Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

Tùy đường diễn nghĩa 21-40

Hồi Thứ Hai Mươi Mốt

Mượn quán rượu, kết nghĩa kim lan,

 Xưng hô tên, nổi tiếng hào kiệt.

 Thơ rằng: 

 Vác cày ông lão khóc sướt mướt 

 Vườn ruộng năm năm lo đứt ruột 

 Quan huyện tô thuế mãi mãi tăng 

 Nộp thu, thu nộp đủ sao được 

 Nịnh ông lớn khấu hao đóng bù 

 Bòn dân ngu dọa nạt đốc thúc 

 Con trẻ khóc, đói rét bủng beo 

 Vợ không quần cầm cố bán chác 

 Mông đít chục trận đòn nát nhừ 

 Nhà tranh ba đợt thuế quang lắc 

 Lăn lóc suối giọt lệ không khô 

 Tối tăm đường đưa chân nhắm mắt 

 Nào ai vẽ giúp bức tranh dân 

 Dâng lên vua ngắm cảnh khổ cực. 

 Dân đen ăn ở trên đất vua, mùa thu nộp lương mùa hạ đóng thuế là lẽ đương nhiên. Nhưng cái khổ chính là ở chỗ, không thu hoạch mà vẫn phải lo nợ nhà vua, gặp mùa việc thì lại phải phu dịch. Giả như mỗi phủ phải đóng ba nghìn lạng bạc, nhưng có bao giờ đúng thế cho đâu, chỉ vì cả đám quan nha lòng tham không cùng, thừa cơ này mà kiếm lợi, liền tìm cách thêm thắt, bớt xén, nào là dịch phí, nào là lộ phí, nào là hao hụt, tất cả đều đổ lên đầu dân đen. Cứ thấy có khoét được, kẻ tham vẫn còn tham, kẻ giàu vẫn còn ác, bốn phương trộm cướp hoành hành, hờn oán khóc than theo đó mà gia tăng cũng là lẽ thường vậy thôi. 

 Bấy giờ vua Tùy vì những việc thổ mộc lớn đó, các phủ châu phải sai quan áp tải tiền bạc đem đến Lạc Dương nạp. Hai phủ Tế Châu và Thanh Châu của Sơn Đông cũng đều đã sắp sẵn ba nghìn lạng bạc đem tới Lạc Dương, nhân chuyện náo động này mà xuất hiện một tay hảo hán khác nữa, chuyện đầu đuôi như sau: 

 Ở Vũ Nam trang, thuộc huyện Đông A của Duyện Châu có một viên ngoại họ Vưu, tên Thông, hiệu Tuấn Đạt, cũng đã từng theo đòi nghề cướp đường lâu năm, gia tư giàu có, sáu phủ thuộc Sơn Đông đều kính nể gọi là Vưu viên ngoại. Lâu nay, muốn làm được một tướng cướp lẫy lừng ở vùng bắc này, phải vừa giàu có vừa có thế lực mới xong. Vưu Thông nghe được huyện Thanh Châu sẽ áp tải ba nghìn lạng bạc lên kinh, tất nhiên phải đi đường Duyện Châu, ý muốn cướp số bạc này, mới thầm nghĩ: “Cướp của bọn khách buôn, một toán bất quá mười đứa, mình chỉ cần vài người cũng xong, chẳng sợ gì bọn này. Nhưng đây lại là lương tiền của Nhà nước nhất định sẽ có quan lính đi hộ tống, qua các châu huyện, đều phải phái thổ binh lính đi kèm, muốn cướp được cũng khó, lại nữa lương tiền là của ngay phủ bên cạnh, sợ chúng sẽ tầm nã rất gắt gao. Chi bằng đừng đụng đến nữa, đỡ phải lôi thôi". 

 Nhưng lòng tham con người ta, không biết đâu là cùng, thật đáng cười. Vưu Thông biết rõ sự lợi hại như vậy song vẫn nuối tiếc ba nghìn lạng bạc này. Điểm mặt những khách khứa, bạn bè, hiện không kẻ nào có thể đảm đương nổi chuyện này, Vưu Thông bèn đem ra bàn bạc với trang khách: 

 - Quanh trang Vũ Nam chúng ta đây, liệu có thể tìm ra một bậc hảo hán, lấy gọn được số bạc này, cũng là một chuyện thích ý! 

 Trang khách có người đáp: 

 - Nhìn trước nhìn sau ở đất Vũ Nam này, chỉ có những kẻ múa chân múa tay được, chứ không thể gọi là hảo hán được. Cách đây năm sáu dặm, có một người họ Trình, tên gọi Giảo Kim, hiệu là Tri Tiết, vốn người ở Ban Cưu điếm. Trước kia đã từng đi buôn muối lậu, kháng cự lại quan binh, bị tội xung quân ở ải bắc, gặp buổi ân xá được tha về. Nếu được người này đứng ra, thì mọi việc dễ như trở bàn tay. 

 Vưu Thông nói: 

 - Ta cũng đã nghe nói tới. Quý khách đã ai thấy mặt họ Trình này chưa? 

 Trang khách đáp: 

 - Chúng tôi cũng chỉ toàn tai nghe. Mắt quả chưa được thấy! 

 Vưu Thông vẫn để tâm lo lắng chuyện này, không ngờ lại gặp. 

 Hôm ấy có việc i ra ngoài trang, trời lạnh, gió tây thổi mịt mù, cây lá nghiêng ngả, Vưu Thông chợt thấy thèm rượu, bèn xuống ngựa, bước vào quán. Ngồi vào bàn, vừa uống được chén trà nóng, đã thấy một chàng trai trẻ cao lớn bước vào, trông ra diện mạo, quần áo người này, thì thấy: 

 Lông mày chổi rễ 

 Con mắt ốc nhồi 

 Mặt gồ ghề vô số nốt ruồi 

 Miệng khấp khểnh một hàng nanh lợn 

 Râu quai nón đỏ hoe dữ tợn 

 Tóc rễ tre sóng gợn rối tung 

 Thô kệch như thanh sắt vừa nung 

 Ngang ngạnh như tượng đồng mới đúc 

 Rồi ra mới biết tay cương trực 

 Chớ vội xem thường bậc trượng phu. 

 Chàng trai trẻ này áo quần rách nát, vai vác một bó củi lớn, vứt củi xuống sân, ngồi vào ghế, dáng diệu đàng hoàng, gọi chủ quán mua rượu nóng uống, có vẻ quen biết với chủ quán từ lâu. Vưu Thông chăm chú theo dõi, thấy vẻ người khác thường, bèn nhân lúc không ai để ý, hỏi khẽ chủ quán: 

 - Người này tên họ là gì? Bác có quen biết anh ta chăng? 

 Tiểu Nhị đáp: 

 - Anh ta thường vào đây uống rượu, vốn người Ban Cưu điếm, thượng gọi là Trình Nhất Lang, còn không rõ tên thật là gì, thưa viên ngoại. 

 Vưu Thông nghe đến Ban Cưu điếm, lại họ Trình, nghĩ ngay đến Trình Giảo Kim nên đứng dậy, lại gần, vòng tay hỏi chàng trai trẻ: 

 - Xin cho biết quý tính đại huynh? 

 Chàng trai đáp: 

 - Tiểu nhân họ Trình! 

 Vưu Thông hỏi tiếp: 

 - Đại huynh hiện ở đâu? 

 Họ Trình đáp: 

 - Tiểu nhân đang ở Ban Cưu điếm. 

 Vưu Thông hỏi thêm: 

 - Ở Ban Cưu điếm có một vị là Trình Tri Tiết, có họ hàng gì với đại huynh chăng? 

 Họ Trình cười đáp: 

 - Họ hàng với anh em gì gia mẫu sinh được mỗi mình tiểu nhân, chẳng biết có họ hàng gì nữa không, chỉ biết tiểu nhân vốn là Trình Giảo Kim, hiệu là Tri Tiết, cũng còn gọi là Trình Nhất Lang. Dám thưa viên ngoại có điều gì dạy bảo? 

 Vưu Thông thấy nói Trình Giảo Kim mừng như bắt được vàng, vội hỏi: 

 - Sao lại có bó củi này, để bán sao? 

 Giao Kim đáp: 

 - Quả là như vậy. Tiểu nhân nhà còn có mẹ già, nhờ vào mấy que củi khô này mà hai mẹ con sống qua ngày. Hôm nay vác ra đây, chẳng ai mua, trời lại nổi gió lớn, vào đây kiếm vài chén rượu nóng, chờ ngớt gió rồi cũng đến về thôi. Xin được biết quý tính của viên ngoại. Viên ngoại hỏi tới có chuyện gì cần chăng? 

 Vưu Thông đáp: 

 - Từ lâu đã được nghe tên tuổi, nay có việc cần nhờ, một việc rất thích ý, nhưng chỉ ngại đây pha tạp không phải chỗ bàn luận. Xin mời tới tệ gia, sẽ thưa chuyện đầu đuôi. 

 Giảo Kim nói: 

 - Hôm nay gặp tri kỷ ở đây, viên ngoại đã dạy thế lẽ nào không theo. Nhưng rượu đã kề miệng, hãy cứ uống vài bát đã, tới nhà ta lại uống nữa có được không? 

 Vưu Thông đáp: 

 - Thế thì hay lắm? 

 Thế rồi kéo Giảo Kim cùng ngồi. Một ông nhà giàu, một anh áo rách cùng ngồi uống rượu với nhau, chủ quán và mọi người bưng miệng mà không nhịn được cười. Cả hai uống mấy bát lớn, Vưu Thông tính tiền trả tiểu nhị, Giảo Kim nói với tiểu nhị: 

 - Chỗ củi này gán luôn, trả số tiền rượu hôm qua tiểu nhân còn thiếu. 

 Cả hai vái chào, ra khỏi quán rượu. 

 Lúc này Vưu Thông cưỡi ngựa, giờ bảo đầy tớ dắt về trước, rồi cùng đi với Giảo Kim. Về đến nhà, cả hai ngồi, gối liền gối, vai liền vai. Cùng nói đủ chuyện trên trời dưới đất: chuyện hạn hán lụt lội, chuyện đạo đức suy đồi, chuyện buôn bán, làm ăn, đi lại khó khăn. Từ đó Vưu Thông ngỏ ý cùng Giảo Kim đi buôn chung, lời lãi chia hai. 

 Giảo Kim hỏi lại: 

 - Viên ngoại định rủ tiểu nhân buôn chung thật sao? 

 Vưu Thông đáp: 

 - Thực không phải thế. Tiểu huynh lâu nay mộ tiếng dũng cảm, nghĩa khí hiền đệ, nhưng chưa một lần được gặp, nay mới có duyên may, xin kết nghĩa đệ huynh, mãi mãi gắn bó, xin đừng hiềm nghi. 

 Giảo Kim đáp: 

 - Tiểu đệ vốn người thô lỗ, không phải chỗ tốt để kết nghĩa đệ huynh. 

 Vưu Thông vẫn giữ ý: 

 - Đây là ý nguyện của tiểu huynh, hiền đệ không nên từ chối. 

 Hai người đem tuổi ra so, Vưu Thông hơn năm tuổi, nhận làm anh. Giảo Kim làm em, cùng thắp hương kính cẩn lạy nhau tám lạy, thề cùng sống chết, hoạn nạn cùng giúp nhau. 

 Chính là: 

 Kết giao chớ ngại câu bần phú 

 Chung thủy đừng quên nghĩa tử sinh. 

 Giảo Kim nói: 

 - Đi ra để buôn bán, cũng là điều tốt, nhưng tiểu đệ còn có mẹ già ở nhà, không người coi sóc, làm thế nào được? 

 Vưu Thông đáp: 

 - Đã là huynh đệ, lệnh đường cũng chính là bá mẫu của tiểu huynh, lẽ đương nhiên là phải đưa về đây phụng dưỡng. Chi bằng ngay đêm nay đưa tới là tốt hơn cả! 

 Giảo Kim nói: 

 - Tiểu đệ đi bán củi, chẳng được đồng nào. Một hạt gạo cũng không nốt, về gặp mẹ già, trời đã chiều tối, nói chuyện tới đây nữa, thì cũng thật khó nghe. 

 Vưu Thông khuyên: 

 - Hiền đệ nói có lý lắm. Nhưng không có gì khó. Hôm nay hãy cầm về một đỉnh bạc, coi như dùng để chi vào việc di chuyển chỗ ở, kiếm chén rượu nhạt, nói chuyện với xóm giềng, nhất định bá mẫu sẽ bằng lòng ngay. 

 Giảo Kim ưng thuận: 

 - Nếu thế mới được, xin đem tiền ra đây! 

 Vưu Thông lấy ra một đỉnh bạc đưa cho Giảo Kim, Giảo Kim đỡ lấy bỏ ngay vào ống tay áo, cũng chẳng cảm ơn. Vưu Thông sai bày cơm rượu. Giáo Kim mười phần vui vẻ, uống thoải mái hết chén này đến chén khác, không ngờ là rượu nhà nấu lấy, rất nặng, lại uống đến hàng chục chén lớn, nên đã say mèm. Vưu Thông sợ Giảo Kim quá say, sáng mai tốt ngày, phải còn lo liệu để lên đường buôn bán một chuyến xem sao. Giảo Kim đành phải đứng dậy ra cửa, tuy đã say, nhưng vẫn còn nhớ tới đỉnh bạc, bỏ vào ống tay áo, xem ra có vẻ nặng, trù trừ bước ra cổng lớn. Không ngờ ống tay áo, tuy đã buộc, nhưng lại rách nát, nên khi giơ tay vái chào Vưu Thông lần nữa, thì đỉnh bạc cũng theo chỗ rách mà rơi tọt xuống đất lúc nào cũng không biết nữa. Trang khách có người trông thấy nhặt lấy, đưa trình Vưu Thông: 

 - Viên ngoại vừa đưa cho, đã rơi vào ngay trước cổng lớn. Nên chạy theo mà giao lại cho Giảo Kim chăng? 

 Vưu Thông đáp: 

 - Ta đưa thỏi bạc cho Giảo Kim xong, nghĩ lại đang thấy hối hận đây! 

 Trang khách hỏi: 

 - Đã đưa rồi, viên ngoại còn gì mà phải hối hận? 

 Vưu Thông đáp: 

 - Người này tính ngay thẳng, không biết luồn cúi ai. Đem bạc về, mẹ con bàn cãi, nhất định sẽ không chịu đến đây nữa, thì cũng đành chịu. Nay lại đánh rơi mất thỏi bạc, thì còn phải nghĩ đến ta, nên tối nay thế nào mẹ con sẽ cùng đến đây. 

 *** 

 Lại nói Giảo Kim về đến nhà, mặt mày vẫn còn rạng rỡ. Mẹ ngồi chờ suốt từ chiều tới giờ, nay thấy con về, uống rượu mặt còn đỏ gay, mùi rượu vẫn sặc sụa, thì tức giận mắng: 

 - Mày là đồ súc sinh, tìm chỗ ăn uống say sưa, chẳng nghĩ tới mẹ ở nhà không củi không gạo, đói sắp chết mà vẫn còn vác cái mặt dương dương đắc chí về thế kia. Ta thử hỏi mày: củi bán được rồi, tiền tiêu cái gì hết cả rồi? 

 Giảo Kim cười đáp. 

 - Mẫu thân đừng vội giận. Sắp đến ngày mở mày mở mặt rồi. Còn hỏi đến chuyện củi đóm làm gì? 

 Trình mẫu gắt gỏng: 

 - Mày đúng là vẫn còn say rượu, tuôn ra toàn những lời mơ màng, ta làm sao mà tin được. 

 Giảo Kim nói: 

 - Mẫu thân nếu vẫn chưa tin, con lấy thỏi bạc này ra cho mà xem nhé! 

 Trình mẫu hỏi: 

 - Bạc ở đâu ra? 

 Giảo Kim sờ vào ống tay áo, hết tay này tới tay kia, lần đầu rồi lại lần nữa, vẫn chẳng thấy bạc đâu, Giảo Kim bứt tóc dậm chân tức tối: 

 - Thỏi bạc không biết rơi lúc nào mất! 

 Trình mẫu lại càng được thể: 

 - Ta đã nói là chuyện khoác lác mà. Trong cái tay áo rách ấy thì làm sao có bạc được? 

 Giảo Kim trừng mắt cãi: 

 - Mẫu thân nếu không tin con, con xin thề độc địa rằng dù trong cơn say đi chăng nữa, con cũng không bao giờ dám nói chuyện đùa vơ vẩn với mẫu thân. Hôm nay, con vác bó củi ra đi khắp một lượt phố xá, chợ búa, chẳng ai thèm hỏi đến, mới vào trong quán uống mấy chén rượu, gặp một nhà giàu đó là Vưu viên ngoại ở Vũ Nam trang, mới thấy nhau mà như gặp bạn cũ, kéo con về trang trại. Con liền vứt ngay bó củi, gạt tiền rượu cho tiểu nhị, cùng với viên ngoại về trang trại. Con với ông ta làm lễ kết nghĩa huynh đệ, rồi tính chuyện cùng nhau đi buôn bán xa kiếm lời. Con nói chuyện ở nhà còn mẹ già, không người chăm nom, viên ngoại bảo ngay đêm nay đưa mẫu thân sang bên ấy, lại còn đưa cho con một đỉnh bạc, để có phải tiêu đến việc gì khi chuyển chỗ ở chăng. Con thấy vui vẻ, uống mấy chén rượu lớn, nên cũng không biết bạc rơi lúc nào, mặc dù suốt dọc đường con đã cố ý, túm ống tay áo thật chặt. Mẫu thân nếu vẫn chưa tin, ngay bây giờ con cõng sang bên ấy, thì sẽ rõ con nói đúng hay nói khoác cho vui ngay thôi mà! 

 Trình mẫu đáp: 

 - Nếu đã như thế, ta sẽ đi với mày. Trong nhà tìm khắp ba ngày cũng chẳng có cái gì đáng giá, cứ khóa cửa lại là xong. Nhưng ta đang đói lả cả người, làm thế nào bây giờ? 

 Giảo Kim đáp: 

 - Con đưa mẫu thân sang trang trại, chỉ sợ không có sức mà ăn, tiêu không kịp, lại nôn mửa cả ra bây giờ, chứ lại còn lo không có cái gì mà ăn! 

 Nói xong, khóa cửa, rồi đang giữa đêm tối Giảo Kim cõng mẫu thân sang trang trại họ Vưu ở Vũ Nam trang, bao nhiêu say sưa bay biến sạch. Giảo Kim đặt mẫu thân xuống gõ mạnh cửa, lão canh cổng đã được Vưu Thông sai từ trước, chờ sẵn để mở cửa cho Giảo Kim, rồi vào báo cho viên ngoại biết. 

 Vưu Thông vẫn chưa đi ngủ, chờ Giảo Kim tới, nghe đầy tớ vào trình, mừng không nói hết, ra đón mẹ con Giảo Kim vào nhà ngồi đâu đấy Vưu Thông lên tiếng trước: 

 - Mang ơn tổ tiên để lại cho ít nhiều của cải, mấy năm nay thì năm nào cũng hết hạn hán lại lụt lội, gia tư ngày càng hao hụt dần. 

 Nay muốn về Giang Nam buôn vài chuyến tơ lụa, nhưng nghe nói các nơi trộm cướp sinh như ong, sợ đi chẳng được. Nghe danh lệnh lang là bậc hào kiệt, cũng muốn có lệnh lang cùng đi, được lời sẽ chia đều, may kiếm được ít nhiều để phụng dưỡng bá mẫu chăng? 

 Trình mẫu vốn cũng nhà giàu có, ít nhiều biết lẽ đời, nghe thế cười đáp: 

 - Viên ngoại lầm rồi! Viên ngoại giàu có, còn ta thì nghèo khó, suốt ngày chân tay vất vả. Nay viên ngoại đi buôn xa, hoặc giả trên đường không người sai phái đỡ đần, cần phải con ta đi theo sau, rồi hàng tháng trả cho nó ít nhiều, lấy cái nuôi mẹ già, thì nghe ra còn thông. Chứ thử hỏi con ta có tài đức gì, mà dám kết huynh đệ với viên ngoại. Lại thêm vốn liếng không một đồng đóng góp, làm sao dám nghĩ tới chuyện buôn chung, chia lãi đều cho được. 

 Vưu Thông nói: 

 - Vưu Thông này từ lâu mộ tiếng lệnh lang, tình nguyện xin được kết nghĩa huynh đệ, xin bá mẫu đừng ngại. 

 Rồi sai sửa soạn hương án, Vưu Thông bái lạy, nhận Trình mẫu làm bá mẫu, Trình mẫu cũng hoảng hốt vái đáp lễ bốn vái. Vưu Thông nói tiếp với Trình mẫu: 

 - Cháu cùng lệnh lang ra đi rồi, sợ một mình bá mẫu ở nhà có chỗ không tiện, nên mời bá mẫu về trang trại đây. Nếu có gì chưa được chu tất, xin bá mẫu lượng thứ. 

 Trình mẫu đáp: 

 - Con ta được đi với viên ngoại, ta thật đội ơn. Chỉ sợ tính tình nó lỗ mãng, viên ngoại phải luôn để ý mà rèn cặp, thể tất cho nó ít nhiều, sợ còn ít tuổi, chưa thấy hết được ơn nghĩa của viên ngoại. 

 Vưu Thông mời Trình mẫu ra nhà sau ăn cơm, còn mình với Giảo Kim lại bày cuộc rượu nữa. Rượu vừa chớm say, Vưu Thông mang chuyện ba nghìn lạng bạc kể để dò ý Giảo Kim: 

 - Hiền đệ có nghe những chuyện về việc vua mới lên ngôi chưa? 

 Giảo Kim vừa được chịu ơn ân xá, nên đáp: 

 - Vưu đại huynh, đó là một vị vua thật thương dân. Tiểu đệ mấy năm ở ngoài tít ải bắc, nếu không có chuyện vị vua mới này lên ngôi, thì làm sao có thể trở về quê hương mẹ con sum họp. 

 Vưu Thông gợi ý: 

 - Vua mới giở đắp thành xây gác, mỗi châu, mỗi huyện đều phải góp ba nghìn lạng bạc để góp vốn cho những việc thổ mộc đó. Thật là không biết lấy đâu ra mà đóng góp. 

 Giáo Kim đáp: 

 - Làm dân đen dân đỏ của đất nhà vua, thì tất phải nạp lương, phải chịu tạp dịch, phu phen. Làm quan nha của hoàng đế, thì phải sai phái, phải quát nạt, đừng nghĩ tới sự nhàn rỗi, bình yên. 

 Vưu Thông nói: 

 - Chuyện ấy thì đã hẳn rồi. Có điều vùng Thanh Châu của Sơn Đông ta cũng phải tuân theo lệnh vua, đóng vào đó ba nghìn lạng. Thái thú Thanh Châu, đang nhân dịp này để lột tận xương tủy trăm họ, tàn khốc không chừng chỉ để lấy ba nghìn lạng đem đi, còn bao nhiêu thì bỏ túi thầy trò cả bọn. Số bạc ba nghìn lạng bạc này đem lên kinh, tất phải đi qua địa phận Duyên Châu ta đây. Ta định nhờ vào đôi tay của hiền đệ, chiếm lấy ba nghìn lạng này, làm vốn đi buôn, liệu có nên chăng? 

 Trình Giáo Kim cũng đã từng đi buôn muối lậu, ba chìm bảy nổi, vào tù ra tội, so với chuyện cướp đường cũng chẳng xa xôi gì. thấy Vưu viên ngoại đối xử với mẹ con mình thật hết lòng, nên cũng muốn đền ơn tri ngộ, nên cười đáp: 

 - Đại huynh, chỉ sợ tiền bạc của họ không đi đường này. Nếu chắc chắn là đi đường này, thì chẳng cần đại huynh phải lo nghĩ nhiều, tiểu đệ chỉ cần một người một ngựa ra đi, sẽ đem ngay số bạc ấy về đây cho đại huynh! 

 Vưu Thông hỏi: 

 - Hiền đệ quen dùng loại vũ khí gì? 

 Giảo Kim đáp: 

 - Tiểu đệ quen dùng búa. Cũng chẳng được học ra bài ra lớp cẩn thận gì đâu. Trong lúc nhàn rỗi chẳng biết làm gì, cứ lấy búa kiếm củi thay cán thật dài vào, một mình ở nhà tập múa may, thế mà tiện lợi trôi chảy phải biết. 

 Vưu Thông nói: 

 - Trong nhà ta có một cây búa, nặng sáu mươi cân, liệu hiền đệ có dùng vừa không? 

 Giảo Kim bằng lòng: 

 - Sáu mươi cân, cũng chưa phải là nặng. 

 Vưu Thông ra phía sau nhà, đem cây búa ra, thì ra búa được đánh bằng loại thép tốt, hai mặt búa khắc hình bát quái, vì vậy mọi người thường gọi loại búa này là "bát quái tuyên hoa phủ". Lúc này Giảo Kim mới mặc vào mình một áo giáp đồng, một mũ đồng đã lên nước xanh biếc, khoác một áo khoác màu xanh chàm, cưỡi một con ngựa thanh tông khỏe mạnh. Còn Vưu Thông cũng nai nịt không kém phần hùng dũng, đội một mũ sắt dày, một áo giáp lấp loáng màu dầu đen bóng, vác một cây thương mũi nhọn hoắt, đi đôi ủng sơn trắng, cưỡi con Ô truy. 

 Cả hai nai nịt giờ lâu ngay trước bàn tiệc, rồi sai đầy tớ đèn đuốc sáng rực, ra khỏi trang trại kéo nhau ra mấy đám ruộng cạn vừa gặt, dùng mấy cây tre, treo cao đèn bốn phía, một khoảng rộng sáng như ban ngày, cả hai người lên lưng ngựa cùng nhau thử sức. Búa qua thương lại, bọn tay chân xúm quanh, hò hét ầm ĩ. Bọn này đều nương dựa hoàn toàn vào họ Vưu, cho nên mọi chuyện lớn nhỏ đều chẳng có điều gì phải giữ gìn. Tập tành chán cả hai xuống ngựa kéo nhau về trang trại đi ngủ. 

 Ngày hôm sau. Vưu Thông cho người đi Thanh Châu, dò la xem đoàn quân áp tải ba nghìn lạng hạc bao giờ thì lên đường, liệu bao giờ đến rừng Trường Diệp. Mấy ngày sau, kẻ được sai đi trở về thưa: 

 - Trình viên ngoại ngày mười lăm tháng mười này sẽ lên đường, ngày hai mươi bốn này thì có thể đến vùng rừng Trường Diệp. Đoàn áp tải có một viên quan cầm đầu, một viên võ quan hộ tống, chỉ huy một đội lính khoảng hai mươi tên chuyên dùng cung tên. 

 Tối ngày hai mươi ba, Vưu Thông lấy rượu ngon cho Giảo Kim uống gần say, chọn người đi theo, canh năm đến rừng Trường Diệp, động viên Giảo Kim: 

 - Hiền đệ, ta cùng hiền đệ sẽ đủ chi suốt đời, chỉ cần một việc này! 

 Giảo Kim gật đầu, xách búa lên ngựa, tiến ra phía đường quan, dừng ngựa, dắt búa ngang yên, trông như hổ dữ ngồi chặn giữa đường lớn. Trước tiên là viên quan Lô Phương xuất hiện; viên này vốn là hiệu úy Thanh Châu, mở đường đi trước cũng là để đề phòng sợ có chuyện không lường chăng. Mới vào đến rừng, Giảo Kim giật ngựa nhảy ra, cao giọng quát: 

 - Tiền lộ phí đâu, dốc ra! 

 Lô Phương vốn là một võ quan cũng thạo nghề cung kiếm, giơ thương lên vừa đỡ vừa chửi: 

 - Thằng giặc cỏ! Mày chỉ quen sống lẩn lút trong rừng rậm, lo ăn từng bữa như loài thú dữ, đây chính là lương tiền giải đi tam kinh lục phủ, hãy tránh cho mau, loại giun dế như mày đừng có to gan lớn mật. 

 Giảo Kim vẫn lớn tiếng: 

 - Bọn khách thương trong thiên hạ, bố già đây không thèm đụng đến đâu. Nghe nói Thanh Châu phủ có ba nghìn lạng, bố già đây chờ sẵn, kiếm làm vốn buôn bán. 

 Lô Phương nạt: 

 - Hà hà! Đồ giặc cỏ không biết nông sâu. Hãy chờ xem mà buôn bán! 

 Ngựa chồm lên, thương giơ cao, xốc tới, Giảo Kim cũng vung búa vội đỡ, ngựa với ngựa, người với người, thương với búa cùng thi gan, được vài chục hợp, phía sau thấy khói mịt mù, quân quan áp tải cũng vừa tới. Giảo Kim thấy thế, sợ chúng sẽ xắn tay cùng đánh, bèn chồm ngựa xông lên, búa bổ mạnh, mặc mọi sự. Lô Phương đỡ không nổi, ngã quay xuống ngựa. Hai mươi tên lính cầm cung thương tràn tới, thấy Lô Phương ngã ngựa, cả bọn giơ cao thương la lớn: 

 - Phía trước Lô hiệu úy bị tướng cướp đánh cho bị thương rồi! 

 Giảo Kim thừa thế chém thêm vài tên tay chân, cả bọn cứ thế vứt cung, bỏ thương, lội bừa qua suối mà chạy, bỏ cả bạc tiền, hành lý lại mà thoát lấy thân đã. Tào tham quân Tiết Lượng, viên quan chỉ huy cả đoàn áp tải, thấy thế, quay ngựa chuồn thẳng. Giảo Kim vẫn không tha, giục ngựa đuổi theo. Bọn đầy tớ, cùng trang khách đi theo vội chạy báo cho Vưu Thông: 

 - Bố già thắng lớn rồi! Bạc tiền bọn chúng đều vứt lại trong rừng mà thoát thân rồi? 

 Vưu Thông dẫn tay chân ra đường quan, mở toang tất cả các thùng chứa bạc, đút vào những bao tải gai, khuân về Vũ Nam Trang, giết dê lợn, bày tiệc rượu chờ sẵn, đợi Giảo Kim về đánh chén. 

 Giảo Kim lúc này đuổi theo Tiết Lượng có đến mười dặm mới kịp, chủ ý cũng chẳng để giết Tiết Lượng cho bằng được, mà Giảo Kim cũng chẳng biết rằng tiền bạc bọn này đã vứt lại cả ở trong rừng rồi, nên cố tình đuổi theo bắt cho kỳ được cả người lẫn ngựa. Tiết Lượng quay đầu nhìn lại, thấy người ngựa Giảo Kim tới gần, không biết làm thế nào để đối phó, đành liều lên tiếng: 

 - Anh bạn lạc thảo! Ta với anh không thù không oán, anh chặn đường ta cũng chỉ vì tiền bạc. Nay bao nhiêu tiền bạc chúng tôi đã vứt lại trong rừng, anh còn đuổi theo ta để làm gì? 

 Giảo Kim nghe nhắc tiền bạc đã vứt cả ở trong rừng liền không đuổi theo nữa, quay ngựa, không cần phi nhanh nữa. Tiết Lượng thấy Giảo Kim đã quay ngựa, bạo dạn hơn ít nhiều, gọi với theo hăm dọa: 

 - Anh bạn lạc thảo, tiền bạc cướp được, giữ cho cẩn thận. Ta trở về trình quan Thứ sử, sai người tìm bắt, lúc ấy thì đừng có mà chạy thoát đâu nhé! 

 Giáo Kim nghe thế, nổi cơn điên khùng, gọi theo: 

 - Quan nhân đừng chạy vội, ta không giết quan nhân. Ta cũng không phải loại hảo hán không tên tuổi. Hãy cứ tạm cho quan nhân biết tên tuổi ta nhé, ta là Trình Giảo Kim, suốt đời chưa từng nói dối ai bao giờ. Ta có một người bạn rất trung hậu, tên gọi Vưu Thông. 

 Chính hai người chúng ta lấy số bạc ba nghìn lạng này đấy. Quan nhân cứ yên tâm về mà trình Thứ sử. 

 Giảo Kim nói xong tên tuổi hai người, mới thực sự quay ngựa trở về chưa đến trang trại đã thầm nghĩ lại: "Vừa rồi lẽ ra không nên nói rõ tên tuổi. Vưu viên ngoại biết ra lại oán giận ta. Thôi tìm vài lời quấy quá lờ đi cho xong". Chẳng mấy lúc về tới trang trại, cùng nhau hoan hỉ ăn uống. Chuyện không nói nữa. 

 Chính là: 

 khi vui rượu uống hũ chìm 

 Khi buồn mặt nặng như lim khác gì! 

 Lại nói Tào tham quân Tiết Lượng trở về phủ đường Thanh Châu, chính là lúc Thứ sử Hộc Tư Binh đang ngồi trên công đường. 

 Tiết Lượng vội quỳ trước công đường thưa: 

 - Trình Thứ sử, được lệnh áp tải lương tiền về Lạc Dương, ngày hai mươi tư đi đến rừng Trường Diệp của Tế Châu, bỗng xuất hiện khoảng mười tên cướp, cướp mất tất cả tiền bạc, giết chết võ tướng Lô Phương cùng bốn tên lính. Tiểu quan ra sức chống đỡ, may toàn tính mạng, về trình đại nhân, xin cho công văn tới Tế Châu, để phủ đường Tế Châu lùng bắt tội phạm, cùng thu lại ba nghìn lạng bạc. 

 Tư Bình nghe trình, nổi giận đùng đùng: 

 - Cướp đường nào mà dám cả gan đón đường quan quân. Ngươi không cẩn thận, đến nỗi mất của hại người. Ta sẽ cho người giải về trình Tổng lý đại nhân Vũ Văn Khải, để xem ngài xét xử thế nào; ngươi phải đền hay phủ đường Tế Châu phải đền ba nghìn lạng bạc này. 

 Rồi quát tháo ầm ầm. Tiết Lượng hồn bay phách lạc, vội vàng thưa: 

 - Có đại nhân ở trên, bọn cướp này nhất định bắt được, lúc chúng bị bọn tiểu nhân kháng cự còn xưng cả tên hiệu là Tĩnh Sơn đại vương Trần Đạt, Ngưu Kim gì gì đó, tiểu nhân nghe không thật rõ ràng, chỉ cần đưa ra những tin này cho phủ đường Tế Châu là có thể bắt được bọn này. 

 Thứ sử Tư Bình gọi bọn tay chân, làm văn thư gửi trực tiếp cho Tổng lý doanh tạo Đông Đô Vũ Văn Khải: 

 “Thanh Châu phủ đã cho áp tải ba nghìn lạng bạc theo lệnh Tổng lý. 

 Đi vừa đến rừng Trường Diệp thuộc Tế Châu phủ, cũng bởi phủ đường Tế Châu không cử thổ binh hộ tống, gặp ngay giặc cướp lấy hết, lại giết cả quan hiệu úy Lô Phương. Xin tổng lý đại nhân lệnh cho Tế Châu phủ bắt bọn cướp này, bồi thường số bạc cho Thanh Châu phủ.” 

 Một mặt đưa công văn sang phủ Tế Châu, yêu cầu Thứ sử Tế Châu bắt kỳ được bọn Trần Đạt, Ngưu Kim lấy lại số bạc. Tiết Lượng tạm thời bị giữ lại ở phủ đường, chờ công văn của quan Tổng lý ở Lạc Dương sẽ xét xử một thể. 

 Mấy ngày sau, Tổng lý Vũ Văn Khải có lệnh đưa về: 

 “Công trình đang khẩn cấp tạo dựng. Trong vòng một tháng không tìm thấy số bạc bản phủ Tế Châu phải bỏ tiền bồi nạp. Trong hạn hai tháng giặc cướp vẫn chưa bắt được, Thứ sử Tế Châu cùng Thanh Châu sẽ bị ngừng cấp tiền lương, các đô đầu đều phát phối làm lao dịch chuộc tội. Tiết Lượng cách chức làm dân thường, Lô Phương được hưởng mọi đặc ân với liệt sĩ.” 

 Nhận được lệnh này, Thứ sử Tư Bình đành phải tự đứng ra lo mọi công việc trong phủ mình và đốc thúc Lưu Thứ sử Tế Châu. Lưu Thứ sử cũng sợ bị bị liên lụy, nên vội vàng bàn bạc với tay chân: 

 - Số bạc ba nghìn lạng này, không phải là nhỏ dễ giấu ngay cho được mà cũng lấy đâu ra số bạc nữa mà bồi thường cho họ được. Nay ta chia thành từng đội, đội nào bắt được trước sẽ trọng thưởng, đội nào không làm nên chuyện sẽ bị phạt. 

 Rồi lên công đường, cho gọi chánh đô đầu Phàn Kiến Uy, phó đô đầu Đường Vạn Nhẫn tới, truyền lệnh: 

 - Bọn cướp này có tên tuổi rõ ràng, cũng dễ bề tìm ra, tại sao đến tháng nay vẫn không có tin tức gì. Phải chăng là bọn này cùng các ngươi có quan hệ mờ ám gì đây về tiền nong, nên các ngươi không chịu ra tay, để mọi chuyện phiền toái đổ lên đầu ta. 

 Kiến Uy thưa: 

 - Xin Thứ sử xét kỹ cho, xưa nay chưa từng có bọn cướp nào có gan xưng cả họ tên, rõ ràng là những tên để lừa bịp, quan quân chẳng biết lối nào mà lần. Vì thế chúng tôi đã tìm khắp nơi mọi chốn trong phủ, mà không hề thấy vết tích. 

 Lưu Thứ sử quát: 

 - Dù rằng là tên giả đi chăng nữa, thì những ba nghìn lạng bạc, hàng chục đứa tham gia, chứ có phải cái kim đâu, mà đã cả tháng nay, tịnh không vết dấu, rõ ràng các ngươi lười nhác, không chịu tận tâm mà thôi! 

 Rồi ra lệnh đánh Kiến Uy, Vạn Nhẫn mỗi người mười lăm roi, hạn cho ba ngày nữa, nếu không có tin gì mới, sẽ phạt mỗi người ba chục roi. 

 Ngày giờ trôi mau, sáng mai ra, đã lại một ngày. Cả bọn kéo về nhà Kiến Uy rồi còn nghĩ ngợi đủ cách, nốc rượu lấy sức, kéo nhau về phủ đường, trình lại Thứ sử. Lúc này Kiến Uy bàn với Vạn Nhẫn: 

 - Vạn Nhẫn hiền đệ, chúng ta khổ nhục chịu đựng thế này, nếu đại huynh Thúc Bảo còn làm đô đầu với chúng ta ở Tế Châu này, thì những chuyện như vậy. Tần đại huynh không bắt được Trần Đạt thì ít ra cũng tóm được Ngưu Kim rồi. Nay Tần đại huynh ở dưới trướng Lai Tổng quản, làm sao trình bày với Lưu Thứ sử đưa được Tần đại huynh về đây, chúng ta nhất định sẽ làm nên chuyện ngay, không thể bó tay chịu đòn như hiện nay. 

 Kiến Uy, Vạn Nhẫn cùng Thúc Bảo vốn là chỗ bạn bè thân thiết. Năm sáu chục thổ binh, kẻ biết, người thì đã nghe danh tiếng Thúc Bảo, thấy hai đô đầu bàn thế, đều nhất loạt hoan hô ầm ĩ: 

 - Nếu được thế, nhất định không ai có thể bắt nạt chúng ta nữa rồi. Phái về bẩm ngay với Lưu Thứ sử, nguyên đô đầu Tần Quỳnh, đã giữ chức này ở Tế Châu nhiều năm, biết rõ từng sào huyệt của bọn cướp nắm vững đường đi lối lại của bọn chúng, nay đương đảm nhiệm chức kỳ bài quan dưới trướng Lai Tổng quản, nhàn rỗi không có việc gì. Nay xin Thứ sử đứng ra đưa được Tần Quỳnh trở về, là có thể bắt được ngay Trần Đạt, Ngưu Kim. 

 Kiến Uy khuyên: 

 - Các anh không nên làm huyên náo đến thế, hãy vào công đường trình rõ với Lưu Thứ sử là hơn cả! 

 Sáng ra, mọi người vào phủ đường Kiến Uy lên bán nguyệt đài đưa trát ra để xin gia hạn, ai nấy đều quỳ dưới thềm. Lưu Thứ sử hỏi Kiến Uy: 

 - Đã có tung tích gì của bọn cướp chưa chánh đô đầu? 

 Kiến Uy thưa: 

 - Trình Thứ sử đại nhân, vẫn chẳng thấy tăm hơi! 

 Thứ sử sai đem hình cụ ra để phạt. Roi sắp sửa ra tay, Kiến Uy lại lên tiếng thưa: 

 - Tiểu nhân còn chuyện nữa, xin trình với Thứ sử đại nhân! 

 Lưu Thứ sử hỏi: 

 - Còn chuyện gì nữa? 

 Kiến Uy thưa: 

 - Bản châu ta, mấy năm trước có đô đầu Tần Quỳnh hiện đang giữ chức kỳ bài quan trong soái phủ Lai Tổng quản. Tần Quỳnh làm đô đầu lâu năm, biết rõ từng tên cướp trong phủ ta, xin Thứ sử đại nhân thân hành tới soái phủ Lai Tổng quản, xin cho được Tần Quỳnh về thì sẽ bắt được bọn Trần Đạt, Ngưu Kim. 

 Thứ sử chưa trả lời ngay, lưỡng lự cân nhắc, thì hơn năm mươi tên thổ binh quỳ dưới thềm đều lên tiếng kêu: 

 - Đại nhân đứng ra, xin được Tần Quỳnh về, Tần Quỳnh biết rõ từng tên cướp, lại đương nhàn rỗi dưới trướng Lai Tổng quản. Nếu đại nhân không đứng ra làm việc này cho, Tần Quỳnh không có mặt, dẫu đại nhân có đánh chết chúng tôi cũng chẳng nên công chuyện gì. 

 Lưu Thứ sử thấy "chúng khẩu đồng từ”, cũng đành miễn tội, cho cả bọn ra khỏi công đường chờ lệnh. 

 *** 

 Không nói chuyện mọi người được yên ổn qua một kỳ hạn của Lưu Thứ sử, hãy kể chuyện của Tần Thúc Bảo, từ ngày ở Trường An trở về thường nghĩ tới chuyện nghĩa hiệp đã làm ở Trường An vừa rồi, nhưng cũng sợ mọi chuyện lỡ dở, kéo theo nhiều chuyện lôi thôi khác, nên từ đó ẩn nhẫn qua ngày. Hôm ấy, Thúc Bảo đang buổi hầu trong soái phủ, nghe báo có Lưu Thứ sử bản châu xin vào gặp, Lai tổng quản ra lệnh mời vào. Hai người chào hỏi đâu đấy, yên vị chủ khách, vài câu hàn huyên xong, Lưu Thứ sử lên tiếng: 

 - Năm ngoái nhân Đông Kinh khởi công xây dựng cung điện, các lộ ở Sơn Đông này đều được lệnh góp tiền của, chẳng ngờ ba nghìn lạng bạc của phủ Thanh Châu, áp tải tới rừng Trường Diệp của bản phủ bị cướp lấy hết. Bọn này lại xưng cả tên họ, một tên là Trần Đạt một tên là Ngưu Kim. Phủ Thanh Châu lại gửi công văn trực tiếp cho Đông Kinh, Tổng lý Vũ Văn Khải đại nhân chuyển lệnh ngừng cấp lương tiền cho cả hai Thứ sử Tế Châu, Thanh Châu, bắt trong vòng một tháng phải nạp đủ số bạc bị cướp, cùng là nạp đủ từng tên giặc cướp, nếu chậm trễ sẽ gia tội. Chúng tôi đã sai quan tầm nã ráo riết, nhưng vẫn không thấy một bóng dáng nào. Theo lời đô đầu cùng bọn thổ binh, nguyên phủ Tế Châu trước có đô đầu Tần Quỳnh, hiện đang giữ chức kỳ bài quan ở soái phủ thành thạo bắt các bọn trộm cướp ở phủ, ý chúng tôi đến đây muốn xin đại nhân cho bản phủ mượn tạm Tần Quỳnh ít lâu về để bắt kỳ được bọn cướp này. 

 Lai Tổng quản nghe nói thế, đưa mắt nhìn Thúc Bảo rồi trả lời: 

 - Đây chính người cao to tướng kia là Tần Quỳnh, tuy thật tài cán, nhưng bản quan cũng thường cần đến thì làm sao mà có thể cáng đáng công việc cả hai nơi cho được! 

 Thúc Bảo lúc này cũng quỳ gối tâu: 

 - Trình hai vị đại nhân, kỳ bài hạ quan ở soái phủ đây luôn luôn công việc chờ sai phái, không thể nào đảm đương được cả việc bắt cướp. Lại nữa việc này ở Tế Châu đã có đô đầu Phàn Kiến Uy, sao lại dạy hạ quan làm chuyện này thay Kiến Uy cho được? 

 Lai Tổng quản cũng tán đồng: 

 - Chính vậy, việc này là việc của các đô đầu hiện đương chức của phủ Tế Châu. 

 Lưu Thứ sử thấy Thúc Bảo từ chối, Lai Tổng quản cũng lại ra mặt khuyến khích Thúc Bảo, trong lòng lấy làm bực bội nói: 

 - Chúng tôi cũng chỉ muốn bắt được bọn cướp này để khỏi phải bồi thường ba nghìn lạng bạc, nên mới phải khổ nhục đi mời Tần Quỳnh. Lại thêm bọn đô đầu cùng thổ binh của bản phủ đều cứ nhất tề ngợi ca Tần Quỳnh là người hiểu rõ từng tên cướp, nhớ kỹ đường đi lối lại thông thuộc lề thói của chúng. Ngoài việc chúng tôi đến đây, xin đại nhân nể tình, cũng đã gửi văn thư trình với Đông Kinh kể rõ đầu đuôi, Tần Quỳnh nên giúp chúng tôi làm tốt chuyện này, cũng là một sự tiến thân đáng khích lệ. Nhược bằng cứ kiên quyết chối từ thì khi đã có ý lệnh của Đông Kinh, dẫu có chối cũng không được nữa. 

 Lai Tổng quản nghe nói thế, bèn bàn: 

 - Thôi thì ta bàn thế này, về tài năng của Tần Quỳnh, ta cũng biết thế, để nâng đỡ Tần Quỳnh làm công vụ tốt hơn cũng là điều này. Việc bắt cướp này, cũng là việc lớn của quốc gia, chi bằng Tần 

 Quỳnh hãy giúp Lưu Thứ sử một thời gian là tiện hơn cả! 

 Thúc Bảo đã thấy Lai Tổng quản nói thế, cũng không còn cách nào khác, đành phải lên tiếng: 

 - Đại nhân đã phân xử như vậy, Lưu Thứ sử đã cần đến hạ quan này, thì hạ quan xin đi vậy. Chỉ sợ rằng tài cán của hạ quan, so với bọn Phàn Kiến Uy cũng chẳng hơn gì, công việc không thành, rồi cả lũ chúng tôi sẽ bị tội thôi. 

 Lai Tổng quản đáp: 

 - Cả một đội từ đô đầu đến thổ binh đều nhất loạt đề cử ngươi, thì nhất định ít nhiều ngươi cũng có thạo việc hơn ai, ngươi cứ đi. Ta sẽ theo dõi việc này, xong xuôi lại trở về đây với soái phủ. Bất nhược có việc cần, ta sẽ cho người gọi về ngay! 

 Thúc Bảo đành theo lời Lưu Thứ sử ra khỏi soái phủ. Đường Vạn Nhẫn cùng một số thổ binh theo chờ sẵn ngoài cổng, ùa đón Thúc Bảo: 

 - Tần Quỳnh, việc này nhất định phải đến tay đại huynh mới xong được. Tiểu đệ cũng biết đại huynh nghĩa nặng tình sâu, không nỡ nhìn bọn tiểu đệ lao đao vất vả, vào sống ra chết, ăn gió nằm sương mà vẫn không xong. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Hiền đệ! Ta quả chẳng biết gì về Trần Đạt với Ngưu Kim cả đâu! 

 Về tới phủ đường Tế Châu, Thúc Bảo làm lễ lạy chào Lưu Thứ sử, họ Lưu lấy lời lẽ ôn tồn động viên Thúc Bảo: 

 - Tần Quỳnh, ta không coi ngươi như các quan chức khác trong phủ đường này đâu, ngươi nhất định rồi sẽ có một tiền đồ rực rỡ, công việc bình thường hàng ngày cũng rất mẫn cán, nay ta đưa ngươi về đây cũng chẳng có việc gì đáng ngại. Nếu ngươi tìm được ra hai tên cướp có tên tuổi này, ngoài việc phủ đường cứ theo lệ thường mà thưởng tiền, sẽ có nhiều thứ mà thưởng công nhà ngươi, mà ngay cả 

 Lai Tổng quản đại nhân cũng sẽ thưởng công này thích đáng. Rồi trong văn thư trình lên Tổng Lý đại nhân Vũ Văn Khải, ta cũng sẽ kể đến tên ngươi đầu tiên. 

 Thúc Bảo cùng mọi người ra khỏi phủ đường, dốc tâm huyết sức lực để tìm cho ra bọn cướp, nhưng vẫn chẳng thấy một vết tích nào. Ba ngày sau vào phủ phúc trình, lại cũng theo lệ ba ngày không tìm thấy gì thì bị tội đánh đòn. Hạn thứ hai, rồi lại hạn thứ ba, 

 Thúc Bảo còn phải chịu nhiều hoạn nạn, muốn biết sự thể thế nào, xin xem hồi sau sẽ rõ . 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Hai Mươi Hai

Phát lệnh tiễn, Hùng Tín truyền danh,

 Lỡ việc quan, Thúc Bảo chịu phạt.

 Thơ rằng: 

 Bốn biển tâm đầu nghĩa trước sau 

 Nhớ mong khôn kể tháng ngày lâu 

 Cầm tay ngờ ngợ, cười không nói 

 Trong mộng thường thường vẫn gặp nhau. 

 Người ta nếu chỉ có tình nghĩa bạn bè, mà không đủ nghĩa vua tôi, cha con, hoặc chỉ có tình thương giữa anh em, vợ chồng đều không thể được. Nhưng thực quả tình bằng hữu keo sơn, tương thân tương ái thì khó mà quên được, dễ là đầu mối cho nhiều nỗi nhớ mong. Nếu lại là chuyện bậc hào kiệt gặp người hào kiệt, ý chí hòa hợp, chẳng có sự nghi ngại của sự gặp gỡ ban đầu, chẳng bị ràng buộc bởi phân biệt giàu nghèo, hiểu lòng dạ nhau bỗng nhiên phải xa nhau, thì đúng là "ba thu dồn lại một ngày", rồi ra cũng phải tìm mọi cơ hội để gặp gỡ. 

 Lúc này tiết thu sắp hết, trời đã sang cuối tháng chín. Đơn Hùng Tín ở trang trại đôn đốc đầy tớ, người làm, thu hoạch mùa màng, đang ngồi trong nhà trên, thấy tay chân vào thưa, có hai vị khách họ Lý, họ Vương đến. Hùng Tín nghe nói, mừng rỡ ra cổng đón, mời hai người xuống ngựa, đưa vào thư phòng. Chẳng mấy chốc tiệc rượu đã bày ra, cùng ngồi bên bàn, kể lể chuyện xa cách lâu nay. 

 Hùng Tín trách: 

 - Năm ngoái, nhận được thư của Vương hiền đệ, Hùng Tín này đã quyết dọn nhà cửa, hạ giường (1) chờ sẵn. Làm sao mãi nay mới tới? 

 1 Trần Phồn, đời Hậu Hán, có người bạn rất thân là Tử Trĩ. Phồn dành riêng cho bạn một cái giường, bạn về treo cao lên, bạn đến mới cho hạ xuống (Quỳnh lâm). 

 Bá Đương đáp: 

 - Dạo ấy chia tay với Đơn nhị ca, Huyền Thúy thì được Việt Quốc Công Dương Tố mời về phủ ở Trường An. Tiểu đệ cũng lang thang khắp đây đó, đến khi về Trường An để tìm gặp Huyền Thúy thì lúc qua Thiếu Hoa Sơn, bị Tề Quốc Viễn giữ lại, ở đó khá lâu, cho nên mới gửi thư cho nhị ca, cũng muốn về Nhị Hiền trang sum họp bàn hoàn, bất đồ sau khi gửi thư đi thì lại gặp Tần đại huynh. 

 Hùng Tín ngạc nhiên: 

 - Thúc Bảo ở đây trở về, nghe nói ra làm kỳ bài quan ở soái phủ của Lai Tổng quản, sao lại có chuyện gặp gỡ với hiền đệ ở Thiếu Hoa Sơn? 

 Bá Đương đáp: 

 - Thúc Bảo nhân Lai Tổng quản đi Trường An nạp lễ mừng thọ của Việt Quốc công, nên mới có chuyện xem đèn nguyên tiêu, đành phải lỡ hẹn với Nhị ca. Vào chùa Vĩnh Phúc, cách Trường An khoảng sáu mươi dặm, gặp con rể Đường Công Lý Uyên là Sài Tự Xương. Thúc Bảo trước kia đã cứu Đường Công ở Tra Thụ cương thoát khỏi đại nạn, nên mới cho xây ở Vĩnh Phúc này tháp Báo Đức. Thúc Bảo thấy vậy mới kể lại. Tự Xương biết ra, nên quyết giữ lại. Năm cũ qua đi, mãi đến mười bốn tháng giêng mới vào kinh ngày mười lăm thì tại họa ập tới, cả bọn đánh chết công tử Huệ Cập nhà họ Vũ Văn. 

 Hùng Tín lè lưỡi kinh hoàng: 

 - Chết thật! Hùng Tín nghe nói có sáu tên cướp nổi tiếng náo loạn Trường An, chuyện ầm ĩ khắp nơi, cũng chẳng ai biết họ tên là gì mải về sau lại nghe gia tướng của Đường Công Lý Uyên. Hùng Tín cũng chẳng để ý nữa, thì ra bọn tiểu đệ làm chuyện tày trời này sao? 

 Huyền Thúy thêm vào: 

 - Chuyện này thì quả là to gan lớn mật. Nếu không dính dáng đến thế lực vững vàng của Đường Công, bọn Vũ Văn Thuật không tìm ra tung tích, có thể tất cả họ Lý đều mang họa vào thân. 

 Hùng Tín hỏi: 

 - Thế hiện nay Thúc Bảo đã trở về nhà chưa? 

 Bá Đương đáp: 

 - Ngay sau đêm hôm ấy, chúng đệ mỗi người mỗi nơi ngay. 

 Hùng Tín tiếp: 

 - Hùng Tín nhiều lần định đi Sơn Đông thăm Tần hiền đệ, nhưng chưa có dịp nào. Nay nghe chuyện này ý cũng muốn đi Sơn Đông một chuyến xem sao. 

 Bá Đương vội đỡ lời: 

 - Chúng đệ đã lâu cũng muốn đến thăm nhị ca, hai nữa cũng đến mời nhị ca đi Sơn Đông một chuyến. 

 Hùng Tín hỏi: 

 - Có chuyện gì chăng? 

 Bá Đương đáp: 

 - Năm nay, ngày hai mươi ba tháng chín, thì mẫu thân Tần đại huynh vừa tròn lục tuẩn. Thúc Bảo vốn chí hiếu, sau chuyện đại náo Trường An, lúc vội vàng chia tay, trên ngựa Thúc Bảo còn dặn dò: “Mẫu thân vừa đúng lục tuần, vào ngày hai mươi ba tháng chín năm nay, các bạn nếu như không bỏ Thúc Bảo này, xin đến mừng, để tệ xá thêm rực rỡ”. Vì vậy tiểu đệ đi Trường An tìm Huyển Thúy, lại tình cờ gặp cả Sài Tự Xương, đang ở Trường An làm chuyện gì đó cho nhạc phụ Đường Công, có mấy ngàn lượng bạc, muốn tặng Thúc Bảo, Tự Xương cũng sẽ trỡ về đem đến vào dịp này luôn. Cho nên tiểu đệ rũ Huyền Thúy đến mời nhị ca cùng đi. 

 Chính là: 

 Giao kết Trần Lôi (1) nghĩa sắc son 

 Tình như cốt nhục chẳng hao mòn. 

 Bàn đào chúc thọ hàng con cháu 

 Tuổi mẹ dài lâu vững núi non. 

 1 Trần Lôi: Trần Trọng và Lôi Nghĩa, người đời Đông Hán, là đôi bạn rất thân, sống chết có nhau, dân gian khen: “Vững bền như thể keo sơn, vẫn thua hai gã Lôi Trần vùng ta”(Từ Hải) 

 Hùng Tín bàn thêm: 

 - Chuyện này rất là hay rồi. Chỉ có điều: bạn bè chúng ta thì nhiều, người biết chuyện thì nói: Bá Đương đứng ra mời Hùng Tín đi Tế Châu, cùng dự lễ thọ của Tần mẫu. Người không biết chuyện sẽ phàn nàn, Hùng Tín đối với bạn bè chỗ thân chỗ sơ, đi Sơn Đông chúc thọ Tần mẫu chỉ rũ mình Bá Đương, mà không thèm nói với mình một tiếng. Thế là bao nhiêu tội đổ lên đầu Hùng Tín này cả. 

 Huyền Thúy nói: 

 - Tiểu đệ có ngụ ý như thế này. Nhị ca chỉ cần làm một việc mà được hai. 

 Hùng Tín giục: 

 - Xin Hiền đệ cứ nói. 

 Huyền Thúy đáp: 

 - Nhị ca cứ nói với tất cả bạn bè thân tín, mời mọi người cùng đi. Trước là làm cho lễ mừng của Tần mẫu thêm long trọng, sau nữa nhị ca khỏi mang tiếng hậu bạc khác nhau với bạn bè. Thúc Bảo hiện nay thật chưa dư dật gì lắm, nên ta mang lễ mừng kha khá vào, điều này cũng tỏ ý biết rõ bạn bè của chúng ta như vậy. 

 Hùng Tín đáp: 

 - Hay lắm! Chỉ lo thế này: bạn bè ở vùng Lộ Châu, chỉ cần đưa thiếp mời đến cũng kịp nhưng ở xa lại sợ chẳng biết có nhà hay không, lỡ cả ngày mừng thọ, thành chuyện không hay. Phải làm thế này mới xong, nhưng xin hai hiền đệ hãy uống rượu đi đã rồi hãy bàn tiếp vậy. 

 Hùng Tín quay vào nhà trong lấy ra hai mươi lạng bạc vụn, chia làm hai gói, rút ra hai mũi tên lệnh của mình. Hùng Tín vốn không phải là quan võ, làm sao lại dùng lệnh tiễn. Nguyên là cái lệnh tiễn này cũng giống như một cái thẻ tre, trên có viết tên tuổi, đóng dấu riêng của Hùng Tín, để làm hiệu riêng trong đám anh hùng giang hồ quen biết, bạn bè thấy cái thẻ đó, như thấy hiệu lệnh tập hợp, lên đường không trù trừ. Hai thẻ lấy ra cùng với hai gói bạc, đặt ngay ngắn trên bàn, rồi sai đầy tớ cầm lại cho Bá Đương. Huyền Thúy xem qua, gọi thủ hạ lại, ai nấy đều náo nức muốn đi, nhốn nháo cả lên: 

 - Xin cho tiểu nhân được đi chuyến này? 

 Hùng Tín chọn hai người: 

 - Hai anh hãy nghe ta nói đây. Ta chọn hai anh vì nhanh nhẹn, được việc hãy chuẩn bị hành lý, yên cương thật chu đáo, mỗi anh nhận mười lạng bạc, làm tiền đi đường cho cả người lẫn ngựa. Cầm lệnh tiễn này, một anh thì tìm thôn Thuận Nghĩa, phủ U Châu, Hà Bắc, đưa lệnh tiễn trình Trương Công Cẩn, nói rõ, ngày mười lăm tháng chín này có mặt ở Nhị Hiền trang cùng nhau đi Tế Châu để kịp ngày hai mươi ba tháng chín dự lễ mừng thọ Tần mẫu. Còn một anh thì đến tìm Vưu viên ngoại ở Vu Nam trang, thuộc Duyên Châu, cũng nói tương tự như vậy, nhưng để khỏi phải đi vòng vèo xa thêm thì hẹn với Vưu viên ngoại không cần phải tới Nhị Hiền trang, mà chuẩn bị sẵn lễ vật, chờ ở bên đường quan rồi sẽ cùng đi Tế Châu một thể. 

 Hai người lĩnh mệnh ra đi. 

 Chính là: 

 Tin đưa nhanh quá gió 

 Bạn đến chật như mây. 

 Còn Bá Đương và Huyền Thúy thì suốt ngày rượu chè, đàm đạo cùng Hùng Tín. Đến ngày mười bốn, tháng chín đã có thêm ba hào kiệt tới, đó chính là Trương Công Cẩn, Sử Đại Nại cùng Bách Hiền Đạo ở Thuận Nghĩa thôn U Châu. Dự định sáng mai sẽ lên đường đi Tế Châu. Hùng Tín gọi đầy tớ lấy hai cái thiếp, nói với Bá Đương: 

 - Đồng Bội Chi cùng Kim Quốc Tuấn, năm xưa cũng đã từng kết nghĩa với Thúc Bảo, cũng nên báo cho họ biết, để xem có đi cũng tiện. 

 Bội Chi, Quốc Tuấn được Hùng Tín cho mời, sau khi rõ ngọn ngành, cũng thu thập lễ vật, người ngựa đến Nhị Hiền trang tụ tập. 

 Sáng hôm sau, cả chủ lẫn khách là tám người, dậy thật sớm, kể cả đầy tớ theo hầu là hơn mười người, hành trang lễ vật khí giới tùy thân kéo theo một chiếc xe nhỏ để chở, bọn cưỡi ngựa đi trước, theo lối Nhã Nam tìm đường đi về Sơn đông. 

 Lúc này vào khoảng tháng chín, gió thu gọi rụng lá vàng, cả bọn anh hùng đường trường ruổi ngựa, thì thấy phía trước gió bụi mịt mù, bọn tay chân đi trước quay lại bảo: 

 - Trình các ngài, đã tới địa phận Sơn Đông, trong bìa rừng thấy một vị trung niên, cùng một bậc trai tráng đón đường, sát khí đằng đằng, chúng con không dám đi nữa, quay lại báo các ngài rõ. 

 Bọn tay chân của Hùng Tín cũng thừa biết trong số tám vị đi đây tính ra cũng vài vị đã từng rượu trà với đám lục lâm, vì vậy khi nói những người này, họ cũng giữ ý, mà gọi là vị, là bậc hẳn hoi. 

 Hùng Tín nghe thế, đắc ý cả cười: 

 - Chẳng biết đám anh em nào đấy không biết. Nhận được lệnh tiễn của Hùng Tín này, có ý chờ ở đây để kiếm chác ít nhiều. Hãy để ta xem sao nào! 

 Bội Chi, Quốc Tuấn tự cho mình là bậc hào kiệt mà không thấy hết sự lợi hại của phường lục lâm, nên nói với Hùng Tín: 

 - Xin để chúng tôi lên trước xem sao! 

 Rồi cả hai kéo cương ngựa phóng lên. Hùng Tín nói với Bá Đương. 

 - Hai vị này, tuy là chỗ quen biết lâu ngày, nhưng quả không biết võ nghệ ra sao, mới chỉ nghe hai tiếng lục lâm, là đã xông lên muốn đánh rồi. 

 Bá Đương lắc đầu: 

 - Đơn nhị ca ơi! Hai vị này không làm nên trò gì đâu. 

 Hùng Tín hỏi: 

 - Sao hiền đệ biết? 

 Bá Đương đáp: 

 - Hai vị này chỉ chuyên làm công sai ở Lộ Châu, chẳng có tiếng tăm gì lắm, nghe đến lục lâm, họ cũng nghĩ chẳng khác gì họ, do chưa lịch duyệt nhiều, nên cũng không nhận rõ bản lĩnh của đối phương vậy. Đối phương cũng chưa từng biết tên tuổi họ. Rồi ra lời qua tiếng lại, không khỏi chuyện đao thương, nếu hai vị này thua, thì cũng mang tiếng nhị ca mời họ đi Sơn Đông, không thể bỏ được bạn đồng hành, thế nào nhị ca cũng mang tiếng. Còn nếu bản lĩnh của họ tốt hơn, thì đối phương kia sẽ thiệt hại. Biết đâu cũng là bạn bè mà nhị ca mời đi Sơn Đông chờ ở đấy, thì lại tổn thương đến tình nghĩa giang hồ vậy. 

 Hùng Tín tán đồng: 

 - Hiền đệ nói có lý lắm. Vậy xin nhờ hiền đệ lên xem sao. 

 Bá Đương nhận lời: 

 - Tiểu đệ đâu dám từ nan. 

 Rồi xách cây thương bạc ruổi lên phía trước, thấy trong đám khói mịt mù, quả nhiên Bội Chi, Quốc Tuấn đang thua chạy quay lại. Thì ra đúng là Sài Tự Xương y hẹn ở đây chờ Bá Đương, hành lý của Tự Xương thì nặng, trang phục đầy màu sắc lấp lánh, như chọc vào mắt bọn Vưu Tuấn Đạt, Trình Giảo Kim nên xảy ra chuyện xung dột ngay. Tự Xương cũng là kẻ có bản lĩnh, nhưng vì một đánh hai, nên cũng có chỗ bất cập, vừa dịp Bội Chi, Quốc Tuấn xông đến bạt đao tương trợ. Giảo Kim giơ búa đón đánh hai người, để mặc Vưu Thông quần với Tự Xương một mình. Giảo Kim chẳng hỏi chẳng rằng, nện hết búa này đến búa khác, làm đến nỗi Bội Chi cùng Quốc Tuấn đều phải bỏ chạy, Giảo Kim giục ngựa đuổi theo. Chẳng khác gì: 

 Tinh tường như mắt chim ưng 

 Nhanh như chớp, bóng thỏ rừng về hang. 

 Bội Chi, Quốc Tuấn thấy Bá Đương vội nói: 

 - Gặp phải tay tướng cướp không vừa? 

 Bá Đương nhường đường cho hai người, rồi lặng lẽ tiến lên phía trước, gọi lớn: 

 - Anh bạn ơi! Hãy từ từ xem sao đã, hình như ta với anh đi cùng một con đường thì phải. 

 Giảo Kim vốn nghe không hiểu tiếng vùng kinh đô, cứ thế giơ búa nhằm trán Bá Đương mà nện xuống, miệng thì hét lớn: 

 - Ta chẳng phải kẻ ăn chay niệm phật gì cả, mà kể lể Đạo với Phật! (l) 

 Bá Đương vẫn cười nói: 

 - Anh này quả là nóng tính. Ta với anh đều là bạn lục lâm với nhau cả mà! 

 Giảo Kim đáp: 

 - Dù là lục lâm hay "thất lâm" gì nữa cũng phải bỏ tiền lộ phí ra đây đã. 

 Búa cứ nhằm giữa trán Bá Đương mà bổ xuống một đường sáng loáng, chẳng khác gì nước bạc trút từ trong bầu ra, gió rít mưa gào, lưỡi búa tung hoành. Bá Đương thấy thế nhanh tay múa thương tránh hết miếng này đến miếng khác. Giảo Kim hết sức bình sinh, bổ hết búa nọ búa kia, chẳng búa nào trúng, sức lực cạn dần, tâm thần cũng bắt đầu hoảng loạn, lưỡi búa cũng bắt đầu lúng túng. Lúc này Bá Đương mới cả hai tay, một trước một sau, lao nhanh thương theo đúng thế "Ngân long xuất hải, ngọc mãng thân yêu", một thế thần thương, khó người tránh kịp (2). phóng thẳng vào yết hầu Giảo Kim, nhưng Bá Đương cũng thương tình, hạ thấp tay xuống, rồi rút ngay đường thương hiểm hóc đó về, nên Giảo Kim chưa đến nỗi ngã ngựa. Giảo Kim lại giơ cao búa chém loạn mấy đường vào thương của Bá Đương. Bá Đương quay ngay mũi thương, dùng móc kéo mạnh làm cả người lẫn ngựa Giảo Kim ngã lăn ra đất, Bá Đương cho ngựa chồm tới căn vặn họ tên. Giảo Kim chưa kịp đứng dậy, miệng hét ầm ĩ: 

 1 Giảo Kim hiểu chữ "đạo" là đường, ra nghĩa Đạo giáo, Phật giáo. 

 2 "Ngân long xuất hải": rồng bạc bay lên khỏi mặt biển, "ngọc mãng thân yêu”: con rắn ngọc quấn chặt lấy lưng. 

 - Vưu viên ngoại ơi? Cứu ta với! 

 Nhưng lúc này Vưu Thông vẫn đang quần nhau với Tự Xương làm sao mà thoát ra được. Bá Đương nghe thấy thế, liền lớn tiếng gọi cả hai: 

 - Sài Quận mã, Vưu viên ngoại, xin hai vị hãy dừng tay, chúng ta cùng một nhà, cùng đến đây để đi Tế Châu cả mà! 

 Lúc này cả ba xuống ngựa chào hỏi. Giảo Kim cũng đứng dựa vào ngựa, vẫn còn thở hổn hển, từ xa nhìn. Vưu Thông gọi Giảo Kim lại cùng mọi người tương kiến, rồi hỏi Bá Đương: 

 - Đại huynh đã gặp Đơn viên ngoại chưa? 

 Bá Đương chỉ phía sau đáp: 

 - Đơn nhị ca đang lại kia thôi! 

 Cũng vì Bội Chi cùng Quốc Tuấn nói với Hùng Tín gặp phải tên cướp không vừa, nên Hùng Tín vội phi ngựa lên xem sao để còn đối phó. Đến nơi, mọi người chào hỏi. 

 Chính là: 

 Ngỡ bèo theo gió mà trôi dạt 

 Mừng gió đưa duyên họp bạn bè.

 Bá Đương giới thiệu với Hùng Tín: 

 - Đây chính là Sài Quận mã! 

 Cả hai lấy tuổi tác hơn kém để chào nhau. Hùng Tín lại hỏi: 

 - Còn người vừa cho Bội Chi, Quốc Tuấn biết sức lực của đôi búa đâu nữa? 

 Vưu Thông đáp: 

 - Đấy chính là Trình Tri Tiết, bạn của tiểu đệ. 

 Ai nấy đều cười đùa vui vẻ, lại làm lễ chào hỏi. Vưu Thông mời mọi người về Vũ Nam trang nghỉ ngơi. Hùng Tín tính toán: 

 - Hôm nay đã là ngày hai mươi mốt tháng chín rồi, nếu còn đến quý trang Vưu viên ngoại, sợ không kịp ngày sinh nhật. Sau khi làm lễ mừng thọ rồi, đến quý trang chơi vài ngày cũng chưa muộn. Nhưng chẳng hay lễ vật mừng thọ, Vưu viên ngoại đã mang theo chưa? 

 Vưu Thông đáp: 

 - Cũng chẳng có gì nhiều, nên đã đem theo sẵn đây cả! 

 Thế là mười một hảo hán cả thảy, cùng đi Tế Châu, cách khoảng bốn mươi dặm, thì trời đổ chiều, cũng là lúc tới thôn Nghĩa Tang. Thôn này có khoảng ba bốn trăm nóc nhà, cũng là một thị trấn nhỏ, vì khắp thôn đều trồng dâu, dân thôn đều làm nghề dâu tằm, nên có tên Nghĩa Tang này. 

 Giữa lúc xuân sắp tàn, hạ sắp tới là giữa dâu tằm, thì thôn làng còn tấp nập, nay giữa tháng chín, trời tiết thu vàng, nhà nhà đều đóng cửa cài then. Chỉ có nhà hạ Đại là vẫn mở cửa hàng lớn của mình để đón khách lại qua, buôn bán. Cả bọn hào kiệt đều đến trước cửa hiệu thì xuống ngựa. Chủ quán gọi đầy tớ mang hành lý vào các phòng trọ, cho ngựa vào tàu, rồi lấy thức ăn cho chúng. Còn cả bọn kéo nhau lên gác ngồi nghỉ chờ dọn cơm rượu, thì lại thấy có ba người nữa đừng ngựa trước cửa quán. 

 - Ba người này là ai vậy? Đó là tướng của La Tổng quản ở U Châu, cũng vì Hùng Tín truyền lệnh tiễn cho Trương Công Cẩn, nên Sử Đại Nại, rồi anh em Uất Trì đều biết. Sử Đại Nại thì mới nhận chức kỳ bài quan, cũng chưa có việc gì nhất định cho nên đi trước với 

 Trương Công Cẩn. Anh em Uất Trì thì phải tính toán ít nhiều, phải vào nhờ công tử La Thành thưa chuyện với Tần phu nhân. Phu nhân vẫn nhớ ngày hai mươi ba tháng chín này là ngày lục tuần thọ nhật của chị dâu, cho nên mới bàn với La Tổng quản sai gia tướng đem lễ vật mừng. Anh em Uất Trì vì vậy được La Tổng quản sai đi, vừa việc của người, vừa việc của mình. Lại thêm một tên lính đi theo dắt ngựa thồ hành lý, vậy là ba người cũng vừa dịp hôm ấy đến Nghĩa Tang thôn. Chủ quán từ sau quầy hàng đon đả mời: 

 - Đây đi Tế Châu còn những bốn chục dặm nữa. Lại chẳng còn nơi nào nghỉ ngơi tiện lợi cả, xin mời nhị vị quý khách vào quán đây, cơm rượu sẵn sàng là tốt hơn cả! 

 Anh em Uất Trì cùng thủ hạ, nâng bao hàng xuống, vào quán. Chủ quán bước ra sắp xếp rối rít: 

 - Trước cả hai quý khách, đã có một đoàn các ngài đang ăn uống trên lầu từ lâu, xem ra có vẻ say sưa cả rồi. Hai vị vốn là khách quý, lên lầu bây giờ cũng có điều không tiện, dưới phòng có phòng đầu nhà kia rất tươm tất, xin mời hai vị vào đấy lại thêm tự tại thoải mái dùng cơm tối là hơn cả. 

 Uất Trì Nam đáp: 

 - Bác chủ quán thật là một tiểu nhị biết người biết việc. Ngồi với mấy ngài nốc rượu say như thế thì chúng ta chẳng thích thú gì, ở dưới này mà lại hay hơn đấy! 

 Chủ quán sai bày cơm rượu cho anh em Uất Trì. 

 *** 

 Lại nói chuyện mười một vị hảo hán ở trên lầu, vừa cơm rượu, vừa chuyện trò vui vẻ, rượu đã ngà ngà say cả, riêng Giảo Kim thì đã túy lúy rồi. Giảo Kim vốn nghiện nặng, thấy rượu thì phải uống kỳ say mới thôi. Cầm bát rượu trong tay, Giảo Kim vừa lè nhè kể lại những ngày khốn nạn ở ải quan. 

 - Tiểu đệ đã từng bị đi đày ở ải quan nhiều năm, chẳng còn khổ cực nào bằng. Trở về chẳng bao lâu, may gặp Vưu viên ngoại, mời đi rừng Trường Diệp, làm một chuyến kiếm sống. Nay lại dược kết giao với các bậc hào kiệt trong thiên hạ, tiểu đệ thật sung sướng không lúc nào bằng. 

 Bao nhiêu điều ấp ủ trong lòng lâu nay chưa nói ra được thì bây giờ cứ thế Giảo Kim tuôn ra một mạch, không cần nghĩ ngợi, đắn đo gì cả. Lại cạn thêm một bát rượu nữa, dằn mạnh cái bát xuống bàn, ra ý đã cạn rồi miệng lại gào lớn: 

 - Thế này mới là uống chứ? 

 Tất nhiên cái bát làm sao mà có thể chịu nổi một cú trời giáng như thế, lập tức vỡ ra như bột phấn, Giảo Kim lại dậm chân, đạp mạnh một cái nữa, sàn gác lập tức lại thủng ngay một đám lớn dưới chân. 

 Mừng rơn thành rộng tượng 

 Say tít hóa đa ngôn. 

 Dân vùng Sơn Đông làm những lầu gác kiểu này, thì sân chỉ là mấy cây dương liễu cưa cho vừa, xếp cho khít, hai đầu cũng có khóa ngàm sơ sơ nên cũng chẳng thể nào chịu được những chấn động mạnh như thế. Lập tức bụi đất rơi vãi khắp từng dưới, nơi anh em Uất Trì đang ăn uống. Cũng may, Uất Trì Nam bình tĩnh, hỏi rất từ tốn: 

 - Vị khách nào trên ấy, sao lại xấu chơi thế? 

 Uất Trì Bắc đang còn ít tuổi, tính hãy còn hung hăng, làm sao chịu nổi những chuyện thế này, ngửa mặt lên trần nhà chửi lớn: 

 - Thằng súc sinh nào trên ấy? Nhai đầy bụng cỏ ngựa rồi, vứt tất cả góc bẩn xuống dưới này phải không? 

 Giảo Kim vốn là người nóng tính, không chịu thua kém ai bao giờ lại nghe chửi thế, vốn ngồi ngay cạnh cầu thang, cứ thế mấy bước nhảy xuống ngay trước mặt Uất Trì Bắc. Cả hai túm chặt lấy nhau, trong phòng chặt chội, lôi đi kéo lại, quần nhiễu áo lụa, cứ thế mà toạc từng miếng lớn. Thấy thế, Uất Trì Nam cũng chẳng lại can, mà lại ra vẻ quan dạng, gọi chủ quán, chỉ cho y thấy cảnh đánh đấm đang kịch liệt trong phòng nhỏ rồi hỏi: 

 - Nơi này thuộc nha phủ nào cai quản đây tiểu nhị? 

 Hùng Tín ở trên lầu nghe cách nói năng thế, biết ngay là vẻ khệnh khạng của hạng quan cách, lập tức tức khí, hét lớn tiếng: 

 - Các bạn, vị khách dưới nhà mở miệng ra đầy vẻ kẻ cả. Ở cái chốn hoang thông dã điếm như thế này, uống rượu say rồi nện nhau vài hiệp, ai mạnh thì thắng, hỏi gì đến chuyện ai cai quản làm gì, mà phải động đến phủ đường với quan nha? 

 Nhưng do nói tiếng thổ âm vùng U Châu, cho nên trên gác này, Công Cẩn cũng nghe ra, bèn can: 

 - Xin Đơn nhị ca khoan nóng giận. Hình như giọng nói vùng quê U Châu của tiểu đệ thì phải. 

 Hùng Tín giục: 

 - Thế thì tiểu đệ hãy xuống ngay xem sao! 

 Công Cẩn mới bước xuống thang, đã nhận ra Uất Trì Nam, liền quay ngay lên nói lại với Hùng Tín: 

 - Đơn nhị ca, thì ra lại cũng anh em Uất Trì cả thôi! 

