! 

 Công Cẩn cười đáp: 

 - Sự thực thì chẳng cần che đậy làm gì. Nhưng hình cụ này đều là quy định của nha môn, sợ hai vị có trách cứ gì chăng, nên cứ phải để thế mà ra mắt. Nay đã có lời như thế, xin được tạm mở ra vậy! 

 Hai anh em Uất Trì thân hành mở mọi hình cụ trên người Thúc Bảo, rồi cùng lạy chào và nói với Thúc Bảo: 

 - Từ lâu đã nghe đại danh của hiền huynh, như sấm đánh bên tai, nơi nơi đều biết, chỉ hiềm một nỗi đường xá xa xôi, không thể gặp gỡ nay được gặp hiền huynh ở đây, thật là may mắn. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Tiểu đệ đang mang quân phạm trên người, may được chư huynh che chở, thật là ơn tái tạo. 

 Uất Trì Nam đỡ lời: 

 - Xin hiền huynh yên tâm. Đó là bổn phận của anh em chúng tôi. Đây có lẽ là hai vị Bội Chi, Quốc Tuấn chăng? 

 Hai người vội đáp: 

 - Tiểu nhân đúng là Đổng Hoàn, Kim Giáp. 

 Uất Trì Nam tiếp: 

 - Xin đừng quá khiêm nhường! Trong thư của Đơn viên ngoại cũng có nói đến tên tuổi hai vị, đều là anh em một hội. Xin cho được bái kiến. 

 Chào hỏi xong, Uất Trì Nam lại nói: 

 - Xin hỏi hai vị, có phải giấy tờ trên bàn, là công văn gửi tới bản quan chăng? 

 Bội Chi đáp: 

 - Thưa đúng! 

 Uất Trì Nam nói: 

 - Xin cho xem, để cho anh em chúng tôi biết được trước công việc đợi đến lúc bản quan thăng đường có hỏi đến còn biết mà trả lời. 

 Quốc Tuấn giả vờ cẩn thận: 

 - Công văn này, ngoài đều có dấu niêm phong, chúng tôi không dám tự tiện mở xem. 

 Uất Trì Nam đáp: 

 - Không hề gì! Việc mở công văn, đều ở tay anh em chúng tôi cả. Công văn này cũng thế thôi, có mở cũng chẳng hề gì, đến lúc thăng đường, cũng chúng tôi mở cả, không có điều gì phải e ngại. 

 Công Cẩn sai tay chân lấy một nửa bát rượu, nhẹ nhàng nhúng cục ấn ở công văn vào, đợi cho cục ấn ngấm rượu, rồi nhẹ nhàng bóc ra, lấy công văn bên trong, đưa cho anh em Uất Trì xem. Họ cùng nhau xem xong rồi, lại đưa trả ngay cho Bội Chi, theo thứ tự dán lại như cũ. 

 Chỉ thấy Uất Trì Nam yên lặng không nói năng gì, nên Công Cẩn lên tiếng: 

 - Đại huynh xem xong công văn, sao lại có vẻ trầm ngâm nghĩ ngợi? 

 Uất Trì Nam đáp: 

 - Từ lâu chúng tôi đã nghe Đơn viên ngoại ở Lộ Châu là bậc tình nặng nghĩa dày, chỉ giận chưa được gặp mặt. Nay có chuyện này, vì viên ngoại mà lo, nhưng chỉ sợ không được trọn vẹn chăng! 

 Tần Thúc Bảo cảm ơn cứu sống của Hùng Tín, nay thấy Uất Trì Nam có vẻ trách Hùng Tín lo việc không đến nơi, cho nên cũng không giữ nổi dù buổi đầu gặp mặt, lên tiếng phân giải: 

 - Xin thưa hai vị, Tần Quỳnh này ở Lộ Châu, vốn không phải chỗ quen biết cũ của Đơn nhị ca, mà chỉ mới gặp gỡ lần đầu, Đơn nhị ca đã cứu tiểu đệ khỏi cơn thập tử nhất sinh, lại cho năm trăm lạng bạc để về quê. Nhưng chỉ tại cơn vận hạn chưa qua, nên lại xảy ra chuyện chết người ở rừng Tạo Giác, bị Thái thú khép vào trọng tội, may có những lo toan hữu hiệu của Đơn nhị ca, chẳng tiếc nghìn vàng, cứu được tiểu đệ khỏi chết một lần nữa, quả là ơn cứu sống. Hai vị sao lại nói chuyện không trọn vẹn ở đây? 

 Uất Trì Nam đáp: 

 - Chính là ở chỗ này. Xem thư của Đơn viên ngoại, giới thiệu tới Trương hiền huynh, thế là trách nhiệm của viên ngoại coi như xong. Xem trong công văn, hiền huynh tại rừng Tạo Giác đánh chết Trương Kỳ, khép vào trọng tội, viên ngoại tìm mọi cách đổi trọng thành khinh, khiến hiền huynh chỉ bị đưa xung vào quân số ở soái phủ đây thôi. Anh em chúng tôi nghĩ rằng, khắp gầm trời này, thiếu gì chỗ để xung quân, phát phối, sao lại chọn cái nơi nước sôi lửa bỏng này. Hiền huynh chưa biết sự lợi hại của bản quan chúng tôi nên chúng tôi phải nói rõ. Quan lớn tổng trấn U Châu đây, họ La, tên Nghệ, sau khi nhà Bắc Tề bị diệt, không chịu về Tùy triều, lãnh một đội quân, đánh chiếm U Châu này, liên kết với Khả Hãn của nước Đột Quyết, cương quyết chống lại. Triều đình bao phen đánh mà không xong, phải giở cách chiêu an, đem cắt đất U Châu cho phép thu thuế má, phu dịch cai quản mười vạn tinh binh đóng giữa U Châu. Tổng trấn cậy mình có sức muôn người khôn địch, mọi việc tự quyết đoán. Phàm có kẻ đến xung quân, sợ khi ghép vào hàng ngũ, giở trò ngang ngược, không chịu trói buộc của cảnh quân kỷ, nên hôm đến trình, cứ đánh đủ một trăm trượng gọi là "sát úy bổng", mười người giải đến đây, chín người chết, một người sống. Quả là hiền huynh rơi vào hố lửa vậy. Bây giờ ta phải tìm cách đối phó vậy thôi. Sau khi Bội Chi hiền đệ đã dán công văn lại như cũ, tiểu đệ sẽ đem đến phòng thư lại, chỉ để mỗi cái công văn của phủ Lộ Châu này, rồi dẫn riêng Tần huynh vào soái phủ vậy. 

 Mọi người nghe Uất Trì Nam nói xong, đều lắc đầu lè lưỡi kinh ngạc, Công Cẩn lên tiếng: 

 - Sao nhị vị Uất Trì lại chỉ muốn giải một mình Tần đại huynh đến. 

 Uất Trì Nam đáp: 

 - Hiền huynh có chỗ không biết. Tổng quản phu nhân rất mộ Phật tổ ngày rầm, mồng một đều ăn chay niệm Phật rất kính cẩn. Những ngày đó, tổng quản thăng đường đều được phu nhân nhắc kỹ là không được đánh đập một ai. Tần hiền huynh còn gặp may, hôm nay đúng ngày mười lăm tháng ba. Nhưng nếu công văn tới xung quân nhiều, công việc bận rộn, tổng quản vẫn có thể nổi xung mà đánh đập như thường, lời khuyên của phu nhân cũng chẳng ích gì. Bây giờ Tần hiền huynh hãy tạm bỏ khăn chít đầu, để tóc tai rũ rượi, lấy bùn đất bôi mặt mày cho đen xám, nói thác là đang có bệnh. Hai vị Bội Chi, Quốc Tuấn chuẩn bị sẵn lời bẩm báo, chứng thực là có bị ốm trên đường đi, dù tổng quản đang tức giận sẽ sai chúng tôi khám nghiệm thực hư, chúng tôi sẽ chứng nhận đúng là đang có bệnh, thế là tổng quản sẽ tha, cho về quân ngũ bình thường. Lúc ấy, với một đao một thương trong tay. Thúc Bảo hiền huynh lại sẽ làm nên công nghiệp, lại khoác áo gấm về quê. Chỉ có điều sắp lên soái phủ, chuyện rất quan hệ đến tính mạng, chư huynh mau mau xếp đặt. Chúng tôi còn phải mang công văn sang chỗ thư lại. 

 Uất Trì Nam cùng Uất Trì Bắc sang phòng thư lại, nói với viên quan này: 

 - Hãy gác lại tất cả các công văn xung quân các nơi gửi đến, chỉ trình cho chúng tôi mỗi công văn của phủ Lộ Châu này thôi. 

 Viên quan này không dám cãi một lời, vội thưa: 

 - Tiểu quan biết rồi ạ! 

 Lúc này chiêng trống đã đánh đủ ba lần, đội trung quân đã tiến ra cửa, Thúc Bảo cũng đã chuẩn bị xong xuôi, đang đứng chờ. Anh em Uất Trì đã lấy lại công văn, đưa trả cho Bội Chi. Ở cửa ngoài phủ cũng đã nghe tiếng pháo bắn ba lần cửa lớn từ từ mở ra. Đội trung quân, đội cờ, đội trống, kỳ bài quan, thích dụng quan, bọn cầm dây xích gông cùm, bọn đao phủ, hàng hàng, lối lối, tầng tầng, lớp lớp kéo vào, đứng chật sân lớn của công đường, ban nào chỗ ấy, người nào chỗ ấy, nghiêm chỉnh đứng hầu. Viên quan phụ trách việc tuần tiễu canh phòng ngày cũng như đêm của thành U Châu, đứng ra tâu trình mọi việc. Rồi đến lượt viên quan coi việc cung cấp trong quân, tâu trình những lương thực, thực phẩm nhập vào xuất ra trong ngày, cũng là những quân trang quân dụng khác. Thứ ba mới là viên quan thư lại tâu trình sổ, công văn gửi đi, gửi đến soái phủ, tâu rõ số phạm nhân giải tới, hiện trạng ra sao, ở đâu. 

 Quan phủ lại lui lại vài bước thì lúc này mới là lúc đáng lo ngại, hai bên thềm gạch đỏ hai mươi tư cái thanh la lớn nhất tề đánh mạnh, một viên hổ đầu quân, hai viên cầm cờ hiệu, kèm viên quan thư lại, đi về cổng soái phủ. Chấp kỳ quan mới lên tiếng gọi các viên công sai giải phạm nhân tiến lên. Quốc Tuấn xách xiềng xích sắt, Bội Chi nâng công văn, kèm Thúc Bảo mang đầy đủ hình cụ tiến vào cửa, vẫn chưa được mở dây trói, khóa còng, cứ thế vào nghi môn, hai bên lính đao thương giơ cao như rừng cây. Từ trên thềm cao hình bán nguyệt, chấp bài quan quát quỳ xuống. Từ góc đông của cửa soái phủ cho tới thềm bán nguyệt, thực ra cũng chỉ nửa đường tên bắn, mà chẳng khác gì phải bò lên mười dặm vách núi tai mèo vậy. 

 Thúc Bảo đường đường thân cao hơn trượng, mà giờ cũng thấy mình thật bé nhỏ, quỳ xuống sát đất, đưa mắt liếc trộm vị tổng quản trên đài cao. 

 Phong hầu tướng như ngọc 

 Giúp chúa lòng tựa vàng 

 Tóc bạc trí thêm sáng 

 Tuổi cao sức vẫn hăng 

 Biên thùy uy chấn động 

 Tướng sĩ lực kiên cường 

 Trấn thủ tài Lý Mục 

 Thái bình khắp phong cương. 

 Râu tóc đã lốm đốm bạc, ngồi vững như núi Thái Sơn, uy nghiêm không động đậy, La Công gọi trung quân, đem công văn lên, quan trung quân bước xuống bán nguyệt cầm công văn, bước lên bậc cuối cùng, hai chân quỳ xuống, dâng công văn cho viên thượng quan. Viên này xem xét dấu ấn xong, liền xé công văn, lấy giấy tờ bên trong, kính cẩn đặt lên án trước mặt đại quan tổng quản. 

 La Công lúc này mới cầm giấy tờ xem, nhận ra thứ sử của Lộ Châu gửi tới xung quân. Nếu là của châu quận khác, đánh hay không đánh tổng quản cũng tùy thích chẳng cần xem kỹ giấy tờ làm gì, nhưng thứ sử Lộ Châu là Sái Kiến Đức, vốn là hàng học trò thân thuộc của tổng quản: La Nghệ này là một võ tướng hiển hách, sao lại có thể có một văn quan mang dấu vuông là học trò cho được. Vốn là trước kia Sái Kiến Đức từng làm nhiệm vụ áp tải lương thực cho quân lính U Châu, không đảm bảo thời hạn quy định, lẽ ra phải xử tội nặng, nhưng La Nghệ thấy Sái là một tiến sĩ mà tuổi còn ít, nên mới thi ơn không bắt tội, Sái nhớ ơn đó, bái nhận làm học trò La Nghệ. 

 Nay thấy Sái gửi công văn xung quân tới, La Nghệ mới cầm xem kỹ từ đầu chí cuối, để xem cách làm ăn của Sái thái thú ra sao, tội trạng gì, xử có đúng không nặng hay nhẹ. Lại thấy thêm tội phạm là Tần Quỳnh, người ở Lịch Thành, La Nghệ bỗng giật mình, ngồi lặng một lát, gấp giấy tờ lại, gọi viên lại coi giữ giấy tờ, trao cho y ghi sổ đẩy đủ, rõ ràng, đâu đó rồi, La Nghệ truyền: 

 - Cho giải phạm nhân ra. Chờ đến giờ ngọ (1) giải vào hậu đường thẩm xét. 

 1 Giờ ngọ: từ 11 đến 13 giở. 

 Bội Chi, Quốc Tuấn, gọi Thúc Bảo xuống, cùng vội vàng rời khỏi nơi trên đao dưới búa đi thẳng ra cửa. 

 Bấy giờ Công Cẩn, Đại Nại, Hiển Đạo, đều đang chờ ở Tây viên môn, thấy mọi người ra, vội hỏi anh em Uất Trì: 

 - Công việc ra sao rồi? 

 Cả hai đều đáp: 

 - Giờ ngọ vào hậu đường thẩm xét. 

 Công Cẩn hỏi: 

 - Còn thẩmxét gì nữa? 

 Uất Trì Nam đáp: 

 - Xưa nay chưa từng thấy xảy ra chuyện như thế này bao giờ, đánh hay không đánh cũng đều đưa xuống các đội lính cả thôi. Không biết lần này lại còn xem xét gì nữa. 

 Công Cẩn hỏi tiếp: 

 - Còn phải chờ bao lâu nữa thì vào hậu đường? 

 Uất Trì Nam đáp: 

 - Còn sớm. Bây giờ mới đóng cửa về hậu đường, ăn ngủ trưa, rồi mới thẩm vấn. Cũng pháo bắn, cờ bay, chẳng khác gì buổi thăng đường ban sớm vậy. 

 Công Cẩn bàn: 

 - Nếu còn thì giờ vậy, ta hãy đi tìm nơi nào uống vài chén rượu cho đỡ lo lắng. Ra khỏi cửa viên môn, bỏ mọi hình cụ, khi nào nghe tiếng pháo bắn, vào cũng không muộn. 

 *** 

 Lại nói La Nghệ trở về hậu đường, chưa về nhà riêng vội, sai thủ hạ cởi hết mũ mãng, cân đai, đội khăn Gia Cát, mặc áo lụa nhẹ, đi hài cườm ngọc, ngồi trên một chiếc ghế dựa nhẹ nhàng, sai gia tướng gọi tên thư lại giữ giấy tờ, đem công văn của phủ Lộ Châu vừa gửi tới vào hậu đường. La Nghệ cầm xem từ đầu chí cuối một lần nữa, lại sai gia tướng mở cửa sau vào nhà riêng, mời Tần phu nhân sang hậu đường bàn chuyện cần. Tần phu nhân đem theo La Thành công tử vừa mười một tuổi, bọn quản gia, a hoàn theo sau, sang hậu đường. Phu nhân khẽ chào rồi ngồi xuống, La Thành đứng hầu bên. Phu nhân lên tiếng: 

 - Tướng công hôm nay xong việc, sao không về nhà riêng, lại gọi lão phụ tới hậu đường có việc gì vậy? 

 La Nghệ hỏi lại: 

 - Hồi xưa khi mắc cạn nước, lệnh tiên huynh (l) Vũ vệ tướng quân bỏ mình, hiện còn ai là người nối dõi nữa không? 

 1 Lệnh tiên huynh: tôn xưng anh Tần phu nhân, là Tần Di, bố đẻ ra Thúc Bảo đã chết. 

 Phu nhân nghe hỏi thế, liền rơi nước mắt đáp: 

 - Tiên huynh Tần Di, chết trận ở Tế Châu, chị dâu là Ninh Thị chỉ sinh một trai, tên gọi Thái Bình, lúc bấy giờ mới ba tuổi. Cả hai mẹ con đều lưu lạc trong cảnh giặc giã, đến nay đã hai mươi năm, mỗi người một phương trời. Nhưng sao hôm nay tướng công nói đến chuyện này? 

 La Nghệ đáp: 

 - Ta vừa thăng đường, ở Hà Đông giải đến một tên quân phạm. Xin phu nhân đừng lấy làm lạ, tên này lại cùng họ với phu nhân. 

 Tần phu nhân đáp: 

 - Hà Đông cũng là Sơn Đông sao? 

 La Nghệ cười đáp: 

 - Đúng là chuyện đàn bà, Hà Đông cách Sơn Đông hơn nghìn dặm, làm sao Hà Đông lại là Sơn Đông cho được? 

 Phu nhân nói: 

 - Nếu không phải Sơn Đông, thì thiên hạ cùng họ biết kể sao cho hết, đâu chỉ phải mình họ Tần ở Sơn Đông. 

 La Nghệ đáp: 

 - Vừa rồi trên giấy tờ, thấy ghi rõ là họ Tần chính là quê Lịch Thành, Sơn Đông, làm công sai ở phủ Tế Châu, giải phạm nhân tới phủ Lộ Châu. 

 Phu nhân bèn nói: 

 - Nếu như là người Sơn Đông, hoặc là Thái Bình cũng nên. Mặt mũi Thái Bình cũng chẳng nhớ được nữa, nhưng nhất định Tần Quỳnh phải biết. Lão phụ muốn rõ mặt Tần Quỳnh, hỏi rõ tung tích, thì làm thế nào cho tiện? 

 La Nghệ đáp: 

 - Điều này không khó. Phu nhân cứ ngồi trong nội thất xem xét Tần Quỳnh. Nhưng để khỏi mất thể diện ta, thì phải buông rèm che kín, rồi mới cho gọi Tần Quỳnh vào. 

 La Nghệ sai gia tướng bày biện lại hậu đường, rồi truyền lệnh ra ngoài, cho công sai Lộ Châu giải Thúc Bảo vào. Lúc này cả bọn đang tìm nơi uống rượu cho đỡ nóng ruột. Chỉ có Thúc Bảo, vì lo còn phải thẩm vấn, nên không dám uống nhiều. Ba tiếng pháo mở cửa, một viên quan nội kỳ oang oang truyền lệnh: 

 - Tổng quản đại nhân, ngồi hậu đường thẩm vấn, truyền công sai Lộ Châu, giải quân phạm Tần Quỳnh vào. 

 Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc cùng Bội Chi, Quốc Tuấn vội khoác đủ hình cụ lên người Thúc Bảo, rồi cùng nhau vào cửa soái phủ. Công Cẩn, Đại Nại cùng Hiển Đạo lại ngồi bên ngoài chờ tin tức. Năm người bước qua cửa lớn nghi môn, qua bán nguyệt đài, qua tiền đường, gần đến hậu đường, thì từ phía bình phong, hai viên gia tướng đi ra, truyền lệnh: 

 - Công sai giải quân phạm đứng ngoài! 

 Rồi hai viên gia tướng cầm lấy dây xích, giải Thúc Bảo vào hậu đường, quỳ xuống dưới thềm. Thúc Bảo đưa mắt nhìn trộm lên, thì thấy quang cảnh không có gươm giáo uy nghi như buổi sáng. La Nghệ mặc áo trắng rộng, phía sau là một hàng sáu viên gia tướng áo xanh, mũ rộng đứng hầu, hai tay buông xuôi. Dưới thềm cũng tên gia tướng, cũng chỉ áo rộng, thắt thêm một cái đai. Thúc Bảo thấy thế lòng cũng đỡ lo lắng ít nhiều. La Nghệ truyền lệnh: 

 - Tần Quỳnh bước lại gần án! 

 Thúc Bảo giả vờ bệnh vì sợ bị đánh, nên cứ vờ đứng dậy không nổi. La Nghệ sai hai viên tướng tháo hết xiềng xích cho Thúc Bảo. La Nghệ lại lệnh đến gần án. Thúc Bảo cố lê lên phía trước. La Nghệ hỏi: 

 - Ở Tế Châu, Sơn Đông những nhà họ Tần như ngươi nhiều không? 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Trình đại nhân, huyện Lịch Thành, thuộc Tế Châu họ Tần làm các nghề khác thì nhiều, nhưng làm công sai như tiểu nhân thì chỉ có mình tiểu nhân. 

 La Nghệ lại hỏi: 

 - Người vốn phải theo nghiệp võ biền không? 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Dạ vốn theo nghiệp lính đã từ lâu. 

 La Nghệ căn vặn: 

 - Hãy khoan. Ngươi nói càn rồi. Người làm công sai ở Tế Châu, vâng lệnh Lưu Thứ sử đi công cán ở Lộ Châu thuộc Hà Đông, nếu là quân binh thì sao lại đi làm công sai ở Tế Châu? 

 Thúc Bảo cúi đầu thưa: 

 - Trình đại nhân, vì ở Sơn Đông trộm cắp nổi dậy khắp nơi, bản châu lực có hạn, cho nên ra lệnh ai bắt được trộm cướp thì thưởng. Tần Quỳnh này vốn là quân binh, bắt cướp có công, nên được 

 Lưu Thứ sử thăng làm Binh mã bổ đạo đô đầu, lại được lệnh thứ sử đi công cán ở Lộ Châu, Hà Đông, không may ngộ hại Trương Kỳ, nên mới phải làm thành án, đến dưới trướng đại nhân. 

 La Nghệ tiếp: 

 - Nhà ngươi nguyên là quân binh, hổ làm công sai, vậy ta hỏi thêm: Thuở Bắc Tề, có Vũ Vệ tướng quân Tần Di, vì nước tận trung, nghe nói gia thuộc hiện lưu lạc ở Sơn Đông, nhà ngươi có biết không? 

 Thúc Bảo nghe đến tên phụ thân, rơi nước mắt thưa: 

 - Vũ Vệ tướng quân là phụ thân của Tần Quỳnh này. Xin đại nhân nể mặt người xưa, mà gượng nhẹ cho tiểu nhân. 

 La Nghệ đứng ngay dậy: 

 - Ngươi đúng là con của Vũ Vệ tướng quân sao? 

 Lúc đó, trong màn gấm đỏ, Tần phu nhân cũng không nhịn nổi, lên tiếng hỏi: 

 - Tần Quỳnh, mẫu thân nhà ngươi mang họ gì? 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Dám thưa, mẫu thân tiểu nhân là Ninh Thị. 

 Tần phu nhân lại hỏi: 

 - Thái Bình là tên ai? 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Dạ, đó là tên đặt lúc nhỏ của tiểu nhân. 

 Tần phu nhân thấy cháu cơ khổ đến thế, cuốn ngay rèm gấm, chạy ra hậu đường, ôm đầu mà khóc. Thúc Bảo chưa dám nhận, chỉ khóc mà lạy sát đất. La Nghệ cũng dậm chân mà than: 

 - Đúng là cháu ta rồi, đứng dậy nhận họ hàng đi nào? 

 La Thành đứng bên, thấy Tần phu nhân khóc lóc cũng nhỏ nước mắt lặng lẽ. Bọn gia tướng vội thu tất cả các hình cụ, đem ra phía tiền đường gọi lớn: 

 - Công sai Lộ Châu đâu rồi? Ra mà lĩnh hình cụ về cho sớm. Tần đại huynh vốn là cháu của ngài tổng quản, Tần phu nhân chính là cô ruột của đại huynh, vừa nhận ra ở ngay hậu đường rồi. Cầm luôn cả công văn, sáng mai sẽ đóng dấu trở về Lộ Châu ngay cho! 

 Anh em Uất Trì vỗ tay mừng rỡ. Bọn Công Cẩn chờ bên ngoài, thấy họ ra, mặt mày vui vẻ, bèn hỏi: 

 - Chuyện ra sao rồi mà hai vị mặt mày rạng rỡ thế kia? 

 Uất Trì Nam đáp: 

 - Các vị giờ thì hoàn toàn yên tâm rồi. Tần hiền huynh vốn thật là người danh giá lắm. La đại nhân vốn là chú, Tần phu nhân vốn là cô ruột. Giờ mới nhận ra người một nhà. Chúng ta phải tìm nơi nào ăn mừng mới được. 

 *** 

 Lại nói La Nghệ đưa Thúc Bảo về nhà riêng, bảo La Thành: 

 - Con đưa anh con về thư phòng tắm rửa, thay quần áo, cứ lấy quần áo của ta cho anh con mặc. 

 Thúc Bảo chải đầu tóc, rửa mặt mày, rồi mới ra bái lạy chú, cô, cùng La Thành lạy bốn lạy, nhận anh em. Lập tức nhờ La Thành lấy giấy mực, viết hai lá thư, một gửi luôn cho La Nghệ, nhờ đưa cho viên thư lại sáng mai đóng dấu công văn, chuyển cho Bội Chi, đem về Lộ Châu, tạ ơn Đơn Hùng Tín và báo tin mừng, một đưa anh em Uất Trì, chuyển tới ba anh em Công Cẩn, cùng để tạ ơn, báo tin mừng. Lúc này ở nhà riêng, Tần phu nhân đã sai bày tiệc rượu huy hoàng, vợ chồng La Nghệ ngồi trên, Thúc Bảo cùng La Thành và mọi người ngồi vây xung quanh. Rượu uống được hai tuần, La Nghệ lên tiếng: 

 - Thúc Bảo, ta thấy cháu tướng mạo đường đường, nhất định là một kẻ có sức địch muôn người, chỉ tiếc lệnh tiên quân sớm từ giã cõi thế, lệnh đường ở góa, tha hương một mình. Liệu cháu có được luyện tập võ nghệ gì không? 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Cháu biết múa giản. 

 La Nghệ hỏi tiếp: 

 - Chính là đôi giản bằng đồng đen mà lệnh tiên quân để lại chứ gì cháu có mang tới đây không? 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Cháu ở Lộ Châu vì xảy ra chuyện như thế, đôi giản coi như là vũ khí giết người, cùng với con hoàng phiêu, yên cương đều bị Sái Thái sứ đưa vào kho cất giữ. 

 La Nghệ an ủi: 

 - Cái đó thì chẳng lo. Sái Thái sứ vốn là học trò của ta mai kia ta sai người đến lấy là xong. Nhưng bây giờ có điều cần phải nói với cháu. Ta trấn giữ U Châu này, có hơn mười vạn tinh binh, hơn nghìn viên dũng tướng, đều phải dựa trên công tội mà luận thưởng phạt. Pháp luật không thể dựa vào sự thân thuộc, họ hàng. Ta nay dù có muốn lấy cháu vào làm tướng, làm quan dưới trướng, thì cũng không thể nào tránh được lời ra tiếng vào của tướng sĩ, binh lính, khiến cho cháu cũng không còn mặt mũi nào. Theo như ý ta, mai đây cháu nên ra biểu diễn võ trường, cùng tỉ thí võ nghệ, đọ tài cao thấp, nếu quả cháu có võ nghệ hơn người, kiếm mã tinh thông, thì ba quân cũng không còn dám nghị luận gì nữa. Ý cháu thế nào? 

 Thúc Bảo đứng dậy, quỳ thưa: 

 - Được chú, cô cất nhắc cho như thế, lo đến công nghiệp mai sau cho cháu, thì chẳng khác gì ơn cứu sống vừa rồi. 

 La Nghệ liền truyền lệnh cho gia tướng, đem binh phù hiển dụ ba quân, ngày mai kéo hết binh mã ra khỏi thành, đến diễn võ trường để dự tỉ thí võ nghệ . 

 Hôm sau mới canh năm. La Nghệ ra lệnh bắn pháo mở cổng soái phủ, trung quân đứng thành đội ngũ, Sử Đại Nại giữa tiền đường tiến lên trình tổng quản cùng ba quân về kết quả việc mở Đả lôi đài, liền được lệnh nhận chức kỳ bài quan. Sau đó tướng sĩ, quân lính đội nào cơ ấy trang bị chu đáo, theo La Nghệ ngồi trên xe tứ mã, rầm rộ kéo khỏi soái phủ. 

 Mười vạn tinh binh giữ cõi ngoài 

 Ấn vàng treo đầu, ánh trăng soi 

 Lá cờ sông Dịch mây tung ngất 

 Mũi giáo đài Yên sương chói ngời. 

 Lúc này Thúc Bảo chưa có dây vàng tua bạc ghi võ công để đeo, nhưng trang phục cũng như mọi gia tướng của La Nghệ: đầu quấn khăn the có đính hoa vàng, mặc áo có thêu hình đầu hổ, đeo đai lưng nạm bạc lóng lánh, có kèm cả túi đựng tên bắn, chân đi giày màu trắng, cưỡi ngựa, theo sau La Nghệ ra diễn võ trường bằng đường cửa đông. La Thành công tử cũng đi theo bốn viên gia tướng, ra cửa soái phủ thì bị kỳ bài quan trông coi viên môn chặn lại, van xin thế nào, kỳ bài quan cũng nhất định không cho La Thành ra khỏi cửa. 

 Nguyên là đã có nghiêm lệnh của La Nghệ đến các thủ hạ là: tuy La Thành đã mười một tuổi sức lực hơn người, biết cưỡi ngựa mạnh, giương cung cứng, thường theo gia tướng đi săn ở ngoài thành; La Nghệ làm quan liêm khiết chỉ sợ La Thành tính khí chưa định, rồi dẫm đạp lên ruộng vườn, hoa màu của dân chúng, nên nhất định cảnh báo quân sĩ dưới trướng, không được cho La Thành ra khỏi soái phủ. 

 La Thành chỉ đành theo gia tướng dắt ngựa trở về, đến trước mẫu thân ở nhà riêng, giở trò trẻ con, đòi kỳ được ra diễn võ trường, xem anh Thúc Bảo tỉ thí võ nghệ. Tần phu nhân vì mới tìm ra được đứa cháu ruột mồ côi của mình, cũng nóng biết võ nghệ Thúc Bảo ra sao, nên muốn cho La Thành ra xem, rồi trở về sớm cho mình biết đầu đuôi đỡ lo lắng, chờ đợi trong lòng. Tần phu nhân cho gọi bốn vị cựu lão trong nhà, cả bốn đều râu tóc bạc trắng, đã từng theo La Nghệ từ triều Bắc Tề đến nay, cũng trải bao vinh nhục đời lính, cùng vui khổ lập nhiều quân công, dây vàng tua bạc đã lắm, và giảng giải: 

 - Bốn vị đều là bậc thạo việc hiểu người, hãy dắt công tử ra diễn võ trường xem Tần đại huynh tỉ thí võ nghệ. Nếu kỳ bài quan có ngăn trở, thì cứ nói là lệnh của phu nhân là được. Chỉ nhớ là đừng để La tổng quản trông thấy. 

 Bốn người nhất loạt thưa: 

 - Chúng tôi rõ rồi ạ! 

 La Thành thấy mẫu thân sắp xếp như thế, mừng không nén nổi. Vội nhảy vào thư phòng lấy cung hoa tiêu, cùng túi gấm có đựng mấy mũi tên cánh bằng lông chim, tính chuyện sau khi xem Thúc 

 Bảo tỉ thí xong xuôi, còn tính ra bãi hoang ngoài thành bắn chim, đuổi thú nữa. 

 Năm người cùng lên ngựa, ra cửa soái phủ, kỳ bài vẫn không cho ra. Một vị cựu lão nhanh miệng nói: 

 - Tần phu nhân đã cho phép công tử ra xem đại huynh Thúc Bảo tỷ thí võ nghệ, chỉ cần đừng để La tướng công trông thấy là được 

 Kỳ bài quan còn căn dặn: 

 - Xin công tử mau trở về, đừng để tướng công biết. 

 La Thành tức giận quát lớn: 

 - Không cần phải nhiều lời! 

 Năm ngựa ra khỏi viên môn, đi về phía giáo trường ngoài cửa đông. Lúc này ở ngoài giáo trường pháo đã bắn, cờ đã kéo lên, năm ngựa lại cũng từ cửa đông mà vào, cả năm người xuống ngựa, vào xem cảnh thao diễn. Bốn vị cựu lão chỉ sợ La tướng công trên trướng đài trông thấy La Thành, nên hai người đứng che bên phải, hai người đứng che bên trái, ép La Thành vào giữa, cứ thế đứng xem. 

 Chẳng biết sự thể ra sau, xin Xem hồi sau sẽ rõ. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Mười Bốn

Múa giản trước ba quân, nức tiếng Tần Quỳnh,

 Tặng vàng hơn trăm lạng, đền ơn Liễu Thị.

 Thơ rằng: 

 Ngọc trong đá, vàng trong bùn đục 

 Can Tương vùi dưới Phong Thành ngục (1) 

 Gặp thì mài dũa thợ lành nghề 

 Chọc trời ánh kiếm chói như đuốc 

 Trượng phu tung tích xưa nay rõ 

 Vụt mây, vụt bùn, vụt chuột, hổ 

 Vua hán xây đàn, ba quân kinh 

 Hoài âm hay là Giang, Quân đó?(2) 

 Khốn cùng không ép chớ nên hiền 

 Hùng dũng đao thuơng, há chịu hèn 

 Vật báu nhắn ai còn cất túi 

 Đợi ngày xỏng xảnh tiếng vàng chen. 

 1 Có người xem thiên văn, thấy vùng Phong Thành có kiểm quý, sai Lôi Hoàn đến tìm. Lôi Hoàn đào nền nhà ngục Phong Thành, thấy một hòm đá, trong đựng hai thanh bảo kiếm, một thanh có tên là Can Tương, một thanh có tên là Mạc Gia (Đông Chu Liệt Quốc). 

 2 Lưu Bang sai đắp đàn cao để phong chức đại tướng, mọi người bàn luận ai đáng được nhận chức ấy, không ai chịu ai. Không ngờ người được phong lại là Hàn Tín chưa có danh hiệu gì. Sau làm nên công trạng to lớn, được phong Hoài âm Hầu (Sử Ký). 

  

 Lời người xưa chẳng sai, vận xấu đến thì vàng mười cũng mất giá, số may còn thì sắt rĩ cũng phát ánh sáng lóng lánh. Thúc Bảo lúc ở sơn Đông làm bấy nhiêu việc, đến Lộ Châu gặp bao chuyện sóng gió, cũng chỉ vì thời vận chưa đến. Một buổi sớm, gặp được La Nghệ đang là là mặt đất bỗng vụt tận trời cao, lộ rõ tất cả bản lãnh cả đời của mình. La Nghệ cũng vì muốn cất nhắc Thúc Bảo, nên mới có cuộc đại thao diễn ba quân. 

 La Nghệ ngồi trên trướng đài, mười vạn hùng binh, đội ngũ chật đất, chia thành từng ô vuông vắn. Phía dưới trướng đài, các tướng cao thấp dàn hàng túc trực, toàn thân nai nịt gọn gàng, sắc kiếm sáng ngời, mũi thương nhọn sắc sắp hàng hai phía tả hữu. Thúc Bảo đứng phía bên tả nhìn suốt lượt xa gần bốn phía, lòng thầm nghĩ: "Ta lâu nay giống như ếch ngồi đáy giếng, không biết đến trời cao đất rộng, chỉ biết mỗi đất Sơn Đông là lớn. Hãy cứ nhìn ông chú ngoài năm mươi của ta, râu tóc đều còn xanh đen, mà đã khoác nhung phục đệ nhất phẩm, nắm quyền sinh sát hàng vạn người, một lời hô, trăm lời dạ. Đại trượng phu trên đời, phải như thế mới xứng!". 

 Nào có biết đâu, lần thao diễn võ nghệ này, La Nghệ chỉ để ý thấy Thúc Bảo, chẳng hề bận tâm một sự gì khác. Thấy Thúc Bảo như có vẻ tính toán, lo lắng điều gì, La Nghệ liền dõng dạc gọi: 

 - Tần Quỳnh! 

 Thúc Bảo quỳ xuống thưa lớn: 

 - Có! 

 La Nghệ hỏi: 

 - Người sử dụng vũ khí gì thạo hơn cả? 

 Thúc Bảo vội thưa: 

 - Dạ, múa song giản? 

 La Nghệ hôm qua trong bàn tiệc ở nhà riêng cũng đã từng hỏi rồi, nhưng sao hôm nay còn hỏi lại. Chỉ vì biết đôi giản của Thúc Bảo, vẫn còn đang nằm ở kho của phủ Lộ Châu, chưa có thể lấy về kịp, La Nghệ bèn truyền gia tướng: 

 - Đem đôi giản bằng bạc của ta ra đây. 