 Thấy Công Cẩn cùng mọi người, kịp nghĩ ra kẻ đang ẩu đả với Uất Trì Bắc cũng là bạn bè, Uất Trì Bắc hãy dừng tay. Vưu Thông kéo ngay Giảo Kim ra. Giảo Kim, Uất Trì Bắc đều phải đi thay quần áo khác quay lại làm lễ tương kiến với mọi người. Còn chủ quán thì sai đầy tớ vác cưa đục lên lầu, chữa lại chỗ sàn gác bị hỏng, tiếng đục, tiếng cưa inh tai. 

 Lại tiệc rượu, Hùng Tín đếm đủ mười ba hảo hán, đèn nến đốt sáng, rượu cứ rót tràn. Nhưng người đông, ý lại khác, kẻ nào thích rượu thì cứ bám lấy bàn lấy ghế, hết uống lại chuyện trò. Có người do mệt nhọc, sai đầy tớ giải chăn đệm, nằm ngủ tít trong phòng riêng. 

 Lại có bậc cao hứng, ra khỏi cửa hàng, đêm khuya, ánh trăng le lói dắt nhau dạo dưới hàng dâu cao, kể chuyện xa cách, gặp gỡ lâu nay của bậc giang hồ hảo hán. Còn ngồi lại trên gác, chỉ có Công Cẩn, Hiển Đạo, Đại Nại đều là bạn rượu lâu nay, ba tháng cùng nhau mở 

 Đả lôi đài ở thôn Thuận Nghĩa, Đại Nại trở thành kỳ bài quan ở U Châu, xa nhau cũng đã lâu, giờ mới có dịp khề khà ấm lạnh. Còn Bội Chi, Quốc Tuấn hôm nay bị Giảo Kim đánh bại gân cốt rã rời, cùng với Sài Tự Xương vốn giữ phong độ quý tộc của mình, nên đều đi nằm sớm. Đám Đơn Hùng Tín, cùng với Vưu Thông, Bá Đương, Huyền Thúy, Uất Trì Nam, dưới rừng dâu chuyện trò khá khuya rồi mới kéo nhau về ngủ. 

 Sang canh năm, cả bọn trở dậy đi Tế Châu, từ thôn Nghĩa Tang này tới Tế Châu còn bốn mươi dặm. Đi được khoảng hai mươi dặm thì trời vừa sáng, còn hai mươi dặm nữa mới tới thành, đã thấy vô số bọn tay chân chào hàng, mời khách trọ. Ở thành Tế Châu này, các quán trọ lớn đều cho tay chân rải khắp các cửa thành để lôi kéo khách. Bọn này đủ các cách khác nhau để giành cho được khách, miệng chào đon đả, kể hết món ăn thức uống sang trọng, lại khoe các thứ hàng lụa gấm rực rỡ, đồ gỗ, yên cương, tha hồ đại ngôn khoác lác. Khách bị lôi khắp, Hùng Tín lúc này vẫn ngồi trên yên ngựa, cũng phải sai phái: 

 - Khỏi được lôi kéo loạn xạ như vậy. Chúng ta đã có nhà trọ quen thuộc lâu nay rồi. Hàng yên cương Giả gia điếm ở cửa tây, chính là chỗ quen thuộc lâu nay của ta. 

 Vốn là từ dạo Giả Nhuận Phủ mở cửa hàng bán yên cương. Hùng Tín mỗi lần ở Lộ Châu có ngựa bán hoặc đi Sơn Đông, đều đến hàng họ Giả. Lúc này cũng có hai kẻ tay chân của họ Giả trong dám này, nghe tiếng, nhận ra Hùng Tín, bèn chạy lại: 

 - A ha! Đơn viên ngoại, chúng tôi chính là tay chân của Giả gia điếm đây. 

 Hùng Tín đáp: 

 - Nếu thế thì một tay hãy dẫn người ngựa, hành lý của chúng ta. Một tay hãy chạy về báo với họ Giả trước. 

 Giả Nhuận Phủ nguyên là bạn thân của Thúc Bảo. Sáng nay cũng đang ở nhà sửa soạn lễ vật, để sáng mai sang mừng thọ Tần mẫu, thấy đầy tớ vào báo: 

 - Trình đại huynh. Đơn viên ngoại cùng các bậc hào kiệt ở Lộ Châu mười hai người nữa đều đã tới. 

 Nhuận Phủ cười nói: 

 - Đơn viên ngoại cùng các bạn hôm nay tới đây cũng là để ngày mai mừng thọ Tần mẫu. Thế là ta phải thay mặt Thúc Bảo lấy lễ chủ khách ra mà tiếp đón. Các anh hãy dọn cất chỗ lễ vật này đi, còn chuẩn bị đón khách. 

 Rồi sai phái đầu bếp, làm ngay cơm rượu, xem lại chuồng ngựa, thức ăn cho ngựa. Mua sắm thêm trà rượu, các loại hoa quả, thực phẩm, đủ cho hàng chục người ăn uống, cho mời cả đội nhạc tới để thêm phần trọng thể. Nhuận Phủ cũng thay quần áo mới, ra đón các vị khách. 

 Hùng Tín cùng bạn bè vào đến phủ, đều xuống ngựa đi bộ, xe nhỏ, ngựa, người dắt đều phải đi phía sau. Nhuận Phủ ra đón giữa phố, Hùng Tín nhường cho các bạn đi trước, về đến trước cửa, tháo bỏ yên cương, dẫn ngựa vào chuồng. Nếu là nhà bình thường ở trong thành, thì làm sao mà chứa nổi số người ngựa như vậy, lại là những ngựa thiên lý câu long, ô truy, con nào cũng to lớn, không vừa chuồng, mãi mới đưa vào được. Bàn ghế bày ra, chiếu đệm rải khắp, mọi người cùng chào hỏi, vái nhận bạn bè cũ, giới thiệu bạn bè mới tên tuổi quê quán đều rất mực cẩn thận, thân thiết. Uống một tuần trà, Hùng Tín vẫn thắc thỏm không yên, mới hỏi Nhuận Phủ: 

 - Nhuận Phủ hiền đệ, nhân ngày tốt lành này, Thúc Bảo mời bọn Hùng Tín đến đây, sao không thấy có mặt gặp nhau hôm nay. Kẻo rồi ngay mai, mọi người lại mỗi ngã rồi. Hay là chủ nhân kiếm chưa đủ rượu cho khách uống? 

 Nhuận Phủ nghe Hùng Tín hỏi thế, lòng thầm nghĩ: "Hôm nay đã là kỳ hẹn thứ hai rồi. Thúc Bảo vẫn chưa thấy tăm hơi gì của bọn cướp Trần Đạt, có lẽ phải vào phủ đường để đổi trát mới. Thúc Bảo là người vốn giàu tình cảm, giờ nghe báo Hùng Tín cùng các bạn tới đây lại càng chẳng yên tâm mà lo lắng việc công. Ta cũng chẳng biết có xảy ra chuyện gì trong phủ thì đi mời Thúc Bảo cũng đành. Đường này đã biết rõ chuyện khó khăn như vậy mà còn vào mời Thúc Bảo ra, thì quả là làm khổ Thúc Bảo đến hai lần". Lại thêm ở đây đông người, không thể kể rõ cả mọi chuyện, nên đành trả lời Hùng Tín chung chung: 

 - Tiểu đệ cho người đi mời Thúc Bảo tới ngay. 

 Nhuận Phủ nói thế, vì sợ mọi người chờ không được bỏ ra phố đi chơi hết, thì rõ chuyện lôi thôi hiện nay của Thúc Bảo ở phủ đường, nên muốn giữ chân khách khứa lại trong quán ăn uống say sưa đã. 

 Chính là: 

 Tiệc hoa chuốc chén đồi mồi 

 Rượu bồ đào dễ say người bạn xưa. 

 *** 

 Không nói chuyện Nhuận Phủ bày rượu giữ khách, lại nói chuyện Thúc Bảo từ buổi dính vào chuyện bắt cướp. Bọn Phàn Kiến Uy cũng ngợi ca Thúc Bảo bản lĩnh giỏi giang, quen thuộc việc bắt cướp có thể làm rất tốt chuyện này, thật ra cũng vô tình làm hại Thúc Bảo. Mà không nghĩ ra cho hết rằng, nếu trên lưng ngựa, một đao một thương, thì quả tình không mấy ai địch nổi Thúc Bảo, nhưng đây là chuyện lùng bắt, sưu tra, thì Thúc Bảo tài năng cũng chẳng hơn gì người khác. Lại nữa chuyện này, hàng tháng nay, cả Kiến Uy, Vạn Nhẫn cùng một bọn năm sáu mươi thổ binh tìm kiếm cũng chẳng ra rồi, muốn trút bỏ công việc cho người khác nhưng đời nào Lưu Thứ sử chịu. Hôm nay bạc ba nghìn lạng vẫn chẳng thấy tăm dạng, nên cả bọn dành kéo nhau vào phủ, xin đổi trát lần thứ hai. Vào đến nghi môn rồi, cửa phủ đóng lại. Lưu Thứ sử hỏi kết quả công việc ngày hôm qua. Thúc Bảo trình thưa đầu đuôi, Lưu Thứ sử ngồi trên công đường, mặt đỏ bừng giận dữ, quát lớn: 

 - Đã mấy tháng nay rồi! Làm sao lại không tìm ra được hai thằng giặc cướp. Rõ ràng là các ngươi thông đồng với chúng, để cam chịu trận đòn ngày hôm nay còn hơn. Quyết hại bản quan chứ không vừa. Nếu đã thế, ta sẽ đánh gấp đôi. 

 Rồi chẳng nghe biện luận, can gián của xung quanh, Lưu Thứ sử ra lệnh hành tội. Cả năm mươi tư người trong đội thổ binh có ai họ hàng thân thích đều kéo tới trước phủ đường để theo dõi, đoạn đường trước cổng phủ Tế Châu đông nghịt, không còn chen được. Lần hành tội này, Lưu Thứ sử đánh từng người một, mỗi người đủ ba chục roi, nhưng ai bị đánh rồi, vẫn phải nằm chờ trong phủ, vì vậy đánh đủ năm mươi tư người, thì lúc này trời cũng đã chiều, cả bọn mới được lĩnh trát gia hạn, rồi cổng phủ mới mở cho ra. 

 Bên ngoài là một cảnh huyên náo lạ thường, tiếng khóc như ri, chỗ này thì khiêng, chỗ kia thì dìu, thì vịn, thì cõng trên lưng bọn thổ binh ra khỏi cổng phủ. Cũng có kẻ phải vào tạm trong quán để nghỉ ngơi, cũng có kẻ được đưa về nhà để rồi còn rượu thuốc giảm đau, chạy chữa các vết thương. Chỉ riêng Thúc Bảo là không giống như người khác, qua trận đánh ba mươi roi này, đầy người vết thương nham nhở, roi trúc cứa rách da lòi thịt, mặt mày xây xát máu me bùn đất chỉ có nỗi hối hận, hổ thẹn dày vò trong lòng thì không sao nguôi được. Thúc Bảo ra khỏi phủ, tự mình gượng bước đi. 

 Chính là: 

 Nửa này đàn sớm sáo trưa 

 Nửa kia nuốt giận gió mưa não nùng. 

 Chưa rõ mọi chuyện sẽ ra sao, hãy xem hồi sau phân giải. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Hai Mươi Ba

Giữa tiệc rượu, kể toàn chuyện ăn cướp, sống chết không nài,

 Bên ngọn đèn, đốt phăng trát nã gian, xưa nay hiếm thấy.

 Thơ rằng: 

 Dũng sĩ chẳng van nài 

 Hiệp sĩ không bắt bí 

 Sống chết khinh gian nguy 

 Bầu bạn trọng nghĩa khí 

 Ngu Khanh bỏ ấn tướng(1) 

 Hoạn nạn một lòng theo 

 Chẳng như đứa khinh bạc 

 Trở mặt ngay sớm chiều. 

 1 Ngu Khanh: người thời Chiến quốc, làm tướng nước Triệu. Bạn cũ là Ngụy Tề khốn đốn đến nương nhờ. Ngu Khanh trả ấn tướng cho Triệu, cùng Ngụy Tề đi gặp nhiều trắc trở vẫn không bỏ nhau (Từ Hải). 

 Bậc hào kiệt trên đời, xem cái chết nhẹ tựa lông chim hồng, mình làm mình chịu, không bao giờ đổ tội cho người khác. Nếu như trời sinh ra có ít nhiều tài năng nhưng tài năng đó chẳng thể vì người khác trong cảnh chín chết một sống, dành cứ lấy cái chết của người, làm cái sống cho mình. Điều đó kẻ hiệp khách anh hùng không thèm làm vậy. 

 * * *

 Lại nói chuyện Thúc Bảo ra khỏi phủ đường, đang xem lại những vết thương đầy trên người mình, thì thấy một cụ già gọi: 

 - Tần kỳ bài! 

 Thúc Bảo ngẩng nhìn ngạc nhiên: 

 - A! Trương xã trưởng! 

 Xã trưởng nói: 

 - Tần kỳ bài gặp phải cái họa không trên ngờ, già này vừa mới mở một quán rượu ngay trước mặt phủ đường đây, xin đem ít rượu để kỳ bài quên đi nỗi buồn phiền này. 

 Xã trưởng họ Trương hàng ngày cũng thường được Thúc Bảo chở che cho điều này việc khác, vì vậy mới có thái độ ân cần như thế. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Xã trưởng đã có lòng chăm sóc. Thúc Bảo không dám chối từ. 

 Xã trưởng đưa Thúc Bảo về quán, dẫn mãi vào phía trong, không còn là nơi của khách khứa nhậu nhẹt hàng ngày mà là phòng riêng của gia đình. Bọn người nhà mang trà ra uống. Bàn ngoài dọn thức nhắm, lại thêm một hồ rượu đã hâm nóng. Xã trưởng rót một chén rượu đưa mời Thúc Bảo. Thúc Bảo đỡ lấy, rơi nước mắt, xã trưởng lựa lời an ủi: 

 - Tần kỳ bài chẳng nên thương cảm làm gì. Bắt được bọn này, thì lại được khen thưởng ngay thôi mà. Trong khi uống rượu, chẳng nên sụt sùi, dễ bị nhiễm bệnh lắm! 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Xã trưỡng đã có lòng biết đến, xin thưa thật, Tần Quỳnh này vốn ương ngạnh, đâu có phải vì mấy ngọn roi vừa rồi của Lưu Thứ sử, đau đớn đến không chịu nổi mà khóc than đâu. 

 Xã trưởng ân cần hỏi: 

 - Vậy thì vì chuyện gì hở Tần kỳ bài? 

 Thúc Bảo đáp. 

 - Năm xưa trong dịp đi công văn ở Hà Đông, có một người bạn rất thân của Tần Quỳnh này là Đơn Hùng Tín, cho mấy trăm lạng bạc trước khi về quê, lại còn ân cần dặn dò, không nên làm cái nghề công sai này nữa, "cầu vinh bất tại chu môn hạ", tìm tiếng danh thì không nên tìm ở cửa nhà quan. Lời dặn đó, Tần Quỳnh này không mấy lúc quên, nhưng chỉ vì nôn nóng muốn thành danh lập nghiệp, nên mới vào trướng Lai Tổng quản, một đao một thương, những mong nên công nghiệp nửa quan nửa quân. Chẳng ngờ bị Lưu Thứ sử xin về đây, để đến nỗi cái thân xác cha mẹ để lại cho này bị nhục hình của quan gia, nay nghĩ thẹn với cố nhân, vì thế mà không ngăn được nước mắt vậy. 

 Hạt lệ rơi ướt đầm 

 Cảm thương lòng khôn cầm 

 Oan khiên thêm nhục nhã 

 Luống thẹn cùng tri âm. 

 Cũng là vì Thúc Bảo lúc này chưa biết Hùng Tín từ nghìn dặm xa xôi đã tới Tế Châu để dự lễ mừng thọ Tần mẫu, hiện chỉ cách nhau một đoạn phố ngắn. Thúc Bảo đang cùng với Trương xã trưởng uống rượu, chuyện trò, thấy bên ngoài có tiếng người lộn xộn đi vào, rồi có người cao giọng hỏi: 

 - Tần Thúc Bảo có ở đây không? 

 Đầy tớ nhận ra là Phàn Kiến Uy, liền thưa: 

 - Tần kỳ bài hiện đang ở đây! Thưa đô đầu! 

 Xã trưởng vội vàng đứng dậy mời: 

 - Mời đô đầu ngồi uống với chúng tôi vài chén đã! 

 Thúc Bảo mừng rỡ: 

 - Hiền đệ tới rất đúng lúc. Hôm nay Trương xã trưởng nặng tình, hiền đệ hãy cùng uống say với tiểu đệ luôn. 

 Kiến Uy đáp: 

 - Tần đại huynh, lúc này không phải lúc uống rượu, có việc rất cần! 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Có việc gì hiền đệ nói ngay đi xem nào? 

 Kiến Uy ghé sát tai Thúc Bảo nói nhỏ: 

 - Mới rồi đây tiểu đệ cùng với bốn người bạn đi uống rượu giải khuây thấy người người đang bàn tán thì thầm khắp nơi, ở chỗ cửa hàng Giả Nhuận Phủ có tới mười lăm người ngựa mới tới, ăn nói, trang phục đều rất khác lạ, có những người rất đáng nghi ngờ, biết đâu có cả Trần Đạt, Ngưu Kim trong số ấy cũng nên. 

 Thúc Bảo nghe nói thế, vui vẻ hẳn lên: 

 - Đúng là xã trường không nói đùa với ta rồi nhé. Kiến Uy vừa ở cửa tây về cho biết, ở cửa hàng Giả gia điếm, có mấy người đáng ngờ, có thể có cả hai tay cướp ba nghìn lạng bạc trong số đó chăng, Tần Quỳnh này quả không dám uống nữa! 

 Xã trưởng nói: 

 - Rượu của già này quả là rượu có ích, dầu có giúp Tần kỳ bài giải khuây một lúc. Nếu có tin hay, thì xin hai vị đi ngay cho. Bắt được tên cướp, thì già này xin mở tiệc mừng hai vị ngay. 

 Thúc Bảo cùng Kiến Uy từ giã Trương xã trưởng, ra khỏi quán rượu, đi về cửa tây. Lúc này rất đông người, cổng thành vẫn còn chưa đến giờ kéo lên, những kẻ nhàn rỗi đang dạo khắp hàng, khắp chợ, thỉnh thoảng cũng thấy vài kẻ làm sai dịch trong phủ đường, nhưng không phải ở trong đội của Thúc Bảo, Kiến Uy. Bọn này thấy một toán rất đông kẻ lạ mặt, lạ giọng, lạ ăn mặc, nhiều hành lý kéo đến hàng Giả Nhuận Phủ, nên cũng tò mò kéo đến xem, nay lại thấy Thúc Bảo đi cùng Kiến Uy đến đấy, họ được dịp thì thào, chỉ trỏ: 

 - Các ngài xem kìa! Cả hai vị này cũng kéo nhau đến đây, nhất định trong đám kia có chuyện gì, không sai đâu các ngài ạ. Ta chờ xem sao! 

 Có kẻ còn kéo tay Thúc Bảo ân cần: 

 - Tần kỳ bài này! Nếu trong Giả gia điếm có chuyện gì, xin kỳ bài cứ báo hiệu ra ngoài này, chúng tôi sẽ kéo ngay dân đinh, cùng mọi người giúp Tần kỳ bài một tay nhé! 

 Thúc Bảo cũng lắc lắc tay cảm tạ: 

 - Đa tạ chư vị! Xin các vị cứ đứng ngoài này, đừng giải tán vội, có gì xin giúp chúng tôi một tay. 

 Đi qua cầu treo, vào đến hàng Nhuận Phủ, các cửa đều thấy đóng, cả cửa bên nách cũng vậy, biển hàng chẳng thấy treo. Thúc Bảo đẩy thử, thấy cửa vẫn không khóa gì cả, bèn quay đầu nói nhỏ với Kiến Uy: 

 - Kiến Uy này, chúng ta không nên vào cả hai người đâu. 

 Kiến Uy hỏi: 

 - Sao lại thế? 

 Thúc Bảo giảng giải: 

 - Cả hai vào, lỡ có xảy ra chuyện gì, không có ai lo việc cứu ứng. Hiền đệ cứ đứng ngoài, để ta vào trước, nếu có chuyện gì, ta sẽ huýt sáo thật to. Hiền đệ ở bên ngoài, cứ thế gọi người ở ngoài phố, ngoài cầu treo tới, chặn đứng lấy hai đầu phố, thế là các ngõ này bị vây kín, tiếp viện cho hai ta ở trong này đối địch. Phải tính mức như vậy mới xong, bởi bọn này cũng là phường bất kể sống chết, mà một đôi khó địch bốn tay, phải không hiền đệ? 

 Kiến Uy đáp: 

 - Tiểu đệ hiểu rồi! 

 Thúc Bảo đẩy cửa ngoài, rồi đẩy cửa thứ hai, đẩy cửa thứ ba, thấy trong phòng lớn, vừa chật những người bàn ghế, tối không trông thấy rõ ràng gì cả. Đó chẳng là ai khác lạ. Các bạn Thúc Bảo, sau khi xuống ngựa cơm nước xong, ai nấy lại vào bàn làm tiệc rượu tiếp, gần các bàn tiệc là đám đầy tớ mang theo, vòng thứ hai là đám gia nhân của Nhuận Phủ, thêm nữa là bọn tay chân, các nhà xung quanh, thấy lạ chiều tối rỗi việc nên kéo sang ăn uống, xem người ca hát, chuyện trò . 

 Thúc Bảo rón rén đi vào, vì chỉ sợ sánh động, bọn cướp biết sẽ chạy mất, phần cũng ngại Nhuận Phủ nhận ra mình, sẽ thêm lôi thôi, nên Thúc Bảo phải cúi lom khom, men theo chỗ tường tối mà đi vào rồi lẫn vào đám đông lố nhố để xem xét, thấy ai nấy đều cao lớn, dáng hổ vẻ gấu, mũ cao áo rộng, chỉ có một vài người là ăn mặc dáng vẻ đầy tớ mà thôi. Lại thấy thỉnh thoảng có kẻ hướng về phía bàn trong, vừa nói vừa cúi chào đầy vẻ kính trọng, những người vây kín, nên trông cũng chẳng rõ, tiếng nghe cũng bị lấp bởi đủ các âm thanh ồn ào khác. Mãi đến lúc đèn nến được thắp lên, Thúc Bảo mới nhìn rõ vị khách đứng cạnh ghế cao chính giữa bàn trông hao hao giống Đơn Hùng Tín, nhưng Thúc Bảo lại thầm nghĩ: "Người này quả rất giống Đơn nhị ca, nhưng nếu Đơn nhị ca tới thăm ta, thì nhất định phải tới nhà, sao lại ở đây. Giữa lúc trù trừ, phải xem lại cho kỹ, thì ở dãy bàn bên trong, ai nấy đã yên vị, rồi thấy có tiếng chủ nhân Nhuận Phủ nói rõ ràng: 

 - Xin mời Đơn viên ngoại ngồi vào ghế giữa cho. 

 Hùng Tín đáp: 

 - Xin thất lễ cùng các vị. 

 Rồi cả tiếng Bá Đương, cũng vì vậy Thúc Bảo mới nhận ra Bá Đương. Lúc này Thúc Bảo lại thầm nghĩ: "Mình thật đến lúc đổ đốn rồi đây! Rõ ràng là mình đã mời Bá Đương đến Tế Châu để dự lễ mừng thọ mẫu thân, thôi mau hãy ra khỏi nơi này ngay, không thì chẳng còn mặt mũi nào nữa?". Liền vội vàng quay ra. 

 Đến cửa ngoài. Kiến Uy đã gọi khá nhiều người trực sẵn, ai nấy đều xúm lại hỏi: 

 - Tần kỳ bài, ở trong ấy ra sao? 

 Thúc Bảo trách Kiến Uy: 

 - Hiền đệ nhận nhầm rồi. Đây là Đơn nhị ca cùng các bạn bè ở Lộ Châu. Năm trước hiền đệ đã từng gặp họ ở Nhị Hiền trang, rồi lại còn tặng tiền lộ phí cho hiền đệ về Tế Châu. Thế là từ chiều đến giờ bọn tiểu nhân mà nghe được chuyện này, chúng sẽ đồn ầm lên đủ thứ chuyện, thì tính làm sao đây? 

 Kiến Uy phân bua: 

 - Thì vào tiểu đệ đã thấy gì đâu, cũng chẳng ai nói là Đơn nhị ca. Cứ nghe nói thế, liền đến gặp đại huynh. Việc đã thế này, ta lại quay vào vậy thôi chứ sao? 

 Mọi người càng kéo đến đông. Kiến Uy phải chen mãi mới vào được. Thúc Bảo chỉ sợ bạn bè trong nhà Nhuận Phủ biết được thì chẳng hay ho gì, nên đành phải lên tiếng: 

 - Xin mời chư vị giải tán cho thôi! Không có chuyện gì lạ đâu, cũng chẳng phải người xấu đâu. Đó là một người rất tiếng tăm ở Lộ Châu là Đơn viên ngoại cùng bạn bè, đến thăm để ngày mai làm lễ mừng thọ mẫu thân tiểu nhân này thôi! 

 Người đông cũng phiền, hết người này hỏi, lại người khác hỏi, mãi không dứt ra được. 

 Lại nói Hùng Tín ngồi ở vị trí chủ trì tiệc rượu, biết trong số bạn bè, cũng có những người hay gây những việc phiền toái, cần phải lưu ý luôn. Mới thấy có chuyện lạ, Hùng Tín đã hỏi Nhuận Phủ: 

 - Giả hiền đệ, vừa rồi lúc sắp xếp chỗ ngồi, lố nhố rất nhiều người ngoài thềm. Hùng Tín này thoáng thấy có một gã cao lớn, lẫn núp lom khom sau lưng đám đông, nhìn nhìn ngó ngó chúng ta một hồi rồi chạy ra ngoài, ai nấy cũng mặc cho gã đi mất. Hiền đệ thử chạy ra xem gã là ai? 

 Nhuận Phủ nhân có lời Hùng Tín, vội chạy ra ngoài cửa xem xét vẫn còn mấy đám đông đang vây lấy Thúc Bảo chưa dứt ra được, Nhuận Phủ vội túm ngay lấy Thúc Bảo. 

 - Tần đại huynh! Đơn nhị ca vì chuyện sinh nhật của bá mẫu mà nghìn dặm tới đây, hiện đang ở trong chỗ tiểu đệ, sai tiểu đệ tìm đại huynh đến ngay. Tiểu đệ cũng biết hôm nay đại huynh có việc rầy rà ở phủ đường, không dám tới quấy rầy, làm sao mà tới được ngay, thật đang trăm phần bối rối. Chỉ sợ Đơn nhị ca biết, làm thế nào bây giờ? 

 Thúc Bảo cũng chưa tiện nói ra chuyện Kiến Uy vội vàng báo nhầm, đành phải "tương kế tựu kế" nói tránh: 

 - Hiền đệ cũng biết rồi. Hôm nay tiểu đệ phải vào phủ đường đổi trát mới, tình cờ biết chuyện Đơn nhị ca đến đây. Nhưng sợ không biết có đúng hay không vội lại xem có đích xác. Nhưng tiểu đệ ăn mặc như thế này không thể nào gặp mọi người được. Ngày trước ở Lộ Châu thì thiếu tiền ăn, tiền trọ đến nỗi phải bán cả ngựa, nay ngay ở nhà mình mà ăn mặc thế này để gặp gỡ bạn bè cũ sao được. Phải chờ tiểu đệ về nhà, thay quần áo mới rồi tới đón các vị khách mới phải. 

 Nhuận Phủ bàn: 

 - Về nhà cũng xa, tiểu đệ vừa mới may đến hai bộ quần áo mới, để ngày mai mặc đi mừng thọ bá mẫu cho chững chạc. Dáng người tiểu đệ với đại huynh chẳng khác nhau lắm xin lấy ra đây để đại huynh dùng tạm, khỏi phải về nhà. 

 Rồi sai tay chân, đi cửa sau, đem bộ quần áo mới ra đưa cho Thúc Bảo. Mãi đến lúc này mọi người vây quanh mới rút hết. 

 Thúc Bảo cùng Nhuận Phủ mặt mày rạng rỡ vào nhà, Nhuận Phủ long trọng tiến lại trước dãy bàn tiệc, nói líu cả lưỡi: 

 - Trình Đơn nhị ca cùng chư hữu, tiểu đệ đã mời được Tần đại huynh đến đây rồi! 

 Mọi người đứng dậy náo nhiệt chào đón, lần lượt bái chào, bạn cũ bạn mới. Trước tiên là bái tạ ơn chu toàn tính mạng năm xưa của Hùng Tín, sau đó "bái bái chi giao", các bạn chưa từng gặp mặt, vì thân nên thân, nào tên nào tuổi, cặn kẽ một lượt. Nhuận Phủ đem bát đũa, chọn chỗ ngồi cho Thúc Bảo. Từ Nghĩa Tang thôn đến đây là mười ba vị, với Nhuận Phủ nữa là mười lăm vị cả thảy, thì đã bày sẵn tám bàn, mỗi bàn hai vị, Hùng Tín một mình ngồi bàn giữa. Nhuận Phủ lên tiếng ướm thử: 

 - Tần đại huynh cùng ngồi bàn với Đơn nhị ca là hợp hơn cả! 

 Thúc Bảo từ chối: 

 - Kẻ quân tử lấy đức mà yêu người, không thể cẩu thả mà bỏ chữ lễ cho được. Đơn nhị ca từ nghìn dặm tới mảnh đất cằn cỗi này, Giả hiền đệ đáng phải lạy thêm một lạy nữa. Còn tiểu đệ này cũng đã là một nửa chủ nhà ở đây, có ra thì chỉ nên trộm ngồi ghế chủ nhà, xin mời một vị nào lên ngồi với Đơn nhị ca là thỏa đáng hơn cả. 

 Hùng Tín đáp lời: 

 - Thúc Bảo hiền đệ, vừa rồi chúng tôi xếp chỗ, chỉ tùy tiện mà ngồi, nếu sắp xếp cho có thứ tự trên dưới rõ ràng, thì lại lộn xộn thêm nhiều. Chi bằng tùy ý chủ nhân. Xin mời hiền đệ lại ngồi cùng với Hùng Tín này, để ta cùng nhau kể lể chuyện từ ngày xa cách. 

 Thúc Bảo thấy cũng không tiện chối từ, lại cũng sợ lòng nhiệt tình của Hùng Tín, nên đành phải ngồi cùng bàn với Hùng Tín, nhưng các vị khách khác, từ nghìn dặm tới đây, cũng muốn có dịp chuyện trò, nên có nhiều người nói với Nhuận Phủ rằng: 

 - Đem cất bớt những bàn kê trước mặt Đơn nhị ca để bày hoa quả kia, cả những thứ linh tinh khác vây chung quanh nữa. Chúng ta là chỗ bạn bè thân thiết, rồi kê thêm một dãy bàn ngay trước mặt Đơn nhị ca, chúng ta sẽ cùng ngồi đối diện với Đơn nhị ca để dễ dàng chuyện trò. 

 Thế rồi tất cả bạn bè cùng yên vị, đèn nến sáng trưng, quần hùng tụ hội, tay bắt mặt mừng rất là náo nhiệt, rượu đưa qua lại không ngớt. Rất hợp với bài "Tập Đường thi" (1) sau dây: 

 1 Xem chú thích hồi thứ mười một, tập II, Nguyên văn dùng từ "Giảm tự Đường thi", cũng là một loại của "Tập Đường thi". 

 Tiệc mừng tân cựu tri âm 

 Chén ngồi hổ phách, rượu thơm bồ đào 

 Tình càng nặng nghĩa càng sâu 

 Dặm nghìn non nước, quê nào khác quê. 

 Lúc đầu Nhuận Phủ lấy chén bằng bạc lớn, mỗi bàn đều uống hai chén. Sau đó Thúc Bảo lên tiếng: 

 - May mắn được chư huynh đến đây với bọn tiểu đệ, nhưng tiểu đệ lại chưa có dịp chính thức khoản đãi, cũng là chuyện "mượn hoa cúng Phật", cũng xin được chuốc mỗi vị một chén. 

 Rồi đi từng bàn, rót rượu mời mọi người, toàn là bạn bè quen. Đến bàn thứ ba là bàn Vưu Thông cùng Trình Giảo Kim, cả hai Thúc Bảo đều chưa quen nghe tiếng, thấy người, nay lại gặp trong cuộc này. Bá Đương, Tự Xương, Huyền Thúy đều là những bậc hào hoa phong nhã, có phong điệu đại gia, quý tộc; Hùng Tín, anh em Uất Trì, Công cẩn, Hiển Đạo, Đại Nại tuy thực thà, chất phác nhưng còn có dáng vẻ ngang tàng, thanh thoát; Bội Chi, Quốc Tuấn thì lâu nay làm công sai ở phủ đường nên còn biết cách ăn mặc, nói năng, chỉ có mỗi Giảo Kim vẫn mang hoàn toàn vẻ thô lỗ dân dã, lại mới gặp nhau ngay trong cuộc gặp gỡ này, ai có thể ngờ là chỗ đi lại quen biết cũ của Thúc Bảo. Thực ra, ngay từ đầu, Vưu Thông cũng đã thấy Giảo Kim nói tới chuyện quen biết Thúc Bảo từ xưa, nhưng nay thấy Thúc Bảo cũng ra điều lãnh đạm, hỏi dăm ba câu, uống dăm ba chén bình thường, nên mới hỏi lại Giảo Kim xem sao. 

 - Hiền đệ, hiền đệ cũng đã trưởng thành, sao vẫn nói chưa thật? 

 Giảo Kim hỏi: 

 - Tiểu đệ không nói dối bao giờ cả, sao đại huynh hỏi thế? 

 Vưu Thông vặn: 

 - Hôm vừa qua, khi nhận được lệnh tiễn của Đơn nhị ca rủ đi mừng thọ Tần mẫu, ta đã nói với hiền đệ: "Hiền đệ không nên đi!". 

 Hiền đệ cứ một mực rằng: "Tần Thúc Bảo với tiểu đệ vốn là bạn bè thuở tóc trái đào". Nếu quả đúng vậy, Thúc Bảo phải biết hiền đệ cũng có mặt ở đây, nay cùng uống rượu với hiền đệ từ trước, cũng chẳng thấy một lời tỏ ra quen thuộc từ xưa, cũng chẳng mời thêm hiền đệ được một chén rượu gọi là, thì duyên cớ làm sao? 

 Giảo Kim tức tối đáp: 

 - Đại huynh không tin, xin để tiểu đệ gọi Thúc Bảo là biết ngay! 

 Vưu Thông đáp: 

 - Hiền đệ thử gọi xem! 

 Giảo Kim lớn tiếng gọi: 

 - Thái Bình Lang! Đại huynh quên bạn bè thuở nhỏ rồi sao? 

 Tiếng gọi giữa bàn như một tiếng sấm, ai nấy đều sửng sốt, đếnThúc Bảo cũng chưa hiểu ra có phải là gọi mình hay không, hoang mang đứng dậy hỏi: 

 - Vị nào quá yêu Tần Quỳnh này, mà biết cả tên thời để chỏm của tiểu đệ thế này? 

 Bá Đương cùng đám bạn bè quen biết cùng vỗ tay tán thưởng: 

 - Tần đại huynh thuở nhỏ còn có tên là Thái Bình Lang sao mãi bây giờ mới thấy nói đến! 

 Nhuận Phủ nghe rõ bèn mách Thúc Bảo: 

 - Chính là vị bạn thân của Vưu viên ngoại, Trình Tri Tiết gọi ra cái tên thuở tóc trái đào ấy của Tần đại huynh đấy! 

 Thúc Bảo kinh ngạc, vội chạy lại trước mặt Giảo Kim, cầm tay áo Giảo Kim, mặt sát mặt, hỏi: 

 - Hiền đệ, xin cho biết quê quán? 

 Trình Giảo Kim rớt nước mắt, đứng dậy, quỳ xuống đất mà rằng: 

 - Tiểu đệ là Trình Nhất Lang ở Ban Cưu điếm. 

 Thúc Bảo nghe thế, lập tức cũng quỳ xuống: 

 - Thì ra hiền đệ là Trình Nhất Lang sao! 

 Bạn thuở tóc trái đào 

 Khói lửa vắng tin nhau 

 Nâng chén không nhớ mặt 

 Lẫm liệt đã anh hào. 

 Thuở nhỏ Thúc Bảo cùng Giảo Kim sáng chiều không lúc nào rời nhau, chẳng khác nào anh em ruột thịt, thế thì tại sao đến nỗi không nhận ra nhau? Cũng vì thuở nhỏ, mặt mũi Giảo Kim không đến nỗi xấu xí như bây giờ, sau này gặp một dị nhân, cho uống một ít thuốc viên, nên mặt trở thành màu xanh, hàm răng mọc chìa ra, tóc thì đỏ, râu thì vàng. Hai người cùng chào bái nhau lần nữa. Thúc Bảo hỏi: 

 - Thuở bé sống bên nhau, thường ngày vẫn nhớ. Mẫu thân tiểu đệ vẫn thường nhắc tới lệnh đường. Xa đã lâu, không rõ lệnh đường còn khỏe mạnh không, chắc đã già lão lắm rồi. 

 Các bạn ngồi xung quanh đều vui mừng vì cuộc gặp gỡ không ngờ này. Thúc Bảo đứng dậy, sai đầy tớ bưng cái ghế cao từ chỗ Hùng Tín đến đặt cạnh chỗ ngồi của Giảo Kim để cùng nhau kể chuyện ấu thơ. Lòng vui mừng chẳng kém gì cuộc gặp lại Hùng Tín. Thúc Bảo ngồi vậy nhưng vẫn có điều không thật thoải mái, vừa rồi cùng ngồi với Hùng Tín, dẫu sao vẫn còn cách một cái bàn, còn xa cách ít nhiều, nâng chén hạ bát, cũng còn tùy tiện, giờ thì Vưu Thông ngồi giữa, phía đầu bàn bên phải là Giảo Kim, còn Thúc Bảo ngồi đối diện với Vưu Thông sát ngay cạnh Giảo Kim, Giảo Kim vốn tính nóng, lại chưa hiểu những nghi lễ bình thường trong giao tiếp, rượu rót ra, Giảo Kim thì chỉ cần một lần nâng chén là cạn sạch. Thúc Bảo uống chầm chậm, lại thêm trận đánh ở công đường vừa rồi, da thịt vẫn còn xót xa, nhức nhối, nên thỉnh thoảng vẫn phải nhăn trán, chau mày. Giảo Kim thấy thế trong lòng không ưng, bèn nói với Thúc Bảo. 

 - Đại huynh nên lại uống rượu với Đơn nhị ca thì hơn? 

 Thúc Bảo ngạc nhiên: 

 - Sao hiền đệ lại nói như vậy? 

 Giảo Kim đáp: 

 - Đại huynh không như ngày xưa nữa. Giờ tầm mắt của đại huynh đã xa hơn, cũng ít nhiều khinh bần ái phú. Vừa rồi ngồi với Đơn nhị ca, sao đại huynh uống rượu có vẻ hân hoan thế, nay mới uống với tiểu đệ vài chén, đã chau mày nhăn trán. 

 Thúc Bảo không thể nói chuyện đau đớn của mình nên chỉ đáp: 

 - Hiền đệ chẳng nên nhiều lời, tiểu đệ này không phải loại người như vậy đâu. 

 Nhuận Phủ thanh minh hộ cho Thúc Bảo: 

 - Trình hiền đệ cũng nên thể tất cho Tần đại huynh, cũng vì bởi mấy hôm nay Tần đại huynh không được khỏe. 

 Hùng Tín vốn rất thân thiết với Thúc Bảo, liền hỏi ngay Nhuận Phủ: 

 - Thúc Bảo không được khỏe là làm sao? 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Chuyện dài lắm, một lời không hết! 

 Hùng Tín vẫn hỏi tiếp: 

 - Đây đều là bạn bè thân thiết cả, dài ngắn gì cũng cứ nên nói. 

 Nhuận Phủ hỏi bọn tay chân: 

 - Bọn người đứng phía ngoài kia là ai? 

 Một người thưa: 

 - Đều là người nhà các vị quý khách cả! 

 Nhuận Phủ bèn nói với bọn tay chân của mình: 

 - Các anh không hiểu gì cả, là chủ nhà mà không biết cách tiếp đón khách khứa. Đi ra mới biết có đáng mặt chủ không. Các anh hãy đem trà rượu ra tiếp các bạn mình cho tử tế đi nào! 

 Rồi hướng về phía bọn người nhà của khách khứa ôn tồn. Nhuận Phủ nói tiếp: 

 - Các bạn xin mời vào nhà ngoài, chuẩn bị cơm rượu buổi tối cho vui vẻ, ta đã cử người phục dịch chu tất. 

 Thế là Nhuận Phủ mời cả bọn ra nhà ngoài, tự mình đóng kỹ các cửa, rồi mới quay trở lại ngồi vào ghế của mình. Mọi người thấy hành động khác thường này của Nhuận Phủ, chưa hiểu rõ thế nào, đều lấy làm ngạc nhiên. Hùng Tín lúc này mới lên tiếng: 

 - Hiền đệ, chuyện của Thúc Bảo làm sao, xin hiền đệ giải thích ngay cho. 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Chuyện này cũng là chuyện ít nghe, ít thấy. Từ ngày vua mới lên ngôi, khởi công thổ mộc, xây điện đắp hồ, các phủ huyện ở Sơn Đông, đều phải góp một suất ba nghìn lạng bạc. Phủ Thanh Châu sai quan áp tải ba nghìn lạng bạc này lên kinh, lúc qua Trường Diệp, bị hai ông bạn lục lâm nào đó lấy hết, lại giết chết quan lẫn lính. Giết người, cướp của cũng là chuyện bình thường, nhưng lạ hơn cả là sau đó hai tay lục lâm này còn xưng cả tên tuổi: một là Trần Đạt, hai là Ngưu Kim. Chuyện xảy ra trên đất Tế Châu, cho nên Thứ sử Thanh Châu mới trình công văn về Đông Kinh. Đông Kinh lệnh cho Tế Châu phải bồi thường số bạc bị cướp, bắt cho kỳ được hai tay lục lâm này. Tần đại huynh đang làm kỳ bài quan ở soái phủ Lai Tổng quản, tương lai thật rực rỡ, thì lại bị điều về đây khoác phải chuyện bắt bọn lục lâm này vào cổ. Kỳ hạn thứ nhất hết. Thúc Bảo còn chưa về, nên chưa bị phạt. Kỳ hạn thứ hai vẫn không tăm hơi nên cũng bị đánh đòn. Đến ngày hai mươi tư tháng chín này là hạn cuối cùng, nếu vẫn tìm không ra manh mối. Lưu Thứ sử định bắt mười người đứng đầu chia mà đền ba nghìn lạng bạc, nếu không đền được, sẽ phải giải đi Đông Kinh, để tổng lý Vũ Văn Khải xét xử. Không biết rồi chuyện sẽ ra sao? 

 Mọi người nghe xong, đều yên lặng nhìn nhau, lắc đấu lè lưỡi kinh ngạc, sợ hãi. Chuyện không thiết thân thì thôi, thiết thân thì phải lo. Vưu Thông đưa tay luôn dưới gầm bàn, kéo đùi Giảo Kim ra hiệu. Giảo Kim lập tức to tiếng: 

 - Vưu đại huynh, dù đại huynh có kéo co gì đi nữa thì tiểu đệ vẫn phải nói ra. 

 Vưu Thông mồ hôi đầy người, mà vẫn không dám nhúc nhích. Thúc Bảo lại hỏi: 

 - Hiền đệ nói cái gì thế? 

 Giảo Kim rót một chén rượu lớn rồi đáp: 

 - Tần đại huynh, xin đại huynh cạn chén rượu này rồi ngày mai, sau khi làm lễ mừng thọ bá mẫu xong, sẽ có ngay Trần Đạt cùng Ngưu Kim để đại huynh dẫn đi lĩnh thưởng. 

 Thúc Bảo cả mừng, uống một hơi cạn chén rượu lớn, rồi hỏi nữa: 

 - Hiền đệ, hai người này hiện đang ở đâu? 

 Giảo Kim đáp: 

 - Ở đây có chuyện viên quan áp tải bạc nghe nhầm tên tuổi người cướp số bạc, mà chính là Trình Giảo Kim với Vưu Tuấn Đạt, tức là tiểu đệ cùng Vưu đại huynh đây! 

 Mọi người nghe nói vậy, mặt mày ai nấy đều trắng bệch cả, đứng cả dậy. Nhuận Phủ vội đóng ngay cửa sổ ở hai bên lại, rồi tất cả đều xúm xung quanh bàn của ba người. Hùng Tín lên tiếng trước: 

 Thúc Bảo hiền đệ, việc này làm sao bây giờ? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Nhị ca chẳng cần phải lo sợ, chẳng có chuyện này đâu. Giảo Kim với tiểu đệ chơi với nhau từ nhỏ. Giảo Kim vẫn được mang tên hiệu là Trình phá quấy. Vừa rồi nghe Nhuận Phủ nói thế, thấy tiểu đệ dang có điều lo lắng. Giảo Kim đùa vài câu, mong tiểu đệ quên được chuyện đáng ngại này chăng, để cùng vui vẻ với khách xa. Người có trí phải biết phân biệt chuyện thật với chuyện giả. Làm sao lại có thể tin mấy câu này cho được. 

 Giảo Kim lúc này như phát cuồng, hét lên như sấm: 

 - Tần đại huynh, đại huynh quá coi thường tiểu đệ. Đây là chuyện thế nào mà tiểu đệ dám đem ra làm chuyện đùa cho được, nếu như thế thì tiểu đệ không khác gì chó má. 

 Vừa nói vừa lôi ra một túi lớn, tay kéo miệng túi, tay thò vào trong lấy ra hàng chục đỉnh bạc lớn, đặt lần lượt lên mặt bàn, rồi chỉ vào những thỏi bạc: 

 - Đây chính là những thỏi bạc của Duyên Châu, tiểu đệ mang theo làm lễ mừng thọ. Tế Châu làm gì có loại bạc này được? 

 Thúc Bảo thấy sự việc quá rõ ràng, bèn nhặt những thỏi bạc bỏ vào trong túi áo mình, còn mọi người đều ngây mặt đứng nhìn. Chưa ai nói lời nào, duy chỉ Hùng Tín là người trấn tĩnh trước tiên: 

 - Thúc Bảo hiền đệ? Chuyện này là chuyện sống chết của hiền đệ cùng Vưu viên ngoại với Trình Giảo Kim. Theo Hùng Tín này nghĩ thì có hai điều rất khó xử ở đây. 

 Thúc Bảo khó khăn lắm mới cất được mấy tiếng: 

 - Có những chuyện gì không tiện ở đây? 

 Hùng Tín đáp: 

 - Năm xưa ở Nhị Hiền trang, Hùng Tín này đã cùng hiền đệ “nhất bái chi giao" thề cùng nhau sống chết. Không phải bỗng chốc mà làm khác đi được. Nay nếu có lời nói với hiền đệ hãy tha cho hai người này, thì nhất định hiền đệ sẽ nghe theo. Người ta sẽ bắt giải hiền đệ về kinh, chẳng chóng thì chày, người ta sẽ kết liễu tính mạng hiền đệ, lời thề đồng sinh tử của chúng ta sẽ ra sao. Nay nếu đem Trình Giảo Kim cùng Vưu viên ngoại để hiền đệ nạp quan mà lấy thường, thì chính Hùng Tín này mời họ tới Tế Châu để dự lễ sinh nhật Tần mẫu, giờ hại đến mạng sống của họ, chúng ta làm thế nào mà yên lòng cho được. Đó chính là hai điều khó xử. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Xin nghe theo sự phân xử của Đơn nhị ca? 

 Hùng Tín cúi đầu nghĩ ngợi một chốc rồi ngẩng lên nói: 

 - Hiện giờ ta có chỗ chưa làm ngay mọi chuyện được, mà phải xin gia hạn thêm khoảng một hai ngày mới được. 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Sao lại phải xin gia hạn một hai ngày làm gì nữa? 

 Hùng Tín đáp: 

 - Chúng ta ai mà ngờ được có chuyện tầy trời này, nên chẳng ai tới đây với mục đích giúp một tay để gỡ chuyện này cả. Ngày mai còn tới làm lễ bái thọ Tần mẫu, dâng ít lễ mọn. Rượu thì cũng chẳng nên bày vẽ nữa, với cả những chuyện động trời đang phải lo như vậy, thì cũng chẳng còn lòng nào mà ngồi uống rượu, nên xong việc thì ai về nhà ấy. Hiền đệ chỉ cần đến phủ đường thưa rằng nghe tin có hai người này, rồi lĩnh lính tráng vây Vũ Nam trang. Giảo Kim cùng Vưu Tuấn Đạt cũng chẳng phải trói gà không chặt để đến nỗi bó tay chịu trói, có thể đấu nhau một vài hiệp giả vờ, thắng bại thế nào thì ta thử lượng trước xem. Hùng Tín này nghĩ bước đầu như vậy. Theo ý Thúc Bảo hiền đệ, thì như thế có được không? 

 Ông chài ngoài cuộc khoanh tay 

 Mặc cho hai phía cò trai tranh hùng. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Nhị ca tự cho rằng mình là hào kiệt, mà nghĩ rằng trong thiên hạ không còn ai đáng mặt anh hào nữa hay sao? 

 Hùng Tín hỏi: 

 - Tại sao hiền đệ lại mắng Hùng Tín này thậm tệ đến vậy. 

 Thúc Bảo trả lời: 

 - Tiểu đệ sao lại dám vô lễ thế cho được. Năm xưa điên đảo ở Lộ Châu, cảm ơn cứu sống của Nhị ca bao lần, những mong muốn báo đền mà vẫn không xong. Chẳng cần phải nói chuyện tới Trình Giảo Kim cùng Vưu Tuấn Đạt là do chỗ bạn thân tình, mà Nhị ca mời đến đây để mừng lễ sinh nhật của mẫu thân tiểu đệ này, mà dù họ có tự đến đi chăng nữa, thì Giảo Kim với tiểu đệ cũng là chỗ bạn bè từ thuở còn để tóc trái đào, vừa nghe tới chuyện này, đã khẳng khái đứng ra nhận tội, tiểu đệ làm sao lại có thể đang tâm bắt họ. Tưởng cũng phải nói ra ngay điều này, không thì trong lòng bạn bè chúng ta, sẽ có người lo nghĩ gì chăng, mà chưa tiện nói ra. Nay xin nói thẳng như vậy để mọi người cùng nghe mà yên lòng. Nhưng nói bằng lời sợ quý vị chưa tin, nay có vật này không cần phải nói, xin đưa ra đâycác vị xem qua mà hoàn toàn yên tâm cho. 

 Hùng Tín đáp: 

 - Xin hiền đệ cho xem! 

 Thúc Bảo lấy túi đựng công văn, lôi qua trát vừa đổi ở phủ đường, đưa cho Hùng Tín. Hùng Tín cùng mọi người xúm lại xem, trên trát ghi rõ họ tên của hai người. Trần Đạt, Ngưu Kim. Giảo Kim lên tiếng. 

 - Vừa rồi tiểu đệ cũng nói là có hai người mà. Xin được dự lễ mừng thọ xong, sẽ cùng đại huynh Thúc Bảo tới gặp Lưu Thứ sử là tốt hơn cả. 

 Hùng Tín đưa tờ trát trả lại Thúc Bảo. Thúc Bảo cầm lấy, chỉ nghe xoạc một tiếng, tờ trát đã rách nát. Huyền Thúy cùng Tự Xương vội chồm lại giằng lấy, thì Thúc Bảo đã kịp đưa ngọn nến đốt cháy mất rồi! 

 Chính là : 

 Kể từ ngọn nến thiêu tờ trát 

 Khẳng khái gần xa nức tiếng khen. 

 Cuối cùng sự thể ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Hai Mươi Bốn

Sương tuyết mẹ già, hào kiệt kính dâng lễ thọ,

 Kim lan ban trẻ, đạo sư phù phép trừ tà.

 Thơ rằng: 

 Chàng chẳng thấy: 

 Đoàn Khanh ra làm tu nông chương (1) 

 Đốt văn tự Mạnh Thường nèo vua Lương (2) 

 Trượng phu liệu việc gan như đấu 

 Há vì lợi hại mà hoang mang 

 Thân nhẹ tình thêm nặng 

 Mạng nguy danh càng tăng 

 Đừng để cho: 

 Hủ nho cười ta tri giao bạc 

 Tham vàng hại bạn như sài lang. 

 1 Đoàn Khanh: Chưa rõ điển tích. 

 2 Phùng Huyên, thực khách của Mạnh Thường Quân, nhận đi đòi tô nợ ở ấp Tiết. Phùng đốt hết văn tự nợ để dân ấp Tiết hết lòng với Thường Quân. Sau đó lại sang gặp Lương Huệ Vương, gợi ý cho vua Lương mời Mạnh Thường Quân về làm tướng. Vua Tề vì vậy không dám bỏ Mạnh Thường Quân (Chiến Quốc sách). 

 Kẻ sĩ mưu lược, kẻ dũng nhiều quyết đoán táo bạo. Trong thiên hạ, việc mà đến tay hạng người trên thì tất cho kế sách chu toàn, tính trước liệu sau, nghĩ điều hơn, lo lẽ thiệt, việc nào mà chẳng lo xong xuôi trọn vẹn. Còn đối với hạng người thứ hai, lúc nào lòng nghĩa hiệp được khơi dậy, cũng chẳng cần nghĩ đến kết cục ra sao, cứ theo ý thích của mình mà làm những việc kinh thiên động địa. 

 Vừa rồi trước mặt đông đủ bạn bè. Thúc Bảo đột nhiên nghĩ ra chuyện đốt quách trát của Lưu Thứ sử, chẳng nghĩ tới chuyện mai kia sẽ hồi phúc thế nào với phủ đường Tế Châu. Mọi người thấy hành vi khẳng khái của Thúc Bảo, đều thực sự bái phục, cúi lạy sát đất. Thúc 

 Bảo cũng vội quỳ lạy đáp lễ. 

 Chỉ vì: 

 Thói đời ngẫm lại mỏng như mây 

 Nôn nóng lòng ta chính lúc này 

 Nghĩa nặng tình ai vàng thử lửa 

 Non cao biển rộng đáng khen thay! 

 Lúc bấy giờ chỉ có Huyền Thúy đút tay trong túi áo đứng nhăn mày ngẫm nghĩ. Tự Xương tựa vào bàn như đang tưởng nói tới chuyện xa xôi nào. Trình Giảo Kim vẫn ngang nhiên đứng yên không chịu quỳ lạy khí khái nói: 

 - Tần đại huynh, không có lẽ thế này. Người xưa đã nói: "Tự hành tác sự, tự thân đương", mình làm ra việc thì tự thân gánh lấy tội. Việc này chính do tiểu đệ gây ra, làm sao lại để liên lụy đến đại huynh. Lúc trước chỉ có tội không bắt được hai chúng tôi, thì tôi còn có thể để đại huynh gánh. Nay trát quan đã đốt đi rồi, làm sao có thể về phúc đáp phủ đường cho được. Thứ sử sợ gì mà không ghép đại huynh vào tội kháng lệnh quan, về hùa với bọn lục lâm, việc sẽ ra thế nào. Huống chi, tiểu đệ vợ con chưa có, chỉ có mỗi mẹ già, nếu đứng ra nhận chuyện này, thì đã có Vưu viên ngoại chu toàn chuyện cơm áo. Sao đại huynh lại làm thế. Nếu xảy ra chuyện không may, bỏ lại mẹ già, vợ con, ai người chăm sóc. Giờ đây tiểu đệ xin có kế này: xin Vưu viên ngoại tận tâm trông coi mẹ già tiểu đệ, tiểu đệ nguyện đứng ra gánh cả tội cho viên ngoại. Thực ra việc giết quan, giết lính cũng mình tiểu đệ. Viên ngoại cũng chẳng có dính dáng gì đến việc đuổi theo quan theo lính về sau. Nói rõ tên tuổi cũng là tội ở tiểu đệ nốt, chẳng quan hệ gì đến viên ngoại. Cứ thế mà đến đối chất ở phủ đường. Chỉ cần ngày mai làm lễ mừng thọ xong, tiểu đệ sẽ ra đầu thú, lúc đó Tần đại huynh dẫu có mất trát quan, việc cũng chẳng can hệ mấy nữa. Còn nếu như mất trát, người cũng không bắt được, bạc chẳng tìm ra thì tính mạng Tần đại huynh nguy mất. 

 Lúc đầu, thấy Thúc Bảo đốt trát quan ai nấy đều thấy khoái ý, nhưng chưa kịp nghĩ tới kết cục sẽ ra sao, nghe Giảo Kim nói, ngẫm nghĩ lại, mọi người mới thấy việc này rõ là nguy hại cho Thúc Bảo. Ai cũng ngẩn người. 

 Huyền Thúy lên tiếng: 

 - Từ việc trát quan này mà suy thì có hai lẽ. Trước khi đốt trát, thì chỉ sợ rằng Tần đại huynh muốn cứu mình, không dám tha Trình Giảo Kim, Tần đại huynh có phải giải tới Đông Kinh giao cho tổng lý Vũ Văn Khải xử đi nữa, thì tiểu đệ có thể thương lượng với Vũ Văn Khải để chu toàn cho Tần đại huynh. Nay lại có việc đốt trát này, thì việc gặp Vũ Văn Khải cũng không thể yên chuyện ngay được, nên có lẽ phải tìm đến Lai Tổng quản, Tổng quản ngày xưa vốn là thuộc hạ dưới trướng phụ thân tiểu đệ, tiểu đệ cùng tổng quản quan hệ rất thân thiết. Huống chi Tần đại huynh cũng vì tổng quản mà nhiều lần ra tay, nên tiểu đệ xin gặp đến tổng quản, nói với họ Lai bịa ra một việc cần kíp nào đó gọi Tần đại huynh về, thì mọi việc có thể xong xuôi. 

 Bá Đương gật đầu: 

 - Đó cũng là một cách. 

 Giảo Kim nói: 

 - Việc này thì hay đấy. Nhưng hai chúng tôi đây chưa bắt được, số bạc chưa tìm thấy, liệu Lưu Thứ sử có để yên cho Tần đại huynh an lành không, phải có người ra mà gánh lấy tội này chứ? Cho nên chỉ để tiểu đệ ra đầu thú là tốt hơn cả thôi. 

 Thúc Bảo bàn: 

 - Ngày mai mọi chuyện xong xuôi, nếu không có cách gì hơn thì tiểu đệ tính chuyện bồi thường số bạc này liệu có xong không? 

 Chính là: 

 Mười vạn thần quyền 

 Có tiền mua tiên 

 Đen sì mắt sắt 

 Tiền, vàng, được liền. 

 Thúc Bảo nói đến đây thì Tự Xương liền đập bàn la lớn: 

 - Việc này thì xin hai vị đừng lo, Tự Xương này đã có cách rất tuyệt diệu rồi đây. 

 Trước mặt mọi người, vì sao Tự Xương dám nói ra điều có vẻ khoác lác này. Vốn là Lưu Thứ sử là học trò của phụ thân họ Sài. Sau đó được lấy đậu tri cống cử cho nên họ Sài với Lưu Thứ sử coi nhau như anh em, đáng ra phải đến thăm Lưu Thứ sử, nhưng chưa có lúc nào rỗi. Trong việc này, Lưu Thứ sử chỉ phải lo nhất là đền cho đủ ba nghìn lạng. Nay có ba nghìn lạng của Đường công vừa gửi tặng Thúc Bảo, vậy thì chuyển số tiền này mà bồi thường cho Lưu Thứ sử. Thúc Bảo đành trắng tay, nhưng cả hai phía đều xong công sạch nợ, chính vì thế mà Tự Xương can đảm nhắc lại: 

 - Quả thật tiểu nhân không dám hứa hão với các vị đâu. Lưu Thứ sử đây vốn là môn sinh thuở xưa của thân phụ tiểu nhân, tiểu nhân xin đến gặp Lưu Thứ sử để tìm cách gỡ chuyện này. 

 Giảo Kim nói: 

 - Nếu đã là quan hệ thân thiết đến mức ấy, chỉ đưa cho Thứ sử khoảng một nghìn lạng cũng đủ rồi, làm gì phải cả ba nghìn lạng bạc kia. 

 Vưu Thông: 

 - Chuyện này thì Thúc Bảo đại huynh lấy đâu ra cho đủ. Mà chính chúng ta phải mang số bạc này đến. 

 Tự Xương yêu cầu: 

 - Số bạc này cũng ở tiểu nhân lo liệu cả, chả cần chư huynh phải lo, cứ ngồi yên uống rượu thoải mái, nhưng xin đừng bàn tán linh tinh, người ngoài biết ra, thì lại càng khó xoay xở. 

 Chính là: 

 Trần Bình sáu lần đưa thần kế 

 Cốt giải vây nên mẹo cũng dễ 

 Này li này chén, cứ say mèm 

 Để mặc bóng trăng non đoài xế. 

 Hùng Tín tiếp lời: 

 - Lý hiền đệ cùng Sài Quận mã đã đứng ra lo liệu chuyện này cho, thì sau lễ mừng thọ ngày mai, cả hai cùng đi lo ngay cho, xin lấy việc cứu hai bạn của chúng ta làm chuyện cấp thiết vậy. 

 Mưu kế đã có, ai nấy mới thở phào cùng nhau nâng chén, lại đủ chuyện giang hồ hảo hán, rượu hết chai này đến chai khác, cho bõ lúc lo lắng, tính toán. Chẳng bao lâu đã gần canh năm. Thúc Bảo đứng lên xin phép trở về nhà. Về đến nhà vẫn thấy cửa chưa đóng, mẹ già vẫn đứng trước cửa chờ. Trương Thị vẫn đứng cạnh bên mẹ chồng, Thúc Bảo kinh ngạc hỏi: 

 - Sao đến bây giờ mà mẫu thân vẫn còn đứng đây làm gì? 

 Tần mẫu lặng lẽ quay vào. Thúc Bảo vội vàng quỳ xuống trước mặt, Tần mẫu lúc này mới lên tiếng: 

 - Con thật là con nhà oan gia, từ tối đến giờ chẳng biết ăn uống ở đâu, mãi giờ mới thấy mặt. Chẳng hề nghĩ gì đến chuyện gì con đi xa ngàn dặm, mẹ lo lắng ở nhà. Nay tuy con không đi xa ngàn dặm, nhưng đang có việc lo lắng trong việc quan. Ngày hôm qua ở phủ đường ta thấy nhiều người bị phạt đòn, dân phố đâu đâu cũng bàn tán, ta không thể ngồi yên, còn con thì chẳng nghĩ gì đến mối lo lắng này của mẹ già cả. 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Con đâu dám quên ơn dưỡng dục của mẫu thân, chỉ vì có việc quan hệ không thể dứt ra mà về ngay được. 

 Tần mẫu hỏi: 

 - Việc gì cần kíp như vậy? 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Đơn viên ngoại ở Lộ Châu, năm trước đã cứu con khỏi cảnh thập tử nhất sinh, cùng với rất nhiều bạn bè, vừa mới đến Tế Châu. Sáng nay sẽ tới làm lễ mừng thọ mẫu thân. 

 Tần mẫu nói: 

 - Nếu đã như thế, con phải bàn với Trương Thị. Khách xa, khách quý đến nhà, mọi thứ cần phải sắm sửa, bày đặt cho sạch sẽ, tươm tất, từ trà đến rượu, đến hoa quả, các loại thức ăn. 

 Thúc Bảo lâu nay vẫn làm kỳ bài quan, cai quản hai mươi lăm tên thổ binh, nay đều gọi đến sai phái công việc, lại thêm cả hai bạn Kiến Uy, Vạn Nhẫn làm đô đầu ở phủ cũng lại giúp. Kiến Uy vốn tay chân vụng về, thì lo việc sắp đặt bàn ghế, rương hòm, lễ vật, tính toán việc thu chi. Vạn Nhẫn vốn viết chữ đẹp thì lo việc viết thiếp, viết chữ câu đối, thơ mừng. Lại còn có Liên Cự Chân lo việc khách khứa, tiếp đón, chào hỏi nghi lễ. Một vài đầy tớ nhanh nhẩu, chuyên dùng ngựa lo việc mua bán ngoài phố cho đầy đủ. Còn Thúc Bảo phải lo liệu mọi thứ, mọi nơi. 

 Lại không chỉ có bạn bè đã đang ở cửa hàng họ Giả, mà còn có cả khắp sáu phủ của Sơn Đông đều có người đến mừng, thêm bạn bè dưới trướng Lai Tổng quản, cho đến bản thân Tổng quản cũng có sai người đem lễ vật đến. Phủ đường Tế Châu thì từ thứ sử cho đến hai ban văn võ quan viên đều có gửi lễ, hoặc tự thân tới mừng, huyện Lịch Thành cũng vậy. Rồi trong đám lục lâm lâu nay, nhiều người được Thúc Bảo chu toàn cho, tuy không dám ra mặt đến bái thọ tạ ơn, nhưng cũng định nhân đêm hôm tới dâng thiếp mừng, lễ vật. Thấy cảnh nhộn nhịp như vậy. Thúc Bảo vội sai tay chân tin cẩn, chạy ra cửa hàng Nhuận Phủ, thưa với Hùng Tín, hãy khoan đưa bạn bè tới vội, vì chỉ sợ Giảo Kim trong lúc đi đứng, nói năng, có chuyện gì lỡ lầm thì thật không thể biết lời nào mà gỡ kịp. 

 Cho nên bạn bè ăn uống ở cửa hàng Nhuận Phủ xong xuôi, mãi hết giờ tỵ (1), họ mới qua cầu treo đi vào thành, cả đoàn gồm tới mười bảy vị, không kể bọn theo hầu, bưng lễ vật cũng đến hai mươi người nữa đi thành hàng dài theo dọc phố. Gần tới nơi, đã thấy Thúc Bảo cùng bọn Kiến Uy, quần áo mới, ra tận phố tiếp đón, rồi cùng tiến vào cổng ngõ, hai bên lối đi đều treo đèn, kết hoa rực rỡ, trong nhà lụa gấm phủ đầy khắp chỗ. Giữa nhà trên được quây thành một cái động rực rỡ ánh đèn, ánh nến. Mười bàn lớn được kê thành dãy ngay bán nguyệt đài, đầu bàn bày quả hộp phủ lụa điều, tiếp theo là các loại hoa quả, bánh trái, trà nước... Dưới sân trước bán nguyệt đài cũng rất ngăn nắp, bàn cúng tam sinh được bày ở đây cũng gồm đủ các lễ vật. Mọi người lần lượt bưng lễ mừng lên, đứng ngay bên thềm nhà, bái thọ Tần mẫu, thấy rõ cảnh trước thềm: chính giữa là một bức đại tự, viết bốn chữ cực lớn "Tiết thọ song vinh" (2), hai cột lớn hai bên là đôi câu đối: 

 1 Giở tỵ: Từ 9 giờ tới 11 giờ trưa. 

 2 "Tiết thọ song vinh": giữ được tiết hạnh với chồng đã mất, được hưởng tuổi già, cả hai đều được vinh hiển, danh giá. 

 Bền với tuyết sương, gương đúc sáng 

 Vui cùng tùng bách, tuổi già cao. 

 Trong nhà các đỉnh đồng cổ, hương trầm bay nghi ngút tỏa mùi thơm, hai bên hai dãy bàn, đèn nến huy hoàng, hoa quả, lụa là rực rỡ, hương đốt nhấp nháy tỏa sáng. Phía bên tả treo một bức tranh vẽ cảnh "Nam Cực Thọ tinh", bên tả cũng một bức vải lớn thêu cảnh “Tây Trì Vương mẫu". Ngoài thềm là một cổng chào lớn, hai bên là chỗ ngồi của đội nhạc, với kèn, trống vui vẻ. 

 Thúc Bảo đi một bên, cùng với mẫu thân ra đáp lễ mừng của quan khách. Tần mẫu vừa đúng lục tuần, nhưng mấy năm nay, gia cảnh thuận hòa, nên dẫu tóc bạc da mồi nhưng vẫn nhanh nhẹn, hồng hào, mặc bộ quần áo lụa trang nhã, tay cầm tràng hạt, theo sau là hai đứa hầu gái. Đến gần gian chính giữa, trước mặt quan khách đứng đón, Tần mẫu cất tiếng: 

 - Già này với Thúc Bảo vụng dại, chẳng có đức có tài gì mà cũng được các quý khách tới thăm mừng, thật là vinh hạnh quá chừng. Quý khách đường xa mưa gió vất vả, xin nhận ở mẹ con già này lời cảm ơn chân thành. 

 Hùng Tín dẫn đầu cả đoàn tiến lên, rồi tất cả đồng thanh: 

 - Chúng tôi lớp người sau, xin bái lạy để tỏ lòng kính mừng. 

 Thế rồi cả loạt bạn bè hào kiệt cùng bái lạy chúc mừng, phía dưới thềm lại là bọn gia nhân, đầy tớ di theo chủ cũng nhất loạt bái lạy Kiến Uy, Vạn Nhẫn, Cự Chân, đứng ngay cạnh Tần mẫu, giữ hai cánh tay áo Tần mẫu, không cho Tần mẫu lạy trả lễ, mà Thúc Bảo đứng bên cạnh, thay mặt Tần mẫu trả lễ khách quan cùng mọi người. Hùng Tín lên tiếng: 

 - Chỉ sợ bá mẫu mệt, chúng tôi không dám quấy phiền nhiều! 

 Tần mẫu lúc này mới đứng thẳng dậy, tỏ lời cảm ơn một lần nữa. Khách quan lại lần lượt dâng lễ vật, đưa cho Thức Bảo nhận lấy, Thúc Bảo lại đưa từng thứ cho mẫu thân xem qua, rồi lại đưa cho hai đứa hầu gái đặt trịnh trọng lên mặt bàn. Tần mẫu cất tiếng: 

 - Quan khách hậu nghĩa thế này, già này lại thêm tội. 

 Thúc Bảo mang những gấm đoạn, lụa là cùng các bức trướng, câu đối mừng treo lên hai phía cho mọi người cùng xem. Hùng Tín tiến đến trước Tần mẫu đáp lời: 

 - Bá mẫu ở bên, đây mới chỉ là lễ nhỏ, không đáng để mừng thọ. Chúng tôi đã sắp sẵn rượu thọ, xin cho mỗi người dâng ba chén mừng thọ bá mẫu. 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Đơn nhị ca, cả ba bạn Kiến Uy đây cũng không dám nghĩ tới chuyện rượu thọ. Lão mẫu tuổi cao, chả nói chén to, ngay cả chén nhỏ, cũng không dám lĩnh nhiều đến thế, xin nhị ca xem lại, tất cả xin nhận ba chén là vừa. 

 Huyền Thúy lên tiếng: 

 - Cứ như Đơn viên ngoại, mỗi người ba chén thì quá nhiều, nhưng Thúc Bảo lại sợ quá ít. Tiểu đệ xin thưa: nếu bạn bè mà chỉ một mình mình đến, xin cho mỗi người ba chén, cả nhà đều đến, cũng chỉ xin ba chén. Lại thêm các thư mừng, trướng mừng, lễ mừng thay người cũng phải được dâng rượu mừng nữa, mỗi lễ cũng phải được dâng ba chén vậy. 

 Thúc Bảo thấy thế vẫn nhiều, nên bàn: 

 - Số rượu này tiểu đệ xin thay mặt lão mẫu uống vậy. 

 Bá Đương lên tiếng: 

 - Như vậy cũng tốt. Mẫu tử cùng thọ thiên thu. 

 Đầu tiên là Hùng Tín, dẫn theo Vương Bá Đương, Lý Huyền Thúy, Đổng Hoàn, Kim Giáp, Trương Công Cẩn, Sử Đại Nại, Bạch Hiền Đạo, đó là tám người cùng đi từ Nhị Hiền trang, mà lễ vật đều do Hùng Tín đứng ra sắm sửa, cả bọn dâng ba chén rượu, Tần mẫu uống một chén còn thì Thúc Bảo uống một chén. Toán thứ hai là Sài Tự Xương, một mình một lễ, Tần mẫu cũng uống hai chén. Thúc Bảo uống một chén, sau đó là đến Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc, một lễ, Uất Trì Nam giảng giải: 

 - Hai anh em chúng tôi, tuy có một lễ, nhưng xin được dâng sáu chén rượu thọ. 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Anh em Đơn nhị ca đông đến thế, nhưng theo lời Lý đại huynh cũng chỉ có ba chén. Anh em tiểu đệ tại sao lại những sáu chén? 

 Uất Trì Nam đáp: 

 - Hiền đệ nói thế là tính theo lễ vật, nhưng anh em chúng tôi ngoài lễ vật, còn mang theo thư của Lai Tổng quản, chúng tôi đóng vai gia tướng của Lai Tổng quản, đến đây vì công vụ, nên xin được ba chén để khỏi nhục mệnh chủ. Sau đó mới là chính ba chén của chúng tôi dâng lên bá mẫu vậy! 

 Ai nấy đều cho là hợp lý, Tần mẫu nghe nói là gia tướng của Tần phu nhân sai đến, cũng cố uống hết hai chén, Thúc Bảo uống thay bốn chén. Rồi đến lượt Vưu Thông cùng Giảo Kim. Thúc Bảo lên tiếng: 

 - Đây chính là Trình Nhất Lang ở Ban Cưu điếm ngày xưa. 

 Tần mẫu thất kinh: 

 - Sao lại là Trình Nhất Lang được, chẳng giống như ngày xưa chút nào cả. Nhớ lại hồi ly loạn, cùng lệnh đường nương tựa vào nhau, hai nhà như một, có đến mấy năm, về sau lệnh đường trở về Đông Á, tin tức cách trở, không ngờ gặp lại, lệnh đường có khỏe không? 

 Giảo Kim thưa: 

 - Nhờ ơn bá mẫu, cũng được bình yên. Hôm nay Giảo Kim này đến mừng thọ bá mẫu. 

 Tần mẫu rất vui, uống luôn hai chén. Hùng Tín đứng bên giục: 

 - Chúng ta sẽ nói chuyện tiếp khi ngồi vào bàn tiệc. Xin cho các bạn ở Tế Châu này cũng được nâng chén chúc thọ bá mẫu. 

 Lại thấy Giả Nhuận Phủ, cùng với Phàn Kiến Uy, Liên Minh, Đường Vạn Nhẫn, cũng cùng dâng một lễ, Tần mẫu lên tiếng cảm tạ: 

 - Quan khách từ xa xôi nghìn dặm tới, làm vinh hạnh cho mẹ con già này, xin vui tiệc rượu suốt đêm nay cho! 

 Tần mẫu quay vào bên trong. Thúc Bảo đóng cửa hai bên lại, rồi ai nấy theo thứ tự mà ngồi, cũng không khác gì lắm thứ tự đã ngồi ở Giả gia điếm hôm qua, nay chỉ thêm ba bạn ở Tế Châu, đều là chỗ đi lại thường xuyên trong nhà, nên cũng coi như chủ vậy thôi. Nhạc mừng nổi lên, theo đúng hiệu lệnh, ai nấy cùng nâng chén, nghe theo lệnh điều khiển của Hùng Tín, lấy bài chúc của Hùng Tín, mỗi người đến lượt mình, nâng một cốc rượu lớn, hát bài chúc thọ, cứ sai một chữ phạt thêm một chén rượu. Mở đầu là Hùng Tín, hát mừng. 

 Long lanh một giải Ngân Hà 

 Sương bay lất phất, trăng già thanh thanh 

 Băng sương thu nguyệt bạch 

 Ngạo hơi thu gặp rét vẫn trinh kiên 

 Bên thềm thơm nức chồi huyên 

 Rượu thọ ngấm thêm bền sức lão 

 Hòa khí như xuân sớm 

 Tuổi thọ tựa Bắc Sơn 

 Này đào tiên Vương Mẫu 

 Này ngọc nữ quỳnh tương 

 Quanh tiệc thọ ngang tàng con với cháu 

 Chúng hào kiệt một niềm hiếu thảo 

 Đại gia đình đàn cháu bạn con 

 Những mong bá mẫu trăm tròn. 

 Chúng hào kiệt hát những lời này, rồi uống rượu thọ. Bài hát này chính là Huyền Thúy làm khi ở nhà Hùng Tín, bọn họ không phải ai cũng thuộc ngay được. Bá Đương với Công Cẩn, hai người này vốn hiểu văn, biết võ, nên cũng đã quen thuộc, nghe qua là nhớ ngay, hát không sai. Tự Xương tuy mới nghe, nhưng cũng chẳng lạ gì nên đọc vẫn tri chảy. Nhuận Phủ chữ nghĩa ít nhiều, lại vừa đọc vừa ca. Khổ nhất là Hiền Đạo, Đại Nại, Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc, Vưu Thông, Giảo Kim, Quốc Tuấn, Bội Chi, Kiến Uy. Giảo Kim nói: 

 - Cái này thì đúng là khổ tiểu đệ rồi, tiểu đệ làm sao mà nhớ được đọc không ra, xin uống rượu phạt cho xong. 

 Ai nấy đều cười rũ rượi, một hồi lâu, rồi lại cùng nâng chén rượu tràn. 

 Phía nhà ngoài cũng kê bàn ghế đầy đủ, cũng đủ tiệc rượu để mời anh em thổ binh, bọn đẩy tớ tay chân của khách của chủ. Bỗng nghe tiếng gõ cửa ở bên ngoài rất gấp, một thổ binh cầm đèn ra cổng xem sao, thì thấy một đạo sĩ cao lớn, vai vác một thanh bảo kiếm. 

 Thổ binh hỏi: 

 - Đạo sĩ tới đây có việc gì? 

 Đạo nhân đáp: 

 - Ta đi quyên giáo! 

 Thổ binh nói: 

 - Quyên giáo là lúc ban ngày ban mặt. Bây giờ là lúc nào? Xin đừng quấy rầy chúng tôi. 

 Đạo nhân vẫn khăng khăng: 

 - Người khác đi quyên giáo ban ngày, còn bần đạo đi quyên giáo ban đêm vậy thôi! 

 Thổ binh quát: 

 - Nhà người ta đang có việc bận. Ai rỗi hơi mà lý sự với đạo sĩ được. Xin đạo sĩ đi ngay cho được việc. 

 Nói rồi đẩy đạo sĩ ra, nhưng lập tức thấy thổ binh ngửa mặt kêu một tiếng rồi ngã lăn quay xuống chân tường. Đám thổ binh cùng đầy tớ bên trong nghe ra vội chạy tới xúm xít, thấy thổ binh vừa rồi vẫn nằm trên đất, đều định xăn tay áo đánh đạo sĩ một trận, nhưng chỉ thấy đạo sĩ lia tay một vòng, cả bọn đều ngã lăn quay trên nền đất. Một thổ binh hoảng hốt chạy vào nhà báo cho mọi người trên bàn tiệc. Thúc Bảo lớn tiếng quát: 

 - Các anh chẳng biết gì cả, đạo sĩ đã đến hóa trai, thì là tiệc chay hoặc tiệc mặn, cứ mời ăn thật no là xong, sao lại kinh động lên thế? 

 Kiến Uy đứng lên: 

 - Xin Tần đại huynh cứ ngồi tiếp khách. Để tiểu đệ thử ra xem sao. 

 Kiến Uy ra cửa, thấy đạo sĩ cao lớn như dáng hổ dữ, râu tóc vừa tốt vừa dài, thì biết ngay người khác thường, liền cung kính chắp tay thưa: 

 - Đạo trưởng chỉ đến đây hóa trai hay còn điều gì chỉ giáo nữa chăng? 

 Đạo sĩ đáp: 

 - Ta nào phải hóa trai đâu, mà cần gặp Thúc Bảo đại huynh cho biết mặt, nói với Thúc Bảo dăm câu rồi xin đi ngay thôi! 

 Kiến Uy đáp: 

 - Nếu như vậy, xin đạo trưởng chờ cho một lát, tiểu nhân sẽ mời Thúc Bảo đại huynh ra ngay. 

 Kiến Uy trở vào kể lại, Thúc Bảo vội chạy ra, thì thấy đạo sĩ đi vào hỏi: 

 - Vị nào là Thúc Bảo đại huynh? 

 Lúc này chúng hào kiệt nghe chuyện cũng ùa cả ra xem. Thúc Bảo lên tiếng: 

 - Chính là tiểu đệ đây ạ! 

 Rồi vội chắp tay chào đạo sĩ. Đạo sĩ lại hỏi tiếp: 

 - Vị nào là Đơn Hùng Tín ở Nhị Hiền trang? 

 Hùng Tín bước lên đáp: 

 - Tiểu nhân chính thị là Đơn Hùng Tín. 

 Rồi cũng chắp tay chào đạo sĩ. 

 Bá Đương đề nghị: 

 - Đạo trưởng, xin mời vào ngồi cùng với anh em chúng tôi uống chén rượu nhạt vậy. Để anh em chúng tôi cùng được vái chào! 

 Thúc Bảo hỏi họ tên đạo sĩ. Đạo sĩ đáp: 

 - Tiểu đệ họ Từ, tên Hồng Khách! 

 Nghe xong, Thúc Bảo vui mừng thưa: 

 - Thì ra là Từ Hồng Khách đại huynh, hôm nay không hiểu duyên may gì mà chúng tiểu đệ lại được tiếp đón ở đây? 

 Hùng Tín tiếp: 

 - Đại huynh Ngụy Trưng thường hay nhắc tới Từ Hồng đại huynh đây, ngợi ca đại huynh nhiều kỳ mưu dị thuật, văn vũ toàn tài, có thể bàn hoạch đại mưu đại kế. Nay được gặp mặt, thật thỏa nguyện bình sinh. 

 Thúc Bảo kính cẩn mời ngồi, rót rượu đưa tận tay. Hồng Khách nói: 

 - Xin hãy ngồi với bạn một chút. Tiểu đệ còn phải mừng lễ đại thọ của bá mẫu, giờ thì không dám phiền bá mẫu phải ra tiếp. Tiểu đệ ở trong núi, có pha được một ít rượu thơm gọi là "Tiên dịch hương giao". Xin phiền chư huynh dâng lên bá mẫu, tiểu đệ ở ngoài này kính bái cũng đủ rồi. 

 Bèn gọi lấy một mâm rượu không, đầy tớ vội mang đặt lên bàn. Hồng Khách lấy từ trong ống tay áo ra một cái hồ lô, cao khoảng ba bốn thốn, ngước mặt niệm chú mấy câu, rồi lấy móng tay vạch một vạch vỏ ngoài cửa hồ lô, cấm hồ lô nghiêng khẽ rót, một mùi thơm lạ lùng tỏa đầy nhà, khói bay thấp thoáng thành những dãy trắng uốn lượn. Hồng Khách xem đã đúng vạch vừa vạch chưa, rồi dừng lại lên tiếng: 

 - Vốn định trước tiên hãy dâng lên bá mẫu. Nhưng ngại tiểu đệ với Thúc Bảo đây mới gặp nhau lần đầu, sợ có điều gì nghi ngại, tiểu đệ xin uống trước một chén. 

 Nói rồi rót ra một chén, tự uống một hơi cạn, lại rót thêm một chén, đưa cho Thúc Bảo nói: 

 - Đại huynh cũng nên uống một chén, rồi sau phiền đại huynh dâng vào bá mẫu, uống tăng tuổi thọ. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Mấy khi được thấy "Tiên dịch hương giao" ở trên mẫu thân chưa uống, tiểu đệ sao dám uống trước. 

 Chưa nói dứt lời, thì đã thấy Giảo Kim đỡ lấy chén rượu, miệng nói: 

 - Xin để tiểu đệ cùng Tần đại huynh cùng uống là hay hơn cả! 

 Rồi dốc cả chén vào miệng cạn sạch, thì đã thấy vị ngọt thấm khắp lục phủ ngũ tạng, người say ngây ngất. Giảo Kim bèn nài: 

 - Xin cho một chén nữa vậy? 

 Hồng Khách đáp: 

 - Không nên thế! Xin mời dâng vào cho bá mẫu, còn thừa bao nhiêu, sẽ mời chư huynh sau. 

 Thúc Bảo cầm hồ rượu, đi vào nhà trong. Hồng Khách ở ngoài này, quay mặt theo vái đủ bốn lạy. Chính là: 

 Kính dâng thêm thẻ hạc 

 Vâng chuốc chén đào tiên. 

 Lát sau, Thúc Bảo ra, bái tạ Hồng Khách: 

 - Lão mẫu sai tiểu đệ tạ ơn đại huynh vì mấy chén quỳnh tương. Lão mẫu đã uống tới ba chén. Còn bao nhiêu cho Tần Quỳnh này đem ra mời các vị nếm thử. 

 Kiến Uy lại kể cho Thúc Bảo nghe, Hồng Khách đã bái lạy bá mẫu như thế nào, Thúc Bảo lại vội bái lạy đáp lễ. Hồng Khách kéo Thúc Bảo dậy, rồi lấy hồ lô trong tay áo ra, thổi một hơi dài, dốc hồ lô lên, rót cho mỗi người một chén, mãi đến Thúc Bảo thì hồ lô cũng vừa cạn, ai nấy đều xuýt xoa khen ngợi mãi không thôi. Thúc Bảo bèn mời Hồng Khách ngồi ngay cạnh Hùng Tín, mọi người lại ai về chỗ người ấy. Thúc Bảo nói với Hồng Khách: 

 - Lần vừa rồi tiểu đệ có đi công cán ở Trường An, được gặp đại huynh Lý Tĩnh, Lý đại huynh cũng thường nói đến Từ đại huynh luôn. 

 Hùng Tín hỏi: 

 - Từ đại huynh đã lâu không thấy đến chơi với Ngụy Trưng chúng tôi. 

 Hồng Khách đáp: 

 - Tiểu đệ rằm tháng trước có ghé qua Tây Nhạc miếu ở Hoa Sơn, được Ngụy Trưng hiền đệ giữ lại một đêm. Có nói tới chuyện Thúc Bảo đại huynh, năm trước bị nhiễm bệnh ở Lộ Châu, ngay trong miếu Đông Nhạc. Lại được Đơn nhị ca đây hết lòng chăm sóc, bạn bè gặp gỡ có đến nửa năm. Sau đó Thúc Bảo gặp chuyện không may, phát phối đi U Châu, đến nay đã bốn năm năm rồi, ngày tháng thấm thoát lòng nào có quên được. Ngụy Trưng nhân công việc ở miếu không thể nào thoát ra được mà đi, nên có thư cho tiểu đệ đem đến Nhị Hiền trang, thăm Đơn nhị ca vừa là cùng đi Tế Châu làm lễ mừng thọ. Đến Nhị Hiền trang, thì được tin Đơn nhị ca cùng các bạn đã đi Tế Châu rồi. Vì vậy đệ ngày đêm tới đây, đề được mừng thọ bá mẫu. 

 Nói rồi rút trong tay áo ra thư của Ngụy Trưng, Hùng Tín mở ra xem, thì cũng nhắc lại chuyện ở Lộ Châu, nhớ ơn Hùng Tín đứng làm hộ pháp trông coi công việc của miếu Đông Nhạc. Cùng là một thư gửi Thúc Bảo, kể lể chuyện xa cách, sau là những lời chúc mừng ngày sinh nhật của Tần mẫu, sau nữa là giới thiệu tài năng khác thường của Từ Hồng Khách, khuyên Thúc Bảo hãy nghe theo những lời dặn dò của Hồng Khách, sau hết là một hài từ chúc thọ Tần mẫu, Thúc Bảo xem xong cẩn thận bỏ vào ống tay áo rồi nói: 

 - Tiểu đệ năm trước ngã bệnh trong miếu, may được Ngụy đại huynh chăm sóc thuốc men. Đến khi tiểu đệ từ U Châu trở về Lộ Châu, định quay lại miếu Đông Nhạc để tạ ơn, thì Ngụy đại huynh đã đi Hoa Sơn. Thật là tình sâu nghĩa nặng, một chút báo đền cũng chưa có, đến bây giờ vẫn thế thôi. 

 Huyền Thúy hỏi: 

 - Từ đại huynh đến đây từ bao giờ? 

 Hồng Khách đáp: 

 - Tiểu đệ trưa hôm qua mới vào đến thành Tế Châu này, trọ ở Nhan gia điếm. Nguyên định sáng sớm mai sẽ đến báo thọ bá mẫu. Nhưng xem thiên văn, thấy ở phương Tốn, đêm nay khí độc giăng đầy sợ có họa nhỏ, lại chiếu phương vị, đúng là nơi này, vì vậy dù tối rồi, cũng phải đến gặp chư huynh vậy. 

 Ai nấy nghe nói đều nhất tề hỏi: 

 - Có tai họa gì không? 

 Hồng Khách đáp: 

 - Xin chư huynh cứ đợi cho một lát sẽ rõ ngay. 

 Mọi người thấy Hồng Khách cốt cách khách thường, phong thái siêu tài, cử chỉ hiên ngang, đều muốn được Hồng Khách chuyện trò mãi. Hết người này lại người khác đứng dậy rót rượu mời. Chính lúc ngày đêm gặp gỡ (1), bỗng thấy Hồng Khách ngừng chén, mắt nhìn vội ra bên ngoài, hét lớn: 

 1 Tức là giờ tý, 12 giở đêm vậy. 

 - Nguy rồi! Hỏa tinh xuống! 

 Hồng Khách vội vàng đứng dậy, nâng một chén rượu, ra đứng ngay thềm bán nguyệt đài, rút bảo kiếm đeo sau lưng, miệng thì thầm niệm chú, rồi bỗng quát lớn: 

 - Biến! 

 Lập tức hắt chén rượu lên không. Phút chốc gió lớn nổi mạnh, mây đen kéo đầy trời. Trong nhà bao đèn nến đều bập bùng, cái bạt, cái tắt ai nấy đều kinh hoàng, thì lại nghe ngoài cổng tiếng huyên náo, kêu la ầm ĩ, nhiều thổ binh, đầy tớ vào thưa: 

 - Khốn khổ rồi, nhà phía trái phát hỏa, đang cháy dữ lắm! 

 Thúc Bảo cùng bạn bè nghe nói, vội chạy ra xem rồi sai người cứu hỏa. Hồng Khách can rằng: 

 - Chư huynh không nên ra vội. Bên ngoài sẽ mưa to ngay bây giờ! 

 Lời chưa dứt, thì đã thấy bên ngoài mưa như trút từ trong chậu ra. Một lát sau, mây đen bay hết, mưa cũng tạnh, trời quang đãng trở lại. Đầy tớ lại vào thưa: 

 - Thật là trận mưa lớn chưa từng thấy, quý báu quá chừng, tắt được cả đám cháy lớn. Nếu không ó khi còn cháy lan cả sang hàng xóm cũng nên! 

 Chúng hào kiệt lại càng phục Từ Hồng Khách. 

 Vừa tới canh năm, ai nấy trở dậy chia tay. Hồng Khách nói với Thúc Bảo: 

 - Sáng rồi, tiểu đệ xin từ tạ! 

 Thúc Bảo cố mời: 

 - Đại huynh từ xa đến đây, các bạn cùng còn ở lại cả, xin đại huynh hãy ở lại hàn huyên ít ngày đã. 

 Hồng Khách đáp: 

 - Tiểu đệ vẫn thường nói với Ngụy trưng hiền đệ vùng Thái Nguyên có vượng khí thiên tử, vì vậy có giao hẹn với Lưu Văn Tĩnh, thử đến đây hội ngộ một lần. Vì vậy không thể chậm hơn, sợ lỡ hẹn chăng! 

 Thúc Bảo nói: 

 - Nếu đã như vậy, đệ cũng xin gửi một hai phong thư, nhờ đại huynh chuyển hộ tới Lưu Văn Tĩnh, cùng Ngụy Trưng, sáng ra xin sai người đưa tới quán trọ. 

 Hồng Khách bằng lòng. Ai nấy nhất tề vái chào từ biệt, ra khỏi cửa. 

 Chính là: 

 Tiệc vui, vui mãi được nào 

 Tiệc này đã vậy, tiệc sau xin chờ! 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Hai Mươi Lăm

Lý Huyền Thúy gỡ nguy cứu bạn hiền,

 Sài Tự Xương dốc bạc đút quan lớn.

 Từ rằng: 

 Cao xanh thử thách anh hào 

 Vận đỏ chở che nghiệp lớn 

 Bó tay tuấn kiệt 

 Nhụt chí nam nhi 

 Thành đồng bất chấp hiểm nguy 

 Dạ sắt xem thường quyền thế 

 Quyền thế, hiểm nguy nào xá kể 

 Nặng ân tình xem nhẹ thân khu 

 Vỗ gươm ca "thực vô ngư”(1) 

 Sông chèo gõ nhịp, đêm chờ tiếng kê (2) 

 Bến Dịch, Kinh Kha dựng tóc 

 Chợ Hàn, Nhiếp Chính phô thây 

 Huy hoàng hào khí vân nghê 

 Tiền tài phấn thổ, đài mây danh đề. 

 Theo điệu "Mãn giang hồng” 

 1 Phùng Huyên, làm khách ở nhà Mạnh Thường Quân lúc đầu bị coi thường, Phùng Huyên hát: "Về đi thôi, ăn cơm không có cá..." về sau giúp Mạnh Thường Quân được nhiều việc. Xem thêm chú thích hồi thứ hai mươi tư (Chiến Quốc sách). 

 2 Tổ Địch và Lưu Côn là hai bạn thân nghe gà gáy dậy múa gươm để khôi phục đất nước khỏi ách ngoại bang. Tổ Địch qua sông, gõ mạn thuyền hát, tỏ ý cương quyết diệt giặc ngoại xâm. 

 Xưa này tính mệnh các bậc trung thần nghĩa sĩ, mỗi khi gặp bước gian nan như không còn lối thoát, thì bỗng lại như được trời che đất chở, "tuyệt lộ phùng sinh", cho nên giữa lúc họ chưa tìm thấy đường sống, thì bỗng đâu cứu tinh xuất hiện, người quân tử vẫn hoàn bậc quân tử. 

 Thúc Bảo lúc đầu cũng có bao giờ tính đến sẽ có Lý Huyền Thúy, Sài Tự Xương chu toàn cho, mà chính là trời đất chu toàn cho Thúc Bảo, vậy, nên mới dành sẵn hai vị cứu tinh ở đấy. Hôm ấy tiệc rượu cho đến tận nửa đêm, Hùng Tín cùng bạn bè kéoGiả gia điếm nghỉ ngơi. Từ Hồng Khách thì về Nhan gia điếm chờ Thúc Bảo đưa thư đến, bọn Phàn Kiến Uy cũng ai về nhà nấy. 

 Sáng sớm hôm sau, Hùng Tín đã giục Huyền Thúy cùng Tự Xương chạy đi lo chuyện cho Thúc Bảo. Hai người bèn mỗi người mỗi đường. Huyền Thúy đến tìm gặp Lai Tổng quản, nói rõ chuyện đến Tế Châu dự lễ mừng thọ gặp phải chuyện lôi thôi ra sao, nhờ Lai Tổng quản tìm cách kéo ra khỏi đám cháy, tránh khỏi chuyện vạ lây. Nghe xong mọi chuyện, Lai Tổng quản đáp: 

 - Thúc Bảo là một võ tướng có khí phách, tiểu đệ cũng rất để ý nâng đỡ, chẳng may gặp phải chuyện này, chỉ riêng chuyện tìm cho ra người ra của cũng không phải là khó, nhưng phủ đường Tế Châu gây đủ chuyện phiền hà. Tiểu đệ cũng có thể kiếm một cớ nào đấy để đòi Thúc Bảo về, nhưng chỉ sợ Tế Châu vẫn không chịu cho về. 

 Nghĩ ngợi một hồi, Lai Tổng quản nói tiếp: 

 - Có thể vịn vào cớ này là tiện hơn cả: Mới rồi đây Ma Tổng quản đưa công văn đòi tới dưới trướng Ma Tổng quản năm trăm quân tướng, để làm việc đốc thúc xây dựng cung điện ở Lạc Dương, do công trình ngày càng nhiều người, nhiều việc. Nay tiểu đệ bổ nhiệm Thúc Bảo vào việc cầm đầu toán quân này, cấp văn thư cho Thúc Bảo đi ngay. Đây lại là công vụ rất khẩn cấp, Lưu Thái thú vẫn có muốn giữ cũng không dám. Nhược bằng Lưu Thái thú vẫn giữ, tiểu đệ sẽ có cách thương lượng: ban đầu thì bảo rằng Thúc Bảo thông đồng với bọn cướp, nên không chịu làm, sau đã trách phạt đến nơi, bọn cướp vẫn không tìm thấy. Ở phủ đường nguyên có cả hai đô đầu, một đội bắt cướp lâu nay, sao lại còn xin bằng được. Rồi lại tìm cách gây khó dễ cho gia tướng của soái phủ. Vịn cớ là tướng tâm phúc dưới trướng Tổng quản, gọi ngay Thúc Bảo về chuẩn bị nhung trang, hành lý, rồi làm văn thư đi ngay. 

 Lai Tổng quản cố giữ Huyền Thúy lại, nhưng Huyền Thúy một mực chối từ: 

 - Chỉ xin đại huynh để ý chu toàn cho Thúc Bảo là tiểu đệ cảm tạ muôn phần rồi! 

 Tuy thế Lai Tổng quản vẫn nhiệt tâm, khi công việc xong xuôi, mời Huyền Thúy lại soái phủ chơi vài ngày, chuyện trò, Huyền Thúy kiếm cớ từ tạ: 

 - Chỉ ngại Lưu Thứ sử có công văn lên thẳng chỗ tổng lý Vũ Văn Khải, họ Vũ Văn tìm cách thẩm tra lại chuyện này, nên tiểu đệ cũng còn có việc phải lưu tâm, không thể ở lâu hơn được nữa. 

 Lai Tổng quản bèn sai lấy lễ vật, lại tận Giả gia điếm đáp lễ, cùng đem quà biếu Huyền Thúy lên đường, tặng mấy trăm lạng bạc làm tiền lộ phí. Chuyện này của Thúc Bảo chính là: 

 Lưới Thang mở ba mặt 

 Khó bắt được chim hồng 

 Thợ săn đành trố mắt 

 Nhìn chòm mây bềnh bồng. (1) 

 1 "Sử Ký": vua Thành Thang nhà ân thấy người bẫy chim đọc chú: "Trên bay xuống, dưới bay lên, ba bề bốn bên, vào lưới tao cả". Bắt bỏ đi ba mặt lưới, chỉ để một và bắt sửa lại cả câu chú . 

 Nói chuyện Tự Xương đến gặp Lưu Thứ sử, Thứ sử cũng vì thấy Tự Xương là con rể của quan trực tiếp cai quản mình, nên nhất định bày tiệc rượu khoản đãi. Trước tiên là Lưu Thứ sử kể chuyện mình cai quản Tế Châu trong sạch như nước thế nào, rồi sau đó đến việc nạp bạc vừa rồi không hề tư túi, cho nên hoàn toàn không một lời kêu ca, phàn nàn, cũng chẳng có chuyện mất mát, trách phạt gì cả. Không ngờ xảy ra chuyện phủ bên mất cướp ra sao, quan trên bắt phủ Tế Châu này bồi thường, bắt cướp thế nào, lâu nay tận tình điều tra, truy lùng mà vẫn không tăm hơi, đêm ngày lo lắng vất vả thật chẳng lúc nào yên. Tự Xương nghe xong, liền nhân đó nói: 

 - Chính vì trong số những người bắt cướp có Tần Quỳnh, mà gần đây là công vụ tới Trường An, vốn cùng tiểu nhân đây là bạn bè “bát bái chi giao". Mới rồi đây tiểu nhân tới Tế Châu này để dự lễ mừng thọ Tần mẫu, mới biết chuyện Tần Quỳnh bị dính dáng rất khổ vì chuyện này, nên hôm nay tiểu nhân đặc biệt đến dây, để xin Thứ sử hãy tìm cách giải thoát cho Tần Quỳnh khỏi chuyện phiền toái này. 

 Lưu Thứ sử đáp: 

 - Nhân huynh ở xa, có điều không rõ, bọn Tần Quỳnh này chuyên thông đồng với tụi cướp, dung túng cho chúng để rồi cùng nhau chia của cướp được cốt tìm mọi cách lên được tới chức kỳ bài quan, lại tìm cách kết giao với bọn lục lâm ở khắp các châu quận xa gần. Tiểu đệ đã hỏi rõ chuyện này, vì thế mới nhất quyết khoác chặt việc bắt bọn cướp vào cổ Tần Quỳnh. Nhược bằng không bắt được bọn cướp thì phải làm bồi thường số bạc. Nếu cứ như lời nhân huynh mà khoan dung cho Tần Quỳnh, thì cướp làm sao mà bắt được, khi đó thì số bạc ba nghìn lạng, tiểu đệ sẽ phải bồi thường. Tiểu đệ định ngày mai làm công văn, giải Tần Quỳnh đi Đông Kinh cho tổng lý Vũ Văn Thuật xử lý. Hôm nay nhân huynh nói thế, tiểu đệ chỉ có thể gia hạn cho Tần Quỳnh để có thêm thời gian bắt cướp tìm bạc mà thôi. 

 Tự Xương nói: 

 - Tiểu đệ tưởng rằng, Đông Kinh chỉ cần có bạc cho đủ là được, người có hay không, chỉ cần nói rõ trong công văn là được rồi. 

 Lưu Thứ sử đáp: 

 - Thì cái khó ở chỗ ba nghìn lạng bạc. Tiểu đệ thì lấy đâu ra mà đền. Cứ bổ đầu các huyện đâu phải dễ dàng, tiền bạc là xương máu của dân, họ đâu phải dễ kiếm, dễ nạp. Vì vậy mới phải cố sống cố chết mà bắt cho kỳ được bọn cướp. 

 Tự Xương thấy rõ ý của Lưu Thứ sử, chỉ cần bọn Thúc Bảo có đủ số bạc ba nghìn lạng là được, vì vậy Tự Xương cười mà rằng: 

 - Thế bọn này lo đền một nửa số bạc thì xong xuôi mọi sự nhé! 

 Lưu Thứ sử đáp: 

 - Làm sao mà xong được, còn một nửa nữa mới đủ, bảo tiểu đệ lấy đâu ra? 

 Tự Xương nói: 

 - Còn một nửa, chia đều tất cả trong đội lính bắt cướp có được không? 

 Lưu Thứ sử đáp: 

 - Bọn này có bồi thường như vậy, thì cũng chẳng sao, chúng đều được bọn cướp lâu nay chia cho chẳng nhiều thì ít, nên có phải bồi thường thay cho chúng cũng đúng thôi.. Hơn nữa không bồi thường, bọn này đều phải giải đi Đông Kinh, mà đã giải đi, mười chết một sống, chỉ cần tiền lộ phí thôi cũng tốn kém không biết bao nhiêu rồi. 

 Nay nhân huynh đứng ra thương lượng chuyện này, ngoài chuyện bồi thường như vậy, nhân huynh phải đòi chúng biếu nhân huynh ít ra năm trăm lạng bạc, coi như là tiền tiểu đệ kính lễ nhân huynh. Ngày mai, tiểu đệ sẽ không bắt bọn này đến để đổi trát nữa, mà chờ chúng nạp đủ tiền là được, khi bắt được bọn cướp sẽ theo giấy đó mà hoàn lại bạc vậy. 

 Tự Xương khẽ cười đứng dậy: 

 - Chỉ sợ bọn này đều nghèo, liệu có bồi thường nổi không đây. 

 Lưu Thứ sử đáp: 

 - Số bạc công này không thể thiếu được đâu. Chả cần Tần Quỳnh làm giấy tờ, tên nào nạp bao nhiêu, tiểu đệ sẽ theo giấy này mà đòi là xong. Số bạc năm trăm lạng phần nhân huynh cũng thế, đừng có nghe chúng xoen xoét nghèo khổ mà lấy thiếu. 

 Tự Xương đáp: 

 - Chỉ cần trả xong số bạc ba nghìn lạng. Còn tiểu đệ đã lấy cho phần mình ngay từ đầu. 

 Rồi cáo từ ra khỏi phủ đường, Lưu Thứ sử tiễn ra đến tận cửa. 

 Chính là: 

 Chỉ cần Thứ sử lành ung nhọt 

 Mặc kệ ai người róc thịt da. 

 Tự Xương về đến Giả gia điếm, thì cũng là lúc Lai Tổng quản đã cho người mang công văn tới, chỉ cho Tự Xương về, để biết tin tức trong phủ cùng đến nhà Thúc Bảo. Huyền Thúy đưa công văn cho Tự Xương xem, rồi nói: 

 - Đang chờ đại huynh trở về, ta cùng đến nhà Thúc Bảo, để Thúc Bảo còn lên đường cho kịp. 

 Tự Xương xem xong, thở dài mà than: 

 - Lâu nay người đời khinh thường bọn võ quan thì giờ này bọn này lại tỏ ra hào hiệp hơn nhiều. Bọn văn quan bẩn thỉu quá chừng. 

 Bàn cãi đủ chuyện, kết cục là bắt đội thổ binh phải bồi thường số bạc, cấp cho bọn này giấy biên nhận, sau đó sẽ trả lại nếu bắt được bọn cướp. 

 Hùng Tín lên tiếng: 

 - Đó cũng chỉ là những chuyện suông thôi. Còn thực là bọn thổ binh này, trừ Thúc Bảo, Kiến Uy, Vạn Nhẫn, Cự Chân ra đều nghèo khổ ngoài cái áo che thân ra còn có gì khác nữa đâu, ăn còn chẳng được no, lấy đâu ra tiền bạc. 

 Bá Đương nói: 

 - Chính đây mới là chuyện chúng ta phải tính toán giúp cho họ. 

 Giảo Kim bàn: 

 - Chả cần phải bàn cãi gì lắm. Chuyện này chính tiểu đệ gây ra, thì tiểu đệ xin gánh chịu vậy. Xin Vưu viên ngoại về ngay nhà, tìm cách bù cho đủ số bạc đã tiêu, đem số bạc ấy đến đây để cứu Thúc 

 Bảo đại huynh cho kịp. 

 Vưu Thông đã đứng lên chuẩn bị lên đường lập tức, thì Tự Xương lên tiếng. 

 - Chuyện này tiểu đệ cũng đã nói rồi, tiểu đệ sẽ lo đầy đủ tất cả. 

 Công Cẩn băn khoăn: 

 - Sao lại đổ cả mọi chuyện lên đầu đại huynh cho đáng. 

 Tự Xương đáp: 

 - Chẳng còn gì đáng phàn nàn đâu. Đó cũng là tiền của Thúc Bảo đại huynh cả đấy thôi. 

 Bá Đương hỏi: 

 - Sao tiền của Thúc Bảo mà lại ở chỗ đại huynh được? 

 Tự Xương đáp: 

 - Chả là dạo Thúc Bảo đại huynh cứu nhạc phụ ở Tra Thụ cương, rồi gặp tiểu đệ ở Báo Đức tự, tiểu đệ có viết thư báo, sau đó nhạc phụ cho người đem thư từ cùng vàng bạc tới Báo Đức tự, Thúc Bảo đã về Tế Châu mất rồi, mãi đến giờ, tiểu đệ mới có dịp mang tới. Đang định sau lễ mừng thọ, sẽ đưa tặng Thúc Bảo, nhưng chỉ sợ Thúc Bảo đường đường một bậc hảo hán, cứu người không vì chuyện đền ơn, sẽ không chịu nhận số bạc này, chi bằng đem quách số bạc đó dùng vào việc này là tiện hơn cả! 

 Hiển Đạo, Nhuận Phủ cùng hưởng ứng: 

 - Thế thì hay lắm! 

 Bội Chi cười: 

 - Thế mới biết dạo ấy Giảo Kim hiền đệ có mắt nhìn xa, cứ thế mà xông vào chém giết, cuối cùng có người thay lo ổn cả mọi chuyện. 

 Giảo Kim cười ha hả: 

 - Thế là tiện cho tiểu đệ cả hai đường. 

 Đó là: 

 Ông Trương nốc rượu mà ông Lý lại say 

 Nước Sở mất con khỉ mà để cháy lây ra cả khu rừng. 

 Đang lúc chuyện trò, thấy đầy tớ bên ngoài vào thưa: 

 - Có Lưu Thứ sử lại thăm! 

 Mọi người đều tránh vào nhà trong, chỉ để mình Tự Xương ra tiếp đón, sau khi vái chào chủ khách ngồi uống trà, Lưu Thứ sử lên tiếng: 

 - Chuyện này hạ quan đã tính toán kỹ càng. Xin nhân huynh cứ lấy cho kỳ được năm trăm lạng bạc, lúc đó hạ quan mới cho người thu đủ số bạc, viết giấy biên nhận. Nếu không thấy chúng đưa bạc cho nhân huynh, xin nhân huynh đừng nghe, hạ quan sẽ cho giải cả năm mươi tên này lên Đông Kinh, sẽ chẳng còn mong ngày về, mà chỉ có chết! 

 Tự Xương đáp: 

 - Tiểu đệ cảm tạ thịnh tình của Thứ sử! 

 Lưu Thứ sử tiếp: 

 - Nhân huynh thấy chúng nạp không đủ, lại cho rằng hạ quan nói lấy lòng nhân huynh. Ở cái đất sỏi đá khổ sở này, nếu không làm cho ra nhẽ như thế thì mình chẳng bao giờ được miếng nào cho ra hồn đâu, xin nhân huynh đừng lưỡng lự. 

 Nói xong từ biệt, trèo lên kiệu về. 

 Bí quyết làm quan phải rất keo 

 Nửa đồng tiền rút chẳng tha đâu 

 Rút bòn khố rách quần manh cả 

 Để cổ quan bà vàng ngọc đeo. 

 Mọi người đều nghe cuộc đối đáp này, nên ai nấy đều căn dặn Tự Xương: 

 - Vừa rồi Lưu Thứ sử khuyên đại huynh đừng lưỡng lự nghĩa là thế nào? 

 Tự Xương đáp: 

 - Thứ sử bảo tiểu đệ đòi Thúc Bảo tạ ơn năm trăm lạng, số bạc này Thứ sử sẽ không đụng đến, chỉ cần tiểu đệ nhận đủ thì báo với Thứ sử để Thứ sử mới làm các việc khác cho Thúc Bảo. 

 Huyền Thúy lên tiếng: . 

 - Nếu thế đại huynh cứ lấy năm trăm lạng vậy. 

 Tự Xương bèn gọi gia nhân đem bạc ra, cùng Hùng Tín, Huyền Thúy, Bá Đương, bốn người ra cửa đến nhà Thúc Bảo. Kiến Uy vì đã được tay chân tâm phúc của Thứ sử đến báo cho biết về chuyện đòi tiền bồi thường, và cả năm trăm lạng biếu Tự Xương, đã chạy phần mình, nhưng vẫn còn thiếu ba trăm lạng, không kiếm đâu ra, đến bàn bạc với Thúc Bảo, vừa may gặp lúc bọn Tự Xương. Sau khi chào hỏi xong xuôi, Huyền Thúy đưa công Văn của Lai Tổng quản ra cho mọi người xem, thấy ghi: 

 “Khâm sai Tô Châu tổng quản phủ. Lai tướng quân cấp tờ phê sau: 

 Theo lệnh của bản chức: Tần Quỳnh, đốc lĩnh kỵ binh của bản châu, gồm năm trăm tên có danh sách rõ ràng kèm theo, đến giao nộp ở dinh quan lớn họ Ma là khâm sai Hà đạo đại tổng quản, không được gây việc chậm trễ. Đi qua đâu, bất kỳ cửa sông, cửa thành cũng không được cản trở. 

 Nay cấp tờ phê này cho lãnh quân hiệu úy là Tần Quỳnh tuân theo như hạn định. 

 Đại Nghiệp (1) năm thứ sáu, tháng chín ngày hai mươi ba”. 

 1 Đại Nghiệp: niên hiệu của Tùy Dương đế, tức năm 610 sau công nguyên. ở Việt Nam là thời kỳ Bắc thuộc, thuộc Tùy. 

 Huyền Thúy nói: 

 - Lai Tổng quản sẽ cho điểm người ngựa đủ số. Khoảng trong vòng ba ngày, đại huynh đã phải lên đường. 

 Thúc Bảo xem xong cũng không ngạc nhiên gì lắm, chỉ có Kiến Uy là kinh sợ hỏi: 

 - Xin có lời mừng đại huynh, được cử đi làm việc vinh hạnh này, rời được nơi nước sôi lửa bỏng. Còn chúng tôi thì không biết làm thế nào để có thể bồi thường được đủ ba nghìn lạng bạc. Lại còn năm trăm lạng để đưa cho Sài đại huynh đây nữa. 

 Hùng Tín hỏi: 

 - Kiến Uy cũng biết rõ chuyện này rồi sao? 

 Kiến Uy đáp: 

 - Tiểu đệ có rất nhiều bạn bè thân tín ở trong phủ đường. Ngay sau khi Sài đại huynh nói chuyện xong, đã có người ra nói cho tiểu đệ rõ mọi điều. Sau đó Lưu Thứ sử lại sai tay chân ra nói, nên cũng chưa biết nên đối phó ra sao, phải ra bàn với Thúc Bảo đại huynh. 

 Bá Đương nói với Kiến Uy: . 

 - Kiến Uy đừng hiểu lầm chuyện này, Sài đại huynh không bao giờ lại thèm đến bạc của các bạn đâu. Số bạc ba nghìn lạng kia cũng chính đại huynh sẽ xuất ra. 

 Kiến Uy ngạc nhiên: 

 - Làm sao lại có chuyện này được! 

 Thúc Bảo lên tiếng 

 - Có chuyện này nhưng không có lý này. Tiểu đệ không dám để Sài đại huynh bỏ bạc ra, cũng không dám để Kiến Uy phải đóng góp. Nhà nào giàu có thì bỏ ra, nếu chưa đủ thì tiểu đệ sẽ có cách. 

 Tự Xương nói: 

 - Số bạc này, nguyên là của đại huynh chứ không phải của ai đâu. 

 Tự Xương bèn đem thư của Đường Công Lý Uyên ra, rồi sai gia nhân mang túi, mang hòm vào, mở ra. Tự Xương nói: 

 - Đây chính là thư của nhạc phụ tiểu đệ gửi tới Báo Đức tự, thì đại huynh đã về Tế Châu. Tiểu đệ đã nhiều lần định mang tới, nhưng chưa có dịp nào, lần lữa mãi tới nay. 

 Thúc Bảo xem thư thì thấy viết: 

 “Việc cũ Quan Trung, ơn sâu ghi dạ. Những muốn đền ơn mà chưa thỏa. Vừa tiếp được thư của con rể tới, rất lấy làm mừng rỡ. Nay có ba nghìn lạng bạc, gọi là chút lễ mọn, mừng tuổi tướng quân. 

 Hẹn rằng bèo nước, 

 Gặp mặt tạ ơn.” 

 Thúc Bảo xem xong biến sắc mặt nói: 

 - Sài đại huynh, thế này thì lệnh nhạc (1) coi thường tiểu đệ quá. Kẻ trượng phu hành động trên đời nào phải để chờ báo ơn đâu? 

 1 Lệnh nhạc: gọi tôn kính bố vợ của người nói chuyện với mình. 

 Tự Xương cười nói: 

 - Tần đại huynh làm việc đó không phải chờ báo ơn. Nhưng về phía nhạc phụ tiểu đệ phải biết đến chuyện báo ơn đó. Có như thế thì mọi chuyện mới thỏa đáng chứ. 

 Hùng Tín nói: 

 - Thúc Bảo hiền huynh không khi nào đòi chuyện này khi cứu nguy giữa đường, cũng không có lý nào lại bắt Sài đại huynh mang số bạc này trở về. Nay đang phải cần làm cho xong chuyện này, cứu cho được hơn năm mươi mạng người, cùng với gia đình họ hàng của họ. Còn hiền huynh chẳng mảy may cần đến, cho nên lấy hay không lấy, hiền huynh cũng đừng cố chấp. 

 Kiến Uy nói: 

 - Đại huynh Thúc Bảo định làm chuyện bán chuông mua đồng. Đây chính là tính mạng cả năm mươi anh em chúng tôi. Sài đại huynh đã bằng lòng, tưởng Tần đại huynh cũng nên bằng lòng mới phải. 

 Thúc Bảo vẫn không quyết hẳn. Hùng Tín khuyên: 

 - Thúc Bảo cùng Kiến Uy đều đang gánh việc công, cả hai hãy thu lấy số bạc này mà nạp quan cho gọn chuyện đi! 

 Bá Đương cũng giục: 

 - Trong chuyện tiền bạc này, Sài đại huynh thêm vào một tý, thì mọi người lại bớt ra một tẹo, cũng thế cả thôi mà! 

 Mọi người cùng cười. Thúc Bảo vẫn nói: 

 - Nhưng riêng tiểu đệ vẫn chưa yên tâm. 

 Rồi đi vào nhà trong, đem ra ba trăm lạng bạc, nói với Kiến Uy: 

 - Tiểu đệ cũng nghe Lưu Thứ sử định chia phần bắt mọi người phải đền, cũng biết hiền đệ còn thiếu ba trăm lạng, nên đã định đem ba trăm lạng này đưa hiền đệ, để khỏi dính dáng người khác. Chứ cũng không nghĩ là tìm nơi đi cho xong quách đâu. 

 Chính là: 

 Nghìn vàng xem tựa mây lông 

 Nghĩa nhân sáng rực đuốc hồng nghìn thu. 

 Kiến Uy đáp: 

 - Một mình tiểu đệ cũng lo không nổi, xin đại huynh cứ nhận cho, đợi tiểu đệ gọi Vạn Nhẫn cùng mọi người lại, để họ được thấy nghĩa khí của đại huynh. 

 Thúc Bảo bèn thu nhận số bạc, rồi dọn tiệc rượu mời mọi người, Giữa lúc ăn uống, thì thấy Vưu Thông cùng Giảo Kim tới để từ biệt ra về. Lúc đầu Giảo Kim giữa đường đón đánh Sài Tự Xương, rồi đánh bại Bội Chi, Quốc Tuấn, nhưng lại bị Bá Đương đánh bại, trong lòng đã có chỗ không thoải mái, nay thêm chuyện giết người cướp của vỡ lở Giảo Kim càng thấy đứng ngồi không yên. Vưu Thông lại càng lo nghĩ hơn, cũng miễn cưỡng phải dự lễ mừng thọ cho xong để về cho chóng. Giảo Kim lên tiếng. 

 - Thấy rõ cảnh lao đao của Thúc Bảo đại huynh, tiểu đệ càng thấy mình không thể làm lụy đến đại huynh. 

 Đến khi Tự Xương cùng Huyền Thúy lo lắng được hiểm lớn nữa, thì Vưu Thông, Giảo Kim lại sợ lúc đi đứng, ăn uống, nói năng có điều gì sơ xuất mà lộ chuyện ra, sẽ bị bắt bớ, vì vậy cả hai xin về trước. Nhuận Phủ sợ bị liên lụy, cho nên cũng không giữ. 

 Thúc Bảo lưu lại, cùng ngồi tiệc rượu. Vì có Kiến Uy nên cả hai bên đều không nói chuyện gì khác. 

 Thúc Bảo nói; 

 - Tiểu đệ cũng muốn lưu hai vị lại chuyện trò vài ngày. Chỉ vì ngày mai đã phải lên đường, cho nên cũng không dám giữ. 

 Sắp chia tay, Thúc Bảo mới vào nhà trong lấy một ít lễ vật, đưa Giảo Kim đem về biếu Trình mẫu và cả quà của Tần mẫu gửi riêng cho Trình mẫu. Rượu đã say rồi. Vưu Thông, Giảo Kim cùng Hùng Tín về Giả gia điếm. Sáng canh năm. Vưu Thông cùng Giảo Kim lên đường. 

 Sương giăng, trăng tỏa sáng đầy thềm 

 Eo óc gà đâu rộn cuối đêm 

 Lọt lưới kỳ lân nhanh gót thoát 

 Cây cong vội tránh nhẹ thân chim. 

 Cũng sáng hôm ấy, biết Lưu Thứ sử chỉ cần đến đủ bạc, cũng chẳng để ý gì đến mình, nên Thúc Bảo chỉ đến tạ ơn Lai Tổng quản. 

 Lai Tổng quản nói: 

 - Ta lúc ấy không giữ được ngươi, đến nỗi ngươi gặp phải toàn chuyện nhục nhã, thôi thì bây giờ ngươi hãy tạm đi. La Tướng quân cùng Lý Huyền Thúy đều đã có lời, đến lúc trở về, ta sẽ thực sự lo lắng chuyện cất nhắc cho ngươi. Ngươi cũng chẳng phải ngồi dưới người khác lâu nữa đâu. 

 Thúc Bảo khấu đầu từ tạ ra về. 

 Thúc Bảo mở một tiệc lớn, mời khách xa, thêm Kiến Uy, Vạn Nhẫn, Cự Chân. Ba người này hết lời tạ ơn Tự Xương, họ không hiểu rằng, nếu không có Thúc Bảo, thì làm gì Tự Xương chịu xuất ra số bạc đó. Thúc Bảo lại nhờ Huyền Thúy viết luôn ba thư: một cái nhờ Tự Xương đem về cảm tạ Đường Công, một bức thư gửi Uất Trì Nam đem về trình La Tướng quân, cùng với lễ vậtTần phu nhân, và một thư gửi em con cô con cậu La Thành. Lúc này cả đám bạn bè, hào kiệt mới thư thái uống hết chén này đến chén khác, hết mâm này đến mâm khác, kể chuyện cũ, nói chuyện mới, vui nhộn, thoải mái hơn nhiều. 

 Cạn chén trăng gần lặn 

 Nghiêng bầu ráng đã hồng 

 Chuyện dài đêm quá vắn 

 Chim ríu rít ven rừng. 

 Mãi sáng ra, tiệc rượu vẫn chưa tàn, thì đã nghe ngoài cửa người ngựa huyên náo, chính là số năm trăm người ngựa được lệnh Lai Tổng quản kéo tới để cùng Thúc Bảo đến dinh Ma Đại tổng quản. Thúc Bảo nai nịt nhung phục, đứng trên thềm nhà gọi các thập trưởng, đội trưởng tới bên. Vừa đủ mười một đội trưởng, năm mươi thập trưởng, đội đội, hàng hàng đứng đầy sân. Điểm đủ quân số Thúc Bảo dõng dạc nói: 

 - Lai Tổng quản đã ra lệnh, sáng ngày mai sẽ lên đường. Các anh đã lĩnh lương thực lên đường, hãy về chuẩn bị hành trang chu đáo sáng mai chờ sẵn ở cửa tây để khởi hành. 

 Quân sĩ nghe xong nhất tề giải tán. Hùng Tín nói với Thúc Bảo: 

 - Ngày trước Hùng Tín này từng đã dặn hiền huynh: "Cầu vinh bất tại chu môn hạ", nếu hiền huynh nghe ra, thì đâu đến nỗi thế này. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - May mà có được Sài, Lý, nhị vị đại huynh nên chuyện họa thành chuyện phúc. 

 Huyền Thúy nói: 

 - Kẻ đại trượng phu, sự nghiệp chẳng biết thế nào mà lường trước được! 

 Ai nấy lại về Giả gia điếm lấy thêm lễ vật lại mừng Thúc Bảo. Thúc Bảo cũng đem lễ vật ra để gửi các bạn ra về, cả hai bên chẳng ai chịu nhận. Bá Đương nói: 

 - Thúc Bảo đại huynh mấy ngày vừa qua rất lo lắng, bận rộn. Chúng ta cũng chẳng nên ở mãi quấy rầy, để còn thu xếp hành trang lên đường, lại còn trò chuyện dặn dò bá mẫu cùng tẩu tẩu(1). Ngày mai sẽ ra cửa tây lên đường, chúng ta cũng ở gần đó, sáng mai cùng ra cáo biệt ở ngoài ấy là tiện nhất. 

 1 Tẩu tẩu: Vợ bạn, vợ anh. 

 Mọi người cùng cười rồi chia tay. 

 Thúc Bảo gói ghém đồ đạc, xếp đặt công việc nhà. Gọi Kiến Uy đến nhận số bạc phải bồi thường đem đi, mãi tới sáng mà công việc vẫn chưa xong. Đã thấy đội trưởng tới tận nhà đón mời ra chỗ tập trung, Thúc Bảo đốt vàng, thắp hương khấn vái, từ biệt Tần mẫu cùng Trương Thị, nai nịt gọn gàng, đội mũ lớn, khoác áo ngoài màu hồng có thêu hoa, thắt lưng nạm bạc óng ánh, cưỡi ngựa hoàng phiêu, tập hợp số năm mươi đội trưởng, thập trưởng ở sân nhà, rầm rộ kéo ra cửa, so với lúc mặc áo xanh, đội mũ nhỏ ở châu thì đã khác rồi. 

 Có bài thơ "Tập cổ thi” ghi lại cảnh này như sau: 

 Ngựa hí mừng vạn dặm 

 Gươm sáng chói trời xanh 

 Trượng phu trả nợ nước 

 Hơn hẳn đời thư sinh. 

 Ra cửa tây, đến bên cầu treo, hai bên người ngựa xếp thành hàng dài. Phía đầu phố là chùa Nghênh Ân, Thúc Bảo xuống ngựa, vào chùa. Sợ có kẻ không chịu đến tập trung, Thúc Bảo lấy danh sách, điểm danh từng người. Rồi lấy tiền của mình ra: Đội trưởng thì phát cho ba tiền, thế cũng mất tất cả năm sáu chục lạng bạc. Lại tuyển lấy hai mươi anh trai trẻ, khỏe mạnh làm gia đinh, theo bên để sai phái và cũng thưởng thêm tiền. Xong xuôi, trước tiên đến uống rượuiễn biệt với các bạn cùng làm kỳ bài quan dưới trướng Lai Tổng quán, ai nấy cùng cạn ba chén rượu rồi chia tay. Sau đó là đến bọn Đơn Hùng Tín, mỗi người cũng nâng đủ ba chén. Thúc Bảo nói: 

 - Ơn các bạn ở xa tới, nên hãy còn dịp được ra đi thế này. Chỉ vì có Huyền Thúy đại huynh nghĩ ra chuyện tới Lai Tổng quản, nên tiểu đệ sớm phải lên đường, không được hội ngộ lâu hơn cùng các bạn. 

 Lại nói với Tự Xương: 

 - Sài đại huynh, xin nhờ đại huynh lo liệu. Nếu công việc chưa xong với Lưu Thứ sử, tiểu đệ đi rồi chỉ sợ lại có việc khổ đến Kiến Uy chăng? 

 Tự Xương đáp: 

 - Tiểu đệ còn phải lấy giấy biên nhận cho được đã, xin đại huynh đừng lo. 

 Thúc Bảo lại nói với Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc: 

 - Xin nhờ nhị vị thưa lại với La tướng quân cùng Tần phu nhân, tiểu đệ việc công gấp rút, không thể đến tận U Châu tạ ơn được. 

 Lại nói với Bá Đương cùng mọi người khác: 

 - Chẳng mấy khi mà anh em hè bạn lại có thể tụ họp thế này, đáng nên phải trò chuyện lâu hơn nữa mới phải, không ngờ đã phải chia tay. 

 Rồi nhờ Nhuận Phủ, Kiến Uy. 

 - Mẫu thân tuổi cao, xin nhờ nhị vị chăm sóc thường xuyên cho. 

 Ai nấy chia tay, lên ngựa, súng nổ ba phát làm hiệu khởi hành. 

 Chính là: 

 Trông mặt cả cười 

 Chưa no con mắt, chưa vơi nỗi lòng 

 Cuối thu kia dải rừng phong 

 Lá rơi hay giọt lệ hồng chia phôi 

 Cầm tay không nói nên lời... 

 Thúc Bảo đi rồi, Tự Xương còn ở lại Tế Châu ngày hôm đó để thu xếp xong công việc tiền bạc, rồi cũng lên đường luôn. Nhuận Phủ sắp đủ lễ vật bày tiệc rượu tiễn hành chu đáo, Tự Xương lên đường đi Phần Dương. Anh em Uất Trì, Sử Đại Nại, cả ba người vì còn việc quan không dám lần lữa, nên theo đó Trương Công Cẩn, Bạch Hiển Đạo cũng cùng đi luôn về Ung Châu. Chỉ còn Lý Huyền Thúy, Đơn Hùng Tín, Kim Quốc Tuấn, Đổng Bội Chi cùng nhau một đoàn. 

 Không biết về sau thế nào, xin xem hồi sau sẽ rõ . 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Hai Mươi Sáu

Đậu tiểu thư cải dạng lánh quê người,

 Hứa thái giám một mình vào ổ cọp.

 Từ rằng: 

 Cỏ cây quê đầm đìa nước mắt 

 Não nùng thay một khúc Dương Quan 

 Chia tay luống những bàng hoàng 

 Thét roi đầu ngựa ruổi ngàn cây thưa 

 Tiếng sấm giật gió đưa lạ hoắc 

 Trước mặt sao gai góc đầu đường 

 Đêm nay, núi hẻm hang cùng 

 Mộng hồn lưởng vưởng tỉnh không mà về! 

 Theo điệu "Tích phân phi” 

 Người ta sinh ra trên đời, tất có lúc thịnh lúc suy, có khi tụ khi tan, gặp thời bình thì an cư lạc nghiệp, cùng nhau yên ổnChẳng may gặp phải lúc loạn li, nếu là kẻ sĩ có ít nhiều tài năng, trăn trở để xây dựng cho mình một công nghiệp, thì tránh sao khỏi lúc truân chuyên phiền não, may thì được sum họp một chỗ, chẳng may thì tan nát bốn phương, làm sao lại có thể yên phận "ôm cây đợi thỏ" (1) trong xó rừng, hoặc làm kẻ chết già trong góc cửa cho được. 

 1 “Hàn phi tử": Có người nước Tống đang cày ruộng, thấy một con thỏ chạy đâm đầu vào gốc cây mà chết. Anh ta bỏ cày, đến đợi bên gốc cây, mong nhặt được con thỏ khác, cũng đâm đầu như thế chăng! 

 *** 

 Lại nói trong số năm hào kiệt rời Tế Châu cuối cùng đó, thì Kim Quốc Tuấn, Đổng Bội Chi sợ ở công đường Lộ Châu có việc, nên cũng không thể ung dung thong thả, xin phép lên đường trước để về Lộ Châu. Đơn Hùng Tín, Vương Bá Đương, Lý Huyền Thúy, thân vô câu thúc, trong lòng cũng chẳng có sự gì phải lo lắng, gặp núi thời leo núi, gặp sông thời dong thuyền, nhởn nhơ dọc đường, mãi mới tới được địa phận Lâm Truy, Huyền Thúy nói: 

 - Đơn nhị ca, chúng ta gặp nhau lần này, rồi không biết đến bao giờ gặp gỡ. Ý cũng muốn đưa Nhị ca về tận Nhị Hiền trang, nhưng đi lâu ngày, sợ ở nhà có việc gì chăng, cũng xin được cáo biệt nhị ca ở đây. 

 Bá Đương cũng nói: 

 - Tiểu đệ xa nhà đã lâu, xin hẹn với nhị ca sang năm, không có chuyện gì vướng mắc, lại hẹn xin đến hầu nhị ca. 

 Hùng Tín lưu luyến không nỡ rời tay, bèn bàn: 

 - Hai vị nếu không thể về cùng Hùng Tín này, thì chẳng còn cách nào khác, nhưng xin hãy tìm một quán rượu nào đó, ta uống với nhau vài chén, rồi sẽ chia tay. 

 Bá Đương, Huyền Thúy tán đồng: 

 - Nhị ca nói đúng lắm! 

 Cả ba giật dây cương lao ngựa về phía trước, Hùng Tín đưa tay chỉ: 

 - Phía trước là dãy Báo Sơn, tương truyền là nơi hai bạn thân Quản Trọng cùng Bảo Thúc Nha thường hay chia tiền lời buôn chung ở đấy. Hùng Tín này với hai vị tuy không sánh được với người xưa về tình, nhưng về nghĩa vốn chẳng kém gì. Chúng ta hãy tìm đến đó uống mấy chén được chăng? 

 Bá Đương, Huyền Thúy bằng lòng: 

 - Hay lắm! 

 Cả ba nhìn xem, chỉ thấy: 

 Bãi dàn lưng núi 

 Lầu tiếp chân mây 

 Cây biếc um tùm, văng vẳng đâu nghe cọp thét 

 Liễu xanh mườn mượt, chập chờn thoáng thấy oanh bay 

 Phải chăng là: 

 Chèo bẻo đậu hè xúm xít 

 Kinh nghệ nhảy hề loay quay 

 Dưới chân Bảo Sơn có khoảng ba bốn chục nóc nhà trong đó có một quán rượu, lá cờ hiệu treo phấp phới trên cây ngay trước cửa. Cả ba xuống ngựa, vào trong quán, thì đã thấy ba con ngựa trong sân của khách đã buộc trước rồi, đang đứng nhai cỏ trong máng. Tiểu nhị vội ra mời khách vào gian phòng tranh chính giữa, rửa mặt, rửa tay. 

 Hùng Tín hỏi tiểu nhị: 

 - Ngựa thì ngoài kia, còn mấy vị khách đến trước đâu cả rồi tiểu nhị? 

 Tiểu nhị giơ tay chỉ: 

 - Đang ngồi uống rượu ở gian bên trái sạch sẽ kia, thưa quý khách! 

 Hùng Tín đang định chào hỏi, thì thấy cửa sổ của gian bên trái ló ra một cái đầu, nhìn ngang ngửa. Bá Đương trông thấy liền cười xòa: 

 - Thì ra là Lý hiền đệ đang ở đây sao? 

 Lý Như Khuê vội vã: 

 - Xin mời chư huynh ra cửa, đại huynh Bá Đương vừa đến kia. 

 Tề Quốc Viễn cùng mọi người ra, bái chào xong xuôi. Bá Đương hỏi: 

 - Hai vị có việc gì mà lại tới đây? 

 Như Khuê đáp: 

 - Chuyện dài lắm. Ở trong phòng có một vị nữa, để tiểu đệ vào mời ra đây rồi cùng nói chuyện một thể. 

 Rồi chạy vào trước cửa phòng lớn tiếng: 

 - Xin mời Đậu đại ca ra ngoài này. Có đại ca Đơn Hùng Tín ở Lộ Châu mới tới. 

 Dứt lời thì thấy một người đàn ông cao lớn, đàng hoàng bước ra. 

 Như Khuê giới thiệu: 

 - Đây là đại huynh Đậu Kiến Đức ở Bội Châu. 

 Hùng Tín đáp lời: 

 - Năm ngoái đại huynh Lưu Hắc Thất có đến tiểu trang trại Hùng Tín này có được Lưu huynh nói nghe danh Đậu huynh, vốn người hào hùng, nghĩa hiệp, nay được gặp ở đây, thật là thỏa ước nguyện bình sinh. 

 Hùng Tín sai bày tiệc rượu, rồi cả sáu người ngồi vào hàn huyên. Bá Đương nói với Như Khuê, Quốc Viễn: 

 - Hai vị sống ở Thiếu Hoa Sơn sung sướng tự tại vậy, sao lại bỏ đi thế này? 

 Như Khuê đáp: 

 - Sau khi từ biệt các vị, tiểu đệ đi Thanh Hà thăm một người bạn thân thì bị Lư Minh Nguyệt chiếm mất sơn trại. Quốc Viễn một mình đánh y không được đành phải bỏ đi, chuyển sang Đào Hoa Sơn rồi cho lâu la chạy đi Thanh Hà báo cho tiểu đệ biết, mãi đến hôm trước đây, tiểu đệ mới quay về. Quốc Viễn đã được tin từ Đơn nhị ca, về chuyện đi Tế Châu mừng lễ sinh nhật Tần mẫu, Đậu đại ca cũng mộ tiếng Thúc Bảo cùng các vị, nói chuyện này ở Đào Hoa Sơn, Đậu đại ca đang cần đi Tế Châu thăm người nhà, vừa là tìm làm quen với các vị vì vậy cùng lên đường. Chẳng hay ba vị đây đã đi dự sinh nhật về, hay là mới lên đường đi? 

 Huyền Thúy đáp: 

 - Thúc Bảo đại huynh hiện không có nhà, có công vụ phái đi cách đây mấy ngày rồi. 

 Quốc Viễn hỏi: 

 - Tần đại huynh hiện đi đâu? 

 Hùng Tín đáp: 

 - Chuyện dài lắm! 

 Thấy tiệc đã dọn xong, Hùng Tín tiếp: 

 - Chúng ta hãy cùng uống rượu, rồi Hùng Tín này sẽ kể cho các vì nghe! 

 Mọi người ngồi vào bàn, uống rượu dăm chén, Như Khuê lại hỏi: 

 - Tần đại huynh đi công vụ ở đâu? 

 Bá Đương ngừng chén, đem chuyện hào kiệt chuẩn bị lễ mừng như thế nào, đi Tế Châu ra sao, ở hàng Nhuận Phủ như thế nào, Giảo Kim tự nhận, Thúc Bảo đốt trát, kể ra một lượt. Quốc Viễn khoái quá vỗ tay tán thưởng, dậm chân, đập bàn mà hét. Như Khuê nói: 

 - Như Thúc Bảo, như Giảo Kim mới thật là anh hùng, thật là hào kiệt trong thiên hạ mà không kết giao được với hai người này, thì cũng chưa đáng bậc trượng phu. Nhưng rồi chuyện ra sao nữa? 

 Bá Đương lại kể tiếp chuyện Huyền Thúy đến gặp Lai Tổng quản, Tự Xương đến gặp Lưu Thứ sử, rồi chuyện ba nghìn lạng bạc của Đường Công tặng Thúc Bảo thế nào kể hết một lượt. Kể xong, chỉ thấy Đậu Kiến Đức đập bàn than: 

 - Quốc gia mà còn những loại tham quan như Thứ sử họ Lưu này, thì anh em chúng ta phải giết cho bằng hết! 

 Như Khuê nói thêm: 

 - Lại động đến tâm sự của Đậu đại ca rồi đó! 

 Huyền Thúy lại hỏi: 

 - Đậu đại huynh có tâm sự ta sao. Xin được cho nghe. 

 Đậu Kiến Đức đáp: 

 - Tiểu đệ vốn quê ở Bội Châu, cũng có một ít sản nghiệp. Khi hai thân qua đời, tiểu đệ tính tình thô bạo, phóng túng, chẳng chăm lo gì tới sản nghiệp, với khoảng hai ba nghìn lạng vàng, mà chỉ nghĩ tới chuyện ăn chơi. Năm qua chuyết thê chẳng may qua đời. Cuối thu, tiểu đệ đi Hà Giang thăm người quen, chẳng ngờ bọn triều đình sai bọn hoạn quan đi tuyển cung nữ, trong phủ có gia thuộc một viên quan này, nên những thiếu nữ trong phủ đều được bọn chúng sắp sẵn làm ba hạng: thượng, trung, hạ. Tiểu nữ của tiểu đệ đây, tên Tuyến Nương, tuổi mới mười ba, tài sắc kiêm toàn, lại thích đọc binh thư thao lược, trong khuê phòng mà chỉ lo luyện kiếm, đường kiếm mỗi lần vung lên thì chẳng khác gì rồng cuốn. Tiểu đệ chỉ có mỗi một mình cháu, quý ngang châu ngọc. Bọn này nghe tiếng, biết chưa thành gia thất, lập tức xếp vào loại thượng đẳng. Tiểu nữ biết chuyện, lập tức bán bớt ruộng vườn, lấy một hai trăm lạng vàng, nhờ người chạy cho thoát. Khốn thay bọn châu quan cùng bọn hoạn quan nhất định không chịu. Tiểu nữ thấy thế, bán hết gia sản, chiêu tập bọn người lang thang, không nhà, định cùng đối chọi một mất một còn với quan quân. May mà trong nhà còn chị dâu góa cùng đứa cháu trai ngăn cản kịp. Tiểu đệ nghe tin vội về, tốn hết hơn một nghìn lạng vàng, mọi chuyện mới yên ổn, cháu mới được tha. Nhưng vẫn lo sinh chuyện lôi thôi, nên phải đưa cháu cùng chị đâu tránh khỏi châu nhà, tạm ở nhà người thân là Trương Thiện Sĩ ở vùng Giới Hưu. Nhân trên đường đi gặp hai vị Tề, Lý, vì vậy cùng đi cho vui vẻ hơn chăng. 

 Hùng Tín nói: 

 - Hiện nay Thúc Bảo không có nhà, mà cả ba vị đều đang lang thang vô định, chi bằng tới tiểu trang trại của Hùng Tín này ta cùng nhau uống rượu vài ngày cho thư thái, các vị nghĩ sao? 

 Lại quay lại nói với Huyền Thúy, Bá Đương: 

 - Ý cũng muốn để hai vị về quê, nhưng nay gặp ba bạn mới ở đây, hai vị hãy theo tiếp khách với Hùng Tín này, ta cùng nhau trò chuyện vài ngày. 

 Bá Đương, Huyền Thúy không tiện chối từ, nên cũng đành theo Hùng Tín và mọi người về Nhị Hiền trang. Quốc Viễn mừng rỡ nói: 

 - Tất cả mọi người cùng đi mới vui, tiểu đệ đang muốn đến Nhị Hiền trang ra mắt Đơn nhị ca, để còn đi lại nhiều về sau. 

 Như Khuê nói: 

 - Nếu như thế thì xin được ăn no để còn lên đường. 

 Ăn xong, Hùng Tín gọi tiểu nhị trả tiền, không quên cả suất cơm rượu mà ba người bạn mới đã ăn từ trước. 

 Mọi người ra khỏi quán rượu, nhảy lên ngựa, ra roi phóng thẳng, đi được mấy dặm, thấy quanh vách núi ven đường, có một ông già, nằm co, gối đầu lên tay mà ngủ, vứt cả khăn gói bên cạnh. Kiến Đức trông thấy, có vẻ giống người đầy tớ già Đậu Thành của mình, bèn nhảy xuống ngựa, lại gần nhìn kỹ, thì đúng là Đậu Thành. Kiến Đức vừa ngạc nhiên, vừa sợ hãi, gọi lớn: 

 - Đậu Thành, sao lão lại ở đây? 

 Ông già tỉnh dậy chùi mắt nhìn, nhận ra chủ nhân, bèn thưa: 

 - Tạ ơn trời đất phù hộ cho chủ nhân. Chủ nhân vừa ra khỏi nhà, thì trong châu đã ầm lên rằng vì không kiếm ra được thiếu nữ đẹp xinh để tiến cung, thấy nhà ta bỏ trốn cả, quan châu ra lệnh truy bắt. Tiểu thư biết có tin không lành, nên sai tiểu nhân đi tìm chủ nhân về. 

 Lúc này cả năm người đều đã xuống ngựa, đứng cạnh đường. Kiến Đức cầm tay Hùng Tín mà rằng: 

 - Ơn nhị ca thương đến, không ỏ kẻ hoạn nạn này, đáng phải theo các vị đây về bái chào ở Nhị Hiền trang mới phải. Nhưng tiểu đệ bây giờ, lòng như tơ vò phải trở về ngay, xem chuyện tiểu thư ra sao. Sau này có dịp, sẽ xin đến hầu nhị ca. 

 - Vừa mới quen nhau, đã lại nói xa. Núi xưa có thiêng sao vẫn lặng lẽ nhìn? 

 Hùng Tín tiếp: 

 - Đây là việc cần kíp của đại huynh. Hùng Tín không dám ngăn trở. Nhưng xin có lời với đại huynh thế này: Triều Tùy tuy dâm ác vô cùng, quyền gian tác quái, nhưng bốn phương nghĩa binh chưa dậy, còn phái nhẫn nại chờ thời đã. Đây chính là lúc tránh loạn vậy. Nếu như vùng Giới Hưu không thể an thân, tốt hơn cả là đại huynh nên mang lệnh ái đến tiểu trang trại, ở cùng với tiểu nữ Hùng Tín này cho vui vẻ, thì chẳng còn chuyện gì phải lo nghĩ cả. Đại huynh có việc bận rộn phải đi xa thì có chuyết thê Hùng Tín này lo liệu rồi. 

 Quốc Viễn tán thưởng: 

 - Đơn nhị ca không phải là người nói cho vui miệng, dù cho hoàng đế nhà Tùy có đến tận cửa Nhị Hiền trang để đòi thì nhị ca cũng nhất nhất không giao nạp đâu? 

 Bá Đương thêm vào: 

 - Đậu đại ca, lời Đơn nhị ca là lời gan ruột, đại ca nên tức tốc về ngay Giới Hưu là tốt hơn cả! 

 Hùng Tín lại nói với Bá Đương, Huyền Thúy: 

 - Bạn bè bốn biển, chỉ cần thêm một bái là đã thành cốt nhục rồi. Hùng Tín phiền hai vị đi đường vòng một chút, cùng với Đậu Đại ca đi Giới Hưu. Hai vị tài cán mẫn tiệp, hơn hẳn sự thô lỗ của Hùng Tín này, xin xem sự thể thế nào, chúng ta cũng mới yên tâm cho được. 

 Rồi bảo bọn đầy tớ: 

 - Số tiền đi đường lâu này, mang lại đây cho ta. 

 Bọn đầy tớ vội mở khăn gói đưa trình Hùng Tín xem còn ít nhiều ra sao, rồi chia đôi cho Bá Đương: 

 - Đây có năm mươi lạng bạc, hiền huynh cầm lấy. Ba vị hãy đi Giới Hưu. Nếu thấy Đậu Tiểu thư có thể ở lại an toàn, thì cứ ở lại Giới Hưu, bằng không thì xin cứ đưa ngay về tiểu trang trại Hùng Tín này. 

 Mọi người bằng lòng. Kiến Đức cảm tạ Hùng Tín. Như Khuê, Quốc Viễn, rồi cùng Bá Đương, Huyền Thúy lên ngựa đi trước. 

 Chính là: 

 Vui bạn bè thắm thiết 

 Lo cốt nhục hằn thù 

 Cũng bởi câu nghĩa khí 

 Khác thói đời phù du. 

 Hùng Tín thấy ba người đã đi khuất, nói với Như Khuê, Quốc Viễn: 

 - Giờ thì chẳng còn việc gì phải vội, xin mời hai vị đến vui tiệc rượu với Hùng Tín này ở tiểu trang trại vậy! 

 Như Khuê đáp: 

 - Chúng tôi bỏ bọn trẻ ranh một mình ở Đào Hoa sơn quả không an tâm, chi bằng chúng ta chia tay nhau, xin đợi lần khác gặp gỡ vậy. 

 Hùng Tín thấy nói thế, cũng không muốn nài thêm bèn chia tay, quay ngựa về Lộ Châu. 

 Quốc Viễn trên lưng ngựa nói với Như Khuê: 

 - Vừa rồi hai chúng ta cùng Đậu đại ca tới đây, không ngờ Đơn nhị ca lại chọn hai người kia đi với Đậu đại ca, có lẽ sợ chúng ta là người thô lỗ, làm hỏng mọi việc chăng? 

 Như Khuê đáp: 

 - Tiểu đệ cũng nghĩ như vậy. Hai chúng ta dẫu có thô lỗ đi chăng nữa cũng còn được việc không chừng. Chúng ta hãy về sơn trại sắp xếp công việc rồi cùng đi Giới Hưu nghe xem tin tức Đậu tiểu thư ra sao, nếu ba người kia làm không nên chuyện, mà chúng ta lại lo liệu được để cho Đơn nhị ca sáng mắt ra, thấy rõ bọn Quốc Viễn, Như Khuê này không phải loại người đốt nhà, giết người, mà chính là kẻ được việc. 

 Hai người trên ngựa chuyện trò, đi cả ngày lẫn đêm về sơn trại, lo liệu công việc xong xuôi rồi cùng với ba tên lâu la, tìm đường tắt đi về Giới Hưu. 

 *** 

 Nguyên là Đậu tiểu thư thấy sự thể không ổn, sau khi Đậu Thành ra đi được ba ngày, tự mình cũng cải dạng nam trang, cùng với mẹ con bác gái, trốn khỏi Giới Hưu. May sao giữa đường gặp được phụ thân. Kiến Đức mừng rỡ. Bá Đương cùng Huyền Thúy đều khuyên Kiến Đức đưa tất cả về Nhị Hiến trang. 

 Lại nói Như Khuê, Quốc Viễn vừa tới Giới Hưu, lượn quanh ở ngoài cửa thành tìm chỗ nghỉ. Ngày hôm sau vào thành nghe ngóng, chẳng thấy cả Bá Đương lẫn Huyền Thúy đâu cả, cũng chẳng biết Trương Thiện Sĩ ở chỗ nào, chạy đông lại chạy tây nghe trong ngõ ngoài phố, người người thì thầm bàn tán, đều nói chuyện một nhà nào đó, đã mất đến hàng nghìn lạng hạc, nhà khác mất trăm lạng, tới nhà họ Hạ ở Hà Tây, chỉ toàn con gái, mất cả gia cơ điền sản, mới được năm trăm lạng vàng. mà bọn hoạn quan vẫn không chịu nhận cho, tên con gái vẫn phải ghi trong sổ tiến cung mà thôi! Hai người đi vào một ngõ hẻm, sẵn đang mệt mỏi, liền vào một quán rượu ngồi nghỉ. Thấy có hai người đầy tớ già, cũng vào quán ngồi, gõ mặt bàn ra hiệu đòi rượu, miệng thì kể: 

 - Thật là cái đời ôn dịch, chẳng báo giờ có những chuyện như thế này. Vịn vào mấy cái thánh chỉ, làm khổ từ nhà giàu cho đến kẻ nghèo đâu đâu cũng thấy cảnh khóc lóc, van xin, ngày đêm không lúc nào yên cho. 

 Người kia tiếp: 

 - Sổ sách giờ đã cố định rồi. Khá tiếc cho mấy nhà chạy mãi mà vẫn không thoát. Chỉ đáng căm bọn hoạn quan bẩn thỉu, chẳng bao giờ có vợ con cả, thì không hiểu chúng lấy vàng bạc làm gì nhỉ? 

 Như Khuê hỏi: 

 - Xin hỏi hai bác. Giờ đây sứ giả nhà vua đang ở đâu? 

 Một ông già đáp: 

 - Vừa mới ở đây, giờ sang châu Vĩnh Ninh rồi! 

 Như Khuê thấy nói thế, cúi đầu nghĩ ngợi, rồi kéo Quốc Viễn dậy, trả tiền rượu, ra khỏi quán về ngoài thành gọi lâu la thu lượm hành lý lên đường ngay. Quốc Viễn hỏi: 

 - Chưa biết Đậu đại ca tình trạng ra sao, sao lại đã lên đường? 

 Như Khuê đáp: 

 - Cũng chẳng biết Đậu đại ca ở đâu mà tìm, nay tiểu đệ vừa nghĩ ra một việc hay lắm. Hiền đệ cứ đi theo sẽ biết. 

 Rồi ghé tai Quốc Viễn khẽ nói: 

 - Cứ như thế. . như thế... mà làm. Thế có xung ý không nào? 

 Nay hiền đệ mang theo mấy tên lâu la này, theo đường nhỏ phía tây núi mà xuyên qua huyện Ninh Hương, đến vùng Thạch Lâu có một khu gọi là Thanh Hư các, bọn chúng nhất định nghỉ ngơi ở đấy. Hiền đệ cứ theo dõi cho sát đừng để lộ mình. Tiểu đệ ngày đêm vào ngay sơn trại tuyển mấy lâu la được việc, đem theo một ít đồ đạc cần thiết tới Thạch Lâu, cách Thanh Hư khoảng mười dặm gặp hiền đệ rồi sẽ khởi sự. 

 Nói xong tất cả đều lên ngựa, đến ngã ba trước mặt mỗi người mỗi đường. 

 Chính là: 

 Chưa bằng Gia Cát mưu thần 

 Cũng đáng Long Trung mẹo thánh. (1) 

 *** 

 Lại nói khâm sai chánh sứ Hứa Đình Phụ rời khỏi Giới Hưu, binh lính cờ gióng trống đánh đến châu Vĩnh Ninh. Họ Hứa ngồi xe bịt kín, có mười mấy thổ binh theo hầu, lại thêm mười tên quan binh đi theo bảo vệ, trên đường đi rất chậm, đã hai ngày trên đường, sang tới giờ tý ngày hôm nay vẫn còn cách địa giới Vĩnh Ninh năm mươi dặm, cách Thanh Hư các ba mươi dặm, nhìn chung quanh chỉ thấy: 

 Gió lồng dậy đất 

 Mây kéo đen trời 

 Núi rừng đá lở, ầm ĩ cọp thét rồng ngâm 

 Cây đổ cát bay, nhôn nháo vượn kêu thỏ chạy 

 Hốt hoảng hát bài "Hành lộ nan " 

 Đành để gió Thạch Vưu (2) múa nhảy. 

 1 Gia Cát, tự Khổng Minh, người đất Tùng Dương đời Tam Quốc, ở ẩn ở Long Trung, ra làm quân sư cho Lưu Bị, nổi tiếng là nhà quân sự, chính trị tài giỏi của Trung Hoa cổ xưa (Tam Quốc diễn nghĩa). 

 2 Gió Thạch Vưu: vợ họ Thạch, chồng họ Vưu. Chồng tham lời bỏ đi buôn xa. Vợ can không được, ở nhà buồn, ốm sắp chết, thề rằng: “Ta sẽ hóa thành gió, cản thuyền của bọn lái buôn. Cho vợ chồng khác được sum họp" (Từ Hải) 

 Một khách đi đường, gặp phải trận cuồng phong bạo vũ này, khắp người ướt sạch, rét lạnh thấu xương, chạy vào Thanh Hư các trú nhờ, nhưng vì cửa đóng, không tài nào vào được. Nguyên do là Thanh Hư các này có tới ba tầng cửa. Phía trên cùng là ba gian các nhỏ, ngoài là ba gian hiên rộng. Sau nữa là một nhà sư già ở trong một nhà nhỏ riêng để trông coi. Lúc này sứ giả của nhà vua đang nghỉ ngơi trên các, còn bọn người tùy tùng thì vừa cởi quần áo ướt, đang đốt lửa sưởi. Trong sân mấy chiếc xe nhỏ, lính tráng của châu xúm quanh, bưng thịt lợn quay, thịt dê nướng, gà, ngỗng, các món nấu khác bánh bao các loại, bày ra mười mấy mâm. Mâm sang nhất được dành riêng cho chánh sứ khâm sai. Các vò rượu lớn cũng được bày cạnh mỗi mâm. Một viên quan tay cầm tờ thiếp, thưa với bọn lính trong đội tùy tùng: 

 - Tiểu nhân là dịch thừa các trạm này, lo cả việc đi lại cho quan lại châu Vĩnh Ninh, được lệnh đem tiệc rượu đến để đón tiếp Khâm sai đại nhân. 

 Bọn này nghe ra, cửa mở ngay, dẫn viên dịch thừa lên gặp quan khâm sai. Dịch thừa quỳ xuống trình: 

 - Tiểu quan là dịch thừa Giả Văn của châu Vĩnh Ninh xin ra mắt khâm sai đại nhân. 

 Rồi nâng lễ vật lên trình quan xem xét. Hứa Đình Phủ lên tiếng: 

 - Cho đứng dậy! 

 Lại hỏi: 

 - Từ đây đến châu, đường xa gần ra sao? 

 Dịch thừa thưa: 

 - Dạ thưa Khâm sai đại nhân, còn bốn mươi lăm dặm nữa. Quan lớn chúng con sợ đại nhân đi đường mệt mỏi, nên phái chúng con ra đón ngài ngoài đây để được ngài sai phái. 

 Rồi sai tay chân bưng các thứ đặt lên bàn, khiêng lại gần giường nằm của quan lớn Khâm sai, Đình Phủ lại truyền: 

 - Hãy đem đồ ăn thức nhắm ra ngoài kia, các ngươi cùng đội lính cho phép ăn uống no say. 

 Mọi người nghe quan lớn truyền, liền xuống các, thấy hai tiểu nội giám đứng hầu sau quan lớn, dịch thừa thưa: 

 - Xin mời hai vị xuống dưới này uống vài chén rượu, hạ quan này xin hầu hạ tận tình. 

 Hai tên nội giám nghe thấy thế cũng theo xuống. 

 Đang ăn uống say sưa, bỗng thấy một người cao lớn bưng một bình rượu đã được hâm nóng, đưa mắt ra hiệu, dịch thừa cầm lấy bình rượu rót ra một chén đầy, bưng lên các, quỳ trước mặt Hứa Đình Phủ thưa: 

 - Trình đại nhân, ở bên ngoài gió gào mưa trút, xin đại nhân cạn chén rượu nóng cho ấm lòng. 

 Đình Phủ khen: 

 - Viên quan dịch thừa này được việc lắm, mai kia bản chức về kinh, sẽ tâu với triều đình, thăng ngươi lên làm quan châu. 

 Dịch thừa cúi thưa: 

 - Xin đa tạ ơn trời biển của đại nhân! 