 Đôi giản này của La Nghệ đúng là rèn bằng bạc, có cán mạ vàng, cả hai nặng hơn sáu mươi cân. So với đôi giản của Thúc Bảo vừa ngắn hơn, vừa nhẹ hơn, nhưng vì đã sử dụng quen đôi giản nặng của mình, nay cầm đến đôi giản này của La Nghệ, Thúc Bảo lại càng có điều kiện trổ tài hơn. Hai viên gia tướng xách đôi giản bạc ra, Thúc Bảo quỳ dưới đài, hai tay giơ lên kính cẩn đỡ đôi giản, rồi nhẹ nhàng đứng dậy, vung tít đôi giản, chẳng khác gì hai con rồng bạc, che kín thân mình, lại giống như hai con mãng xà dát ngọc lấp lánh quanh lưng. La Nghệ ngồi trên dài cao giọng khen một mình: 

 - Múa giỏi lắm! 

 Cũng chẳng phải dưới trướng La Nghệ không có người biết múa giản, mà chỉ có riêng Thúc Bảo biết múa thôi đâu, chẳng qua La Nghệ muốn chư tướng lên tiếng ca ngợi, khâm phục tài múa giản của Thúc Bảo. Chư tướng cũng đón biết ý của La Tướng quân, nên cả hai hàng tướng sĩ đều nhất loạt trầm trồ: 

 - Giỏi lắm! Hay lắm! 

 La Thành công tử, vì ở tận ngoài viên môn của giáo trường, nên phải trèo đứng lên vai của bốn vị cựu lão, mới thấy rõ Thúc Bảo múa giản thế nào. Đến những khi Thúc Bảo múa thật nhanh, thân người cũng bị đường giản che kín hết, chỉ thấy ánh bạc loang loáng, La Thành cũng xuýt xoa thán phục, nhưng không dám la ầm ĩ, chỉ khẽ lẩm nhẩm: 

 - Đúng là giỏi thật! 

 Thúc Bảo múa xong, lại quay về trước trướng đài chờ lệnh, La Nghệ hỏi tiếp: 

 - Tần Quỳnh còn biết sử dụng vũ khí gì nữa? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Dạ, thương cũng biết ít nhiều. 

 La Nghệ sai mang thương đến, hai viên gia tướng lại cầm thương đưa cho Thúc Bảo, họ đã chọn cây thương gỗ tốt nhất trên giá, cái này cũng nặng tới một trăm hai mươi cân, hai đầu đều bịt sắt quấn gân trâu, đã lên nước bóng loáng như sơn đen. Thúc Bảo đỡ lấy, người cúi xuống, đè lên cây thương, tay phải đánh mạnh, thương gãy làm hai đoạn, những quận gân trâu quấn lằng nhằng không đứt. Thúc Bảo quỳ xuống thưa: 

 - Tiểu tướng phải dùng hỗn thiết thương mới được! 

 La Nghệ gật đầu khen: 

 - Đúng là con nhà võ tướng? 

 Truyền cho gia tướng: 

 Hãy lấy cây thương của ta trên giá, đem xuống cho Tần Quỳnh. 

 Hai viên tướng y lệnh lại vác cây thương xuống. Cây này cũng nặngtrăm hai mươi cân, dài một trượng tám thước. Thúc Bảo đỡ lấy xoay toàn thân, kéo thương vào lòng. Thấy dáng vẻ chưa thật thuần thục, La Nghệ gật gật đầu, khẽ nói: 

 - Thương pháp chưa được bằng múa giản, còn cần phải chỉ bảo thêm nữa. 

 Lời nhận xét của La Nghệ cũng thể hiện ở soái phủ U Châu, việc rèn luyện về thương pháp rất được chú ý. Không như Thúc Bảo, không hề được truyền thụ về cách sử dụng thương pháp cho đến nơi đến chốn, làm công sai ở Tế Châu, chẳng qua học được ít miếng của bạn bè, trong cảnh tự do tự tại, mang phong cách lục lâm giang hồ mà thôi, cho nên không thể qua được mắt tài nghệ của La Tướng quân. Nhưng vì vừa nghe La Nghệ ngợi ca tài múa giản, lại thấy Thúc Bảo không hề lúng túng, không hề phải lấy sức, vẫn múa nhẹ nhàng cây thương nặng một trăm hai mươi cân, nên tướng sĩ cho đến lính tráng đều đủ kinh ngạc, mà cũng khó nhìn rõ tài nghệ đến đâu, cuối cùng cũng được khắp giáo trường tán thưởng. 

 Thúc Bảo biểu diễn thương xong, La Nghệ truyền lệnh tam quân thao diễn. Một tiếng pháo nổ đinh tai, chỉ thấy: 

 Trận xếp tám phương 

 Cờ tung năm sắc 

 Cọp rồng đua cánh 

 Tàn quạt rợp trời 

 Mây đen ngang dọc 

 Cờ đen chỉ phương Bắc hùng quân 

 Ráng đỏ thẳng xông 

 Cờ đỏ chỉ phương nam dũng sĩ 

 Tuyết phủ đầy đồng khắp nội, hiệu báo canh tân 

 Xuân về núi thẳm hang sâu, màu nêu giáo ất 

 Xấu tốt chẳng giống đá Giang Lăng 

 Mạnh yếu vẫn nòi quân U, Lý. 

 Thao diễn xong, viên quan xướng lệnh trong quân hô lớn: 

 - Chư tướng, tam quân thao diễn đã xong, thừa lệnh tổng quản tướng quân, đến phần tỷ thí cung tên! 

 La Nghệ gọi Thúc Bảo hỏi: 

 - Nhà ngươi có thạo cung tên không? 

 La Nghệ hỏi thế cũng là có ý, nếu Thúc Bảo biết bắn thì thi, nếu không thì thôi, chẳng hề bị mang tiếng xấu xa gì nữa. Nhưng Thúc Bảo lúc này, đang hồi đắc ý, tự thấy mình giản rồi thương đều giỏi giang, nên cũng buột miệng thưa: 

 - Dạ, có! 

 Có ngờ đâu trong số hơn nghìn viên tướng dưới trướng La Nghệ, cũng có tới hơn ba trăm viên thần tiễn. Từ ba trăm đó, lại chỉ chọn ra sáu mươi viên giỏi nhất trong việc vừa trên ngựa vừa bắn cung, đều là những kẻ bách phát bách trúng. Với đích bắn là cán thương dài nạm bạc, thì những viên tướng này xem là trò đùa con trẻ. La Nghệ hiểu rõ điều này, lại biết rõ sức lực của Thúc Bảo, nên lệnh cho gia tướng lấy cho Thúc Bảo chiếc cung của mình vẫn dùng, vừa dài vừa cứng, và chín mũi tên. Quân chính ty lập tức ghi tiếp tên Thúc Bảo vào cuối sổ dự thi, rồi bước lại trướng đài, quỳ thưa. 

 - Trình tổng quản tướng quân, xin tướng quân chỉ định đích bắn! 

 La Nghệ cũng vì có Thúc Bảo trong bọn thi tài, nên phán ngay: 

 - Lấy cán thương như mọi lần vậy. 

 Những cán thương làm đích bắn ở giáo trường lại càng dễ trúng, đều được làm bằng gỗ mềm, mỗi cán dài chín thước đứng cách một trăm tám mươi bộ (1), cứ mỗi lần tên bắn trúng vào cán thương, thì cờ hiệu màu xanh lại phất nhất loạt để thay tướng khác bắn, theo đúng thứ tự xướng danh của quân chính ty. Những viên tướng này, đều phải rèn luyện một ngày, đến viên kỳ bài quan mới được nhận chức Sử Đại Nại nữa là đã có tới năm mươi bảy tướng dự thi bắn, mà chưa từng có một mũi tên nào chệch khỏi cán thương, rơi ra ngoài. Thúc Bảo đứng xếp hàng phía sau, thấy quang cảnh như vậy, trong lòng thầm hối hận: "Đáng ra ta cũng không nên khoác lác quá. Vừa rồi khi La tướng quân hỏi: "Có thạo cung tên không", chỉ cần ta đáp: “Không thạo!", thế là xong, tướng quân cũng chẳng ngạc nhiên làm gì. Sao ta lại dại dột trả lời rằng có. Giờ biết làm sao đây!". 

 1 Bộ: đơn vị đo chiều dài, tùy thời thay đổi. Thường khoảng cách giữa một bước chân là một bộ. 

 La Nghệ vốn là người rất cẩn thận, tinh tế, bày ra chuyện thi bắn cung này cũng chính chỉ để Thúc Bảo trổ tài, nay thấy tinh thần Thúc Bảo có vẻ hoảng hốt, ngờ là việc cung tên Thúc Bảo cũng chưa được luyện tập nhiều, liền gọi Thúc Bảo đến, hỏi: 

 - Ngươi có thấy các tướng dưới trướng ta, bắn có giỏi không? 

 La Nghệ hỏi thế vẫn là có ý tốt, chỉ cần Thúc Bảo khiêm nhường, La Nghệ có thể ra ngay lệnh miễn thi bắn cho. Thúc Bảo vẫn không hiểu ra thiện ý câu hỏi đó, với vẻ cuồng vọng của bậc thiếu niên, không chút từ tốn, đáp: 

 - Chư tướng đều bắn vào đích đứng yên, chưa đủ lấy làm lạ! 

 La Nghệ hỏi: 

 - Ngươi bắn còn tài hơn nhiều sao? 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Tiểu tướng có thể bắn được chim đang bay trên trời cao. 

 Chả cần đến người nhiều tuổi, sáng suốt như La Nghệ mới hiểu ra là Thúc Bảo không bắn thạo một cái đích như thế, cũng muốn xem Thúc Bảo sẽ bắn chim bay như thế nào? Ra lệnh cho chư tướng tạm ngừng việc thi bắn cán thương, xem Thúc Bảo bắn chim trên trời cao. Quân chính ty lập tức gấp sổ sách lại, chư tướng buông cung, bỏ tên vào túi. Thúc Bảo thì giương cung chờ sẵn, đứng ngay bên thềm đài hình bán nguyệt. Giữa thanh thiên bạch nhật, bầu trời trong suốt, không một bóng chim bay. Chỉ bởi cả muôn vạn tinh binh, cờ dong trống gióng để thao diễn, thì chim nào còn dám bay tới. La Nghệ bèn ra lệnh: 

 - Lệnh cho quan coi tiền lương, đem ra mấy miếng thịt bò tươi, treo trên ngay đỉnh cột cờ. 

 Thế là thịt bò treo lên, thỉnh thoảng những giọt máu tươi lại nhỏ giọt, lúc bấy giờ ở vách núi gần đó thấy một vài cánh chim ưng đói mồi mới mon men tìm đến. Thói thường, người trong cuộc thì mê, người bên ngoài lại sáng suốt, La Thành ngoài viên môn, lúc này thầm nghĩ: "Anh Thúc Bảo giờ định giở trò xấu chơi đây. Bắn bầy chim sẻ, quạ đen còn dễ, chứ chim ưng thì sao mà hạ nổi. Con hươu không bị quáng bởi mắt người, con cá không bị lòa vì nước trong, trời xanh, thảo nguyên xanh không làm lạc mắt chim ưng được. Trong mắt chim ưng, có đôi đồng tử nhỏ bằng hạt đậu, chim đang bay trên lưng chừng trời, dưới bãi cỏ bên sườn núi, chỉ thấy một hạt đậu lăn đi lăn lại, nó cũng còn nhìn thấy. Anh ấy nói có thể hạ được chim ưng đang bay, chỉ là khoác lác một chút cho sang. Nhược bằng không bắn được, phụ thân sẽ không trọng dụng anh ấy nữa, thì thật đáng thương cho một anh hùng vừa lỡ vận, từ nghìn dặm tới đây. Ta phải giúp anh ấy một tay mới xong!” 

 Nghĩ rồi mở áo khoác, lôi chiếc cung hoa tiêu của mình ra, lắp tên vào, giương lên chờ sẵn, lại cốý lấy áo khoác che bớt. Hàng vạn quan quân đều đang chú mục chờ Thúc Bảo bắn chim ưng, chẳng ai biết chuyện La Thành đang giương cung ngoài cửa đông này: Chỉ có bốn cựu lão ở ngay dưới chân La Thành, cũng chẳng biết thì thôi. Hai người đứng bên phải lúc nào cũng luôn miệng chuyện trò, chẳng để ý gì đến xung quanh, hai người bên trái vì bị ánh mặt trời chiếu vào mắt, phải lấy tay che để nhìn rõ Thúc Bảo bắn ưng, La Thành lại giương cung rất nhẹ nhàng, không một tiếng động nhỏ, nên cả bốn người đều không hay biết gì. La Thành cũng tính thật kỹ lưỡng lúc nào thì nên bắn tên đi. Nếu Thúc Bảo chưa bắn, La Thành bắn thì có ích gì, nên La Thành vẫn giương cung chực sẵn mà thôi. Đáng lo ngại thay cho Thúc Bảo lúc này, đã thấy chim xuất hiện gần mấy miếng thịt bò tươi, cung đã giương sẵn, mọi người reo hò thúc giục, chim vẫn bay đi bay lại, Thúc Bảo không còn biết thế nào, chỉ còn cách giơ ngược cung, bắn một phát. Dây cung khẽ động, chim ưng đã biết có tên đến gần, liền xoay thân hình một vòng kín, vỗ mạnh đôi cánh vừa dày những lông, vừa cứng như sắt, chụp lấy mũi tên của Thúc Bảo mà thân hình chẳng hề một xây xát nhỏ nào. Thúc Bảo thấy thế, trong lòng vô cùng hoang mang, nhưng rồi lại thấy, con chim ưng đó vật vã đôi cánh, liệng bên này, chao bên kia, không còn giữ được thăng bằng nữa, từ từ rơi xuống đất trước mặt ba quân tướng sĩ. Cả thao trường lại một lần nữa náo động, ai nấy hò reo ầm ĩ như phát cuồng. 

 Kẻ đứng xem hò reo một tiếng 

 Người trong cuộc phấn khởi trăm lần. 

 Tất nhiên, ngay cả đến Thúc Bảo cũng không rõ vì sao con ưng đó lại rơi xuống. La Thành thì lại giấu cung hoa tiêu của mình vào ngay trong áo khoác như cũ, rồi cùng bốn cựu lão lên ngựa, trở về soái phủ trước. Quân lính nhặt con ưng dâng lên cho La Tướng quân, La Nghệ vì vẫn thiên vị Thúc Bảo ngay từ đầu, nên tự thân xuống ngay trướng đài, gài cho Thúc Bảo một bông hoa đỏ vào áo. Thế rồi trống gióng, cờ mở, rước về soái phủ, truyền lệnh tất cả chư tướng, không kể có tham dự tỷ thí hay không, đều được thưởng nhất loạt, ba quân cũng vậy, đều được ban rượu thịt để tưởng lệ sự khó nhọc. La Nghệ về hậu đường, La Thành thì đã về nhà riêng từ trước, riêng chuyện bắn tên giúp Thúc Bảo, cũng không dám nói với mẫu thân, chỉ sợ lộ chuyện, Thúc Bảo sẽ mất thể diện chăng. 

 Sau đó, La Nghệ về yến tiệc tại nhà riêng, nói chuyện với Tần phu nhân: 

 - Tần Quỳnh múa giản giỏi lắm, cung tên cũng thật lạ lùng ít có. Chỉ có thương pháp là chưa được rèn luyện chu đáo thôi. 

 Rồi quay ra nói với Thúc Bảo: 

 - Trong soái phủ cũng có sân tập luyện, cháu phải cùng em học thêm thương pháp. 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Xin tạ ơn những lời chỉ giáo của chú! 

 Từ đó hai anh em, ngày ngày ra sân tập ngựa, luyện thương. La Nghệ những hôm nghỉ việc cũng ra bày vẽ thêm cho những đường thương gia truyền của họ La. 

 Quang âm thấm thoắt, đã gần một năm trôi qua, Thúc Bảo vốn là người con có hiếu, chỉ tính từ ngày đi công sai ở Lộ Châu, hẹn trên dưới một tháng sẽ về, chẳng ai ngờ được chuyện rẽ muôn đường, bao nhiêu rắc rối xảy ra, đến nay vẫn chưa được về Sơn Đông chăm sóc mẹ già. Cũng không thể nói vì ở soái phủ đông người vui cảnh mà quên cả quê nhà, quên cả mẹ già. Mà thật ra lòng thương nhớ người thân, không lúc nào là không có, nhưng vì Thúc Bảo hiểu ra rằng: Nếu ta đến U Châu này để thăm họ hàng, ở đã lâu ngày, lấy cớ mẫu thân trông ngóng, cáo từ thật dễ dàng. Nhưng hiện nay, ta vẫn là người đi đày, may mà gặp chú cô che chở, nếu xin về, không biết La Tướng quân sẽ trả lời thế nào? Có bằng lòng cho ta về không. Nếu như La Tướng quân lại đáp: "Hiện giờ ta đương làm quan ở đây, ngươi về cũng có thể được, nếu ta không làm quan ở đây, ngươi có về được không?". Lúc bấy giờ, về cũng không xong, mà ở cũng dơ dáng nốt. 

 Những điều này không phải bây giờ Thúc Bảo mới nghĩ tới, mà ngay những ngày đầu nhận được cô chú, Thúc Bảo đã nghĩ ra. Giờ chỉ có cách, nhờ La Thành, chờ dịp nào đấy nói hộ với cô, rồi cô sẽ lo lắng cho mình trở về là tốt hơn cả. Nhưng tính khí La Thành vẫn còn trẻ con, đã thích ai thì suốt ngày không rời người ấy một bước. Từ ngày gặp Thúc Bảo, anh em hợp tình, lại rất phục cử chỉ, bản lĩnh anh hùng của Thúc Bảo, đời nào lại bằng lòng cho Thúc Bảo về Tế Châu, để rồi lỡ phụ mẫu có đánh mắng, còn có người xin cho. Cho nên dù có thuyết phục La Thành bao nhiêu, thì có khi La Thành ngoài miệng cũng sẽ tỏ vẻ bằng lòng: "Hôm qua, đã nói với mẫu thân. Phụ thân một vài ngày nữa sẽ cho anh về Tế Châu thôi!". Thành ra vẫn chẳng dám ngỏ lời, ngày tháng càng dài, càng dài mãi mà vẫn chưa được trở về. 

 Mãi cho tới tháng tám, năm thứ ba, đời Nhân Thọ, một hôm La Nghệ ngồi trong thư phòng hỏi về việc học hành của hai anh em, lúc này La Thành còn chưa kịp chải dầu. La Nghệ ngước mắt nhìn lên tường có đề bốn câu thơ, La Nghệ nhận ra nét Thúc Bảo. Thì ra Thúc Bảo vì quá tha thiết về quê, một lần uống mấy chén rượu vào, bỗng hứng lên đề mấy câu thơ trên tường này, La Nghệ nhận ra tình cảm Thúc Bảo, trong lòng không vui. Mấy câu như thế này: 

 Một ngày xa cách một ngày đau 

 Lẻ bạn chim rừng ủ rũ sầu 

 Đất khách dẫu vui cho đến mấy 

 Lòng quê hôm sớm vẫn nao nao. 

 La Nghệ không chờ chuyện trò với hai anh em nữa, ra phía phòng sau. Phu nhân ra đón, hỏi: 

 - Tướng quân vừa vào thư phòng để xem việc học hành của hai anh em, sao đã thấy vào đây? 

 La Nghệ phàn nàn: 

 - Chúng nó không chịu rèn luyện, thì dù có bắt chúng rèn luyện cũng chẳng xong. 

 Phu nhân hỏi tiếp: 

 - Sao tướng quân lại nói thế? 

 La Nghệ đáp: 

 - Phu nhân, từ ngày cháu tới U Châu, ta xem nó chẳng khác gì La Thành, không hề có sự phân biệt. Ta cũng muốn giữ ở đây ít lâu, để nó lập nên công trạng gì đó, rồi sẽ tâu với triều đình, phong cho quan chức, để rồi mặc áo gấm trở về quê hương. Không ngờ nó chẳng biết đến lòng tốt của ta, mà lại có vẻ oán giận. Vừa rồi vào thư phòng, thấy trên vách có đề bốn câu thơ, đều nói tới lòng nhớ nhà, nhớ quê. Thế thì ta còn giữ ở đây cũng vô ích. 

 Phu nhân nghe thế, nhỏ nước mắt mà thưa: 

 - Tiên huynh sớm từ giã cõi thế, chị dâu ở góa một mình ở quê người, đất khách, chỉ có mỗi một mình nó, ra đi đã gần một năm nay, nhìn bốn bên chẳng có người máu mủ, bây giờ được tướng quân nâng đỡ chu nó mà kiếm được một chút địa vị, mặc áo gấm về làng cũng là điều tốt. Nhưng chi bằng cho nó về chăm sóc mẫu thân thì hơn. 

 La Nghệ hỏi lại: 

 - Ý phu nhân cũng muốn cho nó về quê sao? 

 Phu nhân đáp: 

 - Chị dâu tuổi cao, ngày ngày lo lắng trông chờ. Chẳng có gì phải bàn nhiều. 

 La Nghệ kết luận: 

 - Bất tất phải sụt sùi làm gì. Giờ chỉ sắp xếp cho nó về quê vậy thôi? 

 Rồi cho dọn tiệc tiễn hành, sai bên ngoài lấy một con ngựa tốt, một bộ yên cương đi đường xa đem vào soái phủ. La Nghệ về phòng mình, sai tiểu đồng đến thư phòng, dặn Thúc Bảo: 

 - Nói với Thúc Bảo, ghi rõ những thứ còn nằm ở kho của phủ Lộ Châu, đem sang đây, để ta viết thư. 

 Lúc này Sái Kiến Đức vẫn còn trị nhậm ở Lộ Châu, cho nên cũng rất tiện cho Thúc Bảo quay lại cầm thư của La Nghệ, để lấy những tư trang, vũ khí, ngựa cưỡi của mình. 

 Tiểu đồng sang thư phòng, nói với Thúc Bảo: 

 - Tiểu chủ, ý của La đại nhân có vẻ bằng lòng cho tiểu chủ về Sơn Đông. Truyền tiểu chủ ghi lại tất cả các thứ còn ở kho phủ Lộ Châu, để La đại nhân viết thư. 

 Thúc Bảo nghe xong lòng vui vô hạn, vội lấy giấy bút, kê khai rõ ràng, tiểu đồng mang trình cho La Nghệ. La Nghệ viết hai lá thư: một gửi cho Sái Thứ sử ở Lộ Châu để lấy đồ đạc, một lá thư tiến cử Thúc Bảo với Sơn Đông đạo hành đài Lai Tổng quản. Tiệc rượu bày xong, La Nghệ báo tiểu đồng: 

 - Mời Thúc Bảo cùng phu nhân ra uống rượu tiễn hành. 

 Phu nhân chỉ tiệc rượu, nói với Thúc Bảo: 

 - Đây là tiệc rượu chú cho bày để thay cô tiễn cháu về với mẫu thân. 

 Thúc Bảo lạy sát đất. La Nghệ kéo dậy mà rằng: 

 - Không phải ta không có ý giữ cháu, để mong lâu dài có được ít công trạng nào đó, kiếm chút quan chức thì về cũng vẻ vang hơn, để mai kia cháu còn kế tục được công nghiệp của tiền nhân. Nhưng ta không nghĩ tới chuyện mẫu thân cháu ngóng trông, không như ý ta. Cô cháu lại khuyên: “Thân mẫu tuổi cao sức yếu". Nay ta để cháu trở về, đây là hai phong thư, một gửi cho Sái Kiến Đức ở Lộ Châu để cháu lấy đồ đạc, một gửi cho Sơn Đông đạo hành đài kiêm Thanh Châu Tổng quản họ Lai, tên Hoạch Nhi. Ta là hàng cha chú của họ Lai, nay đang tiến cử cháu làm kỳ bài quan dưới trướng họ Lai. Mai kia lập được công trạng, thì đường tiến thân của cháu sẽ càng rộng mở. 

 Thúc Bảo cúi đầu tạ ơn cô chú, lại vái lạy La Nghệ bốn lạy, rồi tất cả ngồi vào tiệc rượu. Yên cương, hành lý đã chuẩn bị chu đáo. Thúc Bảo ra qua soái phủ, anh em Uất Trì đã biết trước, cũng đặt rượu tiễn hành, Thúc Bảo vì nghĩa nặng không thể từ, nên cũng gượng uống mấy chén, rồi lên đường qua Trác Châu. Ở đây, Trương Công Cẩn còn tỏ ý giữ Thúc Bảo lại chơi vài ngày, nhưng vì Thúc Bảo nóng lòng về quê, nên cương quyết ra đi. Công Cẩn lại viết thư, nhờ gửi Đơn Hùng Tín. Hai bên chia tay. 

 Thúc Bảo lòng muốn hóa thành mũi tên, ngựa không dừng vó, ba ngày sau, đã về tới Lộ Châu, Hà Đông rồi. Vào thành, lại tìm đến trước cổng phủ đường, đến quán trọ Vương Tiểu Nhị. Tiểu Nhị vừa thoáng thấy bóng Thúc Bảo, vội chạy trốn ra phía sau, gọi Liễu Thị: 

 - Mình ơi, nguy lắm rồi! 

 Liễu Thị vội hỏi: 

 - Có chuyện gì thế? 

 Tiểu Nhị đáp: 

 - Cái ông quý khách họ Tần hồi trước thiếu tiền cơm sau vì can tội phải đi đày ở U Châu, chưa đầy một năm, nay đã trở thành một ông quan trở về rồi. Đầu đội khăn the đen, vừa mới cưỡi ngựa qua cổng phủ. Nhất định ông ta sẽ tới trả nợ cũ, làm thế nào bây giờ? 

 Liễu Thị giảng giải: 

 - Người xưa đã nói: "Khách đi lưu chút nghĩa, mai mốt còn thấy nhau. Nhưng lúc ấy, tôi đã khuyên can, mình chẳng nên đen bạc, khắc nghiệt quá, mình chẳng nghe, nay còn mặt mũi nào mà trông thấy Tần quý khách nữa, mình hãy lánh mặt là hơn! 

 Tiểu Nhị đáp: 

 - Trốn cũng không xong! 

 Liễu Thị hỏi: 

 - Sao lại trốn cũng không xong? 

 Tiểu Nhị đáp: 

 - Mình là nhà hàng. Nếu ông ta đến, gọi ra gặp mặt, thử hỏi trốn đi đâu bây giờ? 

 Liễu Thị hỏi: 

 - Thế thì làm thế nào? 

 Tiểu Nhị đáp: 

 - Nếu ông ấy hỏi, nói tôi chết rồi là xong. Người chết không ai kể oán, hỏi tội nữa. Đến lúc ông ta đi rồi, tôi hãy ra vậy. 

 Lập tức Tiểu Nhị chuẩn bị mọi thứ, dặn vợ nên nói năng, khóc lóc như thế nào, cuống cuồng cả lên. Liễu Thị vốn hiền lành, đành phải nghe theo, khóc lóc sụt sùi ở nhà trong. Thúc Bảo đến trước cửa quán, Liễu Thị ra chào: 

 - Tần quý khách mới về! 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Chào chị! Ta tìm đến để tạ ơn chị về chuyện trước đây. 

 Rồi bảo đầy tớ trông ngựa, hành lý, đợi Thúc Bảo vào phủ đường gặp Sái Thái thú, đưa thư của La Nghệ. 

 Lúc này, Sái Thái thú đang ngồi trên công đường, lính canh cổng vào trình có quan sai của La Tổng quản đem thư tới. Thái thú sai mời vào. Thúc Bảo cũng vốn là người cẩn thận, gặp lúc đắc ý, lại thấy càng cần có ý tứ, nhũn nhặn từ cửa đi vào, Thái thú ngồi trên ghế cao, nhận ra Thúc Bảo, liền xuống thềm, thân hành mời lên ghế ngồi. Thúc Bảo bước lên thềm bán nguyệt bái chào. Thái thú hỏi chuyện về La Tổng quản, sau đó nhắc lại chuyện ở rừng Tạo Giác, Thái thú cũng đã có châm chước như thế nào, để Thúc Bảo chỉ phải đày đi xung quân. Thúc Bảo thưa: 

 - Nhờ Thái thú che chở, Tần Quỳnh này xin ghi nhớ ơn sâu. 

 Thái thú tiếp: 

 - Đồng Hoàn cùng Bội Chi ở U Châu về, nói chuyện La Tổng quản là họ hàng thân thiết, ta cũng mừng thay. Thành ra từ chuyện rủi hóa may, cũng vì vậy mới nhận được người nhà ruột thịt. 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Trình Thái thú, hiện có thư của La Tướng quân gửi ngài! 

 Thái thú cầm thư, mở ra, thì đúng là nét chữ của La Tổng quản, không lại án ngồi, thái thú đứng đọc ngay trước mặt Thúc Bảo, đọc xong, nói với Thúc Bảo: 

 - Tần tráng sĩ, La tướng quân trong thư này không nói chuyện gì khác, chỉ nói tráng sĩ tới đây để lấy những thứ năm xưa ở Lộ Châu. Thúc Bảo thưa: 

 - Dạ! 

 Thái thú gọi viên coi kho, lấy sổ sách của năm thứ hai đời Nhân Thọ, đối chiếu xem tang vật còn lại những gì, giữa sổ sách với vật hiện còn trong kho hay mất mát nhiều. Thực chỉ còn: năm mươi lạng bạc vụn đựng trong một cái túi vải; ngựa hoàng phiêu thì đã đem bán, được ba mươi lạng, đã nạp lại kho. Lụa ngũ sắc mười tấm, khăn lớn một cái, hiện cũng còn đủ; yên cương khảm bạc một bộ cũng chưa mất, một đôi giản đồng cũng vẫn đấy. Thái thú lệnh cho đem ra trước công ường, giao lại cho Thúc Bảo. Một mình Thúc Bảo thì làm sao khuân hết được bấy nhiêu thứ lỉnh kỉnh, cũng may Đồng Hoàn, Kim Giáp trông thấy, giúp đem đi cho. Sái Thái thú lại còn bảo viên coi kho: 

 - Lấy trong sổ công phí một trăm lạng bạc, gói ghém cẩn thận, tặng Tần tráng sĩ làm lộ phí. 

 Chính là: 

 Gặp thời dễ kiếm vàng muôn lạng 

 Lỡ vận khôn mua rượu nửa bầu. 

 Thúc Bảo lạy chào Sái Thái thú, cầm một trăm lạng bạc, cùng Đồng Hoàn, Bội Chi mang theo tất cả đồ đạc đến quán Vương Tiểu Nhị. Thúc Bảo cùng Bội Chi, Đồng Hoàn chào hỏi nhau xong, thấy Liễu Thị vừa khóc lăn lóc vừa thưa: 

 - Chồng thiếp làm nhiều điều không phải với Tần quý khách, thật đắc tội vô cùng. Từ lúc Tần quý khách vướng vào chuyện rắc rối, nha lại mấy lần đến hạch sách, cũng mất ít lạng bạc, lòng lo nghĩ không yên, nên nhiễm bệnh qua đời. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Chuyện năm ngoái cũng chẳng phải lỗi lầm gì ở Vương Tiểu Nhị đâu. Ta thì túi rỗng không, Tiểu Nhị thấy thế, thói đời ấm lạnh là chuyện thường, xưa nay đều thế, nhưng cũng may còn được chị chăm sóc cái kim, sợi chỉ, đến nay vẫn không dám quên. Nay chồng chị lại đã mất, chị ở góa nuôi con nhỏ, ta cũng từng nói với chị, chị có thể sánh với Phiếu Mẫu ở Hoài âm, nay hãy xin biếu chị một trăm lạng vàng (1), để làm kế lâu dài. 

 1 Ở đây chi tiết chưa thật rõ. Nguyên tác đều dùng từ "kim" mà không dùng “ngân". Hoàn cảnh Thúc Bảo lúc này, thực ra không thể có một trăm lạng vàng, mà chỉ được một trăm lạng bạc cũng đã nhiều. 

 Liễu Thị bái tạ. Thúc Bảo giữ Đổng Hoàn, Bội Chi lại quán Tiểu Nhị, còn mình thì lên ngựa, ra cửa Nam, tìm mẹ con Cao Khảo Đạo. Không ngờ mẹ con Cao Khảo Đạo, nửa năm trước đã chuyển đi nơi khác. 

 Giàu dễ trả nghĩa trả ơn 

 Nghèo kia mới khó thiệt hơn giúp đời 

 Cứ xem Hàn Tín mà coi 

 Nghìn vàng đâu xứng với người cho cơm. 

 Thúc Bảo về quán, gói buộc đồ đạc lên sau yên ngựa, con ngựa đã thấy khó mang nổi bấy nhiêu thứ. Bội Chi bàn: 

 - Hãy chịu khó dắt ngựa tới Nhị Hiền trang, hai chúng tôi sẽ cùng đi với đại huynh, mượn một con ngựa của Đơn viên ngoại nữa mà về quê vậy.

 Mọi người chào Liễu Thị, ra cửa Tây đi về Nhị Hiền trang. Không rõ sự thể ra sao, xin xem hồi sau sẽ biết. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Mười Lăm

Tần Thúc Bảo về quê nuôi mẹ già,

 Tề Quốc Viễn chận đường đón bạn mới.

 Thơ rằng: 

 Tình bạn dẫu rằng trong 

 Nghĩa nhà đâu dám khinh 

 Lưng còng luôn tưởng nhớ 

 Tóc bạc vấn vương tình 

 Lòng rối như mây cuộn 

 Ơn dày tựa cỏ xanh 

 M đứng tựa cửa 

 Như giục bước hành trình. 

 Trong ngũ luân (1), sinh ra ta là cha mẹ, biết ta là bạn bè, chỉ có bạn không thì chưa phải là người con hiếu, suy cho cùng cũng không thể là người bạn tri kỷ được. Thúc Bảo khi ở soái phủ với La Nghệ, chỉ vì lòng thương nhớ người thân, công danh cũng chẳng thiết, vốn là do chữ hiếu ấy, Đơn Hùng Tín giữ không cho Thúc Bảo cùng về quê với Phàn Kiến Uy vội, chính vì thế để đến nỗi Thúc Bảo về một mình, mới xảy ra việc đáng tiếc ở rừng Tạo Giác, Thúc Bảo phải đi đày ở U Châu, khiến càng phải cách xa mẫu thân, lòng càng băn khoăn. Xung quân ở U Châu, đi đứng nào được tự do, Hùng Tín dẫu có lòng, cũng không thể nào lo được. 

 1 Ngũ luân: năm quan hệ lớn của người ta, theo đạo đức phong kiến: vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè. 

 Nay nghe tin Thúc Bảo về Lộ Châu lấy hành lý, Hùng Tín trong lòng nghĩ thầm: "Lần này thế nào Thúc Bảo cũng tới thăm ta". Sắp sẵn tiệc rượu, tựa cửa mong chờ Ba người vì đi bộ, nên cũng dằng dai mãi mới tới. Lúc này, trăng đã mọc trên dãy núi phía đông, hoa lá loáng choáng, lại nghe ra tiếng ngựa hí trong rừng, Hùng Tín cao giọng hỏi: 

 - Có phải hiền huynh Thúc Bảo chăng? 

 Bội Chi thay lời thưa vội: 

 - Dạ đúng! 

 Hùng Tín vỗ tay cười ha hả, đúng là "Nguyệt minh thiên lý cố nhân lai", trăng sáng, bạn cũ ngoài nghìn dặm trở về. Dắt tay cùng về trang trại, mặt mày ai nấy rạng rỡ, lại được thêm Đổng Hoàn, Bội Chi, vui càng thêm vẻ. Về đến sân. Hùng Tín sai người cởi yên cương, đem hành lý vào thư phòng, mọi người cùng nhau giao bái. Đầy tớ bưng rượu thịt ra, bốn người cùng ngồi. 

 Thúc Bảo đưa thư của Trương Công Cẩn, Hùng Tín lên tiếng: 

 - Năm ngoái, hiền huynh tới U Châu, Hùng Tín này vẫn thắc thỏm không yên, mãi đến khi có thư về, cũng có kể sơ qua về việc hiền huynh gặp lại La tướng quân cùng Tần phu nhân. Nay hiền huynh hãy kể tỉ mỉ, hai năm qua, làm những gì, gặp những ai? 

 Thúc Bảo ngừng chén đáp: 

 - Tiểu đệ thật có muôn tiếng nghìn câu để nói cùng Đơn nhị ca, nay thấy mặt, một câu không nhớ nữa. Lòng lúc nào cũng mong được cùng ngồi chung bàn, nằm chung chỗ để giải bày gan ruột. 

 - Không phải Hùng Tín này, hiện không muốn giữ khách, mà có ý đuổi khách đi đâu. Sau khi đã cùng nhau cạn chén rượu mừng, xin hiền huynh lại lên đường cho, Hùng Tín này quả không muốn giữ lâu thêm nữa! 

 Thúc Bảo vội hỏi: 

 - Có chuyện gì thế, Đơn nhị ca? 