 Đang thưa trình, thì đã thấy Đình Phủ dốc cạn chén rượu lớn, rồi lắc lư, lắc lư ngã lăn quay ra. Thì ra viên dịch thừa chính là Như Khuê giả trang, Quốc Viễn thì cai quản bọn thủ hạ ở bên dưới, chờ đúng lúc trên các Như Khuê hành sự, dưới này Quốc Viễn cũng dốc rượu trong bình nóng, mỗi một tên lính trong đội bảo vệ cùng hai nội giám, mỗi đứa một chén, cả bọn cùng ngã lăn. Như Khuê gọi bọn lâu la, khiêng Đình Phủ xuống các, cùng với hai nội giám vào một chỗ, rồi trói Đình Phủ vào trong kiệu, hai nội giám thì chất lên lưng ngựa, các thứ khác không thèm đụng đến, cả bọn lên ngựa, đang đêm kéo về sơn trại. 

 Hứa Đình Phủ ở trong kiệu, bị thuốc mê mãi tới gần sáng mới tỉnh lại, thấy hai tay bị trói chặt, thân mình cũng bị quấn bằng dây lớn với kiệu, không thể nào cựa quậy gì được, sợ quá, vội la lớn không thành tiếng: 

 - Sao lại có chuyện lạ lùng thế này, đứa nào dám đem chúng ta ra làm trò đùa thế này. 

 Nhưng bây giờ đã vào giữa rừng núi, dù quan lớn có la hét thế nào nữa, cũng chẳng thấy ai nhòm ngó. Phương đông bắt đầu rạng, mọi người vén rèm, khiêng Đình Phủ ra. Đình Phủ nhìn quanh, thì thấy hai viên tiểu nội giám theo mình, cũng còn bị trói, đang đứng bên cạnh. Cả ba nhìn nhau mặt sắt lại, nhưng cũng không dám nói với nhau một lời nào. 

 Chỉ nghe ba tiếng pháo lớn, thấy khoảng ba bốn chục lâu la, kéo Đình Phủ cùng hai viên tiểu nội giám tiến vào sơn trại. Nhìn lên thấy thương đao san sát, sát khí đằng đằng, chính giữa ba gian thảo đường, bày hai ghế dựa trên có trải da hổ. Như Khuê đã vứt bỏ bộ quần áo quan viên, mà mặc một bộ đồ chiến bào màu hồng, ngồi chễm chệ bên trên. 

 Đình Phủ ngước mắt nhìn lên, nhận ra viên dịch thừa ngày hôm qua, hồn bay phách lạc, Đình Phủ quỳ lạy xuống. 

 Như Khuê lớn tiếng quát: 

 - Cái đồ chó thiến kia! Triều đình sai ngươi đi tìm gái đẹp, dù là có khâm lệnh của hoàng đế, thì cũng phải nghĩ tới dân tình, vì sao chỗ thì đòi nghìn lạng, chỗ thì trăm lạng, để đến nỗi nơi xa nơi gần nhà giàu, nhà nghèo đến nhà cửa tan nát, họ hàng lìa tan? 

 Đình Phủ thưa: 

 - Trình đại vương, chuyện nhũng nhiễu trăm họ này, là chuyện bọn nha quan ở phủ huyện, mượn gió bẻ măng, còn chúng tôi dây chẳng được dính dáng gì đến một đồng, một lạng nào cả. 

 Như Khuê nạt lớn: 

 - Cái thứ phân rác kia! Ta đã đi khắp nơi, nghe ngóng đầy đủ xác thực, mà mày lại còn già mồm cãi sao. Các con đâu! Hãy đem con chó thiến này cho mấy búa vào đầu cho ta. Còn hãy để hai con gà trống thiến kia lại cho ta, còn có việc cần! 

 Đình Phủ nghe tiếng khóc lóc thảm thiết, van xin tha chết. Lại thấy lâu la vào trình: 

 - Bẩm đại vương! Nhị đại vương đã về! 

 Thì ra Quốc Viễn sau khi giải Đình Phủ về trại, sợ bọn lính tỉnh dậy truy tìm, nên cầm đầu một toán lâu la, mai phục giữa đường rất lâu không thấy gì mới rút cả về sơn trại, thấy các bác quan viên đang quỳ mͰ dưới thềm liền lên tiếng: 

 - Lý đại ca sao lại giở chuyện đùa nghịch thế này, mai kia mà triều đình chiêu an, chúng ta sẽ bị đánh nát đít mất thôi! 

 Như Khuê cười đáp: 

 - Hôm qua ở Thanh Hư các, ta cũng phải quỳ hầu nó mãi, lại còn phải dâng rượu mời nó. Hôm nay hãy đùa lại một phen, rồi sẽ bàn chuyện đứng đắn sau. 

 Rồi hai người cúi xuống cởi trói cho cả ba, lại đưa vào thảo đường mời ngồi cẩn thận, rồi Như Khuê làm ra vẻ hối hận. 

 - Thật có lỗi, thật có lỗi quá! 

 Sai lâu la: 

 - Mau mau bày tiệc rượu, đề ngài khâm sai uống cho đỡ cơn run sợ. 

 Bọn lâu la rối rít bày tiệc rượu, ba người cùng ngồi vào bàn. Đình Phủ lên tiếng: 

 - Hai vị hảo hán có điều chi dạy bảo, mà lại đưa chúng tôi về núi như thế này? 

 Như Khuê đáp: 

 - Có ngài Khâm sai ở trên, hai anh em chúng tôi hùng cứ đã hàng năm ở núi này, đốt nhà cướp của, các phủ huyện lân cận kể đã nhiều phen nhiễu nhương bách tính. Khắp nơi chúng tôi cũng lắm anh em, nên khách thương cũng chẳng còn dám lại qua. Vì vậy sơn trại lương thực thiếu thốn, cho nên muốn vay tạm ngài khâm sai khoảng một vạn lạng vàng, để có thể dư dật về lương thảo. Xin ngài khâm sai chớ chối từ. 

 Đình Phủ đáp: 

 - Bọn chúng tôi phụng chiếu rời đô, chứ không phải khách buôn để mang theo vàng bạc nhiều đến thể. Nếu được các châu quận quà cáp ít nhiều, thì cũng chỉ có hạn. nếu các vị hảo hán bằng lòng với cỡ trăm lạng, nghìn lạng thì còn khả dĩ xin dâng tặng được. 

 Quốc Viễn nghe thế, mắt long sòng sọc nạt lớn: 

 - Ngài khâm sai, ta nói thực cho mà biết: nếu ngài mang đủ một vạn lạng tới đây, thì chỉ trong nháy mắt, chúng ta nhìn thấy tiền rồi, sẽ thả ngài ra ngay. Còn chỉ cần nói nửa câu không có, là cái đầu kia sẽ không còn trên cổ nữa đâu. 

 Nói xong, rút ngay bên hông một thanh bảo kiếm sáng loáng, vứt lên mặt bàn. Như Khuê tiếp lời: 

 - Xin ngài khâm sai đừng sợ, ngài hãy ra bàn chuyện này với hai viên tiểu nội giám kia thì hơn. 

 Đình Phủ đứng dậy, cùng với hai viên nội giám ra phía thềm bán nguyệt đài. Trong số hai nội giám, thì một tên nước mắt ngắn dài, một lời cũng không thốt ra được, một tên còn có gan hơn ít nhiều thì bàn: 

 - Lúc này khóc lóc cũng chẳng ích gì, bọn cường đạo này chỉ cần tiền bạc, nếu khâm sai bằng lòng đưa chuộc mạng, thì cả ba sẽ yên ổn trở về. Còn như chúng không được thỏa nguyện, thì đừng nói cái đầu mà ngay cả đến nắm xương tàn cũng chẳng ai biết mà thu nhặt. Bọn người này đều là loại giết người không nháy mắt, chẳng có lý gì chúng tha không bọn ta đâu. 

 Đình Phủ nghe những lời này, nhìn lại hai tên tay chân một lần nữa, rồi nói: 

 - Nếu đã như thế, ta sẽ quay vào nói với bọn chúng, cho các anh về châu thông báo, xem bọn quan lại dưới ấy bàn bạc thế nào, thì đành phải lấy ở số bạc ta gửi ở kho các phủ huyện vậy thôi. 

 Nói rồi lại quay vào. Như Khuê sai lâu la dọn cơm rượu cho viên nội giám có gan hơn ăn, lại sai lấy một đỉnh bạc thưởng cho làm tiền lộ phí, rồi hỏi: 

 - Anh tên họ là gì? 

 Viên nội giám thưa: 

 - Thưa đại vương, tên tiều nhân là Chu Đồng! 

 Như Khuê tiếp: 

 - Được rồi! Đỉnh bạc này cho anh làm tiền đi đường. Hạn cho anh năm ngày, đem tiền đến đây mà chuộc ngài khâm sai. Nếu năm ngày mà vẫn không thấy lại thì hai thầy trò ở đây, đừng nghĩ đến chuyện sống. 

 Rồi sai thủ hạ đem con ngựa mà y đã bị buộc ở trên lưng để đến sơn trại để y cưỡi về, cho hai lâu la đưa xuống núi. Còn Đình Phủ cùng tên kia đem giam vào một phòng kín. Đưa rượu ngon, thịt béo vào tận nơi. 

 *** 

 Lại nói nội giám Chu Đồng, cưỡi ngựa về đến Thanh Hư các, thì thấy các cửa khóa kín, không một bóng người, đành phải tìm đường về tận châu lỵ. 

 Bọn quan nha nghe báo có chuyện cường đạo bắt mất chánh sứ khâm sai, thì vô cùng hoảng hốt, liền phi ngựa như bay đến Thanh Hư các khám xét hiện trường. Bắt từ nhà sư, thổ binh, cùng đội lính bảo vệ phủ đường. Đưa công văn đi Phần Châu, quan chủ Phần Châu vội vàng không kể ngày đêm đến Vĩnh Ninh. Lúc này quan nha Vĩnh Ninh đang xét hỏi nhà sư, thổ binh, đội lính bảo vệ, cùng các nhân chứng ở địa phương Thanh Hư các, thì thấy Chu Đồng trở về. Tất cả bọn quan lại đều xúm lại hỏi tình hình. Nội giám Chu Đồng bèn đem chuyện ở Đào Hoa Sơn đầu đuôi thế nào kể hết một lượt. Quan nha nghe xong, ai nấy mặt mày xám như bùn, ngây như tượng gỗ, cho nhà sư cùng bọn nhân chứng về, tất cả ngồi bàn kế sách đối phó. Có kẻ bàn rằng: 

 - Việc này phải đưa công văn trình ngay lên quan trên, xin động binh tiễu trừ bằng được. 

 Lại có kẻ cãi: 

 - Lũ này chỉ đòi tiền thôi. 

 Kẻ khác lại giảng giải: 

 - Nếu chúng đòi năm trăm đưa năm trăm, đòi một nghìn đưa một nghìn, đòi hai nghìn đưa hai nghìn, thì lấy đâu ra bạc cho đủ. Chi bằng hãy chờ xem một vài ngày thấy chúng ta không chịu đưa bạc tới, chúng làm gì được hai vị của chúng ta nào. Rồi cũng đến phải tha xuống núi mà thôi! 

 Phần Châu Thứ sử nói: 

 - Không có thể nói liều được, quan chánh sứ khâm sai là sủng thần của triều đình, nếu chẳng may có chuyện tổn thất gì ở địa phận chúng ta, đừng nói đến chuyện cách chức hỏi tội, mà đến tính mạng họ hàng gia quyến của mỗi chúng ta cũng chẳng có gì chắc chắn, đâu chỉ có chuyện giáng cấp, phạt bổng thôi đâu. Chi bằng vay tạm trong kho khoảng vài nghìn lạng đem đi, chuộc quan khâm sai về, để mau chóng dẹp cho yên cái chuyện rầy rà này đi. 

 Thế là mọi người cứ theo các kho mà chia lấy hai nghìn lạng vàng, cho người đi cùng với Chu Đồng, mang tới Đào Hoa Sơn. Lý Như Khuê, Tề Quốc Viễn nhất định không chịu. Hứa Đình Phủ đành phải xuất của mình ra ba nghìn lạng nữa, ba bốn lần van xin, Lý, Tề mới cho xuống núi. Từ đó Hứa Đình Phủ hễ xuống châu quận nào, đều phải lo trước việc nai nịt gọn gàng, tiền hô hậu ủng. Nhưng rồi vẫn cố kiếm thêm nhiều vàng bạc, bằng muôn phương nghìn kế. Thế cũng mới thấy bọn cường đạo ở trên đời này, mà có được nghĩa khí như vậy cũng không phải không có. 

 Ai rằng núi rừng mới có hùm beo 

 Ở đây vườn ruộng rất nhiều sói lang. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Hai Mươi Bảy

Cùng kiệt sức dân, Dượng Đế đào sông, xây cung điện,

 Mong làm quan hoạn, Vương Nghĩa tốt số, nên vợ chồng.

 Từ rằng: 

 Ngày ba bữa đêm đêm ngon giấc 

 Thế đủ rồi đừng ước cao xa 

 Lăn lưng vào cảnh phồn hoa 

 Giang Nam phú quý, kiêu xa tột cùng 

 Rồi đến vận thân vong quốc phá 

 Lũ cung phi sa ngã bùn dơ 

 Sao bằng thuở trước Thuấn Ngu 

 Nhà tranh vách đất, áo thô nước đồng 

 Được tiếng tốt mà lòng thanh thản 

 Vui như vậy, vui hẳn gì hơn 

 Người đời không rõ nguồn cơn 

 Tham lam ganh tị oán hờn hại nhau 

 Họa trước mắt biết chưa nào? 

 Theo điệu "Mãn đình phương” 

 Trong thiên hạ, sức của sức người có hạn, mà lòng người thì không cùng, nói đến bậc vua chúa, giàu có bốn biển, thì tổn hại đến trăm họ. Nhưng thực ra không cái gì là không lấy từ dân mà có, không việc gì là không do người dân làm ra. Thử cứ xem những lâu đài đền tạ kia, có cái gì là cái không phải tay người dân. Hoàng đế ở trong chốn thâm cung, không thấy rõ chuyện nay dựng lầu, mai dựng điện, nay xây tạ, mai đào hồ, có cung điện lầu các rồi thì lại phải có kỳ trân, dị vật để trang điểm lầu các, điểm xuyết cung điện, những việc này há khác gì việc thổ mộc trên kia, lại cũng phải nhiễu nhương, tàn hại trăm họ. 

 Giờ nói chuyện hoang dâm của Tùy Dượng Đế ngày càng quá quắt. Ban đầu sai bọn quan thái giám Hứa Đình Phủ mười người, tìm người đẹp trong chín châu, sau nữa là phái Vũ Văn Khải, xây Hiển Nhân cung ở Lạc Dương, tiếp đó là cho Ma Thúc Mưu, Lệnh Hồ Đạt khai thông các sông ngòi, để vua có thể dùng thuyền đi chơi Giang Nam, rồi nghĩ đến cả đi chơi Giang Đô, khiến trăm họ thất điên bát đảo chạy đông, trốn tây, chẳng phục dịch dựng xây cung điện, thì lại đem thân xơ xác ra mà đào ngòi khơi sông, cùng nghìn vạn các việc lao lực khác. Các quan nha ở châu quận, chẳng khác nào nước sôi trong vạc. 

 Đừng nói nhà giàu muốn làm việc gì cũng đã dễ, huống chi triều đình, bất quá cũng chỉ vài trăm vạn lạng vàng là cùng, còn công sức của trăm họ dân đen cả, cho nên chẳng bao lâu cung Hiển Nhân một tòa lộng lẫy đã xong ở Đông Kinh, vừa cao vừa rộng. Đã vậy Ngu Thế Cơ còn đón được trước ý của nhà vua, dâng một tờ tấu chương: 

 "Hiển Nhân cung tuy đã tạo thành, nhưng sợ một mình cung này không đủ thánh thượng ngự du khoái ý. Thần xin chọn đất lành phía tây Hiển Nhân, dựng một ngự uyển, để thêm đẹp cuộc ngự du”. 

 Dượng Đế xem xong, lấy làm vui lòng lắm, sắc cho Ngu Thế Cơ như sau: 

 "Khanh thật đoán được ý trẫm, cho phép khanh cứ theo ý mà đo đạc dựng xây. Không được qua loa, để phụ lòng tin cậy trông ngóng của trẫm." 

 Thế là phía nam thì đào luôn trăm hồ rộng, mỗi hồ có đến mười dặm chu vi, bốn bên đều trồng hoa lạ cỏ kỳ, cạnh đó là đắp những đê dài, trên đê cứ một trăm hộ là một đình, năm mươi hộ là một tạ (1), hai bên đê đều trồng hoa đào, bờ nước thì trồng liễu thành hàng thành lối. Lại đóng nhiều thuyền rồng thuyền phượng, để dùng trong những cuộc phiếm du dọc hai bờ hoa cỏ. Phía bắc đào một hồ rất rộng, gọi là hồ Bắc Hải, chu vi có đến bốn mươi dặm, lại đào sông thông với Ngũ Hồ ở phía Nam, trong hồ đắp luôn ba hòn núi lớn: tòa thứ nhất là Bồng Lai, tòa thứ hai gọi là Phương Trượng, tòa thứ ba có tên Doanh Châu, để bắt chước ba tòa đảo có tiên ở ngoài biển. Trên núi lại cũng đủ làm đài điện các, bốn phía đều chói ngời vàng son, đinh núi cao hơn trăm trượng, có thể nhìn về Tây Kinh, lại có thể nhìn quanh phía hồ biển ở phía nam. Giữa hai vùng hồ nam bắc, quanh co uốn lượn, sông đào tiếp nối với sông lớn, rồi lại thông ra biển lớn, nơi nào cảnh đẹp, lại xây thêm lầu các, cứ thế mà làm tới mười sáu lầu viện khác nhau nữa, chỗ nào cũng có cung nữ coi giữ để sẵn sàng phục dịch khi vua ngự tới. Ngói ở tường ngự uyển, ngói ở các lầu các đều là ngói lưu ly, tường vách đều được quét bằng mẫu phấn tử chi. Ba tòa núi đều tạo những dáng kỳ lạ bằng đủ các loại đá quý hình thú kỳ dị, chất chồng hết lớp này đến lớp khác. Đài tạ đều được làm bằng các vật liệu quý hiếm, mọi chỗ đều khảm bằng vàng bạc lấp lánh, treo gấm rủ lụa màu sắc sặc sỡ, châu ngọc lung linh. Trong vườn đào hoa như suối chảy, sắc lý như mây trôi, mai hoa uốn thành vòng lượn, phù dung ôm lấy thân đê. Hạc quây quần từng bầy, gà gấm từng đôi, vượn trắng hú đài, hươu xanh ngơ ngác lượn quanh, cảnh tượng chẳng khác gì thuở trời đất mới bắt đầu, chẳng biết đã tàn hại biết bao sinh mạng dân nghèo, tốn kém không biết bao nhiêu tiền bạc gạo lương mới được như vậy. Ngu Thế Cơ lập tức dâng biểu, xin nhà vua ngự xem xét. 

 1 Đình: lầu nghỉ mát trên đường. Tạ: đài, lầu ở trên mặt nước để chơi mát. 

 Dượng Đế xem biểu, biết công việc đã xong, trong lòng mừng rỡ, liền chọn ngày tốt, cùng với Liêu Hậu, đem theo phi tần cung nữ, lên xe ngự giá Đông Kinh. Chẳng bao lâu đã tới Hiển Nhân cung, đã thấy Vũ Văn Khải, Phong Đức Di chực sẵn tiếp đón, rồi dẫn Dượng 

 Đế đi thăm các nơi, bắt đầu từ chính cung mà đi hết nơi này đến nơi khác. 

 Chỉ thấy:

 Muôn cột chạm mây màu 

 Nghìn gian trên sông bạc 

 Tinh tú trước sau tường vách 

 Nhật nguyệt ngang dọc cung lầu 

 Then cài ngọc, khác gì tam đảo cõi tiên 

 Thềm lát vàng, không kém cửa trời đế khuyết 

 Rèm cuốn liên miên, mây lành rợp che muôn dặm 

 Hương bay phảng phất, gió mát thổi khắp một trời. 

 Đúng là: 

 Hồ Thiên nga đáng bậc phong lưu 

 Lầu ô thước rất màu phú quý. 

 Dượng Đế trông thấy lầu gác hoa lệ, điện các nhấp nhô, bốn phương tiến cống đủ các kỳ vật, trong lòng vô cùng hoan hỷ, bèn phán: 

 - Công lao của hai khanh thật là đáng khen! 

 Liền sai lấy vàng lụa, hậu thưởng cho hai người và giữ lại hậu viện cho dự tiệc rượu. 

 Chính là : 

 Người thiện trời xui tính thiện kề 

 Nịnh thần hợp với chúa hôn mê 

 Hoang dâm, kiêu xí tàn dân lực 

 Xa giá nam du chóng trở về. 

 Dượng Đế ở Hiển Nhân cung, rong chơi mấy ngày cũng thấy mệt mỏi, liền ngồi kiệu bay, cùng Tiêu Hậu, cung nữ, phi tần tới vườn ngự uyển phía tây; tất nhiên không thể thiếu Vũ Văn Khải, Phong Đức Di đi theo hầu. Vào ngự uyển, chỉ thấy: 

 Ngũ Hồ nước lặng như tờ 

 Mênh mông Bắc Hải mịt mờ sóng dâng 

 Núi Tam Đảo phủ mây hồng 

 Mười sáu cung điện gió lồng hây hây 

 Bồng Lai tiên cảnh là đây 

 Hay miền cực lạc, cung mây điện vàng. 

 Về sau, có người làm thơ ca ngợi cảnh đẹp của Ngũ Hồ như sau: 

 Ngũ Hồ nước biếc ánh mây trôi . 

 Thử hỏi hoa viên hay dặm liễu 

 Những sợ đức vua thuyền lạc bến 

 Trúc tơ vàng ngọc rộn đất trời. 

 Lại có thơ ca ngợi cảnh hồ Bắc Hải thần tiên như sau: 

 Bác Hải liền trời một sắc xanh 

 Cá rồng rỡn nước, sóng đua nhanh 

 Mây lành Tam Đảo chiều tan hợp 

 Tiên nữ gần xa thật hữu tình. 

 Rồi lại thơ ca ngợi vẻ kỳ lạ của ba ngọn núi đắp giữa hồ Bắc Hải: 

 Tam sơn muôn ngọn sóng nhấp nhô 

 Ngút mắt gương xa thoáng cảnh lầu 

 Những tưởng trời cao ban phúc khắp 

 Giàu sang không vận chớ với vào. 

 Và đây là thơ ca ngợi cảnh sông đào mỹ lệ: 

 Quanh co nước biếc đổ vào ngòi 

 San sát nhà hoa, sóng tiếp đuôi 

 Khoe đẹp cung nhân tha thướt bóng 

 Thuyền rồng thiên tử tiến hay lui. 

 Cuối cùng là thơ ca ngợi cảnh diễm huyền của những lâu đài, đình, tạ: 

 Mười bước một lầu năm bước đỉnh 

 Liễu che hoa giỡn, gấm phơi mành 

 Nữa đêm xuống lệnh chong thêm đuốc 

 Sáng rực gần xa suốt mấy canh. 

 Dượng Đế đi xem khắp cả, mặt rồng rạng rỡ phán: 

 - Vườn ngự uyển dựng xây thế này thật vừa lòng trẫm, khanh thật đáng khen! 

 Ngu Thế Cơ tâu: 

 - Đó chính là phúc lớn của bệ hạ và cũng là sự linh ứng của đất trời, tiểu thần này thì chẳng có tài cán gì đáng kể. 

 Dượng Đế lại phán: 

 - Ngũ Hồ cùng mười sáu viện đã có tên đặt gì chưa? 

 Ngu Thế Cơ tâu: 

 - Tiểu thần không dám tự tiện, xin bệ hạ hãy ban thánh ý. 

 Dượng Đế lại đến tận các nơi xem xét một hồi cẩn thận, rồi mới đặt tên nhất loạt như sau: 

 - Đông Hồ, bởi bốn bề trồng toàn liễu biếc, lại thấy rõ hai ngọn núi xanh, nổi giữa sóng bạc dập dờn, nên đặt là hồ Thúy Quang. 

 Nam Hồ, bởi lắm gác cao liền bến, bóng đổ mặt nước lung linh, bèn ban tên hồ Nghênh Dương. 

 Tây Hồ, bởi có phù dung soi bóng, cúc vàng đầy núi, lại thêm cò trắng âu xanh, nhởn nhơ đi lại, nên đặt là hồ Kim Quang. 

 Bắc Hồ, nhân có nhiều đá trắng kỳ hình dị dạng, cao thấp nhấp nhô, ẩn hiện mặt hồ, gió qua sóng gợn, xao xuyến lòng người nên đặt tên hồ Khiết Thủy. 

 Trung Hồ, riêng bốn bề bát ngát, trăng chiếu mặc đầu, trời nước một màu, phải đặt là hồ Quang Minh. 

 Viện thứ nhất, gác cao mở hướng nam, gió ấm luôn luôn qua lại, nên ban tên viện Cảnh Minh. 

 Viện thứ hai, nhân có lan can màu đỏ quanh co uốn lượn, cửa sổ gấm hàng hàng lối lối, mặt trời mới hé, trăm hoa đua sắc, bèn có tên viện Nghênh Huy. 

 Viện thứ ba, bởi có mấy gốc ngô đồng xanh biếc, bóng che thấp thoáng, gió thu qua lá, xào xạc bên tai, phải đặt tên viện Thu Thanh. 

 Viện thứ tư, bởi trồng toàn mai Tây Kinh đưa về, hoa nở chẳng khác mây sớm, lấy tên là viện Thần Quang. 

 Viện thứ năm, vì huyện Toan Tảo tiến một gốc ngọc lý, loài hoa trắng một màu, hơn cả mây bông, bèn ban tên viện Minh Hà. 

 Viện thứ sáu, bởi có mấy cây tùng già, tán tròn như lọng, bóng yên khắp viện, thành tên viện Thúy Hoa. 

 Viện thứ bảy, bên bờ nước có phiến bàn thạch, rêu biếc đã in, hoa văn ngang dọc, chẳng khác địa đồ xứng tên viện Văn An. 

 Viện thứ tám, vì hạnh vì đào giăng thành bình phong như gấm như lụa, hoa phô thêu nhị, nước chảy tựa đàn, oanh non tấu sáo, nên tên viện Tích Chân. 

 Viện thứ chín, nhân bên ngòi, bờ đá nhấp nhô sóng khẽ lăn tăn, ánh nắng dập dờn, mắt nhìn loang loáng, bên gốc còn in, đủ màu ngũ sắc, được đặt tên viện Ánh Văn. 

 Viện thứ mười, bốn bề trúc bọc, ở giữa mọc lên một tòa lầu đỏ, chẳng khác gì chim phượng một mình khoe sắc, bèn cho tên viện Nghi Phượng. 

 Viện thứ mười một, nhân phía trái là núi, phía phải là nước, lấy ý vui nước, vui non, bèn ban tên viện Nhân Trí. 

 Viện thứ mười hai, bởi đá lởm chởm bao quanh, khó tiến khôn lui phải dùng thuyền nhỏ, theo ngòi mà tới, bên trong đúng cành hoa đào trôi theo nước chảy, nước trời riêng một, cõi, phán tên viện Thanh Tu. 

 Viện thứ mười ba, tại trồng nhiều cây kỳ, hoa vàng đầy đất, chẳng khác cảnh chùa, phán tên viện Bảo Lâm. 

 Viện thứ mười bốn nguyên có suối đào, gác quế, mùa xuân hứng gió ấm áp, tiết hạ hưởng trăng thanh, bảo gọi là viện Hòa Minh. 

 Viện thứ mười lăm, lại bởi liễu nhỏ giăng tơ, khác gì la nhuyễn, tiện gọi viện Ỷ Am. 

 Viện thứ mười sáu, cũng bởi hoa mai che mai, lầu các mong hơi ấm, lan can dựa xem tuyết trắng nào biết lạnh lùng, đành gọi viện Giáng Dương. 

 Sông đào một dải uốn lượn như rồng, lầu các đình tạ, như vẩy kỳ lân, ban tên Long Lân giang. 

 Dượng Đế đặt tên xong một lượt. nhân phi tần, cung nga đi theo rất nhiều, chưa định rõ người nào chỗ nào, nên cho phép bọn mười người Hứa Đình Phủ, đưa cung nữ mới tuyển về, chia cho trông coi các viện. 

 *** 

 Lại nói Đình Phủ, từ ngày bị Lý Như Khuê. Tế Quốc Viễn bắt cóc lên Đào Hoa Sơn, mất hẳn năm ngàn lạng vàng, lại càng thêm tham lam vô độ. Phàm tuyển cung nữ, có nhiều ngọc ngà, vàng bạc đút lót y, thì được xếp vào thượng đẳng, bạc vàng thiếu ít nhiều, thì chỉ được xếp vào loại trung đẳng còn nếu chẳng có gì để quà cáp, thì dù có quốc sắc thiên hương, thì cũng chỉ được xếp vào loại hạ đẳng mà thôi. Lúc này cùng bọn chín thái giám kia gặp gỡ, tuyển được đến hơn nghìn cung nữ, biết được triều đình đang ở Đông Kinh, cả bọn kéo xuống, vào ngự uyển, dâng nạp danh sách cả ba loại cung nữ mới tuyển. Dượng Đế xem qua, thì hơn nghìn người, bèn phán cho Đình Phủ. 

 - Hãy đem loại thượng đẳng và trung đẳng về ngự uyển. Còn lại hạ đẳng thì cứ ở hậu cung để sai phái các việc khác. 

 Đình Phủ cùng chín thái giám lĩnh ý vua ra khỏi ngự uyển, cứ theo danh sách mà gọi vào. Dượng Đế xem xét cẩn thận, thì thấy đều thuộc loại đào nhường hạnh thẹn, yến cười, oanh xấu hổ, nên rất khoái ý, cùng với Tiêu Hậu, chọn hoa đẹp nhất trong số hoa đẹp, tìm người đẹp nhất trong số người dẹp, lựa được mười sáu người, hình dung yểu điệu, phong thái u nhàn, cử chỉ đoan trang, đều được phong tứ phẩm phu nhân, chia cho cai quản mười sáu viện ở Tây Uyển. Mỗi người đều được ban một ấn ngọc nhỏ, trên có khắc tên viện, để tiện lúc dâng tấu biểu. Lại tuyển ba trăm hai mươi cung nữ, thuộc loại phong lưu, tiêu sái, dáng liễu mày hoa, xung vào hàng mỹ nhân, mỗi viện chia hai mươi người, cho học đánh đàn thổi sáo, ca múa, để hầu yến tiệc, còn thì chia ra các đội mười người, mười hai người, hoặc là đội thuyền rồng, hoặc đội thuyền phượng, hoặc ở các lâu đài, đình tạ. Bọn ở hậu cung, cũng đều chia thành nhóm, thành đội. Lại phong cho thái giám Mã Thư Trung làm Tây uyển lệnh, cai quản việc ra vào các cửa. 

 Không bao lâu đã biến Tây Uyển thành cấm thành, hoa gấm thành hàng, lụa là thành dãy. Mười sáu viện phu nhân, chia nhau cai quản, ai cũng muốn tranh được đức vua riêng yêu. Các viện đều giở cầm kỳ thi họa học đời, cùng đủ sáo phượng sênh loan, chỉ sợ Dượng Đế bất chợt ngự giá. Viện này đốt hương long diên, viện kia thổi trầm phượng não. Viện trước hát khúc Ngô ca, viện sau múa điệu Sở vũ. Viện phía đông làm nem tố giác, viện phía tây ủ rượu quỳnh tương. Trăm thứ khôn nói hết, chỉ cần phô trương để được Dượng Đế chú ý tới, tùy đó mà vui buồn thay đổi, địa vị khác biệt vậy. 

 Chính là: 

 Cung đình hành lạc thưa mau 

 Mua vui một khắc, giải sầu quân vương 

 Miệt mài là lượt phấn hương 

 Dân tàn nước kiệt, bốn phương mặc đời. 

 Lại nói các đảo ngoại quốc, nghe tin vua mới ham thích tham sắc hàng lạ, của hiếm, nên cũng tìm các thứ này để tiến cống, thôi thì đủ kỳ trân, di ngoạn, người đẹp, ngựa hay. Một hôm Dượng Đế coi triều, có châu ở vùng Sở, dâng một người tên gọi Vương Nghĩa, mặt mày sáng sủa, người lùn nhỏ, nhưng hành vi cử chỉ đều rất đẹp mắt. 

 Lại thêm mồm miệng lanh lợi, ứng đối lưu loát. Dượng Đế nhìn kỹ rồi hỏi: 

 - Người không phải người tuyệt trần, cũng không phải của báu khó hiếm. Thế thì có gì khác lạ tốt đẹp, dám đem tiến cống? 

 Vương Nghĩa thưa: 

 - Bệ hạ đức cao như Nghiêu Thuấn, đạo vượt cả Thang Vũ, vùng Sở xa xôi cũng được ơn giáo hóa giữ thói kiệm cần, tuy không có được sắc đẹp khuynh thành, chẳng bằng vật báu của kỳ, nhưng thầm ơn thánh đế, nên cũng tiến kẻ hề lùn, để bệ hạ sai khiến. Thần đâu không dám hết lòng trung nghĩa, nguyện xin thánh thượng thu nạp. 

 Dượng Đế cười phán: 

 - Ta có vô số văn quan võ tướng, còn thần trung sĩ nghĩa, đâu phải chỉ riêng mình nhà ngươi có thôi đâu! 

 Vương Nghĩa thưa: 

 - Trung Nghĩa là vật báu của nước nhà, một người trung thì vẫn không đủ, sao lại có chuyện sợ nhiều mà rồi vứt bỏ. Huống chi con chó con ngựa trung thành với chủ nuôi, bậc quân tử còn không nỡ vứt bỏ. Thần tuy là người dân hèn mọn ở chốn thảo dã, nhưng vẫn có điều quan hệ đến giáo hóa, sao bệ hạ lại nỡ không nhận? 

 Dượng Đế nghe đối đáp thế lấy làm thích ý, bèn trọng thưởng cho người đem dâng, rồi giữ Vương Nghĩa ở cạnh để tiện sai bảo. Từ đó, mỗi lần thiết triều, hoặc du ngoạn các nơi, Dượng Đế đều mang Vương Nghĩa đi theo. Vương Nghĩa lại cẩn thận, chu đáo, cử chỉ nói năng đều rất đáng yêu. Dượng Đế lại càng quý, càng ngày càng quen, lúc nào cũng ở bên vua, nhưng chỉ không được vào cung mà thôi. 

 Hôm ấy Dượng Đế thiết triều nhưng không có việc gì, đang định bãi triều để về hậu cung, thì quay lại thấy Vương Nghĩa mặt mày ủ ê. 

 Dượng Đế mới hỏi: 

 - Vương Nghĩa, sao trông ngươi có chuyện gì mà âu sầu vậy? 

 Vương Nghĩa hoảng hốt thưa: 

 - Thần đội ơn dày của bệ hạ, ngày ngày đều được gần mặt rồng, thật là thỏa nguyện cả đời. Nhưng chỉ giận cung cấm gang tấc, mà không được ra vào hầu hạ, để đem sức chó ngựa cho thỏa lòng này, cho nên lòng đầy ưu uất, xin bệ hạ rộng lượng hải hà! 

 Dượng Đế phán: 

 - Ta cũng không lúc nào có thể thiếu ngươi, nhưng chỉ vướng một nỗi là ngươi không phải là kẻ có thể vào cung cấm được. 

 Nói xong thì xe rồng đã vào cung từ lúc nào, Vương Nghĩa vẫn tần ngần ở cửa cung, không chịu trở về, cũng không dám vào cung, đứng ngây người hồi lâu. Bỗng sau lưng có người vỗ nhẹ vào vai 

 Vương Nghĩa, rồi lên tiếng: 

 - Vương Thù Nhu (1), nghĩ ngợi gì ở đây? 

 1 Thù Nhu: người lùn xấu xí, chỉ kẻ lùn chuyên làm hề ở trong cung. 

 Vương Nghĩa quay lại nhìn, thì ra Trương Thành, Thái giám ở Hiển nhân cung, liền vội đáp: 

 - Chào bác Trương. Bác làm đệ giật mình! 

 Trương Thành hỏi: 

 - Chúa thượng đối với bác rất thương yêu, cái gì cũng chẳng tiếc thế thì còn chuyện gì không vừa ý nữa, mà lại đứng đây nghĩ ngợi? 

 Vương Nghĩa vốn đi lại thân với Trương Thành nên đáp thẳng: 

 - Thật chẳng giám giấu bác, đệ chịu ơn sâu nặng của thánh thượng được thánh thượng muôn ngàn yêu thương, những mong được đêm ngày hầu hạ, đền đáp ơn sâu, chỉ giận cung cấm cách trở, không thỏa lòng này, cho nên lòng nặng ưu tư, không ngờ lại bị bác bắt gặp. 

 Trương Thành cười lớn mà đáp đùa Vương Nghĩa rằng: 

 - Vương Thù Nhu ơi! Bác muốn vào cung thì có khó gì đâu, bác cứ thiến quách cái ở đũng quần kia đi, thì làm gì mà chẳng vào cung cấm hầu hạ chúa thượng cho được. 

 Vương Nghĩa ra chiều nghĩ ngợi: 

 - Đệ nghe nói chuyện này phải làm lúc còn nhỏ, đã lớn rồi liệu có làm được chăng, bác cứ thành thật chỉ cho, đệ không dám quên ơn! 

 Trương Thành đáp: 

 - Lúc nào cũng làm được tất, chỉ sợ bác không chịu được đau thôi! 

 Vương Nghĩa hăm hở: 

 - Nếu mà làm được, thì sợ gì đau! 

 Trương Thành tiếp: 

 - Nếu bác quyết chí, tôi có loại thuốc rất hay, xin biếu bác! 

 Vương Nghĩa quyết chí: 

 - Làm kẻ trượng phu, há lại nói suông! 

 Cả hai cười nói vui vẻ, dắt tay nhau ra khỏi cửa cung, về nhàTrương Thành ngồi, Trương Thành sai bày tiệc rượu, cả hai cùng chén chú chén anh, được vài ba chén, Vương Nghĩa ngỏ lời xin thuốc quý Trương Thành đáp: 

 - Thuốc thì vẫn còn đó. Nhưngin bác hãy nghĩ cho kỹ, tính kế lâu dài. Đừng vì chuyện cao hứng một lúc, mai kia không kiếm được một mụ già nào, không có một mụn con nào, rồi lại oán trách tôi à? 

 Vương Nghĩa nghiêm sắc mặt mà nói: 

 - Người ta sinh ra trong khoảng trời đất này, được thánh thượng biết đến, dẫu có chết cũng chẳng tiếc thân, sao lại còn nghĩ đến chuyện vợ con làm gì? 

 Trương Thành bèn vào trong nhà lấy ra một con dao sắc, mà thổi sợi tóc qua có thể đứt đôi, cùng với hai gói thuốc, vứt ngay trên bàn, rồi chỉ tay: 

 - Gói thuốc vàng kia, là thuốc mê, hòa với rượu mà uống thì sẽ không biết đau đớn gì nữa, còn gói màu ngũ sắc, là thuốc cầm máu, liền vết cắt, một loại thần dược, được chế từ các loại thuốc quý toàn là trân châu, hổ phách, các vị kỳ trân, dị bảo cả, tán thật nhỏ mà viên thành từng viên. Còn con dao kia là cái để hành sự. Với ba thứ này của tôi, bác cứ cầm về rồi theo đó mà làm là xong tất thôi mà. 

 Vương Nghĩa lại hỏi: 

 - Ơn bác chỉ cho, nhưng còn việc làm thì phải làm thế nào? 

 Trương Thành đáp: 

 - Đến cái khoản này thì cũng khó nói đây! 

 Vương Nghĩa cam kết: 

 - Bác chẳng còn phải giữ ý, đệ không dám để liên lụy đến bác đâu mà! 

 Trương Thành thấy Vương Nghĩa quả tình muốn tự hoạn, liền mang thêm rượu ra, uống thả cửa một hồi, Vương Nghĩa đã gần say. 

 Chính là: 

 Kể gì tàn phế thân này 

 Miễn là được chúa đêm ngày yêu thương. 

 *** 

 Hãy kể chuyện Dượng Đế thoái triều vào cung, Tiêu Hậu chờ đón, bày yến góp vui, gọi các cung nữ mới tuyển, thay nhau dâng rượu. Được vài tuần, Dượng Đế trông thấy một cung nữ, nhan sắc cũng bình thường, cử chỉ đoan trang. Dượng Đế bèn hỏi quê quán ở đâu. Cung nữ vội vàng quỳ lại, thưa trình mấy câu, nhưng dù chỉ một tiếng thôi, cũng chẳng ai hiểu nói gì. Bọn cung nữ đứng hầu bên cố mà nhịn cười để giữ được vẻ trang nghiêm, kính cẩn. 

 Dượng Đế cho cung nữ này đứng dậy, rồi phán: 

 - Vương Nghĩa vốn thông minh lanh lợi, ngôn ngữ của bốn phương lại thông thuộc nhiều, chỉ có y mới biết mà thôi! 

 Tiêu Hậu khuyên: 

 - Sao bệ hạ không gọi ngay y vào đây, để y giảng giải cho, càng thêm vui vẻ chứ sao? 

 Dượng Đế bèn sai hai tiểu nội giám, đi triệu Vương Nghĩa vào cung. 

 Hai nội giám vội ra khỏi cung cấm, đang định hỏi đến nhà Vương Nghĩa, thì gặp một thái giám chỉ: 

 - Vương Nghĩa đi với Trương Thành về nhà Trương Thành rồi. 

 Hai viên tiểu nội giám liền tìm tới nhà Trương Thành, tới cửa gọi rối rít. Bọn này lại chẳng vợ con họ hàng gì, lại là nội giám, chẳng có điều gì phải gìn giữ, hai viên tiểu nội giám cứ thế xông vào, đạp hết cửa này đến cửa khác, thì thấy ngay Vương Nghĩa chẳng khố chẳng quần gì cả. Trương Thành đứng bên, đang dùng thuốc xoa xoa vào hạ bộ Vương Nghĩa, rồi lăm lăm cầm dao. 

 Thấy hai viên tiểu nội giám xồng xộc tiến vào, Trương Thành vội rụt tay lại, Vương Nghĩa cũng vội vàng bò dậy, kéo quần buộc lại. Hai viên tiểu nội giám, thấy bọn này làm những hành động như vậy, lại trên bàn thuốc men, dụng cụ còn đó, cười rũ rượi rằng: 

 - Các người làm cái gì thế này? 

 Trương Thành vốn biết rõ hai viên tiểu nội giám này là tay chân thân cận của Dượng Đế, không dám khinh nhờn, chỉ đành đem chuyện Vương Nghĩa tình nguyện làm việc này, nhất nhất kể lại một lượt. Một viên tiểu nội giám nói: 

 - May mà chúng tôi tìm đến đây kịp, chỉ cần chậm một chút thôi, thì cái của Vương Thù Nhu đã bị cắt mất rồi. Chúa thượng tại hậu cung, đặc sai hai nội giám chúng tôi, tuyên triệu Vương Nghĩa vào cung, mau mau đi ngay? 

 Lúc này Vương Nghĩa đã say đến tám chín phần, thấy nói Dượng Đế cho gọi, vội xin Trương Thành ít nước lạnh, rửa hết thuốc, lau mặt mày cho tỉnh táo hơn, rồi vội theo hai viên tiểu nội giám vào cung. 

 Dượng Đế thấy Vương Nghĩa mặt mày hoảng hốt, cúi đầu quỳ dưới thềm, liền hỏi: 

 - Nhà ngươi vừa uống rượu ở đâu? 

 Vương Nghĩa mọi lần rất nhanh miệng, nhưng lần này không biết thưa gửi ra sao cho phải phép, hai viên tiểu nội giám thì cứ đứng lặng, cố nhịn cười. Dượng Đế thấy chuyện có vẻ lạ lùng, liền quay lại phía hai tiểu nội giám hỏi: 

 - Hai người vừa rồi tìm thấy Vương Nghĩa ở đâu? 

 Một viên thưa: 

 - Tâu bệ hạ, chúng tiểu thần tìm thấy Vương Nghĩa ở nhà thủ cung thái giám Trương Thành! 

 Dượng Đế lại hỏi: 

 - Uống rượu là chuyện không đáng nói, còn có chuyện gì lạ ở nhà Trương Thành hay sao? 

 Viên tiểu nội giám đem những lời Trương Thành cùng những vật những việc thấy ở nhà họ Trương thưa lại một lượt, Dượng Đế nghe xong, chau mày phán: 

 - Vương Nghĩa đứng dậy! Trẫm nói cho ngươi rõ, phàm những người phải làm chuyện này, đều là những kẻ phạm tội, phải phạt cung hình, tổn thương đến cha mẹ, dòng họ. Hoặc nữa vì mộ đạo, làm tăng thì mới nguyện làm chuyện này, mong có ngày đắc đạo. Trong nội cung ta có cả một bọn thái giám lão luyện, tính toán độ số, bát quái rồi sau đó mới dám làm. Lại thêm đây là chuyện thường làm lúc còn nhỏ tuổi, ngươi năm nay đã ngoài hai mươi sao lại dám coi thường mà tự làm chuyện này, lỡ có chuyện không may, thì còn gì là tính mạng? 

 Vương Nghĩa thưa: 

 - Thần đội ơn sâu của bệ hạ, trời cao đất dày, thì dẫu có nát thịt tan xương, cũng chẳng có điều gì đáng tiếc. Huống hồ chỉ là những tổn thương nhỏ thì có gì là phái lo nghĩ, thần xin nguyện cam chịu. 

 Dượng Đế phán: 

 - Nhà ngươi có lòng trung nghĩa như vậy, trẫm biết lắm rồi. Nhưng ngươi chỉ cần lo chuyện tận trung, tận nghĩa, đừng nghĩ đến chuyện báo đền vội. Cha mẹ sinh ra ngươi, dẫu cho có là man di đi nữa, cũng mong ngươi có vợ có con, nối tiếp dòng dõi ngày càng thịnh vượng, sao lại coi nhẹ tấm thân của cha mẹ để lại làm thương tổn nó, hủy hoại nó, khiến cho trẫm cũng khó mà tránh nổi sự oán thán của linh hồn cha mẹ ngươi sau này, cho nên ngươi không thể làm như vậy. Nếu ngươi vẫn không nghe lời trẫm thì chính ngươi không phải là kẻ trung, kẻ nghĩa mà lại là phường phản nghịch mà thôi! 

 Vương Nghĩa nghe xong, không ngăn nổi hai hàng nước mắt ngắn dài, khấu đầu dưới đan trì tạ ơn vương thượng. 

 Dượng Đế lại tiếp: 

 - Vừa rồi có một cung nữ mới được tuyển vào, ngôn ngữ bất đồng, gọi ngươi vào để hỏi cho rõ, cung nữ này là người ở đâu, gia cảnh thế nào? 

 Nói xong, liền cho gọi cung nữ ra trước điện, Vương Nghĩa cùng cung nữ này, người hỏi người đáp, líu lôkhác gì chim họa mi, chim oanh vũ trong đám liễu xanh thánh thót, uyển chuyển rất êm tai, khiến cho Tiêu Hậu cùng đám cung nữ theo dõi rất chăm chú thích thú, cười đùa vui vẻ. Vương Nghĩa nhỏ to một hồi, rồi quay ra thưa với Dượng Đế: 

 - Tâu bệ hạ, cung nữ này là người ở Huy Châu, Thiệp Huyện, họ Khuông, cha ông vốn nhà gia thế, tên gọi là Đình Đình, tuổi vừa mười tám, cha mẹ đều mất, gặp phải người anh gian ngoan, tham của, định đem gả em gái để lấy trâu bò. Vừa đúng lúc chúa thượng tuyển cung nữ, Đình Đình lên đến tận châu quận, tự nguyện ghi tên, xin được vào phục dịch trong cung cấm. 

 Dượng Đế nghe xong, bèn truyền: 

 - Cứ thế này mà suy, thì cũng là một người con gái có chí, từ cử chỉ, diện mạo đến việc làm đều khác thường. Nay trẫm đem người con gái này thưởng cho ngươi làm vợ, làm nên một cặp vợ chồng hiền hậu, hiểu biết, liệu có được không? 

 Vương Nghĩa nghe vua nói thế, vội vàng quỳ xuống thưa rằng: 

 - Thần mang ơn tri ngộ của bệ hạ, đang những mong quên thân này để đền đáp, sao lại dám nghĩ đến chuyện thất gia. Phương chi, người con gái này được tuyển vào nơi cung cấm, thần thật không dám nhận vậy! 

 Dượng Đế vẫn giữ ý: 

 - Ý trẫm đã quyết. Người chớ chối từ! 

 Vương Nghĩa cũng đã hiểu tính tình Dượng Đế, không dám nói thêm, chỉ cùng Đình Đình dập đầu dưới thềm tạ ơn. Tiêu Hậu lên tiếng. 

 - Vương Nghĩa, ngươi đem Đình Đình về, dạy cho ít tiếng chúng ta, dừng để y cứ nói líu lô như chim như thế nữa. Nếu trong cung có việc gì ta sẽ truyền gọi vào sai bảo. 

 Rồi Dượng Đế ban cho một ít vàng lụa, Tiêu Hậu cũng cho ít nhiều châu ngọc, Vương Nghĩa đem theo Đình Đình, ra khỏi cung cấm, trở thành vợ chồng. Vương Nghĩa càng cám ơn sâu của Dượng Đế cùng với Đình Đình ngày đêm hương khói, thờ sống Dượng Đế, vợ chồng hòa thuận thương yêu nhau khác thường. 

 Chính là : 

 Những tưởng dọn mình báo chúa 

 Ngờ đâu nên cửa nên nhà , 

 Nếu mà tàn phế thân ta 

 Chẳng khác cành hoa trong mộng. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Hai Mươi Tám

Bọn cung nhân cắt vải làm hoa,

 Hầu phi tử đề thơ tuyệt mệnh

 Từ rằng: 

 Một đêm vườn ngự hoa như dệt 

 Muôn đóa ganh thơm nhuộm trăm sắc 

 Tạo hoá khéo tay trời 

 Phồn hoa mừng không nguôi 

 Hồng nhan thân luống tiếc 

 Ơn mây mưa chưa biết 

 Nào chỗ khóc hồn oan 

 Đau lòng khóc trướng loan. 

 Theo điệu: "Bồ tát man" 

 Người đàn ông tài tình mẫn tiệp trên thế gian này, cũng như chuyện đẹp trai tuấn tú, là chuyện trời cho, so với số phụ nữ khéo léo cẩn thận thì ít hơn nhiều. Đàn ông làm thơ viết văn, hoặc làm nghệ thuật nói chung, còn có chỗ để học tập đua đòi, khác với phụ nữ mà có trí tuệ, thì sự khéo léo của họ, phần lớn đều do tự họ làm lấy. 

 *** 

 Lại nói chuyện Vương Nghĩa được nhà vua ban cho cung nữ Khương Đình Đình, sau khi đã thành vợ chồng, càng cảm ơn sâu của Dượng Đế, ngày nào cũng vào triều hầu hạ, càng chăm chỉ, siêng năng. Đình Đình cũng không quên ơn vua, nhưng biết lấy gì báo đáp. 

 Một hôm, Vương Nghĩa ở triều về, nói với vợ: 

 - Sáng nay trong triều, có một người họ Hà, tên là Điều tự chế được một chiếc xe "Giá ngự nữ xa", đem đến dâng vua, một chiếc xe thật là đẹp lạ lùng, tinh xảo lạ lùng. 

 Khương Thị hỏi: 

 - Làm sao lại gọi là xe "Giá ngự nữ xa"? 

 Vương Nghĩa đáp: 

 - Xe này ở bên trong rộng rãi, có cả giường, chăn, đệm, gối, bốn bên cùng một loại lụa mịn, gọi là lụa giao làm thành màn, ở bên ngoài nhìn vào không thấy gì cả, nhưng ở bên trong nhìn ra thì lại rất rõ ràng, nên tha hồ mà ngắm sông, ngắm núi bên ngoài. Lại thấy rất nhiều chuông bằng phiến ngọc treo thành màn thưa, lúc nào xe đi, tiếng nghe như nhạc leng keng leng keng, ở bên trong dù có cười nói ầm ĩ, thì bên ngoài cũng chẳng nghe được, chẳng phải giữ gìn kẻ ngoài nhòm ngó, vì vậy mới gọi là "Giá ngự nữ xa". 

 Khương Thị nói: 

 - Như thế thì chẳng qua học theo lối xe tiêu giao ngày xưa, thêm thắt ít nhiều chứ có gì lạ, rồi lấy đó làm công. Thiếp cảm tạ ơn sâu của chúa thượng, không biết lấy gì đền đáp, trong lòng lúc nào cũng thắc thỏm không yên. Thiếp định làm một thứ lạ để dâng lên chúa thượng, các vật liệu dùng đã có rồi nhưng chưa đủ, vì vậy chưa thể bắt tay vào việc được. 

 Vương Nghĩa hỏi: 

 - Dùng những vật liệu gì mà làm nên? 

 Khương Thị đáp: 

 - Chỉ cần tóc xanh của người còn sống, nhưng phải vừa dài vừa nhỏ. Thiếp đã chọn được những sợi đó ở mái tóc của thiếp cùng với tóc một vài thiếu nữ nhưng vẫn chưa đủ. 

 Vương Nghĩa hỏi: 

 - Tóc trên đầu ta dùng có được không? 

 Khương Thị đáp: 

 - Chàng là bậc trượng phu, đầu mà không còn tóc, trông khó coi lắm! 

 Vương Nghĩa cười nói: 

 - Ngày trước, đến cái ở dưới còn chẳng tiếc, định cắt quách đi, chẳng là mấy sợi tóc trên đầu. 

 Rồi lôi ngay mũ đội xuống mà rằng: 

 - Nhờ hiền thê cứ chọn sợi nào dùng được mà cắt cho kỳ kết, nếu còn thiếu, ta sẽ đi mua để về làm ngay dâng lên chúa thượng. 

 Khương Thị thấy Vương Nghĩa nói thế, liền lấy lược chải đầu chồng đâu đấy, rồi chọn những sợi vừa đen vừa dài, cắt kỳ hết, từng sợi từng sợi rớt xuống. 

 Chính là: 

 Phòng khuê thoăn thoát tay tiên 

 Để trong cung cấm ngả nghiêng vui cười. 

 Lúc này là vào tiết trọng đông, hoa lá rụng tàn, cành gốc trơ trụi. Một hôm Dượng Đế cùng Tiêu Hậu và các phu nhân, trong ngự uyển uống rượu, Dượng Đế nói: 

 - Phong cảnh bốn mùa, duy chỉ có cảnh mùa xuân là đẹp hơn cả muôn hoa đua thắm, vạn loài đua xanh. Màu hồng dễ làm người ta yêu dấu, màu xanh dễ làm người ta tiếc thương. Đến mùa hạ thì sen xanh đầy mặt nước, mùi thơm đầy ắp quanh người. Một vầng trăng trong mùa thu, treo trên cành ngô đồng,thêm cành quế đỏ dưa hương, vị thơm tràn cốc rượu, thật là ý vị biết bao. Duy chỉ có mùa đông là lặng lẽ tịch mịch, như chẳng có ý vị gì cả, chỉ có mỗi chuyện nằm trong chăn chờ ngày qua, ra khỏi cửa là chẳng còn hứng thú gì nữa. 

 - Thiếp từng nghe, các nhà sư có một loại "thiền sàng", có thể nhiều người cùng nằm. Sao bệ hạ không sai người làm một loại giường như thế, rồi dùng một cái gối thật dài, lấy một cái chăn thật rộng, xếp nhiều cung nữ ở trên, cùng nhau ăn uống, đàn hát có phải hay không? 

 Tiết phu nhân ở viện Thu Thanh thưa: 

 - Có một cái giường to như thế, một cái chăn rộng như thế, lại phải có cả một bức trướng thêu thật rộng. 

 Dượng Đế cười: 

 - Các ngươi dù có tưởng tượng đến đâu, cũng không thể bằng quang cảnh mùa xuân được? Liễu rủ mành xanh muôn hoa muôn sắc. Đình đài cung viện, chẳng nơi nào là nơi không phô sắc, gợi tình, chẳng có lúc nào là lúc buồn bã, cô liêu. 

 Tần phu nhân ở viện Thanh Tu lại thưa: 

 - Nếu bệ hạ không thích cảnh tịch mịch thì cũng chẳng có gì khó. Xin chờ đêm nay thiếp lên Thọ Thiên cung, lấy hết những hoa đã nở về ngự uyển này để bệ hạ thưởng thức. 

 Dượng Đế cũng coi như một lời nói đùa, bèn trả lời: 

 - Nói như thế, thì đêm nay ta chẳng dám quấy rầy các khanh nữa đâu! 

 Nói cười một hồi, uống vài chén rượu buổi sáng, rồi cùng Tiêu Hậu lên xe loan về cung. 

 Sáng hôm sau, Dượng Đế đang ngự ăn sáng, thì thấy phu nhân mười sáu viện sang mời, Dượng Đế trong lòng cũng ngại không muốn đi. Tiêu Hậu phải hai ba lần thúc giục, Dượng Đế mới miễn cưỡng cùng lên xe với Tiêu Hậu. Vừa tới ngự uyển, thì đã thấy nghìn tía vạn hồng, đào hạnh khoe sắc, chẳng khác gì khắp trời giăng gấm ngũ sắc, Dượng Đế cùng Tiêu Hậu đều vô cùng kinh ngạc, Dượng Đế vội hỏi: 

 - Tiết trời lạnh giữa đông thế này, làm sao chỉ có một đêm mà hoa có thể nở đến cả vườn rộng, như vậy được? Thật là kỳ quái! 

 Nói chưa xong, đã thấy mười sáu phu nhân ra đón xa giá, theo sau rất nhiều cung nữ, mỹ nhân, âm nhạc rộn ràng, đầy vẻ xuân sang. Cả bọn đến trước xe rồng, tranh nhau lên tiếng hỏi Dượng Đế: 

 - Bệ hạ thấy có khác gì cảnh Thọ Thiên cung không nào? 

 Dượng Đế vừa thích thú vừa ngạc nhiên hỏi: 

 - Các khanh có phép thuật gì lạ lùng mà có thể làm cho tất cả vườn hoa đều nở trong vòng một đêm thế này? 

 Mọi người lại đua nhau thưa: 

 - Bệ hạ chẳng cần hỏi kỹ làm gì. Chúng thần chẳng có phép thuật gì kỳ lạ cả. Chẳng qua tất cả đều chỉ mất một đêm vất vả mà thôi! 

 Dượng Đế vẫn chưa hiểu ra. 

 - Một đêm vất vả nghĩa là như thế nào? 

 Cung nữ lại thưa: 

 - Xin bệ hạ cứ bẻ một cành hoa mà xem sẽ .õ ngay, chẳng cần phải nghe chúng thần trả lời. 

 Dượng Đế tin lời, lại gần một gốc hải đường, vịn một cành cây xuống nhìn kỹ, thì mới thấy rõ không phải là hoa thật, mà toàn là hoa gấm, hoa lụa màu cắt thành, rồi đem gắn, buộc vào cây, vào cành mà thôi. Dượng Đế không giấu được vẻ vui sướng, thán phục. 

 - Ai là người nghĩ ra chuyện này, làm được những bông hoa thế này, búp lá thế này, chẳng khác gì hoa thật. Dù là bàn tay khéo léo nhưng đúng là hơn cả tạo hóa. 

 Chúng phu nhân thưa: 

 - Đó chính là do ý của Tần phu nhân, rồi chúng thần cùng cung nữ suốt đêm làm nên, để sáng nay bệ hạ kịp ngự lãm. 

 Dượng Đế nhìn Tần phu nhân: 

 - Hôm qua trẫm cũng nghĩ là khanh chỉ nói đùa cho hay, không ngờ là khanh đã nghĩ ra cách làm này. 

 Rồi cùng Tiêu Hậu, đi chầm chậm từng dãy, từng dãy, chỉ thấy chỗ xanh biếc, chỗ hồng tươi, chẳng cần gì đông hay xuân, lạnh hay ấm, muôn hoa nghìn sắc phô bày, nếu nói kỳ công thì chẳng kém gì Đông quân. 

 Thấy những gì nữa? Toàn là: 

 Vôn thợ trời nghiêm đặt bốn mùa 

 Thợ trần nhào trộn đọ hơn thua 

 Lụa là úp mở không chồi gốc 

 Dao kéo vun trồng mặc gió mưa 

 Muôn đóa khoe màu mai chẳng sớm 

 Người hoa đua nở cúc không trưa 

 Xuân chưa hỏi, hạnh vội thưa 

 Gió đông còn vắng, đào tơ đã cười 

 Thược dược thắm, tuyết chưa rơi 

 Mẫu đơn ngạo nghễ một trời móc sương 

 Tháng ba quế vắt qua tường 

 Tháng mười sen đỏ rỡ ràng hồ xanh 

 Đỗ vũ tháng giêng son điểm nhị 

 Đồ mi năm hết gấm phô cành 

 Phất phơ dương liễu thân rung nhẹ 

 Lách tách phù dung móc xuống nhanh 

 Lan huệ ngọc ngà bay lả lướt 

 Hải đường son phấn tuyết long lanh 

 Nở ư? Chẳng đợi gió lành 

 Rụng ư? Chẳng đợi bướm xanh rập rình 

 Trăng lạnh thẹn, náu náu hình 

 Khoảnh chơi dì gió phụ tình vãng lai 

 Bốn mùa không rụng không phai 

 Quanh năm tươi thắm xuân dài cõi tiên 

 Càn khôn tạo hóa mất quyền 

 Đế vương kim cổ chịu nghiêng mình chào. 

 Dượng Đế xem một hồi, mặt hồng rạng rỡ: 

 - Cảnh ở Bồng Lai, Lãng Uyển, chẳng qua cũng đến thế này, các khanh thật khôn khéo quá chừng, định đoạt cả quyền hóa công. Thật là một chuyện xưa nay chưa có, rất khoái ý trẫm vậy. 

 Bèn sai nội giám đem vàng bạc, lụa gấm, châu ngọc, cùng những đồ chơi kỳ lạ, thưởng cho các viện, các phu nhân, mỹ nữ. Dượng Đế trong lòng vui vẻ, cùng Tiêu Hậu lên lầu, ngắm nhìn từ xa, rồi mới ngồi vào tiệc uống rượu. Chén ngọc, đĩa vàng lấp lánh chói mắt, tiếng tì tiếng trúc rộn ràng bên tai, ai nấy lần lượt rót rượu dâng Dượng Đế. Dượng Đế bỗng cười lớn. 

 - Việc làm của Tần phu nhân thật mới mẻ, khác lệ thường, cắt lụa gấm làm hoa, tăng thêm vẻ đẹp của ngự uyển của đất trời đông giá này, mà chúng cung nữ vẫn chỉ hát khúc xưa, đàn điệu cũ, thì thật là không xứng. Ai mà hát được khúc mới, trẩm xin uống luôn ba chén rượu lớn để mừng. 

 Nói chưa dứt lời, thì thấy một mỹ nhân, mặc áo lụa tím, buộc một giải thắt lưng màu ngọc bích, thiết tha yểu điệu, bước ra thưa: 

 - Tiện thiếp bất tài, cũng xin mạnh bạo dâng chúa thượng một nụ cười mua vui. 

 Ai nấy nhìn lại, thì là một mỹ nhân ở viện Nhân Trí, có tên là Nhã Nương. Dượng Đế khuyến khích: 

 - Hay lắm! Hay lắm! 

 Nhã Nương bước lại gần bàn tiệc, nhẹ nhàng gõ phách, làn môi hồng khẽ động, chẳng khác nào oanh non học hót, hát một bài theo điệu "Như mộng lệnh”, sau đây: 

 Chớ nói phồn hoa là mộng 

 Một đêm kéo làm hạt giống 

 Thức dậy gấm đầy cành 

 Cười ngất gió xuân thật vụng 

 Chúc tụng, chúc tụng 

 Thật đúng, Bồng Lai, tiên động. 

 Dượng Đế nghe xong. thích chí khen: 

 - Hát hay lắm! Không thể không uống. 

 Rồi uống đúng ba chén. Tiêu Hậu cùng các phu nhân mỗi người uống hầu một chén. Tiệc rượu xong, lại thấy một mỹ nhân, mặt mày sáng sủa, tóc chải gọn gàng, hoa nhường nguyệt thẹn, bước ra khỏi hàng quỳ tâu: 

 - Tiện thiếp tuy bất tài, cũng xin dâng thánh thượng một bài từ để chúc mừng. 

 Dượng Đế đưa mắt nhìn, thì đó là Chu quý Nhi ở viện Nghênh Huy. Dượng Đế cười nói: 

 - Nếu là quỷ Nhi thì nhất định là tuyệt diệu rồi, lẽ nào mà hát không hay, lời không đẹp cho được. 

 Quý Nhi rất khoan thai, tay uốn nhịp nhàng, chân bước yểu điệu, cùng hát một bài theo điệu “Như mộng lệnh”: 

 Con gái trời sao khéo giỡn 

 Khóe khéo gấm mây cắt khéo 

 Một tối thẩy đều xuân 

 Tô điểm muôn cành thật giống 

 Phúc lớn! Phúc lớn! 

 Phú quý hoàng gia lồng lộng. 

 Quý Nhi hát xong, Dượng Đế vỗ tay khen: 

 - Hát hay lắm! Nhất là câu cuối! “Phú quý hoàng gia lồng lộng", vừa hợp với vần của câu "Tô điểm muôn cành thật giống", vừa nói được ý có trước có sau đáng khen lắm? 

 Lại cũng uống cạn ba chén nữa, bất giác thấy người ngây ngất, rượu đã quá say, thì thái giám thú uyển Mã Thủ Trung, tiến vào quỳ tâu: 

 - Vương Nghĩa ở ngoài cửa ngự uyển, trình rằng đã làm được một thứ rất lạ, xin dâng lên chúa thượng! 

 Dượng Đế nghe nói đến Vương Nghĩa liền truyền: 

 - Cho phép y vào đây. 

 Chẳng bao lâu đã thấy đến Mã Thủ Trung dẫn Vương Nghĩa vào quỳ dưới thềm, Vương Nghĩa dâng một vật lên trước mặt Dượng Đế tâu: 

 - Trình chúa thượng, thần thê là Khương Đình Đình cảm ơn lớn của chúa thượng, tự dệt một bức trướng, sai thần đem dâng chúa thượng! 

 Dượng Đế sai cung nữ giở ra xem, thì ra đó là một gói nhỏ, bọc bằng gấm, bên trong là một mảnh vải rộng dệt bằng một loại lụa gì đen bóng như sơn đen, mềm nhỏ như sa. Dượng Đế lấy làm lạ, hỏi: 

 - Vương Nghĩa, đây là loại vải gì? 

 Vương Nghĩa thưa: 

 - Thần thê Khương Đình Đình, ngày đêm cảm ơn sâu của chúa thượng, mà không thể nào báo đáp, tự cắt tóc trên đầu xanh của mình, chọn lấy những sợi vừa đen vừa dài. Rồi lấy một loại keo lạ nối lại dệt thành loại vải thì ở trong có thể nhìn rõ cảnh bên ngoài, mà bên ngoài nhìn vào chẳng thấy bên trong. Mùa đông rất ấm, mùa hè lại dịu mát. Mở ra thì vừa rộng vừa dài, mà gấp lại chỉ vừa chiếc gối nhỏ. 

 Dượng Đế khen lạ, sai cung nữ mở rộng ra xem kỹ một lần nữa. 

 Tiêu Hậu cùng các phu nhân xúm lại xem, thấy mỏng, nhẹ như mây như khói, hương thơm tỏa khắp điện, chăng khắp cả gian lớn. Tiêu Hậu nói với Dượng Đế: 

 - Không ngờ Đình Đình lại có thể nghĩ được thế này, lại khéo tay đến thế này. Bệ hạ phải có gì ban thưởng cho họ Khương để bõ công vất vả hàng mấy tháng nay chứ? 

 Dượng Đế nghe Tiêu Hậu nói thế, bèn sai nội giám lấy hai tấm đoạn Quảng Lăng, một chiếc áo choàng màu mây ngũ sắc ban cho Vương Nghĩa rồi phán: 

 - Vợ ngươi thật hết lòng trung nghĩa mà dệt được tấm vải này, trẫm ban cho hai thứ này để đền công khó nhọc. 

 Vương Nghĩa quỳ gối nhận rồi vái lạy ra khỏi ngự uyển. 

 Dượng Đế nói với Tiêu Hậu: 

 - Hôm vừa rồi, hoàng hậu nói chuyện "thiên sàng", có thể nhiều người cùng nằm. Nay lại có cả tấm trướng này, có thể che thừa cả cái giường nhà chùa đó của hoàng hậu. 

 Rồi sai bọn nội thị: 

 - Đem ngay cái giường "Hợp hoan" mà nước ngoài tiến cống và kê ngay ở gian của cung Hiển Nhân, lấy mười cái đệm gấm trải lên trên, rồi treo tấm vải rộng Đình Đình vừa dệt làm trướng cho trẫm. 

 Sai phái đâu đó, cung nhân, nội giám rối rít vâng mệnh, chẳng mấy lúc, công việc xong xuôi. Dượng Đế nói với Tiêu Hậu và chúng phu nhân: 

 - Tần phu nhân thì nghĩ được kế hay, Khương Đình Đình thì có bàn tay khéo léo. Một ngày mà gặp cả được hai chuyện kỳ lạ, thì thật chẳng gì thích hơn nữa. Bởi vậy chúng ta hãy cùng nhau uống rượu say mềm một phen, đêm nay hoàng hậu hãy cùng các phu nhân, kéo lên giường "Hợp hoan" này, vui chơi một tối, liệu có nên chăng? 

 Tiêu Hậu cười: 

 - Chúng phu nhân, mỹ nhân rất đông đủ kia rồi, thiếp thật không tiện tham dự, xin bệ hạ cho được trở về cung thôi. 

 Dượng Đế cười: 

 - Hoàng hậu muốn về phải uống đủ ba chén. 

 Tiêu Hậu vâng theo, uống ba chén rồi đứng dậy về cung, Dượng Đế cùng các phu nhân, mỹ nhân lại tiếp tục vui vẻ trên giường "Hợp hoan" mới kê . 

 Chính là: 

 Nguồn đào nhà có xa đâu 

 Non Vu, đỉnh Giáp chiêm bao đi về. (1) 

 1 Non Vu, đỉnh Giáp: Vua Sỡ đến chơi Cao Đường giữa ban ngày nằm ngủ, thấy một người con gái đến thưa: "Thiếp là thần nữ non Vu, nghe nhà vua tới, xin đến hầu chăn gối". Khi từ biệt thần nữ còn nói: "Thiếp sớm làm mây trên đỉnh Giáp, chiều làm mưa ở chân núi Dương Đài". (Cao Đường phú). 

 Lại nói chuyện hậu cung, còn có một cung nhân là Hầu Phi tử, sinh ra đã là thiên hương quốc sắc, trăm đẹp, ngàn xinh, thật đúng nhạn sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn, trời lại phú cho nét thông minh tài văn tài thơ. Từ ngày được đưa vào cung, cậy mình có tài có sắc lại nghe Dượng Đế là kẻ hiếu sắc trọng tài, trong lòng cũng nghĩ sẽ có lúc được như A Kiều ở nhà vàng, Phi Yến ở gác Chiêu Dương. Nhưng rồi đợi đến hết ngày này sang ngày khác, nào ngờ tài mệnh ghét nhau, sắc chẳng gặp thời, tiến cung đã mấy năm nay, mà chưa bao giờ được thấy mặt Dượng Đế dù một lần. Cả ngày chỉ đốt hương ngồi một mình, hết hoàng hôn rồi lại đến đêm dài, qua bao ngày đêm trong cảnh gió sương lạnh lẽo, ngày xuân, đêm thu dằng dặc, đến nỗi hồn phách rã rời, cho dẫu là người sắt, dạ đồng, cũng không tài nào chịu nổi. Lại thêm ngày tháng trôi đi, ai người có tài kéo lại, đến khi đèn tàn, mộng tỉnh, thì quả là lệ chảy nghìn hàng. Ban đầu còn tiếc dung nhan, những gượng tô son điểm phấn, để mong có ngày quân vương thấy mặt. Nào ngờ tháng ngày như nước chảy mây trôi, ngày lại ngày, ngày nào cũng đều vô vị như nhau, bất giác sương tuyết hao gầy tuy cũng một vài chị em bạn bè thăm hỏi, nhưng cũng chỉ là người sầu thăm kẻ khổ, quang cảnh càng thêm vẻ thê lương, ảm đạm. 

 Một hôm nghe Dượng Đế sai Hứa Đình Phủ vào hậu cung tuyển cung nữ, nhiều ngườikhuyên Hầu phu nhân hãy lấy mấy hạt châu ngọc trang sức của mình mà cho y quách, để y tiến với chúa thượng cho, nhưng Hầu phu nhân nói: 

 - Thiếp nghe Chiêu Quân đời Hán, thà chịu hắt hủi, nhất định không chịu đem nghìn vàng ra để mua chuộc họa sư Mạo Diên Thọ. 

 Tuy một thời bị vứt bỏ, rồi còn bị gã cho chúa Thiên Vu, đến nỗi chỉ còn mỗi khúc tỳ bà cùng đám cỏ xanh lưu lại ngày nay. Nhưng ngược lại tiếng thơm thì nghìn đời còn đó, ai mà không thương tiếc Chiêu Quân, chẳng bao giờ mất tiếng người đẹp nghìn xưa. Thiếp nay tuy chẳng bằng Chiêu Quân, nhưng nếu phải hối lộ tụi tiểu nhân để được chúa thượng yêu vì, thì thực đáng hổ thẹn. Thiếp chỉ giận thân này bạc phận, nếu không được gặp quân vương, thì cũng thật uổng thân này một kiếp. Chỉ bằng chết quách một đường, làm con ma đáng thương của nghìn đời, cũng là một chuyện cưỡng lại cái thân phận bị cày ải ở chốn hậu cung lạnh lẽo này chăng! 

 Về sau lại nghe Hứa Đình Phủ đã kén được một trăm cung nữ để đưa về Tây Uyển, Hầu phu nhân khóc lóc một hồi rồi nói: 

 - Thiếp kiếp này thế là chẳng bao giờ được thấy mặt quân vương, muốn được quân vương để ý đến, thảng hoặc sau khi chết chăng? 

 Nói xong lại khóc, mấy ngày sau cơm canh trà nước đều bỏ, gượng đến bên giường, sửa sang y phục mày mặt gọn gàng, rồi đem mấy bức hoa tiên, có những hoa văn màu đen, đem những bài thơ thổ lộ nỗi lòng, buồn vui của mình chép lại, gói chặt trong túi gấm, buộc ở bên mình, còn lại những bài thơ phú khác, đều vứt vào lửa đốt. 

 Một mình một bóng, lặng lẽ đi vòng quanh một hồi thổn thức trước lan can, khóc rồi lại ngắm, đến chiều thì lủi thủi về phòng, thổn thức mãi hết canh hai. Không chịu nổi sự thống khổ quá đáng, bèn lấy một dải-lụa trắng, treo lên xà nhà mà thắt cổ. 

 Chính là: 

 Hồn thơm tán đứt, sầu thêm lặng 

 Mặt ngọc nhòa phai, oán lại sầu. 

 Một vài cung nữ thấy quang cảnh khác thường, vội vàng chạy vào phòng giải cứu, thì đã ngọc nát châu chìm, hương gãy bình tan, ô hô! Qua đời rồi! Khóc lóc ầm ĩ một hồi, đợi đến sáng ngày mai, việc không giấu được, đành phải đi báo với Tiêu Hoàng hậu. 

 *** 

 Lại nói, Tiêu Hậu khi ở Tây Uyển, uống luôn ba chén rượu lớn, Dượng Đế đành cho về cung. Sáng ngày hôm sau, Dượng Đế tỉnh dậy, vội lên xe rồng, về cung sớm, sai cung nữ chuẩn bị yến tiệc chờ sẵn, để đáp lại yến tiệc mà các phu nhân đã thết ở Tây Uyển hôm qua, bỗng thấy cung nữ của Hầu phu nhân tới thưa chuyện. Tiêu Hậu đi theo nội giám tới xem xét. Bọn cung nữ tìm thấy túi gấm bên mình Hầu phu nhân, đưa trình Tiêu Hậu. Tiêu Hậu mở ra xem, thì ra là thơ tuyệt mệnh, liền cứ như cũ bỏ vào túi gấm, sai cung nhân đem đưa trình Dượng Đế. 

 Lúc này Dượng Đế đang ngồi ở long sàng, xem cung nữ trang điểm, vừa nói chuyện được mất xưa nay với Sa phu nhân ở viện Bảo Lâm. Dượng Đế nói: 

 - Trụ Vương chỉ sủng ái mỗi Đắt Kỷ, Chu U Vương chỉ riêng say đắm Bao Tự, mà bỏ rơi cả thiên hạ, trẫm nay người đẹp đầy trước mặt, mà bốn biển vẫn yên như Thái Sơn, như thế là tại sao? 

 Sa phu nhân thưa: 

 - Đắt Kỷ, Bao Tự làm sao mà đủ sức phá nghiệp nhà Ân, nhà Chu, chính bởi tại Ân Vương, Chu Vương tham luyến sắc đẹp của Đắt Kỷ, Bao Tự, không nhìn ngó gì đến thiên hạ, vì vậy mà thiên hạ ngày càng lìa tan. Nay thì bệ hạ lúc thì đi tuần phía nam, lúc đi thú phía bắc, lưu tâm vất vả trị nước, làm sao chín châu không yên lành cho được. Nay là lúc nhàn rỗi giữa bao công việc, tự vui với cảnh cung cấm, phi tần tuy nhiều, nhưng đều có thứ tự, phép tắc đúng theo lề phong hóa cổ xưa. 

 Dượng Đế cười: 

 - Trụ Vương, Chu Vương tuy là hai vị vua không có đức, nhưng đãi Đắt Kỷ cùng Bao Tự như thế cũng là cùng cực, nên cũng có thể nói là có ơn sâu nặng vậy. 

 Sa phu nhân thưa: 

 - Chỉ trút cả vào một người, thì đó chỉ là tư ái, sủng ái, phải yêu đồng, cho khắp mới là ơn chung ơn lớn vậy. Đó chính là chỗ bại hoại của Trụ Vương, của Chu U Vương, mà cũng là chỗ an hưởng của bệ hạ vậy. 