 Hùng Tín vội đáp: 

 - Hai năm qua, từ ngày hiền huynh đi U Châu, bá mẫu gửi tới Nhị Hiền trang này mười ba lá thư, mười hai thư đầu, đều là nét chữ của bá mẫu, Hùng Tín này cũng đã gửi quà, gửi thư an ủi bá mẫu. Nhưng cách đây chưa đầy tháng, thơ thứ mười ba tới, thì không phải nét chữ của bá mẫu, mà là viết theo lời bá mẫu dặn, trong thư có nói bá mẫu bị ốm, không thề cầm bút viết. Theo ý Hùng Tín này, hiền đệ nên tức tốc về quê, gặp bá mẫu, để trọn vẹn đạo hiếu. 

 Thúc Bảo nghe thế, tay chân rã rời, nước mắt lã chã: 

 - Đơn nhị ca, sự thể đến thế này, tội của đệ không thể tha. Nhưng con ngựa của đệ cưỡi ở U Châu về lại yếu quá, đường còn dài, lòng thì muốn nhanh, nhưng ngựa lại chậm, làm thế nào bây giờ? 

 Hùng Tín nói: 

 - Ngày hiền huynh đi U Châu, phủ Lộ Châu mang con hoàng phiêu ra bán. Hùng Tín bèn đem ba mươi lạng, mang nạp vào kho phủ, mua con hoàng phiêu về Nhị Hiền trang này. Cứ mỗi lần nhớ tới hiền huynh, lại ra tầu ngắm hoàng phiêu, thấy vật nhớ người. Hôm qua ra tầu ngựa, con hoàng phiêu hình như cũng biết chủ cũ của nó sắp về vừa nhảy vừa hí mãi không thôi, như muốn mách với người điều gì. Quả thật hôm nay hiền huynh có mặt ở đây. 

 Nói rồi gọi đầy tớ dắt con hoàng phiêu ra. Thúc Bảo bái tạ, Hùng Tín đem yên cương của phủ Lộ Châu trả lại, vốn là Hùng Tín đo kích thước con hoàng phiêu mà đặt, lau chùi sạch sẽ, tu sửa cẩn thận, đem hành lý buộc chu đáo. Rồi không quay lại bàn rượu nữa, Thúc Bảo từ biệt ba bạn, lên ngựa ra khỏi trang trại, giục ngựa ra roi, như một luồng gió: 

 Thi đậu ngựa về quê 

 Thuyền buồm căng gió bay 

 Một mạch thẳng vun vút 

 Như tên nỏ buông dây. 

 Vó ngựa ruổi giong, bên tai chỉ nghe ù ù tiếng gió, qua Phùng Châu, trời vừa sáng rõ , vượt được một nghìn ba trăm dặm đường, giữa giờ ngọ ngày hôm sau thì đã đến đất Tế Châu. Tính cả đầu lẫn cuối, Thúc Bảo đã xa Tế Châu cũng đã ba năm, mãi nay mới được nhìn quê lòng quả như có cánh, đề mau về tới nhà mình. Về đến đường phố, Thúc Bảo xuống ngựa, lấy khăn chùm kín đầu sợ người quen nhìn thấy, chân bước vội men theo tường thành, vào nhà theo cửa sau. Ba năm xa vắng, cửa ngõ tiêu điều, Thúc Bảo tay dắt ngựa, tay gõ cửa. Trương Thị ở trong nhà nghe thấy, bèn cao giọng hỏi: 

 - Ai! Chồng ta ba năm nay đi xa nhà chưa về, ai lại phá cửa sau nhà ta thế trời! 

 Thúc Bảo nhận ra tiếng Trương Thị, nước mắt như muốn ứa, liền vội lớn tiếng hỏi: 

 - Mình ơi! Mẫu thân ta bệnh tình ra sao? Ta đã về đây! 

 Trương Thị đã nhận ra tiếng chồng mình, mà vẫn chưa dám tin là thật, tuy vậy vẫn đáp: 

 - Thân mẫu bệnh tình vẫn chưa bớt! 

 Rồi vội vàng ra cổng, Thúc Bảo dắt ngựa vào. Trương Thị đóng cổng lại, Thúc Bảo buộc ngựa. Trương Thị lâu nay giữ trọn đạo nhà, thấy chồng về, cũng chẳng cần biết chồng đã làm đến chức quan gì, trong lòng vừa mừng vừa lo. Vợ chồng lạy chào nhau. Trương Thị lên tiếng: 

 - Thân mẫu uống thuốc xong, vừa mới chợp mắt. Người gầy yếu lắm, mình hãy khoan vào. 

 Thúc Bảo nhón chân nhẹ nhàng vào phòng ngủ của mẫu thân, thấy hai hầu gái, giờ đã lớn hẳn, Thúc Bảo cúi xuống giường, thấy mẫu thân thở rất yếu, chân tay gầy như củi khô. Biết hết sức mình, Thúc Bảo chỉ khẽ nắm tay mẫu thân rồi gõ nhẹ vào chiếc ghế dựa mặt bên giường, và gọi nhẹ nhàng: 

 - Mẫu thân tỉnh dậy nào? 

 Ninh Thị như vừa tỉnh mộng nhưng không đủ sức quay người lại gọi Trương Thị, Trương Thị lên tiếng: 

 - Con đây! 

 Ninh Thị thong thả từng lời: 

 - Con này, chồng con có lẽ không còn trên đời này nữa. Ta vừa nhắm mắt, chợp được một giấc ngắn, thấy nó đứng bên giường gọi ta rất nhỏ nhẹ. Tưởng như người ở suối vàng, từ ngàn dặm trở về để thấy thân mẫu vậy. 

 Trương Thị liền đáp: 

 - Thân mẫu, đây không phải là con hiếu của thân mẫu đã về sao? 

 Thúc Bảo cúi đầu thưa: 

 - Con Thái Bình đã về đây! 

 Ninh Thị đang ốm đau, nhớ con, lòng lúc nào cũng nghĩ hết chuyện này đến chuyện khác, nay thấy con trở về, bệnh tình như trút được hơn nửa. Mọi hôm, mỗi khi cần dậy, Trương Thị cùng hai người hầu gái phải đỡ mãi mới ngồi dậy dược, nay vừa thấy con về, đã tự ngồi dậy, nắm hai tay Thúc Bảo. Người già khóc không có nước mắt, chỉ mở miệng mấp máy như muốn gọi tên con, cứ vuốt ve mãi bàn tay to khỏe của con. Thúc Bảo đứng dậy, lạy tạ mẫu thân. Ninh Thị thấy thế bảo: 

 - Con chẳng phải lạy tạ làm gì. Hãy tạ nàng dâu của ta kia kìa. Ba năm con đi ra đồng đất nước ngoài, nếu không có nàng dâu hiếu thảo, thì ta chết lâu rồi, chẳng còn dược trông thấy mặt con nữa đâu. 

 Thúc Bảo vâng lời mẹ, quay sang lạy Trương Thị. Trương Thị vội quỳ xuống thưa: 

 - Phụng dưỡng mẹ chồng, đó là đạo tự nhiên của phận dâu con, có gì đâu mà mình phải lạy tạ. 

 Vợ chồng bèn bái nhau bốn bái, rồi cùng ngồi trước giường Ninh Thị. Ninh Thị mới thong thả hỏi chuyện. Thúc Bảo đem chuyện điên đảo ở Lộ Châu, cho đến chuyện gặp cô ở U Châu kể một lượt. Ninh Thị hỏi: 

 - Chú con làm tới chức quan gì? Cô con sinh được mấy em, đã lớn chưa? 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Chú con hiện làm U Châu Đạo hành đài. Cô con có một em trai La Thành, hiện đã mười ba tuổi. 

 Ninh Thị vui mừng tiếp: 

 - Mừng cho cô con đã có được người nối dõi. 

 Rồi bắt thay áo sạch, gọi hầu gái đem nước rửa tay, gọi Trương Thị thắp hương, lại đòi dậy để quay về hướng tây bắc mà lạy tạ ơn Đơn Hùng Tín ở Lộ Châu, đã cứu con mình mấy lần thoát chết. 

 Thúc Bảo cùng Trương Thị đều can: 

 - Bệnh chưa bớt, chưa thể làm lễ được! 

 Ninh Thị vẫn nói: 

 - Nay mẹ con được đoàn viên, vợ chồng gặp mặt, đều nhờ ở đại ân nhân, làm sao ta không bái tạ cho được. 

 Thúc Bảo can: 

 - Để con cùng Trương Thị thay lễ tạ là được rồi. Đợi hôm nào mẫu thân khỏe hơn, hãy lễ tạ cũng chưa muộn. 

 Ninh Thị đành nghe theo. 

 Ngày hôm sau, bạn bè tới thăm, Thúc Bảo tiếp đãi, chuyện trò, mừng vui khôn tả, mãi mấy tuần sau, mới có dịp nhìn đến thư tiến dẫn của La Nghệ. Thúc Bảo nai nịt võ phục gọn gàng, tìm tới soái phủ Lai Tổng quản. 

 Lai Tổng Quản vốn người Giang Đô, mới đầu được thế tập chức của ông cha, sau đánh nhà Trần có quân công, nên được phong Hoàng Huyện Công, được dựng phủ như tam ty, giữ chức Sơn Đông đạo hành đài, kiêm Tế Châu tổng quản. Hôm ấy, đúng lúc Tổng quản bắn pháo mở cửa soái phủ, lên công đường làm việc. Thúc Bảo vào trình thư. Lai Tổng quản xem xong thư tiến cử của La Tổng quản, mới gọi Thúc Bảo lên đài bán nguyệt để xem xét. Thúc Bảo liền lớn tiếng đáp: 

 - Có! 

 Tiếng vang như sấm dậy mùa xuân. Lai Tổng quản ngước mắt nhìn, thấy Thúc Bảo thân cao hơn trượng, hai thanh giản mạ vàng lấp lánh dưới tay, dáng hình lẫm lẫm, tướng mạo đường đường, đôi mắt sáng quắc như sao, đôi mày đen tựa sơn, đúng là một kẻ trượng phu ngang tàng. La Tổng quản mừng lắm, nói: 

 - Tần Quỳnh, dưới trướng của La Tổng quản, ngươi là một kỳ bài quan tên tuổi. Nay dưới trướng của ta phải theo công trạng mà đề bạt, không thể có chuyện thân thích, nay tạm để ngươi giữ chức kỳ bài quancũ, ngày sau có công trạng, sẽ thăng thưởng sau. 

 Thúc Bảo cúi lạy thưa: 

 - Được tổng đại nhân thu phục dưới trướng, thật xin hết lòng đền đáp ơn sâu. 

 Lai Tổng quản truyền lệnh trong quân, cấp sắc phục kỳ bài quan cho Thúc Bảo, rồi đánh trống đóng cửa soái phủ. 

 Thúc Bảo về nhà, sắm sửa lễ vật, đến vái chào các bạn đồng liêu trong quân ngũ. Hai mươi lăm người lính dưới quyền cai quản của Thúc Bảo cũng đều đến chào. Thúc Bảo vốn là người biết lo lắng công việc gia đình, đem tiền bạc từ U Châu về ra tu sửa nhà cửa, làm quang cảnh khác hẳn xưa. Vào làm kỳ bài quan ở soái phủ họ Lai đã ba tháng, hôm ấy là một ngày mùa đông giá rét, sau khi túc trực ở công đường xong xuôi. Lai Tổng quản dặn Thúc Bảo đừng ra về vội, mà vào hậu đường. Thúc Bảo vào, quỳ lạy xong xuôi, Lai Tổng quản lên tiếng: 

 - Ngươi về dưới trướng ta, đến nay cũng được ba tháng, ta chưa từng giao việc gì lớn. Sang năm ngày Tết nguyên tiêu, Việt Quốc Công Dương đại nhân làm lễ lục tuần thọ khánh. Ta đã sai người đi Giang Nam, đặt dệt may mấy bộ sắc phục, muốn sai ngươi đem lễ đến Trường An. Nhưng giữa lúc thiên hạ loạn lạc, trộm cướp như ong khắp nơi, sợ dọc đường có chuyện sơ suất. Ngươi là kẻ có sức, dũng cảm hơn người, liệu có đương nổi việc này chăng? 

 Thúc Bảo cúi lạy thưa: 

 - Nuôi quân nghìn ngày, dùng quân một giờ, được đại nhân sai khiến. Tần Quỳnh này không dám từ lao. 

 Lai Tổng quản sai gia tướng, đem lễ vật ra, sắp xếp đóng thành hai gói lớn màu đỏ. Cứ theo đúng giấy tờ, giao cho Thúc Bảo nhận đủ, rồi bỏ vào bao làm dấu niêm phong cẩn thận. 

 Kể từng thứ có: 

 Áo phẩm phục ngũ sắc có thêu hoa tròn bằng chỉ vàng mười bộ, Bạch ngọc linh long để đeo một vòng, Quang bạch ngọc để đeo một vòng, Ngọc minh châu tám viên, Ngọc để bày chơi mười thứ, vàng đúc hình móng ngựa một nghìn lạng, Tranh vẻ mừng thọ một bức. Biểu mừng thọ một tờ. 

 * * *

 Lại nói Việt Quốc Công Dương Tố làm lễ lục tuần thọ khánh, tướng ngoài phiên trấn chỉ làm đến lễ quan tước, làm sao lại có cả thọ biểu. Họ Dương cũng chẳng phải anh em gì của Văn Hoàng đế nhà Tùy, mà vốn mang dòng máu Kha hãn Đột Quyết, lập được quân công với nhà Tùy, nên được ban họ Dương là họ vua Tùy. Ra ngoài thì làm đại tướng, từng đánh dẹp Giang Nam, về triều làm tể tướng, mang chức bộc xạ, được sủng ái đứng đầu bá quan văn võ, quyền nghiêng trong ngoài. Văn Đế vốn Dương nói thì nghe, bày kế thì theo, vì vậy mà Dương đã phế Thái tử Dũng, bỏ tù Thục Vương. Trong triều trăm quan văn võ, các phiên trấn bên ngoài, quá nửa là từ cửa Dương mà ra. Bởi vậy quan viên thiên hạ, lấy lễ vương hầu để nịnh Dương; sai người mừng thọ, đều dùng thọ biểu. 

 Lai Tổng quan đưa Thúc Bảo mã bài lệnh tiễn, thưởng tiền bạc để gia quyến tiêu pha trong thời gian Thúc Bảo vắng nhà, truyền lệnh trong quân, chọn ba ngàn tốt, hai người lính dẫn ngựa, thồ hàng hóa, một ngựa để Thúc Bảo cưỡi. Vì Thúc Bảo người cao lớn nên cấp thêm tiền cỏ ngựa, lại nhắc chọn hai người lính thật khỏe, hai túi thồ hàng thật chắc chắn. Sau đó Thúc Bảo về nhà, làm lễ cầu mát, vào phòng cáo từ mẫu thân. Ninh Thị thấy Thúc BẠmang dáng vội vã của kẻ sắp đi xa, đã hiểu ý nên rơi nước mắt, dặn dò: 

 - Con đừng quên, ta cũng sắp đến tuổi, chỉ thích sum họp, rất ngại xa cách. Con vừa biền biệt ba năm, ở nhà chưa lâu lại phải ra đi, trước mất là cả một cuộc hành trình dài, đừng như lần trước, khiến lão thân đằng đẵng tựa cửa trông chờ. 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Con nay đã khác xưa nhiều. Vâng mệnh tổng quản lên đường, vổ ngựa ruổi rong. Sang năm ngày rằm tháng giêng là lễ sinh nhật thì đầu tháng hai đã có mặt ở nhà rồi. 

 Lại dặn dò Trương Thị phải chăm sóc mẹ già chu đáo. 

 Trương Thị đáp: 

 - Mình không phải nhắc nhở chuyện này. 

 Thúc Bảo sai lính đem hàng ra, khoác lên lưng ngựa, còn mình thì cưỡi con hoàng phiêu ra đi. 

 Ra khỏi Sơn Đông, đến Hà Nam, vào giữa vùng ba huyện Đồng, Quan, Vị, rồi đến núi Thiếu Hoa của huyện Hoa Am thuộc Hoa Châu, thế núi hiểm trở, rậm rạp, Thúc Bảo bảo hai người lính: 

 - Hãy đứng chờ, để ta lên trước xem sao. 

 Hai người lính hỏi: 

 - Tần đại huynh lúc nào cũng giục chúng tôi đi nhanh, sao giờ lại bảo đứng chờ phía sau? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Hai người không biết, quãng này trông âm u, hiểm trở, sợ có kẻ xấu chọn làm sào huyệt, nên phải để ta lên trước xem sao. 

 Hai người nghe ra, vội tránh sang, nhường Thúc Bảo cầm dây cương ngựa màu tía của con hoàng phiêu đi lên trước, hai người lính dựa theo sau, cả ba người ngựa đi sát nhau từng bước thận trọng đi vào đường men chân núi um tùm gai góc. 

 Bỗng trước mặt, một chàng trai trẻ, toàn thân nai nịt gọn gàng, mặt mày sáng sủa, ngồi trên lưng ngựa, cầm ngang ngọn giáo, đứng ngay giữa đường, lớn tiếng quát: 

 - Hãy nạp tiền mãi lộ đi? 

 Thúc Bảo vốn gan dạ, đã từng đụng độ với nhiều loại lâu la thế này, nên cả cười hỏi: 

 - Xa nhà chưa đầy ba bước đã là xa, cảnh vật tình người đã là khác. Ở Sơn Đông, Hà Nam, bọn lục lâm cường đạo chỉ cần nghe đến tên ta, đã bỏ chạy như chuột rồi, nay vào tới ải này, chúng mày lại đòi tiền ta sao. Ta chưa xưng danh vội, nếu không chúng mày sợ mà chạy mất thôi! 

 Thúc Bảo cầm hai thanh giản, nhảy lên ngựa, cứ nhắm giữa đầu đối phương mà bổ xuống, thiếu niên cũng giơ kim bối đao lên đỡ. Giản đánh trúng sống đao, tóe lửa, chói tai, cả hai cùng lăn vào nhau, đao qua giản tới, bên đánh bên đỡ, đến hơn cả ba mươi hiệp mà vẫn bất phân thắng bại. 

 Trong núi Thiếu Hoa, nguyên vẫn còn hai hào kiệt khác, trong đó có một người vốn quen biết Thúc Bảo, chính là Vương Bá Đương. Bá Đương sau khi từ biệt Lý Huyền Thúy, đi qua vùng này, gặp các hào kiệt, không áp đảo được Bá Đương, bèn mời cùng nhập bọn. Người xuống đường chặn Thúc Bảo là Tề Quốc Viễn, người đang cùng uống rượu trên trại là Lý Như Khuê. 

 Đang uống rượu say sưa, bỗng thấy lâu la vào cấp báo: 

 - Trình Nhị vị đầu lĩnh. Tề đầu lĩnh xuống núi gặp một võ tướng đi công cán, cùng nhau quần thảo, có đến ba bốn chục hiệp rồi, mà không phân được thua. Chúng con ở bên ngoài nhìn ra, thì thấy đường đao của Tề đầu lĩnh đã có vẻ rối loạn, khó mà địch nổi viên tướng này, xin nhị vị đầu lĩnh mau mau ứng cứu! 

 Bọn này vốn còn mang đầy lòng nghĩa hiệp, nghe tin báo Quốc Viễn khó lòng thủ thắng, liền gọi lâu la dắt ngựa, đeo khí giới, tức tốc xuống núi. Từ xa nhìn giữa bãi bằng, cuộc đấu vẫn đang tiếp diễn, Vương Bá Đương trên mình ngựa nhìn kỹ, thì thấy người kia có vẻ giống Tấn Thúc Bảo, chỉ sợ bạn bè với nhau, xảy ra chuyện đáng tiếc, nên từ xa, Bá Đương gào lớn: 

 - Quốc Viễn hãy dừng tay! 

 Nhưng đứng từ xa, ngoằn ngoèo cũng gần mười dặm, làm sao mà nghe ra, lại thêm sườn núi nhấp nhô, tiếng nghe vang dội, núi gầm sông ứng, Quốc Viễn lại đang quyết đấu, chẳng biết có ai gọi cũng chẳng biết gọi ai. Bá Đương cùng Lý Như Khuê vội lao xuống, đến đất bằng, Bá Đương la lớn: 

 - Đúng là Thúc Bảo hiền huynh rồi! 

 Cả hai vứt binh khí, xuống ngựa, lạy chào tạ lỗi, rồi mời Thúc Bảo về sơn trại. Sợ hai tên lính hoảng hốt, Thúc Bảo vội giảng giải: 

 - Các ngươi không có gì phải hoảng hốt, không phải ai xa lạ, cũng là chỗ bạn bè quen biết, tụ họp nhau ở đây cả thôi. 

 Hai người lính mới đỡ lo sợ. 

 Lý Như Khuê sai lâu la đem hành lý của Thúc Bảo lên sơn trại. Các đầu lĩnh cùng Thúc Bảo lên ngựa về núi Thiếu Hoa, qua cửa trại, vào sảnh tự lễ, Bá Đương chắp tay tạ lỗi lần nữa, rồi bày tiệc rượu khoản đãi. Thúc Bảo cùng Bá Đương kể lể mọi chuyện từ lúc xa nhau ở Lộ Châu, cho đến những chuyện ở rừng Tạo Giác, đi U Châu, trở về quê nhà ra sao rồi tiếp: 

 - Nay Lai Tổng quản sai đi áp tải lễ vật, để kịp mừng thọ Việt Quốc Công Dương Tố ở Trường An vào rằm tháng giêng sắp tới, may gặp Tề Đại huynh nên lại có duyên gặp chư huynh, thật là sự may mắn ba sinh. 

 Nhân hỏi đến tung tích Lý Huyền Thúy, Bá Đương đáp: 

 - Huyền Thúy nhân có công tử con Việt Quốc Công mời, nên hiện nay cũng đang ở Trường An. 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Bá Đương có duyên nợ gì mà lại ở đây? 

 Bá Đương đáp: 

 - Tiểu đệ nhân đi qua núi này, ơn Tề, Lý nhị vị giữ lại. Cũng đã gửi thư cho Đơn viên ngoại, hẹn sẽ tới chuyện trò ở Nhị Hiền trang. Nay gặp đại huynh đi công cán ở Trường An, khiến tiểu đệ cũng nổi hứng giang hồ, chẳng muốn đi Nhị Hiền trang nữa, mà cùng đại huynh đi Trường An, xem hội đèn nguyên tiêu, tìm Lý Huyền Thúy nhân thể. 

 Thúc Bảo vốn là người giàu tình cảm bạn bè, bèn đáp: 

 - Hiền huynh đã cao hứng như thế, thì thật là vui vẻ cho cả hai. 

 Quốc Viễn, Như Khuê cùng nói: 

 - Vương đại huynh đã đi, chúng tiểu đệ xin theo cùng! 

 Thúc Bảo ngoài mặt không dám ngăn cản, nhưng trong lòng thầm nghĩ: "Vương Bá Đương chẳng qua chỉ là khách trong đám lục lâm thôi, vẫn còn giữ được cốt cách văn nhân nho nhã, dẫu có đến Trường An cũng chẳng ai nhận ra. Nhưng Tề Quốc Viễn với Lý Như Khuê, vốn mang tính nóng nảy, lỗ mãng của đám thảo dã, nếu cùng đi Trường An, nhất định sẽ lộ ngay cái vẻ khác thường này, rồi lại liên lụy đến ta mất thôi!". Nhưng không thể nói thẳng ý nghĩ đó, nên Thúc Bảo đành tìm cách nói xa xôi: 

 - Nhị hiền đệ không nên đi. Vương hiền huynh vốn là người không thiết tha gì với công danh phú quý, chẳng nghĩ gì đến tương lai, theo thói giang hồ lãng tử. Tiểu đệ xem ra núi Thiếu Hoa này hiểm trở, lại có thành trì, nhà cửa hẳn hoi, quy mô rất là hùng vĩ, kho lương đầy đủ, lại thêm nhị vị bản lãnh cao cường, bọn lâu la đều khỏe mạnh dũng cảm. Nhà Tùy lại sắp loạn lạc đến nơi, một dãy Thiếu Hoa này, mai kia trong cuộc chia năm xẻ bảy, sẽ là nơi không dễ có được, có thể làm kế lâu dài. Nếu cùng với tiểu đệ đến Trường An để xem hội đèn Nguyên Tiêu, chẳng qua chỉ là chuyện vui chơi trẻ con, ít ra cũng phải mất một tháng mới về được, người vật tan tác, nhị vị về làm sao mà thu hồi được gốc cũ, lúc ấy thì xin đừng oán Tần Quỳnh này. 

 Tề Quốc Viễn thì tin là Thúc Bảo nói thành thực, còn Lý Như Khuê nghi ngờ, cười mà rằng: 

 - Tần đại huynh lại đùa anh em chúng tôi rồi. Thật cũng khó nói. Anh em đều là những kẻ võ biền, suốt đời làm nghề lạc thảo, ai cũng thô lỗ, không quen ăn nói hào hoa phong nhã, cử chỉ đều ngang ngược. Nhưng gần đây gian thần tác quái, anh em chúng tôi còn biết làm gì hơn, là tập hợp nhau ở những nơi rừng núi thế này, đợi thời cơ mà hành động. Đại huynh cũng ngại nói thẳng ra rằng anh em chúng tôi chuyên cướp của giết người, dã tính đã quen, theo đại huynh về Trường An, sợ phạm phải những điều cấm kỵ của đại huynh, xảy chuyện lôi thôi, thì đại huynh cũng vạ lây. Mà không thấy rằng, anh em chúng tôi có đi cũng là chính đáng. Nói rằng chúng tôi không còn chỗ về, thì chẳng nhẽ anh em tôi làm nghề lục lâm suốt đời sao? 

 Những lời này nói đúng những tính toán của Thúc Bảo, Thúc Bảo đành phải hiện bạch: 

 - Nhị vị hiền đệ, nếu đã nghi ngờ thế, chúng ta cùng đi là hơn cả. 

 Quốc Viễn phụ họa: 

 - Đúng rồi! Cùng đi cả thì chẳng còn điều gì phải suy nghĩ nữa! 

 Các đầu lĩnh bèn sai lâu la thu nhập chiến mã, chọn lấy gần hai mươi người trai tráng, khỏe mạnh, đeo hành lý trên vai, đem theo tiền bạc. Số lâu la khác ở lại trông coi sơn trại, không được phép tự tiện xuống núi. Thúc Bảo cũng chú trọng giữ gìn hai bao hàng của mình, không dám tiết lộ với ai, sợ sẽ mang họa lớn. 

 Canh ba hôm ấy, bốn người cưỡi ngựa, cùng với thủ hạ rời Thiếu Hoa Sơn, đi về Thiểm Tây. Đến cách Trường An khoảng sáu mươi dặm, thì trời vừa chiều, Bá Đương cùng Như Khuê, từ trên mình ngựa nhìn về phía trước, thấy một ngôi chùa cổ mới được trùng tu, điện các lợp đầy ngói vàng lấp lánh, dưới ánh vàng chiếu rực rỡ. Bá Đương nói: 

 - Lý hiền đệ, chuyện đời đúng là khôn lường, lúc thành lúc bại. Vừa năm nay, tiểu đệ đi Trường An, thì ngói chùa cổ này còn hoang tàn, đổ nát, trông thấy đã rầu cả lòng, nay lại thật chỉnh tề, rực rỡ bao nhiêu! 

 Như Khuê bàn: 

 - Chúng ta hãy vào chùa, vừa là nghỉ chân đêm nay, vừa là ngoạn cảnh, xem người, để biết ai đã đứng ra trùng tu ngôi chùa đổ nát ấy của đại huynh. 

 Thúc Bảo từ lúc ra khỏi Thiếu Hoa Sơn, không dám rời Quốc Viễn cùng Như Khuê lúc nào. Trên đường cái quan, khách buôn bán, kẻ việc công, người việc tư đi lại rất nhiều, chỉ sợ hai người bắn một mũi tên, giật của khách một gói hành lý, thì thật là tai họa không chừng. Cũng tính trước rằng, hai người này lên Trường An, chỉ cần ở hai ba ngày là nhiều, nhược bằng ở lại lâu hơn, nhất định sẽ có chuyện lôi thôi không nhỏ. Hôm nay chỉ mới mười lăm tháng mười hai, đến Tết Nguyên Tiêu còn đúng một tháng nữa, chi bằng vào ngôi chùa bên đường này, thuê trưởng lão một căn phòng, ở tạm cho đến tận hết năm cũ, đợi đến ngày vào hội hoa đăng hãy vào thành, khoảng năm ba ngày còn dễ quản thúc họ. Vì vậy, Thúc Bảo giục ngựa lên trước, nói với Quốc Viễn, Như Khuê: 

 - Nhị vị hiền đệ, năm nay Trường An nơi trọ có lẽ khó kiếm lắm. 

 Quốc Viễn đáp: 

 - Đại huynh không ra vẻ kẻ đại trượng phu. Khó thì cứ cho nhiều tiền vào là xong thôi. Tính toán làm gì! 

 Thúc Bảo: 

 - Hiền đệ có chỗ chưa biết. Việc ăn ở Trường An đều có số mệnh cả đấy. Mỗi năm, mỗi người, giá tiền trọ mỗi khác. Khách buôn bán quen thuộc, cứ như lệ cũ mà trả, mà ăn ở. Năm nay, bạn bè đông như đám chúng ta đây, riêng tiểu đệ đã có ba người cả thảy, thế thì dù bạn bè quen thuộc của Tần Quỳnh này, hay là khách tới mừng lễ sinh nhật, trong lúc mọi người khắp nơi ùn ùn kéo về Trường An xem hội đèn, thì dẫu có được biệt đãi riêng một phòng nữa, thì cũng tha hồ mà chật chội, mà bị trói buộc nữa. Chứ đâu chỉ có tiền là được thôi đâu. 

 Nghe Thúc Bảo giảng giải, hai người lâu nay vốn quen phóng khoáng, tự do, cũng sợ thấy bị tù túng, bèn hỏi: 

 - Tần đại huynh, nếu thế thì làm thế nào cho phải bây giờ. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Cứ như ý tiểu đệ, ta tới ngôi chùa vừa mới trùng tu bên đường kia, mượn một gian ở tạm. Anh em ta có thể ruổi ngựa bắn cung giữa chốn thảo nguyên hoang vắng này, chẳng hề bị ai trói buộc, ung dung tự tại chờ năm hết, đến tuần hội đèn rồi tiểu đệ thì vào thành dâng lễ vật liệt vị thì vào xem hội. 

 Bá Đương cũng hiểu ra nên cực lực tán đồng. Vừa đi vừa bàn bạc, chưa gì đã tới cửa chùa, mọi người đều xuống ngựa, sai bọn thủ hạ trông nom ngựa, hành lý, cả bốn người chỉnh đốn y phục, cùng bước vào cửa, nhìn lên Đại hùng bảo điện, đường vẫn còn xa, bốn phía chung quanh vẫn chưa xây tường xong, mặt trước Phật đài vẫn ngổn ngang vật liệu. Trên một cái giá buộc rất cao trước Phật đài, thợ vẫn đang làm nốt mái trước. Nhìn ra ở bên ngoài giá thấy một cảnh tượng rất trang trọng: chính giữa cắm một cái lọng vàng, dưới lọng là một chàng trai trẻ ngồi, mặc áo tía, năm sáu người vây chung quanh, đều mặc áo xanh, đội mũ rộng đứng hầu, rất uy nghi. Hai bên thềm cao hai viên hổ đầu tướng võ phục nai nịt gọn gàng, màu sắc sặc sỡ, sau là gươm giáo, hình cụ bày đầy, trông càng oai nghiêm. Vị quan ngồi đó, chẳng biết là ai, 

 Thúc Bảo cùng mọi người không biết nên vào nữa hay ra, xin xem hồi sau sẽ rõ. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Mười Sáu

Chùa Báo Đức đền ơn đắp tượng,

 Ngõ Tây Minh cải dạng theo chồng.

 Thơ rằng: 

 Hiệp sĩ chẳng khoe công 

 Người nhân thường mến đức 

 Phạm Lãi đúc tượng vàng(1) 

 Phục Ky tang bích ngọc (2) 

 Ơn sâu như khắc tận tim gan 

 Bỏ thói lật lọng đời chan chan 

 Chàng chẳng thấy: 

 Nóc chùa Báo Đức chọc trời dậy 

 Trả nghĩa đền ơn như thế đấy. 

 1 phạm Lãi giúp vua Việt là Câu Tiễn báo thù nước Ngô xong, bỏ trốn vào Ngũ Hồ. Câu Tiễn nhớ ơn, tạc tượng Phạm Lãi bằng vàng để bên cạnh mình, nhắc phải luôn nhớ ơn Phạm Lãi (Đông Chu liệt quốc). 

 2 Công tử Trùng Nhĩ, khi chưa được ngôi vua, phải bỏ nước chạy trốn, đến nước Tào, vua quan Tào đều coi thường, duy vợ chồng Hy Phụ Ky săn sóc rất chu đáo, Trùng Nhĩ đem đôi ngọc bạch bích tặng. (nt) 

 Tín Lăng Quân Ngụy Vô Kỵ, nhân em chồng là Bình Nguyên Quân bị nước Tần vây rất gấp, mới cậy Như Cơ lấy trộm binh phù, để Tín Lăng Quân đem được mười vạn quân, đại phá tướng Tần là Mông Ngao, bảo toàn được nước Triệu. 

 Về sau có một môn khách, nói với Tín Lăng Quân rằng: 

 - Đức có cái phải nhớ, có cái nên quên, người chịu ơn mình thì nên quên, mình chịu ơn người thì không thể quên vậy. Gọn lại mà nói, làm ơn thì đừng nghĩ đến chuyện sẽ được đền ơn, chịu ơn người thì đừng bao giờ quên. 

 *** 

 Lại nói Vương Bá Đương, người đã vứt bỏ công danh vớí triều Tùy, cũng khó mà nhận ra vị trai trẻ ngồi dưới lọng vàng, vì mắt còn để ở núi rộng sông dài: Tề Quốc Viễn, Lý Như Khuê thì giữa thanh thiên bạch nhật, đốt nhà giết người, chẳng có lý nào để sợ cái ông quan ngồi dưới lọng vàng ấy cả. Chỉ riêng Tần Thúc Bảo, thân đã quen phải chào lạy nơi cửa công, từng biết cao thấp, đến gần bán nguyệt đài, ngăn ba bạn lại. 

 - Chư hiền đệ có lẽ không nên lên thềm làm gì. Người ngồi dưới lọng vàng kia, có lẽ là thí chủ đứng ra trùng hưng chùa này chăng? 

 Bá Đương hỏi: 

 - Thí chủ thì thí chủ, việc gì mà không lên? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Chẳng có chuyện gì đáng nói, dính với mấy vị quan viên đương nhậm chức ấy làm gì? 

 Như Khuê hỏi: 

 - Sao huynh biết đó là quan viên đương nhiệm! 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Cứ nhìn hai viên hổ đầu tướng đứng hầu hai bên thềm cũng đủ rõ. Nay bốn anh em chúng ta có nên lên chào vị quan viên này chăng? Có lẽ không nên lên thì hơn? 

 Bá Đương hưởng ứng: 

 - Đại huynh nói có lý lắm. 

 Bốn người nhất tề quay sang con đường nhỏ, đến bên góc của Đại Hùng Bảo điện, thấy rất nhiều thợ, đang tấp nập làm việc. Thúc Bảo liền lên tiếng gọi, mấy người ở gần hỏi: 

 - Các vị có điều gì cần chỉ bảo? 

 Thúc Bảo lên tiếng: 

 - Xin được hỏi một câu. Ngôi chùa này được vị thí chủ nào đứng ra trùng tu mà rộn ràng đến thế! 

 Một người thợ đáp: 

 - Đấy chính là Lý đại nhân, tước Đường Quốc Công ở Tỉnh Châu thuộc Thái Nguyên đứng ra trùng tu. 

 Thúc Bảo lại hỏi: 

 - Đại nhân trị nhậm ở Thái Nguyên. Sao lại hưng công kiến đức ở đây? 

 Người thợ đáp: 

 - Vị ngày mười lăm tháng tám, năm Nhân Thọ nguyên niên, Lý đại nhân vâng chỉ hồi hương, tạm trú ở chùa này. Đậu phu nhân sinh hai thế tử ở đây. Lý đại nhân vì sợ ô uế, nơi thanh tịnh nên phát nguyện bố thí, hưng chùa này. Người ngồi dưới lọng vàng kia, chính là Quận mã của Lý đại nhân tên gọi Tự Xương, họ Sài. 

 Nghe nói thế, Thúc Bảo đã nhận ra chính là Lý đại nhân mà mình đã cứu ở núi Lâm Đồng. 

 Bốn anh em đi về phía phương trượng ở góc phía đông, thấy một tòa lầu vừa mới xây, treo một bức đại tự màu đỏ, vàng đề ba chữ vàng lớn: "Báo Đức tự", Bá Đương nói: 

 - Ta hãy xem báo đức đền ơn gì đây? 

 Bốn người cùng vào, thấy có ba gian rộng rãi, gian giữa đặt một bệ thờ lớn, cao đến hơn một trượng, một pho tượng thế đứng đặt chính giữa, mình khoác một chiếc khăn choàng màu xanh lá sen, đội nón Phạm Dương, chít khăn màu trắng, có đính hoa vàng, thắt lưng da mềm, đeo hai con dao có cán ngà, chân mang giày da hươu màu vàng, phía trước có một hàng chữ đỏ, viết sáu chữ vàng, chân phương: “Ân công Quỳnh Ngũ sinh vị", bên cạnh là một hàng chữ nhỏ hơn: “Tín quan trai giới phụng tự". 

 Vốn là khi Thúc Bảo ở Lâm Đồng Sơn, đánh bại bọn giả cướp rồi, Lý Uyên hỏi họ tên Thúc Bảo, Thúc Bảo không muốn nói ruổi ngựa bỏ đi. Lý Uyên vẫn không chịu, quất ngựa chạy theo đến hơn mười dặm đường, Thúc Bảo đành phải trả lời tên là Tần Quỳnh, Lý Uyên thấy Thúc Bảo xòe năm ngón tay, lại chỉ nghe được tên, không nghe họ, nên ghi thành Quỳnh Ngũ. 

 Thúc Bảo lặng lẽ gật đầu: "Cả một năm vừa qua mà mình điên đảo như thế ở Lộ Châu, thì chính là lúc ở đây Lý đại nhân đắp tượng tô mặt mày mình. Ta vốn là một người áo vải, làm sao có phúc để được đắp tượng, thắp hương tụng niệm thế này . Lòng riêng than thở hồi lâu. Ba người bạn đâu thấy rõ pho tượng trên bệ, nên hỏi Bá Đương: 

 - Bá Đương đại huynh, đây có phải là tượng Thiên Tôn không? 

 Bá Đương cười đáp: 

 - Vừa rồi ở cửa thứ hai, tay cầm bổng hàng ma, mới là tượng Thiên Tôn. Còn đây là tượng người còn sống. Đường Công Lý đại nhân từng chịu ơn người này, cho nên mới xây "Báo Đức Tự” này. 

 Mọi người nghe nói là tượng người còn sống, đều không giấu vẻ ngạc nhiên, nhìn kỹ lại pho tượng một lần nữa. Khuôn mặt thấy hao hao giống Thúc Bảo. Ở trên bệ thờ, tả hữu phía sau có thêm bốn pho tượng nữa, bên trái hai người, dắt một con ngựa hoàng phiêu, bên phải cũng hai người, nâng hai thanh giản mạ vàng. Bá Đương lại gần, nói nhỏ vào tai Thúc Bảo: 

 - Năm ngoái đại huynh đi xa, hình như có đánh dẹp gì ở đây thì phải. 

 Thúc Bảo khẽ khoát tay, nói: 

 - Hiền huynh nói khẽ chứ. Tượng này chính là tượng tiểu đệ đấy! 

 Bá Đương hỏi: 

 - Sao là tượng đại huynh được? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Năm Nhân Thọ nguyên niên, gặp hiền huynh ở Lộ Châu, chính là lúc tiểu đệ cùng Phàn Kiến Uy đã lĩnh giấy tờ ở Trường An trỡ về đúng ngày mười lăm tháng tám, Lý đại nhân về quê, đến Lâm Đồng Sơn bị bọn cướp bao vây, Kiến Uy cổ vũ tiểu đệ vào cứu Lý đại nhân, đánh bại bọn cướp, xong xuôi, tiểu đệ phóng ngựa bỏ đi. Lý đại nhân đuổi ngựa theo hỏi họ tên tiểu đệ, tiểu đệ đành nói tên là Tần Quỳnh, rồi khoát tay ra hiệu không phải đuổi theo nữa, không ngờ Lý đại nhân nhận nhầm là Quỳnh Ngũ. Chuyện này cũng thật khó nói ra. 

 Bá Đương cười nói: 

 - Cũng hởi Lý đại nhân không nhận ra Quỳnh tướng quân, khiến cho tướng quân ở Lộ Châu phải một phen lao đao suýt chết. 

 Cả hai cùng cười lớn, không ngờ Sài Tự Xương ngồi dưới đài bán nguyệt, từ đầu đã thấy bốn người hăm hăm hở hở từ bên ngoài đi vào chưa rõ là loại người nào, nên sai gia tướng, theo dõi xem sao, bọn này đã bám sát nghe ngóng, từng cử chỉ, lời nói. Vì thế mà nghe thấy hết mọi điều, vội về bán nguyệt đài, thưa với Tự Xương: 

 - Trong số bốn người kia, có người là ân nhân của lão đại nhân. 

 Tự Xương nghe thấy thế, vội ra xem lại án mũ, rồi xuống đài, vào Báo Đức Tự, nghiêng mình thưa : 

 - Xin được rõ, vị nào là người đã cứu sống nhạc phụ hạ quan? 

 Bốn người vội vái chào. Bá Đương chỉ Thúc Bảo thưa: 

 - Đại huynh đây chính là người từng gặp gỡ Lý đại nhân ở Lâm Đồng Sơn cũ họ Tần, tên Quỳnh, Lý đại nhân hồi đó nghe nhầm ra là Quỳnh Ngũ. Quận mã nếu chưa tin thì cứ ra ngoài chùa xem đôi giản mạ vàng cùng con hoàng phiêu ở ngoài đấy cả . 

 Tự Xương đáp: 

 - Bốn vị đều là bậc hào kiệt, sao lại có chuyện thật giả cho được. Xin mời về phương trượng . 

 Nói rồi sai gia đinh trải thảm, cùng nhau bái chào, xưng họ tên. Lại sai gia đinh ra cổng chùa dắt ngựa, hành lý vào, xếp đặt trong từng phòng, rồi lệnh bày tiệc rượu để đón mừng. Ngay đêm hôm đó, Tự Xương viết thư, sai gia đinh đem về Thái Nguyên để trình Đường Công Lý đại nhân và giữ bốn anh em Thúc Bảo lại trong chùa, ăn uống trò chuyện. 

 Chẳng bao lâu đã tới năm mới, rồi hội đèn nguyên tiêu cũng gần đến. Thúc Bảo bàn với Bá Đương: 

 - Chiều mai, ngày mười bốn rồi tiểu đệ phải vào Trường An để trình lễ sinh nhật, sáng mười lăm phải có mặt sớm ở phủ đệ Việt Quốc Công. 

 Bá Đương khuyên: 

 - Nếu vậy thì sáng sớm mai nên lên đường cho sớm sủa. 

 Thúc Bảo liền sai hai tên lính dắt ngựa chuẩn bị hành lý, yên cương để vào Trường An cho sớm. Tự Xương cũng biết Thúc Bảo đang còn công vụ, không thể ngăn cản, nhưng vì vẫn chưa thấy thư trả lời của Lý đại nhân ở Thái Nguyên, nên trong lòng băn khoăn lo lắng: “Thúc Bảo vào Trường An lần này, sẽ theo đường khác trở về, nhất định sẽ không quay lại đây nữa, nếu nhạc phụ có thư mời, người đã đi rồi, hóa ra thư trước ta nói không đúng sao. Nay ta cùng Thúc Bảo hoàn tất công vụ, lại mời Thúc Bảo vào chừa, đợi thư của nhạc phụ xem sao". Tự Xương bèn nói với Thúc Bảo: 

 - Hạ quan cùng về Trường An xem hội hoa đăng với ân nhân có tiện chăng? 

 Thúc Bảo vẫn thấp thỏm lo cho đoàn vào Trường An của mình, nay thấy có thêm Tự Xương giúp cho một tay, nên vui vẻ nhận lời ngay. Tự Xương bèn sai gia đinh chuẩn bị yên cương hành lý chu đáo, sắp đặt công việc ở chùa, đem theo hai gia tướng và bạc tiền chi tiêu. 

 Sau khi ăn uống xong, năm người năm ngựa, thêm hai ngựa đèo hàng của Thúc Bảo cùng bọn tay chân cộng tất cả là hai mươi hai người, rời Vĩnh Phúc tự vào Trường An. Từ ngày Thúc Bảo tới chùa đến nay, chưa đầy nửa tháng, cảnh sắc trên đường đã thay đổi hẳn: 

 Liễu vờn yên ngựa ngậm tơ vàng 

 Co mượt xanh xanh khắp suối ngàn 

 Xuân ắt sớm tỏ màu lá nõn 

 Gió đưa mặt nước sóng lăn tăn. 

 Tuy chỉ sáu mươi dặm đường, nhưng vì khởi hành muộn, nên mãi lúc mặt trời sắp lặn mới vào đến Trường An. Thúc Bảo đã tính rằng không nên trọ ở trong thành, việc ra vào sẽ phiền toái, cách cửa Minh - Đức khoảng tám dặm, thấy một tòa nhà lớn, phòng ốc cao sang, biển đề ba chữ lớn “Đào gia điếm". Thúc Bảo bàn: 

 - Người nhiều trời tối, sợ vào thành đông đúc, không thể tìm ra quán trọ nào lớn chứa đủ đám anh em chúng ta, chi bằng ở đây nghỉ là tốt hơn cả. 

 Cả đoàn xúm lại, ai nấy xuống ngựa, vào nhà, xung quanh thấy la liệt treo những đèn lồng xanh đỏ đủ màu. Chủ quán thấy đoàn đông người ngựa lính tráng, hành lý ngổn ngang, biết ngay là lớp người có thế lực, mặt mày vui vẻ, ân cần mời mọc: 

 - Thưa quý khách, quý khách không chê quán này rượu nhạt, thức nhắm rau dưa, đêm tối vào đây, xem mấy cây đèn xấu xí này, xin để gọi dọn cơm rượu tẩy trần hầu quý khách. Ngày mai mới là ngày trong thành chính thức mở hội hoa đăng, lúc ấy từ đây vào chẳng xa chẳng gần, thật là tiện lợi. 

 Thúc Bảo vốn là người cẩn thận, trong lòng thầm tính toán: “Hôm nay mới là mười bốn mà phố phường đã đông đúc. Sợ các bạn vào thành, xảy ra chuyện gì, chẳng biết đâu mà lường được, mình lại công vụ chưa xong. Nên tốt hơn cả, hãy cứ bảo chủ quán, rượu thịt bày ra, giữ chân bạn bè lại. Sáng canh năm ngày mai, công vụ đã xong xuôi, chân tay đã tự do tự tại, sẽ cùng các bạn đi xem hội đèn, cũng đỡ lo hơn". Nghĩ vậy, nên khi nghe chủ quán mời, Thúc Bảo lên tiếng: 

 - Để đáp lại thịnh tình của chủ quán, anh em chúng tôi xin sẵn sàng ngồi vào bàn. 

 Cứ thế mọi người uống thả cửa, mãi đến canh ba mới tan, ai nấy về phòng ngủ say như chết. 

 Chỉ riêng Thúc Bảo không ngủ, trở dậy ra trước cửa, chủ quán đang đôn đốc đầy tớ thu dọn bàn ghế, bát đĩa, phòng ăn, thấy vậy bèn hỏi: 

 - Quý khách tòng sự tại nha môn nào? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Thuộc soái phủ Sơn Đông đạo hành đài, vâng mệnh đến Trường An đem lễ mừng sinh nhật Dương đại nhân. Ta cũng đang có việc hỏi chủ quán. 

 Chủ quán đáp: 

 - Xin ngài cứ dạy! 

 Thúc Bảo nói: 

 - Ta đã tới Trường An công cán mấy lần, phố xá, phủ đệ đều có thể nhận ra, vào lúc ban ngày. Nay ta không thể chờ đến trời sáng, phải tới cửa Minh Đức, trong quán có vị nào biết đường, xin nhờ dẫn hộ. 

 Chủ quán chỉ một người đầu bếp già: 

 - Lão bộc này, tên là Đào Dung, đừng nói chi chuyện đường phố, mà ngay cả chuyện lễ nghi, xưng hô đều rất thông thạo. Còn đây là Tần quý khách ở Sơn Đông, cần tới cửa Minh Đức, đem lễ mừng sinh nhật ở Việt Phủ, nhà ngươi hãy dẫn đường cho Tần quý khách. 

 Đào Dung thưa: 

 - Tần quý khách nếu vẫn chưa đủ tay chân để sai phái, tiểu nhân còn có chú em là Đào Hóa, cũng có thể giúp Tần quý khách được thêm một tay. 

 Thúc Bảo khen: 

 - Mấy vị gia nhân này, đúng là được việc lắm. 

 Liền về phòng ngủ, gọi hai người lính dắt ngựa, lấy ngay hai quan tiền, thưởng cho Đào Dung, Đào Hóa, rồi sai mở túi hàng ra, đối chiếu với giấy tờ một lần nữa, chia làm bốn gói, giao cho hai người lính, hai gói giao cho Đào Dung, Đào Hóa mang đi, còn Thúc Bảo đi theo sau, thừa dịp bạn bè còn ngủ cả, không nói cho ai biết, ra khỏi Đào gia điếm, tiến vào cửa Minh Đức. Chuyện không nói nữa. 

 *** 

 Lại nói Việt Quốc Công Dương Tố, vẫn là quan đầu triều hiện nay, được vua Văn Đế nhà Tùy sủng ái nhất mực. Vào lúc nhà Trần mất, Văn Đế đem đến trăm cung tần nhà Trần ban thưởng cho Việt Quốc Công vui cảnh già. Việt Quốc Công tuy là đại thần tước cao vọng trọng, nhưng cũng là một tay gian hùng có một. Một hôm, nhân vườn tây hoa đơn hoa quế đua nở, bày yến tiệc, mời bạn bè liêu thuộc yến ẩm, ai nấy tìm đủ lời lẽ hoa mỹ nịnh hót, chỉ riêng Lý Huyền Thúy nói: 

 - Tướng công tước cao, danh tiếng khắp thiên hạ, giờ có thiếu chỉ là thiếu một cái tai nghe của người già nữa mà thôi. 

 Dương Tố hiểu ý, biết ngay là Huyền Thúy định nói mình có quá nhiều hầu thiếp, chỉ sợ không được lâu dài, liền trả lời: 

 - Lão già hay bà già thì cũng hết tuổi rồi. Ta sẽ có cách giải quyết ổn thỏa chuyện này. 

 Sáng hôm sau, Dương Tố ra ngồi trước thềm cao của hậu đường, mở hết cửa ngõ, bình phong trong ngoài, sai người truyền lời đến các hầu thiếp: 

 - Tướng công nghĩ đến các người phục dịch cũng đã lâu ngày, chăm chỉ vất vả, chỉ sợ sẽ làm lỡ mất tuổi thanh xuân. Nay tướng công đang ngồi ở thềm cao của hậu đường, xin mời ra hết ở hậu đình, người nào nguyện ý muốn tìm nơi tìm chốn yên bề gia thất, xin đứng về bên trái thềm, người nào không muốn, xin đứng về phía bên phải. 

 Hầu thiếp nghe nói thế, khác nào chim xổ lồng, từng đoàn từng đoàn từng lũ như ong kéo ra yết kiến, Dương Tố đang ngồi trên thềm cao lên tiếng: 

 - Ta vừa sai người mời các ngươi đến đây. Ai nấy đều biết rõ cả rồi. Người nào chọn đường nào, cho thật kiên định, ta sẽ có cách cư xử. 

 Hầu thiếp lâu nay trong phủ phục dịch, duy chỉ Đơn phu nhân là chính thất, còn có chỗ yên ổn, bằng lòng thỏa chí, hàng trăm người khác, thì quá nửa đều lại quỳ ở phía bên trái thềm. Dương Tố quay đầu nhìn lại, vẫn thấy còn hai người: một là Lạc Xương công chúa, em của Trần Hậu Chủ, chuyên việc vác kiếm đứng hầu, người thứ hai chuyên cầm phất trần (1),họ Trương tên Xuất Trần, cả hai đều nhan sắc hơn người, thông minh có một, cũng đều đáng bậc nghĩa hiệp trong đám mày ngài. Dương Tố hỏi: 

 1 Phất trần: phủi bụi bặm, người hầu gái cầm chổi lông đứng hầu. 

 - Hai ngươi chọn đường nào, hoặc phải, hoặc trái, phải chọn lấy một chứ? 

 Hai người nghe theo, quỳ xuống trước mặt, Lạc Xương nước mắt ngắn dài mà không nói, chỉ Xuất Trần thưa rằng: 

 - Ơn tướng công xưa nay khó sánh, cho chúng tôi được tìm chốn lập gia thất, để tình nguyện lâu dài. Người xưa nói: "Thụ ân thâm xứ cách vi gia", nơi nào chịu ơn sâu thì nơi ấy là nhà. Huống nữa, tiện thiếp vốn không phải không nhà, nhưng chỉ vì thiên hạ không người mà thôi. 

 Dương Tố nghe thấy thế, gật đầu khen, rồi lại hỏi Lạc Xương: 

 - Khanh thì vì cớ gì mà bi thương sầu não thế? 

 Công chúa đem chuyện ngày trước từng lấy Từ Đức Ngôn, hai người trước khi chia tay, đập gương chia đôi (1) hẹn ngày tìm nhau như thế nào kể lại một lượt. Về sau Từ Đức Ngôn làm mạc tôn ở dưới trướng, vợ chồng nhờ mảnh gương vỡ đó mà lại đoàn tụ, nhưng đó là chuyện sau này. Lúc này Dương Tố nghe Lạc Xương nói thế, cũng than thở ngắn dài, cho cả hai đứng dậy, sai quan tổng quản, xếp hẳn nhà riêng trông nội phủ cho ở. 

 1 Lạc Xương cùng Từ Đức Ngôn chia nhau mỗi người nửa mảnh gương, hẹn nhau đến ngày rằm thì đem ra chợ Kim Thành để tìm nhau. Lúc Lạc Xương kể chuyện trên đây, là khi họ chưa tìm được nhau. Đây chính là điển “Gương vỡ lại lành" (Quỳnh Lâm). 

 Lúc này bọn người quỳ ở bên trái thềm có tới bốn năm mươi người, đều thả cho ra tự tìm !ấy nơi chốn, tự lo lấy đường chồng con, ai có vàng bạc trang sức, quần áo, của riêng gì khác, đều cho mang theo. Ai nấy đều quỳ lạy cám ơn, khóc mà ra khỏi cửa. Dương Tố thấy hàng hàng lũ lượt mặt hoa, da phấn kéo nhau ra khỏi phủ, lòng thấy thanh thản. Từ đấy Lạc Xương cùng Xuất Trần, được cử làm nữ quan, cai quản hai hàng tả hữu kim thoa. 

 Quan âm thấm thoát, đã đến ngày Tết Nguyên Tiêu, cũng là ngày lễ sinh nhật Dương Tố, từng đoàn các quan viên từ lớn tới nhỏ, hầu khắp thiên hạ, không ai là không tới phủ lễ mừng. Chính lúc này Lý Tĩnh đang ở trong Trường An, biết có lễ này, cũng tìm đến yết kiến, vừa là hiến kế sách của mình. Đến cửa phủ được quản gia mời vào ngồi chờ ở phòng ngoài, vì Dương Tố chưa tiếp khách. Viên sai quan trưởng sử đang bận tíu tít, khách ngồi chờ đã đông nghịt. Lý Tĩnh bước vào thấy ở bàn phía tây có một người trai trẻ, dáng cao lớn khác thường, lưng hổ, tay gấu đang ngồi. Lý Tĩnh thoạt nhìn, vội lại vái chào: 

 - Đại huynh người vùng nào vậy? 

 Người này cũng đứng dậy đáp lễ rồi trả lời: 

 - Tiểu đệ người Sơn Đông. 

 Lý Tĩnh tiếp: 

 - Xin được biết quý tính, cao danh. 

 Người kia đáp: 

 - Tiểu đệ họ Tần, tên Quỳnh. 

 Lý Tĩnh tiếp lời: 

 - Thì ra đại huynh là Tần Thúc Bảo ở Lịch Thành vậy! 

 Thúc Bảo liền hỏi: 

 - Xin được hỏi họ tên của đại huynh. 

 Lý Tĩnh đáp: 

 - Tiểu đệ là Lý Tĩnh ở Tam Nguyên. 

 Thúc Bảo cũng tiếp: 

 - Hóa ra Dược Sư đại huynh, tiểu đệ từ lâu đã được nghe danh. 

 Hai người đứng dậy vái chào nhau lần nữa, rồi cùng dắt tay nhau ngồi xuống. Chuyện lại tiếp tục. Thúc Bảo hỏi Lý Tĩnh hiện đang ở đâu, Lý Tĩnh đáp: 

 - Tiểu đệ hiện ngụ ở ngay trước phủ đệ, ngõ Tây Minh, nhà thứ ba. 

 Hai người đương mặn mà trò chuyện, thì phía nội phủ đã thấy tiếng trống mở cửa phủ đệ gióng dả, quan trưởng sử bước vào giọng từ tốn rõ ràng: 

 - Ngài nào là Lý Tĩnh ở Tam Nguyên, có lệnh vào làm lễ tương kiến. 

 Lý Tĩnh nói với Thúc Bảo: 

 - Tiểu đệ phải đi bây giờ, không được ngồi hàn huyên với đại huynh nữa. Nhưng tiểu đệ đang còn nhiều điều cần nói với đại huynh. Nếu như đại huynh không thèm bỏ qua, thì muôn vàn lần xin mời đại huynh tới nơi ở của tiểu đệ, ta cùng đàm đạo. 

 Thúc Bảo nhận lời. Lý Tĩnh liền cùng viên trưởng sử đi vào nội phủ. Dương Tố lâu nay vẫn thường không chịu giao tiếp với đồng liêu, văn võ bá quan vì vậy ít người được gặp mặt, nay vì cớ gì lại sốt sắng tiếp Lý Tĩnh. Cũng bởi ngày trước, thân sinh Lý Tĩnh là Lý Thụ, bạn đồng liêu với Dương Tố, Lý Tĩnh vì vậy được Dương Tố xem như hàng con cháu, lâu nay lại nghe thiên hạ đồn Lý Tĩnh là bậc thiếu niên anh tuấn, vì vậy mới được Dương Tố tiếp đãi đặc biệt như vậy. 

 Quan trưởng sử dẫn Lý Tĩnh vào, Lý Tĩnh nhìn lên, đã thấy Dương Tố ngồi trên sập lót đệm gấm, đầu đội mũ đính đủ bảy viên ngọc như ý, mình mặc áo cừu có thêu hình rồng ẩn hiện trong mây ngũ sắc, tay cũng cầm hột đính ngọc như ý, phía sau giường đủ mười hai nữ quan, đội mũ giát ngọc, đính lông chim phí thúy đứng hầu. Xung quanh sảnh, phía dưới thềm số hầu gái đếm không hết, thấp thoáng trước những màn gấm buông từ trần nhà tới sát nền trải thảm dạ sặc sỡ. Lý Tĩnh bàng hoàng chắp tay lạy chào: 

 - Thiên hạ đang hồi loạn lạc, anh hùng khắp nơi chen vai thích cánh nổi dậy. Tưởng đại nhân là bậc quan chủ tể của triều đình, nên quan tâm đến việc thu nạp hào kiệt bốn phương, chứ không nên ngồi một chỗ mà tiếp đãi khách khứa như thế này. 

 Dương Tố vội đứng dậy tạ lỗi, rồi cùng Lý Tĩnh hàn huyên, người hỏi người đáp, chuyện liên miên mãi không dứt ra dược. Dương Tố thích lắm, muốn giữ Lý Tĩnh lại làm quan ký thất cho mình, nhưng còn giữ ý chưa nói ra vì đã lâu lắm lại mới có dịp gặp lại Lý Tĩnh. Trong lúc nói chuyện thế, có một trong số nữ quan cầm phất trần đứng hầu, mấy lần đưa mắt nhìn Lý Tĩnh. Lý Tĩnh cũng đường đường một bậc hào kiệt, nào phải nhỏ dại gì nữa, thấy có bậc khuynh quốc để ý tới, cũng mấy lần đưa mắt ý tứ xem xét, nhưng nghĩ chẳng qua chỉ là chuyện gió thoảng mây trôi. Trời đã gần trưa, Lý Tĩnh đứng dậy bái từ, Dương Tố cũng lấy nghĩa cha chú, sai người cầm phất trần đưa tiễn Lý Tĩnh ra cửa. Trương Xuất đưa Lý Tĩnh ra cửa, gặp quan trưởng sử, bèn hỏi: 

 - Đại nhân truyền hỏi rõ Lý tiên sinh hiện ngụ ở đâu, vào thưa lại ngay cho đại nhân. 

 Quan trưởng sử hỏi rõ ràng, quay lại trả lời, nghe xong Trương Xuất Trần mới quay vào bên trong. 

 *** 

 Hãy khoan nói chuyện Lý Tĩnh về nơi ở, hãy kể tiếp chuyện Thúc Bảo đem lễ vật vào Dương phủ. Thì ra là lễ vật của các phiên trấn ngoài biên đem vào phủ, đều được giao cho các liêu thuộc thu nhận, Dương Tố không tận mắt nhìn đến. Việc nạp các lễ vật này, không phải dễ, trừ các bài biểu mừng, thư mừng, văn thơ ca ngợi, còn các loại lễ vật khác thứ nào bọn liêu thuộc không vừa ý, thì cũng hạch sách, quát nạt đủ điều. Cũng may cho Thúc Bảo, lễ vật của vùng Sơn Đông, lại do ký thất Lý Huyền Thúy thu nạp, vừa nhận ra Thúc Bảo đến, Huyền Thúy vội vàng xuống thềm đón, mừng rỡ không ngờ. 

 Thúc Bảo giở biểu mừng, đồ lễ, Huyền Thúy xem qua, gọi người thu nhận nhanh chóng, rồi mời Thúc Bảo ra hiên sau, gọi người đem rượu ra mời, kể lể từ ngày chia tay nhau ở Lộ Châu. Thúc Bảo cũng đem chuyện gặp gỡ Vương Bá Đương và cùng đến Trường An như thế nào, kể rõ một lượt, rồi tiếp: 

 - Những sợ hiền huynh công việc ký thất bận rộn nên không dám tự tiện đến hàn huyên. 

 Lại tiếp: 

 - Vừa rồi, tiểu đệ gặp được Lý Tĩnh, quả là dung mạo phi phàm, phong tư trác việt, vừa mới gặp nhau ngoài cổng phủ mà đã như quen biết lâu ngày. Tiểu đệ ở đây ra, đã hẹn sẽ đến nơi ở của Lý Tĩnh để cùng nhau trò chuyện. Vì vậy công văn trả về Sơn Đông và thư từ hiền huynh cần gửi, làm nhanh cho tiểu đệ thì hay quá! 

 Huyền Thúy nghe nói thế, liền sai cô hầu gái mặc áo xanh rót thêm rượu, rồi tự mình ngồi vào án, làm công văn, viết thư. Một lát sau đưa cho Thúc Bảo gửi lời chào Bá Đương, vì công việc bận rộn không thể gặp được. 

 Thúc Bảo từ biệt Huyền Thúy, tìm đến ngõ Tây Minh, vào gặp Lý Tĩnh, Lý Tĩnh mừng rỡ: 

 - Đại huynh thật là người biết giữ chữ tín. 

 Ngồi đâu đó rồi Lý Tĩnh hỏi: 

 - Năm nay đại huynh bao nhiêu tuổi ? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Tiểu đệ hai mươi tư tuổi . 

 Lý Tĩnh hỏi tiếp: 

 - Đại huynh vào Trường An lần này, có bạn bè đi cùng không? 

 Thúc Bảo ý cũng không muốn nói rõ bốn người bạn kia của mình, nên chỉ đáp: 

 - Tiểu đệ vâng lệnh đi công cán, chỉ đem theo hai tên lính, chứ không hề có bạn bè nào đi theo, nhưng tại sao đại huynh lại hỏi thế? 

 Lý Tĩnh đáp: 

 - Tiểu đệ tuy phiêu bạt giang hồ, nhưng phàm sách vở của bách gia chu tử, cửu lưu dị thuật, không cái gì là không để ý xem xét. Nhất là phép xem tướng thì rất thành thạo, xem tướng của đại huynh thì năm nay ẩn đường hữu sự, mà vùng dưới hai mắt có hắc khí tương tụ, sợ sẽ hoạn nạn sớm, cho nên không thể không nói. Ngày sau, đại huynh sẽ là tay chân đắc lực của nước nhà, cho nên mỗi việc cần phải thận trọng. Tiểu đệ hôm vừa rồi, có xem thiên văn thì vào lúc canh ba, ngày mười lăm, tháng giêng, sao Tuệ sáng quá mức thường, đó là điềm có nạn binh đao, khói lửa lớn gây tai họa không chừng cho trăm họ. Nếu đại huynh cùng bạn bè tới kinh, thì nhất thiết đừng ham xem hội hoa đăng, nhược bằng đã lĩnh được công văn rồi, thì tốt hơn hết là nên lên đường trở về Sơn Đông ngay. 

 Những lời này của Lý Tĩnh, khiến Thúc Bảo dựng tóc gáy, nghĩ ngay tới bọn Tề Quốc Viễn, sợ không biết đã có chuyện gì xảy ra không, nên vội vàng từ giã Lý Tĩnh tìm về quán trọ. 

 *** 

 Lại nói Trương Xuất Trần, sau khi quan trưởng sử báo lại rõ ràng, trở vào trong lòng thầm nghĩ: 

 “Trương Xuất Trần ta, ở trong phủ này, quan sát người cũng nhiều nhưng chưa thấy ai là bậc thiếu niên hào kiệt như người này, thật là đúng hơn hẳn mọi người, mai kia đường công danh nhất định không thèm ở dưới bậc Dương đại nhân. Vừa rồi nghe Lý tiên sinh trò chuyện, thì biết ngay chưa có gia thất, nếu ta tìm đến nâng khăn sửa túi, mai sau chẳng nên chuyện gì, không nhìn ngó đến thân này, thì ta sẽ tìm đến chốn khác yên thân, chẳng nhẽ thiên hạ không còn ai nữa sao? Nếu người này mà vẫn không xong bề gia thất, thì quả là việc trăm năm khó mà lo cho trọn vậy. Chi bằng nhân đêm nay, ta không phải buổi hầu, trong phủ lại mở yến tiệc, ca hát, ta lén đến chỗ ngụ, gặp gỡ Lý tiên sinh xem sao, có phải tốt hơn không?” 

 Chủ ý đã định, liền sắp đặt mọi thứ, khóa kỹ gương hòm, lấy ra một tấm lụa mỏng, viết một thiếp gửi lại Dương đại nhân, đặt lên án thư, chận kỹ lưỡng. Lại sợ lính tuần ngoài phố sẽ ngăn trở, bèn quay trở lại, lấy trộm binh phù, cải trang làm một viên nội quan trong phủ Dương đại nhân, cầm một chiếc đèn lồng, dáng điệu đàng hoàng, đi ra khỏi phủ. Mới được một quảng, đã thấy ba bốn lính tuần đến hỏi: 

 - Quan nhân đi đâu vào lúc này. 

 Xuất Trần đáp: 

 - Ta là nội quan trong Dương phủ, có công vụ khẩn thiết, tìm đến doanh trại lấy ngựa để đi, các anh hỏi làm gì? 

 Bọn tuần binh đáp: 

 - Chúng tôi hỏi kỹ, sợ có điều gì nghi ngại chăng. 

 Nói rồi, bọn này gõ chiêng ầm ĩ bỏ đi. 

 Một lát sau, đã tìm thấy ngõ Tây Minh, Xuất Trần lần ra nhà thứ ba, thì đó là một nhà lầu to lớn, vội gõ cửa. Chủ nhà mở cửa ra nhìn kỹ một hồi, rồi hỏi: 

 - Huynh ông tìm ai ở đây? 

 Xuất Trần đáp: 

 - Lý tiên sinh người Tam Nguyên, ngụ ở đây phải không, thưa chủ nhân? 

 Chủ nhà đáp: 

 - Xin mời đi vào cửa phía Đông, ngay phòng đầu tiên là phòng của Lý quý khách. 

 Xuất Trần nghe nói thế, vội bước vào. Lúc này Lý Tĩnh ăn xong bữa tối đã lâu, đang ngồi trong phòng, dưới đèn nghiền ngẫm quyển binh thư của Long Mẫu tặng dạo chàng đi làm mưa thay cho Long vương, nghe tiếng gõ cửa, vội mở ra nhìn, chỉ thấy: 

 Mũ đen láng 

 Mày thúy tóc cao, gương mặt sáng 

 Gương mặt sáng 

 Áo tía, đai mềm 

 Phục trang duyên dáng 

 Hé môi đào, phấn mờ lấp loáng 

 Tay nắm binh phù, ân cần dặn 

 Nghi ngờ nào hết 

 Lòng này khó đoán. 

 Xuất Trần điềm tĩnh đi vào, đặt nhẹ nhàng binh phù lên bàn, cùng Lý Tĩnh vái chào nhau xong, cùng ngồi, Lý Tĩnh lên tiếng hỏi: 

 - Quý khách ở đâu lại, có việc gì dạy bảo? 

 Xuất Trần đáp: 

 - Tiểu đệ họ Trương, làm nội quan trong Dương phủ, được lệnh của Dương đại nhân sai tới đây. 

 Lý Tĩnh vẫn khăng khăng: 

 - Vậy quý quan có điều gì chỉ giáo? 

 Xuất Trần đáp: 

 - Vừa rồi, Dương đại nhân có cho gọi tiểu đệ lên và dạy rất nhiều điều, xin cứ từ từ sẽ thưa lại. Tiên sinh vốn là bậc nhìn xa trông rộng, thông minh khác thường. Xin tiên sinh hãy thử đoán xem có chuyện gì, nếu tiên sinh đoán đúng được, thì tiểu đệ xin hoàn toàn phục tiên sinh thật đúng là bậc hào kiệt trên đời này vậy? 

 Lý Tĩnh băn khoăn: 

 - Như thế này thì càng lạ hơn nữa, làm thế nào mà tiểu nhân này có thể đoán được. 

 Lý Tĩnh cúi đầu nghĩ ngợi một lúc rồi tiếp: 

 - Tiểu nhân sáng nay vừa vào phủ bái yết Dương đại nhân, ngài tiếp đãi rất ân cần, chuyện trò rất thân mật. Nhưng không hề thấy Dương đại nhân nói gì về cuộc gặp gỡ này cả. Hay đại nhân vừa nảy ra ý, sai quý quan ra mời tiểu nhân làm ký thất trong dinh? 

 Xuất Trần đáp: 

 - Dương phủ tuy giấy tờ sổ sách rất nhiều, nhưng cũng đã có tới một trăm hai mươi người lo việc này rồi, đều là những bậc tài nghệ trong dám chữ nghĩa, cũng có thể gánh vác được công việc. Dương đại nhân không hề có ý định đem cái tài vùng vẫy của tiên sinh, ép vào đám liêu thuộc lặt vặt ấy. Tiên sinh đoán sai rồi. Xin tiên sinh hãy nghĩ lại xem. 

 Lý Tĩnh nói: 

 - Nếu đã không phải thế, hay Dương đại nhân cần tiểu nhân đến một nơi nào làm thuyết khách cho đại nhân chăng? Để may ra có thể đem lại mưa thuận gió hòa cho bầu không khí chính trị của quốc gia này chăng? 

 Xuất Trần đáp: 

 - Cũng không phải rồi! Thôi để tiểu đệ thưa vậy. Đại nhân có một tiểu thư nối dõi, tài mạo song toàn, tuổi vừa cập kê, đại nhân rất quý không muốn gả khỏi cửa. Nay thấy tiên sinh anh hùng, trác việt, nếu kén rể tài, thì thiên hạ không ai bằng tiên sinh, vì vậy sai tiểu đệ đến đây nói rõ cho tiên sinh biết ý đồ của đại nhân. 

 Lý Tĩnh nghe thấy thế, bèn băn khoăn: 

 - Nếu có chuyện này, thì cũng thật khó nói, tiểu nhân hiện giờ bốn biển là nhà, chẳng khác gì cánh bèo, chẳng bám vào đâu. Lại thêm chí này chưa toại, đâu đã phải lúc nghĩ đến chuyện gia tư. Dù được Dương đại nhân chọn lựa, nhưng đâu phải chỗ môn mi tương xứng, quý tiện khác xa, xem ra không thể chấp nhận. Xin phiền quý quan vì tiểu nhân mà kiếm lời mềm mỏng từ chối hộ cho. 

 Xuất Trần đáp: 

 - Tiên sinh không nên nói lời từ chối. Dương đại nhân hiện là trọng thần của nhà vua, một lời nói ra khiến một người như tiên sinh có thể vinh, có thể nhục. Nếu tiên sinh chịu nhịn nhục ít nhiều, mà bước vào cửa phú quý thì quả là phú quý không thể lường sẽ đến với tiên sinh, xin đừng khư khư giữ nếp xưa mà cự tuyệt vội. Tiên sinh hãy thận trọng nghĩ đi nghĩ lại cho? 

 Lý Tĩnh nói: 

 - Phú quý của con người là điều không phải cầu mà được. Nhân duyên cũng là điều không thể đi ngược lẽ thường. Xin hãy cứ để chờ cho ít lâu xem sao. Còn nếu như có sự bức bách, thì tiểu nhân xin đi ngay, lại phiêu bạt giang hồ, nay Tề mai Sở vậy. 