 Dượng Đế vui mừng: 

 - Phu nhân bàn luận, thật là hợp ý trẫm. Trẫm tuy có hai kinh, mười sáu viện, cung nữ tuy nhiều, đủ màu xanh đỏ, nhưng trẫm đều đối xử rất tận tình, chưa bao giờ bỏ rơi một người nào, khiến họ không có nơi chốn yên ổn, cho nên trẫm luôn thư thái ung dung tự tại bởi chính có ơn mà không có oán vậy. 

 Dượng Đế đang cùng Sa phu nhân sôi nổi bàn cãi thì thấy Tiêu Hậu sai cung nhân đưa trình túi gấm, cùng là trình việc Hầu phu nhân tự tận. Dượng Đế cho rằng đó là một cung nữ tầm thường, dẫu có chết thì chẳng có gì đáng phải hoảng hốt, vẫn cười cười nói nói giở túi gấm ra xem, thấy những tờ hoa tiên cực tinh tế, với những bài từ, bài thơ rất hoa lệ, chữ nào chữ ấy chân phương theo lối chữ khải, nét bút rất tươi tắn, mạnh mẽ, Dượng Đế đã thấy lòng không yên. Lúc này các phu nhân trang điểm đã xong, khăn áo thướt tha xúm lại trước mặt Dượng Đế cùng xem, Dượng Đế mở tờ đầu tiên, thấy hai bài thơ "Xem hoa mai": 

 Bài 1: 

 Thềm đá không tan tuyết 

 Cuối rèm mày bỗng nhăn 

 Trước sân mai khéo thương ta lắm 

 Lấp lánh đầu nhành một nhánh xuân. 

 Bài 2: 

 Thương hương tàn sắc lạnh 

 Ai biết ấy trời sinh 

 Cánh mai là ta, hơi xuân ấm 

 Riêng để trăm hoa tươi trước mành. 

 Dượng Đế mới xem hết hai bài thơ đã kinh ngạc vô cùng, không ngăn được lời than thở: 

 - Sao ở trong cung lại có người đẹp tài giỏi đến thế này? 

 Rồi vội vàng mở xem tiểp tờ thứ hai. thấy có chép bốn bài, một bài “Điểm trang xong” và ba bài “Tự cãm” . 

 “Điểm trang xong”: 

 Điểm trang xong tủi phận 

 Mộng đẹp hóa cơn buồn 

 Chẳng bằng hoa dương sớm 

 Xuân về bay khắp thôn 

 “Tự Cảm”, bài một: 

 Muốn khóc không còn lệ 

 Buồn ca cổ nghẹn lời 

 Mà hoa vẫn rực rỡ 

 Sao thế hỡi xuân ơi! 

 “Tự cảm” , bài hai: 

 Trước sân, xe mất vết 

 Đất lõm cỏ non chẹt 

 Văng vẳng đàn sáo nào 

 Ơn vua về đậu hót? 

 “Tự cảm” , bài ba: 

 Bóng xuân dài dằng dặc 

 Một bước một ngẩn ngơ thẹn không bằng cỏ dại 

 Mưa móc thấm chan hòa. 

 Mở sang tờ thứ ba là một bài cổ phong, ngũ ngôn, gồm hai mươi sáu câu có tên là “Tự thương” . 

 Buổi mới lạ vào Thừa Minh điện 

 Cảnh thâm ẩn hiện không nguôi 

 Cảnh dài bảy tám năm trời 

 Quân Vương chảng một lần vời lược gương 

 Rét xuân buốt thấu xương 

 Chiếc bóng lặng buồng không 

 Quanh hè hài lệt xệt 

 U uất lòng thương lòng 

 Đêm khuya bỗng nhớ vòng tuổi trẻ 

 Chẳng hơn ai cũng thể khác thường 

 Vì đâu tươi hóa nên tàn 

 Cái câu bạc mệnh muôn vàn xót xa 

 Ơn chúa cao dày nhưng vắng xa 

 Bàng hoàng lòng thiếp bóng chiều tà 

 Quê hương cốt nhục ai là chẳng 

 Tựa cửa chẳng vâng bóng mẹ già? 

 Chim đất khách chơ vơ lông cánh 

 Cổng tường cao xa lánh được sao? 

 Mạng ta nặng nhẹ thế nào 

 Nỡ đem cất giữ tháp cao lụa đào 

 Kèo cao lụa một giải 

 Gan ruột như trào sôi 

 Đưa đau vào ngần ngại 

 Muôn sợi thắt rối bời 

 Lẽ tử sinh tuy hai mà một 

 Quê suối vàng nhẹ gót từ đây. 

 Dượng Đế đọc chưa hết đã rơi nước mắt nói: 

 - Đây chính là lỗi của trầm. Trẫm nào có thương tài ái sắc gì đâu ngay ở trong cung này thôi mà để mất bậc tài hoa thế này. Đau xót thay, tiếc thương thay! 

 Nói xong gạt nước mắt, giở sang tờ thứ tư, chỉ có một bài "Di ý". 

 Tước run động kín trồng tiên thảo 

 Trạm chỗ thâm cung nhốt ngọc nhân 

 Diên Thọ phải đem mà chặt thủ 

 Sao không vẽ đúng ảnh Chiêu Quân? 

 Dượng Đế xem hết, nổi giận đùng đùng: 

 - Thì ra có một chuyện dối trá ở đây! 

 Sa phu nhân hỏi: 

 - Ai dối ai, thưa bệ hạ? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Trẫm trước đây sai Hứa Đình Phủ vào hậu cung tuyển người đẹp sao lại không tuyển Hầu phu nhân? Ở đây nhất định có chuyện dối trá. Bài thơ cuối cùng này là oán Hứa Đình Phủ không tuyển phu nhân, vì vậy ngậm hờn oan mà chết. 

 Bèn sai người gọi ngay Hứa Đình Phủ tới. Giả phu nhân ở viện Giáng Dương thưa: 

 - Hứa Đình Phủ chỉ biết đến dung mạo thôi, còn làm sao biết được tài mẫn tiệp của Hầu phu nhân thưa bệ hạ? Dù tài năng thế nữa, nhưng không chắc dung mạo đã tương xứng. Bệ hạ sao không sai người đem đến xem. Nếu như nhan sắc bình thường, thì tội Đình Phủ còn có thể tha thứ. Nếu như tài mạo kiêm toàn, hãy sai gọi đến cũng chưa muộn. 

 Dượng Đế phán: 

 - Nếu không phải là bậc tuyệt thế giai nhân, thì làm sao có được lời hoa gấm như thế này. Nhưng cứ như lời khuyên của các khanh, trẫm hãy tự thân đến xem sao? 

 Bèn từ biệt đám phu nhân, lên xe rồng về cung, Tiêu Hậu ra đón, rồi cùng vào hậu cung xem xét, thấy Hầu phu nhân khoảng hai mươi tuổi trở lại, tuy đã chết, nhưng y phục, đầu tóc chỉnh tề, nhan sắc vẫn như lúc sống vậy, má hồng trán trắng mịn, chẳng khác gì đóa hoa đào sắp nở rộ. Dượng Đế thấy thế, cũng chẳng nghĩ tới tử sinh cách biệt, lại gần vuốt ve trên người Hầu phu nhân, rồi lớn tiếng khóc: 

 - Trẫm vốn là một kẻ yêu tài, mến sắc, mà ngay trong cung cũng để mất người tài sắc bậc này. Phu nhân là kẻ tài sắc vẹn toàn, gần nhau trong tấc gang mà không được gặp gỡ. Chẳng phải là trẫm phụ phu nhân đâu, mà chính bởi phu nhân mang số bạc mệnh trong người mình đấy thôi. Không phải phu nhân không được gặp trẫm, mà chính là do trẫmô duyên. Phu nhân ở tuyền đài, cũng đừng oán trẫm. 

 Nói xong lại khóc, khóc xong lại nói, thổn thức rồi thổn thức, cũng chẳng khác gì Khổng Phu Tử khóc con kỳ lân chết vậy, đều mười phần bi thương. 

 Chính là: 

 Đức thánh khóc đạo 

 Người thường thương sắc 

 Đau lòng như nhau 

 Cách xa trời vực. 

 Tiêu Hậu khuyên: 

 - Người mất, đàn tan, bi thương cũng chẳng ích gì, xin bệ hạ hãy giữ gìn. 

 Dượng Đế bèn truyền lệnh bắt Đình Phủ hạ ngục, hỏi tội cẩn thận, lệnh cho thái giám chuẩn bị y phục, quan tài để hậu táng Hầu phu nhân. Lại sai cung nữ tìm thêm thơ văn của Hầu phu nhân, bọn cung nữ tâu: 

 - Trình chúa thượng, Hầu phu nhân làm thơ rất nhiều, trước khi chết một ngày, khóc than rồi đốt hết tất cả rồi. 

 Dượng Đế vô cùng tiếc thương, lại lấy những bài thơ trong cẩm nang đặt trên bàn xem một lần nữa, tiếc thương một lần nữa, đọc một lần nữa, muôn ngàn trân trọng. Rồi giao cho các phu nhân để phổ thành nhạc hát. 

 Chúng phu nhân đều nghe biết chuyện Dượng Đế hậu tình làm tang lễ Hầu phu nhân, nên cũng kéo đến dự, đem theo cả lễ vật. Dượng Đế tự viết văn tế, trong đó có những câu: 

 Năm năm đằng đẵng 

 Trắng lạnh hương tàn 

 Khanh không gặp trẫm 

 Ấy ai thương khanh 

 Khanh không gặp trẫm 

 Gối chiếc mộng tàn 

 Trẫm không gặp khanh 

 Ân hận suối vàng 

 Trẫm thương khanh mất 

 Như thương còn khanh. 

 Rồi lại khóc than chua xót, không thể nào nói hết. Dượng Đế làm xong, tự mình ngâm đọc một hồi, đến Tiêu Hậu cũng phải nhỏ nước mắt rồi nói: 

 - Bệ hạ hà tất phải tiếc thương sầu thảm đến thế! 

 Dượng Đế đáp: 

 - Chẳng phải trẫm đa tình đâu. Mà chính là tình đến làm đau lòng, trẫm cố ngăn cũng không được. 

 Chúng phu nhân cũng vang lời than khóc, Dượng Đế đứng tế Hầu phu nhân một lễ, rồi đem bài văn tế đốt trước linh sàng, tìm đất mai táng. Lại sắc cho quan huyện, quan quận, hậu tuất cho cha mẹ Hầu phu nhân. Còn Hứa Đình Phủ bị hình quan tra khảo, không thể chối được, bèn đem chuyện đòi hối lộ vàng ngọc thế nào cung khai rõ ràng. Hình quan cứ thế tâu trình, Dượng Đế vô cùng tức giận, đòi đem ra giữa chợ Đông chém ngang lưng. Nhưng rồi được chúng phu nhân xúm lại khuyên giải nhiều lần, nên Dượng Đế bằng lòng cho Hứa Đình Phủ phải tự chết trong ngục. 

 Chính là: 

 Suốt đời tham lợi cậy quyền 

 Nào hay tài lại vần liền với tai 

 Chóng chầy một tối một mai 

 Cặp kè lũ lượt về nơi... vạc dầu. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Hai Mươi Chín

Tùy Dượng Đế hai viện xem hoa,

 Chúng phi tần một thuyền chơi biển.

 Từ rằng: 

 Buồn vừa dứt, vui tiếp ngay 

 Nhà trời sớm đã khéo bày trò chơi 

 Đào đào lý lý sắc tài 

 Giải phiền một chén, u hoài vơi chưa? 

 Đá Bắc Hải, liễu Ngũ Hồ 

 Xa trông trời nước nào bờ bến đâu? 

 Gối tiên chợt tỉnh chiêm bao 

 Tựa hồng dựa biếc thì thào riêng tây. 

 Theo điệu "Đạp sa hành” 

 Con người ta trong chuyện tiền tài, sắc dục, khó ai có một cái nhìn thật sáng suốt, huống chi bậc thiên tử, tột cùng của sự phú quý, giàu có bốn biển, không ai sánh nổi sự xa hoa, thì trong sự hoang dâm thanh sắc, ai là người đứng ra ngăn cản, cho nên Dượng Đế lại càng mặc sức, mặc lòng. Dù điềm trời có thể hiện ở cây cỏ, ở muôn vật nữa, thì tai như không nghe, mắt như không thấy, cho nên chuyện quốc phá, thân vong là điều không thể tránh khỏi vậy. 

 ** 

 Lại quay lại chuyện Dượng Đế đã bắt Hứa Đình Phủ tự vận trong ngục, nhưng vẫn chưa quên ngay được chuyện Hầu phu nhân, mọi người trong cung hết sức khuyên giải, nhưng Dượng Đế vẫn rầu rĩ không nguôi. Tiêu Hậu giảng giải: 

 - Người chết chẳng bao giờ có thể sống lại. Có nghĩ ngợi lắm cũng chẳng ích gì. Ví như sau khi Tuyên Hoa phu nhân mất, lại có một loạt phu nhân thay thế. Nay biết đâu ở hậu cung vẫn còn nhiều bậc tài sắc, mà bệ hạ chưa biết đến cũng nên? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Hoàng hậu nói có lý lắm! 

 Liền truyền chỉ cho các cung, không kể tài nhân, mỹ nhân, tần phi, thái nữ, ai có sắc có tài, giỏi hát giỏi đàn, hoặc các tài khác lạ, cứ việc tâu tên họ rồi đến Hiển Nhân cung thi tài ngay trước mặt vua cùng hoàng hậu. 

 Chỉ ban ra, hết ngày này sang ngày khác, có kẻ giỏi vẽ, kẻ hay hát, đàn hay, đều kéo đến Hiển Nhân cung thi tài. Dượng Đế vui mừng bày tiệc rượu ra ngay điện lớn của Hiển Nhân cung, mời Tiêu Hậu cùng mười sáu phu nhân ở mười sáu viện tới, để cùng lựa chọn. Dượng Đế cùng Tiêu Hậu ngồi trên long sàng, chúng phu nhân ngồi thành hai hàng tả hữu. Lúc xem vẽ vời, lúc nghe thơ phú, rồi lại nghe nhạc, xem múa, nghe đàn, xem các xảo thuật linh tinh. Thôi thì tha hồ cho bút mực tung hoành, âm nhạc du dương, châu ngọc rộn ràng, loan phượng tề minh. Dượng Đế thấy toàn những tài năng, những nhan sắc khác thường, lòng lấy làm vui vẻ, phán rằng: 

 - Lần tuyển lựa này, nhất định ta sẽ không còn sót một viên ngọc quý nào nữa. Chỉ thương cho Hầu phu nhân, không sống lại được để mà dự. 

 Rồi thưởng cho tất cả mỗi người ba chén rượu, ghi tên họ vào các hạng mục rõ ràng, kẻ thì được phong mỹ nhân, người được thăng tài nhân, cộng tất cả là hơn một trăm người, đều nhất loạt được đưa vào Tây Uyển. Mọi người đã được phân chia đâu đó, vẫn còn một cung nữ chẳng thấy thi thơ văn, cũng chẳng trổ tài họa tranh, viết chữ, chẳng ca, chẳng múa, chỉ đứng một bên. Dượng Đế nhìn kỹ, thì thấy: 

 Quả là: 

 Vẻ phong lưu, dáng kỳ dị 

 Thần thanh tuấn, tướng cao quý 

 Không son chẳng phấn khác người 

 Thiên tư hiếm có cõi thế 

 Dượng Đế vội vàng hỏi: 

 - Khanh tên họ là gì? Ai nấy đều trổ tài văn thơ, h͡ viết, thi khéo thi khôn. Sao khanh vẫn chưa nói năng gì cả, mà lại vẫn đứng ở đây? 

 Cung nữ vẫn không hề hoảng hốt, bước lên thong thả thưa: 

 - Tâu chúa thượng, thiếp họ Viên, người ở Quý Khê, thuộc Giang Tây, tiểu tự là Tử Yên. Từ ngày, nhập cung đến giờ, chưa từng được thấy thiên nhan. Nay mới được dự tuyển, cũng liều chết để thưa cùng chúa thượng. 

 Dượng Đế hỏi: 

 - Khanh đã đến đây gặp trẫm rồi, có tài năng cao thấp thế nào, khanh cứ nói xem sao? 

 Tử Yên thưa: 

 - Thiếp tuy có tài mọn, nhưng lại không thuộc loại múa hay, hát giỏi, mà lại có thể làm người khác không chịu nổi nữa kia! 

 Dượng Đế lại hỏi: 

 - Nếu không phải tài ca, giỏi múa, thì còn là tài gì nữa kia? 

 Tử Yên thưa: 

 - Thiếp từ nhỏ đã học được phép xem thiên văn. Cho nên tất cả những việc nữ công, gia chánh đều bỏ không nhìn tới. Nay vẫn chẳng biết gì chuyện đó, chỉ biết xem sao, nhìn trời đất, khí tượng, đoán rõ ngũ hành, tính được vận mạng của bậc thiên tử, của quốc gia mà thôi! 

 Dượng Đế vô cùng kinh ngạc: 

 - Đó chính là môn học của các bậc thánh nhân. Khanh là hạng đàn bà, tuổi ít, thì làm sao hiểu thấu những chuyện cao siêu huyền bí được? 

 Tử Yên thưa: 

 - Thiếp lúc nhỏ, may gặp một ni cô già, nói thiếp có đôi mắt ánh sáng khác lạ, có thể nhìn được bầu trời, tinh tú, vì vậy được ni cô dạy xem thiên văn, nào là chuyển cơ, nào là ngọc hạnh đều được xem qua, kể cả ngũ vĩ, thất chính đều được ni cô giảng giải tường tận. Lại luôn luôn khuyến khích thiếp, hãy gắng mà học cho giỏi, mai kia có thể làm thầy bậc đế vương, vì vậy thiếp ngày đêm ra công cũng biết được một đôi điều. 

 Dượng Đế phán: 

 - Trẫm thuở nhỏ, không sách nào là không xem. Chỉ tiếc rằng các loại sách thiên văn, không được học kỹ càng. Nay các đài quan, ngày ngày trình điềm họa phúc, kể tượng đất trời, tinh tú, trẫm cũng chẳng hiểu gì lắm. Nay mà khanh lại biết được những điếu này, thì trẫm sẽ cho xây ngay đàn trong cung này, rồi phong khanh làm quý nhân, kiêm chức nữ tư thiên giám, chuyên trông coi việc đất trời, cai quản nội tư thiên giám vậy. Như thế thì trẫm lúc nào cũng được ngửa trông thiên tượng, cũng là một việc thích ý vậy. 

 Tử Yên vội vàng lạy tạ, Dượng Đế liền cho phép ngồi sau hàng chúng phu nhân. Tiêu Hậu chúc mừng: 

 - Lần tuyển chọn này, không những được rất nhiều người tài kẻ sắc lại được cả Viên Quý nhân, biết xem thiên văn, giúp sáng mệnh trời, thật bởi phúc lớn của bệ hạ nên vậy. 

 Dượng Đế vui vẻ vô cùng, cùng với các phu nhân uống rượu mãi tới khi trăng lên rồi chẳng chờ cho đến khi đắp được thiên đàn, cùng Viên Quý nhân lên nguyệt đài, sai cung nhân lấy rất nhiều bàn lớn, sập rộng, chất thành một đài cao. Dượng Đế kéo Tử Yên lên, cùng nhau xem bầu trời, hai hàng cung nữ đứng hầu phía dưới. Thoạt tiên, Tử Yên chỉ cho Dượng Đế thấy tam đàn, cùng phân giới của nhị thập bát tú. Dượng Đế hỏi: 

 - Những gì thì gọi là tam đàn? 

 Tử Yên đáp: 

 - Tam đàn là gồm: Tử vi đàn, Thái vi đàn, cùng Thiên thị đàn. Tử vi thì ứng cung khuyết với kinh đô của lộc tiên tử, thái vi thì ứng những chính lệnh của thiên tử với các nước chư hầu, Thiên thị chính là thể hiện quyền hành của bậc thiên tử ở các thành thị, nơi đô hội. 

 sao rõ , khí sáng là điềm quốc gia hòa yên, phúc lộc. Sao Tuệ (1) rực rỡ chiếm xâm giới phận khác, là lúc quốc gia gặp phải hồi ly loạn, chiến tranh. 

 1 Sao Tuệ, Sao Bột, đều chỉ sao chổi, loại sao ngày xưa cho là điềm chiến tranh, đói kém! 

 Dượng Đế lại hỏi: 

 - Hai mươi tám vì sao giăng kín bầu trời, chia rõ cương phận ứng với các phần đất, biết thế nào là xấu là tốt được? 

 Tử Yên thưa: 

 - Giá như Ngũ tinh phạm vào Hà phận, thì biết ngay vùng Hà có hỏa tai, hoặc binh đao, việc táng thất, hoặc thủy tai. Những điểm này đều được biểu hiện bằng màu sắc thanh, hoàng, xích, hắc, bạch, gồm năm màu để phân biệt. 

 Dượng Đế lại hỏi: 

 - Thế còn vì sao nào thì ứng với bậc đế vương? 

 Tử Yên đưa tay chỉ về phía bắc: 

 - Trong Tử vi đàn kia, có năm ngôi sao làm thành một dãy liền, ngôi đầu tiên là chỉ về phía mặt trăng, về Thái tử, ngôi thứ hai chỉ về mặt trời, vừa có đủ màu đỏ, vừa lớn nhất, chính là sao đế vị đấy! 

 Dượng Đế giương mắt nhìn theo: 

 - Làm sao mà đế tinh lại nhấp nhánh thế kia hở khanh? 

 Tử Yên thưa: 

 - Sao đế dao động, không ổn định, là có ý nói chúa thượng thích đi lại nay đây mai đó. 

 Dượng Đế cười đáp: 

 - Trẫm quả thích ngao du đây đó thật, đó chi là việc rất nhỏ, tại sao các vì sao đó cũng ứng được những chuyện như vậy. 

 Tử Yên đáp: 

 - Thiên tử là người đứng chủ thiên hạ, nhất cử nhất động đều ứng với tượng trời đất. Vì vậy các bậc vua chúa xưa nay, không bao giờ tự tiện dám làm điều xằng bậy, phóng túng, chính là vì sợ mệnh trời vậy. 

 Dượng Đế lại nhìn ngó cẫn thận một hồi nữa rồi lại hỏi Tử Yên: 

 - Trong khu Tử vi đàn tại sao xem ra khí tượng không được sáng rõ? 

 Tử Yên thưa: 

 - Thiếp quả không dám nói! 

 Dượng Đế phán: 

 - Thiên tượng thế nào, đã bày cả ra đó. Khanh không chịu nói rõ cho trẫm, chính là khanh đã mắc tội khi quân vậy. Huống chi chuyện hưng vong đều là chuyện mệnh số, khanh có nói cũng chẳng hại gì cả? 

 Tử Yên thưa: 

 - Tử vi mờ tối, chỉ sợ vận nước không được lâu dài cho lắm! 

 Dượng Đế trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi mới cất tiếng hỏi tiếp: 

 - Việc này liệu có cách nào để cứu vớt được chăng? 

 Tử Yên đáp: 

 - Tử vi tuy có mờ tối, nhưng may mà minh đường vẫn thấy còn sáng tỏ, thái gia (1) đều là một. Phương chi chí thành thì có thể thay được mệnh trời. Nếu thánh thượng lo sửa đức lớn, thì có thể sửa được cả tượng trời, có gì phải lo rằng không cứu vớt được thiên mệnh. 

 1 Minh đường: tên sao, gồm ba ngôi, chủ về thiên tử. (Đừng nhầm với "minh đường" ở cuối hồi thứ hai mươi tập 1, là nhà lớn đẹp, để thiên tử tuyên giảng đạo đức, đón tiếp chư hầu hoặc tế tự). Thái Giai: đồng nghĩa với từ "tam đàn" ở trên (Nguyên là tam viên, Từ Hải) 

 Dượng Đế phán: 

 - Nếu còn có cơ vãn hồi được, thì chẳng có điều gì đáng lo cả! 

 Hai người xuống đài, trông thấy từ góc tây bắc, một luồng khí đỏ như vẩy rồng thành một đám đài lớn, bốc lên ngùn ngụt. Tử Yên vội giương mắt nhìn theo, không giấu nổi vẻ kinh hoàng, vội vàng: 

 - Đó chính là khí thiên tử vậy, làm sao lại ở chỗ ấy cho được? 

 Dượng Đế vội quay lại nhìn quả nhiên sắc đỏ bừng bừng, hiện đủ năm màu, che khắp nửa bầu trời, thật mười phần kỳ lạ. Dượng Đế bất giác cũng sợ hãi, mới hỏi: 

 - Tại sao khanh lại biết đó là khí thiên tử? 

 Tử Yên thưa : 

 - Hiện đủ năm màu, có hình dáng như rồng như phượng, làm sao mà không phải cho được. Ở nơi khí bốc lên như thế, nhất định là có bậc khác thường. 

 Dượng Đế lại hỏi: 

 - Đám khí này ứng với địa phận nào? 

 Tử Yên lại giơ tay chỉ: 

 - Đây chính là phận Sâm Tĩnh, cũng chẳng đâu xa, có lẽ ở vùng Thái Nguyên chăng? 

 Dượng Đế phán: 

 - Thái Nguyên ở Tây Kinh không xa. Ngày mai trẫm sai người đến lặng lẽ tìm khắp nơi, nếu thấy kẻ nào ra vẻ dị tướng, dị nhân, giết quách đi, thì họa này cũng hết hẳn, chẳng còn sợ gì nữa phải không? 

 Tử Yên thưa: 

 - Đây chính là ý trời, chỉ sợ sức người không trừ diệt nổi. Chỉ xin bệ hạ giữ gìn cẩn thận, nêu cao đức sáng, thì may ra điềm họa có thể tự tiêu. Nhớ lúc trước, ni cô già có truyền cho thiếp ba câu kệ ngăn sau đây: 

 Đuôi trâu, đầu cọp 

 Binh đao loạn lạc 

 Ai sẽ làm vua, con người thợ mộc. 

 Nếu lấy chữ "mộc" với chữ “tử” là con mà đặt chữ “mộc" trên, "tử” dưới thì là chữ "Lý". Nhưng ý trời huyền diệu, thật khó mà suy đoán cho cùng. 

 Dượng Đế phán: 

 - Ý trời đã định, có lo âu sầu não cũng chẳng xong. Đêm nay đẹp thế này, hãy cùng khanh kịp thời hành lạc đã. 

 Rồi xuống đài, cùng với Tiêu Hậu và chúng phu nhân uống thêm mấy chén rượu. Tiêu Hậu dẫn chúng phu nhân ra về, Dượng Đế ở lại Hiển Nhân cung với Tử Yên đêm ấy. 

 Sáng hôm sau, khi Dượng Đế trở dậy rửa mặt chải đầu, bỗng thấy Dương phu nhân ở viện Minh Hà sai một nội giám lại thưa: 

 - Thưa chúa thượng, dạo trước huyện Toan Tảo có dâng cây ngọc lý, từ bấy đến nay, chưa một lần có hoa. Đêm qua bỗng hoa nở đầy cây trắng cả một vùng lớn, khắp viện tỏa hương thơm ngát, thật là điềm phúc lớn, xin chúa thượng hãy tới thưởng ngoạn. 

 Đêm qua Tử Yên nói đến "con thợ mộc", họ "Lý" nay lại thấy nội giám trình như vậy, Dượng Đế trong lòng có phần không vui, trầm ngâm hồi lâu, rồi hỏi: 

 - Cây ngọc lý ấy lâu nay không nở hoa, làm sao nay lại bỗng có hoa. Nhất định có điều gì khác thường chăng? 

 Nội giám thưa: 

 - Quả thật là có chuyện khác thường, thưa bệ hạ. Đêm qua tất cả mọi người trong viện Minh Hà, đều nghe có tiếng thần nhân hàng nghìn người, đứng ở dưới gốc cây ngọc lý mà nói rằng: "Con thợ mộc" đang lúc thịnh thời, chúng ta nên ra tay phù trợ. Chúng con đều không dám tin, không ngờ sáng mai ra, mới thấy hoa lá đầy cành, mười phần tươi tốt. Thế này thì đúng là chúa thượng phúc lớn ngang trời mới sinh ra điềm quý như thế này. 

 Dượng Đế nghe thế, lại càng thêm nghĩ ngợi, phân vân không định, thì lại thấy một thái giám tới tâu rằng: 

 - Kẻ hèn mọn này được Chu phu nhân ở viện Thần Quang sai tới trình bệ hạ. Số hoa dương mai, dạo trước chuyển ở Tây Kinh về, đêm hôm qua bỗng nở đầy cây, mười phần rực rỡ. Xin mời bệ hạ hãy tới ngỠlãm. 

 Dượng Đế thấy tâu dương mai cũng thịnh khai, cây này chính hợp với Dương của nhà Tùy mình, mới thấy trong lòng vui vẻ ít nhiều: 

 - Dương mai cũng nở rộ, hay lắm, hay lắm! 

 Bèn hỏi thái giám: 

 - Làm sao chỉ trong một đêm mà lại nở rộ như vậy? 

 Thái giám thưa: 

 - Đêm qua ở dưới cây hoa, thấy có rất nhiều thần nhân trò chuyện rằng: "Hoa này đã tới lúc khí vận cực điểm, hãy để nở cho kỳ hết". Sáng ra xem, chẳng cây nào là cây không có hoa rực rỡ. 

 Dượng Đế phán: 

 - Dương mai nở hoa nhiều như thế, so với ngọc lý ở viện Minh Hà thì thế nào? 

 Thái giám thưa: 

 - Kẻ hèn mọn này chưa thấy hoa ngọc lý. 

 Tử Yên đứng bên cạnh thưa: 

 - Cả hai loài hoa cùng lúc nở rộ, đúng là có quan hệ đến vận mạng của quốc gia. Sao bệ hạ không tới tận nơi xem sao? 

 Dượng Đế nghe lời, liền phán: 

 - Trẫm cùng khanh tới vậy! 

 Rồi lên xe rồng, có Tử Yên đi theo, đến Tây Uyển, đã thấy Dương phu nhân và Chu phu nhân chờ sẵn, Dượng Đế hỏi: 

 - Dương mai đưa ở Tây Kinh về, vốn là những cây lâu đời, nên ra hoa nhiều cũng còn có lý. Còn ngọc lý do huyện ngoài biên mới dâng, bất quá cũng chỉ mới quen đất lạ, sao lại cũng nở rộ cho được. 

 Hai phu nhân thưa: 

 - Xin thánh thượng tự tới xem sẽ rõ. 

 Chẳng mấy chốc đã tới Minh Hà viện, Dương phu nhân mời Dượng Đế ra xem ngọc lý. Dượng Đế không chịu xuống xe rồng mà rằng: 

 - Trước tiên hãy tới xem dương mai đã, ngọc lý xem sau. 

 Dương phu nhân không dám nài, đành theo xe rồng đi tiếp viện Thần Quang. Dượng Đế vào viện, đến gần dãy dương mai, thì thấy đầy cành hoa gấm, chi chít khắp từ gốc tới ngọn. Dượng Đế cả mừng mà rằng: 

 - Đúng là rực rỡ ít thấy. Vận quốc gia đến hồi thịnh vượng, chẳng cần bói toán cũng có thể thấy rõ ràng. 

 Chẳng mấy chốc, phu nhân cung nữ các viện nghe nói hai viện nở hoa đầy cành, đều kẻo tới xem, ai nấy đều hết lời ca ngợi. Dượng Đế mười phần hoan hỉ, bèn sai bày tiệc rượu thưởng hoa. Chúng phu nhân do không rõ ý riêng của Dượng Đế đều tâu rằng: 

 - Tâu bệ hạ, nghe nói ngọc lý cũng nở hoa rất đẹp, sao bệ hạ không tới ngự lãm? 

 Dượng Đế phán: 

 - Có lẽ không thể bằng dương mai được? 

 Chúng phu nhân thưa: 

 - Bằng hoặc hơn có gì khác nhau. Tất cả đều thử đến xem thế nào? 

 Dượng Đế bị chúng phu nhân thúc giục, không thể chối được, đành phải cùng đến viện Minh Hà. Vào tới viện, đã thấy hương thơm kỳ lạ xộc vào mũi, hoa lạ đầy cành, nhụy phô lấp lánh. Chẳng khác gì được làm bằng châu ngọc trắng trong, soi sáng cả một vùng Tây Uyển, đúng là phải có bàn tay của quỷ thần phù trợ mới được như thế vậy thật không giống gì với những gốc dương mai. 

 Có bài từ "Đạp sa hành" để làm chứng sau đây: 

 Mây trắng xuôi, mây xanh kéo ngược 

 Hạt mưa rơi đọng ngọc trên hoa 

 Một đêm nở rộ sáng lòa 

 Chẳng phiền xuân gọi, chẳng qua xuân mài 

 Được trời đất tài bồi khéo léo 

 Lại quỉ thần toan liệu tinh sao 

 Đông hoàng trói buộc được nào 

 Hương thiêng chợt thoảng đưa cao hóa rồng 

 Hoa hèn đâu dám tranh hùng. 

 Dượng Đế thấy hoa ngọc lý mười phần sáng lạn huy hoàng, chẳng giống các loài cây tầm thường mà khác gì cây ngọc cây ngà, cây quỳnh cành dao vậy, thì mắt trừng, miệng cứng, một hồi lâu không thốt ra lời. Chúng phu nhân chẳng rõ nguồn cơn, lại chỉ thi nhau ngợi ca ngọc lý. Bọn nội giám cũng thế, hết lời này khen đẹp, tiếng khác khen thơm, thi nhau ngợi tán sự kỳ lạ. Dượng Đế bỗng lớn tiếng quát: 

 - Cái cây ty tiện này, bỗng nhiên nở hoa như vậy, nhất định là do yêu thuật, tà ma, để giống này chỉ mang họa. 

 Rồi sai tả hữu, dùng búa chặt tận gốc. Chúng phu nhân vô cùng kinh sợ, thưa: 

 - Hoa nở đầy cành, đúng là diễm phúc của quốc gia, làm sao lại là yêu nghiệt, cúi xin bệ hạ nghĩ lại. 

 Dượng Đế vẫn phán: 

 - Các khanh không thể hiểu được đâu. Chỉ có thể chặt đi là tốt hơn cả thôi. 

 Chúng phu nhân khuyên giải trăm đường, nhưng Dượng Đế đời nào chịu nghe. Chỉ có Tử Yên là hiểu rõ đầu đuôi, liền thưa với Dượng Đế: 

 - Hoa này tuy nở rất rực rỡ. Nhưng càng nở lắm thì càng chóng tàn, nên chỉ sợ không được lâu đâu. Nay xin bệ hạ hãy lấy rượu mà tưới vào thì yêu nghiệt cũng hết, mà trở nên điềm lành vậy. 

 Bọn nội giám đang đứng chờ, chưa nỡ ra tay, thì thấy báo hoàng hậu tới. Nguyên là Tiêu Hậu cũng được tin hai viện hoa nở, nên cũng tới xem. Chúng phu nhân nhất tề ra đón, rồi thưa: 

 - Hoa đẹp như vậy, nhưng chúa thượng cho là loài yêu nghiệt, bắt đem chặt đi, xin hoàng hậu khuyên giải cho. 

 Tiêu Hậu lạy chào Dượng Đế, rồi ra xem kỹ ngọc lý, thì đúng quả như lời mọi người, Tiêu Hậu trầm ngâm lúc lâu rồi hỏi Dượng Đế: 

 - Tại sao bệ hạ lại truyền chặt cây hoa này? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Hoàng hậu là người thông minh, sao lại còn hỏi câu này? 

 Tiêu Hậu nói: 

 - Đây chính là ý trời, chẳng phải yêu nghiệt gì đâu. Có chặt cũng chẳng có ích gì. Bệ hạ nếu uy đức chưa đủ, thì hãy lấy cái uy đức của cái cây quý này mà thêm vào cho đủ vậy. 

 Dượng Đế đáp: 

 - Hoàng hậu phân xử thật sáng suốt, nhưng hãy cùng trẫm tới xem dương mai thì hơn. 

 Rồi không bắt chặt ngọc lý nữa, cùng với Tiêu Hậu và các phu nhân quay sang viện Thần Quang xem dương mai. 

 Tiêu Hậu thấy dương mai cũng rất rạng rỡ, tuy vẫn không sánh nổi ngọc lý, nhưng ít nhiều hiểu được tâm trạng cửa Dượng Đế, nên cũng lựa lời tâu: 

 - Dương mai hương thanh, sắc đẹp, hấp dẫn được chính khí của đất trời. Ngọc lý chẳng qua chỉ được vẻ yêu kiều. Cứ theo như ý thiếp, thì dương mai đáng được xếp trên ngọc lý. 

 Dượng Đế mới cười nói: 

 - Hoàng hậu thật có mắt nhìn hơn người. 

 Rồi sai bày lại tiệc rượu thưởng hoa, ai nấy cùng nâng chén mừng. Uống được vài chén, nhưng rượu chẳng làm nên chuyện, trong lòng mọi người đều không thư thái. Dượng Đế cũng thấy thế, nhìn chung quanh một hồi, rồi đứng ngay dậy mà truyền: 

 - Cảnh xuân đẹp đẽ nhường nào, chỗ nào cũng như thơ như phú, sao lại ngồi giữa gốc cây này mà uống rượu cho được! 

 Tiêu Hậu tiếp lời: 

 - Bệ hạ phán đúng quá. Chi bằng đến quách Ngũ Hồ mà ngồi vậy. 

 Dượng Đế lại tiếp: 

 - Ta ra hẳn Bắc Hải một chuyến, cho tầm mắt được mở rộng nhìn trời đất. 

 Chúng phu nhân nghe thế, liền sai nội giám cung nữ đưa mọi thứ lên thuyền rồng, xong xuôi đâu đó, Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, các phu nhân lên thuyền. Thuyền liền rời bến ra Bắc Hải, trời trong, gió thuận, mây nước một màu, so với cảnh trong viện thì khác hẳn. 

 Vườn ngự gió đông mượt 

 Thổi xuân đầy mặt ngời . 

 Rợp bờ hoa đỏ chạy 

 Quét mái liễu xanh trôi 

 Bóng núi dựa cây đứng 

 Tiếng oanh theo nước xuôi 

 Sáng nay trời đẹp thế 

 Dong buồm Bắc Hải chơi. 

 Dượng Đế, Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân trên thuyền rồng cuốn tất cả các rèm gấm lên, nhìn cho rõ ràng cảnh đẹp thần tiên bốn phía, chưa gì đã ra khỏi Bắc Hải, tới gần một trong ba đảo thần tiên, cả bọn kéo nhau lên bờ. Đang lúc trèo lên, nghe một tiếng quẫy mạnh, trên mặt biển thấy một con cá lớn, những cánh vây dương rộng, vẩy sáng lấp lánh trên mặt sóng bạc, bơi đi bơi lại gần bờ đảo, trông thấy Dượng Đế như nhận ra người quen. Dượng Đế định thần nhìn kỹ, thì ra là một con cá chép lớn, dài tới một trượng ba bốn thước gì đấy. Toàn thân là những vẩy vàng đỏ sáng ngời dưới ánh nắng mặt trời, như những đốm sáng lân tinh vậy. Ở trán như có thấp thoáng nét chữ son, lúc tỏ, lúc mờ, trông như chữ "giác", Dượng Đế mới sực nhớ ra buột miệng. 

 - Thì ra là con cá này? 

 Tiêu Hậu vội hỏi: 

 Con cá nào thế? Thưa bệ hạ! 

 Dượng Đế đáp: 

 - Hoàng hậu không biết được đâu. Dạo trước trẫm cùng Dương Tố câu cá ở Thái Dịch hồ, có một người đánh cá ở sông Lạc Thủy, bắt được một con cá chép vàng đem tới dâng, trẫm thấy cá có tướng lạ, mới lấy bút son, viết hai chữ "giải sinh" ở trán cá, rồi thả xuống hồ. Về sau, Ngu Thế Cơ đào hồ lớn làm nước lưu thông cả với Thái Dịch hồ. Nên chẳng biết từ bao giờ con cá này ra được đây, mà giờ đã lớn đến thế. Nay nhìn kỹ, thì chữ "sinh" đã bị nước rửa sạch, chỉ còn lại nửa chữ giải là chữ "giác" mà thôi (1). Không phải con cá ấy thì còn con cá nào nữa? 

 1 chữ "giác" gồm các chữ "giác" ở bên trái, bên phải là chữ "đạo" dưới chữ "ngưu", phần bên phải này cũng bị mờ với chữ "sinh" ngay bên, chữ "giác" còn lại này lại có nghĩa là sừng. Cá chép nguyên chữ Hán là "lý ngư". Chữ “lý”, lại đồng âm với Lý là họ Lý. Nên Dượng Đế với Tử Yên mới lo sợ. Cá chép là tượng trưng cho họ Lý, cá chép hóa rồng, cá chép có sừng! 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Cá chép có sừng, thì không phải vật tầm thường! 

 Tử Yên cũng thưa: 

 - Hãy nhân lúc nó chưa hóa được thành rồng, xin bệ hạ trừ đi, may ra có thể trừ được họa gió mưa sau này chăng? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Khanh nói có lý lắm. 

 Rồi gọi cận thần mang ngay cung tên đến. Dượng Đế cầm cung tên, vén tay áo bào, đặt tên vào mũi dây cung, nhằm thẳng vào bụng cá phóng mũi tên ra. Bỗng trên mặt nước, một trận gió lớn nổi lên, làn sóng nổi cao cuồn cuộn, ngập tràn bốn phía, chẳng khác gì có hàng vạn con cá hóa rồng đang nhào lộn giữa sóng; nước tràn sâu vào bờ đảo, đến nỗi Dượng Đế, Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân đều bị ướt cả xiêm y. Cả bọn hoảng kinh, hồn bay phách lạc. Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân vội tìm chỗ tránh. Dượng Đế cũng sợ hãi, chân đứng không vững, Viên Tử Yên vội chạy lại bên Dượng Đế trấn an: 

 - Bệ hạ đứng cho vững. Đã có thiếp đây? 

 Dượng Đế hoảng sợ định níu lấy Tử Yên, thì thấy Tử Yên lấy trong tay áo ra một vật trông tròn như quả trứng bằng gỗ, tay trái lôi ra một cuộn dây ngũ sắc bằng lụa, xâu sợi dây vào quả trứng gỗ xong. Tử Yên giang tay phải ném mạnh ra phía biển, gần chỗ con cá. Cá trông thấy, quay đầu lặn biến mất. 

 Tử Yên thu lại sợi dây, gỡ quả trứng gỗ ra, lúc này Dượng Đế cũng đã trở lại bình tĩnh, lại gần Tử Yên, cầm quả trứng gỗ xem xét. Thì ra đó là một viên ngọc lấp lánh đủ năm màu. Dượng Đế hỏi: 

 - Viên ngọc này dùng làm gì, làm sao mà thủy quái cũng phải sợ được? 

 Tử Yên thưa: 

 - Vật này cũng chính do ni cô già ngày xưa cho thiếp. Dặn thiếp đây là quả cầu "Thái Dịch hỗn thiên", mà lúc còn ít tuổi ni cô đã luyện được, có thể kỵ tà khí, trừ được các loài thủy quái, lúc nào thiếp cũng đem bên mình, để phòng sự bất trắc. 

 Đang nói thì Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân kéo tới. Dượng Đế thấy tình cảnh mọi người thì vừa ngạc nhiên, vừa sợ hãi, chả còn hứng thú lên núi chơi nữa. Tất cả lại lên thuyền rồng, trở về Bắc 

 Hải. 

 Mới lên đến bờ nam, đã thấy trung môn sứ Đoàn Đạt, quỳ dưới đất chờ sẵn, hai tay dâng một tờ tấu chương, tâu rằng: 

 - Ở ngoài biên ải có văn thư khẩn cấp, thần không dám trễ nải, xin trình chúa thượng xem tường để còn định đoạt cho kịp. 

 Dượng Đế cười phán: 

 - Hiện nay bốn biển thanh bình, vạn phương đều đến triều cống, thì có việc gì khẩn cấp, mà các ngươi phải vội vàng tất tưởi đến thế! 

 Tả hữu vội vàng vâng lệnh cầm tờ tấu dâng lên Dượng Đế mở ra xem, thì thấy trên viết rằng: 

 “Biên ải tâu việc: Từ quận Hoằng Hóa cho chí vùng Quan Tả, mấy năm liền hạn hán, mất mùa. Giặc cướp nổi dậy như ong. Quận huyện không thể trừ nổi, xin sai tướng giỏi, lùng bắt kỳ hết, giữ yên dân tình." 

 Dượng Đế xem xong liền phán: 

 - Đây là bọn quan lại ở các quận huyện, giả dối bày đặt những chuyện này. Mai kia lại tâu rằng đã dẹp yên để lĩnh thưởng đây mà. 

 Tiêu Hậu bàn: 

 - Những việc như thế này, không thể tin hoàn toàn, cũng không thể không tin. Bệ hạ chỉ cần phái một viên tướng giỏi đến đó, là yên mọi chuyện thôi mà? 

 Dượng Đế lại cầm tờ biểu thứ hai xem sao. Thì ra là hai bộ, bộ lại và bộ binh, tâu rõ về công việc vùng biên ải: 

 "Lại, Binh hai bộ, hiệp sức tâu trình rõ thêm về công việc ngoại biên: mười ba quận vùng Quan Tả, lâu nay trộm cướp phát sinh. Quận huyện đều có văn thư xin tướng giỏi. Chúng thần xin tiến cử Vệ úy thiếu khanh Lý Uyên, thao lược hơn người, đảm đương được công việc giữ yên biên ải, đang giữ chức Lưu thú Hoằng Hóa, cất binh đánh dẹp các đám giặc này. Cúi xin thánh chỉ định đoạt. " 

 Dượng Đế xem xong, liền cấm bút ngự phê như sau: 

 "Lý Uyên nếu có thực tài như vậy, cho xung chức Lưu thú Hoằng Hóa, Tổng quản binh mã mười ba đạo vùng Quan Tả, tiễu trừ cho kỳ hết giặc cướp, trấn an trăm họ. Chờ có công sẽ ban thưởng. Các bộ phải biết thế!” 

 Phê xong, Dượng Đế lại đưa cho Đoàn Đạt. Đoàn Đạt cũng vì việc vùng biên giới gấp rút, không dám trù trừ, lập tức vái lạy đi ra để kịp chuyển cho hai bộ Binh, bộ Lại. Lúc này Dượng Đế mới sực nhớ đến Lý Uyên, thuở xưa lúc đánh dẹp nhà Trần, đã tìm cách giết hại Trương Lệ Hoa như thế nào, hơn nữa là người mang họ Lý, chỉ sợ lại ứng với điềm trời với lời kệ, như thế thì sao lại giao binh quyền cho Lý Uyên. Đắn đo mãi trong lòng cũng muốn đòi lại thánh chỉ vừa đưa cho Đoàn Đạt, nhưng thấy thánh chỉ đã truyền, dẫu có thay người khác, cũng chưa tìm đâu ngay tướng giỏi. 

 Âu đây cũng là ý trời vậy. Giữa lúc Dượng Đế do dự, Đoàn Đạt lại mang thêm một tờ biểu mới vào trình. Dượng Đế mở xem, thì ra là vùng Trường An dâng mỹ nhân. Dượng Đế xem ra, trong lòng khoan khoái, quên ngay chuyện phong chức Lưu thú Hoằng Hóa cho Lý Uyên, bèn hỏi ngay Đoàn Đạt: 

 - Nếu đã có biểu dâng đây, thì mỹ nhân hiện đang ở đâu? 

 Đoàn Đạt tâu: 

 - Tâu bệ hạ, mỹ nhân hiện ngoài cửa ngự uyển, bởi chưa có thánh chỉ, không dám thiện tiện vào. 

 Dượng Đế bèn sai gọi vào. Chẳng bao lâu, nội thị dẫn mỹ nhân vào. Thấy Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, mỹ nhân hoảng hốt quỳ lạy, lưng ong uốn éo, mặt hoa khẽ cúi. Dượng Đế nhìn kỹ, thì đúng là mười phần yểu điệu thướt tha, dáng dấp thanh cao. 

 Có thơ làm chứng sau đây: 

 Dáng tuyết hình mày vẻ diễm kiều 

 Mười lăm, mười bảy đoán ra sao? 

 Trăng non nhàn nhạt mày cong nhẹ 

 Ráng sớm long lanh tóc uốn cao 

 Đào kém tươi son môi chúm chím 

 Lệ thua trong trắng, ngọc xiêu xiêu 

 Ấy ai e lệ ngây thơ mấy 

 Hớp cả hồn ai chuyện ghét yêu. 

 Dượng Đế thấy mỹ nhân mười phần xinh đẹp, trong lòng hoan hĩ, lấy tay nâng dậy hỏi: 

 - Khanh năm nay bao nhiêu tuổi, tên là gì? 

 Mỹ nhân thưa: 

 - Thiếp họ Viên, tiểu tự Bảo Nhi, tuổi vừa mười lăm. Phụ mẫu thiếp nghe nói chúa thượng kén ngự xa nữ (1), nên đem tiện thiếp tiến chúa thượng, xin chúa thượng thu nạp. 

 1 Ngự xa nữ: người con gái đánh xe rồng cho vua, hoàng hậu, một cách nói nhún nhường chăng? 

 Dượng Đế cười đáp: 

 - Khanh hãy yên tâm, yên tâm, nhất định không phải trả về đâu! 

 Rồi cùng Tiêu Hậu dẫn Bảo Nhi đến mười sáu viện. Mọi người thấy Dượng Đế vừa có thêm Bảo Nhi, vội vàng bày rượu chúc mừng, uống mãi tới nửa đêm. Tiễn Tiêu Hậu về cung, đêm ấy Bảo Nhi ngủ lại ở viện Thúy Hoa. 

 Sáng ngày hôm sau, Dượng Đế ban cho Bảo Nhi làm mỹ nhân, từ đó về sau đi đâu cũng mang Bảo Nhi theo, mười phần yêu dấu. Bảo Nhi không vì được vua yêu mà kiêu ngạo, trái lại vẫn rất nhu mì, lúc nào cũng cười đùa vui vẻ, vì vậy Dượng Đế lại càng thích ý. Phu nhân các viện đều có thiện cảm tính tình Bảo Nhi, tận tình dạy Bảo Nhi ca hát, nhảy múa đi đứng. Bảo Nhi lại thông minh, nên chỉ dạy qua là thuộc. 

 Một hôm, trong viện, Dượng Đế ngủ trưa, Bảo Nhi từ trong viện đi ra tìm Chu Quý Nhi, Hàn Tuấn Nga, Hạnh Nương, Thỏa Nương tới. Hạnh Nương nói: 

 - Ngày xuân như thế này, trăm hoa đua nở, chúng ta hãy cùng nhau chơi đấu cỏ gà có nên chăng? 

 Thỏa Nương đáp: 

 - Đấu cỏ gà, mà bốn bên đều toàn hoa cả, liệu kiếm đâu ra. Không được đâu, chi bằng hãy đi chơi đu tiên, lại được một trận cười khoái ý. 

 Hàn Tuấn Nga cãi: 

 - Không đâu! Không đâu! Chơi đu tiên sợ lắm. Tuấn Nga chẳng đi đâu! 

 Chu Quý Nhi cất tiếng: 

 - Chơi đu tiên đã đành không nên rồi. Chi bằng chúng ta kéo ra cầu Xích Lan câu cá là hay hơn cả. 

 Viên Bảo Nhi nói: 

 - Không đi được dâu, chẳng khi chúa thượng tỉnh giấc, gọi chúng ta, thì biết làm thế nào? Chi bằng ra hiên sau ca múa một hồi là hay nhất. 

 Tất cả bằng lòng: 

 - Thế thì hay hơn cả ! 

 Rồi kéo nhau ra hiên sau, mở toang các cửa ra vào, cửa sổ, kéo rèm cửa lên, nhìn ra bên ngoài, muôn hồng nghìn tía. 

 Ríu rít én về, rèm động bóng 

 Ì ồm ếch gọi, cỏ thơm hồ. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Ba Mươi

Hát bài mới, Bảo Nhi mong bề sủng ái,

 Xem vẻ xưa, Tiêu Hậu toan cuộc viễn du.

 Từ rằng: 

 Tỉnh giấc trưa hè bước ngại ngần 

 Ngại vòng lan can 

 Vẳng nghe làn điệu mới 

 Ong bay bướm lượn quanh lối 

 Giọng oanh đưa, tình sao vời vợi 

 Dưới hoa say mà chiều chưa tối 

 Nhẹ cuốn rèm châu 

 Vướng tua bông phơi phới 

 Tơ lòng bên trời quay từng sợi 

 Hôm nay đến nơi nao mong đợi? 

 Theo điệu "Điệp luyến hoa" 

 Đại phàm lòng người, tĩnh lắm lại muốn động, động nhiều lại mong tĩnh, khó mà có thể học được các bậc chân tu, luyện tính dưỡng tính, suốt ngày này sang ngày khác ngồi trên chiếc chiếu trong tĩnh tọa cho được. Nếu là đàn bà, con gái, thì lại còn khó hơn nhiều, chuyện giàu chuyện nghèo, việc già, việc trẻ, sớm tối xáo động tâm can, nên kẻ thích tĩnh rất ít, người muốn động lớn hơn nhiều. Cứ từ đây mà xem xét, cũng thấy ngay được ý chí, xu hướng của mỗi người vậy. 

 *** 

 Lại nói Chu Quý Nhi, Hàn Tuấn Nga, Thỏa Nương, Viên Bảo Nhi cả bọn kéo nhau ra hiên sau của viện Thúy Hoa cùng ngồi, rồi đem những điệu từ khúc mới học được, cùng nhau ca hát ôn luyện. 

 Quý Nhi bàn: 

 - Những khúc hát này, chỉ cần hát cho hay, chẳng có gì thú vị cả. Giữa cảnh mùa xuân rạo rực thế này, các chị trông phía trước từng dãy dương liễu xanh xanh, thật là đáng yêu. Mỗi người chúng ta, sao không tự tìm lấy tứ thơ, nhìn cảnh mà ca vịnh, làm một khúc "Dương liễu từ” có phải thú vị hơn không các chị? 

 Liễu Nương đáp: 

 - Như thế rồi lại phải tự mình hát. Ai mà hát hay sẽ được tặng thêm một viên minh châu ngọc. Hát không hay, thì phạt uống một cốc rượu, các chị xem có được không? 

 Cả bốn người đều đáp: 

 - Được đấy, được đấy! 

 Thỏa Nương nói: 

 - Đã làm rồi, lại còn phải hát nữa kia à? 

 Quý Nhi đáp: 

 - Không bắt buộc phải hát, viết vào giấy mà đọc cũng chứ sao? 

 Nói chưa xong, Tuấn Nga đã nhẹ nhàng gõ phách, giọng trong như oanh hót, khẽ hát: 

 Dương liễu xanh xanh thật đáng yêu 

 Một giây, một sợi lạnh tan vèo 

 Chả cần đào lý tô xuân sắc , 

 Đã tháng hai rồi gió ấm reo. 

 Tuấn Nga hát xong, mọi người đều khen ngợi: 

 - Chị Tuấn Nga hát như thế, thật là tuyệt diệu chẳng khác gì khúc "Dương Xuân Bạch Tuyết” (l) chị em chúng ta thật không dám mở miệng hát nữa. 

 1 Dương Xuân Bạch Tuyết: Trong bài “Trả lời câu hỏi của vua Sở” của Tống Ngọc đời Chiến Quốc có câu: “Khi mừng hát khúc “Dương Xuân Bạch Tuyết", thì người trong nước hòa theo chẳng qua chỉ được vài mươi người là cùng". (Điển cố văn học). 

 Tuấn Nga đáp: 

 - Xin các chị đừng chế giễu thế, nếu phải phạt một chén rượu cũng xin vâng! 

 Chưa nói xong thì Thỏa Nương đã lên tiếng, môi hồng khẽ nở, hàm răng trắng đẹp phô đều, tiếng du dương cất: 

 Dương liễu xanh xanh, xanh đến say 

 Cành la cành vỗng, những vui vầy 

 Hỏi rằng dệt được xuân nhiều ít 

 Chỉ ghẹo chim oanh tối lại ngày 

 Thỏa Nương ca xong, mọi người lại đều khen ngợi một hồi. Quý Nhi lấy giọng, hết ho lại hắng, mãi mới thành lời: 

 Dương liễu xanh xanh mấy vạn cành 

 Cành ôm cành ấp nhớ nhung tình 

 Trong cung ai gửi lòng mong nhớ 

 Chỉ có u sầu suốt trống canh.

 Quý Nhi hát hết, tất cả đều nói: 

 - Chỉ có chị Quý Nhi hát là tình tứ hơn cả? 

 Quý Nhi cười đáp: 

 - Gượng mãi mới hát nỗi, tình tứ sao được? 

 Rồi đưa tay chỉ Liễu Nương cùng Bảo Nhi mà nói: 

 - Chúng ta hãy nghe hai vị này hát thì mới thật thú vị này. 

 Liễu Nương khẽ cười, cất giọng trong như sáo: 

 Dương liễu xanh xanh,xuân trói mình 

 Hình xuân lã lướt nhẹ tênh tênh 

 Ai ngờ cung cấm không sầu oán 

 Nghĩ đến xuân, riêng chết cũng đành. 

 Liễu Nương ca xong, mọi người khen: 

 - Thật là phong lưu, tao nhã, lại có cảm khái. Tất cả đều nên nhường cho khúc này vậy. 

 Liễu Nương đáp: 

 - Các chị đừng làm người khác xấu hổ. Xin hãy nghe tiếng vàng của Bảo Nhi. 

 Bảo Nhi vội đáp: 

 - Em mới học các chị cả. Làm sao mà hát được bằng các chị! 

 Cả bốn người đều khuyến khích: 

 - Chúng tôi đều hát linh tinh thôi. Chị mới thật là tài nghệ, xin đừng quá khiêm nhường. 

 Bảo Nhi vốn là người biết trấn tĩnh, nên vẫn ung dung, tay cầm khăn hồng, khẽ mấp máy môi để lấy điệu, rồi phát ra những âm thanh đầu tiên rất thoải mái, nhưng đúng là du dương, trầm bổng, như quấn quýt lấy mọi người, tiếng ca tràn đầy cả hiên tây: 

 Dương liễu xanh xanh giữ cấm môn 

 Treo trăng đón gió, tưởng kinh hồn 

 Chớ khoe mình vẻ xuân tình lắm 

 Mưa móc ơn vua thấm tận nguồn. 

 Bảo Nhi hát xong, ai cũng khen. Quý Nhi nói: 

 - Nếu bàn chuyện ca có uyển chuyển không, âm luật có sai không, tiếng có rõ không, thì chẳng ai bằng Bảo Nhi. Nếu luận cái nghĩa thì ý không quên ơn chúa thượng ở bài từ của Bảo Nhi cũng rõ hơn cả, chúng ta đều không bằng. Chúng ta đều nên lấy ngọc minh châu tặng cho Bảo Nhi. 

 Bảo Nhi cười đáp: 

 - Xin các chị đừng cười. Đáng phải phạt rượu mới phải, đâu dám nhận minh châu. Thật là xấu hổ quá, xấu hổ quá? 

 Liễu Nương nói: 

 - Đúng là Bảo Nhi cả từ cả hát đều tuyệt diệu. Chúng ta đều đáng phải phạt cả. 

 Mọi người đang lúc sôi nổi bàn cãi, thì thấy Dượng Đế từ sau bình phong đi ra lại gần, vừa cười vừa nói: 

 - Các khanh thật là cả gan, làm sao dám trốn trẫm, ra đây ngồi thi hát? 

 Mọi người thấy Dượng Đế, đều cười đứng ngay dậy thưa: 

 - Bọn thiếp thi hát ở đây, để xem ai là người hát hay, từ giỏi nhất, không ngờ chúa thượng lại thấy được. 

 Dượng Đế phán: 

 - Trẫm đã nghe từ lâu kia! 

 Thì ra Dượng Đế ngủ dậy, không thấy Bảo Nhi, vội hỏi tả hữu, bọn này thưa: 

 - Chúng con thấy Viên Mỹ nhân ra phía hiên tây, cùng ca hát với các mỹ nhân. 

 Dượng Đế bèn lặng lẽ ra theo, đến gần hiên tây, nghe các mỹ nhân người nói, người cười, sợ làm họ mất thú riêng, nên vẫn đứng nép phía sau bình phong nghe từ đầu đến cuối, không sót một câu. 

 Dượng Đế lại phán tiếp: 

 - Các khanh chẳng cần phải bàn cãi nhiều. Hãy nghe ta phán xét đây. 

 Mọi người vội đứng thành hàng, trước mặt Dượng Đế lắng nghe. 

 Dượng Đế nhìn Quý Nhi, Tuấn Nga, Thỏa Nương cùng Liễu Nương rồi nói: 

 - Bốn khanh thì bài từ ý tứ phong lưu, lời hát trong trẻo, thật cũng khó kiếm cho được. 

 Rồi lại chỉ Bảo Nhi mà nói: 

 - Khanh là lớp đàn em, học hỏi chưa nhiều, nhưng cũng đã biết dùng lời đạt ý, lại xuất lộ được ý không quên ơn mưa móc của hoàng gia, đáng bậc thông minh, mẫn tiệp. Thật đáng mừng, đáng yêu! 

 Bảo Nhi cũng không biết thưa lại thế nào, chỉ cười. 

 Dượng Đế lại tiếp: 

 - Nhưng tất cả các khanh đều làm được một việc rất hay, đều đáng dược trọng thưởng! 

 Bèn gọi tả hữu, lấy gấm lụa vùng Ngô, cẩm vùng Thục thưởng cho mỗi người hai tấm, riêng Bảo Nhi thì thưởng thêm cho hai viên ngọc minh châu. Dượng Đế thưởng xong bèn phán: 

 - Khanh không quên ơn mưa móc của hoàng gia, thì hoàng gia cũng không quên ban ơn mưa móc thêm cho khanh. 

 Bảo Nhi cùng mọi người nhất tề tạ ơn: 

 - Chúa thượng bình luận rất thông minh. 

 Dượng Đế thích chí, sai bày yến tiệc, bỗng nghe cách tường tiếng người huyên náo, tả hữu vào tâu: 

 - Chúng phu nhân đến! 

 Dượng Đế cả cười nói với các mỹ nhân: 

 - Các khanh hãy giấu ta đi, chờ cho họ đến, thì nói rằng trẫm không có ở đây. 

 Tuấn Nga thưa: 

 - Chúa thượng dạy chúng thiếp giấu chúa thượng ở đâu bây giờ? 

 Quý Nhi vội nói: 

 - Ở phía đầu trái, có một tấm bình phong thấp, có thể trốn ở đấy! 

 Dượng Đế đáp: 

 - Chỉ sợ lộ phía dưới chân, không được? 

 Quý Nhi cười thưa: 

 - Bụi chuối ở phía hòn non bộ trốn là tốt nhất! 

 Dượng Đế lại cũng chê: 

 - Chỉ sợ một trận gió, thổi lật lá, trông thấy rõ cả cũng không tốt đâu! 

 Bảo Nhi cười thưa: 

 - Có một nơi rất tốt, chỉ sợ chúa thượng không vừa ý lắm. 

 Dượng Đế cười đáp: 

 - Cái con bé trơn miệng này, nói mau xem nào? Còn cứ trù trừ mãi. 

 Quý Nhi vội đưa tay chỉ một cửa khép thông sang nhà bếp phía sau thưa: 

 - Ở trong ấy rất rộng rãi, phía bên lại có cả chắn song có thể nhìn ra phía ngoài, chẳng sợ ai trông thấy cả, chỉ cần một người theo hầu bệ hạ là có thể trốn được rất dễ dàng. 

 Dượng Đế nghe nói thế, liền gật đầu cười: 

 - Hay lắm, các khanh hãy mở rộng cửa ra, để trẫm sang trốn bên ấy! 

 Mọi người vội mở cửa, Dượng Đế nhẹ nhàng bước sang. Chúng mỹ nhân đóng cửa, cài cả then lại cẩn thận. 

 Ngay lúc đó, bảy tám vị phu nhân, tay dắt tay tiến vào hiên, chỉ thấy các mỹ nhân đứng đó, nhìn quanh một vòng, chẳng thấy Dượng 

 Đế đâu cả Dương phu nhân ở viện Minh Hà nói: 

 - Chúa thượng không có ở đây đâu! 

 Tần phu nhân ở viện Thanh Tu liền hỏi thẳng các mỹ nhân: 

 - Chúa thượng ở đâu? 

 Chúng mỹ nhân cũng đáp lững lờ: 

 - Chúng tôi không biết. 

 Chu phu nhân ở viện Thần Quang lý sự: 

 - Xe rồng đang còn đứng trước cửa viện. Bọn cung nữ còn đứng chờ trước hiên cả. Hay là chúa thượng có phép tàng hình, đến nỗi chúng ta không thấy được? 

 Lương phu nhân ở viện Cảnh Minh vừa cười vừa nói với Bảo Nhi: 

 - Những kẻ khác không thấy thì cũng thôi không đáng nói làm 

 gì. Em thì lúc nào cũng phải theo hầu hạ, làm sao lại không biết chúa thượng ở đâu. Nếu giấu ở nơi nào, nói ra ngay, không chúng ta sẽ có cách đối phó đây. 

 Bảo Nhi ra vẻ ngơ ngẩn đáp: 

 - Em là đứa ít tuổi nhất ở đây, làm sao mà dám giấu được chúa thượng ở đâu? 

 La phu nhân ở viện Nghênh Huy nói: 

 - Cái con bé này giỏi, chỉ sợ vài năm nữa, lại không thành bà già hay sao? 

 Chúng phu nhân nói cười ầm ĩ. Tiết phu nhân ở viện Thu Thanh nói: 

 - Thôi đừng nói linh tinh nữa. Thiếp đã có một cách rất hay đây rồi. Nếu họ cứ nhất định không chịu nói, chi bằng chúng ta bắt cóc con bé Bảo Nhi này đi. Chúa thượng bất kỳ lúc nào cũng phải có nó. Nay không thấy nó, chúa thượng tất phải tới chỗ chúng ta tìm, chẳng phải việc gì mà rối rít cả lên. 

 Chúng phu nhân reo ùa tán thưởng: 

 - Đúng đấy! Đúng lắm! 

 Ai nấy đang định xúm tay vào, thì Hoa phu nhân ở viện Thúy Hoa bỗng thấy bóng người thấp thoáng sau khe cửa, bèn vội la: 

 - Chúa thượng đây rồi. Thiếp tìm thấy rồi! 

 Rồi vội vàng men theo hàng cây rậm rạp, mở ngay cửa ra, chỉ nghe bên trong có tiếng cười ha hả, rồi thấy Dượng Đế nhảy ra, vỗ tay cười lớn: 

 - Giỏi thật, các khanh định bắt cóc con bé của trẫm phải không, như thế thì còn đạo lý nào nữa chứ? 

 Định phu nhân ở viện Văn An cười thưa: 

 - May mà có diệu kế của Tiết phu nhân, mới động được thiên nhan, vì vậy mới lộ mất chỗ ẩn bí mật. Nếu không thì ai mà tìm được ổ của chim phượng, vực của rồng thiêng ở đâu. 

 Từ các mỹ nhân đến các phu nhân được một phen nói cười huyên náo. 

 Dượng Đế lúc này mới hỏi chúng phu nhân: 

 - Các khanh cùng đi cả bọn, có việc gì mà lại tới đây? 

 Tần phu nhân thưa: 

 - Chúng thiếp đều có đôi tai rất tinh, biết ngay bệ hạ đang ở đây bình phẩm ca từ, nên chúng thiếp cũng muốn đến dự cho vui vẻ. 

 Tiết phu nhân tiếp: 

 - Tâu bệ hạ? Họ hát lời từ mới hay cũ? 

 Dượng Đế liền đem những bài "Dương liễu từ" ra kể lại một lượt Chu phu nhân nói: 

 - Họ làm việc này cũng hay đấy. Chúng ta cũng nên tìm một đề mục nào đó mà ngâm vịnh, cho vui cảnh xuân, chẳng hơn ngồi đánh cờ hoặc giải câu đố hay sao? 

 Dượng Đế cười phán: 

 - Không cần phải bị ràng buộc bởi đề mục. Chỉ cần các khanh tả được lòng mình, chí mình. Chả cứ gì cứ phải đi tìm những đề mục xa lạ làm gì. 

 Địch phu nhân thưa: 

 - Đề mục như thế là tốt lắm. Nhưng hiện nay chúng thiếp ở đây chỉ mới có tám người, sao chúa thượng không triệu tất cả đến để cả mười sáu viện đều được tham dự ngâm vịnh, làm thành một thi xã hẳn hoi, có phải là hứng thú hơn không? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Khanh bàn phải lắm! 

 Rồi gọi bọn cận thần phán: 

 - Mau đi gọi cả tám phu nhân các viện còn lại đến đây ngay! 

 Bọn này lĩnh mệnh, vội chạy như bay đi các nơi. Chính là: 

 Lan can, màn gấm, trướng đào 

 Gọn thu mây nước đưa vào từ chương. 

 Chẳng bao lâu, đã thấy các phu nhân, tô mày điểm mặt, thướt tha kéo đến, lại chào lạy Dượng Đế, chuyện trò với các phu nhân đến trước. Dượng Đế nhìn ra, thấy chỉ có sáu người, vẫn còn thiếu hai: Lý phu nhân ở viện Nghi Phượng và Sa phu nhân ở viện Bảo Lâm, liền hỏi: 

 - Tại sao Lý phu nhân không đến? 

 Hạ phu nhân ở Ỷ Âm cười thưa: 

 - Lý phu nhân chẳng làm sao cả. Chỉ vì bệ hạ chẳng chịu đến viện Nghi Phượng, cho nên phu nhân mắc bệnh tương tư không đến được. 

 Dượng Đế cười đáp: 

 - Các bệnh khác, trẫm không biết chữa, duy có bệnh tương tư, đến tay trẫm là bệnh khỏi ngay. 

 Lại hỏi tiếp: 

 - Còn Sa phu nhân nữa sao cũng không thấy đến? 

 Giả phu nhân ở viện Giáng Dương thưa: 

 - Phu nhân thưa, trong người không được bình thường, nên sợ không dám đến. 

 Rồi lại tiếp: 

 - Bệ hạ triệu chúng thiếp đến, có gì để sai bảo ạ? 

 Tần phu nhân nói: 

 - Chúa thượng thấy chúng mỹ nhân thi nhau làm từ, ca hát, nên cũng ra đề, để chúng ta cùng làm thơ, làm từ, hoặc tả cảnh hoặc tả tình cứ theo ý mình mà làm. 

 Phàn phu nhân ở viện Tích Châu tâu: 

 - Mọi người ngâm thơ vịnh nguyệt đã quen, riêng thiếp mới làm quen với bút nghiên, chỉ sợ làm bẩn mắt chúa thượng thôi! 

 Dượng Đế đáp: 

 - Đây cũng chẳng qua là cái thích ý một lúc, cứ làm một vài câu tiêu khiển. Phu nhân không việc gì phải quá khiêm nhường. 

 Tạ phu nhân ở viện Anh Văn thưa: 

 - Nếu đã làm văn thơ, thì xin bệ hạ phải có thưởng phạt rõ ràng. 

 Khương phu nhân ở viện Trí Nhân hỏi: 

 - Người chấm thi tất nhiên là chúa thượng rồi, thưởng thì thiếp đây chẳng mong đến phần, nhưng phạt thế nào đây? 

 Hoa phu nhân đáp: 

 - Ai làm hay thì được thưởng một viên ngọc minh châu, tặng chức khôi nguyên, phạt thì cứ đưa bệ hạ về viện, để bệ hạ "châm cứu” cho một đêm. Sau đó lại bắt thi lại. 

 Tần phu nhân cãi: 

 - Nói như thế, ai cũng làm thật dở, thì lấy đâu ra bài hay mà ngâm ngợi, ca hát nữa? 

 Khương phu nhân ở viện Hòa Minh bàn: 

 - Chi bằng thế này thôi. Nếu làm dở, thì bày một tiệc rượu, để chiều sẽ ăn mừng. Còn nếu có tứ hay, tưởng tượng giỏi, lời lẽ thanh tân, tất cả sẽ rước người chấm giải đến viện, hoan lạc một đêm. 

 Chu phu nhân cười nói: 

 - Cứ như Khương phu nhân nói, thì thiếp chẳng bao giờ biết đến ơn mưa móc của chúa thượng cả. 

 Dượng Đế nghe các phu nhân bàn cãi, cười mãi không thôi, rồi phán: 

 - Chúng phu nhân chẳng cần tranh luận nhiều. Cứ lo mà làm cho tốt, trẫm sẽ đối xử công bằng thôi. 

 Các phu nhân đều cười nói ầm ĩ, xin phép Dượng Đế ngồi xuống bàn, nhiều người lại tản ra chung quanh kiếm chỗ ngồi. Trên bàn giữa viện đã đặt sẵn nghiên bút, giấy hoa tiên, ai nấy yên lặng nghĩ ngợi. Dượng Đế ngồi chính giữa, xem xét chung quanh có người đưa tay chống má phấn, có người nhăn trán chau mày ngài, cũng có người cúi nhìn giải quần, có người ngửa mặt nhìn trời, có kẻ lại đứng dựa lan can, thêm cả người đứng lững thững dạo dưới hàng cây, rồi thì ngậm móng tay, khẽ ngâm, khẽ đọc, hai tay ôm gối, như dại như ngây. Dượng Đế thấy thế, lòng cũng không yên, đứng dậy dạo quanh, chẳng khác nào xem đèn đêm nguyên tiêu vậy, lúc thì mài mực khi thì đọc giấy, rồi ngồi dựa ghế nhìn ngắm khắp các dung nhan, chán thì bước ra hiên, nhìn cảnh ngoài vườn ngự, thật đúng là bậc thiên tử phong lưu không người bì kịp. 

 Đang giữa lúc đắc ý như thế, một viên nội giám vào quỳ tâu: 

 - Tâu chúa thượng! Hoàng hậu thấy cây mộc lan ở vườn nở hoa rất nhiều, sai thần đến mời chúa thượng tới thưởng ngoạn. 

 Dượng Đế nghe thế liền phán: 

 - Cây mộc lan ở sân, từ ngày có Tây Uyển đến nay chưa ra xem. Nhưng nay lại gặp lúc chúng phu nhân làm thơ từ mà lại đi xem sao? Thôi, hãy chờ ngày mai vậy! 

 Nội giám thưa: 

 - Hoàng hậu đã đến sân trồng mộc lan rồi, đang chờ chúa thượng! 

 Địch phu nhân đứng dậy tâu: 

 - Chúng thiếp làm thơ, cũng chẳng có gì cần kíp. Chúa thượng nên đi xem mộc lan thì phải hơn. Đừng vì chúng thiếp mà làm hoàng hậu mất cả hứng thú. 

 Dượng Đế băn khoăn một hồi rồi phán: 

 - Nếu đã như thế, chúng phu nhân đi với trẫm có nên chăng? 

 La phu nhân thưa: 

 - Thế cũng không được. Hoàng hậu không truyền gọi chúng thiếp, bỗng dưng chúng thiếp đoàn đoàn lũ lũ kéo đến, đã không làm hoàng hậu vui, mà có khi còn mang vạ nữa không chừng. 

 Dượng Đế gật đầu: 

 - Nói thế cũng đúng, hãy đợi trẫm đến xem tình cảnh ra sao, rồi sẽ sai người triệu chúng phu nhân đến sau vậy. Còn bây giờ hãy cứ ngồi đây mà nghĩ tứ tìm lời làm cho xong thơ từ đi đã. 

 Nói rồi đứng dậy, chúng phu nhân tiễn ra hiên. Dượng Đế còn quay lại dặn: 

 - Chúng phu nhân ai lo phận người ấy, đừng làm hỏng cả bài thơ, bài từ của mình. 

 Chúng phu nhân vâng lời quay vào. 

 Dượng Đế lại thấy các mỹ nhân vẫn còn ở ngoài hiên bèn nói: 

 - Các khanh vẫn còn đứng đây cả sao? Hãy theo trẫm đến xem hoa mộc lan nhé! 

 Cả bọn Bảo Nhi năm người đều vui mừng đi theo. Dượng Đế lên xe rồng, qua viện Minh Hà, viện Thần Quang, sắp tới ngọn Ngọc Sơn của viện Thúy Hoa, thì thấy một chiếc xe nhỏ đi tới, Dượng Đế nhìn kỹ, thì ra là Lý phu nhân ở viện Nghi Phượng. Lý phu nhân thấy xe rồng của Dượng Đế, vội vàng xuống xe, quỳ trước xe rồng. Dượng Đế giơ tay dỡ dậy, rồi hỏi: 

 - Hay quá! Khanh trốn ở đâu bây giờ mới thấy? Hạ phu nhân nói rằng khanh mắc bệnh tương tư. Trẫm đang định tìm cách chữa chạy cho khanh đây! 

 Lý phu nhân cười thưa: 

 - Bệ hạ đừng rỗi hơi mà đến, thiếp chỉ thương hoa tiếc ngọc, tham giấc ngủ nên tới chậm. Cúi xin bệ hạ tha tội. Nhưng không rõ bệ hạ triệu thiếp tới đâu bây giờ? 

 Dượng Đế bèn đem chuyện các mỹ nhân thi ca từ, các phu nhân định thi thơ, nên gọi đủ người tới dự, rồi lại chuyện hoàng hậu mời tới xem mộc lan, không thể không đi, lại kể một lượt. Lý phu nhân thưa: 

 - Nếu như bệ hạ tới xem hoa cùng hoàng hậu, thì thiếp có tới viện Thúy Hoa cũng chẳng thú vị gì nữa. Chi bằng thiếp xin về Nghi Phượng, làm xong thơ đưa trình bệ hạ cũng được. 

 Dượng Đế bảo: 

 - Nếu như khanh không được khỏe, thì cũng chẳng làm thơ viết từ làm gì. Mai kia hãy làm cũng được, cũng chẳng cần vội vàng. Hay khanh cùng trẫm tới xem hoa mộc lan. Đêm nay trẫm sẽ về viện Nghi Phượng nghỉ ngơi, trẫm còn có chuyện muốn nói. 

 Lý phu nhân không dám chối từ, Dượng Đế kéo phu nhân cùng lên ngồi xe rồng, âu âu yếm yếm cùng nhau trò chuyện: 

 - Chẳng bao lâu đã đến nơi. Tiêu Hậu ra đón. Lý phu nhân chào Tiêu Hậu, Tiêu Hậu thưa: 

 - Thiếp thấy cây mộc lan trong sân, vạn hoa cùng nở, nên mới sai đến đón bệ hạ cùng thưởng thức. 