 Xuất Trần nghiêm sắc mặt nói: 

 - Tiên sinh không nên vội vã nói những điều khinh suất như vậy, tiểu đệ trở lại phủ, tâu lại những lời vừa rồi của tiên sinh, Dương đại nhân nhất thời nổi giận, thì dẫu tiên sinh có cánh đi chăng nữa, cũng khó mà giữ nổi tính mạng. 

 Lý Tĩnh biến sắc, đứng dậy nói: 

 - Quý quan là bậc thay mặt Dương phủ, xin quý quan đừng dọa người. Lý Tĩnh tôi không phải là kẻ dễ run sợ đâu. Mặc cho tiếng lớn quyền cao của thầy trò quý quan, ta cũng xem như tượng gỗ. Còn về chuyện này, thì dẫu đầu có rơi chăng nữa, ta cũng quyết không nghe theo đâu. 

 Hai người đương lúc to tiếng, thì một khách trọ ngay phòng bên đẩy cửa bước vào, chắp tay vái chào lia lịa rồi hỏi: 

 - Vị nào là Dược Sư đại huynh? 

 Lý Tĩnh lúc này lửa giận vẫn chưa nguôi, đáp luôn: 

 - Chính tiểu đệ! 

 Xuất Trần chú ý nhìn người khách mới vào, rồi chắp tay từ tốn hỏi: 

 - Xin được biết quý tính? 

 Khách mới vào đáp: 

 - Tiểu đệ họ Trương. 

 Xuất Trần buột miệng: 

 - Thiếp cũng họ Trương. 

 Nói xong, Xuất Trần biết lỡ lời vội lấp liếm: 

 - Vâng tiểu đệ cũng họ Trương, nếu như quý khách không chê, xin nguyện kết làm anh em vậy. 

 Khách nghe nói thế, lại đưa mắt nhìn kỹ một lần nữa, rồi cất tiếng cười lớn: 

 - Tiểu đệ với Trương hiền đệ mà kết làm anh em thì thật là tuyệt diệu! 

 Lúc này Lý Tĩnh mới hỏi khách: 

 - Xin được biết cao danh Trương đại huynh? 

 Khách đáp: 

 - Tiểu đệ là Trọng Kiên. 

 Lý Tĩnh chắp tay kính cẩn hỏi: 

 - Có phải đại huynh là Cầu Nhiệm Công không? (1) 

 Khách đáp: 

 - Đúng rồi. Tiểu đệ vừa mới đến trọ ở gian bên, tai nghe hai vị trò chuyện, biết là đại huynh Dược Sư, nên vội sang gặp mặt. Nhưng điều bàn cãi giữa hai vị, tiểu đệ nghe rõ cả. Nhưng có điều Trương hiền đệ hoàn toàn không phải vì Lý đại huynh mà "chấp kha phạt mộc" (2) đâu, mà phải thấy cho rõ tâm sự của Trương hiền đệ. Nếu không có cái sắc sảo của tiểu đệ, thì xin để tiểu đệ nói ra vậy, tiểu đệ xin sẵn sàng đứng ra làm cái việc "chấp kha phạt mộc" cho hai vị có được không? 

 1 Cầu Nhiệm Công: cầu là con rồng có sừng, nhiệm là râu tốt, công là từ xưng hô có ý kính trọng. 

 2 Đứng ra làm mối, xin xem chú thích ở hồi 6. 

 Xuất Trần đáp: 

 - Gốc tích của tiểu đệ, Trương đại huynh đây rõ cả, tiểu đệ cũng không đám giấu nữa. 

 Rồi đứng nép vào góc nhà, kéo cánh cửa che kín, mỡ khăn đen trên đầu, cởi áo giả trang, quay ra nói: 

 - Thiếp chính là nữ quan trong Dương phủ, nhân thấy Lý đại nhân dung mạo khác thường, nguyện ý cũng muốn gửi thân suốt đời, vì vậy cũng không lấy việc tự đến làm thẹn, nên nhân đêm tối đến đây. 

 Trọng Kiên nghe nói thế vỗ tay ca ngợi tận tình, còn Lý Tĩnh thì hỏi: 

 - Vậy có phải người cầm phất trần ban sáng trong Dương phủ chăng? Nếu hiền khanh đã có ý định tốt lành đến thế, sao không nói ngay từ ban đầu, làm cho ta băn khoăn, lo lắng đến đứt cả ruột. 

 Xuất Trần đáp: 

 - Chỉ vì chàng con mắt không tinh, chẳng như Trương đại huynh đây, sớm nhận ra ngay, chẳng đến nỗi thiếp phải múa máy ba tấc lưỡi mãi mà không xong. 

 Trọng Kiên cười nói. 

 - Thôi vợ chồng hãy đừng ngồi rỗi nữa, mau mau làm lễ bái tạ trời đất. Để tiểu đệ đem tiệc rượu đã bày sẵn bên kia sang đây, để làm tiệc hoa chúc động phòng, rồi làm vài chén cho càng thêm vui vẻ, liệu có nên chăng? 

 Cả hai nghe nói thế, vội vàng xếp đặt, làm lễ tạ ơn trời đất. 

 Xuất Trần lại đội khăn đen, mặc áo nội quan vào, Lý tĩnh bèn nói: 

 - Hiền khanh còn ăn mặc những thứ ấy vào làm gì nữa? 

 Xuất Trần đáp: 

 - Lúc nãy đi vào đây, mọi người thấy là nội quan, nay lại thấy là phụ nữ, thì nhất định là không xong với họ rồi. 

 Lý Tĩnh gật gù đáp: 

 - Đúng là một phụ nữ tinh tế lắm! 

 Trọng Kiên liền gọi đầy tớ, đem tiệc rượu sang. Mọi người nâng chén chuyện trò, rượu được ba chén, Xuất Trần hỏi Trọng Kiên: 

 - Đại huynh bao giờ thì lên đường? 

 Trọng Kiên đáp: 

 - Mọi chuyện đã xong cả, ngày mai sẽ đi. 

 Xuất Trần nghe nói thế, liền đứng dậy nói với Lý Tĩnh. 

 - Nhờ chàng tiếp hộ Trương đại huynh uống thật say. Thiếp xin vắng mặt một lát, sẽ về ngay tức khắc. 

 Lý Tĩnh đáp: 

 - Cái này lại cũng kỳ. Giờ này còn đi đâu nữa hiền khanh. 

 Xuất Trần đáp: 

 - Việc này thì chàng chẳng cần phải đoán mò. Chỉ một chốc sẽ thấy ngay. 

 Nói rồi lại châm đèn lồng, đi ra cửa. Lý Tĩnh thấy vậy, lòng rất đỗi hoang mang. Trọng Kiên trấn an: 

 - Người con gái này cử chỉ khác thường, cũng là rồng là hổ trong đám người thường đấy, nhất định sẽ về ngay bây giờ đấy mà! 

 Hai người vừa trao đổi với nhau vài câu chuyện, đã nghe ngoài cửa có tiếng ngựa hí vang, Xuất Trần đã về trước cửa phòng. Trọng Kiên hỏi: 

 - Hiền muội vừa đi đâu về thế? 

 Xuất Trần đáp: 

 - Thiếp gặp được Lý Dược Sư đây, coi như đã có chỗ nương thân suốt đời vốn không phải là chuyện ham muốn trai gái. Đêm nay lợi dụng có binh phù trong tay, vừa rồi mới đến doanh trại trung quân, lấy ba con ngựa tốt. Chúng ta uống rượu xong, tất cả hãy thu xếp ra ngay khỏi cửa thành, đã có binh phù đây, quân tướng coi thành cũng chẳng dám gây khó dễ. Chúng ta mượn sức ngựa, trở về Thái Nguyên, có phải là tiện lợi cả đôi đường không? 

 Hai người nghe Xuất Trần nói thế đều tán thưởng hoàn toàn, ăn uống xong, lập tức thu dọn hành lý, từ tạ chủ nhân, cả ba lên ngựa, đường dài thẳng bước ruổi giong. 

 Sáng ngày hôm sau, Dương Tế không thấy Xuất Trần vào phủ hầu, lập tức sai người đi tìm, thì thấy ở nhà riêng, từ tư trang đến quần áo tế nhuyễn, đều không hề suy xuyển, kê khai rõ ràng, lại có cả thư trình Dương Tố, để lại trên án thư, sai quan lấy về đưa lên. Dương Tố đọc thì thấy: 

 Phủ Việt Quốc, hầu gái cầm chổi đó là Trương xuất Trần, cúi đầu kính bẩm: 

 Thiếp vốn bồ liễu phận hèn, gặp may nương nhờ cửa quý. Tuy không được như A Kiều trong nhà vàng (1) cũng tạm gọi là Tiểu Tú trên mâm ngọc (2). 

 Thế thì có gì bất mãn mà nuôi lòng ra đi. Thiếp từ bé đã học được thuật lạ xem tướng của Lý Chân Quân, dùng đôi mắt sáng, thấu kẻ anh hùng. Có thể bảo rằng dùng cỏ dại dựa chồi lan, dây dằng nương khóm trúc, tránh được tiếng làm vợ kẻ ngốc vớ phải chồng đần mà thôi, cơ trời đã đến, không thể ngồi yên. Nay ra đi, cử chỉ minh bạch không hề bợn thói dâm bôn như lũ gái thường. Kính bẩm! 

 1 A Kiều: Hán Vũ Đế khi còn làm thái tử, có người muốn gã con gái tên A Kiều cho, hỏi: "Có muốn lấy A Kiều không?” Vũ Đế đáp: "Nếu lấy được A Kiều sẽ đúc nhà vàng cho nàng ở" (Hán Vũ cố sự). 

 2 Tiểu Tú: chưa rõ tích nào? 

 Dương Tố xem xong, lòng lấy làm thanh thản. Biết rõ Xuất Trần là kẻ anh hùng, nên dặn kẻ dưới không được làm ầm ĩ, không được đem làm chuyện bàn tán lôi thôi. 

 Nhưng không biết về sau chuyện sẽ ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Mười Bảy

Tề Quốc Viễn mãi vui cuộc đá cầu gấm,

 Sài quận mã cùng bạn xem hội đèn hoa.

 Thơ rằng: 

 Vũ trụ chiều lâng lâng 

 Sóng Ngân trôi lang thang 

 Giữa trời treo đĩa ngọc 

 Khắp đất sáng mâm vàng 

 Thấp thoáng người tiên cảnh 

 Vi vu sáo phượng hoàng 

 Trăm năm nào mấy dạo 

 Đùa vui đừng ngỡ ngàng. 

 Người đời thường nói: chơi là vô ích. Ta lại nghĩ rằng: người ta lúc nhỏ, chơi say mê mà không biết đó là điều may mắn lớn, đến khi lớn khôn, hoặc phải tìm danh tiếng, hoặc phải mua lợi lộc, khổ cho thân người, bôn ba vất vả, có mấy khi mà được một giờ một khắc nhàn rỗ? Đến khi công thành danh toại, thì cũng là lúc râu tóc đã bạc trắng cả, dẫu có chơi cũng chẳng còn đâu hứng thú? Vẫn có bao nhiêu người, công bất thành, danh bất toại mà đã qua đời, thế cũng là một kiếp đời sao? Vì vậy gặp hội thì chơi, "Phùng trường tác hí", chính là một cầu chí lý vậy thay? Nhưng lại cũng phải biết tùy lúc mà vui, tùy nơi mà buồn, biết lẽ tới lui, không thể nào như dòng nước chảy về đông quên cả lối về. 

 *** 

 Lại nói Trần Thúc Bảo nghe Lý Tĩnh nói thế, vội tìm về nhà trọ thì thấy các bạn cơm rượu đã xong, đang chờ Thúc Bảo trở về là tính toán tiền nong với chủ quán. Vừa thấy mặt Thúc Bảo mọi người cùng reo: 

 - Đại huynh sao không cho chúng tôi theo vào thành với? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Mới canh năm mà đã vào thành làm gì. Bây giờ vào là tốt hơn cả. 

 Vương Bá Đương lên tiếng hỏi chuyện Lý Huyền Thúy, Thúc Bảo đáp: 

 - Đem lễ vật đến nạp, tiểu đệ may lại gặp chính Huyền Thúy hiền huynh thu. Nhưng Huyền Thúy vì công việc bận rộn, nên cũng không được nói chuyện lâu, nghe nói đại huynh cũng ở đây, Huyền Thúy gởi lời tạ lỗi. 

 Rồi nói với mọi người: 

 - Giờ hãy mau thu nhập hành lý để vào thành. 

 Tính số anh em cưỡi ngựa, có bảy người, cộng tất cả là ba mươi người. Chào chủ quán họ Đào, ra khỏi quán trọ. Bá Đương lên ngựa, vừa cười vừa quay lại nói với Thúc Bảo: 

 - Tần đại huynh hãy nhìn xem cảnh tượng lôi thôi, nhếch nhác của anh em mình kìa! 

 Thúc Bảo hỏi lại: 

 - Sao lại thế? 

 Bá Đương chỉ mọi người đáp: 

 - Chúng ta có bảy người, cưỡi bảy con ngựa. Phía sau kéo theo hơn hai chục người nữa, hành lý quanh người, cứ như thế này mà vào thành thì sẽ thành một hàng dài từ Nam chí Bắc cũng chưa dứt. Anh em lại toàn người phương Bắc xa xôi xuống, rất dễ lạc ngõ lạc phố. Vào đây lại là để xem các trò vui, vào quán rượu, phòng trà, cứ cả một đoàn thế mà kéo, thì làm thế nào mà đi nổi? 

 Thúc Bảo nghe Bá Đương nói vậy, trong bụng nghĩ thầm: "Lời của Lý Tĩnh sáng nay, không thể tin cả, cũng không thể ngờ cả. Rõ ràng là với cả đoàn thế này mà vào thành, thì cưỡi ngựa cũng phiền, không cưỡi ngựa cũng dở". Bá Đương cùng Thúc Bảo bàn cãi mãi không xong. Lý Như Khuê bèn góp vào: 

 - Hai đại huynh chả cần phải bàn cãi nhiều. Chi bằng cứ theo cách của tiểu đệ đây là hơn. Ngựa chỉ cưỡi tới cổng thành thôi. Bọn thủ hạ của chúng ta đây này, kéo tất cả chúng vào thành làm cái gì? 

 Chỉ ở ngoài cửa thành thôi, tìm một cửa hàng vắng nào đó, chất tất cả hành lý vào đó. Ngựa thì tháo hết yên cương, dắt chúng men vào thành gặm cỏ, uống nước, người thì thay nhau ăn uống, nghỉ ngơi. Sài Quận mã có hai viên gia tướng rất nghiêm chỉnh, nói họ cai quản tất cả các thứ hành lý, tiền bạc nào cần thì mang để dùng. Bọn thủ hạ ở ngoài này, lúc nào trời gần tối, lại sang đóng sẵn yên cương, đợi chủng ta quay ra. 

 Nghe xong, bạn bè đều nói: 

 - Bàn có lý lắm thay! 

 Việc vừa bàn xong, thì mọi người cũng vừa đến cổng thành. 

 Thúc Bảo sai hai người lính dắt ngựa của mình: 

 - Ta với mọi người có sự khác nhau, là đang gánh việc công trên vai, phải mang công văn lẫn thư từ, bỏ vào một cái túi nào đó mà ma. Những thứ này đều có quan hệ đến tính mạng. Chờ đến hoàng hôn, mỗi con ngựa của ta đều phải yên cương thật vững vàng, có đeo thêm một cái túi nữa. Các người phải nhớ mà làm cho đầy đủ. 

 Thúc Bảo cùng bạn bè, giấu vũ khí trong người, đem theo viên gia tướng của Sài Quận mã đi vào thành. 

 Từ các quan đại thần lộc cao vọng trọng, cho đến dân đen trăm họ đều vâng mệnh Thiên tử, ai cũng tùy sức tùy tài, tham dự cuộc hội đèn Nguyên Tiêu năm nay. Nhà nhà đều trang hoàng lộng lẫy, lụa gấm đủ màu, đèn hoa đủ kiểu. Nhưng nổi bật hơn cả trong kinh thành, vẫn là hai nơi: một là phủ đệ của phò mã, hai là phủ đệ của Vũ Văn Thuật. Phủ đệ của Vũ Văn Thuật, vốn là dinh thự của Binh bộ thượng thư, phía sau là một trường bắn, nơi luyện tập ti thí võ nghệ của các võ tướng từ nhỏ chí lớn, thường được gọi là Tiểu giáo trường, là nơi dân chúng kéo đến nhiều hơn cả, một phần cũng bởi sự đua đòi, cổ vũ của đám thiếu niên ăn chơi ở kinh thành. 

 Nhưng ai là người dám lấy Tiểu giáo trường của bộ Binh làm nơi vào chơi trong dịp Tết Nguyên Tiêu này? Chỉ có công tử thứ ba nhà Vũ Văn Thuật là Vũ Văn Huệ Cập mới làm được điều này. Vũ Văn Thuật có bốn người con trai: con đầu là Vũ Văn Hóa Cập, hiện giữ chức Trị thư thị ngự sử, con thứ hai là Vũ Văn Sĩ Cập; lấy công chúa Tấn Dương, làm Phò mã đô úy, con thứ ba là Vũ Văn Trí Cập, chuẩn vị nhận chức Thiếu giám. 

 Vũ Văn Huệ Cập là cậu con nhỏ nhất, ỷ vào thế lớn của các anh, đương còn ít tuổi nên chưa ra làm quan, mắt chưa từng thấy việc binh đao, trong lòng cũng chưa từng có chữ nghĩa văn chương gì, ngoài thì lụa gấm phủ đầy, ăn thì toàn trân tu bát bảo. Theo sau công tử nếu không phải là hàng đàn bọn du thủ du thực, thì cũng là từng bầy côn quang xiểm nịnh, hướng dẫn, xúi giục Huệ Cặp trong những cuộc chè rượu tối ngày, trai gái đàn hát. Với mồm miệng bọn thiếu niên trai tráng này, thì dù Huệ Cập chưa từng đá được quả cầu nào, cũng được ca ngợi là bậc đá cầu giỏi, đến nỗi Huệ Cập cũng tin điều này là thật, đã thế thì phải là nơi tập trung của các anh tài trong nghề đá cầu mới xứng. Biết rõ rằng trong dịp Tết Nguyên Tiêu náo nhiệt này, mọi người sẽ kéo về Trường An xem hội đèn, công tử bèn lấy Tiểu giáo trường của phụ thân làm thành một sân đá cầu lớn chưa từng có xưa nay. 

 Mới chỉ mùng một tháng giêng, tết nguyên tiêu cũng còn tới nửa tháng nữa, đài bán nguyệt của Tiểu giáo trường đã được căng kín gấm vóc đủ màu, một tấm vải lụa hoa sặc sỡ được căng ra làm rạp lớn, tưởng như định che cả mặt trời, chính giữa cổng ra vào cũng kết bằng lụa ngũ sắc, đề ba chữ lớn: “Quan cầu đài” . Công tử ngồi trên đài cao, hai bên là hai mỹ nhân, được mời từ trong đám kỹ nữ nổi tiếng của các xóm cô đào kinh thành, một cô được mang tên Kim Phượng Vũ, một cô được tặng hiệu là Thái Hà Chi (1). Hai bên đông tây đài bán nguyệt, dựng lên hai tòa lầu thấp hơn, bên trong làm những cầu thang vòng vèo lên đến một cái cửa trang hoàng lộng lẫy, gọi là “Thái môn". Những kẻ nổi tiếng trong đám hảo hán giang hồ, không cần phải ăn mặc lôi thôi, không đeo gươm, vác giáo gì hết, đá cầu kiểu gì cũng được miễn là lên được "Thái môn", thì công tử Huệ Cập ngồi trên đài cao, cũng sẽ tặng một tấm lụa, một đỉnh bạc hoa, một thẻ bạc, rồi tùy anh ta muốn tỏ lòng cảm tạ công tử thế nào cũng mặc. Cũng có nhiều anh, đá mãi được lên tới cổng "Thái môn", nhưng còn nhiều hơn nữa, đá chẳng xong, lụa cũng không, bạc cũng không, thẻ chẳng được, mà chỉ làm trò cười cho quan khách. Xung quanh hai tòa lầu này là một trăm hai mươi nơi đá cầu, nơi nào cũng được sắp xếp gọn gàng, đẹp mắt, trồng cột, dựng lan can đầy đủ cả, để đón tiếp thử thách, từ đó mà chọn ra những anh tài, vào thi ở trong lầu. 

 1 Kim Phượng Vũ: Chim phượng vàng múa: Thái Hà Chi: đám mây màu ngũ sắc bay. 

 Lại nói Thúc Bảo cùng bạn bè, kéo nhau vào trong đám người chen chúc ấy được một lát, nhớ tới lời dặn của Lý Tĩnh, Thúc Bảo nói với Bá Đương: 

 - Phàm những việc không cần ganh đua với mọi người, thì phải biết giữ điều vừa phải, nhịn nhục, mới là bậc hảo hán, phải không đại huynh? 

 Bá Đương cùng Sài Quận mã theo lời Thúc Bảo, đểu cố gắng giấu kỹ tung tích của mình. Chỉ có Quốc Viễn cùng Như Khuê, lâu nay vẫn quen ung dung mặc sức, nên càng thích cảnh chen vai, đọ cánh, chỗ nào đông cũng xông vào, xô đẩy người khác kỳ xem được các trò vui tận mắt mới thôi. Như Khuê vốn con nhà giàu, còn biết ít nhiều trò chơi, Quốc Viễn thì làm nghề lạc thảo từ nhỏ, chỉ biết riêng chuyện gió to thì đốt nhà, trăng suông thì giết người, làm gì thấy được những trò chơi lạ mắt của kinh kỳ. Ngay cả quả cầu da có tua gấm kia cũng còn không biết là cái gì, phải ghé tai hỏi nhỏ Như Khuê : 

 - Lý hiền đệ, cái quả tròn tròn có tua kia gọi là cái gì? 

 Như Khuê vừa cười vừa đáp để đùa Quốc Viễn: 

 - Đấy là cái túi đựng chì rất nặng, theo tám lần tám độ số của bát quái, là sáu mươi tư cân chì nấu chảy ra mà đổ thành. 

 Quốc Viễn vẫn thật thà nói: 

 - Cả ba người khỏe mạnh thế kia xúm quanh, thì làm gì mà không đá nó lên trên gác cao để lĩnh thưởng tấm lụa cùng đỉnh bạc cho được. Ta cũng có thể làm được? 

 Những lời này bất quá hai người ghé tai nhau mà chuyện trò, nhưng vẫn có một tay trong đội phục dịch tung cầu cho khách chơi nghe được, liền mang ngay quả cầu đến, liến thoắng mời hai người: 

 - Xin mời nhị vị quý khách thử một lần để giành phần thưởng cho thêm phần danh giá! 

 Như Khuê vỗ vai Quốc Viễn giục: 

 - Chính là vị này đây! Hãy làm cho đúng câu "Phùng trường tác hí", hiền đệ! 

 Tay tung cầu lôi kéo: 

 - Xin mời quý khách thử một keo. Tiểu nhân bắt đầu tung cầu đây xin tận tình hết sức phục vụ quý khách! 

 Quốc Viễn lúng túng, chưa biết nên thế nào, thoáng nghĩ: "Ta thử cố đá một lần xem sao". Nhưng với bọn trong đội phục dịch của Huệ Cập này, thì chúng còn thiếu gì những mánh lới xảo quyệt, lập tức chúng tìm ra được quả cầu và cách tung thế nào làm khách chơi không tài nào đá được. Quả cầu mang tên: "Yến ngậm châu bay ra biển" (1) phóng tới, Quốc Viễn đã hoa mất, lại sợ cầu nặng đá không lên, nên lấy hết sức bình sinh, đá một cái, chỉ nghe "bốp!", quả cầu bay tít lên tận trời xanh, rồi bị gió cuốn đi đâu mất hút. Hai tay phục dịch thấy mất quả cầu thì làm ra vẻ quan trọng, kể lể nông nỗi: 

 - Không biết chúng tôi mắc tội gì đây mà gặp phải ông khách quý hóa này, thế là bao nhiêu vốn liếng bay theo mây gió cả rồi! 

 Quốc Viễn đã đang bực tức vì mình, nay nghe thêm mấy câu trách móc này, tay chân chừng như thấy ngứa ngáy, Như Khuê sợ xảy ra chuyện không hay, vội lại khuyên giải: 

 - Anh bạn đây của ta có cả sáu nghề tinh thông trong tay đấy (2). Nhưng mà làm sao mà biết hết mọi thứ được. Huống chi mới học đá cầu lần đầu. Đáng ra, hai cậu nên hỏi khách một câu, đại loại: “Quý khách cao danh quý xứ là gì, ở đâu? Hiện giữ chức tước gì?". 

 1 yến hàm châu xuất hải. 

 2 Lục nghệ: Sáu nghề mà người đàn ông có văn hóa xưa phải biết: Lễ, nhạc, xạ ngự, thơ, số. 

 Nay ta gặp nhau ở kinh đô , mai lại đụng nhau chỗ khác, thì lại đã ra bậc bạn cũ rồi còn gì. Cũng vì giận các cậu không có lý, chẳng có tình, nên anh bạn mới đá bay mất quả cầu đi vậy. Ta đứng ra đền cho các cậu đây! 

 Nói rồi rồi rút trong tay áo ra năm lạng bạc, trao cho hai tay phục dịch, vừa kéo vừa nói với Quốc Viễn: 

 - Chúng ta đi làm vài chén rượu là hơn cả! 

 Cả hai rẽ đám người đi ra ngoài, thì lại thấy ba anh em Thúc Bảo từ ngoài đi vào, hai tên gia tướng đi trước rẽ đường, nhưng cũng nhiều người không chịu, không tránh vì chật không lên nổi, thế là xô xát kẻ xô người ngã tha hồ huyên náo. Thấy Quốc Viễn, Như Khuê đi ra, Thúc Bảo gọi: 

 - Hai vị đi đâu bây giờ, hãy cùng vào trong này với chung tôi đã. 

 Thế là cả bọn kéo nhau vào. Chỉ trừ Quốc Viễn, cả bọn đều biết chơi cầu. Thúc Bảo là một tay võ nghệ tuyệt vời, nên đá cầu cũng là một môn quen thuộc đã từng học qua, Bá Đương cả đến công danh cũng vứt bỏ, nên thứ trò chơi này cũng từng trải qua, nhưng cả hai đều giữ gìn không muốn xuất đầu lộ diện, xúm vào khuyên Sài Quận mã nên trổ tài cho thiên hạ thấy hết vẻ anh tuấn, hào hoa. Sài Quận mã đáp: 

 - Tiểu đệ không dám, còn các đại huynh trước mặt, tiểu đệ đâu dám múa rìu qua mắt thợ. 

 Thúc Bảo khuyên: 

 - Chúng tôi tuy có biết qua cái trò này, nhưng cách đá không đẹp mắt ở đây trăm mắt trông vào Quận mã có tư thái của bậc văn nhân, chẳng còn ai chê trách gì được. 

 Sài Quận mã dẫu sao cũng còn mang vẻ hiếu thắng của bậc thiếu niên, nghe Thúc Bảo khuyên vậy, liền thưa: 

 - Tiểu đệ càn rỡ thế này, không khéo lại dẫn đến chuyện phiền toái sau này. 

 Hai tay phục dịch nãy giờ đứng chực sẵn, mang cầu lại ngay cạnh, rối rít: 

 - Kính mời quý khách, thử chơi một quả! 

 Sài Quận mã can: 

 - Hai cậu cứ từ từ, hãy giữ lấy cầu đã. Hai mỹ nhân ngồi cạnh công tử kia, liệu có biết tưng cầu cho khách không? 

 Một tay phục dịch thưa: 

 - Quý quan muốn chơi sang như vậy sao? 

 Sài Quận mã đáp: 

 - Ta cũng chẳng tiếc gì tiền thưởng đâu. Phiền hai cậu thưa hộ với công tử một câu: Ta muốn mời được hai mỹ nhân xuống cùng tung cầu. 

 Huệ Cập cũng vốn là tay ăn chơi có nòi, nghe tay chân thưa lại, lập tức sai hai mỹ nhân xuống đài tung cầu cho Sài Quận mã. Theo sau lại có thêm bốn hầu gái, cầm hai quả cầu có tua ngũ sắc. Hai bên làm lễ trịnh trọng chào nhau, cầu ngũ sắc được tung lên. Huệ Cập cũng vội bỏ ghế ngồi, ra đứng cạnh lan can nhìn xuống chăm chú, cả Tiểu giáo trường các sân cầu đấu ngừng chơi, để đổ xô lại xem hai mỹ nhân tung cầu cho Sài Quận mã. Sài Quận mã trổ hết tài bình sinh, so vai, múa tay, khi cúi, khi ưỡn, quả cầu lúc này chẳng khác gì một thoi ngũ sắc bay lượn, khi cao khi thấp, khi gần khi xa. Các gia tướng, vương tôn công tử đứng trên đài bán nguyệt thi nhau ném lụa nén tiền thưởng xuống, mấy hầu gái theo hầu lúc nãy, giờ tha hồ mà cúi nhặt lụa nhặt tiền. Quốc Viễn vỗ tay, dậm chân vui sướng hét lớn: 

 - Quận mã cứ đá nữa đi, đá được đến tận chiều tối mới giỏi! 

 Nhìn sang hai mỹ nhân, chỉ thấy: 

 Chị này vung tà áo biếc 

 Cô kia phất mảnh quần hồng 

 Vung tà áo biếc, thon thon măng búp dẻo tay 

 Phất mảnh quần hồng, he hé sen vàng nhẹ gót 

 Ngửa nghiêng đá thấp đá cao 

 Tung lên đập xuống vào vào ra ra 

 Ngọc bay tận tượng Phật bà 

 Quay đầu uốn gối thướt tha nhịp nhàng 

 Trổ tài vớt móc dọc ngang 

 Tiếng khen cổ vũ hô vang trong ngoài 

 Vóc lụa thấm, phấn son phai 

 Mồ hôi đẫm đến mệt nhoài mới thôi. 

 Đời sau có người làm thơ tán rằng: 

 Trên sân mỹ nữ dáng thần tiên 

 Nhờ gió Bồng đưa tới đất liền 

 Má phấn mồ hôi hoa lỗ đỗ 

 Mày ngài bụi bám liễu hoen hoen 

 Xanh xanh vạt áo bay tơi tả 

 Phấp phới dây quần bước ngửa nghiêng 

 Uốn éo cuộc vui tung lại hứng 

 Tóc mây búi xổ, lệch về bên. 

 Lúc này cuộc cầu ở Tiểu giáo trường đã hết, Thúc Bảo lấy hai mươi tư lạng bạc trắng, bốn tấm lụa, đưa tặng hai mỹ nhân tung cầu, hai cái quạt vàng, năm lạng bạc trắng, đưa tặng hai tay phục dịch ban đầu, đã có công lên tâu Huệ Cập, lại phụ giúp hai mỹ nhân tung cầu. Lúc này Sài Quận mã cũng đã chào đưa hai mỹ nhân về chỗ ngồi. Cả bọn Thúc Bảo, chào Huệ Cập rồi kéo nhau ra khỏi Tiểu giáo trường, qua Lam Kiều, thì đã thấy các phố, dãy dãy đèn hoa huy hoàng. Chính là: 

 Tường bốn bề mã não 

 Cửa năm sắc doanh bồng 

 Ngàn tầm vân mẫu tháp luôn trượng thủy tinh cung 

 Mũ giát ngọc san sát 

 Áo gấm hoa ung dung 

 Rung rinh sông núi biếc 

 Lấp lánh thế gian hồng 

 Kìa giữa trời cây lửa đơm hoa 

 Nọ kín đất sen nở vàng bông 

 Vùng vẫy như rồng thiêng rời biển cả 

 chập chờn như cánh phượng vút không trung 

 Thiên thời vừa ý 

 Địa lợi góp công 

 Lời hát trong lầu hoa, tóm hết phong lan vạn cổ 

 Câu đố giữa cầu vẽ, hãy còn giảng giải bất thông 

 Ngàn dâu xanh biếc một vùng 

 Đèn soi bốn bể, chín châu sáng lòa 

 Mặt người tươi tựa mặt hoa 

 Sáng trăng sáng đuốc, đâu là sáng trưa 

 Ngựa xe đón, đàn sáo đưa 

 Cuộc vui vui suốt canh thừa thừa đôi 

 Giọt đồng rơi, giọt đồng rơi 

 Thái bình muôn thuở, muôn đời với dân. 

 Thúc Bảo khuyên mọi người hãy tìm những phố náo nhiệt nhất mà xem đèn, vì thế tốt hơn cả là phố có dinh Tư mã thì đèn vừa nhiều vừa đẹp hơn cả. Những lầu các treo đèn phần nhiều là cảnh ảo của một đêm, thường được kết bằng những cây lau, cây trúc, rồi bên ngoài khoác lụa hoa gấm màu vào, giả màu phú quý, ở bên trong thì treo nào đèn kỳ lân, trên đèn kỳ lân thì có biển đề bốn chữ lớn, dát vàng lấp lánh: "Vạn thú tề triều” (1), trên cửa lầu cao giăng một câu đối, vế phải viết: 

 1 Vạn loài thú đều đến chầu. Kỳ lân là thần thú, tiêu biểu cho đời thái bình. 

 Triều Chu gặp điềm lành 

 Chúa thánh ra đời, quốc hữu đạo. 

 Vế trái viết: 

 Nhà Tùy hưởng phúc tốt 

 Vua nhân trị nước, thọ vô cương. 

 Phía dưới đèn kỳ lân, là nhiều các loại đèn hình thú khác vây quanh. 

 Đèn rái cá, miệng há móng giơ 

 Đèn sư tử, lờ mờ đôi mắt 

 Đèn con cọp, như nhảy lên cao 

 Đèn con beo, muốn kêu như sấm 

 Đèn hươu gấm, miệng ngậm đóa hoa 

 Đèn khỉ già, trèo cây bứt quả 

 Đèn ngựa vằn, vó đá như chơi 

 Đèn con voi, to như ngôi báu. 

 Các đèn hình thú, cái nào cũng đẹp, không thể nào kể hết. Lại còn hình hai vị người xưa, cưỡi hai ngọn đèn hình thú, bên phải là Hạnh Đồng Đế Quân, cưỡi một đèn hình lừa trắng, đang từ từ sa xuống cõi trần, bên trái là Ngọc Thanh Lão Tử, cưỡi một đèn hình trâu xanh, đang đi ra khỏi cửa Dương Quan ở phía tây. Hãy còn bốn câu thơ làm bằng chứng sau đây: 

 Đèn thú rung rinh kể đã nhiều 

 Lên lên xuống xuống khẽ quay đều 

 Kỳ lân là chúa muôn loài đó 

 Dẫn hướng sinh linh, mở đại triều. 

 Mọi người xem xong khóm đèn kỳ lân ở dinh Tư mã, lại kéo nhau qua dinh Binh bộ thượng thư, rồi sang dinh Dương Tố. Dọc các phố, dân chúng cũng treo những đèn lồng nhỏ, bày bài vị thiên tử, thắp nến đốt hương, sáng chẳng kém gì ban ngày. Chẳng mấy lúc, đã đến cửa lớn của dinh Dương Tố, lầu cao dựng ngay trước cổng, tất cả đều treo các loại đèn hình chim, trên cửa lầu cũng có biển, khắc bốn chữ lớn: "Thiên triều nghi phượng" (1), hai bên là hai câu đối: 

 1 chim phượng về chầu thiên tử. Phượng hoàng được coi là vua các loài chim, ý nói Dương Tố quyền ngang vua Tùy. 

 Cánh phượng liệng trời Nam, người đều chịu phúc 

 Râu rồng nghiêng bể bắc, dân được nhờ ơn. 

 Dưới đèn hình chim phượng hoàng, là hàng loạt đèn hình chim khác: 

 Đèn con hạc đậu cành tùng 

 Đèn gà gấm, lượn trên từng mây xanh 

 Trong rừng liễu, đèn con oanh 

 Đèn con công đứng bên cành tường vi 

 Vẹt, cuốc, mỏ nhát, le le 

 Mỗi loài mỗi vẻ le te theo đòi 

 Người ôi! Mở mắt mà coi. . . 

 Các hình đèn chim này cũng thế, cái nào cũng lung linh sáng ngời, trăm phần hoa mỹ, kể thật không hết. Hai phía phải trái, cũng có hai hình người xưa cưỡi hai đèn hình chim, vì nhân lễ mừng sinh nhật Dương Tố, phía bên phải là hình Tây Trì Vương Mẫu, cưỡi chim thanh loan, từ Dao Trì bay xuống dự yến, phía trái là hình Nam Cực Thọ Tinh, đang cưỡi chim bạch hạc Hải ốc hạ xuống mừng thọ. Hãy còn bốn câu thơ làm chứng sau đây: 

 Đèn chim chen chúc đậu non cao 

 Hãnh diện hơn thua được dự vào 

 Xanh thẫm từng mây, vua phượng ngự 

 Muôn loài vỗ cánh động trăng sao. 