 Lại nói với Lý phu nhân: 

 - Hôm trước được phu nhân sai người tới thăm hỏi đem cho xuyến hoa huệ, đeo thật vừa vặn, lại rất tinh xảo, mấy hôm nay vẫn nhớ. Nay cùng đến với chúa thượng, thật hợp ý ta. 

 Lý phu nhân thưa: 

 - Vật nhỏ mọn, gọi là tỏ lòng kính trọng hoàng hậu, đâu dám mong hoàng hậu thương đến. 

 Dượng Đế nói: 

 - Ta lâu lắm không đến sân mộc lan, cũng muốn nhìn lại, không ngờ hoàng hậu cũng có ý như vậy. 

 Cả ba vừa đi vừa trò chuyện, đã tới sân mộc lan, Dượng Đế nhìn tứ phía, chỉ thấy hoa lá đua tươi, muôn hồng nghìn tía. 

 Thật đúng là: 

 Hoàng gia phú quý nghiêng trời đất 

 Cung cấm phồn hoa quá vạn phương. 

 Dượng Đế cùng Tiêu Hậu đi loanh quanh một hồi, rồi quay vào trong sân uống rượu. Tiêu Hậu bây giờ mới hỏi: 

 - Bệ hạ đang làm gì trong Tây Uyển mà bị thiếp mời đến đây vậy? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Trẫm ngủ trưa dậy, thấy bọn Chu Quý Nhi trốn ra hiên sau, thi ca hát, trẫm rình nghe hết. Kể cũng nhiều điều thú vị. 

 Tiêu Hậu hỏi: 

 - Có những gì thú vị? 

 Dượng Đế bèn đem chuyện chúng mỹ nhân ca hát ra sao, mình bình luận thế nào, kể lại tỉ mỉ. Tiêu Hậu nhìn bọn mỹ nhân rồi nói: 

 - Các khanh giỏi hát thế, sao không thử một vài bài để ta nghe, xem chúa thượng khen ngợi có đúng không nào? 

 Dượng Đế tán đồng ngay: 

 - Đúng lắm! Đúng lắm! Để giúp các khanh một tay, cứ mỗi khúc hát, trẫm với hoàng hậu mỗi người uống một chén rượu. Lý phu nhân cũng uống tiếp một chén. 

 Các mỹ nhân không dám chối từ, đành đem những khúc "Dương liễu từ" mới làm hát lại một hồi. Tiêu Hậu cũng hết lòng cổ vũ. Đến lượt Bảo Nhi, Dượng Đế định khen chuyện Bảo Nhi, không quên ơn sâu nghĩa nặng của hoàng gia, để lưu ý hoàng hậu, không ngờ Bảo Nhi vốn lanh lợi, thông minh, không chịu hát từ cũ, lại đặt ngay khúc mới để hát: 

 Dương liễu xanh xanh sắp nẩy hoa (1) 

 Vẻ mày non nớt, phận cung nga 

 Cửu trùng riêng có trời xuân đó 

 Đâu dám khoe mưa móc đậm đà. 

 1 cả sáu bài từ này, bài nào cũng mở đầu bằng bốn chữ "Dương liễu thanh thanh"... Chữ "Dương" này đồng âm với chữ "Dương" họ của vua Tùy, lại cùng đồng âm với Dượng (Dượng, cũng đọc là Dạng, là Dương). 

 Dượng Đế nghe xong, vừa ngạc nhiên, vừa thích chí khen rối: 

 - Hoàng hậu hãy xem con bé này, chuyện làm những điều không ngờ. Nó thấy có hoàng hậu ngồi đây, liền hát ngay: 

 Cửu trùng riêng có trời xuân đó 

 Đâu dám khoe mưa móc đậm đà. 

 Đúng là một con bé khiêm nhường, không bao giờ dám nghĩ tới được riêng ơn mưa móc cho mình. 

 Tiêu Hậu cũng cả mừng: 

 - Nó tuy tuổi còn ít, mà cũng đã có nhiều tài năng, lại biết dược thân phận của mình. 

 Liền gọi đến trước mặt, thân rót một chén rượu ban cho Bảo Nhi, rồi truyền: 

 - Khanh tuổi này còn ít, mà đã biết cao thấp, rõ ràng thân phận, công việc của mình, lúc nào cũng nhớ tới ơn chúa thượng, không dám khoe khoang, thật xứng đáng bậc thục nữ vậy! 

 Rút ngay một cành thoa của mình, thưởng cho Bảo Nhi. Bảo Nhi cúi đầu tạ ơn, chẳng dám nói gì chỉ ngây mặt ra cười. 

 Tiêu Hậu nói với Dượng Đế: 

 - Vừa rồi tay chân nói bệ hạ cùng làm thơ với chúng phu nhân ở viện Thúy Hoa, sao chẳng thấy đâu, chỉ có mỗi Lý phu nhân tới đây thôi. 

 Dượng Đế chỉ chúng mỹ nhân mà rằng: 

 - Nhân bọn này thi hát khúc mới, các phu nhân cũng vừa lúc tới, thấy thế, đòi trẫm ra đề mục, để làm cho vui. Lý phu nhân không thấy đến. Mãi tới lúc hoàng hậu vời trẫm tới đây, mới gặp ở Ngọc Sơn, nên cùng với Lý phu nhân tới đây xem hoa cho thêm vui. 

 Tiêu Hậu nói: 

 - Lý phu nhân đến đây, hoa thêm vẻ đẹp. Chỉ sợ làm dứt mất hứng thú chấm thơ thưởng từ của bệ hạ chăng? 

 Mọi người cười nói, Dượng Đế có vẻ như say, muốn đứng dậy tìm chỗ nghỉ ngơi, bèn đi vào phía trong thì thấy trên tường treo một bức họa lớn, đường nét xanh vàng óng ánh, cũng có lâu đài điện các, có cả làng xóm nhà cửa. Dượng Đế đứng ngẩn ra nhìn. Tiêu Hậu thấy thế, sợ xảy ra chuyện gì không hay cho nhà vua chăng, liền sai Bảo Nhi mời Dượng Đế lại bàn uống rượu. Báo Nhi lại mời, nhưng Dượng Đế không chịu lại, vẫn đứng ngây ra nhìn. Tiêu Hậu gọi Bảo Nhi bưng đến cho Dượng Đế một chén trà Long Đoàn mới pha xong. Dượng Đế cũng chỉ nhìn bức tranh, không chịu uống. 

 Tiêu Hậu thấy Dượng Đế lạ lùng như thế, vội vàng đứng dậy, kéo Lý phu nhân đến bên, khẽ hỏi: 

 - Đây là nét vẽ tuyệt vời của bậc danh họa, có lẽ bệ hạ vì quá yêu thích, đến nỗi không rời mắt được nữa hay sao? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Đây là bức họa vẽ cảnh Quảng Lăng, trẫm thấy cảnh này, bỗng nhớ tới phong cảnh Quảng Lăng trước đây, lòng lưu luyến không dứt ra được? 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Không biết giữa cảnh thực bên ngoài với cảnh trên bức họa này giống nhau nhiều ít? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Nếu nói về cảnh sơn thanh thủy tú, liễu biếc hoa kiều, thì bức tranh này sao miêu tả được. Nhưng nếu chỉ nói đến đến chùa điện các thì trông cũng như được thấy trước mặt cảnh Quảng Lăng vậy! 

 Tiêu Hậu vừa đưa tay chỉ vừa hỏi: 

 - Con sông này là con sông gì, mà lại có những cánh buồm vòng vèo như thật vậy? 

 Dượng Đế thấy Tiêu Hậu hỏi, vội lại gần xem kỹ, lấy tay trái đặt lên vai Tiêu Hậu, còn tay kia chỉ lên bức tranh mà giảng giải: 

 - Đây không phải sông đào, mà chính là sông Dương TỠsông này chảy từ Tây Trúc về, qua hơn vạn dặm núi cao rừng rậm, chảy thẳng ra biển. Vì vậy nó là đường phân giới nam bắc, từ xưa tới nay đều cho rằng chính tay thượng đế bày đặt, nên sông này càng trở nên nổi tiếng vậy. 

 Lý phu nhân hỏi: 

 - Men theo sông là những dãy núi gì mà nhiều đến thế, trình bệ hạ? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Dãy chính giữa là Cam Tuyền Sơn, dãy bên trái là Phù Sơn, ngày xưa vua Đại Vũ trị thủy cũng đã từng qua đó. Ngày nay ở trên núi vẫn còn miếu thờ Đại Vũ. Dãy bên phải chính là dãy Đại Đồng Sơn Thời nhà Hán, Ngô Vương đã từng luyện đồng để đúc tiền ở đấy, nên mới có tên Đại Đồng. Phía sau là một dãy thấp hơn, gọi là Hoành Sơn, Thái tử Lương Chiêu Minh đã từng đọc sách ở vùng núi này. Bốn phía chung quanh, thì là Qua Bộ Sơn, La Phù Sơn, Ma Ha Sơn Lăng Sơn, Cô Sơn, đều là cửa ngõ của vùng Quảng Lăng cả. 

 Lý phu nhân lặng lẽ gọi Quý Nhi rót hai chén trà đặc lại. Lý phu nhân bưng một chén mời Tiêu Hậu, còn một chén thì thong thả mời Dượng Đế. Dượng Đế đón lấy, Tiêu Hậu trả lại chén rồi hỏi tiếp: 

 - Trong này có những thành nào, thuộc vùng nào thưa bệ hạ? 

 Dượng Đế uống xong chén trà, liền đáp: 

 - Đây chính là Vu Thành cũng gọi là Cổ Hàn, Câu Thành, chính là kinh đô xưa của vua Ngô Phù Sai thời Chiến Quốc, phía bên có sông nhỏ, chính cũng là sông do vua Ngô đào, để bảo vệ Vu Thành. Tòa thành này án ngữ vùng Quảng Lăng, lại được núi sông gìn giữ. Ngày trước trẫm từng cai quản Dương Châu, ý cũng định xây dựng kinh đô ở đây, để thu hút được tú khí của non sông vậy. 

 Lý phu nhân hỏi: 

 - Một tòa thành nhỏ như vậy, làm sao đủ cho bậc thiên tử lập nghiệp, kiến đô? 

 Dượng Đế cười đáp: 

 - Phu nhân nhìn trong bức họa thì nhỏ như thế thôi, nhưng ở ngoài thực thì rất mênh mông, tha hồ mà vùng vẫy. 

 Lại đưa tay chỉ góc tây bắc rồi nói tiếp: 

 - Chỉ riêng vùng này, cũng đã có tới hơn hai trăm dặm, so với Tây Uyển, cũng suýt soát bằng nhau rồi. Trẫm mà xây đô ở đây, thì cũng có thể dựng đủ mười sáu viện, chẳng kém gì Tây Uyển cả. 

 Rồi đưa tay chỉ cả các vùng xung quanh: 

 - Vùng này có thể xây đài, chỗ này có thể dựng lầu, đây thì phải làm cầu, còn đây là có thể đào hồ được. 

 Dượng Đế thao thao hứng chí tay chân vung vẩy loạn xạ. Tiêu Hậu thấy thế liền cười: 

 - Bệ hạ mới nói mà đã hứng thú đến thế. Sao không sai người làm nhanh lên, để tiện thiếp, cùng chúng phu nhân, mỹ nhân du ngoạn một chuyến cho thỏa? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Trẫm vốn đã có ý đó, chỉ giận là đường bộ tuy cũng có ly cung biệt quán, cũng là trạm dịch (1). Nhưng rất khó nhọc phiền toái, lại nhiều phi tần, cung nữ theo sau, rồi đường sá xa xôi, rơi rụng dọc đường, không thể nào mà đi được đâu? 

 1 Ly cung, biệt quán: Nơi dành riêng cho vua chúa trong khi đi tuần du. Trạm dịch: trạm dành cho quan lại, đi lại và chuyển công văn giấy tờ. 

 Lý phu nhân thưa: 

 - Sao không tìm đường thủy, đóng nhiều thuyền rồng, để chúng thiếp cũng có thể tham dự mà vẫn nhàn nhã? 

 Dượng Đế cười đáp: 

 - Nếu có đường thuỷ như thế, thì chẳng phải chờ đến ngày nay. 

 Tiêu Hậu hỏi: 

 - Nếu không có đường sông nào khác, thì cũng có thể theo sông Dương Tử mà đi không được sao? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Như thế thì quá xa, mà cũng không có đường thông đâu? 

 Tiêu Hậu lại gợi ý: 

 - Bệ hạ chẳng nên nhất quyết đến thế. Ngày mai hãy vời các quan bàn bạc xem sao. Biết đâu có đường thủy nào đó mà chưa biết thì sao. Giờ thì hãy cứ uống rượu đi đã, việc gì mà mua sầu chuốc não vội. 

 Dượng Đế liền kéo tay Tiêu Hậu, ba người lại ra trước sân ngồi uống rượu. Người này một chén, người kia một chén, uống cho đến khi lên đèn, Lý phu nhân đứng dậy, xin phép Dượng Đế và Tiêu Hậu về viện. Dượng Đế không đáp, chỉ quay lại nhìn Tiêu Hậu. Tiêu Hậu biết ý Dượng Đế, lại thêm tính tình Lý phu nhân vốn hiền lành, ngày thường vẫn thường luôn tới cung thăm hỏi vì vậy được Tiêu Hậu đối xử rất thân thiết, nên Tiêu Hậu bèn giữ lại: 

 - Phu nhân chứ có phải ai khác đâu, hãy ở lại với ta đêm nay, có gì phải nghi ngại. Phương chi bệ hạ cũng có ở đây, không để phu nhân phải lạnh lùng đâu? 

 Dượng Đế cười đáp: 

 - Hoàng hậu có chỗ không rõ, Lý phu nhân mấy hôm nay trong người không được khỏe, trẫm phải đưa tới đây để khuây khỏa ít nhiều. 

 Tiêu Hậu liền cười: 

 - Người không được khỏe, cũng chẳng có gì dáng ngại cả. Cứ ở lại đây chờ chốc nữa hoàng hôn xuống, ta sẽ nói với bệ hạ cho một lá bùa, nhất định sáng mai tinh thần sảng khoái hơn ngay thôi mà! 

 Lý phu nhân chỉ đành bưng miệng mà cười, lại thấy Tiêu Hậu ân cần, uống thêm mấy chén rượu, rồi cùng Dượng Đế, Tiêu Hậu vào cung nghỉ ngơi. 

 Đuốc hoa hai ngọn nhà vàng 

 Đồng tâm kết giải, buộc ràng đuốc hoa. 

 Ngày hôm sau, Dượng Đế thiết triều, quần thần cũng bàn bạc, tìm đường thủy thông thẳng tới Quảng Lăng, để vua tuần du. Quần thần đều tâu: 

 - Đường bộ đã có, chúng thần chưa từng nghe có đường thủy nào có thể thông thương được? 

 Dượng Đế cứ nhất định bắt quần thần phải nghĩ cách đào một con sông đào. Các quan mặt ngẩn nhìn nhau, không biết thưa bẩm thế nào, ai nấy bàn cãi một hồi, rồi đành tâu lưỡng lự: 

 - Chúng thần ngu muội. Xin bệ hạ hãy khoan khoan, để chúng thần còn bàn bạc với các bộ, các châu quận xem sao, rồi sẽ xin tâu trình chu đáo. 

 Dượng Đế bằng lòng, truyền chỉ bãi chầu, quay vào hậu cung. 

 Chính là : 

 Sằng này tiếp bậy kia 

 Dục vọng ôm kè kè 

 Non sông dù như đá 

 Cũng phải tan tành cả! 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Ba Mươi Mốt

Tiết Dã Nhi múa kiếm góp tiệc vui,

 Chúng phu nhân đề thơ mong sủng ái.

 Từ rằng: 

 Oanh vẫn chưa già, chào én mới 

 Cuộc vui chung rượu ngọt chuyền tay 

 Múa gươm trỗ hết sắc tài 

 Ghẹo người khéo dướn đôi ngài cong cong 

 Trên tờ gấm đặt dòng chọn chữ 

 Câu vắn dài phượng múa nên thơ 

 Nhún nhường dè dặt đợi chờ 

 Vơi đầy hãy cạn, thẫn thờ mà chi 

 Tình sâu thiên tải nhất nhì... 

 Theo điệu "Ngọc thụ hậu đình hoa" 

 Từ xưa thơ từ, tuy là tả tình gợi hứng, nhưng cũng phải biết đủ khai thừa chuyển hợp, chứ không thể nào viết dây cà ra dây muống, dập dập xóa xóa cho được. Tác giả ngày nay, từ cho đẹp, ý cho mới, tứ cho khác thường, mà chẳng để ý gì đến cốt khí bên trong, chẳng đếm xỉa đến luật chung. Cũng chẳng khác gì cô gái cậy trời ban cho ít nhiều tài sắc, nhưng số mệnh chẳng may gặp phải kẻ hoang toàng, đến nỗi tâm thần bấn loạn, việc không đáng làm lại làm, việc đáng làm lại không làm. 

 *** 

 Lại tiếp chuyện Dượng Đế cùng chúng thần bàn luận về việc sông nước chưa ngã ngũ, Dượng Đế lúc vào hậu cung. Tiêu Hậu ra đón hỏi: 

 - Bệ hạ cùng bá quan bàn về chuyện đường thủy thế nào rồi? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Chúng thần bàn bạc hồi lâu, chẳng thấy có đường thủy nào có thể đi được. Sau đó đành phải xem xét lại, có lẽ cũng khó mà có được đâu! 

 Tiêu Hậu khuyên: 

 - Cứ để cho bá quan bàn luận xem, may ra có đường nào chăng, sau đó hãy hay. Bệ hạ chả cần phải lo những việc chưa tới, mà quên mất cả những việc trước mắt. 

 Dượng Đế hỏi: 

 - Sao không thấy Lý phu nhân đâu cả? 

 Tiêu Hậu đáp: 

 - Phu nhân nghĩ đến đề thơ, lại sợ các phu nhân khác đến tìm, thấy đang ở đây, có chỗ không tiện, nên đợi bệ hạ không được vội trở về viện rồi. 

 Thấy Tiêu Hậu nói thế. Dượng Đế bèn rủ: 

 - Sao đến bây giờ vẫn không thấy các phu nhân đem thơ đến trình. Hay hoàng hậu cùng đi với trẫm đến Tây Uyển hỏi xem sao? 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Thế cũng được! Hôm vừa rồi viện Ỷ Âm cho người đến nói hoa liễu nở mười phần tươi đẹp, mời thiếp đến thưởng ngoạn, nhưng vì hai ngày nay không lúc nào rỗi, nên chưa đi được. Hôm nay tiết trời ấm áp, sao bệ hạ không cùng tới đó cho vui? 

 Dượng Đế cười đáp: 

 - Hoàng hậu cũng nghĩ đến chuyện tiêu khiển sao? 

 Tiêu Hậu đáp: 

 - Thiếp vốn phận đàn bà, thì cũng tiêu khiển đến thế, làm sao mà theo kịp bệ hạ, chạy đông ngó tây, thật trăm phần khoái lạc cho được! 

 Dượng Đế đáp: 

 - Hoàng hậu mà nói thế, trẫm sẽ không đi đâu nữa, chỉ ngồi đây gối kề gối, nói chuyện tâm tình với hoàng hậu thôi, có nên chăng? 

 Tiêu Hậu khẽ cười: 

 - Thiếp chỉ mới đùa thế thôi. Chưa gì bệ hạ đã nghĩ là nói thật. 

 Vừa nói, Tiêu Hậu vừa kéo tay Dượng Đế ra khỏi cửa cung, quay lại gọi Bảo Nhi cùng các mỹ nhân tới viện Ỷ Âm hầu Dượng Đế. 

 Tiêu Hậu cùng Dượng Đế lên xe rồng đến viện Ỷ Âm. Hạ phu nhân ra đón. Dượng Đế hỏi: 

 - Hôm qua các phu nhân làm thơ ra sao mà không thấy đưa trình trẫm xem? 

 Hạ phu nhân chào Tiêu Hậu xong bèn thưa: 

 - Thơ chưa làm xong, thấy chúa thượng về cung, chúng thiếp cũng bỏ về cả. 

 Dượng Đế cười: 

 - Các khanh to gan thật. Thấy trẫm về cung, thế là thánh chỉ chẳng ai nghe nữa! 

 Hạ phu nhân cười thưa: 

 - Thơ phần lớn đã lm cả, đều đã nạp cho Tần phu nhân ở viện Thanh Tu, Tần phu nhân sẽ trình chúa thượng. 

 Rồi quay lại hỏi Tiêu Hậu: 

 - Hôm trước sai người sang mời hoàng hậu, sao mãi hôm nay mới được hoàng hậu giáng lâm. 

 Tiêu Hậu đáp: 

 - Được phu nhân có lời mời, cũng luôn nghĩ đến, nhưng nhiều chuyện quá, xuân chưa đi mà bệnh đã tới, thấy trong người vừa mệt vừa nhác. May bệ hạ rủ, nên mới cùng tới vậy! 

 Chuyện trò một hồi, dạo quanh ngắm nghía trước sau, chỉ thấy oanh hót hoa rụng, trời ấm áp, gió nhè nhẹ, giữa tiết xuân hết hạ về quang cảnh thật đáng yêu. 

 Chính là: 

 Loáng thoáng lá hoa, xem chẳng hết 

 Lẳng lơ trăng gió ý sao đây? 

 Dượng Đế nhìn ngắm một hồi, trong lòng khoan khoái, nói với Tiêu Hậu: 

 - May được hoàng hậu cùng thưởng ngoạn, nếu không phong cảnh tươi đẹp dường này, đành bỏ phí cả. 

 Hạ phu nhân vội bày tiệc rượu, Dượng Đế uống luôn mấy chén, bỗng hỏi: 

 - Bọn Bảo Nhi đâu, sao không thấy tới? 

 Mọi người vội sai đi gọi, thì chẳng thấy ở trong viện, tìm kiếm một hồi lâu, chạy dông chạy tây, Dượng Đế thấy có vẻ nhốn nháo khác thường, bèn phán: 

 - Chỉ có một con bé con, trốn ở đâu, sao bây giờ chưa thấy, thế là thế nào? 

 Mọi người thấy không thể nào giấu được, đành phải đẩy Bảo Nhi ra, Bảo Nhi quỳ thưa: 

 - Chúng thiếp trên núi viện Nhân Trí, xem múa kiếm, không ngờ chúa thượng cùng hoàng hậu gọi đến, không kịp về hầu hạ. Tội thật đáng chết vạn lần. 

 Dượng Đế hỏi: 

 - Ai múa kiếm mà xem? 

 Bảo Nhi thưa: 

 - Dạ, Tiết Dã Nhi! 

 Dượng Đế phán: 

 - Lâu nay trẫm có nghe Dã Nhi múa kiếm bao giờ đâu. Hay là các ngươi nói bậy? 

 Tiêu Hậu xen vào: 

 - Bậy hay không, có gì là khó thấy, chỉ cần gọi Dã Nhi lại, thì rõ ngay đầu đuôi. 

 Dượng Đế gật đầu, cho phép bọn mỹ nhân đứng dậy, rồi sai nội thị đi gọi Dã Nhi. Chẳng bao lâu, đã thấy Dã Nhi tới. Cách trang phục ra sao, nhìn ra chỉ thấy: 

 Khoác một tấm áo hồng phơn phớt 

 Thoáng xem như nắng sớm mong manh 

 Dải là loáng thoáng trắng xanh 

 Phải chăng nước biếc Bồng Doanh cắt thành . . 

 Tóc mây mấy búi hữu tình 

 Hai vòng ngọc bích lung linh tai ngoài 

 Xuyên vàng đỏng đảnh cánh loan bay 

 Phượng múa muôn màu một sợi dây 

 Trong toát hoa lê vung cánh ngọc 

 Xanh rờn dương liễu uốn mày mây 

 Không chút bụi trần, ắt hẳn vườn tiên sa xuống vậy 

 Có dư hào hiệp, nào ngờ cõi tục hiện về đây. 

 Dượng Đế thấy Dã Nhi, bèn hỏi: 

 - Ngươi cũng là một con bé con, nếu biết múa kiếm, sao không múa cho trẫm xem, mà lại múa ở đâu đâu để đến nỗi huyên náo cả vườn cấm? 

 Dã Nhi thưa: 

 - Múa kiếm vốn không phải phận sự bọn thiếp. Chẳng qua bị chúng mỹ nhân nài ép mãi, nên cũng múa may ít nhiều, chẳng có gì là đẹp. Đâu dám múa trước mặt chúa thượng cùng hoàng hậu khoe khoang cho được. 

 Dượng Đế cười: 

 - Người đẹp múa kiếm, chính là một cảnh rất tuyệt vời đáng xem, làm sao lại nói không phải phận sự. Hãy ban cho Dã Nhi một chén rượu, rồi múa một hồi cho trẫm xem ra sao. 

 Dã Nhi không dám chối, uống rượu xong, cầm hai thanh bảo kiếm, xuống phía dưới thềm vén áo, cũng không xăn tay, nhẹ nhàng khéo léo vung những đường kiếm đầu tiên. Ban đầu hãy còn phân biệt được đường qua đường tới, còn nhận ra hình dáng uyển chuyển, yểu điệu một cách mỹ nhân chẳng khác gì con chuồn chuồn đỏ xinh xắn bay chập chờn trên mặt nước xanh như con chim én bay vút trong đám hoa lá, càng rõ thêm vẻ đẹp của bậc thuyền quyên. Càng về sau đường kiếm càng nhanh hơn không thấy lưỡi kiếm đâu nữa, chỉ thấy loang loáng hai con rồng trắng quấn lên lượn xuống. Múa đến chỗ tuyệt diệu nhất thì kiếm cũng chẳng thấy, người cũng chẳng thấy, chỉ nghe thấy tiếng gió rít mạnh lạnh người, hào quang rực sáng, như mưa tuyết ngày đông. Dượng Đế cùng Tiêu Hậu nhìn xuống, mặt mày đều hớn hở, ngạc nhiên, vỗ tay khen giỏi. 

 Dã Nhi múa một hồi, rồi như dòng nước cuộn trào, tuôn về góc sân phía đông nam, Dượng Đế ngạc nhiên, đứng hẳn lên nhìn theo. Bỗng nghe rầm một tiếng, cây táo to đã bị chém ngã ngay góc sân, cả bọn từ nội giám cho đến phu nhân đều vội chạy vào viện tránh. Dã Nhi nhảy múa như một cái bóng, thu đôi kiếm lại, khác gì hoa tuyết thu về một mối, thôi bay phơi phới trời xuân, lại trở về hình dáng xinh đẹp như trước, nhẹ nhàng bước lại trước thềm, đặt hai thanh bảo kiếm xuống, hơi thở vẫn đều đặn, mặt cũng chẳng hồng hơn, mái tóc một sợi cũng chẳng rối loạn, Dưới thềm một hạt bụi cũng chẳng thấy dính chân. Xiêm y vẫn gọn gàng như cũ, mặt mày thật tươi tỉnh đáng yêu. Dượng Đế không ngăn nổi vui mừng, đập bàn mà tán thưởng: 

 - Kỳ tài thay Dã Nhi! Khiến cho người xem thích muốn chết được! 

 Liền gọi Dã Nhi tới bên, vuốt ve làn da thơm nức mùi hương phấn, chẳng khác gì bạch ngọc một màu, thật muôn phần đáng yêu. Trong lòng vô cùng thích thú, Dượng Đế nói với Tiêu Hậu: 

 - Trông dáng điệu của Dã Nhi, thật là đáng bậc anh hùng tài nữ, chẳng phải tiên phong đạo cốt thì không thể nào được thế. Nếu không có hôm nay, thì trẫm lại mắc một lỗi lầm nữa. 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Đúng là chưa muộn đâu. Đến thần thiếp xem mà còn hết lòng thán phục nữa là. 

 Dượng Đế nghe thế cả cười. 

 Chính là: 

 Diệu kỳ khó định giả hay chân 

 Đường kiếm tinh đến mức nhập thần 

 Thoát tục hãy xem người ngọc múa 

 Hoa lê đầy viện sạch hơi trần. 

 Dượng Đế trở lại chỗ ngồi, Tiêu Hậu nói: 

 - Hôm nay vui vẻ thế này, nên phải uống nhiều hơn hôm qua. Tất cả đều là ơn huệ của Hạ phu nhân cả đây thôi. 

 Hạ phu nhân thưa: 

 - Thiếp thì có công lao gì. May có Dã Nhi múa kiếm làm cuộc vui thêm rộn ràng. Vì vậy chúa thượng cùng hoàng hậu nên uống một chén lớn. Dã Nhi cũng đáng được đứng ra hầu một chén. 

 Dượng Đế cười: 

 - Thế thì làm sao chủ nhân không uống cho được? 

 Hạ phu nhân đáp: 

 - Thiếp cũng xin uống hầu một chén. 

 Giữa lúc đang rót, cung nữ vào quỳ thưa: 

 - Trình chúa thượng, chúng phu nhân đang vào! 

 Hạ phu nhân thấy, vội vàng chạy ra đón. Cả mười sáu vị phu nhân, thế là không thiếu người nào, lần lượt tiến lên chào Dượng Đế và Tiêu Hậu, sau đó thăm hỏi Hạ phu nhân vài câu. Chủ nhân sai cung nữ dọn lại bàn rượu, tất cả ngồi vào chỗ. 

 Dượng Đế cười nói: 

 - Các khanh sao mãi giờ mới tới ặp trẫm. Không sợ chủ khảo cuộc thi thơ phạt hay sao. Trước tiên hãy phạt mỗi khanh ba chén, sau đó hãy đem thơ ra trình. 

 Hạ phu nhân thưa: 

 - Chủ khảo hôm nay thì không phải là bệ hạ nữa đâu, mà là hoàng hậu kia. Bệ hạ chỉ nên làm phó chủ khảo. 

 Dượng Đế hỏi: 

 - Như thế là tại sao? 

 Định phu nhân thưa: 

 - Chủ nhân của chúng thiếp trong tường vách hậu cung chính là hoàng hậu. Bệ hạ lý ra là nên theo phép "hồi tỵ" (1), thì mới tránh được sự hiềm nghi. 

 Tiêu Hậu đáp: 

 - Kinh Dịch hay kinh Mỹ nhân thì đều chủ ở chỗ bồi đắp nhân tài cả thôi. 

 Dượng Đế cũng cười: 

 - Hoàng hậu từ lâu đã thuộc thơ "Quan thư" của Kinh Thị, vốn rất am hiểu lời dạy của các kinh sách. 

 Tiêu Hậu cười đáp: 

 - Không bằng được bệ hạ chuyên chỉ có kinh "Xuân Thu". (2) 

 1 Hồi tỵ: quay lại để tránh. Ngày xưa những người đi coi thi, chấm thi, nếu đến nơi có người nhà, học trò mình thì phải làm giấy, xin "hồi tỵ" để tránh chuyện gian lận. 

 2 Kinh "Xuân Thu”: một trong ngũ kinh, bốn kinh kia là Thi, Thư, Lễ, Dịch. Ở đây Tiêu Hậu dùng chữ "Xuân Thu” theo nghĩa nữ sắc, xuân lan thu cúc, để đùa chọc. 

 Cả bọn từ phu nhân đến mỹ nhân đều cười rũ rượi một loạt. 

 Tần phu nhân lấy ở trong tay cung nữ một tập thơ, từ, dâng lên Dượng Đế. Dượng Đế giở tờ đầu tiên ra xem thấy ghi: "Thần thiếp Khương Quế ở viện Nhân Trí kính trình ngự lãm". Phía dưới là con dấu vuông nhỏ in ba chữ "Nguyệt Tiên thị". Dượng Đế thấy thế nhìn Khương phu nhân cười: 

 - Nếu bàn cho ra nhẽ, thì nên lấy tuổi mà xếp thứ tự. Khanh là ít tuổi nhất, vì sao lại được đặt lên trên cùng? 

 Khương phu nhân thưa: 

 - Hôm qua cũng vì Dương phu nhân cùng Chu phu nhân nói rằng ai xong trước thì xếp trước, không việc gì phải câu nệ. Thiếp vì trong lòng chẳng có chữ nghĩa gì, chẳng có vốn đâu mà nghĩ ngợi, nên làm xong trước vậy, không thể nào so với các phu nhân khác, bụng đầy các thứ; phải nghiền ngẫm rất kỹ lưỡng. 

 Nói chưa dứt, thì Tần phu nhân đáp: 

 - Chúng tôi bị Khương phu nhân đem ra trêu chọc còn được. Còn tại sao Phu nhân lại nỡ đùa cả Sa phu nhân nữa sao? 

 Khương phu nhân hỏi: 

 - Đâu dám trêu chọc Sa phu nhân? 

 Tần phu nhân đáp: 

 - Phu nhân nói "bụng đầy các thứ", không là nói tới Sa phu nhân sao? 

 Khương phu nhân bèn nói: 

 - Thật quả không biết. Xin Sa phu nhân tha tội. 

 Tiêu Hậu nghe nói thế, vội vàng hỏi: 

 - Cứ như các phu nhân bàn cãi, thì quả là Sa phu nhân có tin mừng thật sao? Đó chính là điềm linh thiêng của chín miếu, là phúc lớn của chúa thượng đây vậy! 

 Dượng Đế chưa biết nói sao, chỉ giương mắt nhìn Sa phu nhân, hai má đỏ hồng như hai đám hồng vân, hiện trên nền trời biếc, cúi đầu không nói. Dượng Đế vẫn chưa hiểu rõ, ghé vào tai Lương phu nhân hỏi nhỏ: 

 - Phu nhân vốn nổi tiếng thật thà, hãy nói cho trẫm hay, Sa phu nhân có tin mừng, là chuyện gì vậy? 

 Lương phu nhân giơ ba ngón tay cạnh bàn, khẽ thưa: 

 - Đã có ba tháng nay rồi? 

 Dượng Đế thấy nói thế, cả mừng: 

 - Hay lắm, hay lắm! Mau đem rượu ngon ra đây rót cho trẫm ba chén lớn. Hoàng hậu cũng nên uống ba chén nữa. 

 Dương phu nhân thưa: 

 - Điều này đều nhờ đức hóa của hoàng hậu mà ra, khiến cho chúng thiếp cũng dược thấm nhuần ơn sâu. Ba chén làm sao báo đáp được ơn hoàng hậu. Còn chúa thượng thì có công lao gì ở đây, mà cũng uống ba chén. 

 Dượng Đế cười đáp: 

 - Dẫu chẳng có công gì lớn lao, nhưng trẫm vẫn có ít nhiều khó nhọc chứ? Tất cả các khanh, nhất loạt đều phải uống đủ ba chén lớn vậy. 

 Rồi cười, nói riêng với Sa phu nhân: 

 - Phu nhân thì chỉ nên uống một chén là đủ. 

 Giả phu nhân vội hỏi: 

 - Bệ hạ lại không công bằng rồi. Vừa mới nói tất cả đều phải uống ba chén, vì sao Sa phu nhân lại chỉ uống một chén thôi? 

 Giang phu nhân tiếp: 

 - Chốc nữa xem thơ, từ, nếu bệ hạ cũng không công bằng nữa, phải xin hoàng hậu xem lại cho. 

 Dượng Đế vừa cười vừa uống rượu, vừa xem thơ của Khương phu nhân, thì thấy có một bài tuyệt cú: 

 Sáu cung mây tóc dám đua chen 

 Đừng để thiên nhan một chút nhàn 

 Hết múa lại ca luôn một khúc 

 Ấy rằng thượng giới, ấy nhân gian? 

 Dượng Đế cười phán: 

 - Khương phu nhân lâu nay chưa từng ngâm vịnh, nay mới thấy xuất hiện, mà cũng không đến nỗi nào! 

 Lại xem đến tờ tiếp theo, trên thấy đề: "Viện Ảnh Văn, thần thiếp Tạ Sơ Ngạc” phía dưới ấn đóng có ba chữ: "Thiên Nhiên thị". 

 Cũng có một bài tuyệt cú: 

 Chiều tà trang điểm một chồi hoa 

 Cánh biếc xe rồng vội lướt ra 

 Đêm vắng lầu ai làn điệu mới 

 Ngập ngừng tay lựa khúc tì bà. 

 Dượng Đế nói với Tạ phu nhân: 

 - Trong thơ lâu nay có thể tỷ, thể hứng, chẳng qua chỉ là mượn đề để ngụ ý mình cả. Khanh trái lại nói rất thực. Hôm vừa rồi, trẫm nghĩ lại ở viện Thanh Tu, cách tường mà vẫn nghe bên viện Ảnh Văn, Tạ phu nhân đàn tì bà, thật như vừa oán vừa như sầu, như khóc như than. Khiến cho người nghe không tài nào ngủ được. Nay bài thơ này cũng như vẽ lại cảnh tình ấy vậy. 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Nếu hay đến như vậy, xin được có dịp thỉnh giáo Tạ phu nhân. 

 Dượng Đế xem tiếp tờ sau: "Viện Thúy Hoa thần thiếp Hoa Thư Hà", chữ trên ấn là: “Tự Ban Hồng". Có một bài từ, Dượng Đế đọc to để mọi người cùng được nghe: 

 Giấc mộng bên song hỏi tỉnh say 

 Nỗi lòng não nuột, một hay hai 

 Gốc hoa nhặt được chiếc thoa cài 

 Ngồi lựa thềm mai 

 Trèo bực thềm mai 

 Ngân Hà trước mắt ngỡ Thiên Thai 

 Nào phải mây dày 

 Mà hóa gió bay 

 Cầu ô nhịp nhịp ai bày 

 Rằng chúa thượng xui 

 Hay tiện thiếp xui. 

 Theo điệu "Nhất tiễn mai” 

 Dượng Đế đọc xong, Tiêu Hậu hỏi: 

 - Bài này của ai? Đọc nghe cũng thú vị đấy! 

 Dượng Đế đáp: 

 - Của Hoa phu nhân đấy? 

 Tiêu Hậu cười: 

 - Chỉ sợ Hoa phu nhân đêm nay không trở dậy nổi. 

 Dượng Đế đáp: 

 - Từ cú hoa mỹ, duyên dáng, tả dược cái hình sâu sắc của người đẹp. 

 Hoa phu nhân thưa: 

 - Cũng cốt chỉ làm cho đủ bài bản, nào có tình gì đâu, mong bệ hạ bỏ qua cho. 

 Phàn phu nhân cũng thưa: 

 - Hoa phu nhân quá khiêm nhường. Xin bệ hạ hãy phạt một chén rượu. 

 Dượng Đế gật đầu, lại xem tiếp tờ sau: "Viện Hòa Minh, thiếp Giang Đào". Dấu in là: "Kinh Ba thị". Lại có hai bài tuyệt cú: 

 Bài một: 

 Một tắt Dương Châu ba tháng xuân 

 Cầu bên năm nhịp cỏ lăn tăn 

 Quân vương dù hỏi đâu nhà thiếp 

 Xin chỉ Quỳnh Hoa xóm cũng gần. 

 Bài hai: 

 Điểm phấn tô son sớm đã xong 

 Trưa về nghe vẹt nói trong lồng 

 Quân vương dù hỏi đêm mưa gió 

 Thẹn dấu bên hoa hài mũi cong. 

 Dượng Đế đọc xong, lại phán: 

 - Hai bài thơ này tình đẹp lời hay. Nhưng lòng nhớ quê, nhớ nhà có vẻ quá thiết tha chăng? 

 Tiêu Hậu sai cung nhân lấy ba chén lớn đến: 

 - Xin mời bệ hạ uống ba chén này! 

 Dượng Đế hỏi: 

 - Hoàng hậu vì cớ gì mà phạt trẫm? 

 Tiêu Hậu đáp: 

 - Bệ hạ phán xét về bài thơ này không đúng vì vậy phải phạt chứ sao? 

 Dượng Đế hỏi: 

 - Hoàng hậu bảo chỗ nào không đúng? 

 Tiêu Hậu đáp: 

 - Chỉ cần nói ra là bệ hạ thấy ngay thôi mà. Xin các phu nhân hãy lại đây mà xem. 

 Các phu nhân thấy nói thế, nhất tề kéo lại sau lưng Tiêu Hậu. 

 Tiêu Hậu chỉ vào bài thơ của Giang phu nhân mà nói: 

 - Hai bài thơ này là thuộc thể hứng, thể tỷ. Bài đầu, là Giang phu nhân mượn lòng nhớ quê hương để thể hiện nỗi lòng mình với quân vương, chứ thực ra đâu có phải là để nói nỗi nhớ nhà, mà chính là để nói về đức vua vậy. Bài thứ hai, từ cú cũng theo như bài đầu vậy thôi, thế thì không phải là bình không đúng là gì nữa. 

 Dượng Đế cười ha hả: 

 - Trẫm sao lại không biết tới chuyện này. Chẳng qua vì hoàng hậu cùng các phu nhân đều ở trước mặt, thật khó nói ra ý Giang phu nhân nghĩ đến trẫm. Người xem thơ đành phái nói khác ý thơ đi vậy! 

 Chu phu nhân nói: 

 - May mà có hoàng hậu sáng suốt chỉ ra được ý này của bài thơ. Nếu không chị em ta đã bị bệ hạ lừa cả rồi còn gì! 

 Dượng Đế phán: 

 - Trẫm xin rót một chén mừng hoàng hậu, vì đã có công sửa lỗi cho trẫm trở về đường chính. Còn một chén thì xin nhường Chu phu nhân đã có lời bình xác đáng. Một chén nữa trẫm xin tự uống. 

 Chu phu nhân cười thưa: 

 - Thế là nói ra thì chẳng được gì lại còn bị phạt rượu. Tại sao Giang phu nhân không uống? 

 Tiêu Hậu nói: 

 - Ba chén này của bệ hạ, hãy cùng nhau uống đỡ hai chén. Còn một thì tự bệ hạ uống vậy. Thế là công bằng. 

 Các phu nhân rót ra cùng uống, Dượng Đế cũng uống chén phần mình. Rồi lại xem tiếp tờ dưới: "Viên Văn An, thần thiếp Địch Huyền Nhụy". Con dấu có ba chữ: "Tự Đình Chân". Lại cũng một bài từ như Hoa phu nhân, theo điệu: "Vu Sơn nhất đoạn vân": 

 Mưa sao nhuần khắp núi non 

 Mây sao bóng mát đầu nguồn âm u? 

 Hoa xuân cỏ nhuốm màu thu 

 Dao Trì hồng biếc rộng nhờ ơn trên 

 Dây đàn khẽ động tay tiên 

 Nồng hương ngự đã nghiêng nghiêng nhẹ sầu. 

 Dượng Đế đọc xong, khen: 

 - Hay lắm! Buồn mà không thương, vui mà không lâm, học được chính thể của từ khúc vậy. 

 Tiêu Hậu cười: 

 - Khúc này thì người khác chẳng làm được đâu. Hay hơn cả là câu cuối cùng. Bệ hạ đáng uống một chén lớn để mừng vậy! 

 Dượng Đế cũng phụ họa: 

 - Đáng uống lắm, mau rót ra đây! 

 Xem tiếp, thấy đề: "Viện Thu anh, thần thiếp Ấn Hoa, kính trình ngự lâm”. Con dấu in rõ: "Tiểu tự Nam Kha", bốn chữ bài tuyệt cú sau đây: 

 Đình viện non trưa tỉnh giấc oanh 

 Bờ ao những biếng hái tần xanh 

 Ơn riêng quyến luyến hầu quên lễ 

 Trong mộng mấy lần miệng gọi "Khanh". 

 Dượng Đế cũng khen: 

 - Hay lắm? Văn là người vậy. Tình ý thật tự nhiên. 

 Tiêu Hậu đùa: 

 - Nếu có thêm vài tiếng "Khanh" nữa thì bệ hạ còn khen hơn nữa kia! 

 La phu nhân cũng cười: 

 - Tiếng gọi hay đến thế sao, sao Tiết phu nhân không rót mời chúa thượng một chén? 

 Tiết phu nhân mặt thẹn đỏ bừng, đành gượng đứng lên, Dượng Đế trông thấy, vội ngăn: 

 - Khanh cứ ngồi xuống. Không cần phải nghe lời La phu nhân xúi đâu! 

 Lại tiếp lần này là: "Viện Tích Chân, thần thiếp Phần Quyên", con dấu là: "Tố Vân thị" cũng là một bài tuyệt cú: 

 Trong thơ mơ mộng ơn mưa móc 

 "Phú Trường Môn " không nhọc Tương Như (1) 

 Tắm xong được lệnh vua chờ 

 Áo xiêm xoa vuốt cho mờ nếp nhăn. 

 1 Tư Mã Tương Như, nhà văn nổi tiếng thời Hán, làm giúp cho một cung phi bị vua ghét bỏ, bài "Trường Môn phú". Vua đọc, lại yêu người cung nữ như xưa! (Từ Hải). 

 Dượng Đế phán: 

 - Tình thì sâu sắc mà ý thì mặn mà, đúng là thơ của bậc giai nhân. 

 Giở tiếp trang khác, trên giấy ghi: “Viện Giáng Dương, thần thiếp Gia Tế Trinh, cẩn trình ngự lãm". Con dấu có ba chữ: "Tự Lâm Vân", phía dưới là hai bài tuyệt cú. 

 Bài một: 

 Chất ngọc trắng trong chẳng bợn màu 

 Hương đưa thoang thoảng lạ quen nào 

 Tiêu Tương một giấc say rồi tỉnh 

 Sáng cả lan can vạt tố bào. 

 Bài hai: 

 Tương tư bài họa nghĩ rằng cao 

 Từ thuở thừa ân tình đã sâu 

 Chợt nhớ mơ màng ban xuyến ngọc 

 Cầu vồng rạng rỡ ánh muôn sao! 

 Dượng Đế khẽ cười khen: 

 - Chẳng cần thoa son dồi phấn, đúng là vẻ đẹp của thiên nhiên, cho nên dẫu có xù xì một chút nhưng vẫn đẹp vẫn xinh. 

 Bỗng thấy các phu nhân khúc khích cười, Dượng Đế hỏi: 

 - Các khanh cười cái gì nào? 

 Khương phu nhân thưa: 

 - Chúng thiếp cười chuyện hôm qua. 

 Mới nói xong, vội yên lặng một lát, rồi lại tiếp: 

 - Thiếp không nói nữa. Vừa rồi vì có chuyện Sa phu nhân, sao nay lại còn dại mồm dại miệng thế không biết! 

 Dượng Đế dọa: 

 - Khanh không nói, trẫm sẽ phạt tiếp ba chén. 

 Hoa phu nhân thưa: 

 - Khương phu nhân không uống được nữa đâu, xin để thiếp nói thì hơn. Hôm qua, Giả phu nhân làm thơ, một hồi lâu mới nháp xong, vừa đọc vừa lắc lắc đầu, rồi vo viên tờ giấy lại nuốt kỳ hết, như thế đến ba lần, nuốt đúng ba viên giấy tròn, về sau thấy bệ hạ đi khỏi, mới nhờ Chu phu nhân cùng Dương phu nhân viết hộ cho, hai phu nhân đều không chịu. Giả phu nhân tức giận nói rằng: "Cầu người không bằng cậy mình. Chúa thượng biết ta mới tập tành nghiên bút, chẳng may có đánh mấy phát thối ra đó, chỉ mong chúa thượng không lôi ra đánh là may rồi". Nay chúng thiếp thấy bệ hạ khen thơ của Giả phu nhân, vì vậy mà ai nấy đều cười. 

 Tiết phu nhân vẫn còn cười thưa: 

 - May mà nhờ mấy viên tròn tròn, mới có đủ mấy phát thối đó! 

 Dượng Đế thấy Giả phu nhân có vẻ hơi giận, bèn phạt Khương phu nhân, Hoa phu nhân, rồi Tiết phu nhân, mỗi người một chén rượu. Rồi giở nhanh sang tờ khác: "Viện Ỷ Âm thần thiếp Hạ Lục 

 Dao, cẩn trình ngự lãm". Lại thấy một bài từ nữa, bên dưới con dấu có ba chữ “Quỳnh Quỳnh thị”. 

 Tây Hồ đượm khí xuân 

 Cao cao treo gương nguyệt 

 Tiếng sênh rộn đất 

 Đèn nến sáng trời 

 Quân vương về đó rượu mời ra sao? 

 Cỏ hoa run rẩy thì thào 

 Quên đem mực nhạt tô vào mày xanh 

 Hương lòng xin thắp một cành 

 Loan nghiêng phượng ngửa dám tranh dám nài 

 Lòng nhân Nghiêu Thuấn không sai 

 Thương cung nhân Hán một đời quạnh hiu.(1) 

 1 Không thấy nói theo điệu từ gì cả! 

 Dượng Đế khen: 

 - Từ sắc vận cho tới tính tình, như đang nhảy nhót trên giấy vậy. 

 Tiêu Hậu lại cười: 

 - Chẳng cần phải nói vừa có tình, vừa có chí, lại làm bệ hạ đêm nay phải một phen khổ sỡ. 

 Hạ phu nhân thưa: 

 - Có hoàng hậu giáng lâm, nên mới có nhiều may mắn thế, nếu không ai dám đưa những chuyện này ra với bệ hạ được. 

 Dượng Đế đọc tờ sau: "Viện Nghênh Huy, thần thiếp La Tiểu Ngọc, cẩn trình", dấu là ba chữ: "Bội thanh thị”, rồi hai bài tuyệt cú. 

 Bài một: 

 Quanh đền rực rỡ sắc trăm hoa 

 Phú quý nhà ai dám đọ mà? 

 Phong cảnh vườn quỳnh xem lộng lẫy 

 Đường tơ ăn đứt khúc tỳ bà. 

 Bài hai: 

 Lơi lả tân trang nhác điểm tô 

 Gập ghềnh cao thấp núi đồi phô 

 Đừng khoe thược dược nhà Diêu Ngụy 

 Nhường để hoa ta báo đức vua. 

 Tiêu Hậu thấy Dượng Đế đã đọc xong, bèn nói: 

 - Hai bài này tài tình đủ vẻ, lại được nết khiêm nhường. Bệ hạ thấy có đúng không? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Hoàng hậu bình giá không sai! 

 Rồi giở sang tờ khác: "Viện Thanh Tu, thần thiếp Tần Mỹ", con dấu là "Lệ Nga thị" có một bài tuyệt cú như sau: 

 Cung cấm xuân tàn mưa móc nhiều 

 Muôn hồng ngàn trắng, biếc xen điều 

 Chẳng hay hoa lá ai mơn trớn 

 Mà gió đông về như nhát dao! 

 Dượng Đế gật gật đầu, giở qua tờ khác: "Viện Minh Hà, thần thiếp Dương Dục". Dấu cũng rõ ba chữ: "Phiên Phiên thị", cũng có một bài tuyệt cú: 

 Thơ ngây được hưởng ơn dày 

 Gió xuân vơ hết vào tay thơm lừng 

 Ngẫm mình thiếp có bao lăm 

 Ngờ rằng hoa đã khéo nhầm quân vương. 

 Dượng Đế khẽ cười, xem tiếp: "Viện Thần Quang, thần thiếp Chu Hàm Hương", dấu in rõ "Tự Ấu Lan", sau đó là một bài từ theo diệu "Như mộng lệnh": 

 Đêm gió đông ào ào thổi 

 Một chồi dương mai nở vội 

 Rượu ngọt chuốc chén vàng 

 Kính chúc ngàn năm muôn tuổi 

 Không dối, không dối 

 Cùng hưởng thái bình khắp cõi. 

 Dượng Đế gật gật đầu, rồi xem tờ sau: "Viện Ảnh Minh, thần thiếp Lương Ngọc, cẩn trình ngự lâm", con dấu là "Huỳnh Nương thị", bên dưới ghi một bài tuyệt cú: 

 Lơi lả truy hoan sợ ấp yêu 

 Soi gương tình thấy ít hay nhiều 

 Màn loan ai bảo thường xu mị 

 Thẹn nấp sau hiên, vạt áo điều. 

 Dượng Đế khẽ cười, Tiêu Hậu hỏi: 

 - Vì sao những bài vừa rồi, bệ hạ chỉ cười một mình mà không phán gì cả? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Hoàng hậu, hoàng hậu không biết, trong số ở sáu cung, như Dương Phiên Phiên, Chu Ấu Lan, Tần Lệ Nga, Lương Huỳnh Nương, Sa Tuyết Nga đều là bậc thi bá; chẳng khác gì quần thần làm thơ ứng chế nhưng cũng không thấy bài nào xuất sắc, chỉ là những từ ý cũ, rồi đem những chuyện đã qua mà chép vào là xong. 

 Các phu nhân nghe xong đều cười vui vẻ, Tiêu Hậu: 

 - Thì chỉ cần có thơ là xong rồi. Bệ hạ còn đòi hỏi gì nữa kia. 

 Dượng Đế dở tiếp, thấy: Viện Bảo Lâm, thần thiếp Sa Anh, dấu là: "Tuyết Nha thị". Sau đó là một bài ngũ ngôn bát cú. 

 Thuở vào cung tóc mây vừa búi 

 Đêm chầu hầu bối rối thẹn thò 

 Hoa cười oanh nói líu lo 

 Tình say dưới nguyệt thẫn thờ như si 

 Dâng một khúc hát xưa ca tụng 

 Hầu như quên trời sáng vừng đông 

 Nghìn thu tựa mạn thuyền rồng 

 Kìa như cây cỏ cảm lòng gió xuân. 

 Dượng Đế khen: 

 - Chính lúc nói chưa thấy một bài nào xuất sắc, thì lại có đây rồi! 

 Tiêu Hậu thấy nói thế, đọc lại một lần, cũng tỏ lời khen. 

 - Đúng là hay, vừa đoan trang trầm tĩnh, ra dáng đại gia. 

 Tờ tiếp theo thấy viết: "Viện Nghi Phượng, thần thiếp Lý Tiểu Hoàn". Con dấu chỉ có hai chữ "Khánh Nhi” sau là một bài tuyệt cú: 

 Vua ta minh thánh tựa Thuấn Nghiêu 

 Chẳng tháo trâm mà vẫn sớm chầu 

 Giảng khúc "Quan thư” nhuần giáo hóa (1) 

 Cánh hồng rơi đỏ mảnh hoàng bào. 

 1 Kinh thư: Vua thức khuya, dậy muộn, rỡ buổi chầu. Hoàng hậu tháo trâm, gỡ mũ tạ tội vì không can vua. "Quan thư là bài đầu của Kinh thi, khen hoàng hậu không ghen, rộng rãi với cung nữ. 

 Dượng Đế cười nói với Lý phu nhân: 

 - Bây giờ mới đến của khanh sao? 

 Tiêu Hậu cố ý hỏi Lý phu nhân: 

 - Có phải là mới làm đêm qua không? 

 Lý phu nhân thưa: 

 - Đêm hôm qua đề mục cũng chưa hiểu. Sáng nay may có Tần phu nhân đến sớm, phải vội vàng làm được mấy câu , chỉ sợ không đúng đề mục của bệ hạ ra. 

 Dượng Đế đáp: 

 - Nếu nói trong khuê các thôi, thì được như các phu nhân mà làm để có ngay cũng là chuyện khó. Như Sa phu nhân, luật thơ luật từ đều rất thông thuộc, bọn đàn ông, văn nhân cũng đến thế thôi. Giờ thơ từ đã xem xong rồi, chúng ta hãy uống cho say nào! 

 Tiêu Hậu ra lệnh tấu nhạc, thế là lời ca tiếng hát rộn chen tiếng đàn tiếng địch chén vàng lấp lánh, đĩa ngọc lung linh, người người đều vui vẻ. Tiêu Hậu nói với Hạ phu nhân: 

 - Nhờ hứng của chủ nhân, rượu cũng đã nhiều rồi, nên trở về cũng là hơn! 

 Rồi quay lại nói với Sa phu nhân: 

 - Phu nhân ngọc thể như vậy, cũng không nên ngồi lâu, tốt hơn cả là về trước đi! 

 Sa phu nhân nghe xong, liền đứng dậy. Dượng Đế giục Tiêu Hậu cùng về, Tiêu Hậu không bằng lòng nói: 

 - Nếu như những đêm khác thì không bàn, tùy bệ hạ thế nào cũng được. Nhưng đêm nay, là tiện thiếp làm chủ nhân, vì vậy bệ hạ nên về nghỉ ở viện Bảo Lâm, có Tiết Dã Nhi theo hầu, một chính một phó, cho đỡ lẻ loi. Không biết ý phu nhân như thế nào? 

 Sa phu nhân thưa: 

 - Thật nhờ ơn dày của hoàng hậu. Tiện thiếp đâu dám giành riêng ơn mưa móc của chúa thượng. 

 Chúng phu nhân nhất tề : 

 - Hoàng hậu cắt đặt như vậy, chúng thiếp rất phục. Sa phu nhân cũng không nên chối từ. 

 Tiêu Hậu lại tiếp: 

 - Được hay không là tùy bệ hạ. Nhường hay không nhịn là ở các phu nhân. 

 Dượng Đế vừa cười vừa rót một chén đầy, đưa mời Tiêu Hậu: 

 - Hoàng hậu hãy uống một chén này rồi hãy lên xe . 

 Tiêu Hậu cười : 

 - Thiếp thật không tài nào uống nổi nữa. Xin bệ hạ cũng uống vừa phải, để còn giữ được chân huyết khỏe mạnh thì hơn. 

 Nói rồi lên xe loan về cung. Các phu nhân tiễn Dượng Đế tới viện Bảo Lâm, lại sai Tiết Dã Nhi cùng đi với Sa phu nhân, rồi ai về viện ấy. 

 Chính là: 

 Vô số hoa tươi phô lộng lẫy . 

 Một nhành chiếm hết cả rừng xuân. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Ba Mươi Hai

Địch Khứ Tà vào hang sâu,

 Hoàng Phủ Quân đánh chuột lớn.

 Từ rằng: 

 Ngẫm thương người trần 

 Bị quỉ thần chòng ghẹo 

 Điên điên đảo đảo 

 Dắt dẫn theo danh giáo 

 Lại đem mồi chài 

 Dây thuyền dài 

 Roi ngựa ngắn 

 Mấy ai được thảnh thơi 

 Nhìn kỹ ra: 

 Sớm sớm gió quất tơi bời 

 Ngày ngày bụi vùi cay rát 

 Dù ai giảo hoạt anh hùng 

 Vực sâu ngập xuống, dây thòng lọng treo 

 Hám phú quý mà liều thể xác 

 Mộ thần tiên thuốc độc uống vô 

 Xương khô mà máu chẳng khô 

 Bừng con mắt, ủa! Rặt trò xuẩn ngu 

 Khuyên ai tỉnh trước mà ngừa. . . 

 Theo điệu "Ý nan vong” 

 *** 

 Lại nói Dượng Đế về viện Bảo Lâm, qua một đêm hoan lạc với Sa phu nhân cùng Tiết Dã Nhi, sáng ra, vì nhớ tới những lời Tiêu Hậu hôm qua, nên dậy sớm rửa mặt, chải đầu rồi lên xe rồng trở về cung. Nhưng khi qua cửa cung thì đã thấy quần thần tụ họp chờ nhà vua ở dưới điện. Dượng Đế bèn bước lên điện, phán rằng: 

 - Các khanh bàn về chuyện đường thủy đi Quảng Lăng nay đã ra sao rồi? 

 Vũ Văn Thuật thưa: 

 - Chúng thần dã bàn bạc kỹ lưỡng với bộ Công về việc này. 

 Thật không có một đường nào cả. Chỉ quan gián nghị đại phu Tiêu Hoài Tĩnh, nói rằng có một đường thủy tới Quảng Lăng được. Cho nên cũng tới đây để thưa cùng bệ hạ. 

 Thì ra Tiêu Hoài Tĩnh chính là em của Tiêu Hậu, vốn dòng quốc cữu hiện là Thượng đại phu. Dượng Đế bèn vui mừng hỏi Hoài Tĩnh: 

 - Khanh biết đường thủy nào có thể đi Quảng Lăng được? 

 Hoài Tĩnh thưa: 

 - Trước kia ở phía tây bắ thành Đại Lương, hạ thần nghe nói có một đường sông, từ thời nhà Tần, đại tướng Vương Ly từng đào con sông này để lấy nước từ bến Mạnh Tân, tưới cho vùng Đại Lương. Nhưng đến nay thì sông này đã bỏ cạn. Phải tập trung dân phu, bắt đầu từ Đại Lương qua Hà âm, Trần Lưu, Ung Khâu, Thư Dương mà đào lại dòng cũ dẫn nước Mạnh Tân, cho mãi tới tiếp với sông Hoài Hà, bất quá chỉ khoảng nghìn dặm, thì có thể thẳng tới Quảng Lăng. Thần lại được nghe các quan ở Tư Thiên giám nói rằng vùng Thư Dương có vượng khí thiên tử, nay đào sông này, nhất định sẽ đi qua Thư Dương, thì vượng khí sẽ mất, địa thế hiểm trở và hậu họa cũng chẳng còn. Thần nghĩ nông cạn như vậy, không biết thánh thượng chỉ ý ra sao? 

 Dượng Đế vui mừng phán ngay: 

 - Khanh nghị luận thật sáng suốt, ngoài khanh ra có ai có thể nghĩ được những điều thuận lợi cả đôi đường như vậy! 

 Bèn truyền chỉ phong cho Chinh bắc đại tổng quản Ma ThúcMưu làm Khai hà đô hộ, rồi phán tiếp rằng: 

 - Đường sá xa xôi, công việc phiền toái, cần phải có thêm một người đắc lực giúp cho Đại tổng quản mới xong. 

 Lúc này Vũ Văn Thuật vẫn nghi Lý Uyên giết con út của mình là Vũ Văn Huệ Cập, muốn tước mọi binh quyền của Lý Uyên, nên thừa cơ này, tâu: 

 - Lưu thú Thái Nguyên Lý Uyên, vốn có tài cán, bệ hạ điều xung vào việc này. Lý Uyên có thể đỡ đần rất đắc lực những việc khó khăn cho Ma Đại tổng quản. 

 Dượng Đế liền điều Lý Uyên từ Lưu thú Thái Nguyên về làm Khai hà phó sứ: bắt đầu khởi công từ thành Đại Lương xuyên qua Thư Dương, đến tận Hoài Hà. Lập tức lấy ngay dân đinh, ít là mười lăm vạn, nhiều thì đến năm mươi vạn người, ai trốn tránh, tru di tam tộc. Thánh ý đã ban, chẳng ai dám cản, lập tức có sắc chỉ, đem đến tận nơi, Ma thúc Mưu cùng lý Uyên lên đường. 

 Nguyên lai Ma Thúc Mưu là một kẻ rất tàn ác, tham tiền tham lợi, nghe tin được thăng Khai hà đô hội trong lòng vô cùng hoan hỉ, lập tức phó nhiệm. 

 Lúc này vợ chồng Sài Tự Xương đang ở Ngạc Huyện, biết chuyện này báo về với Lý Uyên, khuyên Lý Uyên cáo bệnh, một mặt nên sai người đem vàng bạc về Đông Đô chạy kỳ được một kẻ thế chân, tránh bằng được họa này. Vì vậy chính Tự Xương lại một phen phải đi Đông Đô, tìm đến Lương Quốc Công Tiêu Cứ, Thiên ngưu Vũ Văn Tinh, đều là sủng thần của vua Tùy, ngày đêm ra vào cung khuyết, trong ứng ngoài hợp. Bên ngoài thì lại đến nói ngay Khai hà đô hộ, rồi cả với Trương Hành kẻ trước kia bịa sấm, mưu hại Lý Uyên chẳng qua cũng chỉ vì Thái tử, chứ vốn cũng chẳng có thù riêng với Lý Uyên, huống chi đều là bọn tiểu nhân, mắt trông thấy vàng, chuyện gì chẳng làm. Cho nên khi Lý Uyên có tờ biểu bệnh tới thì có ngay thánh chỉ bổ Tả đồn vệ tướng quân Lệnh Hồ Đạt thay cho Lý Uyên. Lý Uyên vẫn ở lại Thái Nguyên dưỡng bệnh. 

 Hai viên chánh phó nhận sắc chỉ, đào sông bề mặt rộng bốn mươi bộ, sâu mười lăm trượng. Lấy ba trăm sáu mươi vạn dân phu Hà Nam. Hoài Bắc, lại thêm cứ năm nhà, phải có một người già, hoặc phụ nữ đi lo chuyện cơm nước, số này cũng đ lên tới bảy mươi hai vạn người. Ngoài ra có lệnh điều vùng Hà Nam, Sơn Đông, Hoài Bắc năm vạn lính kỵ mã, để giám đốc công trình. Lúc này giữa ngày mùa bận rộn, nhưng cũng chẳng ai nghĩ đến, dù ở vùng sơn cước heo hút, dù là nơi mồ mả cha ông, hoặc thôn xóm dân cư, đều phải đào bới, không trừ nơi nào. Người đi, người ở đều nghìn vạn nỗi khổ. 

 Nói chuyện có một dội dân phu đang đào, bỗng thấy tường gạch của một ngôi nhà. Dân phu cứ thế đào tiếp, ngôi nhà càng ngày càng lộ rõ đến bốn năm gian, bốn chung quanh được xây bằng đá trắng, có hai cửa đá, đóng rất chặt, không tài nào mở nổi. Ai nấy cho rằng bên trong thế nào cũng có bạc vàng, châu báu gì đó, liền dùng búa, cuốc chim, chày, vồ. phá bằng được. Nhưng vẫn chẳng suy xuyển. Hồi lâu chẳng xong, mọi người mới vội báo với đội trưởng, đội trưởng lên thưa với Ma Thúc Mưu. Ma Thúc Mưu liền cùng với Lệnh Hồ Đạt tới xem. Ai nấy đều thưa: 

 - Đã dùng mọi cách để phá, mà vẫn không xong! 

 Lệnh Hồ Đạt nói : 

 - Đây nếu không phải là lăng tẩm một vị vua chúa xưa kia, thì cũng phải là một huyệt của tiên công, đạo gia nào đó, làm sao có thể dùng sức lực mà phá cho được. Nhất định phải thấp hương khấn vái, đọc thánh chỉ của hoàng thượng thì may ra mở được! 

 Ma Thúc Mưu ,cũng chẳng có cách gì hơn, đành quát tay chân bày hương án, cùng với Lệnh Hồ Đạt mặc triều phục nghiêm trang tuyên đọc thánh chỉ bái lạy đảo điên trước hương án. Bỗng một trận gió lạnh nổi lên, một tiếng nổ lớn, hai cánh cửa đá mở rộng. Ma thúc Mưu cùng mọi người tiến vào. Thấy ngay trước mặt, hàng trăm. ngọn đuốc đốt bằng nhựa sơn, vẫn cháy soi sáng như ban ngày, ở chính giữa đặt một hòm bằng đá lớn, dài đến bốn năm thước, hai đầu đều có tạc vẽ hoa văn. Thúc Mưu trông thấy vậy, đã có vẻ hoảng sợ, không dám đường đột dẫn đầu nữa, mà im lặng lui về phía sau, thì thấy phía này, có chỗ đào lũng vào phía trong như một cái động, trong động đặt một quan tài cũng bằng đá. 

 Thúc Mưu cùng Lệnh Hồ Đạt vội cúi lạy, rồi sai người nâng nắp quan tài lên, thì thấy một người nằm ngửa, vẻ mặt vẫn còn đầy đặn, hồng hào, chẳng khác gì người sống, khắp người da thịt trong suốt như ngọc, mái tóc đen nhánh. Từ mặt tới bụng, tới chân, đều lần lượt lộ rõ ra theo tay của bọn tả hữu. Những chiếc móng tay, chiếc nào cũng dài trên dưới một thước, Ma Thúc Mưu thấy thế, biết là di thể của một thiên thần đắc đạo, nên không dám đụng đến, bèn lệnh cho tay chân, đậy nắp quan tài lại. Rồi sai mở hòm đá ra, ở bên trong không có một thứ gì khác ngoài ba thanh đá mỏng, trên đều khắc chữ khoa đẩu (1). Chẳng ai biết đọc thứ chữ này. May ở trong núi có một vị chân tu, tuổi đã hơn trăm có thể đọc được, dịch ra như sau: 

 1 chữ khoa đẩu: Khoa đẩu, là con nòng nọc. Chữ khoa đẩu là một thứ chữ cổ của Trung Quốc, hình giống con nòng nọc còn được giữ lại trên mặt đá. 

 Ta là Đại Kim tiên 

 Thác đã một nghìn niên 

 Số đủ một nghìn niên 

 Sau lưng nước chảy liền 

 Gặp được Ma Thúc Mưu 

 Cải táng lên cao nguyên 

 Tóc xõa tới cát đen 

 Lạt chờ một nghìn niên 

 Sẽ lên miền Phật tiên. 

 Thúc Mưu thấy tên mình cũng được viết trên đó, kinh ngạc không thôi, càng tin đạo pháp của tiên nhân, biết được những chuyện phi thường, bàn với Lệnh Hồ Đạt, tìm một thế đất cao ráo, làm lễ di táng. Chùa Đại Phật ngày nay, chính là di tích này vậy. 

 Đến vùng Trần Lưu, dân phu đang đào bỗng thấy mây đen kéo đến, rồi mưa như trút, gió gào thét. Nước chảy cuồn cuộn, cuốn theo rất nhiều dân phu chạy không kịp, kẻ còn lại thất điên bát đảo mới tìm được chỗ trú. Thúc Mưu không tin, tìm đến tận nơi xem cũng bị một trận mưa gió ra trò. Phải tìm đến các bậc kỳ lão hỏi han, mới biết thổ thần của vùng này, chính là Trương Lương đời nhà Hán, rất là linh ứng. Thúc Mưu tin ngay rằng đó là Trương Lương (2) hiển linh, để giữ gìn đất đai của mình, đành phải viết biểu, dâng lên triều đình. Dượng Đế sai ngay Hàn lâm viện, viết một bài văn tế, đem theo những đồ tế tự quốc bảo, sai Thái thường khanh Ngưu Hoằng lại đem thêm một đôi ngọc bạch bích, đến Trần Lưu tế lễ, sông mới đào xong khỏi đoạn Trần Lưu. 

 2 Trương Lương: Vốn người nước Hán, bề tôi giỏi nhất về mưu lược của Hán Cao Tổ. Giúp Hán diệt Tần, thắng Sở lập nên nhà Hán bốn trăm năm. Công việc xong, Lương lấy cớ nhiều bệnh, bỏ đi về tiên ông Xích Tùng Tử học đạo tu tiên (Sử Ký). 

 Chính là: 

 Âm dương một lẽ không hai 

 Quỷ thần chứng giám đôi vai nhiệm màu. 

 Chẳng mấy chốc, dân phu đã đào đến vùng rừng rậm rạp của Ung Khâu, lại cũng gặp một ngôi mộ, bên trên mộ có đèn thờ. Khi đào tới đây người đội trưởng đã có ý ngờ, nên đến thưa với Thúc Mưu. Thúc Mưu tới xem, thì thấy bốn chung quanh, linh khí mù mịt, mới gọi dân sở tại tới hỏi. Một người thưa rằng: 

 - Đây là mộ của bậc cao nhân từ thời thượng cổ, không ai còn nhớ rõ họ tên gì nữa. Chỉ thấy đời này nổi đời khác gọi là ẩn sĩ mộ thôi. 

 Thúc Mưu nghe nói đến ẩn sĩ, lấy làm coi thường, bắt dân phu cứ thế đào lên. Dân phu được lệnh, toán thì phá nhà thờ, toán thì đào mộ. Không ngờ phía dưới có rất nhiều từng đá, đào mãi tới lớp thứ ba, bỗng nghe một tiếng nổ dữ dội, chẳng khác gì núi lở, đất sụt, cả người cả đất đá tụt hẳn xuống một hố sâu. Vội vàng cứu lên, người bị thương nặng, người thì chết, không thể đếm xuể là bao nhiêu. Thúc Mưu hoảng sợ, liền cho người xuống thăm dò xem sao, thì thấy sâu đến hai ba trượng, phía đáy lại có một cái huyệt, ánh sáng chợp chờn, như ở bên trong có đuốc đèn gì phát ra vậy, lại thấp thoáng nghe như có tiếng chuông, nhìn xuống thì sâu như biển cạn, không thấy đâu là đáy nữa, không ai dám xuống, đành kéo nhau lên bờ. 

 Lệnh Hồ Đạt trầm tư nghĩ ngợi một hồi: 

 - Phải có được một người này xuống, thì mới biết được rõ ràng mọi chuyện. 

 Thúc Mưu vội hỏi: 

 - Ai thế? 

 Lệnh Hồ Đạt đáp: 

 - Người này rất giỏi kiếm thuật, thường tự ví mình với Kinh Kha. Nhiếp Chính, sẵn sàng giúp khốn phò nguy, tên Khứ Tà, họ Địch, hiện làm Lang tướng ở Vũ Bình. Nhưng gần đây được điều về đây làm quản đốc lương thực ở hậu doanh. Mời được người này đến đây nhất định mọi việc sẽ rõ ràng ngay. 

 Thúc Mưu nghe theo, sai tay chân đi tìm. Chính lúc này Địch Khứ Tà đang xem xét lương thực ở hậu doanh, thấy Thúc Mưu cho người đến tìm đành phải mặc lễ phục vào, tới nơi ra mắt: Thúc Mưu nhìn Khứ Tà thì thấy người cao tám thước, lưng uốn mười vòng, hai mắt sáng như ánh chớp, mặt mũi phương phi lẫm lẫm, rõ ràng ra bậc trượng phu, nên lấy lời từ tốn mà rằng: 

 - Ta mời tướng quân đến đây, không có việc gì khác, nhân phía dưới có ẩn sĩ mộ, đào đến đại huyệt, trong huyệt thấy đèn đuốc lấp lánh, không hiểu có chuyện gì kỳ dị. Nghe nói tướng quân vừa can đảm vừa có sức khỏe, xin nhờ tường quân xuống xem sao, ta sẽ ghi công đầu cho tướng quân. 

 Khứ Tà thưa: 

 - Được hai vị đại nhân sai khiến, lẽ nào không vâng theo. Nhưng không biết huyệt ở chỗ nào? 

 Thúc Mưu cùng Lệnh Hồ Đạt dẫn Khứ Tà tới huyệt xem xét. Khứ Tà nhìn ngó một hồi lâu rồi nói: 

 - Muốn xuống được dưới này, không có lễ nghi không được đâu. 

 Rồi ăn mặc chỉnh tề, thay hẳn một bộ võ phục đàng hoàng, lưng giắt một thanh bảo kiếm. Sai người lấy một đoạn dây chão dài hàng chục trượng, lại buộc rất nhiều chuông đồng, rồi tự mình ngồi trong một cái rọ lớn, chắc chắn, sai người trên bờ thả dần xuống. 

 Khứ Tà ban đầu ở trên nhìn xuống, thấy bên dưới đèn nến huy hoàng, càng xuống sâu lại càng tối dần, nhắm mắt một lúc, rồi mở ra nhìn kỹ, thấy hình như có ánh sáng le lói. Ra khỏi cái rọ của mình, lần theo vệt sáng đó mà xuống, khoảng mấy chục bộ nữa, thì càng ngày càng sáng rõ. Lại dò dẫm thêm bốn năm chục bộ nữa, bỗng thông tới một khoảng rất rộng, chẳng khác gì có một bầu trời riêng, mặt trời riêng vậy. 

 Khứ Tà thấy quang cảnh này, trong lòng thầm nghĩ: "Người ta chỉ biết trên đời tranh công đoạt lợi, khổ sở trăm đường để bám lấy cõi phù sinh nhơ bẩn. Có ai ngờ được rằng trong cái huyệt sâu này, vẫn có một thế giới khác nữa, thật đúng là ngoài trời còn có trời khác vậy, thiên ngoại hữu thiên!". Cho nên trong lòng ít nhiều sinh chán ghét chuyện công danh thân phận, nhưng lại càng bình tĩnh đi tới phía trước, vượt qua một bức tường đá, thấy một tòa phủ động rộng rãi, bốn phía là tường xây bằng đá trắng, bên trong là một tòa lầu, có đường cầu thang lên lầu, hai bên hai con sư tử bằng đá ngồi chững chạc, chẳng khác gì cảnh phủ đệ của các bậc công tốt. 

 Cứ theo cầu thang mà lên, nhìn đông ngó tây, chẳng thấy một người nào, chỉ thấy phía nam có một lầu đá khác, nhưng cửa phòng đóng chặt, còn ở phía đông lại có một gian phòng đá khác nữa, nghe như có tiếng động. Khứ Tà cứ thế tiến lại gần, nhìn từ cửa sổ, thấy bốn góc phòng, đều có trụ đỡ bằng đá. Một trong các trụ này có dây xích bằng sắt, buộc một con thú kỳ lạ, con thú này đang lấy móng chân cào cào vào sàn gác, chính là tiếng động ban nãy Khứ Tà nghe ở bên ngoài vậy. Con thú đầu rất nhỏ, mắt trông lồi hẳn ra ngoài chân lại ngắn ngủn, thân to béo, gần giống như một con bò, trông không phải là hổ, cũng chẳng phải là báo. Khứ Tà nhìn kỹ một lúc lâu, mãi mới nghĩ ra là một con chuột già. Khứ Tà đột nhiên nghĩ mà hoảng sợ: "Con chuột mà lớn đến thế này, thì con mèo sẽ còn lớn thế nào nữa đây!". 

 Đang lúc ngây người nhìn, cánh cửa ở phía nam mở rộng, một tiểu đồng tử từ cửa đi ra, chỉ thấy: 

 Long lanh mắt tú, mày thanh 

 Đẹp đẽ môi hồng, răng trắng 

 Hai trái đào, thêm vẻ tiên phong 

 Áo bào vàng, càng ra đạo cốt 

 Nếu chẳng phải con hạt cháu tiên 

 Thì cũng là huyết thần, cốt đạo 

 Tiểu đồng thấy Khứ Tà, bèn hỏi: 

 - Tướng quân có phải là Địch Khứ Tà không? 

 Khứ Tà kinh ngạc hỏi lại: 

 - Đúng rồi! Nhưng sao tiểu đồng lại biết được? 

 Tiểu đồng đáp: 

 - Hoàng Phủ Quân đợi tướng quân đã lâu rồi, xin mời tướng quân nhanh lên cho. 