 Mọi người xem xong đèn ở cổng Dương phủ thì cũng vừa canh một, ai nấy vội vàng đi về phía cửa đông. Quốc Viễn từ nhỏ sống cảnh lạc thảo, chưa bao giờ đặt chân vào nơi phố phường, chứ đừng nói gì đến kinh đô. Nay lại được vào Trường An giữa tết nguyên tiêu, nhìn cảnh đèn nến huy hoàng, trống chiêng vang trời, Quốc Viễn cũng không biết nói gì với bạn bè, chỉ biết ngẩn mặt ngờ nghệch xoa hai tay, để các bạn túm áo lôi theo mà thôi. Lại thêm dễ mừng, dễ sợ, quay nghiêng, quay ngửa, nhìn ngó khắp nơi, vỗ tay dậm chân, dẫu có nhắc cũng lại quên ngay. 

 Thúc Bảo bàn: 

 - Giờ ta vào cửa Trường An, đến hoàng thành xem đèn hoa ở cửa cung nữa là xong. 

 Đến trước cửa Ngũ Phượng lâu, người đông nghẽn cả lối đi. Trước mặt Ngũ Phượng lâu, dựng thêm Ngự đăng lâu, có hai viên đại thái giám, ngồi trên hai ghế dựa khảm hoa bạc, bên trái là Ty lễ giám Bùi Tịch, bên phải là Nội kiểm điểm Tôn Khánh. Lại có năm trăm quân cấm vệ, mặc áo gấm có thêu hoa tròn, mỗi người đều cầm côn sơn màu đỏ, đứng nghiêm chỉnh trước Ngự đẳng lâu. Tòa lầu này không chỉ làm bằng lụa là, gấm vóc bình thường, mà còn dùng những thứ nguyên liệu, hương liệu của hải ngoại, rồi những thứ châu ngọc, vàng bạc trong cung, cũng được mang ra trang hoàng, thật xứng đáng với tên Ngự đăng lâu vậy. Trên cửa lầu cao, cũng có treo tấm biển, khảm bốn chữ lớn: "Quang chiếu thiên hạ:" Hai bên là hai câu đối khảm vàng: 

 Ba nghìn thế giới vang đàn hát 

 Mười mấy đô thành mượt gấm nhung. 

 Đến cảnh ở Ngự đăng lâu này thì đúng chẳng nơi nào dám sánh, Vương Bá Đương, Sài Tự Xương, Tề Quốc Viễn, Lý Như Khuê đến xem Ngự đăng lâu, hết chỗ này đến chỗ khác, lúc chen vào, lúc lách ra, rồi cũng vào phòng trà, kéo vào quán rượu, hoặc vào nhà ca hát, chẳng nghĩ đến chuyện về. Thúc Bảo đã bao lần khuyên họ ra cổng thành, nhưng chẳng ai chịu nghe. Không biết rồi chuyện sẽ thế nào, xin xem hồi sau sẽ rõ. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Mười Tám

Gái Vương Uyển xem đèn mắc vạ,

 Trai Vũ Văn ham sắc bỏ đời.

 Thơ rằng: 

 Anh hùng đãm lược vốn kỳ tình 

 Đâu phải tương tri mới bỏ mình 

 Bên chợ ẩn danh thây Nhiếp Chính (1) 

 Đập đầu hiển tích mạng Kinh Kha (2) 

 Tâm hồn trọng nghĩa phơi xương trắng 

 Phong tuyết trừ gian tuốt kiếm xanh 

 Đời hỡi, bất bình ta quét sạch 

 Không phường khinh bạc lũ hôi tanh. 

 1 Nhiếp Chính: Hiệp sĩ, giúp Nghiêm Toại giết Hàn Lỗi là tể tướng nước Hàn, xong sợ liên lụy đến người thân, rạch mặt tự tử, thây bị phơi giữa chợ. Chị vẫn đến khóc nhận em, để em nổi danh. 

  2 Kinh Kha: Hiệp sĩ, giúp thái tử Đan giết vua Tần nhưng không xong, bị quan quân hộ vệ đuổi, phải đâm đầu vào cột mà chết (Sử Ký). 

 Trong thiên hạ, việc vô ích kể không hết, chuyện bất bình cũng không phải ít. Việc vô ích chẳng qua như chuyện vui chơi, còn chuyện bất bình kể như việc nổi giận, rút kiếm đâm chém một hồi. 

 Cũng phải hiểu rằng chuyện bất bình với chuyện vô ích, có nhiều khi quan hệ chặt chẽ, bất bình thường từ vô ích mà ra, có vô ích mới gọi bất bình. Nhìn việc đời, mắt muốn nổ đom đóm, nghe tâm sự, lòng như muốn đứt từng đoạn. Máu bất bình này, ai ai cũng có, nếu không có được hành động mạnh mẽ, đỡ kẻ yếu, dìm kẻ ác, thì cũng là tấm lòng lo lắng thở than. Ở các bậc nghĩa hiệp, mỗi lần nổi cơn bất bình, nếu không biết tự kiềm chế, thì tai họa sẽ kéo đến. Đây cũng chẳng phải là anh hùng biết mình biết ta, nếu quả là bậc anh hùng, thì cứ bằng bản lĩnh vốn có của mình, sợ gì bọn vương tôn tử, sợ gì kẻ tiền hô hậu ủng. Hãy cứ xem như trong đám quân trăm vạn, lên ngựa lấy đầu tướng, sao lại có thể giống việc chém cáo trói thỏ cho được. Trừ được những điều oan ức của một thời, khiến cho ai ai cũng thấy rằng kẻ gieo việc dâm ác thì nhất định phải chịu báo ứng. Chính là: 

 Lòng trời muốn những trừ dâm ác 

 Nên cậy anh hùng giúp một tay. 

 Hãy nói với cuộc đời một số phụ nữ ở Trường An này, may ra sinh vào nhà phú quý, quần áo không thiếu, ăn uống đầy đủ, phong cảnh bên ngoài dù đẹp đến đâu, cũng khó làm họ rung động. Chính những phụ nữ nhà nghèo khó, sống lây lất mới qua được năm này sang năm khác, trước ánh trăng sáng, nhìn cảnh đèn hoa huy hoàng, đàn nhạc rộn rã, có người trong số họ, đã làm những câu thơ sau đây, để ghi lại những cảnh thần tiên ấy: 

 Trăng thật tròn, đèn thật xinh 

 Đèn trăng trong sáng kinh thành cõi tiên 

 Trăng đĩa ngọc đèn hoa sen 

 Trăng soi đèn chiếc, muôn nghìn thanh tân 

 Đèn phú quý, trăng tinh thần 

 Trăng nô đèn rỡn, xa gần thấp cao 

 Ai ơi, đêm ấy đêm nào 

 Người trăng đèn lẫn người vào đèn trăng. 

 Vào những lúc ấy, thì dù đã già, dù còn trẻ, đều muốn ra du ngoạn. Dù là người con gái thật trinh trắng, hoặc là bà già yếu đuối, chẳng cần phải đến lòng rung động, chân đã muốn bước ra cửa, đã muốn trang điểm ít nhiều, để lên cầu, nhìn trăng ngắm nước. Chị bạn họ Trương, kéo tay các bác bán hàng họ Lý. Bà dâu gia họ Triệu, hẹn trước bà hàng họ Tiền, cười cười nói nói, dẫu có giữ cũng chẳng xong. Thôi thì đủ vẻ phong lưu, nếu lại được một hai vương tôn công tử Trường An nào đó, đi theo giữ gìn, rồi mày đưa mắt liếc, thỏ thẻ đôi lời dung dăng trước ánh đèn, ánh trăng, tìm hương kiếm phấn, theo bóng đuổi hình, nào mấy ai chuyên tâm xem đèn, nếu chỉ là chuyện dạo cầu xem trăng như vậy, thì làm sao có chuyện dưới này được. 

 Có một người đàn bà góa, tên gọi là Vương Lão Nương, con gái mười tám tuổi tên gọi Uyển Nhi, nhất thời hữu hứng, mẹ con dẫn nhau đi xem hội đèn. Hình dáng Uyển Nhi của Vương Lão Nương rõ là: 

 Lưng eoliễu bên cầu 

 Mặt tươi như cánh hoa đào đang xuân 

 Làn da thơm mát trắng ngần 

 Bên đèn ai đó bần thần dưới trăng. 

 Hai mẹ con để một đứa trẻ nhỏ ở nhà trông nhà, dắt nhau ra phố xem đèn, đi qua cửa lớn. Có một bọn du đãng bám theo sau, nhìn ngó Uyển Nhi, vào tới phố lớn, bọn chúng tốp vây trước, toán theo sau, mẹ con không tài nào thoát đi đâu cho được, Uyển Nhi kinh hoàng, Vương Lão Nương cũng không còn biết làm thế nào. Bọn du đãng này sai phái vài đứa về thưa với công tử Huệ Cập họ Vũ Văn, Huệ Cập nghe báo, vội cùng tay chân đuổi theo, thấy hình dáng Uyển Nhi, Huệ Cập hồn bay phách lạc, lại thấy chỉ mỗi một bà già đi theo, muốn làm gì chẳng dược, Huệ Cập chặn đường lôi kéo Uyển Nhi, Uyển Nhi sợ hãi nhưng không dám kêu, trốn chạy không đường. Vương Lão Nương nào biết mặt mũi công tử con quan thượng thư Vũ Văn là ai, thấy sức mẹ con không thể nào chống trả, chỉ còn cách gào thét kêu cứu. Nhưng Huệ Cập còn mưu mẹo nhanh hơn, y lu loa: 

 - Mụ già này thật vô lễ, dám cản đường đánh người sao, chúng bay bắt giải về phủ cho ta! 

 Một lời vừa nói, bọn tay chân lập tức tuân theo, chúng lôi dễ dàng cả hai mẹ con Vương Lão Nương về phủ. Lúc này thì cả hai đều kiệt sức, quần áo tả tơi, khắp người bụi đất, mồ hôi, nước mắt, gào không thành tiếng. Hàng phố bốn bên, cũng không ít người rõ chuyện này, mắt thấy tai nghe, nhưng họ đều biết rõ thế lực cùng thủ đoạn của bọn Huệ Cập, nên không ai dám ra mắt ngăn cản. 

 Về đến phủ, Vương Lão Nương chẳng còn sức lực đâu mà giãy dụa, chúng bèn giam vào một phòng kín. Còn Uyển Nhi, chúng cũng đem nhốt vào một phòng trống trên sảnh đường. Huệ Cập trở về thư phòng nghỉ ngơi một lát, liền tìm đến phòng Uyển Nhi, bọn gia đinh lập tức bỏ ra ngoài, chỉ còn lại mấy hầu gái. Huệ Cập mới lại gần, Uyển Nhi lập tức chống cự, hai tay cứ mặt Huệ Cập mà đánh. Vật lộn được một hồi, Huệ Cập không tài nào thắng, liền nổi giận lôi đình, quát lũ hầu gái đánh cho Uyển Nhi một trận, rồi khóa kỹ phòng lại, đi ra. Bọn tay chân ở ngoài cửa phủ vào báo: 

 - Mụ già chúng con nhốt ngoài kia, lại la hét ầm ĩ, sống chết đòi con, tiểu chủ dạy nên đối phó ra sao đây? 

 Huệ Cập cũng có phần bối rối: 

 - Ta cũng không ngờ dây vào chuyện lôi thôi thế này. Hãy đợi ta ra xem sao. 

 Huệ Cập ra cổng phủ, đến phòng giam Vương Lão Nương quát hỏi tại sao lại la hét ầm ĩ trong phủ đường. Thấy mặt Huệ Cập, Vương Lão Nương lại càng gào thét to hơn, dậm chân đấm ngực. Kêu trời chửi đất, đòi kỳ được con gái. Huệ Cập đáp: 

 - Con gái của mụ, đã mất hết với ta rồi. Mụ mau mà xéo cho rảnh, không được phá phách ở nơi này đâu! 

 Vương Lão Nương gào lớn: 

 - Đừng có mà dọa ta. Dù có chết ta đi nữa thì ta cũng nhất quyết không chịu. Phải trả con gái cho ta. Ta côi cút một thân, được mỗi một mình nó, đã hứa gả cho người ta, chỉ còn ít ngày nữa là cưới, nếu không trả, đêm nay ta nhất định chết ở đây. 

 Huệ Cập tức tối: 

 - Mặc cho mụ nói, mụ có chết cũng chẳng dọa được ta. 

 Rồi quát bọn tay chân đẩy Vương Lão Nương ra cửa. Bọn này đứa lôi đứa đẩy, đứa đánh, đứa tát, lôi Vương Lão Nương ra khỏi cửa và lập tức đóng chặt cửa lại. Huệ Cập vẫn còn say máu, lại kéo một đoàn côn quang ra phố càn quét. Lúc này đã canh hai rồi. Cũng bởi Huệ Cập đã đến lúc tội ác chất đầy, dâm ô dã man, đã đáng tội chết, nên lại mới tìm đến việc này, lúc này. Đại phàm một miếng ăn, một ngụm uống, cũng còn là chuyện tiền định, huống chi chuyện sinh tử lớn lao của người đời, trốn tránh sao được ý trời. 

 Chính là: 

 Tái ông xưa có lời. 

 Ai liệu được lòng trời 

 Họa phúc chẳng tìm cửa 

 Người tự rước lấy thôi! (1) 

 1 Sách: "Hoàn Nam tử": ông già ở gần cửa ải, mất ngựa, mọi người tiếc thay. Ông lão nói: “Biết đâu đó chẳng là điều may mắn! . Vài ngày sau, con ngựa cái ấy rủ được một con ngựa Hồ tốt về. Ai nấy ngỏ lời mừng. Ông già chối: "Biết đâu đấy lại là điều họa!". Con trai duy nhất của ông lão cưỡi ngựa Hồ ngã, què chân. Mọi người an ủi, ông già thản nhiên. "Biết đâu đấy là phúc lớn". Giặc Hồ tràn vào, tất cả trai tráng phải ra chết trận. Riêng con trai ông lão vẫn được sum họp với gia đình. 

 Lại nói anh em Thúc Bảo, dạo chơi khắp kinh thành cũng vừa vế đến đây, thấy hàng trăm người đang xúm đen xúm đỏ, ai nấy mới cố lách vào xem, thì thấy một bà già, đầu tóc đã bạc, đang nằm lăn lóc trên mặt đường, Bá Đương hỏi người bên cạnh: 

 - Bà già này, có chuyện gì mà khóc giữa phố thế này? 

 Người này đáp: 

 - Xin các vị đừng quan tâm tới chuyện này mà lôi thôi lớn. Bà già này cũng vì không biết mình biết người, chẳng hiểu thời thế. Có một cô gái đã có người dạm hỏi, đợi ngày về nhà chồng. Mẹ con ra phố xem đèn, lập tức bị công tử Vũ Văn cướp mất con. 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Công tử họ Vũ Văn nào kia? 

 Người này đáp: 

 - Công tử con quan Thượng thư bộ binh Vũ Văn Thuật chứ còn Vũ Văn nào nữa. 

 Thúc Bảo hỏi thêm: 

 - Có phải là công tử vừa đứng ra mở cuộc thi đá cầu ở Tiểu giáo trường chăng? 

 Người này đáp: 

 - Đúng rồi? 

 Lúc này Thúc Bảo đã đem lời dặn dò của Lý Tĩnh vứt sang đất nước Trảo Oa ngoài hải ngoại ngàn dặm (1), lại hiện nguyên hình một kẻ "giữa dường thấy sự bất bình mà tha", chỉ còn nghe thấy thế, lòng đã sôi sục tức giận, hai mắt đỏ ngầu như lửa, lại gần bà già, hỏi: 

 1 Trảo Oa: tên gọi của đảo Giava Indonesia hiện nay. 

 - Bà tên họ là gì? 

 Bà già đáp: 

 - Già này họ Vương, ở ngay phía đằng sau phủ đệ của Vũ Văn tướng công. 

 Quốc Viễn nói: 

 - Bà hãy về nhà đi thôi. Lúc chiều ở Tiểu giáo trường của công tử Vũ Văn, chúng tôi có kiếm được mấy tấm lụa, mấy đỉnh bạc đây, chúng tôi sẽ đi tìm công tử, chuộc con gái về cho bà. 

 Bà già tin thực, vái bốn vái, vừa đi vừa khóc về nhà. 

 Thúc Bảo còn hỏi kỹ người đứng bên: 

 - Chuyện công tử Huệ Cập cướp đàn bà con gái này có thật không quý hữu? 

 Người này đáp: 

 - Chuyện này đâu phải hôm nay mới có, ngày mười hai vừa rồi làm một lần rồi. Phong tục ở Trường An này, đêm trăng rằm nguyên tiêu này, đàn bà con gái đều lên cầu ngắm trăng, chọn đúng dịp tốt này để hành sự, thì thật là xảo quyệt không lường. Ngày mai, chỉ cần gọi cha mẹ, chồng con gì đó đến phủ, thí cho mấy lạng bạc là xong. Nếu vẫn còn chống cự, công tử đánh chết, vứt xuống hố chân tường lấp lại chẳng ai dám đến đòi tiền, đòi mạng. Ngày mười ba, mười bốn vừa rồi lại tiếp mấy vụ thế này rồi. Tối nay đến lượt mẹ con bà già này thôi. 

 Lúc đầu, Thúc Bảo cũng có ý định dùng tiền lụa để tìm cách chuộc lại cô gái cho bà già, nhưng giờ nghe những lời này Thúc Bảo thay đổi ý định. Thúc Bảo lại hỏi thêm về những chuyện của Vũ Văn công tử, có người khuyên can: 

 - Các vị là bậc quan nha ở xa kinh thành mới về, có những chuyện chưa tường, nếu gặp gỡ công tử nói chuyện chuộc lại, sợ rằng không thông, công tử đã không vừa ý, các vị sẽ không khỏi bị tổn thương. 

 Thúc Bảo lựa lời đáp: 

 - Đúng là chúng tôi không biết công tử Vũ Văn ngang ngược đến vậy. Được các vị chỉ giáo cho biết, thế thì chúng tôi tránh mặt là tốt hơn cả, nhưng không hiểu công tử hay có mặt ở những nơi nào, vào những ngày này. 

 Có người thông thạo đáp: 

 - Công tử có hẳn một dãy lầu riêng trong phủ đệ họ Vũ Văn, chứa chấp toàn bộ côn quang, coi tính mạng chẳng vào đâu, sẵn sàng nhảy vào lửa nóng, băng lạnh. Vào giờ này, cả bọn mặc toàn áo mũ màu đỏ. Mỗi đứa cầm một cây tề mi đoản côn, hàng trăm đứa đi trước mở đường, bọn gia tướng theo sau để sẵn sàng giở đúng mười sáu ban võ nghệ, toàn những tay đao tay thương thuần thục, thế là thành một đoàn vừa hát ca vừa múa võ. Công tử cưỡi ngựa, phía trước, phía sau là một bọn áo thụng xanh, mỗi toán năm sáu tay, đều xách đèn lồng toàn làm bằng lụa hoa, bưng lò hương, giăng thành hàng. Ở Trường An, trong những ngày này, các phủ đệ lớn, đều có lập những ban múa hát, biểu diễn võ nghệ như thế, chúng tôi thường gọi là "xã hý", hay “xã hỏa" cũng thế. Các ban "xã hý" khác, nếu gặp công tử Vũ Văn là lập tức phải dừng lại để múa hát trổ tài nghệ. Nếu hay, công tử bằng lòng, thích chí thì cũng sẽ được thưởng lụa, bạc như đá cầu ở Tiểu giáo trường vậy. Còn không hay thì cứ thế đè ra, dùng côn mà nện. 

 Thúc Bảo lên tiếng: 

 - Đa tạ quý vị chỉ giáo! 

 Thế rồi cả bọn kéo đi ra phía đường ngự đạo của Trường An, nơi bọn Vũ Văn thường xuất hiện để tìm Huệ Cập. 

 Lúc này đã canh ba, trăng sáng như ban ngày, giữa lúc đang lang thang tìm, thì gặp bọn Vũ Văn. Quả đúng có tới mấy trăm tay đoản côn, đứa nào cũng đầy vẻ lang sói. Huệ Cập mặc áo thêu sặc sỡ, ngồi trên yên ngựa, bọn tay chân dẫn trước kéo sau. 

 Người xưa dã nói: "Bất thị oan gia bất đối đầu”, không có thù oán với nhau thì không gặp nhau. Bọn Thúc Bảo nép mình trong góc phố, thấy Huệ Cập tới liền bước ra, một người lên tiếng: 

 - Chúng tôi là gia tướng ở phủ Hạ Quốc Công Đậu đại nhân xin hầu công tử. 

 Huệ Cập hỏi: 

 - Các anh diễn võ gì? 

 Người này đáp: 

 - Dạ "Hổ Lao quan, Tam anh chiến Lã Bố" ạ. (1) 

 1 "Hổ Lao quan, tam anh chiến Lã Bố”. Ba anh hùng Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi đánh nhau với Lã Bố ở Hổ Lao quan ( Tam Quốc diễn nghĩa). 

 Múa xong, công tử khen hay, mọi người xin tiền thưởng. Lúc bấy giờ công tử cho mọi người đi, Thúc Bảo lại bước ra trước mặt công tử, mặt mày đã bôi vẽ khác hẳn, cao giọng thưa: 

 - Dạ, trình công tử, còn đám "xã hý” này nữa kia ạ! 

 Cả nhóm năm anh em Thúc Bảo, một người mang mặt nạ vẽ mặt chuột, tiến lên thưa tiếp: 

 - Chúng tôi xin diễn tích: "Ngũ mã phá Tào", cũng kể chuyện thời Tam Quốc ạ! 

 Huệ Cập lúc này mới chợt tỉnh, nhận ra là bọn này chỉ giả trang "xã hý" để giở trò, Thúc Bảo vung đôi giản đồng mạ vàng lấp lánh, Bá Đương múa tít hai thanh bảo kiếm. Tự Xương vung thanh kiếm quý gia truyền, Quốc Viễn tả xông hữu đột với đôi trùy cán vàng, Như Khuê múa tít cây roi thủy ma trúc tiết cương tiên. Tiếng giản, kiếm, roi, chùy va vào nhau nghe lạnh gáy, ánh lửa chói mắt, ai nấy thi nhau múa, đường phố tuy rộng, nhưng họ cứ tiến sát lại Huệ Cập mà múa, gió tạt cả vào mặt, làm Huệ Cập bắt đầu sợ hãi. Hai đầu phố, người xem đứng nghẽn cả lối, khiến Quốc Viễn trong lòng nghĩ thầm: "Giờ đánh nó chết thì cũng chẳng gì khó, nhưng người đứng chật cả hai đầu đường thế kia, không tài nào thoát thân nổi được, trừ phi ta đốt cháy mấy cái gác treo đèn này. Lúc ấy trăm họ sẽ đổ ra cứu hỏa, thì mới không cản trở đường rút chạy của anh em chúng ta được". Nghĩ rồi bèn chạy lên gác. Bọn Huệ Cập vẫn chưa nghĩ là Quốc Viễn lên lầu làm gì, hoặc giả Quốc Viễn chạy lên gác để rồi lại từ trên ấy múa võ xuống chăng, chẳng tay nào trong bọn nghĩ được Quốc Viễn lên để đốt gác, Thúc Bảo thấy gác bắt đầu cháy, liệu thế không thể nào dừng nữa, bèn nhảy ra ngoài vòng theo thế hổ vồ mồi, đến ngay trước ngựa của Huệ Cập, giơ cao đôi giản, giáng xuống đầu. Lúc này Huệ Cập đang ngồi trên yên ngựa, không kịp né tránh, hơn nữa, mỗi chiếc giản của Thúc Bảo nặng sáu mươi tư cân, bổ vào đầu cả đến con ngựa cao khỏe là thế cũng phải khụy xuống. Bọn gia tướng cùng lũ tay chân thấy thế, khủng khiếp gào lớn: 

 - Nguy to rồi! Đánh chết công tử rồi! 

 Đao, thương, côn bỗng xúm lại xung quanh Thúc Bảo. Thúc Bảo múa tít đôi giản đỡ khắp thân mình, Quốc Viễn từ trên gác cao nhảy xuống, vung mạnh đôi kim chùy, cùng các hào kiệt xông lại. Cả bọn người nào cũng: 

 Đầu nóng bừng bừng 

 Miệng la oai oái 

 Dữ như bò rừng 

 Hung như trâu dại 

 Đấm cho một mũi tím bầm 

 Đá cho trước sau bại hoại 

 Phong lưu tài tử, rơi mũ xõa tóc chạy tung 

 Mỹ mạo giai nhân, tụt giày, cuống chân ngã đại 

 Thây chồng phố lớn, xác kín ngõ cùng 

 Hồn lánh cây cao, máu trôi cỏ dại. 

 Đúng là: 

 Khí thế đạp phăng dinh phượng đỏ 

 Oai phong thét đổ lũ rồng xanh. 

 Bọn hào kiệt đành phải mở một đường máu, từ đường phố lớn chạy ra ngõ Minh Đức. Lúc này đã hết canh ba. Bọn lâu la ở ngoài cổng thành gồm hai mươi hai người, chờ chiều, chờ cơm tối, sắm sửa yên cương, hành lý xong xuôi, cùng kéo nhau ra giữa đường lớn đứng chờ chủ. Họ cùng nhau chia làm hai tốp, một nửa ở lại trông nom hành lý, yên cương, một nửa đi về phía cổng thành đón chủ, vừa là xem đèn hoa các phố gần đó, rồi lại quay lại, đổi cho bọn kia vào cổng thành. Đến canh ba, đã đổi nhau được mấy lần như thế rồi, thì thấy trăm họ trong thành, đầu bù tóc rối, chân lành chân què, áo quần tả tơi, hở cả da thịt, mặt mày mồ hôi mồ kê, bụi đất bám đầy, chân sưng trẹo, mặt sưng tím, kẻ gào người khóc, cứ thế mà chạy bán sống bán chết. Bọn lâu la đi vào cổng thành, thấy những chuyện này, cũng vội vàng chạy ra nói với nhóm giữ hành lý, yên cương: 

 - Anh em ơi, đúng là các ông chủ của ta đang chém giết gì đó ở trong thành rồi, đánh chết công tử Vũ Văn nào đó. Chi bằng ta hãy để vài người ở đây trông ngựa, đồ đạc, còn tất cả anh em có sức khỏe, hãy chạy nhanh vào cổng thành giữ cho bọn lính gác không được đóng cổng, nếu không cửa thành mà đóng, thì làm thế nào các ông chủ của chúng ta ra được! 

 Cả bọn lâu la tán thưởng: 

 - Nói có lý lắm! 

 Thế là mười tay lâu la lực lưỡng, kéo nhau vào cổng thành. Đến nơi, một bên thì giả vờ vào thành, một bên làm ra vẻ ra thành, gặp nhau giữa cổng, không bên nào chịu nhường bên nào, thế là xô xát, đội lính gác cổng thành, kéo lại dàn xếp không xong. Lúc này Kim Ngô tướng quân cùng Kim triệu phủ doãn (1), nghe báo có bọn người đánh chết công tử con quan thượng thư bộ binh Vũ Văn Thuật, sợ hung thủ trốn chạy khỏi kinh thành, lập tức cho lính cưỡi ngựa truyền lệnh đóng ngay cửa thành, nhưng rồi vẫn chưa đóng được. Bọn hào kiệt cũng vừa ở trong thành chạy ra, thấy cửa thành vẫn chưa đóng, đường sống vẫn còn, lập tức giơ vũ khí, cướp cửa mà chạy. Lũ lâu la, dưới ánh đèn, nhận rõ chủ mình, cũng giáng một đòn vào bọn lính canh cửa rồi rút theo chủ. Ngay bên đường nhận ra người ngựa của mình, anh em Thúc Bảo lên ngựa, lập tức ra roi, kéo mạnh dây cương phóng như tên bắn. 

 1 Kim Ngô tướng quân: viên tướng coi việc an ninh canh gác, tuần tra, giờ giấc trong kinh đô. Kim triệu phủ doãn: quan đại thần cai quản kinh thành, tương đương chủ tịch thành phố bây giờ. 

 Xé toạc lưới tơ giăng 

 Chạy thoát cả vảy gầm 

 Chim hồng lướt ngàn dặm 

 Mây gió cỡi chín tầng. 

 Bảy người cưỡi ngựa, theo sau là một đoàn đi bộ, chạy ra phía đường Đồng Quan, về phía chùa Vĩnh Phúc. Sài Quận mã muốn lưu Thúc Bảo lại, đợi thư của Lý Uyên, Thúc Bảo từ chối: 

 - Xin đa tạ Quận mã, nhưng chi sợ có kẻ nhận ra dấu tích thì quả là không tiện. 

 Thúc Bảo còn dặn kỹ phải phá ngay "Báo Đức tự", và cả đôi giản đắp giả đừng để người ngoài trông thấy, nói rồi lập tức bái biệt, lên ngựa ra roi. 

 Đến gần Thiếu Hoa sơn, Thúc Báo ngồi trên yên cương ngựa nói với Bá Đương: 

 - Sang năm ngày hai mươi ba tháng chín, là ngày lục tuần thượng thọ của thân mẫu Tần Quỳnh này, xin đại huynh đến dự lễ cho thêm phần trọng thể. 

 Bá Đương đưa mắt nhìn Quốc Viễn cùng Như Khuê rồi đáp thay cho cả bọn: 

 - Chúng tiểu đệ thế nào cũng xin có mặt. 

 Thúc Bảo không chịu lên sơn trại, hai bên chia tay, Thúc Bảo trở về Tế Châu. Chuyện không nói nữa. 

 *** 

 Lại nói, cổng thành sau khi thầy trò, bè bạn Thúc Bảo đã ra khỏi mới đóng được. Ở các phố các ngõ, số người chết, bị thương không thể kể hết, nhà cửa trăm họ bị thiêu ra tro cũng tính không xuể. Tối hôm ấy, trong phủ Vũ Văn Thuật, vì được nhà vua ra ơn, ban cho đèn trong tết nguyên tiêu, vì vậy có mỡ tiệc lớn ở đại đường, nến phượng khêu cao, dưới thềm nhã nhạc rộn ràng. Một nhà quyền quý, ơn vua nhuần thấm. Đương giữa lúc này nâng chén, ở ngoài phủ như một đợt sóng người trào vào, mãi không hết, ai nấy đều thi nhau gào to: 

 - Tướng công! Tai họa rồi! 

 - Đại nhân ơi! Khốn khổ thay? 

 Vũ Văn Thuật vội rời khỏi bàn tiệc, chạy ra thềm cao, giơ tay ra hiệu mọi người yên lặng. Lúc này mấy viên gia tướng trong phủ, mới có kẻ bước lên thưa: 

 - Tiểu chủ đang xem đèn ở cửa tây kinh thành, có một bọn cướp giả trang làm phường "xã hý", đã giết chết mất tiểu chủ rồi! 

 Vũ văn Thuật vốn rất yêu cậu con trai út này, nghe xong, lục phủ ngũ tạng như điên đảo, gào lớn: 

 - Con ta có thù oán gì với bọn cướp đường nào đâu, mà đến nỗi bị chúng đánh chết. 

 Bọn gia tướng, tất nhiên không dám kể hết tội ác, sự dâm đãng quá quắt của tiểu chủ, chúng bịa thêm những chuyện hoang tưởng để che giấu Vũ Văn Thuật: 

 - Tiểu chủ nhân có uống mấy chén rượu, cũng có đùa cợt với con gái Vương Lão Nương, mụ già này mới gào khóc kể lể với bọn cướp kia, bọn cướp mới tìm tiểu chủ để kết liễu tính mạng. 

 Vũ Văn Thuật hỏi: 

 - Thế mẹ con mụ già đâu rồi? 

 Gia tướng thưa: 

 - Mụ già không rõ đi đâu mất. Con gái hiện nhốt trong phủ. 

 Vũ Văn Thuật đùng đùng giận dữ: 

 - Mau lôi con tiện tỳ ra trước nghi môn, đánh kỳ chết cho ta. 

 Lại phái gia tướng tìm đến tận nhà Vương Lão Nương, có bao nhiêu người trong nhà, giết cho kỳ sạch mới thôi, còn nhà cửa, đồ đạc phá cho kỳ hết, đốt cho kỳ hết. Gia tướng nghe truyền, lôi ngay Uyển Nhi đánh chết vứt xác vào hố bên tường lấp lại, tìm đến giết kỳ hết mọi người trong nhà Vương Lão Nương. 

 Chính là: 

 Sắc kia nghiêng nước nghiêng thành 

 Chỉ là mối họa, gia đình tan hoang. 

 Vũ Văn Thuật vì mối hận khó nguôi, gọi bọn họa sĩ giỏi nhất trong phủ tới, hỏi kỹ bọn gia tướng có tham dự đánh nhau ngoài phố, kể lại thật kỹ diện mạo, quần áo mọi thứ của kẻ đã đánh chết Huệ Cập vẽ thành hình người, để sai tìm bắt kỳ được. Gia tướng đều thưa: 

 - Người này thân cao hơn trượng, tuổi khoảng hơn hai mươi, mặc quần áo màu xanh nhạt, múa đôi giản bằng đồng. 

 Nghe đến đôi giản bằng đồng, những gia đinh đang đứng hầu bên Vũ Văn Thuật có đứa vốn là đầu mục trong đội hộ vệ của Đông Cung vội quỳ xuống thưa: 

 - Trình đại nhân, nếu quả xử đôi giản như vậy, thì cũng dễ tìm ra. Tiểu nhân hồi năm Nhân Thọ thứ nhất, vâng mệnh đại nhân, tại Tra Thụ Cương đón đánh Đường Công, đã từng chạm trán với người này. Lúc ấy cũng chỉ vì có người này, mà chúng tiểu nhân không kết liễu được tính mạng Đường Công cùng gia quyến. 

 Vũ Văn Thuật tức tối: 

 - Nếu đúng như vậy, thì Lý Uyên biết rõ hồi đó ta tìm cách đón đường giết y, nên cho bọn người này tới đây báo thù. 

 Lúc này cả hai con trai Vũ Văn Thuật đểu có mặt. Hóa Cập vội tiếp lời: 

 - Thế thì chẳng cần phải nói lôi thôi gì nữa, ngay ngày mai đến tận chỗ Lý Uyên mà đòi mạng xem y trả lời ra sao. 

 Trí Cập cũng chửi Lý Uyên không tiếc lời, cũng đòi báo bằng được mối thù giết emày. Chỉ có Vũ Văn Sĩ Cập, có ít nhiều hiểu biết nghĩa lý, liền lặng lẽ phân giải: 

 - Cái này thì có chỗ chưa thật thỏa đáng. Thiên hạ thiếu gì người có hình dáng bên ngoài giống nhau, thiếu gì người xử đôi giản đồng như vậy. Nếu Lý Uyên muốn báo thù, việc gì phải chờ cho đến mãi ngày hôm nay. Chẳng bắt được tận tay kẻ giết người, cũng lại chẳng có một chứng cớ nào rõ ràng. Hơn nữa chuyện thấy giống người ở vụ Tra Thụ Cương, liệu có thể nói thẳng ra được không. Nên theo hình vẽ kia mà bắt người là tốt hơn cả thôi. 

 Vũ Văn Thuật thấy Sĩ Cập giảng giải như thế, cũng biết không thể đổ tội cho gia đình của Đường Công, nên ngày hôm sau chỉ nói là một kẻ không rõ tên, quê quán, đánh chết Huệ Cập, đốt cháy, cướp bóc nhà dân phố, giết chết nhiều người phải tức tốc bắt ngay.

 Không biết sự việc sẽ ra sao, xem hồi sau phân giải. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Mười Chín

Thả sức chưng dâm, tặng thiếp cha hộp giải lụa,

 Phóng tay thí nghịch, xốc con vua lên ngai vàng

 Thơ rằng: 

 Bụi tung đầu ngựa: bã vinh hoa 

 Mà lũ đần ngu chẳng nhận ra 

 Lòng hám nhà vàng cam phản chúa 

 Tỉnh mê má đỏ nỡ quên cha 

 Tiên Đô mây lạnh kinh hoàng mộng 

 Nhân Thọ hồn oan hiển hiện ma (1) 

 Nháy mắt mười ba năm phú quý 

 Nghìn thu chuốc một tiếng cười xòa. 

 1 sự Việc ở hai câu này thuộc hồi thứ hai mươi. 

 Việc bại hoại xấu xa nhất trên thế gian này, có thể quy vào bốn loại: tửu, sắc, tài, khí. Nghiện rượu, người cười rằng là con sâu rượu; ham của, người cười rằng đứa tham lam, chỉ có sắc và khí, người bảo rằng là do tính khí, cốt cách con người sinh ra, không nghĩ ra rằng là trong tính khí, cốt cách con người sinh ra, không nghĩ rằng trong sắc lẫn khí đều chứa đầy tai họa lớn nhỏ. Cũng như chuyện phẫn nộ nhất thời của Thúc Bảo ở trên chẳng hạn, đó chính là biểu hiện của khí và không ai nói rằng đó chính là nghĩa khí của bậc anh hùng. Cứ cho rằng đánh chết được Vũ Văn Huệ Cập đi nữa, nhưng rồi lại hại cả một nhà Vương Uyển Nhi, tàn sát biết bao người dân, phá đốt biết bao nhà cửa trong kinh thành Trường An, may mà chưa thiệt đến thân mình. Nhược bằng thân thác nơi đất khách, thì mẹ già, vợ trẻ, con thơ lấy ai nương tựa, nếu cứ bình tĩnh hơn, người lạnh hơn thì mọi chuyện sẽ ra sao. Còn nói đến chuyện sắc dục, nhất thời hứng khởi, chẳng cần nghĩ đến danh phận, trong chuyện đó nếu tai họa dẫn tới, may ra mà không có chuyện thân tan, địa vị không còn, ngồi trên thế cưỡi hổ, làm những chuyện ngược ngạo, để tiếng xấu nghìn năm sau, thì nói cho cùng ra, vẫn không thoát khỏi tội nước mất thân vong vậy, rốt cuộc lại cũng là chuyện sai quấy nữa. 

 *** 

 Hãy khoan nói chuyện Thúc Bảo trở về Tế Châu mà trở lại chuyện Thái tử Dương Quảng. Quảng đã thành công trong việc chiếm ngôi Đông cung Thái tử của Dương Dũng, tìm cách hại Lý Uyên nhưng không thành. Trước đó, Quảng còn ít nhiều sợ mẫu hậu Độc Cô hoàng hậu, nhưng sau việc thay ngôi Thái tử, Độc Cô cũng chết nốt, chẳng còn ai cho Quảng sợ, cho nên những việc phải ức chế thuở xưa: trang hoàng, y phục cổ không tỏ ra xa xỉ, không có dấu hiệu nào của sự ham muốn sắc dục đều được vứt bỏ thẳng cánh. Hơn nữa từ sau cái chết của hoàng hậu Độc Cô, chẳng còn bị theo dõi, câu thúc, Văn Đế tha hồ mặc sức sủng ái Tuyên Hoa Trần phu nhân cùng Dung Hoa Sái phu nhân, dần dần đem tất cả công việc triều chính giao cả cho Thái tử, cho nên càng ngày càng toại ý vừa lòng. 

 Đến năm Nhân Thọ thứ tư (1), Tùy Văn Đế đã ngoài sáu mươi tuổi vẫn chẳng chừa được hai lưỡi búa bổ vào người (2), dẫu vui vui thật, nhưng nhất định là hao tổn tinh thần, thể xác cũng ngày càng khó giữ được như xưa, nên cuối cùng chỉ còn yếu ớt như ánh trăng, nhợt nhạt như nước sương, chẳng còn sức sống, rồi đến tháng tư năm đó thì đổ bệnh. Sai Dương Tố xây cung Nhân Thọ, nhưng lại không ở trong nội thành Trường An, rồi chuyển sang cung Nhân Thọ dưỡng bệnh, đến tháng bảy năm ấy, thì bệnh tình ngày càng trầm trọng. Thượng thư tả bộc xạ Dương Tố, Lễ bộ thượng thư Liễu Thuật, một là huân thần, một là phò mã, cùng với Hoàng môn thị Lang Nguyên Nghiên, là cận thần, cả ba thay phiên nhau túc trực. Thái tử Quảng cũng túc trực ở ngay cung Đại Bảo, để tiện việc thường xuyên sang hầu hạ, vấn an. 

 *1 Nhân Thọ thứ tư: tức năm 604, sau công nguyên, ở Việt Nam ta là đang thời Hậu Lý Nam Đế, Lý Phật Tử. 

 2 Hai lưỡi búa: chỉ sắc và tửu. Rượu và gái dễ gây suy sụp sức khỏe, tinh thần con người. 

 Sáng sớm hôm đó, Thái tử vào cung vấn an, đúng lúc Tuyên Hoa phu nhân đang hòa thuốc cho Văn Đế. Thái tử thấy Tuyên Hoa, hoảng hốt cúi lạy, phu nhân tránh không kịp, đành phải chào đáp lễ. Xong xuôi, phu nhân lại thản nhiên hòa thuốc cho Văn Đế rồi bưng lại long sàng, đỡ Văn Đế dậy uống từng thìa nhỏ. 

 Thái tử lúc còn đang nhìn ngó ngôi Đông cung, cũng đã từng phải nhờ vả Tuyên Hoa phu nhân nói hộ ít nhiều trước mặt Văn Đế, cũng đã từng đưa đến biếu phu nhân nhiều vàng ngọc cùng các vật quý phu nhân đều thu nhận, nhưng hai bên cũng chưa từng gặp mặt. Mãi đến nay cùng vào hầu hạ thuốc thang, cũng chẳng cần tránh mặt nhau làm gì. Lại thấy Trần phu nhân, cử chỉ phong lưu, phong thái trang nhã . 

 Chính là: 

 Bạch ngọc bên da còn kém nhị 

 Mẫu đơn kịp sắc lại thua hương 

 Bên thềm ăn nói oanh đài các 

 Trước cửa vào ra liễu nhún nhường. 

 Lại thêm phu nhân cũng vốn dòng cành vàng lá ngọc, sinh ra, lớn lên trong chốn trướng gấm màn là, nói chẳng hết phong tư yểu điệu, Thái tử mới thoạt trông, đã hồn tiêu phách lạc, không thể nào ngăn được lửa dục bừng bừng, đứng bên cạnh, hai mắt mở thao láo, chỉ tại trước mặt phụ hoàng, chưa dám càn rỡ. 

 Lại một lần vào thăm người bệnh khác, từ xa đã trông thấy người đẹp, lại đi có một mình, phía sau chẳng thấy một cung nữ nào theo hầu. Thái tử ngẩng đầu nhìn, đúng là Trần phu nhân rồi, vội thay áo đi ra, cũng cố ý không cho người theo hầu. Thái tử lòng đầy cuồng vọng, thầm nghĩ: "Cơ hội là đây rồi chăng?". Rồi lặng lẽ một mình theo chân phu nhân vào phòng thay quần áo. Trần phu nhân thấy Thái tử vào, kinh hoàng kêu lên: 

 - Thái tử vào đây làm gì? 

 Thái tử cười đáp lững lờ. 

 - Thấy tiện thì vào vậy thôi! 

 Trần phu nhân thấy giọng nói, cử chỉ Thái tử đầy vẻ khinh bạc, quay người định chạy, Thái tử đã kịp túm giữ lại nói tiếp: 

 - Phu nhân, ta suốt ngày trước long sàng nhìn ngắm phu nhân, hồn như bay trên mây trên gió, nhưng thật là như cách vạn thủy thiên sơn. Nay may mắn gặp đây, xin phu nhân hãy giành cho ta một khắc để gọi là an ủi ước nguyện bình sinh của ta. 

 Phu nhân đáp: 

 - Thái tử, thân ta đã là của thánh thượng, sự cách biệt thân phận rõ ràng, sao lại có thể như vậy được? 

 Thái tử nhỏ nhẹ: 

 - Phu nhân hãy tỉnh táo mà nhìn rõ tình cảnh hiện nay. Người ta sinh ở đời vốn là để hưởng khoái lạc. Nói gì đến chuyện thân phận với thân phận. Gặp nhau được như thế này thì đúng là một khắc đáng nghìn vàng đó phu nhân. 

 Phu nhân vẫn giữ ý: 

 - Thái tử nói như thế sao được! 

 Rồi nhất quyết chống cự, nhưng Thái tử đời nào chịu buông tha, vẫn tiếp tục cười nói, khuyên lơn, cầu xin: 

 - Đại phàm kẻ biết thời thế, mới đáng gọi là bậc anh hùng. Phu nhân rõ hơn hết tình cảnh của phụ hoàng hiện nay, sao lại vẫn còn chấp nê đến vậy. Bây giờ mà phu nhân không chịu đến chút tình này của ta, chỉ sợ mai kia phu nhân có nghĩ đến thì cũng muộn rồi! 

 Miệng thì nói, mắt thì nhìn, mặt mày đầy vẻ dâm đãng, kẻ kéo lại người dằng ra, nhưng phu nhân thì yếu đuối, thân bồ phận liễu, Thái tử thì một kẻ nam nhi cường tráng, chính giữa lúc không còn đường nào khác, thì nghe ở bên ngoài tiếng gọi dõng dạc của thái giám: 

 - Thánh thượng truyền gọi Trần phu nhân! 

 Lúc này Thái tử biết có giữ lại cũng không xong, đành buông tay ra, còn hẹn nhỏ: 

 - Giờ thì ta không dám giữ, hãy chờ dịp khác vậy nhé! 

 Phu nhân lúc này mới hoàn hồn, nhưng quần áo, đầu tóc đều xộc xệch, mặt mày xanh xám. Thái tử cũng vội bỏ ra ngoài. 

 Trần phu nhân cố tự trấn tĩnh lại, đi vào cung biết rõ Văn Đế trong cảnh nửa mê nửa tỉnh, đang chờ phu nhân đem thuốc vào, nên vội vàng vào phòng. Không ngờ cành thoa vàng trên đầu, vì đã lỏng sẵn, giờ phu nhân cúi xuống nên rơi ngay vào cái chậu vàng, nghe tiếng rất rõ, làm Văn Đế tỉnh lại, mở mắt nhìn. Thấy phu nhân đang đứng trước long sàng, vẫn chưa giấu được vẻ hoảng hốt, Văn Đế bèn hỏi: 

 - Khanh tại sao có vẻ hoảng hốt thế? 

 Phu nhân hoang mang, không biết thưa thế nào chỉ cúi đầu nhặt cành thoa lên. Văn Đế lại hỏi: 

 - Trẫm hỏi, tại sao khanh không trả lời? 

 Phu nhân càng lúng túng, đành chối liều: 

 - Không, tâu bệ hạ, thiếp có hoảng hốt gì đâu! 

 Văn Đế thấy thái độ phu nhân khác thường, chú ý nhìn kỹ, thì thấy má hồng loang lổ, vết nước mắt vẫn còn, cổ họng vẫn còn tấm tức khôn ngăn, lại thêm đầu bù tóc rối. Càng thêm nghi ngờ, Văn Đế cao giọng: 

 - Khanh sao lại đến thế này? 

 Phu nhân đáp: 

 - Thiếp không, thiếp không sao cả? 

 Văn Đế tức tối: 

 - Trẫm xem ra hôm nay cử chỉ, mặt mày, đầu tóc khanh đều khác thường, nhất định có giấu chuyện gì, nếu không chịu nói, trẫm sẽ bắt tội chết! 

 Phu nhân thấy Văn Đế nổi giận, đành phải quỳ xuống thưa: 

 - Tâu bệ hạ! Thái tử vô lễ! 

 Văn Đế nghe dứt câu, tức giận tràn hông, lấy tay gõ gõ vào long sàng hai ba lần, rồi than: 

 - Thằng súc sinh như thế, làm sao mà giao việc lớn cho được. 

 Độc Cô hoàng hậu làm hại ta rồi! Mau gọi Liễu Thuật cùng Nguyên Nghiêm vào đây cho ta! 

 Thái tử vốn sợ chuyện vừa rồi của mình với Trần phu nhân không biết ra sao, nên vẫn còn ở trong cung để nghe ngóng. Thấy Văn Đế cho gọi Liễu Thuật cùng Nguyên Nghiêm mà không gọi Dương Tố, thì đoán ngay việc không xong rồi, vội vàng tìm ngay Trương Hành, Vũ Văn Thuật, bàn bạc kế sách đối phó. Gặp lúc cả bọn đang tụ tập một nơi, thấy Thái tử hoảng hốt tới, cả bọn túm lại hỏi duyên cớ. Nghe xong, Vũ Văn Thuật lên tiếng: 

 - Chuyện này thì cũng chỉ một sớm một chiều phải xong thôi, gấp lắm rồi. Cái bọn Liễu Thuật này, chúng ỷ thế Lan Lăng công chúa, lại mang danh trọng thần, không bao giờ thèm để mắt đến trăm quan, nhất định sẽ tìm cách sát hại Thái tử, nên làm thế nào cho tốt bây giờ? 

 Trương Hành đáp: 

 - Bây giờ có một kế phải làm ngay tức khắc. Nhưng thành bại hoàn toàn phụ thuộc vào nhà vua, chứ không đụng chạm gì đến Thái tử cả. 

 Đang nói thế, thì thấy Dương Tố vội vàng chạy tới thưa: 

 - Không rõ điện hạ làm gì xúc phạm đến thánh thượng, mà giờ thánh thượng gọi Liễu Thuật cùng Nguyên Nghiêm vào, bảo mau thảo chiếu, gọi Thái tử Dương Dũng vừa bị phế về triều. Chỉ cần chiếu viết xong, sẽ cho ngay quân hổ bôn đi Trường An. Y mà về đây, thì tất cả chúng ta đều là kẻ "cừu gia tử đệ” làm thế nào bây giờ? 

 Thái tử đáp: 

 - Trương Hành đang định đoạt mưu kế rồi! 

 Trương Hành ghé tai Dương Tố nói nhỏ mấy câu. Dương Tố nghe xong tính toán: 

 - Cũng không thể không làm thế được. Những việc này xin mời ngài Trương đi lo cho ngay. Chỉ sợ Liễu Thuật, Nguyên Nghiêm đã đưa được Thái tử Dũng bị truất ngôi về, thì sẽ lắm chuyện rắc rối. Cái này thì phải nhờ Vũ Văn tiên sinh, cùng với Thái tử giả một đạo thánh chỉ, vu cho hai gã Liễu Nguyên tội phản nghịch, đáng ngồi trong ngục Đại Lý tự, lại cũng giả thánh chỉ, tạm thời giải tán đội quân túc vệ, sai Quách Diễn lĩnh quân của Đông cung Thái tử giữ các nơi hiểm yếu trong nội cung, nhất định không cho người ngoài vào, cũng không cho một kẻ nào ở trong cung ra để đưa tin tức. Cần phải phái ngay một người đi Trường An, tìm cách giết Thái tử đã bị phế, để tuyệt hẳn sự trông ngóng của mọi người. 

 Nghĩ một hồi, Dương Tố lại tiếp: 

 - Việc này tốt hơn cả là nên sai chú em ta là Dương Ước, Ước vốn ở Doãn Châu lên đây, sai đi làm việc này nhất định là xong. 

 Trương Hành lại nói: 

 - Tiểu đệ vốn tay chân học trò, sợ việc không đương nổi, xin Dương bộc xạ lão thần giúp cho một tay mới nên. 

 Thái tử động viên: 

 - Trương Hành không nên chối từ, có phúc cùng hưởng. Ta có mấy ay nội thị rất được việc, xin đưa đến tùy ý sai phái. 

 Dương Tố cùng Thái tử quay về điện Thúc Bảo. Vũ Văn Thuật kéo theo cờ hiệu lẫn binh lính, đón đường bắt Liễu Thượng thư lẫn Nguyên Thị Giang, trói lại, giam vào Đại Lý tự, rồi trở về điện Thái Bảo tâu lại Thái tử. 

 Quách Diễn đem lính của Đông cung, thay thế cho quân túc vệ, lấy cờ hiệu của Đông cung, trấn giữ các nơi. Lúc này Văn Đế nửa thức nửa ngủ , hỏi : 

 - Liễu Thuật đã viết xong chiếu chưa? 

 Trần phu nhân thưa: 

 - Tâu bệ hạ, vẫn chưa mang trình. 

 Văn Đệ phán: 

 - Chiếu chỉ viết xong, sai ngay Liễu Thuật, phi ngựa có đội hổ bôn đi kèm, đem chiếu chỉ đi! 

 Trong lòng Văn Đế vẫn còn tức tối chưa nguôi, thì thấy bên ngoài vào tâu, Thái tử sai Trương Hành vào hầu. Lúc này Trương Hành chẳng còn chờ lệnh vua, kéo theo hơn hai mươi nội giám, rầm rập tiến vào, ra lệnh cho bọn nội thị đứng hầu: 

 - Đông cung Thái tử truyền chỉ rằng: các ngươi ngày đêm phục dịch vất vả, cho ta đem theo bọn nội giám này đến thay thế các ngươi. Cả các cung nữ đang túc trực bên long sàng cũng vậy. Thái tử sai nội thị đến trông nom, các ngươi tạm thời về nghĩ lúc nào cần đến, sẽ gọi sau. 

 Bọn cung nữ cùng nội thị, vì đã lâu phải phục dịch vất vả, ít ngày được nhàn rỗi, nay nghe lệnh thế, ùa nhau bỏ đi. Chỉ còn hai phu nhân Trần, Sái vẫn đứng cạnh long sàng túc trực. Trương Hành đến gần long sàng, thấy Văn Đế yên lặng, như tỉnh như mê, Trương Hành cũng chẳng chào, chẳng vái, cũng chẳng thèm lấy vẻ từ tốn, nói với hai phu nhân: 

 - Hai vị phu nhân, xin hai vị tạm lánh cho! 

 Trần phu nhân đáp: 

 - Sợ thánh thượng có cần gì chăng? 

 Trương Hành đáp liền: 

 - Đã có ta ở đây. Xin phu nhân lui ra để hoàng thượng tĩnh dưỡng. 

 Cả hai phu nhân, mắt đẫm lệ, không còn biết nói sao, đành phải đi ra, tìm một phòng gần đó ngồi. Khắp nơi trong cung, bọn nội thị trông coi, không cho ai ra vào. Hai phu nhân dù có lo lắng đến đâu cũng chỉ còn cách sai cung nữ đứng ở cửa ngoài nghe ngóng mà thôi. 

 Một lúc sau, Trương Hành đã nghênh ngang đi ra nói lớn: 

 - Hỡi các vị nội giám, cung nữ, hoàng thượng đã băng hà. Xin các vị hãy giữ kín, canh gác nghiêm ngặt, đừng vội báo cho Thái tử, cùng mọi người bên ngoài biết vội. 

 Lại cấm tất cả thân thích, cung nữ không được khóc lóc, đợi trình Thái tử xong sẽ cử ai phát tang. Bây giờ cung nữ, phi tần đều nghi hoặc, riêng Trần phu nhân trong lòng thầm nghĩ: "Rõ ràng là Thái tử sợ hoàng thượng hại mình, cho nên "tiên hạ thủ vi cường", ra tay trước thì mới giành được thế mạnh. Những chuyện này đều do ta mà sinh ra cả, Thái tử đang tâm giết cha mình, khó mà nói Thái tử có tha cho ta không, gặp phải kẻ độc ác đến thế, chi bằng tự tử quách thì hơn. Hoàng thượng vì ta mà chết, ta cũng vì hoàng thượng mà chết. Thế là đúng hơn cả". Nhưng rồi lại không dám làm gì cả. 

 Nhẹ tênh chẳng kém Triệu Phi Yến(1) 

 Cứng rắn e thua Ngu Mỹ nhơn. (2) 

 1 Triệu Phi Yến: Vợ vua Thành Đế nhà Hán, rất được vua yêu, người rất nhẹ, có thể đứng trên tay người khác mà vừa hát vừa múa. 

 2 Ngu Mỹ nhân: vợ Hạng Vũ, cả hai bị quân Lưu Bang vây rất gấp ở sông Ô. Hạng Vũ trù trừ không muốn phá vòng vây vì không muốn bỏ Ngu Cơ. Ngu Cơ cầm kiếm tự tử, để Hạng Vũ quyết chí! Nhưng cũng chẳng hơn gì! 

 Lại nói bọn Thái tử Dương Quảng, cùng Dương Tố, lúc này ngồi ở điện Thái Bảo, cũng chẳng khác gì lũ kiến ngồi trong chảo rang nóng, chờ mãi vẫn chẳng thấy tin tức gì. Mỏi mắt mới thấy Trương Hành tới, vội vội vàng vàng bước vào thưa: 

 - Xin có lời mừng Thái tử cùng bộc xạ, việc lớn đã xong xuôi cả. Nhưng chỉ xin Thái tử làm thế nào để mọi người thấy không có gì khác thường. 

 Thái tử thấy Trương Hành nói thế đang vui vẻ bỗng quay sang buồn rầu. Vội lục giấy tờ, ghi những công việc dự định đã bàn với Dương Tố, giao lại cho Dương rồi nói: 

 - Những việc này xin nhờ Dương bộc xạ cùng Trương Hành lo liệu cho. Ta phải đi đây! 

 Dương Tố nghe Thái tử sai khiến, liền làm hàng loạt lệnh chỉ. Lệnh cho Doãn Châu thứ sử Dương Ước sau khi đi Trường An công cán xong xuôi, không cần phải về Đại Thọ cung phục chỉ, mà ra làm Kinh triệu phủ doãn, nắm quyền cai quản kinh thành tức khắc. Lương Quốc Công Tiêu Cử, vốn là em ruột của Tiêu Phi giữ chức Đề Đốc kinh sư thập môn: Quách Diễn lãnh thư tả lãnh vệ Đại tướng quân, cai quản lính tráng, ngựa xe ở kinh thành; Vũ Văn Thuật thăng tả lãnh vệ Đại tướng quân, cai quản quân túc vệ trong cung kiêm việc hộ tùng xa giá nhân mã; Phò mã Vũ Văn Sĩ Cập quản lãnh các cung điện ở kinh đô, cùng với Vũ Văn Khải quản lý các việc ở Tự Cung; Đại phủ thiếu khanh Hà Điều, quản lý sơn lăng, Hoàng môn thị lang Bùi Cử, Nội thị lang Ngu Thế Cơ, coi sóc việc tang lễ, Trương Hành xung làm Lễ bộ thượng thư, lo việc tức vị đăng quang của vua kế nghiệp. 

 Không nói chuyện bận rộn của bọn Dương Tố, hãy nói chuyện Thái tử, thấy Trương Hành nói vậy, lập tức trở ra chuẩn bị mọi việc. Sai tả hữu lấy một cái hộp nhỏ bằng vàng kín đáo bỏ vào hộp một vật gì đó, đóng kỹ hộp, bên ngoài lấy lụa điều gói chặt, rồi lại bỏ vào trong một cái hộp lớn hơn, viết chữ lên, đóng dấu cẩn thận, sai một viên nội thị, đem vào ban cho Trần phu nhân, dặn phu nhân phải tự tay mình mở ra. Nội thị vâng mệnh, vội đem vào nội cung. 

 *** 

 Lại nói Trần phu nhân, từ lúc bị Trương Hành bức trở về hậu cung, sau đó nghe tin vua băng, trong lòng mười phần lo sợ, khóc lóc liên miên, chẳng hề ăn ngủ, nay lại thấy nội thị đến dâng trình hộp vàng: 

 - Tân đế ban cho phu nhân cái hộp này, sai kẻ hầu này đem tới Xin phu nhân tự mở xem. 

 Rồi cung kính đặt hộp lên bàn. Phu nhân trông qua, trong lòng vô cùng lo sợ, không dám mở, bèn hỏi nội thị: 

 - Bên trong có phải thuốc độc không? 

 Nội thị thưa: 

 - Hộp này tân đế tự tay đóng gói, kẻ hầu này không thể biết được. Xin nương nương cứ mở ra là biết ngay thôi mà! 

 Phu nhân thấy nội thị chối không biết, lại càng tin là độc dược, trong lòng đột nhiên đau quặn, nước mắt như suối tràn, lên tiếng khóc rống: 

 - Thiếp từ lúc nước mất, bị bắt làm nô tỳ, những tưởng không sống nổi, khi phải kéo lê thân trói buộc hết dặm dài ngắn, may được tiên đế yêu thương, tưởng kiếp này gặp đại phúc. Nào ngờ hồng nhan bạc phận, chuyển thành chuyện tai họa dường này. Chẳng thà lưu lạc nơi dân dã, may còn được bảo toàn tính mạng. 

 Vừa nói vừa khóc, rồi lại tiếp: 

 - Thiếp đội ơn tiên đế rất trọng, nay có thác xuống tuyền đài, thật cũng cam tâm. Những việc vừa qua, thiếp không có gì lắt léo, cũng chẳng làm điều gì xúc phạm đến tân đế, không hiểu sao lại có chuyện ban cho độc dược này? 

 Nói xong lại khóc. Bọn cung nữ cũng tưởng là hộp độc dược, nên tất cả đều khóc, kẻ to người nhỏ. Nội thị thấy thế, sợ xảy ra chuyện gì ầm ĩ thì lôi thôi đến mình, nên giục phu nhân: 

 - Phu nhân khóc cũng vô ích, xin cứ mở ngay hộp ra, nhìn cho kỹ, xem có độc dược không? Kẻ hầu hạ này còn trở về phục chỉ. 

 Phu nhân bị thôi thúc không biết làm thế nào. Chỉ còn cách thốt thêm một câu than vãn: 

 - Hôm nay là kết quả của thân này chăng? 

 Rồi chùi nước mắt mở các lớp giấy lụa gói ra, nhẹ nhàng mở hộp vàng nhỏ ở bên trong, nhìn thật chăm chú, thì chẳng thấy thuốc độc đâu cá mà chỉ là mấy giải lụa ngũ sắc, kết thành một quả đồng tâm. Bọn cung nữ trông ra, nhất loạt vui mừng: 

 - Mừng nghìn mừng vạn rồi phu nhân ơi! Khỏi chết rồi? Khỏi chết rồi! 

 Phu nhân thấy không phải độc dược, lòng cũng bớt lo sợ, biết ngay rằng Dương Quảng cũng chưa thể quên mình, trong lòng cũng không thật thanh thản. Cũng không cầm giải đồng tâm, cũng không làm lễ tạ ơn, quay người đi vào, ngồi im lặng trên giường, không nói một lời. Nội thị lại thôi thúc: 

 - Tân đế chờ đã lâu rồi, kẻ hầu hạ này phải trở về hồi chỉ, xin phu nhân mau làm lễ tạ ơn đi cho. 

 Phu nhân vẫn ngồi cúi đầu không đáp một lời, bọn cung nữ khuyên giải: 

 - Phu nhân hãy mau ra làm lễ cho, tân đế chờ lâu, sinh tức giận. Nay tân đế đã không ghét bỏ, lại còn ban giải đồng tâm thế này, thật là trăm phần hãnh diện. Sao lại còn lưỡng lự, đắn đo. Tân đế biết được, nổi cơn tức giận, thì phu nhân lại phải quay lại khóc như vừa rồi ngay. Xin phu nhân hãy mau ra tạ ơn cho! 

 Tả thôi hữu thúc, phu nhân không biết làm thế nào, chỉ đành thở dài mà than: 

 - Những nỗi hổ thẹn trong cung kín, ta đã biết là khó tránh khỏi! (1) 

 1 Kinh thi: "Trung cấu chi ngôn", nghĩa là lời nói trong phòng kín, trong chỗ vợ chồng, Trần Phu nhân nói: "Trung cấu chi tu ngã tri nan văn!". 

 Rồi gượng đứng dậy, lấy giải đồng tâm ra, đặt trên bàn, cùng với hộp vàng, vái luôn mấy cái, xong rồi lại quay về giường ngồi như cũ. Nội thị thấy giải đồng tâm đã được lấy ra, liền cầm lấy hộp không về phục chỉ. Chuyện không nói nữa. 

 Trần phu nhân tuy nhận giải đồng tâm, nhưng trong lòng buồn bã không vui, ngồi lặng một hồi, rồi quay ra giường ngủ. Bọn cung nữ không dám tỏ lời khuyên can gì nữa, chỉ sợ không biết lúc nào tân đế sẽ đến, cho nên cả bọn đều ra sức thu dọn, quét tước sạch sẽ, ngăn nắp, đốt long diên hương trong lò vàng, căng màn thuỷ mạc, kéo giải rèm ngọc. Chẳng bao lâu, mặt trời đã về tây, rồi trên trời đã xuất hiện vầng trăng tròn đầy, thì thấy tân đế cùng mấy cung nữ cầm mấy cái đèn lồng làm bằng lụa trắng, lặng lẽ tới tìm Trần phu nhân. Trong cung thấy tân đế tới, vội vàng vào giường bẩm với phu nhân. Phu nhân trong lòng buồn rầu, vừa mới chợp mắt, bị cung nữ lay dậy, giục rối rít: 

 - Tân đế tới rồi! Mau dậy nghênh tiếp đi phu nhân! Tân đế tới rồi! 

 Phu nhân mơ mơ màng màng, vẫn chưa dậy ngay, đã bị cung nữ đỡ dậy, đẩy ra nghênh tiếp tân đế. Vừa bước xuống thềm, tân đế đã đứng trên điện. Phu nhân trông lên, trong lòng vừa thẹn vừa buồn, nhưng đã đến lúc như thế này, làm thế nào mà chống cự cho được, phu nhân đành cúi sát đất khe khẽ thưa: 

 - Vạn tuế! 

 Tân đế vội kéo dậy. Đêm hôm ấy, tân đế ngủ lại trong cung Trần phu nhân. 

 Tháng bảy năm ấy, làm lễ táng Văn Hoàng đế, mọi việc chuẩn bị xong xuôi. Dương Tố theo hầu tân đế, mặc đồ tang vải gai, làm lễ cử ai, phát tang ở Tử cung. Quần thần đều mặc tang phục các ban thứ lần lượt đứng túc trực. Sau đó tân đế thay cát phục, bái cáo trời đất tổ tiên, đội mũ vương miện vào lên ngai vàng. Quần thần cũng đã thay tang phục bằng triều phục, lần lượt vào làm lễ mừng. Bất ngờ lúc tân đế lên ngai vàng, cũng không rõ là do quá mừng rỡ, hay quá hoảng loạn, hoặc có quỷ ám trong người, lòng không yên ổn, nên lên đến trước ngai vàng, tinh thần hoảng hốt, tay chân luống cuống, ngai vàng lại cao, vừa giơ một chân bước lên, còn đang bước tiếp, thì ở dưới thềm vàng, đội nghi vệ nổi ba tiếng trống để bắt đầu tấu nhạc. Lòng đang không yên, bỗng nghe tiếng trống, bước chệnh choạng, một chân vấp mạnh, đảo điên như muốn ngã lăn ngay. Dương Tố đứng ngay cạnh thấy mất cả vẻ tôn nghiêm, vội vàng chạy lên. Tuy đã nhiều tuổi, nhưng xuất thân võ tướng, sức lực vẫn còn, chỉ vài bước, một tay đã đỡ được tân đế, tay kia theo đó, nhẹ nhàng kéo tân đế lên ngai vàng, rồi vội vàng quay trở xuống, dẫn dầu trăm quan, tung hô vạn tuế. 

 Chính là: 

 Đừng tưởng trên đời dễ ác gian 

 Lòng trời vốn ghét kẻ vô nhân 

 Mười năm thiên tử tuy là số 

 Trời hại bao lần có biết thân. 

 Tân đế ngồi trên ngai vàng hồi lâu, tinh thần ổn định trở lại, lại thấy trăm quan chúc mừng, biết không có chuyện gì đáng lo, lòng càng yên ổn. Liền truyền chỉ một mặt sai các quan đi các vương phủ, châu, trấn báo tang, một mặt chiếu chỉ lên ngôi, để báo cáo trong ngoài: sang năm lấy làm năm Đại Nghiệp thứ nhất, thăng thưởng cho bá quan văn võ, trước hết là các quan "tòng long" (1), sau mới đến các quan dương triều, khao thưởng các quan quân ở biên trấn, đại xá thiên hạ, ban gấm lụa cho các bậc lão thọ. 

 1 Tòng long, những kẻ theo, có công với nhà vua từ lúc chưa được lên ngai vàng. 

 Ngoài ra, Dương Tố, Vũ Văn Thuật, Trương Hành vừa được thăng chức, vừa được ban thưởng, đều là chuyện không cần nói tới. 

 Lại truy phong Thái tử Dương Dũng đã bị phế làm Phòng Lăng Vương, để che đậy việc chính tân đế đã giết hại anh mình. Lúc này ở trong triều, trong cung thì có bọn Dương Tố trông coi, ở Trường An thì có Dương Ước trấn áp, cả triều đình đều mừng rỡ vì đã không xảy ra một biến cố lớn nào. Nhưng ở trăm họ, dân chúng thì đồn ầm chuyện giết cha, hại anh để chiếm ngôi cao, chẳng còn gì nữa đạo lớn: quân thần, phụ tử, huynh đệ. Cái gốc đã mất, thì làm sao có thể yên, máu mủ trăm họ, đâu chỉ một cành một lá, thói hoang dâm vô đạo cũng không chừa, thì làm sao có thể tránh được chuyện trời nổi cơn thịnh nộ. Dân hết lòng oán giận, dẫn tới họa nước mất, nhà tan. 

 Chẳng biết tân đế còn làm những chuyện gì, xin xem hồi sau sẽ rõ. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Hai Mươi

Hoàng hậu đội lốt cung nga, mua ân bán ái,

 Quyền thần buông lời ủy mị, đất diệt trời tru.

 Thơ rằng: 

 Vườn ngô tràn cỏ rậm 

 Lầu Việt ngập cáo cầy 

 Thuyền lan không đậu bến Cô Tô 

 Chức nữ lỡ dịp cầu ô thước 

 Cát vàng đục 

 Dâu bãi tàn 

 Hây hây một phấn má đào 

 Hỏi rằng bóng dáng ra vào nơi nao? 

 Vần trăng ngơ ngác nhạt màu 

 Vô tình chiếu cảnh chim âu nước bèo 

 Tan tan hợp hợp bởi đâu? 

 Theo điệu "Vu sơn nhất đoạn vân" 

 Sao sa, chớp giật, vốn là những thứ ngắn ngủi trên đời, nhưng còn ngắn hơn nữa là má đào, là tóc xanh. Trong vòng bảy mươi năm đời người, da hồng tóc xanh, liệu được mấy năm, dẫu là Phan Phi của Đông Hôn Hầu, mỗi bước lại nở một bông sen vàng (1), hoặc người đẹp như cây ngọc ở hậu đình của Trần Hậu Chủ, tính xem được bao ngày. Nếu đem so với thế lực nghiêng trời của bọn gian thần một thuở hung ác sáng ra hết đời, chỉ trong khoảnh khắc còn gì nữa đâu? Thì phải chăng cũng chẳng khác gì má hồng tóc xanh vậy thôi. Cũng một đường như nhau cả, sớm nở chiều phai. 

 1 Phan Phi: theo "Nam sử” thời Tề, Đông Hôn Hầu có người vợ yêu là Phan Phi rất đẹp. Đông Hôn Hầu sai người làm hoa sen bằng vàng, giát xuống nền nhà. Mỗi lần nhìn Phan bước trên hoa, Đông Hôn Hầu khen: "Một bước lại nở một bông sen vàng”. 

 *** 

 Lại nói Tùy Dượng Đế từ khi lên ngôi báu, hễ cứ thoái triều, lại về ngay Tuyên Hoa cung, mặc sức hưởng lạc tìm vui, cứ thế kéo dài hàng tháng trời. Ban đầu Tiêu hậu ở Đông cung, vốn lâu nay sắt cầm hòa hợp, chẳng mấy khi cách mặt ân ái mặn nồng, nay được lập làm hoàng hậu, thì lại bị ghẻ lạnh. Tiêu Hậu lúc đầu cũng nghĩ Dượng Đế đang có tang thượng hoàng, nên giữ lễ ở riêng một chỗ, sau điều ra tiếng vào, biết rõ chuyện Dượng Đế ngày đêm mặc sức dâm đãng ở Tuyên Hoa cung, thì nổi giận đùng đùng: 

 - Vừa mới lên ngôi hoàng đế, mà đã dâm loạn như thế, mai này còn đến mức như thế nào mới vừa lòng, toại ý? 

 Hôm ấy vừa dịp Dượng Đế thoái triều vào cung, Tiêu Hậu túm lấy mà xỉ vả: 

 - Đẹp mặt hoàng đế chưa, mới lên ngôi được mấy ngày, mà đã vội phụ ngay hoàng hậu này, gian dâm với thiếp của vua cha, nếu làm hoàng đế vài năm nữa, vợ thiên hạ đều bị bệ hạ cưỡng ép tất cả mất thôi? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Thì cũng là cái hứng nhất thời, hoàng hậu làm gì mà giận dữ ồn ào đến thế. 

 - Nhất thời với chẳng nhất thời, thiếp cũng chẳng cần bệ hạ. Thiếp chỉ tới bắt nó nhốt vào lãnh cung, không cho gặp nhau nữa, thế là xong. Nếu vẫn còn quyến luyến không rời nhau ra được, thiếp sẽ ban một đạo ý chỉ (1), nói rõ những chuyện xấu xa cho cả trăm quan họ rõ, để xem bệ hạ sẽ ra người như thế nào? 

 1 Ý chỉ: Lệnh của hoàng hậu. Ý nghĩa là tốt đẹp, đức hạnh dùng để chỉ về hoàng hậu. 

 Dượng Đế vội vàng khuyên lơn: 

 - Hoàng hậu không nên nóng nảy, vội vàng quá như vậy. Hãy khoan khoan để ta còn lo liệu nữa chứ! 

 Tiêu Hậu đáp: 

 - Còn lo liệu như thế nào nữa. Nếu bỏ nó không được, thiếp sẽ sai cung nhân kéo đến làm nhục nó một hồi, xem nó còn biết xấu hổ nữa không nào? 