 Khứ Tà lại càng ngạc nhiên, chỉ còn biết đi theo tiểu đồng vào cửa, thì thấy bên trong điện các huy hoàng, lầu sảnh uy nghi, không giống cảnh lặng lẽ, tĩnh mịch bên ngoài nữa. Trước điện một bậc quý nhân chễm chệ ngồi, mình khoác áo bào thêu rồng, đầu đội mũ có đủ tám viên ngọc quý thêu hình mây ngũ sắc, rũ những dây ngọc quý trước sau, rõ ràng ra dáng vương giả. Hai bên là các quan văn võ đứng hầu, dưới thềm cũng hàng dãy thị vệ lập nghiêm kính cẩn. Khứ Tà đến trước điện, vội vàng cúi lạy làm lễ, thì thấy quý nhân trên điện lên tiếng: 

 - Địch Khứ Tà, ngươi đã tới đó phải không? 

 Khứ Tà thưa: 

 - Thần Địch Khứ Tà, vâng mệnh thánh chỉ xung việc đào sông, được Đô hộ Ma Thúc Mưu sai xuống đây, Không ngờ gặp được tiên phủ. Thực là đáng tội. 

 Vị quý nhân liền phán: 

 - Nhà ngươi vừa mới viện tới thánh chỉ của Tùy Dượng Đế phải không. Ngươi hãy đứng ra một bên. Ta sẽ cho ngươi xem vật này. 

 Rồi nói với viên Vũ Vệ tướng quân, mặt mũi dữ tợn đứng hầu ngay cạnh: 

 - Mau mau dắt A Ma vào đây! (l) 

 1 A Ma: tên của Tùy Dượng Đế hồi nhỏ, cũng chỉ điềm rồng vàng uốn lượn, khi Độc Cô Hoàng hậu sinh Dượng Đế (Xem hồi 1). 

 Vũ Vệ tướng quân nghe lệnh, vội vàng cầm côn lớn bước ra cửa ngoài. Chẳng bao lâu Vũ Vệ tướng quân cầm một sợi dây sắt dài, kéo con thú kỳ lạ vào. Khứ Tà dụi mắt nhìn kỹ thì đúng là con chuột già lớn ở phòng đá vừa rồi, Vũ Vệ tướng quân dắt vào đến trước thềm, dừng lại, con thú ngồi xuống ngay trước nguyệt dài, râu vểnh lên, răng nanh nhe ra, đầy vẻ đắc chí. Vị quỷ nhân giương mắt nhìn giận dữ, cầm một cái thước ngay trên án đập một cái vào đầu con vật mà quát: 

 - Ngươi là đồ súc sinh, đáng tội lột da. Làm chủ một nước, trăm họ tội gì, mà ngươi đầy đọa xương khô cốt rũ, vì việc đào sông để ngươi vui thú, hoang dâm ngang ngược đến như thế là cùng cực. Nay ta đã đánh chết ngươi, cũng bởi vậy để nguôi nỗi phẫn uất của triệu người, ức quỷ vậy. 

 Rồi sai nhằm đầu mà đánh thật mạnh. Vũ Vệ tướng quân tiến xăn tay áo, giơ cây côn lớn, nhằm thẳng đầu con chuột già mà giáng xuống. Chuột đau không chịu được, cứ thế mà rống, tiếng nghe lục đục như sấm. Vũ Vệ tướng quân đánh nữa, thì thấy trên không trung, hạ xuống một tiên đồng, hai tay nâng một đạo thiên phù, ngăn Vũ Vệ tướng quân: 

 - Không được đánh nữa! 

 Rồi quay lên thưa Hoàng Phủ Quân, chính là vị quý nhân ngồi trên điện: 

 - Thượng đế có lệnh! 

 Hoàng Phủ Quân vội vàng xuống điện, cúi lạy dưới thềm, tiên đồng bước lên điện, mỡ thiên phù ra, dõng dạc đọc: 

 "A Ma vốn đủ một kỷ (1). Số chưa đến lúc tuyệt, hãy còn năm năm nữa. Bấy giờ mới dùng một dãy lụa chắc, quấn chặt vào cổ, mà xiết cho chết, để đền tội hoang dâm ngang ngược. Nay hãy tạm tha đánh roi, phạt trượng. 

 1 Kỷ: cách tính thời gian cổ của Trung Quốc, theo con chi, hàng chi: Tý, Sửu... ứng với 12 năm. Đúng như số năm được ở ngôi của Dượng Đế hiệu Đại Nghiệp 105-106.

 Tiên đồng đọc xong, bay lên trời biến mất. Hoàng Phủ Quân lên điện ngồi, nói: 

 - Hãy tạm tha cho đồ súc sinh, nếu như không có đức hiếu sinh của thượng đế, thì ta đã đánh chết ngươi rồi. Nay vẫn còn được hưởng lạc những năm năm, nếu không biết đường hối cãi, thì chẳng thể nào thoát khỏi cái vạ cổ kia đâu! 

 Rồi sai Vũ Vệ tướng quân dắt con chuột già buộc chặt lại như cũ. Hoàng Phủ Quân hỏi Khứ Tà: 

 - Ngươi đã thấy rõ ràng chưa? 

 Khứ Tà thưa: 

 - Khứ Tà chỉ là một viên lại tầm thường ở cõi đời nhơ bẩn. Những điều huyền diệu của nhà trời thì làm sao mà hiểu hết cho được. 

 Hoàng Phủ Quân phân tích: 

 - Ngươi hãy nhớ cho kỹ, ngày sau sẽ thấy ứng nghiệm rõ ràng. Đây chính là Cửu Hoa đường thượng. Ngươi vốn không có duyên nợ gì với cõi tiên, cũng không nên lưu lại lâu làm gì? 

 Khứ Tà vội vàng quỳ lạy thưa: 

 - Khứ Tà nay do lệnh trên sai, lỡ vào tiên phủ, giờ thì tiến thoái đều chẳng biết lối nào, ngửa xin thần minh chỉ giáo? 

 Hoàng Phủ Quân phán: 

 - Người vốn có một con đường tài danh rất tốt nhưng phải giữ lòng cho trong sạch, sáng suốt, đừng để rơi vào cõi nhơ bẩn. Ma Thúc Mưu là kẻ tiểu nhân đang gặp hồi đắc chí, mặc sức hoành hành, tội không tha được. Người hãy nói với y: "Vì chuyện phá thành quách của ta, không có gì để trả nợ này, sang năm sẽ xin tặng hai lưỡi dao vàng!". 

 Bèn sai một Lục y sứ: 

 - Ngươi hãy dẫn Địch Khứ Tà ra? 

 Khứ Tà thấy cảnh điện các uy nghiêm, không dám hỏi thêm, đành bái tạ trở ra theo Lục y sứ, nhưng lại không theo đường cũ mà theo lối mấy cây cột sơn đỏ, đi không quá một hai trăm bộ, Lục y sứ chỉ tay phía trước nói: 

 - Phía trước, men theo cánh rừng kia, đã là đường lớn rồi đó! 

 Khứ Tà quay đầu lại định hỏi, thì đã không thấy Lục y sứ đâu nữa, lại nhìn lại một lần nữa, thì cả điện các, thành quách đều chẳng còn. Khứ Tà hoảng hốt nghĩ: "Thần thông quảng đại vốn là thế này đây!”. Đành cứ từng bước, từng bước đi qua khu rừng, theo chân núi, gặp một hai cánh đồng rộng nữa, bỗng thấy mấy cây kiều mộc to lớn bao lấy một thôn trang, vội vào thôn hỏi đường. Một nhà ven đường nhỏ, cửa cổng bằng tre nửa mở nửa khép, bèn cứ thế đi vào, khẽ ho đánh tiếng, làm kinh động một đôi chó khoang nhỏ nhằm Khứ Tà mà sủa loạn xạ, từ trong đi ra một ông già. Khứ Tà vội vàng lạy chào, rồi hỏi: 

 - Hạ quan lạc đường, xin lão ông chỉ giùm cho! 

 Ông già đáp lễ rồi nói: 

 - Tướng quân vì cớ gì mà đi bộ đến mãi đây? 

 Khứ Tà không dám giấu, đem chuyện xuống huyệt,Hoàng Phủ Quân, chuyện đánh chuột lớn, kể lại một lượt. Nghe xong ông già cười đáp: 

 - Thì ra Dượng Đế vua ta, lại là một con chuột lớn biến thành. Lạ thay! Lạ thay! Có thế mới hoang tàng, ngang ngược đến vậy chăng? 

 Khứ Tà lại hỏi: 

 - Nơi đây là đâu? Đến Ung Khâu còn xa nữa không, lão ông chỉ giùm? 

 Ông già đáp: 

 - Đây chính là Tung Dương thuộc Thiểu Thất sơn, cứ theo đường lớn, đi về phía đông, chỉ độ hai dặm là huyện Ninh Lăng, cứ từ đó mà về Ung Khâu chẳng còn xa nữa. Chỉ khoảng chiều tà có thể về đến chỗ Ma Thúc Mưu. Nếu như tướng quân không chê chỗ quê mùa, để lão này bảo nấu cơm mời tướng quân rồi hãy đi cũng còn sớm chán. 

 Rồi mời Khứ Tà vào thảo đường, ông già sai đầy tớ làm cơm nước. Trong khi chờ đợi ông già nói với Khứ Tà: 

 - Cứ như việc tướng quân thấy, cứ theo lời tướng quân nói, thì vua Tùy ta nay cũng chẳng được bao nhiêu lâu nữa. Ngay cả Ma Thúc Mưu thì tiền đồ còn ngắn ngủi hơn nhiều. Lão xem tướng quân, từ dung mạo cho đến khí cốt đều có vẻ phi thường, sao lại nổi trôi theo sóng nước như vậy, theo cùng bầy với bọn quyền gian hại dân ấy làm gì? 

 Khứ Tà khiêm tốn đáp: 

 - Ơn lão ông chỉ giáo. Hạ quan cũng không ngờ việc khai sông này lại hại dân chúng đến vậy. Chỉ hiềm quan thấp, chức nhỏ, chỉ là nghe theo lệnh trên mà làm. 

 Ông già khẽ cười: 

 - Làm quan thì phải nghe lệnh. Nếu không làm quan nữa thì những lệnh đó làm gì nổi tướng quân? 

 Khứ Tà thưa: 

 - Xin cảm tạ những lời vàng ngọc của lão ông: Hạ quan tuy bất tài cũng xin nghe theo những lời dạy bảo của bậc kỳ lão. 

 Đầy tớ dọn cơm nước, Khứ Tà ăn một bữa no, rồi đứng dậy từ tạ xin đi. Ông già đưa ra đến tận đường lớn, rồi chỉ: 

 - Đi hết ngọn núi trước mặt, thì đã trông thấy huyện thành Ninh Lăng rồi! 

 Khứ Tà chắp tay bái biệt. Đi bộ mười bước, quay đầu nhìn lại, đã không thấy ông già đâu nữa, cả nhà cửa lô nhô lúc trước, giờ cũng thấy toàn tùng bách trên đá núi lởm chởm. Khứ Tà vô cùng kinh ngạc, hoảng hốt, vội đi như chạy về huyện thành. Thấy được đường xá người người đi lại đông đúc, mới như vừa tỉnh cơn mê, vào thành, tìm đến công quán nghỉ ngơi. 

 Thúc Mưu thì ngờ rằng. Khứ Tà tìm không thấy đường ra, đã chết trong huyệt, lại tiếp tục đốc thúc dân phu đào sông như cũ. Mãi đến bảy tám ngày sau, Khứ Tà theo công sai từ Ninh Lăng sang, Thúc Mưu mới biết. Khứ Tà đem chuyện ở dưới hang, nói lại kỹ càng một lượt. Thúc Mưu đời nào chịu tin. Cho rằng Khứ Tà có ít nhiều phép thuật, trốn ở trong huyệt ít ngày rồi trở lên, kiếm chuyện hoang đường, để dọa Thúc Mưu chơi, nên Thúc Mưu lại quát nạt một hồi. 

 Khứ Tà đành quay về hậu doanh, nhân đó nghĩ: "Ta đường đường kẻ nam nhi đứng trong trời đất, sao lại cùng với bọn lang sói này làm chuyện hại dân. Quốc gia số vận chằng còn bao, ta việc gì cứ phái bám lấy bọn mọt dân này, chỉ tiếc cho công sức của mình lâu nay. Chi bằng giả bệnh điên khùng, vào ẩn trong núi, ung dung tự tại chẳng hơn sao!". Tính toán xong xuôi, liền làm đơn từ cáo bệnh. Thúc Mưu vẫn cứ ngờ Khứ Tà nói dối, nói xấu mình, bằng lòng cho nghỉ, tìm người khác thay việc ngay. Khứ Tà liền sắm sửa hành trang, đem theo hai đầy tớ, lên đường về quê. 

 Trên đường đi Khứ Tà lại tự nghĩ, khi nhớ lại cảnh Hoàng Phủ Quân gọi chuột lớn là A Ma: "Làm sao có thể có chuyện thiên tử Trung Quốc mà lại là con chuột già cho được? Nếu đúng như vậy, thì mấy đòn côn giáng vào đầu chuột hôm ấy, nhất định phải làm hoàng đế nhà Tùy này đau đầu nhức óc mới đúng. Việc quỷ thần tuy không thể không tin, cũng không thể tin hoàn toàn. Sao ta chẳng về ngay Đông Kinh, nghe ngóng tin tức, thì biết ngay chuyện thật hư” . Thế là lại tìm đường về Đông Kinh luôn. 

 Chính là: 

 Thực hư cơ màu ai muốn tỏ 

 Phong trần lao khổ chớ nề công! 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Ba Mươi Ba

Thư Dương mất chức vì chạm nọc quan,

 Tế Châu mua nhà lo nâng giấc mẹ.

 Thơ rằng: 

 Đua chen danh lợi chuyện bồng bềnh 

 Dẹp loạn đưa dân đến trị binh 

 Gươm tuốt lưỡi xanh trừ xiểm nịnh 

 Bút ngời chữ đỏ cứu sinh linh 

 Đeo xiềng vốn nghĩ oai không sợ 

 Cởi mũ vì xem chức đáng khinh 

 Cười ngất vận thời nhiều ngáng trở 

 Trượng phu chung thủy vững như đinh. 

 Đời làm quan dù nhỏ dù lớn, nếu có chí hướng thì đều có thể làm nên sự nghiệp, đi đến đâu cũng để lại ơn đức, làm việc gì cũng vì quốc gia, không sợ bọn cường quyền, không ngại kẻ phú quý. Dù một lời nói một việc làm, cũng là để phúc đức lại cho con cháu. 

 *** 

 Lại nói chuyện Tần Thúc Bảo rời khỏi Tế Châu, tìm đến bản doanh của Khai hà đô hộ Ma Thúc Mưu, thì biết Thúc Mưu đang ở vùng Thư Dương, nên vội vàng đến Thư Dương nạp văn thư. Đi được vài ngày, bỗng trên đường gặp được một người, đội khăn lụa trắng, dáng như một võ quan. Người này dừng ngựa bên đường, nhường cho Thúc Bảo đi qua. Thúc Bảo trông lại, có vẻ quen quen, giống như người bạn thuở nhỏ là Địch Khứ Tà. Cả hai nhận ra nhau, chào hỏi xong xuôi. Khứ Tà hỏi Thúc Bảo đi đâu. Thúc Bảo đáp: 

 - Được sai đi giám đốc việc đào sông. 

 Thúc Bảo hỏi lại Khứ Tà, Khứ Tà đáp: 

 - Tiểu đệ cũng làm dưới trướng quan Khai hà đô hộ họ Ma. Rồi đem chuyện đào sông ở Ung Khâu, tìm vào huyệt đá, thấy Hoàng Phủ Quân đánh chuột, rồi khuyên bảo ra sao, cả chuyện gặp ông già thần tiên ở Tung Dương, Thiếu Thất Sơn như thế nào kể cho Thúc Bảo nghe. Thúc Bảo nói: 

 - Bây giờ đại huynh đi đâu? 

 Khứ Tà đáp: 

 - Tiểu đệ đã thấy rõ sự đời nhiều, nên chán ngán thác bệnh từ quan, về tìm nơi nào đó ẩn thân. Không ngờ đến lượt hiền huynh lại vướng vào bàn tay họ Ma này. Y là một kẻ tâm địa tham ác khó mà phụng sự cho được, xin hiền huynh lưu ý. 

 Hai người chia tay. 

 Thúc Bảo vốn là người chính trực, không tin chuyện quỷ thần, cho nên cũng không tin chuyện Khứ Tà kể. Mới tới Thư Dmấy ngày đầu, hoặc qua thôn lớn, thôn nhỏ, hoặc vào vài lều tranh bên đường, thường thường Thúc Bảo vẫn nghe đây đó tiếng khóc văng vẳng, Thúc Bảo nghĩ ngợi: "Có lẽ vùng này gần nơi đào sông, dân đều bị bắt đi phu dịch, ruộng đồng, vườn tược bỏ hoang phế. Trong nhà chẳng còn manh áo lành, chẳng còn được ống gạo, cho nên khóc than thế này chăng? Nhưng đến khi nghe rõ hơn thì lại là khóc con gái bé, con trai nhỏ. Thúc Bảo lại nghĩ: "Có lẽ là trời gieo bệnh đậu mùa, cho nên trẻ con chết nhiều nên ở đâu cũng nghe khóc chăng?". Nhưng lẫn trong tiếng khóc, lại nghe cả lời rủa nguyền sau: 

 - Cha đời thằng giặc cướp Bát Vương, sao nỡ cướp mất con vàng con bạc của ta đi đâu? 

 Cũng có kẻ còn than vãn: 

 - Con nhỏ của ta ơi. Nay con bị giặc cướp bắt cóc con đi, không biết còn ngày nào trở về nữa không? 

 Thôi thì hàng trăm hàng nghìn lời khóc lóc, kể lể đại loại như thế. Thúc Bảo đắn đo: "Lạ nhỉ, nếu thế này thì cũng phải khóc con trẻ chết bệnh?". Lại ngầm nghĩ: "Hoặc giả năm mất mùa đói kém, có chuyện lường gạt trẻ con gì chăng? Nhưng tại sao lại nhiều đến như thế được? Nhất định phải có nguyên do gì chứ? “. 

 Chính là: 

 Xóm xóm vang rên khóc 

 Nơi nơi tiếng thở than 

 Dế giun kêu đứt nối 

 Hành khách lệ tuôn tràn. 

 Đến Ngưu Gia trang, quân lính thì đi trước cũng có, đi sau cũng có, Thúc Bảo cùng với hai mươi gia đinh dừng lại đây để nấu ăn. Trong lúc cơm còn chưa chín. Thúc Bảo vốn trong lòng đang có nhiều nghĩ ngợi, mới vào trong thôn xem xét, thấy trước cửa nhà, có một đám trai tráng khoảng ba bốn người, lại thêm một ông già, tay chống gậy, tay kia che vành tai để nghe chuyện cho rõ, Thúc Bảo cũng lại gần nghe ngóng. Một người nói: 

 - Ngày hôm qua con nhỏ nhà họ Trương cũng bị bắt mất rồi! 

 Một người tiếp: 

 - Ngày hôm kia thì thằng cháu của ông già họ Vương cũng đã bị mang đi rồi. Bố nó đã bị bắt đi đào sông, nhà ấy rồi sống sao bây giờ? 

 Lại một người nữa: 

 - Chẳng mấy nhà còn trẻ con nữa. Vợ chồng nhà họ Triệu, sinh được mỗi một thằng bé, còn quý hơn vàng, đêm qua cũng mất rồi! 

 Ông già gật đầu than vãn: 

 - Thật chẳng khác gì loài chó sói. Nghe đâu ở làng Thượng, cũng mất đến hai ba chục đứa nhỏ rồi. 

 Thúc Bảo bèn hỏi ông già: 

 - Lão trượng, xin cho hỏi ở thôn ta, đã bị bọn giám công cùng bọn lính tráng lừa mất bao nhiêu trẻ con cả thảy rồi? 

 Ông già đáp: 

 - Nào phải chuyện lừa, lừa thì may vẫn còn sống, cướp trộm để giết kia. Mà cũng chẳng dính dáng gì đến lính tráng đâu, đây chỉ là bọn trộm cướp thôi thưa ngài! 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Xem ra năm nay, mùa màng cũng không đến nỗi, sao lại có chuyện ăn thịt người? 

 Ông già đáp: 

 - Ngài có điều chưa rõ, trong số các quan trông coi việc đào sông, có một vị tổng quản rất thích ăn thịt trẻ con. Mổ bụng xong, ướp ngũ vị quay lên. Vì vậy mới sinh ra một bọn trộm cướp, chuyên lừa bắt trẻ con, rồi quay sẵn đem dâng để đổi lấy mấy lạng bạc thôi. Bọn này cũng không phải chỉ một đứa, mà trẻ bị bắt cũng không phải chỉ riêng thôn này đâu! 

 Chính là: 

 Cũng vì tài lợi dỗ dành 

 Lòng tham nên nỗi người thành hổ lang. 

 Thúc Bảo nói: 

 - Đã là bậc quan nhân, sao lại có chuyện như vậy, chỉ sợ lại chuyện hoang đường chăng? 

 Ông già đáp: 

 - Ai nói dối ngài làm gì? Ngài không thấy khắp nơi đều vang tiếng khóc than đó sao? Giờ đi khắp thôn, có nằm mơ cũng chẳng tìm ra một chỗ yên ổn. Nhà nào có con gái, con trai nhỏ, cũng phải lo giữ gìn, không dám cho ra đường. Đêm đến thì chong đèn suốt đêm để trông coi. Hoặc đóng một cái cũi thật chắc chắn, khóa kỹ lại. Ngài không tin, xin cứ đi một vòng mà xem! 

 Thúc Bảo vào một nhà, quả thấy một cũi gỗ, bên cạnh là chiếu chăn của người lớn để nằm canh giữ, Thúc Bảo hỏi: 

 - Sao lại phải đóng cửa nhốt trẻ lại như thế này? 

 Người này đáp. 

 - Ngày xưa thì nghìn ngày làm giặc cướp rồi! Nay đến lượt nghìn ngày giữ giặc cướp vậy, thưa quý quan! 

 Thúc Bảo bắt đầu tin thực, quay lại điếm canh ăn cơm, rồi sai phái gia đinh: 

 - Hôm nay mệt lắm rồi. Hãy nghĩ lại đây. Sáng mai hãy đi tiếp! 

 Rồi vào trong điếm, trải chăn chiếu đánh một giấc. Tỉnh dậy, nghĩ cách làm sao tóm được bọn cướp này trừ hại cho thôn dân. Trời vừa tối thôn xóm chẳng có trống mõ điểm canh gì cả, nhìn ánh trăng nhợt nhạt, lạnh lẽo, có lẽ đã hết canh một. Thúc Bảo lặng lẽ ra khỏi điếm canh, ngoài đường không một bóng người, đi đến dãy lều chợ ở phía đông, cũng chẳng gặp một ai. Thúc Bảo đang định quay trở về, bỗng nghe từ một nhà ngay cạnh đường, tiếng la hét inh ỏi, thì ra chỉ là hai vợ chồng nằm mơ không thấy con đâu, la hét cuống cuồng, làm cho đứa bé cũng hoảng hồn khóc thét. 

 Thúc Bảo lại đi về phía tây, nhìn từ đường xa, thấy như có hai bóng người, dáng đi lẫn lút. Thúc Bảo vội lẻn ngay vào trong điếm canh, nấp sau cửa cẩn thận nhìn theo. Một lát sau, quả có hai người, Thúc Bảo đợi cho chúng đi qua, mới lén theo sau nghe ngóng xem hai người này làm gì. Cả hai cái bóng lần lượt nghe ngóng khắp cửa nhà này, tới cửa nhà khác. Rồi mới khẽ mở một cánh cửa của nhà cuối ngõ, một bóng vào trước, một bóng vào sau. Thúc Bảo đứng chờ, thấy một bóng quay ra chạy ngay trước mặt. Thúc Bảo thét lớn: 

 - Chạy đi đâu! 

 Rồi thoi một quả thật mạnh vào sống lưng. Bất ngờ không kịp đối phó gì, tên này ngã lăn quay, vứt cả đứa bé ra cạnh đường khóc lanh lảnh. Thúc Bảo bỏ mặc, chạy vào nhà bọn này vừa vào, thì cũng vừa gặp tên trộm thứ hai chạy ra, vì nghe tiếng Thúc Bảo la thét bên ngoài, nên đứng sau cửa nhìn ra thấy Thúc Bảo vào, đang định vùng chạy. Thúc Bảo trông thấy, xấn lại, đá cho một cú trời giáng, tên này ngã lăn quay ra ngay trước cửa như một con chó. 

 Lúc này xung quanh nghe ồn ào mới kéo ra đông, vợ chồng nhà nọ cũng mới tỉnh dậy, thấy con không còn trên giường, gào thét chạy ra. Thúc Bảo đã lôi tên trộm ngã ngoài cửa ra phía điếm canh. Ngoài điếm, bọn gia đinh, nghe tiếng quát của Thúc Bảo, cùng tiếng huyên náo bên ngoài, đều đã trở dậy, cũng vừa may tóm được ngay tên thứ nhất đang định bỏ chạy. Tiếng la, tiếng khóc, tiếng đánh dập ầm ĩ một hồi. Thúc Bảo thấy mọi người xúm lại đánh hai tên trộm, bèn lên tiếng can: 

 - Xin các vị đừng quá tay. Hãy trói chúng lại, hỏi rõ những trẻ ăn trộm lâu nay để đâu hết. Bè đảng còn những đứa no. Bọn này là người ở đâu, tên họ là gì. Phải bắt cho kỳ hết lũ hùm sói hại dân này. Nếu đánh chết chúng, thì còn lấy đâu ra kẻ khai báo nữa? 

 Rồi sai gia đinh lấy dây thừng, trói cả hai đứa lại, bắt đầu hỏi tra. Một tên khai Trương Yến Tử, một thằng Đào Kinh Nhi, đều là người ở thôn Thượng Mã, huyện Ninh Lăng. Chúng còn khai tên cầm đầu là Đào Liễu Nhi, chuyên đi bắt trẻ nhỏ, mổ bụng, quay lên, rồi đem đến hiến Ma Đô hộ. Thúc Bảo hỏi xong, trời cũng gần sáng, trong thôn, ngoài thôn nghe tin bắt được bọn trộm trẻ con, kéo đến xem đông nghịt. Bọn đàn ông, Thúc Bảo còn ngăn được, nhưng không tài nào ngăn nổi bọn đàn bà lăn xả vào hai tên trộm cấu xé, chửi bới, có bà còn vác cả thanh củi nện tới tấp. Thúc Bảo thấy phải giải ngay bọn này lên quan, nếu không bọn người này đánh chết, sẽ liên lụy đến mình. Thúc Bảo phải lên tiếng: 

 - Thưa các vị. Ma Tổng quản đường đường một vị đại thần, quyết không thể dính dáng vào chuyện xấu xa này được. Tổng quản hiện đang ở Thư Dương, tiểu nhân cũng đến đó, chi bằng giải hai tên này tới, trình với Ma Tổng quản. Nếu bọn này vu oan cho tổng quản, thì tổng quản không đời nào tha chúng. Nếu đúng có chuyện này, thì tổng quản cũng phải lo sợ mà thôi không dám làm ác nữa chăng? 

 Mọi người nói: 

 - Tướng quân nói có lý lắm. Chỉ sợ trên đường tướng quân lại tha chúng mất, chúng sẽ quay lại làm khổ dân hơn mà thôi! 

 Thúc Bảo nói: 

 - Nếu tiểu nhân thả, thì cầm bằng tiểu nhân không bắt còn hơn! ông già nói chuyện hôm qua, nhận ra Thúc Bảo: 

 - Thì ra là vị quan nhân hôm qua. Đúng là ngài đã vì dân mà trừ hại. Ta cũng nên kiếm lễ tạ ơn ngài chứ? 

 Thúc Bảo không nhận, giải hai tên cướp, vội vàng lên đường cùng với toán gia đinh của mình. 

 Đến Thư Dương, thì Thúc Mưu cùng Lệnh Hồ Đạt cũng mới tới chưa lâu, đang ngồi trong bản doanh. 

 Thúc Bảo tập trung đủ số lính tráng, cùng công văn đến nạp. Thúc Mưu thấy tướng mạo Thúc Bảo rất mừng, liền cho Thúc Bảo giữ chức Đốc lý hà công phó sứ, theo dõi công việc ở ngay Thư Dương. Thúc Bảo tạ ơn, nhưng trong lòng lại thầm nghĩ: "Khứ Tà từng nói người này tham lam, thật quả đúng vậy, chỉ cần trông qua cũng rõ. Chẳng cần phải dưới trướng lâu ngày mới nhận ra. Nay ta cứ đem chuyện hai tên cướp này thưa, chỉ sợ rồi y cho rằng ta định bêu xấu y, hoặc lại sẽ thả hai thằng cướp ra, cho chúng tiếp tục làm bậy. Nhưng cũng đành vậy, chẳng nhẽ để hàng loạt trẻ con bị ngậm oan". Thúc Bảo tới bên án thưa: 

 - Tế Châu lãnh binh hiệu úy Tần Quỳnh, có việc này xin thưa cùng hai vị đại nhân. 

 Thúc Mưu nào đã biết chuyện gì, nên vẫn rất hòa hợp nhã nhặn hỏi han, Thúc Bảo bèn thưa: 

 - Hạ quan đi qua Ngưu Gia trang, bắt được hai tên cướp, chúng khai đại nhân cần trẻ con, nên công nhiên cướp bắt. Một tên là Trương Yến Tử, một tên là Đào Kinh Nhi, hạ quan bắt theo đây, đang giữ ngoài cửa, xin đại nhân phân xử. 

 Thúc Mưu nghe xong làm ra vẻ thản nhiên: 

 - Ai bắt được? 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Dạ, chính hạ quan! 

 Thúc Mưu phán: 

 - Bắt trộm cướp là bổn phận của các đô đầu địa phương. Chẳng có can hệ gì tới bản doanh. Người là một hiệu úy cai quản lính tráng, cũng chẳng phải lo đến chuyện này làm gì? 

 Lệnh Hồ Đạt nói: 

 - Nhưng nếu vu oan cho quan lớn, thì cũng nên hỏi cho ra nhẽ chăng? 

 Thúc Mưu đáp: 

 - Chỉ riêng việc đào sông mà mình coi sóc cũng chẳng nổi nữa là, hỏi đến những chuyện ấy làm gì! 

 Lệnh Hồ Đạt vẫn tiếp: 

 - Hãy giải về cho pháp ty tra vấn xem sao? 

 Thúc Mưu gạt đi: 

 - Đem về pháp ty thêm lôi thôi mất sức, tốn tiền, chi bằng ở đây ta tha quách. 

 Rồi không cho giải đi đâu cả, ra lệnh tha ngay, Thúc Bảo đang hăm hở, thấy thế, như bị ném vào nước lạnh vậy. 

 Chính là: 

 Mở giam tha thú dữ 

 Giăng lưới uổng công phu. 

 Phía bên ngoài, bọn lính tráng dưới quyền Thúc Bảo từ hôm phải giải hai tên cướp, nghĩ thế nào cũng được khen thưởng ít nhiều, không ngờ phải tự tay cởi trói thả chúng ra, tất cả đều không bằng lòng như Thúc Bảo vậy. 

 *** 

 Lại nói chuyện Thúc Mưu, nguyên lúc đầu phụng thánh chỉ, đào sông qua Thư Dương, là vì có ý của các quan ở Tư Thiên giám, cho là thành này có vương khí, phải đào sông qua để trấn cho hết. Không ngờ, khi đào tòa cổ mộ của Tư Mã Tống Hoa Nguyên ngay gần thành, sau đó bắt đầu đào vào thành, thì khắp trăm họ từ lớn tới nhỏ, đều đến cầu xin Đốc lý hà cồn Trần Bá Cung, nhờ Trần tìm cách để nói với Thúc Mưu, giữ nguyên thành, mà tìm đường khác để đào sông. Không ngờ Thúc Mưu nổi giận đùng đùng, vịn vào thánh chỉ, suýt chém đầu Trần Bá Cung, mà vẫn giữ ý đào sông qua thành như cũ. Được tin này cả thành nhốn nháo, ngoài thành thì mồ mả, trong thành thì nhà cửa, người sống, người chết. Tổng cộng có tới một vạn tám trăm nghìn hộ lớn, góp nhau lại được tới ba nghìn lạng vàng, định đem đến nói với Thúc Mưu, nhưng chưa có người nào dẫn đường. Gặp lúc Đào Kinh Nhu vừa được cởi trói, nhởn nhơ rao lên rằng: 

 - Ta là người rất tin cậy của Ma tổng quản. Cần nói gì với tổng quản, cứ đến ta là xong ngay. Các ngươi cứ xem việc vừa rồi thì đủ rõ. Số phận mối kiến của các ngươi, là nằm trong tay chúng tao này. 

 Ai nấy đều tin y là bậc thân tín của họ Ma nên cử mấy người đến tìm gặp Kinh Nhi, to nhỏ thương lượng với y về việc đào sông qua thành. Ba hoa một hồi. Kinh Nhi nói tiếp: 

 - Ta còn có một người bạn rất thân, là quan hầu cận của Ma tổng quản, để ta dẫn các ngươi tới gặp viên quan hầu cận này, thì mọi việc sẽ đâu vào đấy ngay tức khắc. 

 Thế là y đứng làm môi giới cho mọi người tới gặp Hoàng Kim Quật, quan hầu cận của tổng quản họ Ma. Mọi người hứa tạ lễ một nghìn lạng vàng. 

 Kim Quật bằng lòng, và giục: 

 - Đem ngay số vàng ấy đến đây, thì sáng ngày mai sẽ có tin lành. 

 Dân chúng cử người mang vàng đến giao cho Kim Quật. Kim Quật từ lâu đã biết rõ tính Thúc Mưu, thấy vàng thì bất kể việc gì cũng làm nên thừa dịp Thúc Mưu đang ngủ phòng trong, Kim Quật đem số vàng này cùng với số ba nghìn lạng vàng được hối lộ từ trước bày khắp ra án thư, trông sáng rực cả phòng, đợi Thúc Mưu ngủ dậy, trông thấy sẽ tìm cách nói, rồi ngồi chờ ngay đấy. Gần đến giờ thân (1), Thúc Mưu bò khỏi giường, chuệnh choạng bước ra, nửa mê nửa tỉnh quát: 

 1 Giờ thân khoảng 15 giờ đến 17 giờ. 

 - Ngươi sao lại dám lừa dối ta? Dám cướp vàng của ta? Lại còn xô ta ngã nữa? 

 Rồi lấy tay dụi mãi, cho đến khi nhìn rõ vàng bày la liệt trên án thư, mới cả cười, ngạc nhiên: 

 - Ta đã nói là Tống Nhượng Công không lừa ta mà lại. Không mất đi đâu cả mà! 

 Kim Quật liền cười hỏi: 

 - Tống Nhượng Công nào mà lại biếu đại nhân vàng? 

 Thúc Mưu đáp: 

 - Đó chính là người mặc áo bào màu tím. Nhượng Công xin ta giữ yên thành Thư Dương. Ta không nghe. Lại dẫn thêm một người khác nữa vào, người này hình dung dữ, mắt to, bụng lớn, râu tốt, cũng mặc áo bào tím, gọi là Đại tư mã Tống Hoa Nguyên. Cả hai lấy thế mạnh, sai người trói ta lại, lấy nước đồng nóng chảy đổ vào miệng ta, hòng làm ta sợ mà phải nghe theo. Ta vẫn không chịu. Hai người này đành phải đấu dịu, hứa tặng ta ba nghìn lạng vàng, mong ta cứu cho. Bởi ta chưa thấy vàng đâu, sợ bị lừa, cứ phải như thế, liền bị họ đẩy mạnh một cái, ngã sóng soài. Không ngờ vàng đã bày cả ra đây rồi. Hãy chờ ta cân lại cẩn thận, không dễ bị chúng nó lừa lắm! 

 Kim Quật cười thưa: 

 - Đại nhân nằm mơ rồi. Số vàng này là trăm họ trong thành Thư Dương, đưa cho hạ quan, nhờ nói với đại nhân tha chết cho cả thành, chứ nào có Tống Nhượng Công nào đâu? 

 Thúc Mưu đáp: 

 - Sao lại có thể thế được, rõ ràng ta cùng Nhượng Công với Hoa Nguyên thương lượng, đâu có phải chuyện mộng mị cho được? 

 Kim Quật thưa: 

 - Đại nhân cứ nghĩ ra mà xem. Nếu như đại nhân đi gặp Nhượng Công hoặc Nhượng Công tìm gặp đại nhân, thì nay Nhượng Công đâu rồi, gặp nhau ở đâu? 

 Thúc Mưu nghĩ ngợi hồi lâu: 

 - Nếu không phải mộng, thì rõ ràng thấy nói thượng đế cho ba ngàn lạng vàng, lấy ở trong dân gian ấy. Số vàng ấy không phải của ta sao? 

 Kim Quật thưa: 

 - Nói lấy ở trong dân gian, thì đúng là số vàng này rồi, xin đại nhân cứ nhận cho. Thực là của trăm họ trong thành góp lại, để mong đại nhân đừng bắt họ phải dỡ nhà to nhà bé, nhà lầu nhà cỏ đi nơi khác. Quả là không phải chuyện mơ, chuyện mộng vậy! 

 Thúc Mưu cười: 

 - Ta chỉ cần có vàng là được rồi. Thượng đế cho cũng tốt, dân gian cho cũng tốt. Chỉ cần giữ yên thành Thư Dương này cho họ là được rồi! 

 Rồi vơ tất cả số vàng trên án thư, thu xếp mọi chuyện để sáng ngày mai còn tìm cách thay đổi hướng đào sông. 

 Ngày hôm sau lên công đường. Thúc Mưu gọi ngay Đốc lý hà công Trần Bá Cung đến, nhưng Bá Cung đang ở chỗ dân phu, chỉ có Đốc lý hà công phó sứ Thúc Bảo đang ở công đường vội tới nghe lệnh. 

 Thúc Mưu hỏi: 

 - Sông đào còn cách xa thành bao nhiêu nữa? 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Còn gần mười dặm nữa. Huyện quan hiện đã ra lệnh cho trăm họ trong thành phải di chuyển ngay nhà cửa, nếu không lính tráng, dân phu sẽ phá đổ nhà cửa tường thành để đào tiếp. 

 Thúc Mưu phán: 

 - Ta thấy hôm qua Trần Bá Cung nói nên đào tránh thành là có lý lắm. Đây là một thành rất kiên cố, ngàn hộ, vạn hộ đang sống yên vui, sao nỡ nhẫn tâm đuổi họ đi. Chi bằng tìm đường khác mà đào, đừng làm kinh động dân chúng trong thành nữa. Nhà ngươi hãy ra tính toán xem sao? 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Hôm qua đại nhân đã chỉ vẽ cách thức, quy định rõ ràng, ban bố thánh chỉ, đào sông qua thành, làm đứt vương khí. Nay sợ ó thay đổi cho được. 

 Thúc Mưu quát: 

 - Vâng lệnh thánh chỉ, đào qua vùng Thư Dương là có thể cắt đoạn vương khí, cần gì phải qua thành. Ngươi không nên cố chấp. Cứ theo lệnh ta mà làm, mau ra xem thế nào, về báo lại ta rõ. 

 Thúc Bảo đành vâng lệnh, ra ngoài thành xem xét tính toán chi tiết. Đi khắp các thôn xóm, dân chúng chạy theo, kêu xin đừng đào qua lăng mộ tổ tiên hoặc vườn ruộng hoặc nhà cửa, phòng ốc, kẻ xin đưa năm lạng, người dâng chục lạng, thậm chí có người xin lễ hai ba mươi lạng. Thúc Bảo đều nhất nhất từ chối, rồi ước định sơ lược đường đào sông mới, trở về thưa lại với Thúc Mưu. Vừa gặp lúc khai hà phó sứ Lệnh Hồ Đạt, nghe tin thay đổi đường đào sông, vội đến hỏi nguyên do. Cả hai tranh cãi mãi không ngã ngũ phải trái. Thúc Bảo vào bản doanh quỳ thưa: 

 - Hạ qua được sai đi tính toán đường đào sông mới. Nếu đào vòng để tránh việc qua thành, thì đường sông sẽ dài thêm hơn hai mươi dặm nữa. 

 Thúc Mưu đang lúc giận dữ, nghe Thúc Bảo nói thế liền lớn tiếng quát: 

 - Ta chỉ cần ngươi tìm đường đào mới là được rồi, hai mươi hay ba mươi dặm cũng chẳng sao? 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Đường đào dài thì số dân công phải nhiều hơn, tiền công, lương thực đều phải hơn nhiều, hạn kỳ cũng dài hơn, vì vậy hạ quan phải trình minh bạch để đại nhân rõ. 

 Thúc Mưu lại càng tức: 

 - Nhân công cũng không phải nhân công của nhà ngươi, tiền lương cũng không phải tiền lương của nhà ngươi. Nhà ngươi chỉ được cái to miệng, đứng đấy nói láo phải không? 

 Những lời này không những chỉ chửi Thúc Bảo, mà còn định chửi cả Lệnh Hồ Đạt nữa, vì vậy Lệnh Hồ Đạt lên tiếng khuyên răn: 

 - Người ta cũng là kẻ nói thẳng, không biết ý tứ vòng vèo, dù lớn dù nhỏ cũng là quan của triều đình, thì cũng nên bàn bạc cho ra lẽ mà làm. Huống nữa việc đào sông đào thành này vốn đã có thánh chỉ của chúa thượng rồi! 

 Thúc Mưu vẫn giữ ý: 

 - Ngài đừng vịn vào thánh chỉ, giữ lại cái thành này, Tống Nhượng Công còn có cả thiên chỉ kia. Hôm vừa rồi, ta nằm mơ, bị gọi đến để xử tội, bị Tống Hoa Nguyên rót cả nước đồng nóng vào miệng để định giết ta, sao không thấy hai thầy trò ngươi đâu cả? 

 Lệnh Hồ Đạt cười lớn: 

 - Ở đâu ra cái chuyện ma quỷ này thế đại nhân? 

 Thúc Mưu lại nói với Thúc Bảo: 

 - Ngươi cũng đường đường là một võ quan của triều đình, lấy của dân chúng ngoài thành không biết bao nhiêu tiền bạc, vẫn còn ra vẻ giảng giải đạo lý. Ta không dùng ngươi nữa, xem ngươi làm nên trò trống gì nào? 

 Lệnh Hồ Đạt cãi không lại Thúc Mưu, tức giận quay ra, về chỗ ngụ của mình, viết lời biểu tâu về triều đình. Thúc Bảo cũng nối gót theo ra. Thúc Mưu liền viết bản bố cáo: 

 "Đốc lý hà công phó sứ Tần Quỳnh, sinh sự nhiễu dân, cản trở việc công. Rộng xử cách chức, đuổi về quê”. 

 Thúc Bảo xem thấy, liền nghĩ: "Địch Khứ Tà từng nói khó mà phụng sự con người này, nay quả nhiên như thế". Rồi lập tức thu nhập hành lý về quê. Đây cũng chính là trời có ý cứu Thúc Bảo vậy. Vì lúc này công việc rất khẩn trương để kịp thời hạn, dân phu thì chết quá nửa, đến khi vua Tùy đi chơi phía nam, có đoạn thuyền rmắc cạn, lấy sào chống thuyền có mũ bịt sắt để đo, thì thấy chỉ có một trượng hai thước, dò ra, có tới hơn một trăm hai mươi chỗ như thế. Thế là dân phu đào hai bên bờ sông, cho đến lính phiêu kỵ làm đốc công đều bị chôn sống. Dân chúng đều cho rằng: sống thì làm phu đào sông, chết thì làm ma vét sông. Từ Ma Thúc Mưu trở xuống, đều bị tội chém ngang lưng, nếu Thúc Bảo vẫn còn làm Đốc lý phó sứ, thì cũng chẳng thể nào thoát tội. 

 Chính là : 

 Mất ngựa không buồn lắm 

 Được ngựa chẳng mừng nhiều 

 Trời già yêu kẻ anh hùng 

 Đắng cay cũng trải, long đong cũng từng. 

 Thúc Bảo nhân Thúc Mưu đuổi về, đang lúc thu nhập hành lý, thì thấy Lệnh Hồ Đạt sai quan hầu cận đến, thu nạp dưới trướng. Thúc Bảo cười, thầm nghĩ "Ta đi chuyến này, chẳng qua cũng là nể Lý Huyền Thúy, tìm mọi cách để ta tránh khỏi phủ đường của Lưu Thứ sử. Chứ với cái chức Đốc lý hà công phó sứ này, liệu sẽ làm nên sự nghiệp được gì. Lại thêm rặt một phường vô lại, chuyên bán mạng cho dân phu để kiếm ăn, hoặc bớt xén tiền lương, hoặc chửi mắng đánh đập, hoặc hạch sách lễ lạt, nịnh hót tâng công để được ban ơn nhiều ít, quả là không phải ý nguyện của ta, vậy thì ta ở đây làm gì nữa?". Bèn nói với viên quan hầu cận: 

 - Tiểu nhân ở nhà còn mẹ già đã bát tuần, gặp việc quan, bất đắc dĩ mà phải đi. Nay may được trở về, lòng như muốn mọc thêm cánh, thực không thể nào ở lại dưới trướng Lệnh Hồ đại nhân cho được. 

 Thế rồi từ giã lên đường, vừa đi vừa nghĩ: "Lâu nay Lai Tổng quản đối xử với ta rất chu tất, cũng chẳng phải vì có Lai Tổng quản, hoặc Lý Huyền Thúy giới thiệu. Nay ta trở về, nếu đến chỗ Lai Tổng quản, thì thế nào cũng được thu nạp. Nhưng ta danh giá mà ra đi, nay như thế này mà quay về, thì chẳng khác gì: "Thử khứ hảo bằng tam thốn thiệt, Tái lai bất trực bán văn tiên". Lúc đi khoe khoang đẹp tốt bằng ba tấc lưỡi. Lúc trở về không đáng nửa đồng tiền sứt. 

 Xem ra công dịch, phu phen vẫn còn nhiều, trăm họ oán giận, chẳng bao lâu thiên hạ sẽ đại loạn. Lúc ấy binh định thời cuộc sợ không thoát khỏi tay bọn ta, chuyện tước lộc, công danh chỉ là chuyện sớm muộn thôi, cần gì phải vội vàng. Huống nhà lại còn mẹ già, đang lúc cần phải xum vầy, vui vẻ, việc gì phải khổ sở bám lấy chút công danh nhỏ mọn này?". Lại nghĩ thêm "Nếu cứ về ở trong thành Tế Châu như xưa, nhất định Lai Tổng quản lại tìm đến đòi ra, rồi lại thêm Lưu Thứ sử tới gây phiền hà. Chi bằng tìm quách một chốn núi rừng nào đấy mà mai danh ẩn tích". Vì vậy, Thúc Bảo liền tìm mấy gian nhà ở ngoài thành Tế Châu, rồi chuyển cả gia quyến ra, cùng sống trong cảnh: 

 Trước suối ngăn, sau rừng tốt um 

 Vườn dâu biêng biếc, thoải sườn non 

 Sáng ra, lưng dậu hoa đua thắm 

 Chiều tốt, chái nhà chim hót ran 

 Khe cửa khói luồn màu ửng ửng 

 Ngọn tùng sóng vỗ tiếng rì rầm. 

 Anh hùng vững chí qua giông tố 

 Vẫy bút nhân đề "Lương phủ ngâm.(1) 

 1 Lương phủ ngâm: tên một bài thơ tỏ chí thanh cao của Khổng Minh, khi còn ở ẩn ở núi Nga Long (Tam Quốc diễn nghĩa). 

 Nhà trên gồm ba gian lợp cỏ, phía sau còn có thêm mấy gian nhà tranh, hai bên là rừng trúc âm u, lặng lẽ, có thêm mấy gian thư phòng ở bên phải, xung quanh vây bằng một dãy tường thấp, trồng thêm mấy dãy dâu, mấy ruộng lúa mạch, là vườn trồng táo. Trước đó Thúc Bảo đã bàn với Ninh Thị, kẻ nông nổi không hợp với người đời, mẹ già, vợ con rời về ngoài thành. Phàn Kiến Uy cùng Giả Nhuận Phủ còn khuyên Thúc Bảo nên tìm đến Lai Tổng quản, Thúc Bảo khẽ cười đáp: 

 - Rồi cũng đến thế mà thôi? Được nhàn thân lúc nào là hay lúc ấy việc gì bôn ba khó nhọc, lại nhục tấm thân! 

 Về sau Lai Tổng quản cũng có cho người tìm đến, Thúc Bảo khước từ, lấy cớ mẹ già, mình lại mang bệnh, không thể cáng đáng được công vụ, Lai Tổng quản cũng không muốn nài ép. Bạn bè thỉnh thoảng cũng có người tìm đến, cùng nhau tiệc rượu đàm đạo nhưng từ chối không ra khỏi cửa, lấy cớ mẹ già. Ngày ngày Thúc Bảo vào non ra suối, trồng trúc, trưa đến đánh vài ván cờ, tất cả chuyện anh hùng tráng chí đều chôn chặt vào trong lòng. Khiến bọn Phàn Kiến Uy, Giả Nhuận Phủ cũng phải phàn nàn với nhau: 

 - Đáng tiếc một bậc anh hùng như vậy, chỉ vì gặp vài lần hoạn nạn, mà đến nỗi chí khí tiêu ma, gửi đời cho cây cỏ, núi non cho được! 

 Chẳng biết Thúc Bảo đã thấy rõ sự đời chưa, chí đã kiên định chưa, đã hiểu ra rằng mai sau không thể không có mặt mình, cũng không thể nào gác hẳn tấm thân anh hùng đầy nhuệ khí của mình mãi mãi vào chốn lâm tuyền cho được? Lẽ như vậy chăng? 

 Chính là: 

 Bên hồ chiều tối ngại buông cần 

 Ngọn gió đùa lay mảnh áo đơn 

 Nam tử dọc ngang chưa phỉ chí 

 Bên mình đành mặc tiếng cười khan. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Ba Mươi Bốn

Hoa đào nước chảy tìm vui thú,

 Xẻo thịt tay ngà báo ái ân.

 Từ rằng: 

 Muôn hoa hương nở đưa nhè nhẹ 

 Cánh đào rơi, sống rẽ đưa vèo 

 Nước xanh lóng lánh chiều theo 

 Dường mơ mộng quấn quýt vào chân đê 

 Mái chèo vỗ lòng mê hay tỉnh 

 Dứt không ra ám ảnh hồn ma 

 Hồn ma ai gửi vào ta 

 Khói tuôn con triện nên hòa lệ châu 

 Sông kéo mãi, đêm sâu thăm thẳm 

 Ngàn sao như áo gấm rung rinh 

 Tóc dài, da trắng xinh xinh 

 Mùa xuân thần dược, bệnh lành hơn xưa! 

 Theo điệu "Thiên thu tuế" 

 Từ xưa những khi loạn lạc, người ta thường bảo là lúc trời say. Trời mà không say, đã có người say thay. Thực ra thì trời không bao giờ tự say được, mà làm nên chuyện say đó, chính bởi người vậy. Thôi thì biết bao xiềng gông trói buộc, vàng ngọc bấu víu vào thân, trước mắt bao cảnh lạc thú hấp dẫn, mấy ai giữ được sự "thanh tâm quả dục" thấy rõ lối mê? 

 *** 

 Hãy nói chuyện Tùy Dượng Đế sống giữa đám khuynh quốc khuynh thành như vậy, thói dâm đãng lúc nào cũng như nước triều vỗ sóng, chẳng luận hoàng hôn bạch nhật, lúc nào cũng như con ong, điên loạn hết hoa này sang bông khác, ngày ngày như con bướm, nhởn nhơ hết khóm vàng sang bụi tía. Bọn cung nữ thấy Dượng Đế như vậy, nên cũng tìm đủ mọi cách để hấp dẫn, lôi kéo, cầu lấy cuộc vui một khắc vậy. 

 Một hôm, Dượng Đế dang trong viện Thanh Tu, cùng với Tần phu nhân lặng lẽ uống mấy chén rượu, nhân tiết trời ấm áp, hai người dắt tay nhau ra khỏi cửa viện, men theo đê dài, nhìn theo dòng nước. Đây vốn chỉ là một con ngòi nhỏ, nước chảy lặng lẽ qua vườn, thấy trên mặt ngòi, mấy cánh hoa dập dờn theo mặt nước trôi xuôi, Dượng Đế chỉ tay ra, xuýt xoa. 

 - Đẹp làm sao! Thú làm sao? 

 Chầm chậm, những cánh hoa đào theo dòng nước ra khỏi vườn ngự. Từ phía trên, lại một đám hồ ma (1) trôi xuống, Tần phu nhân trông thấy ngạc nhiên: 

 1 Hồ ma: Cây vừng đen mọc trong hang núi. Các ẩn sĩ, tu tiên thường dùng ăn trừ cơm, được gọi là "Hồ ma phạn” nên cũng như hoa đào, thường báo hiệu nơi ẩn sĩ, tiên nữ ở. 

 - Cái này ở đâu ra? 

 Dượng Đế cười đáp: 

 - Chính là do phu nhân hái về, chứ còn ở đâu nữa! 

 Tần phu nhân thưa: 

 - Thực là thiếp không biết. 

 Vội gọi cung nhân mang sào lại, kéo vào bờ xem thì chẳng những hồ ma, mà còn cả cánh hoa đào nữa, nhiều cánh vẫn còn tươi, Dượng Đế sực nghĩ: 

 - Như thế lại càng lạ lùng. 

 Tần phu nhân thưa: 

 - Hay là ngòi nước này được nối với nguồn suối tiên nào chăng, thưa chúa thượng? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Con ngòi này trẫm mới đào, nước thông với hồ Thái Dịch ở Tây Kinh, thế thì chẳng có nguồn suối tiên nào cả đâu. 

 Tần phu nhân hỏi: 

 - Nếu chúa thượng nói như thế, sao lại vẫn có hoa đào trôi về đây được ? 

 Hai người cùng nhau nhìn đi nhìn lại, vẫn chẳng hiểu nguyên do. Tần phu nhân tiếp: 

 - Thiếp cùng bệ hạ tìm một thuyền nhỏ, men theo con ngòi này mà ngược lên, thì nhất định sẽ tìm ra nguồn cơn ngay mà thôi! 

 Dượng Đế đáp: 

 - Phu nhân nói có lý lắm! 

 Rồi cùng lên một chiếc thuyền rồng nhỏ, có cung nhân bơi chèo xuyên hoa, rẽ liễu mà đi, quanh co uốn éo theo con ngòi, thì thấy trên mặt nước, khi thì vài cánh, khi thì cả cái hoa đào, lặng lẽ trôi xuôi, qua một cầu đá nhỏ bên bờ là mấy cây liễu già, thấy một thiếu nữ, mặc áo màu tím, ngồi bên bờ nước. Vội ghé thuyền lại gần, thì ra Thỏa Nương ngồi dây bứt từng cánh hoa đào, thả trôi theo nước. 

 Chính là: 

 Trăng tròn cung nữ vẻ yêu kiều 

 Thông tuệ khen cho hiểu biết nhiều 

 Tiên động định lừa Lưu Nguyễn chắc 

 Theo dòng lấm tấm rắc đào hoa? 

 Dượng Đế thấy thế cười ha hả: 

 - Trẫm cứ băn khoăn mãi, thì ra cái con nhỏ này giở trò khôn khéo ở đây! 

 Thỏa Nương cười thưa: 

 - Nếu không có mấy cánh hoa đào này, thì chúa thượng đã đang vui thú ở đâu rồi, đâu có nghĩ tới theo thuyền ngược dòng mà đi tìm tiện thiếp? 

 Dượng Đế cười: 

 - Cái con bé dối trá này, còn đứng đó để làm mãi việc này sao, mau lên thuyền đi! 

 Thỏa Nương xuống thuyền, Tần phu nhân hỏi: 

 - Những chuyện khác chẳng hỏi làm gì. Nhưng hoa đào thì lấy ở đâu ra vậy? 

 Thỏa Nương cười đáp: 

 - Ngay từ tháng ba, thiếp hái trên cây, cho vào hộp sáp ong, cố giữ cho mãi đến nay vẫn tươi như mới hái xong. 

 Dượng Đế căn dặn: 

 - Giữ được hoa như thế này cũng là chuyện hiếm thấy. Nhưng khanh tuổi còn ít, lại chẳng đọc sách biết chữ gì cả, thì làm sao mà hiểu được những chuyện xưa vì hoa đào trôi theo dòng suối của Lưu Thần, Nguyễn Triệu, mà biết cả việc vứt hồ ma xuống ngòi như thế? 

 Thỏa Nương lại khẽ cười thưa: 

 - Thiếp phận con gái, làm sao mà được đọc nhiều sách cho dược, nhưng chuyện hoa đào này cũng đã từng đọc qua. 

 Tần phu nhân thưa với Dượng Đế: 

 - Thiếp theo "Hán thư", rồi "Tần thư", thấy có ít chuyện mưu mô, mánh khóe, chuyện nào cũng có thể nhặt ra. Nhưng đến thời Tần trở đi, với những "Tần sử" các loại, toàn là kẻ gian trá thì làm chủ thiên hạ, chẳng có thể thấy được điều gì hay điều gì tốt. Ngay như chuyện hoa đào này cũng chỉ là chuyện ảo tưởng khó tin. 

 Dượng Đế cười đáp: 

 - Cũng có chuyện như vậy sao? Trẫm xem "Thủy Hoàng bản kỷ", thấy ông ta tuần du khắp thiên hạ, phong thần cho núi Thái Sơn oai danh lừng lẫy một thời. Chẳng cần phải nói những việc khác, chỉ riêng một dãy Vạn lý trường thành, tới nay đã bảy tám trăm năm rồi, mà bọn giặc Hồ vẫn không thể ngang nhiên kéo vào Trung Nguyên, cũng là do công bảo vệ của thành này vậy. 

 Tần phu nhân thưa: 

 - Từ nhà Tần tới nay đã bảy tám trăm năm, trường thành cũng đã nhiều đoạn hư hoại, nếu không tu sửa kịp thời, sợ để họa cho đời sau. 

 Dượng Đế đáp: 

 - Thì rõ ràng là thế rồi. Đời trẫm đây không làm, thì còn ai làm vào đó nữa, chẳng chóng thì chầy, trẫm sẽ sai người làm việc này. "Tần sử” còn có chỗ nói về việc Thủy Hoàng xây A Phòng cung nữa, cũng là một đoạn rất thú, có thể xem là một việc làm của bậc chúa hào kiệt một thời. Quyển sách này hiện đang để ở Cảnh Minh. Chúng ta hãy tới đó lấy xem. 

 Đi qua đê Long Lân, xuôi về phía nam một đoạn là viện Cảnh Minh. Dượng Đế, Tần phu nhân cùng Thỏa Nương đều lên bờ, đến cửa viện, thấy xe loan dừng bên ngoài, thì ra Tiêu Hậu thấy tiết trời ấm ấp, biết rõ viện Cảnh Minh rộng rãi, thoáng mát, liền đem theo Viên Tử Yên đến đó cho mát mẻ, hiện đang đánh cờ với chủ nhân Lương phu nhân, Dượng Đế vội vàng đi vào, không cho cung nữ báo trước, Tần phu nhân cũng lặng lẽ theo sau, thấy sau rèm, tiếng quân cờ gõ lách cách. Vào đến sân, Tử Yên đứng sau rèm nhìn thấy, vội thưa: 

 - Hoàng hậu? Chúa thượng tới! 

 Tiêu Hậu vội cùng Lương phu nhân đứng dậy cùng với Tử Yên ra đón. Dượng Đế cười: 

 - Hoàng hậu sao không cho trẫm biết, riêng mình tới đây thế này? 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Bệ hạ không thấy chiêu chí (1) của thiếp sao? 

 1 Chiêu Chí: giấy mời của hoàng hậu. Ít khi truyền khỏi cung cấm. 

 Tần phu nhân vội hỏi: 

 - Hoàng hậu, chiêu chí viết gì thế? 

 Tiêu Hậu nói: 

 - Thiếp thấy tối qua bệ hạ không vào cung, nên viết chiêu chí, sai cung nữ đi khắp các viện, tìm gặp bệ hạ. 

 Dượng Đế hỏi: 

 - Hoàng hậu viết những gì trên chiêu chí vậy? 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Thiếp chỉ viết rằng: Hoàng hậu không cẩn thận, đánh mất một thiên tử rất phong lưu, trên người không có một vật gì khác. Nếu ai bắt được, xin thưởng năm trăm lạng bạc. Kẻ báo tin sẽ thường năm mươi lạng. 

 Dượng Đế cười ha hả: 

 - Trẫm mà không đáng được một nghìn lạng, chỉ có năm trăm lạng thôi sao? 

 Mọi người cả cười. Dượng Đế ngồi chính giữa, xem kỹ bàn cờ rồi hỏi: 

 - Các khanh ai thua ai được rồi? 

 Lương phu nhân thưa: 

 - Chưa được ván nào cả. Đang đánh dở ván đầu thì bệ hạ tới. 

 Dượng Đế lại tiếp: 

 - Quân bên trắng có lẽ thua. Hoàng hậu cứ nhìn kỹ phía góc trái, điểm nhãn một con của bên trắng, thì nhất định bên trắng sẽ chết thôi! 

 Tiêu Hậu cười: 

 - Điểm nhãn là tài của bệ hạ, chỉ sợ bệ hạ không chịu làm, mà dù có làm thì chưa chắc đã thắng được người vậy. 

 Chính lúc đang cười cười nói nói, thì thấy bên ngoài có tiếng đàn tiếng sáo ở đâu vẳng tới. Tử Yên lên tiếng hỏi: 

 - Tiếng sáo ở đâu không biết? 

 Dượng Đế nghiêng tai nghe, một trận gió lật màn, đưa mùi thơm hoa sen phảng phất khắp viện. Tiêu Hậu hỏi: 

 - Ở đâu mà lại có hương sen thế này? 

 Dượng Đế vội vén rèm lên, cùng Tiêu Hậu bước ra ngoài, thì thấy hai ba chục chiếc thuyền nhỏ, chở đầy hoa sen, lô nhô trên thuyền các cung nữ ngồi xen kẽ đang hát điệu "Thái liên khúc". Nhã 

 Nương, Quý Nhi, người thổi sáo, người hát họa theo. Các cung phi mới vừa từ Bắc Hải về, thấy trời gần chiều gió thổi nhẹ, nên rủ nhau dong thuyền hái sen, Dượng Đế liền vui mừng khen: 

 - Bọn cung nữ này, thật là vui vẻ đáng yêu! 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Đều nhờ công giáo dưỡng của chúa thượng? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Đó chính vì hoàng hậu nhu mì không biết ghen! 

 Các thuyền con nhận ra Dượng Đế trên thềm viện Cảnh Minh, đều chưa chịu rẽ vào ngồi vội, tranh nhau ghé vào bờ, vẫy hoa vẫy khăn, đi lại trên bờ hồ, muôn tía ngàn hồng, có người bị nước tung ướt đẫm. Dượng Đế cùng Tiêu Hậu hớn hở vẫy đáp. Lương phu nhân sai bày tiệc rượu ngay bên thềm, mời Dượng Đế cùng Tiêu Hậu ngồi, Tần phu nhân, Lương phu nhân cùng Viên Quý Nhi đứng hầu bên. Dượng Đế cho gọi tất cả mỹ nhân, cung nữ lên điện, trải ra mười chiếc chiếu rộng trên thềm, bày những bàn nhỏ thấp chính giữa, trên la liệt những quả phẩm, các mỹ nhân ngồi vây xung quanh, thưởng mỗi người ba chén rượu, rồi sau đó cùng nhau hát múa đàn sáo. 

 Dượng Đế thấy cả viện gió hòa mát mẻ, chẳng hề có một chút nóng nực của mùa hè, nhìn mặt Tiêu Hậu cùng các phi tần cung nữ, ai nấy đều vui vẻ, mặt hoa da phấn chói ngời, nói cười hớn hở, nên lòng thư thái, uống tràn hết chén này đến chén khác, chẳng mấy lúc đã say khướt, bèn đứng dậy dắt Tiêu Hậu, vào phòng Bích Sa nghỉ ngơi. Ai nấy cũng đứng dậy, tản khắp các phía. 

 Ngủ được một giấc dài, Tiêu Hậu trở dậy, thấy Dượng Đế vẫn còn mê mệt, lặng lẽ ngồi dậy, cùng với Lương phu nhân, Viên Quý Nhi, rửa ráy, trang điểm. Đến khoảng giờ thìn (1), thì thấy trong phòng Bích Sa, Dượng Đế đập chân đập tay vật vã thình thình, Tiêu Hậu cùng Lương phu nhân, Viên Quý Nhi vội chạy vào, thấy Dượng Đế vẫn như ngủ, như hôn mê bất tỉnh, hai tay ôm chặt lấy đầu, miệng không ngừng hét lớn: 

 1 Giờ thìn: từ bảy giờ đến chín giờ. 

 - Đánh chết ta mất, đánh chết ta mất thôi! 

 Tiêu Hậu vội vàng, truyền chỉ ý, tuyên triệu ngay Thái y viện Sào Nguyên Phương vào Tây Uyển chẩn mạch, dùng thang an thần, chỉ thống. Tiêu Hậu thân đi sắc thuốc, nhẹ nhàng, cẩn thận bưng lên dâng Dượng Đế uống. Lúc này Dượng Đế vẫn chưa tỉnh, các viện biết tin, vội vàng chạy đến viện Cảnh Minh thăm hỏi. Ai nấy xúm lại trước long sàng, một đêm qua đi, mà Dượng Đế vẫn chưa khỏi cơn mê . 

 Chu Quý Nhi thấy vậy, ăn uống cũng không, ngồi ngay cạnh phòng Bích Sa khóc lóc không lúc nào nguôi. Hàn Tuấn Nga nói với Quý Nhi: 

 - Cái con bé chua ngoa này, bệnh tình chúa thượng thế này, mày có muốn chết thay cũng chẳng xong, sao mà lại ra đến nỗi này? 

 Quý Nhi chùi nước mắt đáp: 

 - Xin các chị hãy bình tâm mà nghe tôi thưa: Đại phàm làm thân đàn bà con gái, đã là một sự không may rồi, nay lại bỏ cha mẹ, bỏ cả họ hàng thân thích, để được vào đây, những tưởng hồng nhan bạc phận, chẳng khác gì cỏ mục, vùi chết ở nơi ngòi rãnh. Ai ngờ gặp được chúa thượng nhân đức, khiến chúng ta ngày ngày được thấy thiên nhan ca hát vui vẻ suốt sáng chiều. Đừng kể rằng chúng ta đều là bậc quốc sắc có một không hai cả, cứ việc uốn éo cho đẹp, là được sủng ái. Hãy cứ nghĩ nếu gặp một vị hoàng đế hung bạo, chẳng phải chỉ chuyện khinh rẻ, lăng nhục, cũng là chuyện chết già ở lãnh cung. Biết thương hoa tiếc ngọc, mấy ai được như chúa thượng ta đây tình sâu nghĩa dày, ai ai cũng có chỗ yên ổn vui vẻ. Sở dĩ có chuyện Hầu phu nhân giận phận mà quyên sinh, Vương Nghĩa cảm ơn vua mà quên cả thân mình, chính là vì chúa thượng đã làm được lòng người cảm ơn nhớ nghĩa. Không ngờ nay chúa thượng mắc bệnh này, xem ra mười phần trầm trọng, nói chẳng may qua đời, chúng ta sẽ ra sao. Nếu không làm đầy tớ cho một kẻ chết vợ, thì cũng đến làm kẻ tay chân cho một mụ già ngang ngược mà thôi, chứ hơn gì nữa? 

 Mọi chuyện sẽ ra sao, mọi người sẽ ra sao, mình sẽ ra sao, nói đến chuyện thương tâm này, các cung nữ đều thổn thức, giọt ngắn giọt dài. Viên Bảo Nhi nói: 

 - Em tưởng người ta sinh ra trên đời này, trước vì hai đấng sinh thành mà quên thân mình, chúng ta thế này coi như là xong. Nhưng ơn của quân vương thì khó mà quên được. Chi bằng đêm nay ta hãy làm lễ tế cáo thần linh, tình nguyện giảm tuổi thọ của mỗi chúng ta mười năm, rồi mỗi người đốt một nén tâm hương, may ra có động được lòng trời, chuyển hung thành cát, để vạn tuế khỏi bệnh. Cũng không uổng tấm lòng của vạn tuế lâu nay thương yêu chị em chúng ta vậy. 

 Các mỹ nhân nghe Bảo Nhi nói thế, đều nhất tề tán thành: 

 - Cái con bé nhà họ Viên này nói hay lắm! 

 Rồi kéo nhau vào sân, bày biện hương án. 

 Quý Nhi trong lòng nghĩ: "Chúng ta đều là lòng thành mà cầu lễ. Nhưng làm sao mà cảm được lòng trời, đợi trời hiển ứng. Ta là phận gái, nhớ ngày trước có truyện người xẻo thịt ở cánh tay để phụng dưỡng cha mẹ, mong cha mẹ được dài lâu tuổi trời. Thân ta nay đã thuộc thánh thượng, dẫu có chết cũng chẳng tiếc gì, nói gì đến một miếng thịt nhỏ." Nghĩ như thế rồi, liền giấu sẵn một con dao trong ống tay áo, đi ra sân. Lúc này, Tuấn Nga, Liễu Nương, Thỏa Nương, Nhã Nương cùng với Bảo Nhi, Quý Nhi quỳ lạy trước bàn thờ, ai nấy tự xưng tên tuổi, sau kể rõ ngọn nguồn, nguyện xin an khang cho thánh thượng, bớt tuổi đời của mỗi người. Lễ nguyện xong, đứng lên, định dọn dẹp án thư, lễ vật, thì thấy Quý Nhi hai mắt đầm đìa, kéo ống tay áo lên, lộ rõ bắp tay trắng muốt như ngọc bạch, tay phải cầm dao, cắt một miếng thịt ở bắp tay trái, miếng thịt lìa hẳn ra, máu tươi lênh láng, đặt ngay vào một chiếc đĩa bạc. Mọi người hoảng hốt. Nhã Nương dốc vội một cái lọ nhỏ, đổ ra một thứ bột phấn bên trong, rắc lên vết thương rồi dùng lụa buộc chặt lại. 

 Chính là: 

 Trai mày râu vô ích 

 Gái son phấn hữu tình 

 Ngày nay cắt thịt quên mình 

 Ngày sau tuẫn quốc sử xanh chử đề. 

 Quý Nhi lấy miếng thịt gói kỹ lại, giấu trong người, đi vào trong viện, gặp lúc Tiêu Hậu sắc nước thuốc thứ hai. Quý Nhi làm đỡ Tiêu Hậu, lén bỏ miếng thịt vào siêu, cứ thế đun mãi kỳ được, rót ra bưng vào Tiêu Hậu đỡ lấy cho Dượng Đế uống. Chẳng bao lâu, Dượng Đế dần dần tỉnh lại, đã nhận ra Tiêu Hậu cùng phu nhân, mỹ nhân, cất tiếng: 

 - Trẫm thật khổ vô cùng! Nghĩ như chẳng còn được gặp lại hoàng hậu cùng mọi người nữa? 

 Tiêu Hậu hỏi: 

 - Bệ hạ uống nhiều rượu rồi đi ngủ, tại sao lại kêu đau như vậy? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Trẫm uống say, ngủ mê mệt, mơ thấy một võ sĩ tướng mạo rất dữ tợn, cầm một cái côn lớn, chẳng kể gì, cứ nhằm giữa trán trẫm mà đánh, đánh đến nỗi trẫm mê man không biết gì nữa, đầu như muốn vỡ toác đau không thể chịu nổi. 

 Tiêu Hậu cùng các phu nhân an ủi một hồi. Bá quan văn võ sau đó nghe tin, người người đều vào Tây Uyển vấn an, ai nấy đều biết chuyện trong mộng bị đánh vào đầu của Dượng Đế. 

 Lúc này Địch Khứ Tà cũng đã tới Đông Kinh, nghe chuyện bệnh tình của Dượng Đế, trong lòng xiết đổi bàng hoàng, càng tin vào chuyện ma quỷ, thần tiên, càng thấy chán ngán cõi trần ô trọc, quyết vào dãy Chung Nam, tìm tiên học đạo. 

 Chính là: 

 Quỷ thần dạy rất tinh thâm 

 Rõ ràng danh lợi là mầm oan khiên. 

 *** 

 Lại nói chuyện Ngu Thế Cơ, nhân hai tháng trước, Dượng Đế thấy trong Tây Uyển, ngự đạo vừa chật hẹp vừa gồ ghề, lệnh cho Thế Cơ tu bổ. Thế Cơ lĩnh mệnh, mới trên một tháng, ngự đạo đã được mở rộng, bằng phẳng, lại còn xây thêm một tòa Trú Tất đình, một cầu Nghênh Tiên, các đồ nghi vệ, nghi trượng đều được sắm mới, hoặc tu bổ lại, chờ khỏi bệnh là tâu Dượng Đế ngự lãm. Mấy ngày sau, bệnh vừa khỏi, Dượng Đế ngồi yến tiệc với Tiêu Hậu, nghe nói ngự đạo đã sửa sang xong, nghi trượng cũng chỉnh tề, Dượng Đế liền ngự đại điện, nhận lời mừng của trăm quan, lệnh vời các quan vào ban yến tiệc ở Tây Uyển. 

 Dượng Đế lên xe rồng bát bảo, tiền hô hậu ủng, nghi trượng lấp lánh, trăm quan cưỡi ngựa theo sau, thật đúng là hoa khoe sắc thắm, liễu phất phơ cờ chào đón. Dượng Đế truyền chỉ, ban ngự yến dưới thuyền. Dượng Đế bước lên thuyền rồng, trăm quan lên thuyền phượng. Trước tiên là ra Bắc Hải dạo một vòng, sau đó chơi Ngũ Hồ. Dượng Đế uống kỳ say, rồi lệnh cho các quan văn làm thơ để ghi lại cuộc hội họp ân thần vui vẻ. Các quan như Hàn lâm viện đại học sĩ Ngu Thế Cơ, Tư lệ đại nhân phu Tiết Đao Hành, Quang Lộc đại phu Ngưu Hoàng, đều có bài thơ hoặc từ dâng lên, Dượng Đế xem qua, khen ngợi rồi ban cho mỗi người ba chén rượu tự mình uống chúc mừng một chén lớn, rồi phán: 

 - Chư khanh đều có giai tác, chẳng lẽ trẫm lại không có bài nào chăng? 

 Bèn viết ngay tám bài từ "Vịnh Giang Nam", vịnh tám cảnh đẹp trên hồ. 

 Trăng trên hồ: 

 Trăng trên hồ sáng, sáng nhà tiên 

 Đệm gối màn chăn rực ánh lên 

 Từng lũ rắn vàng bơi lấp lánh 

 Bè thần trên sóng nổi lênh đênh 

 Mây xa màu sắc lung linh 

 Sương che vầng nhỏ, gió cành quế rung 

 Chén mời tình ý não nùng... 

 Liễu trên hồ: 

 Liễu trên hồ nên khói cuốn quanh 

 Mầm nhú trông ra bỗng giật mình 

 Trận gió lẳng lơ đùa lá biếc 

 Làn mưa lất phất tắm bao cành 

 Rợp cầu bóng rũ mành mành 

 Chiều xuân khiến khách bộ hành ngẩn ngơ 

 Tuyết đâu nhè nhẹ bay tơ. . . 

 Tuyết trên hồ: 

 Tuyết trên hồ sợ gió tây lùa 

 Từng cảnh chen vào ngõ trúc thưa 

 Trắng muốt hoa rơi đè sóng biếc 

 Muôn vàn ngọc trắng liễu đung đưa 

 Đất trời một sắc xa mờ 

 Vườn ai chiều bỗng lững lờ sênh ca 

 Hơi men ngấm đã ngà ngà... 

 Cỏ trên hồ: 

 Cỏ trên hồ mượt bến xa xa 

 Chẳng vướng chân nàng mãi múa ca 

 Êm ái ngả lưng hơn đệm gấm 

 Thẫn thờ nàng đợi khách đường xa 

 Tình chàng ý thiếp la đà 

 Xa xôi giữ chặt tình ta ngại ngần 

 Đề thơ lòng những phân vân... 

 Hoa trên hồ: 

 Hoa trên hồ đã rộn đâm bông 

 Đỏ rực bên trời át ráng hồng 

 Muôn cánh mưa nhuần phơi vẻ ngọc 

 Nhị tươi nắng ấm ngậm oai rồng 

 Thẫn thờ ngồi tựa bên song 

 Xuân lành lạnh, tóc cài vòng hoa xuân 

 Yêu hoa sao lại tần ngần... 

 Thiếu nữ trên hồ: 

 Thiếu nữ trên hồ dáng thanh thanh 

 Thuyền lướt bên sen cất giọng tình 

 Đàn địch đêm ngày ai đó nhỉ 

 Chiều sương cửa vắng nhẹ buông mành 

 Trò chơi: đấu cỏ, đạp thanh 

 Xuân thiên, xuân cảnh, xuân tình bấy nhiêu 

 Dưới hiên lẳng lặng trông theo... 

 Rượu trên hồ: 

 Rượu trên hồ trợ hứng truy hoan 

 Đàn phách du dương khéo ngự làn 

 Trên chén quỳnh tương dừng nghịu nhắp 

 Tay tiên dìu dắt mắt ưa nhìn 

 Cảnh hồ chân giả lạ quen 

 Gom thu trời đất vào miền làng say 

 Đế vương thanh nhã là đây... 

 Nước trên hồ: 

 Nước trên hồ chảy lượn vườn tiên 

 Say bóng chiều thu cây cỏ chen 

 Hương thoảng theo dòng, dòng gợn sóng 

 Bèo trôi theo gió, cá vờn sen 

 Nhịp nhàng vung mái chèo lan 

 Bóng chìm, bóng nổi cùng sang non Bồng 

 Nước non, non nước trập trùng... 

 Dượng Đế làm xong, quần thần ca ngợi một hồi, mọi người lần lượt chúc mừng, Dượng Đế cùng trăm quan lại say một phen nữa, rồi mới bỏ thuyền lên cạn. Quân thần tạ ơn, lại quay ra về theo lối hoa dương liễu. Dượng Đế lên xe rồng về cung. Tiêu Hậu đón vào, hỏi: 

 - Hôm nay bệ hạ ban yến tiệc cho bách quan, có vui không? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Hôm nay yến tiệc vui vẻ lắm! 

 Rồi đem thơ của quần thần dâng, cùng những bài từ của mình vừa làm cho Tiêu Hậu xem. Tiêu Hậu bàn: 

 - Đêm nay trăng thu đang dịp sáng, thật nên nghĩ chuyện mua vui đúng hơn cả là nên lên thuyền xem trăng nước đua tài, nếu không cũng nên tìm hoa hỏi liễu để khỏi phụ lòng trời đất. 