 Dượng Đế vốn vẫn sợ Tiêu Hậu, nay thấy Tiêu Hậu định làm to chuyện như vậy, trong lòng rất hoang mang, đành phải đứng dậy van nài: 

 - Hoàng hậu nói nhỏ thôi. Chờ trẫm nói cho Tuyên Hoa rõ, rồi tự Tuyên Hoa tìm đường khu xử, trẫm sẽ quay lại đây, chịu tội với hoàng hậu. 

 Tiêu Hậu đáp: 

 - Nói với nó thế nào thì mặc bệ hạ. Có quay lại đây nữa không cũng tùy bệ hạ. Còn thiếp có cách đối phó của thiếp. 

 Những lời qua tiếng lại này giữa Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, lập tức có người báo cho Tuyên Hoa phu nhân. Phu nhân nghe ra, khóc lóc thảm thiết, thì thấy cung nữ báo Dượng Đế tới. Tuyên Hoa chỉ đành nuốt nước mắt, cúi đầu ra nghênh tiếp. Dượng Đế lại gần nhìn kỹ, thấy mặt ủ mày chau, ngấn nước mắt vẫn còn, mới nói: 

 - Vừa rồi trẫm cùng hoàng hậu nói chuyện, có lẽ phu nhân cũng đoán được ít nhiều. Nhưng trẫm đã có chủ ý, hãy cứ thử xem hoàng hậu định làm gì đã. Trầm nghĩ hoàng hậu cũng không nhẫn tâm hành hạ phu nhân đâu. 

 Tuyên Hoa thưa: 

 - Thiếp vốn xuất thân ty tiện, năm xưa đã từng đắc tội với tiên đế nay lại làm khổ bệ hạ. Dẫu có chết cũng đã đủ tội rồi. Nay chỉ xin bệ hạ theo đúng ý chỉ của hoàng hậu, đem thiếp nhốt vào lãnh cung, cho đến lúc bạc tóc trong ngạch cửa, chỉ có thế mới là kế lâu dài được. 

 Dượng Đế than thở: 

 - Tình nặng nghĩa dày là trọng, còn sinh tử là chuyện khó bàn. Trẫm cùng phu nhân, cuộc vui tuy chưa dài, nhưng ân tình cũng sâu tựa biển. Nay trẫm với phu nhân dẫu chỉ được sống với nhau như vợ chồng dân thường, trẫm cũng cam lòng, chứ làm sao trẫm có thể nhẫn tâm cắt ái đoạn ân, lòng nào mà bỏ phu nhân cho được! 

 Tuyên Hoa níu lấy Dượng Đế khóc lóc rất bi thương, rồi lại van lơn: 

 - Thiếp không phải tính ương ngạnh. Nhưng nếu quá ham muốn chuyện này, sẽ làm hỏng cả tiếng tăm của bệ hạ. Thiếp nhớ tới chuyện cung nữ Uất Trì của tiên đế ngày nào, chỉ sợ lại dẫm phải vết của người xưa. Lại thêm chuyện giận dữ của hoàng hậu sáng nay, thiếp sợ lại sẽ không còn đất chôn, bệ hạ hãy tính kế trước cho thiếp nếu cứ ngồi chờ, sợ hối không kịp vậy! 

 Nghe Tuyên Hoa nói đến đây, Dượng Đế lại than thở: 

 - Nghe những lời của khanh, khanh oán hận tình của trẫm quá mỏng manh, nhưng nhìn cho thật rộng lượng, mới thấy lòng trẫm thật đớn đau, chua xót. 

 Rồi sai một bọn thái giám, ra cung Tiên Đô ở bên ngoài qut dọn sạch sẽ, đưa Tuyên Hoa phu nhân ra đó, các thứ chi dùng, ty giám cứ theo lệ cũ mà cấp đầy đủ. Hai người vốn đang sắt son gắn bó, một sớm phải xa nhau, nói rồi lại nói, nhìn rồi lại nhìn. Dượng Đế không nỡ chia tay, nhưng Tuyên Hoa cố từ tạ nhiều lần, Dượng Đế mới cho ra khỏi cung nội để đến Tiên Đô cung. 

 Chính là: 

 Tử biệt thường ấm ức 

 Sinh ly những nghẹn ngào 

 Thân em gió dạt sóng dào 

 Luống đem nhan sắc gán vào hợp tan. 

 Tùy Dượng Đế từ khi Tuyên Hoa ra đi, ngày đêm như tỉnh như mê, thở ngắn thở dài, chợp mất là mộng thấy Tuyên Hoa bên cạnh. Tiêu Hậu thấy tình trạng Dượng Đế đến thế, nghĩ rằng có ngăn cấm càng thêm nguy hại, bèn lựa lời thưa với Dượng Đế: 

 - Thiếp cũng vì muốn giữ tình phu phụ, nên mới khuyên bệ hạ bỏ Tuyên Hoa, không ngờ bệ hạ quyến luyến đến như thế, thế thì sợ thiếp lại ra người ghen tuông ác nghiệt, chia rẽ Sâm Thương. Chính ý thiếp là muốn gắn bó hơn mà việc làm lại hóa ra càng xa cách. Chi bằng bệ hạ truyền chỉ, triệu Tuyên Hoa về cung, sớm tối bỏ lòng khát khao của bệ hạ, thiếp cũng lại được thấy mặt rồng hớn hở vậy. Như vậy có phải cả hai cùng vui vẻ hay sao? 

 Dượng Đế cười đáp: 

 - Nếu quả như thế, hoàng hậu còn hiền đức hơn cả người xưa. Chỉ sợ hoàng hậu nói đùa cho vui vậy thôi! 

 Tiêu Hậu khẳng định: 

 - Thiếp làm sao lại dám đùa bệ hạ! 

 Dượng Đế cả mừng, thế này thì cần phải chờ đợi gì nữa, sai ngay nội giám, phi ngựa triệu Tuyên Hoa về cung. 

 *** 

 Lại nói Tuyên Hoa từ ngày ra khỏi cung cấm, lòng chẳng còn mong có ngày sẽ được vua yêu, cho nên cũng chẳng nghĩ gì đến chuyện tô mặt vẽ mày, suốt ngày sống trong an nhàn tự tại. Hôm ấy bỗng thấy nội giám đem thánh chỉ truyền triệu vào cung. Tuyên Hoa bèn nói với sứ giả: 

 - Thiếp ơn thánh thượng được cho ra ngoài này, cũng như hoa rơi nước chảy, sao lại có chuyện trở về này được. Ngài hãy vì thiếp mà từ tạ với thánh thượng. 

 Nội giám thưa: 

 - Chúa thượng trong cung, đã có chỉ tuyên triệu phu nhân, một giờ một khắc cũng không thể chậm, kẻ hầu này làm sao dám tay không mà trở về phục chỉ cho được! 

 Tuyên Hoa nghĩ ngợi hồi lâu, rồi lên tiếng: 

 - Thiếp có cách cư xử rất tốt rồi! 

 Rồi lấy một tờ hoa tiên, viết một bài từ, đọc đi đọc lại, gấp thành hình một bông hoa xinh xắn, rồi giao cho nội giám: 

 - Hãy vì thiếp mà cầm cái này về tạ chúa thượng! 

 Nội giám không dám ép nài, chỉ còn cách cầm bài từ về trình lên Dượng Đế. Dượng Đế vội vàng mở ra xem, thì là một bài "Trường tương tư" như sau: 

 Hồng đã thưa 

 Biếc đã thưa 

 Đa tạ gió xuân nắng tình đưa 

 Hoa tàn khó như xưa 

 Đắc sủng ngờ 

 Thất sủng ngờ 

 Trông mặt hội vui mấy thuở giờ 

 Mãi xót xa đợi chờ. 

 Dượng Đế xem xong cười nói: 

 - Phu nhân lại sợ ta bỏ phu nhân. Nhưng nay hoàng hậu đã có lời như thế, ai còn nỡ bày chuyện chia ly nữa mà lo lắng mãi. 

 Rồi cũng sai tả hữu lấy văn phòng tứ bảo, theo bài từ của Tuyên 

 Hoa mà họa lại nguyên văn như sau: 

 Mưa không thưa 

 Móc không thưa 

 Xin hóa gió xuân sớm chiều đưa 

 Hoa cỏ tốt như xưa 

 Ân chẳng ngờ 

 Ái chẳng ngờ 

 Ngày đêm hội ngộ chẳng đợi chờ 

 Sống chung đến bao giờ. 

 Dượng Đế viết xong, cũng gấp thành một bông hoa, giao cho nội giám đem đi. Tuyên Hoa đọc bài từ này, thấy tình của Dượng Đế vẫn còn nồng nàn, không tiện từ chối nữa, lại vẽ lại mày ngài, tô lại má phấn, trèo lên hương xa vào cung. Dượng Đế khác nào như sống lại, cùng Tuyên Hoa tìm đến Tiêu Hậu, Tiêu Hậu trông thấy, trong lòng tất cũng không thoải mái, nhưng vì hiểu rõ tính tình Dượng Đế, nên làm ra vẻ bao dung, vui vẻ cả cười, sai sắp yến tiệc để chúc mừng hội ngộ. Chính là: 

 Gió xuân năm mới đẹp vô ngần 

 Ấm áp lâu dài, sạch bụi trần 

 Ngõ cũ chàng Tiêu nay gặp lại (1) 

 Thiên Thai Lưu Nguyễn mãi tương thân (2) 

 1 Toàn Đường thi thoại: Thôi Giao có người thiếp yêu bị bắt bán cho tướng 

 Liêu. Thôi làm thơ: “Cửa tướng đã vào thì sâu tựa biển, từ đấy chàng Tiêu chỉ là khách qua đường “. về sau, tướng liêu biết chuyện, cho hai người đoàn tụ. 

 2 Thần tiên ký: Lưu và Nguyễn vào núi Thiên Thai hái thuốc, lạc đường kết duyên với hai nàng tiên sổng rất hạnh phúc. 

 Từ đấy Dượng Đế cùng Tuyên Hoa sớm chiều hoan lạc, so với trước đây ngày càng đậm đà. Chưa đầy nửa năm, ai hay trăng tròn khuyết bất thường, hoa đẹp dễ tàn, hồng nhan bạc phận, Tuyên Hoa bị bệnh mà mất. Dượng Đế đau đớn, lệnh cho Hiếu ty làm lễ tang rất trọng thể rồi suốt ngày ủ rũ, tỉnh tỉnh mê mê, mi sầu mắt lệ, Tiêu Hậu khuyên giải: 

 - Người chết chẳng sống lại được. Bi thương thế cũng chẳng ích gì. Sao bệ hạ không tuyển lấy một người đẹp khác trong hậu cung, để lấp nỗi nhớ thương, quên bao sầu não đi. 

 Dượng Đế đáp: 

 - Hậu cung toàn những phấn thừa hương thải, làm sao mà tuyển được? 

 Tiêu Hậu cãi: 

 - Ngày trước Tuyên Hoa cũng tuyển từ hậu cung mà ra. Nếu chẳng được thì xem là một trò tiêu khiển cho vui cũng chẳng sao. 

 Dượng Đế nghe theo lời Tiêu Hậu, truyền chỉ các cung viện lớn nhỏ, tần phu, phái nữ đều phải đến cung hoàng hậu để dự tuyển lựa. Lúc này các cung nga tha hồ chải lại tóc mây, thêm lớp phấn dồi, kéo nhau đến cung hoàng hậu, Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, ngồi giữa chính điện, lần lượt gọi các cung nữ lại gần trước mặt, vừa cùng uống rượu, vừa cùng tuyển chọn, đúng là “quan ư hải giả, nan vi thủy!”(1). Tuy là hoa xếp thành đội, liễu bày thành hàng, tuyển đi tuyển lại, chẳng 

 1 Cổ thi, câu thứ hai là “Trứ khước Vu Sơn bất thị vân” nghĩa là: “Từng xem bể cả khôn làm nước; chỉ ở Vu Sơn mới thật mây” . 

 thấy đâu quốc sắc thiên hương, hoa nhường nguyệt thẹn. Dượng Đế lại ủ rũ mặt mày, than vãn: 

 - Tuyển cả bầy thế này mà toàn mệt mỏi vô ích. Làm sao mà có được dung mạo, thiên tư quốc sắc như Tuyên Hoa phu nhân cho được! 

 Bèn ra lệnh ngừng tuyển, cung nữ ồn ào một lúc rồi ai đi về cung ấy. 

 Tiêu Hậu bàn: 

 - Xin bệ hạ đừng phiền lòng, hãy uống vài chén, chờ thiếp tự vào các cung tìm xem, xin vì bệ hạ tìm kỳ được người đẹp vừa ý về mới thôi. 

 Dượng Đế hỏi: 

 - Ở đây tuyển thế này còn chẳng ra, hoàng hậu còn làm khổ mình làm gì? 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Sao bệ hạ chẳng hay nghe rằng: từ xưa đàn bà có sắc đẹp khác thường, tất cũng thường cao giá tự trọng, sẵn sàng yên tâm chết già trong cửa, chẳng bao giờ chịu rẻ rúng theo người khác, xếp thành hàng thành đội để dự tuyển lựa bao giờ. Giờ thiếp xin cẩn thận tìm khắp các cung, quyết không bỏ sót, nếu tìm không ra, thiếp xin chịu để bệ hạ phạt ba chén rượu lớn? 

 Nói xong lập tức lên xe loan đi ra. Dượng Đế cùng mấy gã thái giám ngồi uống rượu, hết chén này sang chén khác chờ Tiêu Hậu. 

 Thực ra Tiêu Hậu đâu có chịu đi tìm người đẹp ở các cung, mà đi thẳng về cung Trường Lạc, cởi áo ngự ra, tô lại mặt, vẽ lại mày, tết lại kiểu tóc khác, giả dạng cung nữ, trên đầu cài mấy cành hoa long phượng, ba hàng ngọc minh châu rũ thắp thoáng xuống mặt, chọn một bộ y phục cung nữ thật đẹp, xong xuôi đâu đó, sai nội thị đến báo trước cho Dượng Đế. Lúc này nhà vua đã nửa say nửa tỉnh, mà vẫn chưa thấy Tiêu Hậu quay lại, đang định sai người mời về, thì thấy một nội thị đến tâu: 

 - Hoàng hậu đã tuyển được một cung nhân, sai kẻ hầu này dẫn đến trước để bệ hạ xem qua, hoàng hậu lại sang cung khác để tìm thêm. 

 Dượng Đế cười phán: 

 - Hoàng hậu thật vất vả vì ta quá. Chỉ sợ chẳng được việc gì cả! 

 Lúc này Tiêu Hậu cải trang đã đi đến cửa cung, liền xuống xe loan đi vào, làm ra dáng yểu điệu thướt tha bước lại thềm vàng, cách thềm điện khoảng một tầm tên bắn. Dượng Đế đưa mắt nhìn xuống, thì quả thấy một cung nữ đưa một người đẹp tới, bộ diệu thanh cao dáng hình đài các, y phục trang điểm rực rỡ thanh tân, ngập ngừng muốn bước tới, lại muốn bước lui, cúi lạy trước thềm vàng. Dượng Đế không ngăn được mừng rỡ vội nói lớn: 

 - Quả nhiên hậu cung còn có được người đẹp như thế này, hãy mau đứng dậy! 

 Giục giã mấy lần, Tiêu Hậu vẫn còn vờ cúi như cũ. Dượng Đế lúc này háo hức thấy mặt người đẹp, chẳng còn nghĩ gì đến địa vị hoàng đế chí tôn, xuống khỏi ngai vàng, đưa tay kéo dậy, Tiêu Hậu bây giờ mới đứng dậy, nhưng vẫn cúi đầu che mặt. Dượng Đế ghé nhìn chăm chú, rồi cười ha hả: 

 - Thì ra hoàng hậu. Thật là nghĩ khôn làm khéo. Trẫm lại cứ ngờ rằng để sót mất người đẹp, khổ nổi phải lưu lạc đến giờ. 

 Dượng Đế kéo tay Tiêu Hậu, cùng lên ngồi trên ngai vàng, rồi phán: 

 - Ba chén rượu lớn, khanh không chối được đâu! 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Thiếp tìm khắp hậu cung, quả chẳng có ai vừa ý. Nhưng vì chót đã hứa, sợ bệ hạ bắt tội, cho nên phải tạm làm xấu, để đẹp lòng bệ hạ, mua một tiếng cười. Cho nên ba chén rượu lớn ấy, xin bệ hạ tha cho! 

 Dượng Đế đáp: 

 - Xử như vậy không xong. Trẫm không phạt hoàng hậu đâu, trẫm chỉ phạt người đẹp mới tuyển thôi! 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Nếu đúng là người đẹp, sợ bệ hạ lại không nỡ lòng nào mà phạt nữa? 

 Vừa nói vừa nâng chén rượu mà tiếp: 

 - Thiếp nghĩ rằng trong cung không có. Nhưng khắp thiên hạ thì nhất định phải có. Bệ hạ nay là chúa của thiên hạ rồi, sao không sai người đi các nơi khác mà tìm kiếm. Lại không có người đẹp gấp mười lần Tuyên Hoa hay sao. Việc gì cứ ngồi không mà phiền não? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Hoàng hậu nói tuy rất hay, nhưng chỉ sợ đình thần sẽ nhiều người lên tiếng ngăn cản. 

 Tiêu Hậu đáp: 

 - Trong đám đình thần, kẻ dám nói dám can rất ít. Người đáng sợ nhất là lão thần Dương Tố mà thôi. Nay nhân có mấy chậu lan đang nở nhiều, ngày mai bệ hạ hãy triệu Dương Tố vào ngự uyển, cho thưởng yến xuân lan, tìm chuyện gợi ý, xem ý tứ Dương Tố ra sao, mà quyết định vậy thôi. 

 Dượng Đế phán: 

 - Hoàng hậu nói đúng lắm? 

 Bàn bạc xong xuôi, một đêm qua đi. Sáng hôm sau, Dương Tố ra ngự uyển, thấy mấy chục chậu lan, chậu cao chậu thấp, đều rộ những hoa. 

 Chính là: 

 Thoang thoảng hương tràn lối vắng 

 Lơ thơ liễu rủ ánh hồ trong. 

 Dượng Đế vội sai hai nội thị, ra triệu Dương Tố vào ngự uyển. 

 *** 

 Lại nói Dương Tố từ khi giúp công lập Dượng Đế, cậy mình công lớn, tất cả quyền hành trong triều đều thâu tóm trong tay mình. Sáng hôm ấy, Dương đang cùng đám con hát say sưa ca múa, thấy có thánh chỉ truyền triệu, lập tức lên kiệu vào ngự uyển, qua hồ Thái Dịch, Dượng Đế trông thấy, mời vào điện, miễn lễ, ban cho ngồi. Dương cũng chẳng cần khiêm nhường, chỉ bái một cái, rồi ngồi xuống. 

 Dượng Đế phán: 

 - Đã lâu trẫm không thấy khanh, cũng thấy mình sinh bỉ lậu. Hoa lan nở nhiều, liễu xuân khoe tơ bên hồ, hương thơm phủ khắp người, cá lượn mặt hồ, nên mời khanh vào cùng thưởng ngoạn, cùng câu cá mua vui. 

 Dương thưa: 

 - Thần nghe rằng: thả chim muông thì lụn bại, nuôi thú dữ thì tiêu vong. Ngày xưa Lỗ Ai Công đứng xem cá ở tiền đường mà sách “Xuân Thu" của Khổng Phu tử chê cười. Vua Thuấn nghe đàn khúc “Nam phong" mà vạn đời sau còn ca ngợi. Bệ hạ mới lên ngôi báu đang chính lúc tràn trề sức lực, xin hãy lấy phép xưa của Nghiêu Thuấn, đừng bắt chước những điều lầm lỗi của Lỗ Ai Công. 

 Dượng Đế đáp: 

 - Trẫm nghe ông già ở Bàn Khê, chỉ câu cá mà nên nghiệp nhà Chu tám trăm năm, công nghiệp của khanh liệu có khác gì không? 

 Dương mặt mày hớn hở thưa: 

 - Bệ hạ lấy điều đó để ví với hạ thần, hạ thần cũng xin lấy điều đó để đền đáp bệ hạ. 

 Vua tôi cùng vui vẻ. Dượng Đế liền sai mấy nội thị, chuyển yến tiệc lại gần hồ để xem cá. Cá lớn cá bé lúc nổi lúc chìm, lúc ẩn lúc hiện, sóng nước dập dờn. 

 Dượng Đế phán: 

 - Trẫm cùng khanh câu, ai câu được cá trước thì thắng, kẻ thua phạt một chén rượu có được không? 

 Dương thưa: 

 - Thánh ý thật hay vô cùng! 

 Chẳng bao lâu, Dượng Đế giật lên, được một con cá vàng nhỏ khoảng ba thốn. Dượng Đế mừng lắm, nói với Dương: 

 - Trẫm câu được một con rồi. Khanh nhớ phải uống một chén rượu phạt nhé! 

 Dương đang chăm chú câu, nói sợ cá nghe không dám cắn câu, nên không trả lời nhà vua, đầu chỉ gật gật ra hiệu, đến khi nâng cần lên vẫn chẳng thấy cá đâu, lại đặt cần xuống chỗ cũ. Một lúc sau, lại thấy Dượng Đế giật lên một con cá vàng nhỏ nữa, Dượng Đế lại giao hẹn: 

 - Trẫm câu dược con thứ hai rồi. Thế là khanh nợ hai chén nhé! 

 Dương lại nâng cần lên lần nữa, vẫn chẳng thấy gì. Bọn cung nhân thấy thế, bịt miệng mà cười. Dương mặt đã thấy sắc giận, giọng có vẻ tức tối: 

 - Loài chim sẻ thì biết sao được chí chim hồng. Xin cứ chờ lão thần trổ tài câu rùa bể, câu kỳ được cá chép vàng. Để rồi bệ hạ uống một chén rượu vạn năm có được không? 

 Dượng Đế thấy Dương nói những lời đầy vẻ huênh hoang, không còn giữ được lễ vua tôi chút nào, trong lòng không vui, vứt cần câu xuống, sai rửa tay, đứng dậy trở về hậu cung, lửa giận bày rõ ra mặt. 

 Tiêu Hậu đón vào, hỏi han: 

 - Bệ hạ cùng Dương Tố đang câu cá, sao lại có vẻ tức giận bỏ về đây? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Không thể nào chịu được tên giặc già này nữa rồi, vừa kiêu ngạo, vừa vô lễ, mười phần càn rỡ. Trẫm chỉ muốn gọi mấy nội thị giết quách y, mới bỏ lòng căm tức này được. 

 Tiêu Hậu vội vàng khuyên can: 

 - Chuyện không thể thế được. Dương Tố là lão thần của tiên triều, lại vừa có công lớn với bệ hạ. Hôm nay triệu vào ban yến mà lại giết, các quan tất không phục. Huống chi Dương Tố vốn là dũng tướng, ở đây chỉ có mấy tên nội thị, mấy đứa cung nhân, làm thế nào mà trấn áp nổi Dương Tố được. Chẳng may việc không xong, cọp xổ khỏi chuồng, quyền binh trong tay, giở thói ngang ngược, xã tắc rồi sẽ ra sao. Bệ hạ muốn trừ Dương Tố, cũng phải tính toán cẩn thận, làm ngay ngày hôm nay đâu có xong. 

 Dượng Đế nghe xong gật gù: 

 - Hoàng hậu nói có lý lắm! 

 Rồi thay áo, lại quay lại hồ Thái Dịch như cũ. Dương vẫn đang ngồi dưới bóng hàng liễu, dáng mặt quắc thước, đẹp lão, râu tóc bạc trắng một màu, gió nhẹ khẽ thổi, vài sợi rung nhè nhẹ, ra dáng tiên phong đạo cốt. Dượng Đế thấy thế, trong lòng lại càng ganh ghét, nhưng vẫn gượng vui vẻ hỏi: 

 - Từ nãy tới giờ, khanh đã câu được con nào chưa? 

 Dương thưa: 

 - Cá hóa rồng, đâu phải lúc nào cũng có được? 

 Nói chưa dứt lời, nâng cần câu lên. Một con cá chép màu vàng, dễ chừng đến một thước hai ba phân gì đó. Dương vứt cần câu xuống, cười nói: 

 - "Hữu chí sự cánh thành", có chí ắt làm nên. Bệ hạ thấy tài năng lão thần chưa nào? 

 Dượng Đế cùng cười đáp: 

 - Có bề tôi như thế này! Trẫm chẳng còn điều gì phải lo lắng nữa! 

 Lại sai bày tiệc rượu, quân thần cùng uống. Bỗng thấy nội thị quỳ thưa: 

 - Tâu bệ hạ! Ngoài cửa cung có người đánh cá ở sông Lạc Thủy, đánh được một con cá chép lớn, có vẩy màu đỏ, dáng rất lạ, không dám bán riêng, nguyện đem dâng bệ hạ. 

 Dượng Đế lệnh cho mang vào. Một lúc sau ba bốn nội thị, khiêng vào một cái chậu lớn, đặt ngay trước bàn tiệc rượu. Dượng Đế cùng Dương Tố đứng dậy xem xét cẩn thận, thì thấy con cá dài đến năm thước, những chiếc vẩy vàng, vẩy đỏ lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời, Dượng Đế thấy vậy thích lắm, sai đem thả vào hồ. Dương Tố can: 

 - Cá này trông có vẻ có thần khí, sợ không phải là vật nuôi ở trong hồ. Chi bằng giết quách, có thể miễn được các họa sấm chớp mai sau chăng. 

 Dượng Đế cười đáp: 

 - Nếu quả là cá này có phận hóa rồng, dẫu có giết cũng chẳng làm sao mà trừ được tai họa. 

 Bèn quay ra hỏi tả hữu: 

 - Cá này có tên riêng không? 

 Tả hữu thưa: 

 - Không có ! 

 Dượng Đế sai lấy bút sen, viết lên đầu cá hai chữ "Giải sinh" (1) để đánh dấu, rồi cho thả xuống hồ, và hậu thưởng cho người đánh cá đã đem cá dâng. Tả hữu tiến rượu: quân thần lại làm một chầu nữa, cung nhân hát xong lại múa, múa xong lại hát, lại sai tấu cả loại nhạc khí nhẹ nhàng vừa nghe. Dượng Đế đang định khơi chuyện để dò ý Dương Tố, thì đã thấy tả hữu đem ba con cá chép vàng vừa câu được làm thành gỏi rất tinh tế, lại có cả nước thang hợp với loại gỏi cá này dâng lên bàn tiệc. Dượng Đế thấy thế liền gọi một nội thị lại gần, sai rót một chén rượu lớn, đưa cho Dương Tố: 

 1 “Giải sinh": cũng như kiểu làm lễ "phóng sinh" ngày xưa nghĩa đen là "thả cho sống". 

 - Vừa rồi câu cá ta có hẹn rồi. Trẫm may câu được trước. Xin khanh hãy cạn chén rượu này. Thế mới không phụ vị thơm ngon của mấy con cá này vậy! 

 Dương Tố nhận chén rượu uống cạn. Rồi cũng gọi nội thị rót tiếp một chén rượu lớn, nâng mời Dượng Đế: 

 - Lão thần này câu được sau, nhưng lại được cá chép vàng lớn, bệ hạ cũng nên uống hết chén này, để mừng công hạ thần. 

 Dượng Đế cũng uống một hơi cạn, rồi nói: 

 - Trẫm câu được những hai con. Khanh phải uống thêm một chén nữa mới phải. 

 Lại sai nội thị rót một chén lớn nữa dâng lên. 

 Dương Tố đã say đến bảy tám phần, lè nhè phân giải với mọi người: 

 - Bệ hạ tuy câu được hai con, nhưng không bằng một con lớn của lão thần. Bệ hạ nếu lấy chuyện nhiều ít để ban rượu cho hạ thần, thì hạ thần cũng xin đem chuyện to nhỏ để kính bệ hạ. Hạ thần quả không thể vâng lệnh bệ hạ cho được. 

 Tả hữu nâng rượu đưa mời Dương Tố, nhưng Dương Tố quyết chối từ, tả hữu không ngờ, lỡ tay làm đổ cả chén rượu xuống bàn, lại làm ướt một đám lớn áo mãng bào của Dương (1), chảy xuống cả bên dưới. Dương đột nhiên nổi giận, lớn tiếng quát tả hữu: 

 1 Áo bào của vua thêu rồng gọi là long bào. Áo của đại thần thêu rắn lớn gọi là mảng bào. 

 - Thật là một lũ vô dụng. Đến như thế này, thì làm sao mà ngồi trước mặt chúa thượng, dám khinh rẻ bậc đại thần. Không còn coi pháp độ của triều đình vào đâu nữa. 

 Rồi ra lệnh: 

 - Hãy đè chúng ra, đánh cho một trận. 

 Dượng Đế thấy nội thị làm đổ cả rượu, đã định quát nạt, nhưng Dương Tố lớn tiếng thế, cũng chỉ biết yên lặng ngồi xem không biết ngăn trở như thế nào cho phải. Nội thị không thấy Dượng Đế nói gì, đành phải lôi tên nội thị rót rượu ra, đè xuống, đánh đủ mười hai roi. 

 Lúc này Dương Tố mới quay lại, thưa với Dượng Đế: 

 - Cái bọn hoạn quan, cung nữ này thật là đáng ghét. Từ xưa đến nay vốn được các bậc đế vương nuông chiều, nên thường hay làm hư hỏng, đổ vỡ mọi chuyện. Bữa nay chẳng phải lão thần này thô lỗ, mà chính là phải dạy chúng một bài học, để sau này chúng cẩn thận, tử tế hơn, không dám càn rỡ như vậy nữa! 

 Dượng Đế lúc này vẫn cố nhịn sự tức tối khó chịu trong lòng, một phần cũng vì chuyện tuyển người đẹp trong thiên hạ vẫn chưa thăm dò được ý Dương Tố nên vẫn làm ra bộ vui vẻ mà rằng: 

 - Khanh vì trẫm mà cai trị thiên hạ bên ngoài. Nay lại vì trẫm mà làm sạch sẽ nơi cung cấm. Đúng là bậc đại thần nhiều công trạng. Xin hãy uống thêm một chén để đền công khó nhọc. 

 Dương Tố uống luôn mấy chén nữa, lúc này thì đã say cả mười phần, bèn đứng dậy tạ ơn. Dượng Đế sai hai thái giám đưa Dương Tố ra khỏi cung. 

 Xuống điện, ra đến cửa ngự uyển, bỗng thấy một trận gió lạnh thổi, tràn khắp mặt, sởn da gà, lạnh tận xương, Dương Tố nhìn ra, thì thấy Tuyên Hoa phu nhân tiến lại gần, nhìn thẳng vào mặt Dương Tố mà mắng rằng: 

 - Dương bộc xạ! Thuở Tấn Vương mưu đoạt ngôi Đông cung, có người mà chưa có ta, có ta cũng bởi do người! 

 Dương Tố lúc này cũng quên hẳn việc Tuyên Hoa phu nhân đã chết bèn đáp: 

 - Những chuyện này đã qua rồi. Nay phu nhân còn giở ra làm gì nữa? 

 Tuyên Hoa đáp: 

 - Nay chúa thượng sai ta đến đây, là để đòi nhà ngươi xử rõ ràng một án giết người. 

 Dương Tố hỏi: 

 - Lão thần vừa được ban yến, không thấy chúa thượng nói gì cả! 

 Nói chưa hết lời thì, thấy Tùy Văn Đế, đội mũ cửu long, mình mặc long bào, tay cầm phủ việt bằng vàng, ngồi trên xe tiêu dao (1), cản ngay đường trước mặt Dương Tố mà quát: 

 1 phủ việt: búa nhỏ bằng vàng, để ra hiệu lệnh. Tiêu dao: lang thang vô định, không có gì ràng buộc, xe tiêu dao là xe tưởng tượng của bậc thần tiên, ma quái, đi được ở mọi nơi, mọi lúc. 

 - Ngươi là kẻ giặc già giết vua, lại còn lớn tiếng gì nữa? 

 Rồi cầm phủ việt nhằm giữa trán Dương Tố mà giáng xuống. Dương Tố tránh không kịp, ngã lăn quay ra đất, miệng, hai lỗ mũi máu tuôn ra, thái giám thấy thế, vội chạy trình Dượng Đế. Dượng Đế cả mừng, lệnh cho quân cấm vệ, khiêng Dương Tố ra khỏi cung. Về đến Dương phủ dần dần tỉnh lại, trối trăng với con là Dương Huyền Cảm: 

 - Con ta? Chuyện đoạt ngôi lộ cả rồi. Mau mau chuẩn bị tang ma đi thôi. 

 Chưa tới nửa đêm hôm đó, thì đã ô hô! Thương thay! Thượng hưởng! 

 Chính là: 

 Luật thiên nhiên đắp đổi 

 Có sớm thì có tối 

 Đứa gian hùng khó toàn 

 Chóng chầy ắt đền tội 

 Mày sống đầy nham hiểm 

 Mày chết không yên ủi. 

 Dượng Đế nghe tin Dương Tố chết, vui mừng mà nói rằng: 

 - Thằng giặc già đã chết, Trẫm chẳng còn phải sợ thằng nào nữa. 

 Bèn gọi ngay bọn thái giám Hứa Đình Phụ gồm mười người, phán rằng: 

 - Mười người các ngươi hãy chia nhau đi khắp thiên hạ, phải tuyển được gái thật đẹp, không kể nơi nào, mỗi người tuyển cho ta từ mười lăm đến hai mươi mỹ nữ (1), nhưng phải thật kiều diễm, đưa dần về kinh. Người nào tuyển tốt sẽ có thưởng, kẻ nào tuyển không xong sẽ bị phạt tội. Không được chây lười, sinh chuyện! 

 1 Tác giả có chỗ nhầm, hồi thứ hai mươi bảy, lại nói bọn Hứa Đình Phụ tuyển được hơn một ngàn cung nữ. 

 Hứa Đình Phụ vâng lệnh lui ra. Kinh thành là nơi làm trước tiên, bọn này trương ngay một bảng lớn, tìm kẻ mối mang đưa tin, đưa người, cả kinh thành lại một phen náo động. 

 Một tối, Dượng Đế cùng bàn bạc với Tiêu Hậu: 

 - Trẫm suy ra từ xưa các bậc vua chúa đều có ly cung biệt quán, dùng làm nơi mua vui hưởng lạc. Nay trẫm đang lúc thịnh thời như thế này, mà không kịp hưởng những chuyện đó, cũng khiến thiên hạ cười rằng ngu dại. Trẫm thấy đất Lạc Dương vốn là nơi trung tâm của chín châu, sao lại không đem làm Đông kinh, dựng ở đó một cung Hiền Nhãn để triệu tập khắp bốn phương, cũng là nơi đi về hành lạc. 

 Liền cho gọi hai viên nịnh thần Vũ Văn Khải cùng Phong Đức Di, ngay trước ngự điện, được giao cho cai quản công việc này. Vũ Văn Khải quỳ tâu: 

 - Trình bệ hạ chí tôn, từ xưa các bậc đế vương đều có minh đường, để vua các nước nhỏ vào triều kiến. Vua Thuấn có Nhị Thất, Văn Vương có Linh Đài Linh Chiêu đều là những công trình xây dựng to lớn, lừng lẫy một thời nổi tiếng nhân đức trong thiên hạ. Nay bệ hạ xây cung Nhân Thọ, để làm rõ đức sáng của bậc thánh nhân, thì chính là học theo được vua Nghiêu vua Thuấn, dựng nên những sự tích tốt đẹp khắp cổ kim vậy. Chúng thần không dám không gắng sức. 

 Phong Đức Di cũng quỳ gối thưa: 

 - Tâu thánh thượng! Đấng thiên tử dựng cung điện, không rộng không cao không đủ tráng lệ, không tráng lệ không đủ chỗ để tuyên dương đức lớn, tất phải bắt đầu từ phía nam giáp với Truy Giản, phía bắc gối lên bến Lạc Tân, chọn khắp gỗ quý, đá hiếm trong thiên hạ, cùng các loại kỳ hoa dị thảo, trân cầm dị thú mà bày mà nuôi ở bên trong cho thật đủ loại, đáng cho vạn quốc đến chiêm ngưỡng. 

 Dượng Đế cả mừng phán: 

 - Hai khanh hãy hết lòng hoàn tất việc này cho thật tốt. Trẫm sẽ trọng thưởng. 

 Liền truyền sắc chỉ cho Vũ Văn Khải cùng Phong Đức Di tạo dựng cung Nhân Thọ ở Lạc Dương. Từ Trường Giang về phía nam, Ngũ Lĩnh kéo về phía bắc, mọi thứ vật liệu, theo lệnh mà đóng góp đầy đủ không được thiếu sót. Còn thợ và tiền của thì trừ Giang Đô cùng Đông Đô, phải phục dịch cho việc xây dựng tại chỗ, thì miễn cho việc đóng góp này, còn cứ mỗi thành, phủ huyện, châu quận đều phải góp ba nghìn lạng bạc, mau chóng gửi tới Lạc Dương đóng góp sức mình. Hai người vâng chỉ ra đi Lạc Dương, chia nhau công việc. Thật lại một lần nữa nhũng nhiễu trăm họ, tai ương cho muôn dân.

 Muốn biết công việc về sau ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top

Tags: #tuy