 Dượng Đế đáp: 

 - Hiện nay ngự đạo đã mở rộng, lại mới làm thêm Trú Tất đình, cầu Nghênh Tiên, qua khỏi cầu là hiên Xướng Tình dạo nọ, những cảnh đó mà xem trong dịp này cũng thú vị đấy ! 

 Tiêu Hậu đáp: 

 - Nếu như vậy, ngày mai thiếp xin theo hầu chúa thượng, đi xem một lượt. 

 Dượng Đế nói: 

 - Nếu Tiêu Hậu cùng đi, thì không thể quá sơ sài. Ngày mai chờ lúc trăng thanh gió mát, nên làm một cuộc du ngoạn đêm trăng, thì tha hồ mà thích chí. 

 Tiêu Hậu bàn: 

 - Nếu đã làm thế, thì các cung nữ phi tần, ai chưa được sang Tây Uyển, đều cho sang du ngoạn một phen. 

 Dượng Đế đáp: 

 - Như thế cũng được. Ngày mai triệu Ngự lâm quân, đem ngựa tới đây cho mọi người vừa cưỡi ngựa vừa đàn hát, trẫm cùng hoàng hậu đi trên đường ngắm trăng. 

 Tiêu Hậu mừng rỡ: 

 - Như thế thì hay lắm! 

 Dượng Đế tiếp: 

 - Trên ngựa mà ca hát thì rất tuyệt rồi. Nhưng phải có những bài thơ mới, phổ vào sênh phách, đàn sáo, mới khỏi phụ cảnh tình. 

 Tiêu Hậu lại bàn: 

 - Bệ hạ vẫn nổi tiếng tài hoa, sao không ngự chế vài chương, để thiếp cho cung nữ tập suốt đêm nay, kịp tối mai cho thêm đẹp cuộc du ngoạn. 

 Dượng Đế bằng lòng: 

 - Hoàng hậu nói phải đấy. Chờ trẫm soạn vài đoạn vậy. 

 Thế là vừa uống rượu, vừa vẩy bút một lúc, Dượng Đế đã viết xong bài

 "Thanh dạ du khúc”: 

 Hơi thu trùm khắp Lạc Dương 

 Một trời mây nước mơ màng liền nhau 

 Ngân Hà một dãy làu làu 

 Giữa ngàn cây bỗng trên đầu thấy trăng 

 Rãi vàng cung điện từng từng 

 Đêm dài phẳng lặng, bụi trần sạch tinh 

 Xe loan tuấn mã rập rình 

 Vườn tiên Vương mẫu du hành vui sao! 

 Mép đường hoa cỏ đón chào 

 Tiếng tơ tiếng trúc ngọt ngào gần xa 

 Thử hỏi năm, thử hỏi ba 

 Mâý ai biết hết cao xa rộng dài 

 Triều Tùy sử phép muôn đời 

 Hậu, phi, cung nữ sắc tài mười phân 

 Phong lan thiên tử nghìn lần... 

 Dượng Đế làm xong, đưa Tiêu Hậu xem, Tiêu Hậu đọc một lần, vội khen: 

 - Bệ hạ thật hào hoa phong nhã, ngọc rải châu phun, các bậc đế vương từ xưa tới nay, thật không ai bì kịp! 

 Rồi gọi những cung nữ giỏi đàn hát, phải tập suốt đêm cho thuộc, kịp tới ngày mai sang chơi Tây Uyển. Dượng Đế lại sai nội giám, truyền cho Chu Quý Nhi ở viện Nghênh Huy, cũng phải tập cho các mỹ nhân hát. Cắt đặt xong xuôi, mới cùng Tiêu Hậu đi nghỉ. 

 Chính là: 

 Vua hư chỉ thích vui 

 Vợ hư chỉ thích chơi 

 Dân dân nước nước tơi bời 

 Tiệc tùng ca hát đến đời nào thôi? 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Ba Mươi Lăm

Ngày vui nhộn nhịp, đóng giả Bồ Tát Quan âm,

 Đêm thu lài dài, khóc thật Chiêu Quân qua ải.

 Từ rằng: 

 Moi kim thổ huyết 

 Để ai đó một người vui thích 

 Một chút ơn 

 Vắt óc nghĩ trò lố lăng kỳ quặc 

 Ngoài ải hoa vàng, ca réo rắt 

 Tù và, dương liễu phô thanh sắc 

 Gió càng cao 

 Biên tái ruổi dong thân gái 

 Người quốc sắc 

 Trăng như lụa 

 Trời như ngọc 

 Lả lướt say, ngổn ngang tiệc 

 Quần hồng ngựa cưỡi như bay 

 Lời thề biển rộng sông dài miên man 

 Má hồng đẫm lệ quan san. 

 Theo điệu “Mãn giang hồng” 

 Sự vui sướng trong trời đất, thật không biết thế nào là cùng. Tấm lòng của phụ nữ thì lại càng lạ lùng, khiến cho dù có là bậc anh hùng hảo hán, khí phách hiên ngang, cũng dễ thành đống xương khô tan tác như trò chơi, huống chi lại là loại vua chúa hoang dâm, thì làm sao mà giữ cho trọn vẹn được. 

 *** 

 Lại nói Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, sáng ngày hôm sau, mãi tới giờ ngọ mới ngủ dậy, liền truyền cho Ngự lâm quân, đem đến một nghìn con ngựa, sắp sẵn yên cương, năm trăm con đến chờ trước cửa cung, năm trăm con trực sẵn ở cửa Tây Uyển. Lại sắc cho Quang lộc tự, trong Tây Uyển, các lầu, các viện đều phải sắp sẵn đầy đủ mọi thứ, để bất kỳ chỗ nào cũng có thể mở tiệc rượu thết đãi các phi tần cung nữ. Chẳng mấy lúc, mặt trời đã lặn về tây, vành trăng tròn dần dần nhô cao khỏi đường chân trời. Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, sau khi ngự tiệc rượu chiều, thay thanh long bào, tay dắt tay ra khỏi cửa cung, nhìn trăng sáng như lọc, sông Ngân lấp lánh, cả hai đều hớn hở trăm phần, cùng trèo lên ngoạn nguyệt hương xa, trong xe có đến hai hàng ghế ngồi, các màn che bốn bên xe đều được cuốn cao. Hai bên thành xe còn có thể đủ chỗ cho mấy phi tần cung nữ, hầu hạ rượu trà. Cung nữ được lệnh cưỡi ngựa, chia làm hai đội, một đội đi trước dẫn đường, một đội đi sau hộ vệ, vừa đi vừa ca hát, đàn địch. Lại được trăng sáng như ban ngày soi rõ đường ngự đạo rộng thênh thang. Cung nhân đều ăn mặc lộng lẫy, ngồi trên ngựa, bọc toàn lụa là gấm vóc, tiếng ti tiếng trúc rộn ràng, từ Đại nội kéo thẳng sang Tây Uyển. 

 Dượng Đế ngồi trên hương xa, nhìn ra cảnh hoa lệ bên ngoài, mặt mày hớn hở, nói với Tiêu Hậu: 

 - Từng nghe thuở xưa Chu Mục Vương cưỡi ngựa bát tuấn, cùng với Tây Vương Mẫu đi ăn yến ở Dao Trì, nữ nhạc hòa theo, nghìn năm coi đó là chuyện đẹp đẽ hiếm có. Nhưng cứ như trẫm nghĩ, cũng đến như cảnh này là cùng. 

 Tiêu Hậu cười thưa: 

 - Chuyện Dao Trì, Lãng Uyên đều là những chuyện hư ảo không đáng tin. Cuộc du ngoạn đêm nay mới là cảnh thực ở Dao Trì của bệ hạ vậy! 

 Dượng Đế cười đáp: 

 - Nếu cuộc vui đêm nay, mà là cuộc yến tiệc ở Dao Trì, thì trẫm chính là Mục Thiên tử, còn hoàng hậu chính là Tây Vương Mẫu vậy. 

 Tiêu Hậu lại cười: 

 - Nếu thiếp là Tây Vương Mẫu, thì lại làm bệ hạ phải khổ sở, vì nhớ Đổng Song Thành cùng Hứa Phi Quỳnh mà thôi. 

 Cả hai nhìn nhau cả cười. 

 Chẳng bao lâu, hương xa đã vào đến cửa Tây Uyển, các viện đều có các phu nhân dẫn cung nữ ra nghênh giá, viện nào cũng ca hát, đàn địch, hết đội này đến đội khác, lũ lượt kéo mãi không hết, toàn là các đội cung nữ. Kéo đến Trụ tất đình, nghênh Tiên Kiều, rồi tụ lại ở Xướng Tình hiên. Hiên này có tám cạnh, vừa cao vừa rộng, nền đài đều xây bằng đá trắng, có thể chứa một lúc hàng nghìn người. Bên trong trang hoàng gấm vóc phủ kín, đèn nến thắp sáng trưng. Dượng Đế xuống xe hương xa, các cung nữ xuống ngựa, vào hiên, Dượng Đế đưa mắt nhìn, chỉ thấy có mười bốn vị phu nhân, mà chẳng thấy Hoa Bạn Hồng ở viện Thúy Hoa, cùng Hạ Quỳnh ở Quỳnh viện Y Âm đâu cả, bèn hỏi Tần Phu Nhân ở viện Thanh Tu: 

 - Vì sao không thấy Hoa phu nhân cùng Hạ phu nhân đâu cả? 

 Tần phu nhân thưa: 

 - Cả hai phu nhân sắp đến. 

 Dượng Đế đang định hỏi thêm, bỗng nghe tiếng nhạc rất lạ tai, mỗi ngày một gần. Các cung nữ ùa ra thấy một chiếc kiệu đi lại: 

 - Đẹp chưa kìa!Đẹp chưa kìa! 

 Dượng Đế cùng Tiêu Hậu bước lên nguyệt đài nhìn ra cho rõ. Thì thấy hàng chục lá cờ ngũ sắc tiến lại, trên ngù cờ lại có một chiếc đèn lồng màu đỏ, do cung nữ ngồi trên ngựa cầm. Đội cờ quạt đi qua, lại thấy có đến bảy tám người, đội mũ lông chim, trông chẳng khác gì Trần Diệu Thường, tay cầm sênh hoặc cầm địch, cầm tiêu ngọc, vừa đàn địch vừa hát khúc "Thanh dạ du". Theo sau lại có người bưng lư trầm, một người bưng khánh ngọc. Trên cầu chiếc kiệu như một tòa núi, bọc bằng lụa trắng óng ánh, chẳng cây mà cũng chẳng lá gì cả, từ từ tiến lại. Trong hang núi, ngồi một Phật Bà Quan âm, mặt trắng như ngọc, tóc búi cao, giắt đầy thoa vàng, trâm ngọc chói ngời, trước ngực là hai dải lụa xanh quấn quýt bay tung ra hai phía, toàn thân phủ một tấm áo hồng, cánh áo bay phất phơ trước gió, một tay thì cầm tĩnh bình, một tay phất cành dương chi, phía dưới nhìn rõ đôi chân vừa trắng vừa mập mạp. Đứng hầu ngay cạnh là Hồng Hài Nhi, tóc tết dài bỏ ra hai phía, lộ rõ cả hai cánh tay ngà ngọc trắng muốt, cầm một chùm chuông bát bảo, mặc một áo lụa trắng thêu nổi lấp lánh như vẩy sừng, một cái quần màu hồng, có đính những hoa nhũ càng nổi bật dưới ánh đèn ánh trăng, hai chân cũng vừa trắng vừa tròn trĩnh, mặt mày hớn hở, ngẩng lên chào Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, rồi lại chăm chú đứng hầu Quan âm. Trước mặt Quan âm là một án thư nhỏ, trên cắm hai ngọn nến, ở giữa có bày một lư trầm, hương bay nghi ngút, khoảng bảy tám người khiêng. 

 Dượng Đế tay đặt trên vai Tiêu Hậu, đang nhìn theo chiếc kiệu vừa đi khỏi, thì một toán người ngựa khác như một đám mây ập tới, tiếng nghe càng rộn ràng, cả bọn đều hướng về phía nguyệt đài nghe rõ lệnh truyền: 

 - Chúa thượng, hoàng hậu hiện đang ở đây, các người hy đi vòng về phía hiên tả rồi lên viện bằng cửa sau. 

 Chào lễ xong xuôi, Tiêu Hậu mới nói: 

 - Thì ra là Hoa phu nhân! 

 Hoa phu nhân thưa: 

 - Xin mời bệ hạ cùng hoàng hậu vào trong viện để mọi người được triều kiến. 

 Dượng Đế đỡ Tiêu Hậu, hỏi Hoa phu nhân: 

 - Ai đóng Phật Bà Quan âm, ai đóng Hồng Hài Nhi, là cung nữ của viện nào mà mặt mày xinh đẹp, ăn mặc cũng rực rỡ thế? 

 Tiêu Hậu vội đáp: 

 - Người đóng Phật bà, trông có vẻ giống Chu Quý Nhi. Còn Hồng Hài Nhi thì có lẽ là Viên Bảo Nhi. 

 Dượng Đế cười: 

 - Hoàng hậu nói thế chưa hẳn đã đúng, bởi Quý Nhi cùng Bảo Nhi đều có đôi chân chẳng khác gót sen vàng của Phan Phi, đằng này cả Quan âm cùng Hồng Hài Nhi đều có đôi chân rất tròn rất trắng! 

 Hoa phu nhân cười thưa: 

 - Dạo trước nghe bệ hạ nói, bệ hạ rất thích những cung nữ có đôi chân vừa trắng vừa đầy đặn, cho nên họ cố giả làm thế để vừa lòng bệ hạ đó thôi! 

 Đang trò chuyện thì đã thấy đám giả trang Quan âm đi vào lạy chào, phía sau là hai cung nữ đóng giả Quan âm và Hồng Hài Nhi. 

 Dượng Đế kéo dậy, nhìn kỹ, quả đúng là Quý Nhi và Bảo Nhi, bèn cả cười: 

 - Đôi mắt hoàng hậu quả không bao giờ nhầm, rõ ràng là hai con bé này, thế còn đôi chân, thì làm thế nào cho to ra được? 

 Quý Nhi giơ hẳn chân lên, Dượng Đế cúi nhìn, thì ra là dùng lụa trắng mà quấn thêm nhiều vòng, ngay cả ngón chân cũng vậy dưới ánh trăng, trông chẳng khác gì trời sinh ra như vậy thôi. Dượng Đế cười: 

 - Đúng là bọn này nghĩ ra lắm trò tinh nghịch! 

 Tiêu Hậu ngày thường rất thích Bảo Nhi, nay thấy Bảo Nhi giả trang Hồng Hài Nhi rất khéo, lòng càng yêu mến, liền kéo Bảo Nhi lại gần, ve vuốt đôi tay trắng như tuyết của Bảo Nhi, thấy lạnh như băng liền khuyên: 

 - Trong vườn sương gió rất lợi hại, các ngươi hãy mặc ngay áo ấm vào? 

 Dượng Đế cũng truyền bảo Quý Nhi: 

 - Cả khanh nữa, áo khanh mặc cũng mỏng lắm! 

 Nói rồi vuốt lên ống tay áo mỏng của Quý Nhi, có ngờ đâu là chỗ vết thương của Quý Nhi ở tay vẫn chưa khỏi, thấy Dượng Đế đụng đến, vội vàng rụt tay lại nhưng Dượng Đế đã sờ được phía trên cổ tay đeo vòng, thấy có buộc lụa trắng, liền hỏi Quý Nhi: 

 - Tay khanh làm sao mà phải buộc? 

 Quý Nhi đưa mắt nhìn Tiêu Hậu, cười không nói gì cả. Dượng Đế vốn cũng là người tế nhị, thấy thế liền bỏ tay ra, không hỏi thêm nữa. 

 Tả hữu ồn ào: 

 - Lại một đoàn rất đẹp đang đi đến kìa? 

 Dượng Đế cùng Tiêu Hậu vội bước ra hiên, nhìn lên phía cầu, dẫn đầu đoàn người có đến mười cô gái người Hồ, mặc áo chèn, vừa ngắn vừa chật, mỗi người đều đánh đàn tranh, hoặc đàn nguyệt, có người lại thổi kèn, tiếng nghe thật não nuột, ai oán, thỉnh thoảng nghe cả tiếng phách gõ nhịp nhàng. Phía sau là hai hàng cung nữ. Bốn cung nữ cưỡi ngựa, đánh đàn tỳ bà, vây lấy Chiêu Quân vào giữa. 

 Chiêu Quân đầu đội mũ Phiên, có hai lông chim dài, giải vàng ngọc phủ trước trán, đuôi điêu quấn quanh, mặc một áo bào ngũ sắc, hai tay cũng ôm tỳ bà. Đang xem chăm chú, thấy Hạ phu nhân đi tới, Dượng Đế bèn hỏi: 

 - Người đóng Chiêu Quân có phải là Tiết Dã Nhi không phu nhân? 

 Hạ phu nhân đáp: 

 - Dạ đúng? 

 Rồi chỉ tay vào bốn người chung quanh Chiêu Quân. 

 Hạ phu nhân nói tiếp: 

 - Kia là Tuấn Nga, sau là Liễu Nương. Kia nữa là Thỏa Nương, sau là Nhã Nương. Bệ hạ định gọi họ lên hiên để đàn hát, hay muốn họ ở dưới đường phi ngựa? 

 Dượng Đế cười hỏi: 

 - Bọn này chỉ biết đi bộ từng bước. Nay làm sao mà lại cưỡi được cả ngựa nữa? 

 Lương phu nhân thưa: 

 - Họ đều là học trò của Chu Quý Nhi cả. Lúc nào rỗi, họ lại lấy ngựa ở trong tầu của Ngự uyển để tập, ngày nào chẳng thế! 

 Phàn phu nhân lại chỉ tay thưa: 

 - Toán phía sau lại bọn Viên Bảo Nhi đang cưỡi ngựa tới kìa! 

 Thì ra Bảo Nhi, Quý Nhi đã ăn mặc đồ cung nữ. Tiêu Hậu cười, nói với Bảo Nhi: 

 - Ngươi cũng biết cưỡi ngựa sao? Ta không thấy tập bao giờ cả? 

 Dượng Đế vỗ tay: 

 - Hay lắm! Hay lắm! Trước đây trẫm có sai Bùi Cử đổi cho người Hồ ở Tây Vực một con ngựa hay lạ lùng, ngươi mà cưỡi thì hợp lắm, không biết có đem tới đây không. 

 Tả hữu thưa: 

 - Đã đem đến chờ sẵn ở đây! 

 Dượng Đế truyền: 

 - Tốt lắm, mau dẫn ra đây! 

 Tả hữu vội kéo một con ngựa ra trước hiên. Bảo Nhi cười cười thưa : 

 - Tiện thiếp cưỡi không đẹp. Xin bệ hạ, hoàng hậu cùng các phu nhân đừng cười? 

 Hai chân xỏ ngay vào đôi giày mũi cong, thắt thêm một dây lụa màu xanh biếc vào lưng, chạy đến bên ngựa, một tay trắng như tuyết giơ lên, đặt vào yến cương ngựa vàng. Cũng chẳng cần nhảy lên bàn đạp nhẹ nhàng nhún một cái đã ngồi ngay ngắn trên yên rồi. Dượng Đế thấy thế thích chí khen: 

 - Cách lên ngựa như thế thì thật là tuyệt diệu. 

 Hạ phu nhân liền truyền lệnh hãy cưỡi dạo một vòng, sau đó sẽ lên hiên đàn hát. Dượng Đế liền khiêng long ỷ ra ngay bên hiên, cùng Tiêu Hậu ngồi xem, xung quanh là các phu nhân cung nữ. 

 Bảo Nhi cưỡi ngựa ô truy phi như bay, theo sau là một đoàn cung nữ ra roi đuổi theo. Lại thêm một toán cung nữ khác, ngựa bước thong thả theo đường trong ngự uyển đầy bóng cây che, vừa đàn vừa hát. Dượng Đế thấy thế hớn hở phán: 

 - Thế này mới thực là huyền diệu. Các khúc đang hát kia, không phải là khúc “Thanh dạ du” của trẫm thì phải. Mà là khúc nào khác vậy, nghe cũng rất du dương. 

 Sa phu nhân thưa: 

 - Đấy là do Hạ phu nhân, bày cho họ đóng Chiêu Quân xuất tái, nên phải tự đặt ra "Tái ngoại khúc”, dạy Cho họ hát thật thuần thục, nghe cũng rất nhịp nhàng. 

 Dượng Đế không kịp hỏi lại, chỉ giơ tay vẽ vẽ hình gì đó trên không. Bỗng thấy khoảng hai chục cung nữ cưỡi ngựa, chẳng chia dội ngũ gì cả, như một đám mây ập tới, hồng có, xanh có, cả vàng, cả trắng nhốn nháo rất vui mắt. Rồi cả bọn lần lượt vào góc hiên tây nam, vây Chiêu Quân vào giữa, giao tất cả nhạc cụ lại cho cung nữ, lại quay ngựa ra khỏi hiên, phi về phía tây bắc cùng nhau đứng thành hàng. Chỉ còn lại trước thềm Chiêu Quân với Bảo Nhi. Cả hai đều nai nịt gọn gàng, người phi về phía phải, người phi về phía trái. Hai tay giơ cao, những dải lụa màu bay phấp phới lúc bên phải lúc bên trái. 

 Bỗng thấy Chiêu Quân, bay như một ánh chớp, đến nỗi Dượng Đế Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân, đều nhổm cả dậy rướn nhìn theo, nhìn chẳng rõ là người hay ngựa, chỉ thấy như một đám mây trắng, hạ xuống một vùng tuyết cũng trắng. Lại thấy Bảo Nhi như bay, lao thẳng sang, ngồi vững vàng trên con ngựa từ phía phải chạy lại, tiếng thanh la, tiếng trống rộn ràng. Hai ngựa, hai người lại như con thoi vút phải, vút trái, gặp nhau ở giữa hiên, có đến ba bốn vòng như thế, Bảo Nhi cùng Dã Nhi mới theo nhịp nhạc tấu rộn ràng, rời khỏi yên ngựa, một chân đạp vào bàn đạp, còn chân kia giơ ra khoảng không, nửa người dựa vào thân ngựa, một tay níu vào yên ngựa, một tay ra roi, ngựa lại thay nhau chạy lúc phải lúc trái, khác nào như chim yến xuyên trong đám hoa. Cuối cùng, cả hai dừng lại giữa hiên. Dượng Đế vừa kinh ngạc, vừa sung sướng vỗ tay cả cười: 

 - Thật đúng là kỳ quan! Kỳ quan! 

 Tiêu Hậu cùng mọi người đều tỏ lời khen ngợi. Cả bọn lúc này mới xuống ngựa, bước lên hiên, Dượng Đế cùng Tiêu Hậu đều đứng dậy đón. Tần phu nhân thưa: 

 - Xin bệ hạ hãy chờ một lát, chúng mỹ nhân sẽ đàn hát "Tái ngoại khúc". Chỉ sợ bệ hạ đến mắt hoa, đầu váng mất thôi! 

 Dượng Đế đang định trả lời, thì đã thấy Dã Nhi dẫn cả bọn cung nữ vừa phi ngựa đến trước lạy chào. Dượng Đế vội xua tay, rồi kéo Dã Nhi đứng dậy, thấy rõ ràng nhan sắc chẳng kém gì Chiêu 

 Quân thuở trước. Dượng Đế vuốt ve âu yếm Dã Nhi rồi khẽ nói: 

 - Dã Nhi thật tài, thật đẹp! Trẫm làm sao mà hiểu được khanh lại có nhiều điều xuất chúng đến vậy. Nếu không có hoàng hậu nghĩ ra cuộc chơi này, thì đến hàng nghìn năm trẫm cũng chẳng làm sao mà biết được. 

 Bèn rút từ trong ống tay áo ra một cái quạt "Hỗn kim cung phiến", ở thu quạt có đeo một hạt ngọc để giữ cho quạt khỏi rơi, ban cho Dã Nhi. Dã Nhi tạ ơn nhận quạt. Tiêu Hậu liền hỏi: 

 - Sao không thấy Viên Bảo Nhi đâu? 

 Dương phu nhân chỉ tay thưa: 

 - Bảo Nhi đang trốn sau lưng hoàng hậu kia! 

 Tiêu Hậu quay lại cười: 

 - Ngươi học bao giờ mà cưỡi ngựa giỏi đến thế? Cũng phải thưởng công khó nhọc của ngươi mới được! 

 Dượng Đế nghe thấy liền cười: 

 - Không phải trẫm bên trọng bên khinh, nhưng trẫm lấy gì nữa để thưởng cho Bảo Nhi bây giờ? Được rồi, để trẫm vay của hoàng hậu vật gì vậy? 

 Tiêu Hậu vội vàng giơ tay rút một cành trâm vàng trên đầu mình đưa cho Dượng Đế. Dượng Đế cầm ban cho Bảo Nhi. Bảo Nhi lại không tạ ơn Dượng Đế, mà quay ra tạ ơn Tiêu Hậu, Tiêu Hậu vội ngăn lại, Dượng Đế cười mắng: 

 - Cái con bé này gớm thật! Cả gan thế kia à? 

 Dã Nhi cùng chúng phu nhân đang giở tỳ bà ra để đàn hát, thì Dượng Đế phán: 

 - Hãy khoan đã! Bảo bọn nội thị, hãy đem nhung, gấm rải khắp trong hiên, rồi kê đôn hoa cùng án thấp bày tiệc rượu ngồi ngay trên nền điện vậy! 

 Tả hữu lĩnh ý chỉ, vào bày biện xong xuôi, ra mời Dượng Đế cùng Tiêu Hậu vào. Vua cùng hoàng hậu, ngồi ngay hướng chính nam, trên hai chiếc đôn hoa thấp. Đông tây hai bên, mỗi bên là bốn bàn tiệc, đều dùng đôn hoa thấp, là chỗ ngồi của các phu nhân mười sáu viện, cùng với Viên Quý Nhi. Dượng Đế lại sai bọn nội thị, bày tiệc rượu thứ hai, cũng ngay bên cạnh trong hiên, ban cho Dã Nhi ngồi đối diện, còn các mỹ nhân thì cứ thế ngồi xếp bằng ngay trên nền nhung. Dượng Đế phán: 

 - Đêm nay so với các cuộc vui trước thật xứng ý hơn, hoàng hậu cùng các phu nhân, không thể không uống cho thật say. 

 Lại nói với các mỹ nhân: 

 - Các khanh cũng phải uống vài chén, sau đó hãy đàn hát, cho giọng thêm ngọt ngào, say sưa. 

 Cười cười nói nói, uống một hồi, bọn Dã Nhi ôm tỳ bà đứng chờ sẵn, Dượng Đế nói: 

 - Bài từ "Thanh dạ du" của trẫm, lúc mới đến, đã nghe đàn hát mấy lần rồi, giờ chỉ cần nghe "Tái ngoại khúc" của Hạ phu nhân nữa là được. 

 Hạ phu nhân thưa: 

 - Sao lại có thể như thế được thưa chúa thượng! Lẽ đương nhiên là phải trình bài của chúa thượng trước đã. 

 Dượng Đế nhân nhượng: 

 - Bài của trẫm hãy cứ để sau đã. 

 Thế là các mỹ nhân bắt đầu đàn hát. Đầu tiên Chiêu Quân ôm đàn tỳ bà, hát một khúc, lời ca như cuộn lấy mái hiên, sau đó bốn cung nữ đóng người Hồ cũng đàn tỳ bà họa theo. Khúc đầu tiên là bài từ "Phấn điệp nhi": 

 Trăm lạy quân vương, 

 Thiếp tôi xin nghìn lạy quân vương 

 Ấy từ ai đó vẽ đường tanh hôi 

 Chẳng ai giúp nước cứu đời 

 Cống Hồ nhi nữ uổng đời quần thoa 

 Đất Thiền vu tít mù xa 

 Mối sầu đứt ruột tỳ bà lệ tuôn. 

 Bài tiếp theo, theo điệu từ "Khấp Nhan Hồi" (1) 

 1 Nhan Hồi: học trò giỏi nhất của Khổng Tử thời Xuân Thu, còn gọi Nhan Uyên, sống thanh bạch, cơm một giẻ, nước một bầu, trong ngõ hẹp. "Thương thay Nhan Tử dỡ dang; Ba mươi mốt tuổi tách đường công danh" (Lục Vân Tiên). 

 Rúc một tiếng còi 

 Thương cha nhớ mẹ vua đòi phải đi 

 Một bước núi Hỗ 

 Một bước nút Dĩ 

 Rời phòng khuê rầu rĩ phong sương 

 Thơ hồng nhan, mình tự thương 

 Phong quang thiên tử, Chiêu Dương huy hoàng. 

 Các mỹ nhân hát nghe lên bổng xuống trầm, du dương êm ái. Dã Nhi hát lại càng nghe nỉ non, như than như khóc, cứ dạo một khúc tỳ bà, lại hát một lượt, Dượng Đế rất bằng lòng, vừa khen vừa uống hết chén rượu này đến chén rượu khác. Tiêu Hậu nói với Hạ phu nhân: 

 - Khúc này là từ ngoài ải xa, Chiêu Quân thương cha nhớ mẹ, nghĩ đến thân phận của mình, phu nhân cứ hết lòng nghĩ ngợi, nên nghe hay lắm. Đến khúc thứ ba là khúc gì nữa? 

 Hạ phu nhân thưa: 

 - Khúc "Thạch lưu hoa", tâu hoàng hậu? 

 Lãnh cung cô quạnh tiếng oan ương 

 Hoa mộng, trăng khuya vẫn vắng trông 

 Đừng bảo móc mưa ơn thánh đế 

 Gieo mình vạn dặm bãi hoang lương 

 Khoe nhà Hán đường đường thiên tử 

 Cũng đua đòi diệu kế Chu Lang 

 Công lao tướng sĩ ải quan 

 Khoanh tay để mặc hổ lang điên cuồng 

 Kèn Hồ một khúc véo von 

 Qua sông xa để muôn dòng lệ sa. 

 Bài thứ tư là "Hoàng long cổn". 

 Buồn một nỗi Hiền Vương trên ải 

 Ôm lòng thương thân gái lênh đênh 

 Hán triều hoàng đế ươn hèn 

 Chia tay sùi sụt, từng phen ngập ngừng 

 Người hoa vàng, dặm nghìn đằng đẳng 

 Mây trắng đùn, đuổi vướng áo hồng 

 Bụi mù mịt, chẳng buồn trông 

 Mày cong cong chếch, lệ ròng ròng sa. 

 Dượng Đế nghe đến mê mẩn tâm thần, chẳng còn biết trời đất gì nữa. Tai nghiêng nghiêng như lắng nghe, như thức, như ủ, như tỉnh, như mê, nhưng vẫn thấy Tiêu Hậu cùng mọi người vừa nghe, vừa xem vừa sụt sùi giọt đầy giọt vơi. Dượng Đế khẽ hỏi trống không: 

 - Tại sao các khanh lại khóc than thế? Nay chỉ mới xem cảnh giả còn như vậy, nếu chẳng may gặp phải bước này, thì tấm thân sẽ còn ra sao nữa? 

 Tiêu Hậu đáp: 

 - Ngày trước chỉ mới Hầu Phi tử mất, mà đến nỗi bệ hạ còn xử chết cả đình thần. Đừng nói là kẻ quốc sắc thiên hương, mà ngay cả đến cung nữ bình thường, cũng không thể để rơi vào tay kẻ khác cho được 

 Dượng Đế xua tay: 

 - Thôi đừng nói nữa? Hãy nghe họ hát đã! 

 Giờ là khúc "Tiểu đào hồng" 

 Nhớ quê trong mộng mà thôi 

 Cửu trùng cũng chẳng đoái hoài nữa đâu! 

 Ngày mai ngựa tới trước lều 

 Thế thôi, hết thấy đất trời quê hương 

 Lòng tơ rối cung thương lỡ nhịp. 

 Ba sinh này duyên kiếp còn đâu 

 Cầu mong bình trị một câu 

 Bốn phương phẳng lặng dài lâu thái bình. 

 Cả trăm đàn tỳ bà đều nhất loạt nức nở ai oán; nghe chẳng khác nào gió thổi qua bờm ngựa, cát vãi vào thanh la, để cuối cùng dồn dập vút lên cao rồi tắt hẳn! Dượng Đế đứng lên, nói với Sa phu nhân: 

 - Quả là tài tình, quả là tài tình? Lấy văn từ của khúc này để kết thúc thì quả là vượt xa khúc "Thanh dạ du” của trẫm. Lại càng thấy phu nhân thật mẫn tiệp, tài tình. 

 Sa phu nhân thưa: 

 - Toàn những lời quê mùa dân dã, có gì đâu mà chúa thượng khen! 

 Tiêu Hậu nói: 

 - Khúc này từ ý đều thật trọn vẹn, không thay được một chữ. Đó là công khó nhọc của Sa phu nhân suốt cả ngày nay, đêm qua. Người nghe khúc này, càng thấy nghĩa nặng tình sâu của bệ hạ, tưởng bệ hạ cũng nên thưởng công khó nhọc của Sa phu nhân mới phải! 

 Dượng Đế đáp: 

 - Thì trong lòng trẫm cũng nghĩ nhất định phải thưởng rồi! 

 Bảo Nhi liếc nhìn Dượng Đế thưa: 

 - Thì từ lâu bệ hạ đã thưởng còn gì? 

 Dượng Đế cười mắng: 

 - Cái con bé này không được hỗn. Hãy chờ đó rồi ta sẽ phân xử đến ngươi! 

 Mọi người cùng cười, rồi thay hóa trang, lại ngồi xuống chỗ cũ. 

 Tiếng nhạc nhẹ nhàng bài "Thanh dạ du" cất lên. Dượng Đế vội xua tay, phán: 

 - Người xưa nói: Phải biết dừng lại đúng chỗ. Dẫu có vui khác nữa, trẫm cũng không dám thưởng thêm. Các khanh hãy đem chén lớn ra đây, trẫm uống vài chén nữa nào? 

 Tiêu Hậu nhắc: 

 - Trăng đã sắp lặn, ai nấy nên sửa soạn về cung thì vừa. 

 Dượng Đế truyền cho nội thị: 

 - Hãy bày thêm yến tiệc ở Vạn Hoa lâu. Các cung nữ đều cưỡi ngựa, mỗi người cầm một cái đèn lồng. Chia làm hai đội, một dội theo hoàng hậu đi đường trước núi, một đội theo trẫm, đi phía sau núi, đều kéo về dự yến tiệc ở Vạn Hoa lâu đã, rồi hãy ai về cung ấy! 

 Chẳng mấy chốc, bên ngoài hàng vạn ngọn đèn lồng được thắp lên, chẳng khác gì sao sa, sáng rực trước hiên, ánh hắt lên cây cối, lầu các đầy vẻ lung linh huyền ảo. 

 Dượng Đế, Tiêu Hậu ra khỏi hiên, cùng lên xe loan, xe rồng một lúc. Các phu nhân, quý nhân, mỹ nhân đều thong thả lên ngựa. Đi khoảng được một dặm, Tiêu Hậu từ trên xe nhìn ra, đều thấy các phu nhân mỹ nhân ở trước mặt, Tiêu Hậu vội dừng xe truyền lệnh cho các mỹ nhân: 

 - Chúng phu nhân đi với ta là đủ rồi. Các người phải đi theo xe của chúa thượng, cớ sao lại dồn cả vào đây, chúa thượng mà thấy không có người theo hầu, chẳng trách gì các ngươi, mà lại cho lỗi ở ta. Hãy đợi kẻo chúa thượng nổi giận bây giờ. 

 Các phu nhân đều tán đồng: 

 - Hoàng hậu thật chu đáo! 

 Vì vậy các phu nhân thì vây theo xe của Tiêu Hậu, còn các mỹ nhân thì dừng ngựa chờ xe của Dượng Đế. Dượng Đế lúc này đi đường sau núi, thấy các phu nhân, mỹ nhân đi theo xe Tiêu Hậu cả, nên cũng lấy làm phiền lòng, nhưng sợ lâu quá, Tiêu Hậu chờ không thấy, sẽ nghi ngại gì chăng, nên cũng phải lên xe đi tiếp, thành một đoàn. Nhưng trong lòng vẫn không thư thái, liền xuống xe, nhảy lên ngựa, vòng quanh núi mà đi. Thấy phía chân núi một người một ngựa, một đèn lồng đi tới. Dượng Đế nhận ra Thỏa Nương, Thỏa Nương vội vàng xuống ngựa. Dượng Đế vội ngăn lại rồi cầm tay hỏi: 

 - Cái con bé dẻo miệng này, định ở chân núi này để làm nữ cường đạo hay sao? 

 Thỏa Nương thưa: 

 - Cường đạo thì không làm được. Nhưng thiếp vì sương gió lạnh, trên người thì lại toàn áo mỏng, chả như kẻ khác có người thương, nên phải quay về viện, mặc thêm áo ấm rồi mới quay lại. 

 Dượng Đế vừa cười vừa mắng: 

 - Thật đúng là dẻo miệng, Trẫm đâu có không thương các khanh, mà lại nói như vậy cho được? 

 Thỏa Nương cười thưa: 

 - Vừa rồi thiếp nghe Bảo Nhi kể chuyện bệ hạ vuốt cánh tay Quý Nhi, vô cùng thương cảm, cho nên thiếp đùa bệ hạ vậy thôi, may mà bệ hạ không bắt tội. Không biết hoàng hậu cùng các phu nhân đâu cả rồi bệ hạ? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Khanh chẳng cần tìm họ, đi với trẫm cũng được rồi. Trẫm đang có chuyện muốn hỏi khanh ngay bây giờ đây! 

 Thế là hai ngựa cùng đi song song, Dượng Đế hỏi: 

 - Trẫm hỏi khanh, cánh tay Quý Nhi vì sao phải buộc lụa thế? 

 Thỏa Nương đáp: 

 - Cánh tay Quý Nhi chỉ vì bệ hạ, sao bệ hạ không hiểu mà còn phải đi hỏi thiếp? 

 Dượng Đế nghe thế liền ngạc nhiên hỏi tiếp: 

 - Trẫm làm sao mà hiểu được. Tại sao lại vì trẫm, khanh nói ngay đi! 

 Thỏa Nương đáp: 

 - Thiếp không nói. Bệ hạ cứ đi hỏi Quý Nhi thì rõ ngay thôi mà! 

 Dượng Đế dọa: 

 - Khanh mà không nói ngay, trẫm sẽ không để khanh yên tâm đâu nhé! 

 Thỏa Nương không biết làm thế nào, đành phải đem mọi chuyện kể lại: Dượng Đế đau ốm mê man ra sao, Quý Nhi cắt thịt, lén bỏ vào siêu thuốc thế nào, kể hết lại cho Dượng Đế nghe. 

 Chuyện kể vừa xong, thì thấy phía sau, bảy tám ngựa phi tới, Dượng Đế quay đầu lại nhìn thì ra là bọn mỹ nhân Tuấn Nga, bèn lớn tiếng hỏi: 

 - Các khanh sao giờ mới đến đây? 

 Dã Nhi cười thưa: 

 - Hoàng hậu sợ bệ hạ giận, nên sai chúng thiếp quay lại hộ giá! 

 Quý Nhi tấm tức thưa tiếp: 

 - Thiếp đã nói với mọi người là bệ hạ đi theo đường sau núi này, mà không đi theo đường lớn đâu, nhưng mấy cái mụ già nhà quê này, không chịu nghe theo, làm phải đi bao nhiêu là đường vòng. 

 Bảo Nhi ngồi trên yên cương: 

 - Mấy chị này, bị em lừa một bữa nhớ đến già nhé! 

 Dượng Đế phán: 

 - Thôi được rồi, các khanh đi dẫn đường đi! 

 Vừa nói vừa níu lấy ngựa của Quý Nhi tiếp: 

 - Còn khanh thì cứ từ từ, đi sau với trẫm? 

 Các mỹ nhân nghe thấy thế, bỏ Quý Nhi lại sau ruổi ngựa lên trước. 

 Dượng Đế thấy các mỹ nhân đã đi cách đến một tầm tên bắn, liền cho ngựa đi sát vào ngựa Quý Nhi, khẽ nói: 

 - Khanh mau sang ngồi cùng ngựa với trẫm, trẫm muốn nói chuyện với khanh. 

 Quý Nhi vội nhảy khỏi ngựa, Dượng Đế đỡ cho Quý Nhi cùng ngồi trên yên ngựa của mình. Quý Nhi vứt dây cương cho cung nhân theo hầu cầm. Dượng Đế liền vội vàng hỏi Quý Nhi: 

 - Trẫm làm sao mà biết được tấm lòng yêu mến chủ của khanh đến thế, nếu vừa rồi Thỏa Nương không nói cho trẫm hay, thì thật là phụ cả lòng sâu nặng của khanh vậy! 

 Nói rồi, luôn miệng xuýt xoa cảm thán, chỉ còn thiếu rơi nước mắt nữa thôi. Quý Nhi thưa: 

 - Tiện thiếp chịu ơn lớn của bệ hạ, dẫu có quên cả thân mình cũng chẳng tiếc, phương chi chỉ là việc nhỏ mọn như vậy. Nhưng thật là chị Thỏa Nương, thiếp đã ân cần dặn kỹ, thế mà vẫn không nghe, vẫn cứ kể lại cho bệ hạ biết. Nay xin bệ hạ hãy "thủ khẩu như bình", chẳng bao giờ nói ra, chỉ cần có một người biết, thì hoàng hậu cùng các phu nhân đều sẽ nói thiếp xảo trá, làm như thế để được bệ hạ sủng ái riêng mà thôi! 

 Dượng Đế đáp: 

 - Cung nữ khắp trong cung, hàng nghìn hàng vạn, nhưng trẫm xem ra, chẳng qua cũng chỉ là để mua vui nhất thời, làm sao mà có kẻ nào thật lòng yêu mến như khanh cho được. Nay nếu trẫm cất nhắc cho khanh ngay, chỉ sợ mọi người ghen ghét, rồi khanh cũng khó mà sống cho yên ổn. Nay trong người trẫm may sao lại có thắt chiếc đai ngọc, là vật truyền từ đời này sang đời khác, đáng giá nghìn vàng, trẫm ban cho khanh mà giữ lấy. 

 Rồi rút từ lưng ra, đưa cho Quý Nhi, lại nói tiếp: 

 - Mai sau lúc trẫm đã về chầu trời rồi, khanh lúc ấy vẫn còn xuân sắc, trẫm sẽ viết di chỉ, khanh tìm lấy một người chồng xứng đáng, để suốt đời có chỗ mà nương tựa. 

 Quý Nhi nghe xong, liền rút đai ngọc ra, thưa: 

 - Bệ hạ nói thế, thiếp không dám nhận, xin bệ hạ hãy cầm lại đai ngọc này vậy! 

 Dượng Đế vội hỏi: 

 - Vì sao thế? 

 Quý Nhi thưa: 

 - Thiếp nghe: tôi trung không thờ hai chúa, liệt nữ không lấy hai chồng. Thiếp tuy thân phận ty tiện, nhưng cũng ít nhiều hiểu được đạo nghĩa. Chẳng cần phải nói lúc bệ hạ đang khang cường, mà dẫu mai kia lúc bệ hạ trăm tuổi, xảy ra những đổi thay không ngờ đi nữa, nếu thiếp vẫn trộm sống ở đời này, kéo dài mạng già của mình, bỏ cả nhân luân, thì thật không đáng làm người. 

 Nói xong, nước mắt ứa đầy. Dượng Đế thấy thế, cũng không ngăn được, nghẹn ngào nói trong nước mắt: 

 - Khanh đã nghĩ đến chuyện thủy chung đến như vậy, trẫm xin nguyện cùng khanh sẽ được làm vợ chồng kiếp sau nhé! 

 Rồi chỉ lên trời mà thề: 

 - Đại Tùy thiên tử Dương Quảng cùng với mỹ nhân Quý Nhi họ Chu, tình sâu nghĩa nặng, xin trăng sao chứng cho, xin thề kiếp sau sẽ kết làm vợ chồng, để vẹn duyên tình. Nếu trái lời nguyền, không đáng làm người, mà phải vùi lấp nơi ngòi rãnh. 

 Quý Nhi thấy Dượng Đế thề, vội vàng xuống ngựa, quỳ trên mặt đường. Dượng Đế thề xong cũng ngửa mặt lên trời tiếp: 

 - Kính lạy hoàng thiên, kiếp sau Chu Quý Nhi này mà không cùng chăn gối với Hoàng đế Đại Tùy, thì xin nguyện thân này giữ phận cô độc, không còn thấy được mặt trời. 

 Dượng Đế đưa tay kéo Quý Nhi lên ngựa, Quý Nhi vừa ngồi lên yên, thì thấy Dã Nhi phi ngựa đến tâu: 

 - Hoàng hậu đã về cung từ lâu. Các phu nhân cũng đang chờ bệ hạ ở viện Cảnh Minh. 

 Dượng Đế đáp: 

 - Hoàng hậu vì cớ gì mà đã về cung rồi? 

 Dã Nhi thưa: 

 - Bệ hạ cứ về sẽ thấy! 

 Về đến viện Cảnh Minh, các phu nhân thưa: 

 - Vì sao bệ hạ về chậm thế? Vừa rồi chúng thiếp cùng hoàng hậu mới về đến đây, cùng kéo tới Vạn Hoa lâu chờ bệ hạ để dự yến tiệc không ngờ có một trận cuồng phong thổi bay cả cửa cả rèm, làm tất cả đèn nến đều tắt, lại vẫn chẳng thấy bệ hạ về, càng lo sợ hơn, vì vậy hoàng hậu đã về cung trước, bảo chúng thiếp ở đây chờ bệ hạ. 

 Dượng Đế nghe thế, cũng thấy làm kỳ lạ, trong lòng cũng muốn về viện Nghênh Huy với Quý Nhi để cùng nhau dài ngắn chuyện trò, nhưng lại sợ Tiêu Hậu nghĩ ngợi này khác, nên đành phải lên xe về cung, mọi người cũng ai về viện nấy. 

 Không biết sự thể sẽ ra sao, xem hồi sau sẽ rõ. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Ba Mươi Sáu

Quan Văn điện, Ngu Thế Nam thảo chiếu,

 Ái Liên đình, Viên Bảo Nhi khinh sinh.

 Từ rằng: 

 Hứng thú chưa nguôi tình chưa mỏi 

 Sớm nghe ra lòng bồi hồi 

 Ngàn vui trăm thích chuyện loanh quanh 

 Muốn khoe vẻ tài tử 

 Cắn bút bài chưa thành 

 Đáng khen họ Ngu nguồn văn mạnh 

 Liếc nhìn người đẹp ngâm nga 

 Cớ sao hồ nước đành gieo mình? 

 Thấy cảnh lòng tan nát 

 Dứt thịt gọi "ái khanh!” . 

 Theo điệu "Lâm giang sơn" 

 Dượng Đế vốn rất hiếu thắng, việc gì cũng cậy mình tài giỏi, kịp đến khi thảo chiếu chinh phạt, thì mới thấy mình Giang Lang tài tận (1). Viên Bảo Nhi tính tình ngây thơ, liền nói vài câu châm chọc, đến tai Dượng Đế, khiến Dượng Đế buồn rầu vô hạn. Thế mới biết chuyện tài tình thật giả cũng không phải dễ mà lừa dối cho được. 

 1 Giang Lang, tên thật là Giang Yêm, người thời Lương, lúc ít tuổi chăm học, thơ văn được người đời đánh giá rất cao. Về già phú quý, làm tới Quang Lộc đại phu, nhưng văn chương thì mất hết khí sắc. Người ta đồn rằng, một lần Giang nằm ngủ, thần nhân đòi mất cây bút thần, hoặc tấm lụa quý trong bụng, nên "tài tận" về già (Thành Ngữ cố sự). 

 *** 

 Lại nói, Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, sau cuộc chơi trăng, một cuộc chơi mà các đời vua chúa cũng ít đời nào có cho được như thế, trở về cung, khi trống đã điểm canh năm mới cùng Tiêu Hậu đi nghỉ, nên ngày hôm sau tới giữa trưa mới dậy. Dượng Đế vì vẫn còn hứng thú chưa hết, lại nghĩ đến những lời thề thốt nhỏ tovới Quý Nhi trên yên ngựa, nhớ lại cảnh trăng khuya trong sáng, tình thật khó quên, chỉ giận trước kia đối với Quý Nhi chưa thật hậu tình, định ngày mai gọi Quý Nhi vào cung, cùng nhau trò chuyện, nhưng lại nghĩ: "Hôm nay, hoàng hậu có lẽ không sang Tây Uyển, chi bằng sang viện Nghênh Huy, thân thiết riêng với Quý Nhi một phen". 

 Toan tính xong xuôi lại thấy một người nội giám vào tâu: 

 - Sa phu nhân ở viện Bảo Lâm, tối qua vì cưỡi ngựa quá sức, trở về viện đau bụng dữ dội, sau đó đẻ non một nam nhi, nhưng không sống nổi. Nay phu nhân rất yếu, thần khí hôn mê, nên vội sai kẻ bề tôi này lại trình chúa thượng biết. 

 Dượng Đế nghe nói, dậm chân than: 

 - Tiếc thay! Thương thay! Đêm qua đáng ra không được cho Sa phu nhân đi, đó chính là lỗi ở trẫm không chu đáo. 

 Liền sai nội giám: 

 - Gọi Thái y Sào Nguyên Phương, tới ngay viện Bảo Lâm, xem mạch, bốc thuốc cho Sa phu nhân. 

 Và truyền cho nội giám ở viện Bảo Lâm: 

 - Ngươi về viện, thưa với phu nhân trẫm sẽ tới thăm ngay. 

 Tiêu Hậu nghe nói, cũng thở vắn than dài, và cho cung nữ tới hỏi thăm tin tức. 

 Dượng Đế ngự thiện buổi sáng xong, lên xe rồng định tới cung Bảo Lâm, thấy Trung thư thị lang Bùi Cử, tới dâng biểu triều cống của các nước, và thưa: 

 - Đột Quyết ở phía bắc, các nước Cao Xương ở phía tây, các tù trưởng ở vùng Sơn Khê phía nam, đều tới triều cận, duy chỉ có Vương Nguyên ở Cao Ly cậy mạnh không đến. 

 Dượng Đế nổi giận: 

 - Cao Ly tuy là nước ở góc biển, vẫn là đất phong của Cơ Tử ngày xưa, từ đời nhà Hán, đời Tấn trở lại đây, vẫn thần phục, đều là quận huyện của Trung Quốc, cớ sao bây giờ lại như vậy? 

 Bùi Cử thưa: 

 - Sở dĩ Cao Ly dám ngang ngược bởi cậy có hai mươi tư đạo, lại có ba con sông ngăn trở là Liêu Thủy, Áp Lực Giang, với Bối Thủy. Nếu muốn chinh phạt phải thủy lục cùng tiến mới xong. Hiện nay dãy Trường Thành phía bờ biển này, nghe nói đã đổ nát, mà vẫn chưa tu bổ gì được. Đường bộ thì không nói làm gì, từ Đăng Lai cho tới Bình Nhưỡng đều phải dùng dường thủy. Cho nên phải có người trí dũng kiêm toàn, mới có thể gánh vác được việc này. 

 Dượng Đế nghĩ ngợi hồi lâu, rồi sắc cho Vũ Văn Thuật đôn đốc chế tạo thuyền chiến, khí giới, phong cho làm Chinh Cao Ly tổng soái, Sơn Đông hành đài tổng quản Lai Hoạch Nhi phong làm Chinh Cao Ly phó sứ, còn các tướng khác, thì cho phép Vũ Văn Thuật, Lai Hoạch Nhi tùy tiện bổ dụng. Quan lại các cấp không được cản trở, theo đúng kỳ hạn mà làm, tùy theo công trạng mà thăng thường. Dượng Đế nhân Bùi Cử tâu việc Trường Thành sụt lở ở vùng duyên hải, liền nghĩ tới chuyện tu sửa, lại sợ đem ra đình thần bàn luận, lắm ý vào ra, liền viết luôn một đạo sắc chỉ, lệnh cho Vũ Văn Chúc làm Tu thành đô hộ, Vũ Văn Khải làm Tu thành phó sứ, phía tây từ Du Lâm, kéo mãi tới Tử Hà ở phía đông, phải bồi đắp các đoạn sụt lở lại như cũ. Sai phái xong, Bùi Cử vâng mệnh trở ra. Dượng Đế lên xe về Tây Uyển. Chưa được một dặm, đã thấy Thủ uyển thái giám Mã Thủ Trung chạy theo tâu: 

 - Đô viện Ma Thúc Mưu, hiện giờ chờ ở ngoài cửa xin được yết kiến chúa thượng. 

 Lúc này Ma Thúc Mưu đào sông đã xong, cưỡi ngựa về Đông Kinh phục chỉ. Dượng Đế nghe tâu lại phải vào điện ngồi, cho Mã Thủ Trung dẫn Ma Thúc Mưu vào. Thúc Mưu cùng thừa tướng Vũ Văn Đạt, Hàn Lâm học sĩ Ngu Thế Cơ tiến vào, Thúc Mưu lạy chào xong xuôi rồi thưa: 

 - Đường thủy đi Quảng Lăng, hạ thần đã đào xong, không rõ đến bao giờ thì bệ hạ có thể đi tuần thú phương Nam? 

 Dượng Đế hỏi chuyện dùng hết bao nhân công, sông sâu nông, rộng hẹp, dài ngắn ra sao, Ma cứ thế thuật lại tỷ mỉ. Dượng Đế vừa lòng lắm, thưởng cho rất hậu, lưu lại kinh đô để sai phái, chờ ngày tuần thú phương Nam. Vũ Văn Đạt tâu: 

 - Sông đào đã thông, bệ hạ tuần du, cần phải có mấy trăm thuyền rồng, như thế mới đúng nghi thức thiên tử, bằng đi thuyền dân chúng bình thường thì thật là bất tiện. 

 Dượng Đế đáp: 

 - Đúng lắm! 

 Vũ Văn Đạt lại thưa tiếp: 

 - Hoàng môn thị lang Vương Hoằng rất tháo vát, bệ hạ nên lệnh cho y tu tạo, nhất định sẽ vừa ý bệ hạ. 

 Dượng Đế bằng lòng, lại ban sắc chỉ, mệnh cho Vương Hoằng, ở vùng Giang Hoài, phải đóng mười chiếc thuyền rồng đệ nhất hạng, năm trăm chiếc thuyền rồng đệ nhị hạng, các loại thuyền linh tinh khác một nghìn chiếc, hạn trong bốn tháng phải xong. Ngu Thế Cơ lại thưa: 

 - Theo như ngu ý của thần, thì thuyền rồng đóng thế nào mà chẳng khác gì điện các ở trên cạn vậy. Để không thể nào gọi đó là những thuyền hình chim tu hú, thuyền hình ngỗng. Nhưng đã thế thì việc chống chèo sẽ làm thế nào? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Việc chống chèo thì phải có thủy thủ thôi! 

 Ngu Thế Cơ thưa: 

 - Cứ theo ngu ý, chẳng gì đẹp tốt hơn là bệ hạ dùng gấm của Thục chế thành buồm, rồi lại lấy tơ ngũ sắc, bện thành dây thật chắc, buộc vào cột buồm. Có gió thì cứ giương buồm gấm Tây Thục lên mà đi, không có gió thì bắt dân phu dùng dây tơ ngũ sắc mà kéo, thật chẳng khác gì tòa lầu, điện các mà lại có chân đi được. Chẳng sợ gì thời tiết, gió mưa? 

 Vũ Văn Đạt vẽ thêm: 

 - Chuyện này rất hay rồi. Nhưng sợ rằng dùng phu kéo, trông không được đẹp. Bệ hạ sao không sai người đến vùng Ngô Việt, tuyển con gái khoảng mười lăm mười sáu, chia ra thành từng nhóm, từng đội như các cung nữ. Không có gió thì cho kéo dây đỏ ngũ sắc, có gió thì cho ngồi ôm mái chèo quanh thuyền. Bệ hạ dựa lan can mà ngắm, thật thú vị biết bao! 

 Dượng Đế cả mừng, lập tức sai bọn thái giám đắc lực Cao Xương, về vùng Ngô, Việt, tuyển lấy một nghìn con gái mười lăm, mười sáu tuổi, làm đội "Điệu cước nữ" (1). Ngu Thế Cơ còn tiếp thưa: 

 1 Đội “Điệu cước nữ”: Đội con gái làm cái chân của lâu đài, điện các. Gọi cho đẹp đội phu kéo thuyền rồng con gái! 

 - Thánh chỉ chinh Liêu đã có, nay sông đào lại cũng đã xong, thuyền rồng cũng sẽ có ngay. Chi bằng nay cứ lấy danh nghĩa là chinh Liêu, còn chuyện tuần thú phương Nam làm sự thực, cũng không nói là trưng binh, chẳng cần phán là thu lương, chỉ cần ra một đạo chinh Liêu chiếu thư, bá cáo khắp thiên hạ. Nước Liêu là nước nhỏ, tự nhiên nhìn gió bay cờ mà hàng phục, trong khi đó thì bệ hạ vẫn đi tuần du Quảng Lăng. Thế có phải là lo một mà được hai việc không? 

 Dượng Đế lại càng hớn hở: 

 - Khanh nghĩ thật không chê vào đâu được? Cứ như lời khanh tâu mà làm. 

 Chúng quan lạy chào ra khỏi điện. Dượng Đế vì bàn bạc mọi chuyện, quên hẳn việc đến viện Bảo Lâm, thấy Quý Nhi cùng Bảo Nhi hai người tới. Dượng Đế hỏi: 

 - Các khanh từ đâu tới? 

 Bảo Nhi thưa: 

 - Bọn thiếp từ viện Bảo Lâm, thăm Sa phu nhân rồi tới đây. 

 Dượng Đế sực nhớ: 

 - Đúng rồi? Sức khỏe Sa phu nhân ra sao rồi! 

 Quý Nhi thưa: 

 - Sức khỏe thì thái y nói không có gì đáng ngại. Chỉ tiếc là không thể nào cứu được Thái tử. 

 Dượng Đế nói với Quý Nhi: 

 - Khanh hãy đi trước nói thay cho trẫm là, từ sáng tới giờ, trẫm phải lo thảo chiếu thư, không lúc nào rỗi, đợi công việc xong xuôi, trẫm sẽ tới thăm ngay. Nói xong, khanh lại đến đây. 

 Quý Nhi vâng mệnh trở ra. 

 Dượng Đế cùng Bảo Nhi tới Quảng Văn điện định tự tay viết chiếu thư, để khoe khoang với bề tôi. Nhưng ai ngờ muốn thì dễ, nói cũng dễ, chỉ có làm mới khó thôi. Dượng Đế cầm bút, nghĩ phải nghĩ trái, nghĩ đi nghĩ lại, nâng lên đặt xuống, mà chỉ được hai ba hàng, giơ lên xem lại, vẫn thấy không được, câu chẳng ra câu, ý chẳng ra ý, trong lòng vô cùng bực tức, đặt bút xuống, đứng dậy, đi loanh quanh một vòng, vừa đi vừa nghĩ ngợi. Bảo Nhi thấy thế khẽ cười thưa: 

 - Bệ hạ chẳng phải là từ thần, cũng chẳng phải sử quan, việc gì phải lao tâm khổ tứ đến thế? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Nếu trẫm không ngự lãm việc này, chỉ sợ rằng các quan ở Viện Hàn Lâm, chẳng người nào chân tài thực học có thể làm được. 

 Bảo Nhi thưa: 

 - Ở Viện Hàn Lâm nhất định sẽ có người biết việc thảo chiếu, viết thư, soạn sách trình bệ hạ. Nay bệ hạ chỉ cần chọn một người vốn tài cao học rộng, gọi vào điện, cho thảo thử xem sao. Nếu chưa thật vừa ý, thì sửa lại. Việc gì phải trầm tư mặc tưởng khổ sở đến thế? 

 Dượng Đế lại nghĩ ngợi một hồi rồi phán: 

 - Có đây rồi! 

 Bảo Nhi vội hỏi: 

 - Ai thế? Thưa bệ hạ! 

 Dượng Đế đáp: 

 - Anh em nhà Hàn Lâm học sĩ Ngu Thế Cơ, tên gọi là Ngu Thế Nam, hiện đang giữ chức Bí thư lang. Người này có tài học lớn, nhưng không chịu sống hòa thuận với ai bao giờ, nên đã mấy năm nay vẫn chưa được thăng thưởng gì cả. Nay có việc thảo chiếu thư này, hãy gọi vào đây, lệnh cho viết thử xem sao? 

 Liền gọi hoàng môn gấp đi tuyên triệu Ngu Thế Nam, vào ngay Quảng Văn điện nghe mệnh hoàng đế. 

 Chẳng bao lâu, hoàng môn đã đưa Ngu Thế Nam vào. Lạy chào xong, Dượng Đế phán: 

 - Gần đây Liêu Đông Cao Ly cậy xa không chịu triều cống, trẫm sẽ thân chinh thảo phạt, nhưng trước hết cần phải viết một đoạn chiếu thư, báo cáo với bốn phương. Sợ Hàn Lâm Viện thảo không xứng ý trẫm, sực nhớ ra khanh là bậc tài học uyên bác, tất có những chỗ lập luận diệu kỳ, văn từ sâu sắc, nên triệu khanh vào đây, thảo cho trầm một tờ chiếu vậy. 

 Ngu Thế Nam thưa: 

 - Tiểu thần tài sức quê mùa, may ra chỉ tả được cảnh mây, gió, trăng, hoa, chứ làm sao mà hiển dương được thánh ý! 

 Dượng Đế đáp: 

 - Khanh không phải nhún nhường quá thế! 

 Rồi sai hoàng môn, kê một án thư riêng ngay bên phải điện Quảng Văn, rèm gấm vây quanh, đem đủ giấy, mực, nghiên, bút đặt trên án thư, lại ban cho đôn gấm để ngồi. Ngu Thế Nam tạ ơn, mở giấy ngự cũng chẳng phải nghĩ ngợi gì lâu, cầm bút mà viết, chẳng khác gì rồng cuốn rắn lượn, gió quét từng đợt trên giấy, không một lúc ngừng tay, chẳng mấy chốc đã viết xong, đưa trình Dượng Đế, Dượng Đế mở ra xem, thấy viết: 

 "Đại Tùy Hoàng Đế, vì Liêu Đông Cao Ly lỗi đạo lớn tôi con, nên phải cất quân chinh phạt. Trước xuống chiếu cho bốn phương thấy rõ uy vũ của thiên triều, đức dày của thánh đế. 

 Chiếu rằng: 

 Trẫm nghe: 

 Vũ trụ không hai vùng trời đất 

 Cổ kim chỉ một đạo vua tôi 

 Hoa Di tuy cách, nhưng hoàng đế giáo hóa không phân nội ngoại 

 Phong khí dù riêng, mà thần dân tôn triều chẳng kể xa gần 

 Nếu thuận thì lấy đức mà vỗ về, ban ơn mưa móc 

 Nếu nghịch thì dùng uy mà răn đánh, nổi giận búa rìu 

 Muôn phương triều cống, Nghiêu Thuấn nhận để mừng chữ thái bình 

 Một đứa ngoan ngu. Văn Vương dùng để lo câu răn dạy. 

 Thế cho nên: 

 Cao Tông có việc đánh Phương Quỷ (1), không nề khó nhọc ba năm 

 Hoàng Đế đem quân diệt Trác Lộc (2) chẳng ngại gian nan trăm trận 

 Đánh rợ Hiểm Doãn (3) vị nguyên lão nhà Chu thành công 

 Khắc đá núi Yên Nhiên (4) tướng Phiên diệu nhà Hán đại thắng 

 Từ xưa các bậc thánh đế minh quân chưa hề có việc thôn tính Di dịch, mà luôn luôn một dạ khoan dung 

 Huống chi Liêu Đông Cao Ly vốn trong vòng Điện Bặc (5) mà sao dám: 

 Ngạo nghễ không theo, tổn thương lượng cao dày của đấng vương giả 

 Ngông nghênh quen thói, xúc phạm uy sấm sét của trời Trung Hoa. 

 Cho nên: 

 Chỉnh đốn can qua, rạng rỡ thiên triều danh phận 

 Quan minh sát phạt, răn đe ngu tối lăng loàn 

 Hổ bôn ngàn đội, xông vào tổ mối, khác nào tuốt lá khô, bóp gỗ mục 

 1 phương Quỷ: miền đất thuộc vùng Quý Châu, Thanh Hải ngày nay. Vua Cao Tông nhà Thương phải tự thân dẹp loạn ba năm. 

 2 Trác Lộc: Hoàng Đế, một trong ngũ đế của thời tối cổ ở Trung Hoa, đem quân diệt bộ lạc Trác Lộc ở phía bắc. 

 3 Hiểm Doãn: Tên gọi một dân tộc thiểu số phía bắc, đã từng bị Chu Công Đán, nguyên lão của Chu Thành Vương đánh dẹp. 

 4 Yên Nhiên: Phiêu diệu tướng quân Đậu Kiến, nhà Hán, dẹp xong Hung Nô phương Bắc, về đến núi Yên Nhiên khắc chữ vào đá núi để ghi công trạng. 

 5 Điện Bặc: Vùng đất gần kinh đô, vẫn được thiên triều giáo hóa. 

 Châu chấu một đàn, chống cự xe trời, đúng như cày vườn trống, cuốc ruộng hoang 

 Bảo cho: 

 Nếu biết mau mau đổi nết biết điều, thì cũng được nhờ ơn như Tam 

 Mêu thuở trước 

 Bỏng như ương bướng giữ bề ngoan cố, thì sẽ chịu lây tội như Lâu 

 Lan ngày xưa. 

 Thương vì: 

 Cũng thể dân đen, lẽ nào gạt ra vòng che chở 

 Đều bầy con đỏ, không nỡ lột hết manh áo quần 

 Sáu quân dậy đất, há như nghìn đội vương sư 

 Năm sắc rợp trời, cũng để hiếu sinh một cửa 

 Nộp khoản kịp thời, chuộc mình còn kịp 

 Binh hùng kéo đến, trăm miệng khôn phân 

 Sớm khá trước lo 

 Khỏi bề sau hối. 

 Nay chiếu 

 Đại nghiệp, năm thứ 8, tháng 9, ngày 22 (1) 

 1 Tức năm 613, sau công nguyên, Việt Nam lúc này cũng đang ở thời kỳ thuộc Tùy. 

 Dượng Đế xem hết, cả mừng, cười lớn: 

 - Bút chạy không lúc ngừng tay, văn chẳng hề phải chữa một chữ. Khanh thực là bậc kỳ tài. Người xưa nói: văn chương Hoa Hạ, nay thấy khanh thảo chiếu, mới thật rõ thế nào là Hoa Hạ. Lần này bình định Liêu Đông, công của khanh quả là không nhỏ. Vậy phiền khanh viết luôn cho. 

 Liền gọi thị thần đem một tờ hoàng ma, là thứ giấy quý chuyên dùng viết chiếu thư của hoàng đế, trải lên án thư. Ngu Thế Nam, không dám không tuân, lập tức cầm bút, rõ ràng từng chữ theo lối chữ khải, viết lên giấy hoàng ma. Dượng Đế thấy thế, càng thêm trân trọng nhân tài, khen ngợi mấy câu, nhưng bởi Ngu Thế Nam phải chăm chú để viết, không thể nào trình tâu ngay được. Lúc này Bảo Nhi cũng đứng hầu một bên, nên Dượng Đế định quay lại nói chuyện với Bảo Nhi, thì thấy đôi mắt Bảo Nhi tròn như hạt châu, đang như ngây như dại nhìn Ngu Thế Nam viết chữ, đến quên cả chớp mắt, Dượng Đế thấy thế bèn không lên tiếng nữa, mặc cho Bảo Nhi nhìn. 

 Có lẽ Bảo Nhi thấy lúc Dượng Đế thảo chiếu, bứt đầu vò tai khổ sở mà chữ nghĩa vẫn không ra, nay thấy Ngu Thế Nam múa bút chữ như rồng bay phượng múa, trong lòng thầm nghĩ: "Vô tài dầu có gắng sức gia công cũng chẳng nên trò gì. Thực tài thì thật là tha hồ tung hoành ngang dọc". Lại thấy Ngu Thế Nam dáng người thanh thoát, nhẹ nhàng, đến như không mang nổi áo, đúng như cổ nhân thường khen: "Nhược bất thắng y", cho nên lại càng làm Bảo Nhi thất thần. Mãi lúc sau, quay đầu nhìn lại, Dượng Đế đang chăm chú nhìn mình, như thấy rõ những ý nghĩ sâu kín ấy nên giật mình sợ hãi, mặt mày đỏ bừng, trong người bứt rứt không yên, chẳng nói nên lời, nhìn Dượng Đế. Dượng Đế cũng chẳng nói gì, chỉ lặng lẽ cười, biết rõ tính tình của Bảo Nhi lâu nay, nên Dượng Đế cũng chẳng nghi hoặc gì lắm. 

 Ngu Thế Nam viết xong chiếu, trình lên, Dượng Đế thấy nét chữ tươi đẹp rõ ràng, trong lòng mười phần hoan hỉ, gọi ngay tả hữu, rót thưởng cho ba chén rượu, lấy làm nhuận bút. Ngu Thế Nam bái nhận cạn chén, Dượng Đế hỏi: 

 - Khanh thật có tài nhả ngọc phun châu, lời lời hàng hàng uẩn súc thật đáng phục. Nhưng không biết những chuyện người đời đồn đại có đáng tin không? 

 Ngu Thế Nam thưa: 

 - Chuyện ngụ ngôn của Trang Tử, là những lời phúng thích rất đẹp đẽ nhưng đều là những điều huyễn hoặc của mồm miệng từ chương. Kẻ quân tử có tình mà chưa nói hết lẽ, cũng chưa đáng tin. Nếu được như sử ghi; kinh truyện thì tuy có kỳ quái, vẫn còn có chỗ đáng tin được. 

 Dượng Đế lại hỏi: 

 - Trẫm xem "Triệu Phi Yến truyện", nghe nói Triệu có thể đứng múa trên bàn tay người khác, lưng eo nhẹ nhàng, chưa đầy chét tay, gió thổi cũng có thể bay. Thường ngờ rằng kẻ làm văn chương có thêm bớt ít nhiều, phụ nữ trên đời này, mấy ai được như thế. Nay hãy cứ trông dáng điệu của Bảo Nhi đây, mới thấy rằng người xưa kể lại cũng không phải là chuyện hư ảo cả. 

 Ngu Thế Nam thưa : 

 - Viên Mỹ nhân có dáng dấp thế nào kia? Thưa chúa thượng! 

 Dượng Đế đáp: 

 - Bảo Nhi thì có nhiều dáng dấp ngây thơ, chả cần bàn đến cả làm gì, chỉ việc thấy khanh vung bút, đã nhìn chăm chú, mắt không muốn rời, thật là có ý khâm phục tài năng, cũng không phải là một dáng dấp đẹp hay sao. Khanh là kẻ có tài, hãy đừng phụ tấm lòng như vậy, thử làm một bài thơ về việc đó, để cho Bảo Nhi có thể cùng với Phi Yến, được truyền tụng trên đời này chăng? 

 Ngu Thế Nam nghe ra, không tiện chối từ, bước đến bên án, chẳng nghĩ gì lâu, cầm bút viết ngay bốn câu, trình lên Dượng Đế cầm xem thấy: 

 Bút hạ hoa tiên nét chửa thành 

 Vén tà áo đỏ đứng ngây nhìn 

 Bởi thế dung nhan càng yểu điệu 

 Lên điện thường theo chúa thánh minh.

 Dượng Đế xem xong thích lắm, bèn nói với Bảo Nhi: 

 - Thật là những câu thơ tuyệt tác, chẳng phụ lòng ngươi đứng ngây nhìn cảm phục. 

 Lại sai ban cho ba chén rượu, Ngu Thế Nam uống xong, từ tạ ra khỏi điện, Dượng Đế còn hứa: 

 - Khổ khanh phải hết văn đến thơ, ngày khác trẫm sẽ thăng thưởng. 

 Ngu Thế Nam lại phải tạ ơn một lần nữa. 

 Chính là: 

 Văn chương chẳng biết nơi nào bán 

 Chinh chiến mà yên đến bỏ thừa! 

 Dượng Đế thấy Ngu Thế Nam đã về, bèn đưa chiếu thư cho nội tướng, huyện lệnh cho bộ Binh đem bá cáo khắp bốn phương, để khắp miền đều biết hoàng đế sẽ ngự giá chinh phạt. Nội tướng vâng mệnh, Dượng Đế lại cầm bài thơ của Ngu Thế Nam, đưa cho Bảo Nhi: 

 - Ngu Thế Nam chỉ trong phút chốc mà làm được bài tứ tuyệt này. Vừa mẫn tiệp, vừa có ý, có tình vậy. 

 Bảo Nhi cười thưa: 

 - Nghĩa của bài thơ ra sao, tiện thiếp quả không hiểu. Nhưng trông chữ viết thì thật là hàng hàng gấm thêu. 

 Dượng Đế lại cười, khẽ nói: 

 - Ngày mai, trẫm sẽ đem khanh thưởng cho Ngu Thế Nam làm vợ bé, ý khanh ra sao? 

 Bảo Nhi thấy nói thế, vội mặt ủ mày chau, lặng yên không đáp. 

 Dượng Đế đang còn định đùa Bảo Nhi nữa, bỗng thấy phía khóm tường vi bên trái, nghe như có ai đang thổi tiêu. Dượng Đế bèn đứng dậy, lững thững ra xem sao, loanh quanh một lúc, quay lại, không thấy Bảo Nhi đâu cả, đang định cho người tìm, thì nghe ở phía Ái Liên đình phía tây, có tiếng la hét. 

 - Có người nhảy xuống hồ! 

 Nguyên do Bảo Nhi giận mình trong một lúc lỡ ý, xem Ngu Thế 

 Nam thảo chiếu, để Dượng Đế nhận ra, muốn đem Bảo Nhi tặng Ngu Thế Nam, chẳng phân biệt được lời đùa lời thật, tự giận mình, liền lặng lẽ đi ra, nhảy xuống hồ, để may ra thanh minh cho tấm lòng của mình chăng? 

 Dượng Đế đi lại phía hiên tây của ái Liên đình, thấy một nội tướng ẩm từ dưới hồ lên một cung nga, nhận ra Bảo Nhi, giật mình hoảng hốt. Bảo Nhi mặt mày nhợt nhạt, hai mắt nhắm chặt, cả người đầm đìa những nước, Dượng Đế vào đình, ngồi lên trên một bệ cao, gọi nội tướng khiêng Bảo Nhi lại, hỏi nguyên do: 

 - Có phải vừa rồi Bảo Nhi ra hồ rửa tay, hay làm gì đó, rồi trượt chân ngã xuống hồ không? 

 Một nội giám thưa: 

 - Vừa rồi kẻ hèn này ngẫu nhiên đi tới đây, thấy Viên Mỹ nhân mặt mày đẫm lệ, chạy nhanh về phía hồ, nhảy xuống rõ ràng. 

 Dượng Đế cười hỏi Bảo Nhi: 

 - Cái con bé ngớ ngẩn này, gây ra chuyện là bởi tại làm sao? 

 Rồi cùng với nội giám cởi áo ngoài ra cho Bảo Nhi, thì mới thấy cả quần áo trong đều đã ướt cả, liền sai cung nhân, mau lấy quần áo khác cho Bảo Nhi thay. Dượng Đế thấy mọi người đã đi xa, bèn hỏi tiếp: 

 - Vừa rồi trẫm chỉ mới đùa thế, sao khanh lại cho là chuyện thật. Trẫm làm sao mà thiếu khanh một giờ một khắc cho được! 

 Bảo Nhi thấy nói thế mới tấm tức khóc, thì Hán Tuấn Nga cùng Chu Quý Nhi, tay mang quần áo từ từ đi lại, vừa đi vừa cười. Tuấn Nga hỏi: 

 - Đây là vì bệ hạ cần các cô gái giặt lụa, "Hoãn sa nữ" (1) ôm đá mà gieo mình xuống sông đây mà! 

 1 Cô gái giặt lụa: Ngũ Viên chạy trốn, gặp một người con gái đập sợi ở bờ sông vắng. Hỏi xin cơm, ăn xong, bỏ đi. Được một đoạn quay nhìn, thấy người con gái ôm đá nhảy xuống sông tự tử. Vì trước khi đi, Ngũ Viên căn dặn mãi đừng nói chuyện với ai. Cô gái cho rằng mình có lỗi với chồng vì đã nói chuyện với đàn ông, lại bị Ngũ Viên nghi ngờ, nên ôm đá nhảy xuống sông tự tử (Đông Chu liệt quốc). 

 Dượng Đế đem chuyện Ngu Thế Nam thảo chiếu, cùng lời đùa của mình kể lại một lượt. Quý Nhi gật gật đầu khen: 

 - Phụ nữ phải cương quyết thế mới được. 

 Rồi cả hai thay quần áo cho Bảo Nhi, Quý Nhi thấy vạt long bào của Dượng Đế có vấy ít bùn nước, đòi đem áo khác để Dượng Đế thay, Dượng Đế không nghe mà còn nói: 

 - Trẫm phải mặc cái áo này, để biểu dương gương trinh liệt của mỹ nhân. 

 Tuấn Nga cười thưa: 

 - Bệ hạ không thể hiểu được chúng thiếp đã phải chiều chuộng con bé này thế nào. Thật là từ nhỏ đã không dám đụng đến nó, chỉ sợ rồi nó lại nổi cơn ngây dại, cho nên chẳng bao giờ dám nói nặng một lời. 

 Bảo Nhi thấy nói thế, liền cầm cái quạt ở tay Dượng Đế, đánh vào vai Tuấn Nga mà mắng: 

 - Thật là giống yêu tinh nhà chị! Tôi là con chị đấy hẳn? 

 Tuấn Nga cười đáp: 

 - Chị Quý Nhi thử xem, cái con yêu tinh này, thấy bệ hạ thương nó, nó lại thêm ngỗ ngược. 

 Rồi rũ rượi cười mãi không thôi. Dượng Đế giục: 

 - Thôi không nói đùa nữa. Các khanh hãy theo ta đến viện Bảo Lâm đi! 

 Đến viện Bảo Lâm, Dượng Đế lại trước giường, hỏi Sa phu nhân: 

 - Phu nhân, khanh thấy trong người thế nào? Đã uống thuốc chưa? 

 Sa phu nhân thưa: 

 - Tối qua thiếp du ngoạn, không ngờ xảy ra chuyện này, nghĩ là không còn được thấy chúa thượng nữa kia! 

 Dượng Đế đáp: 

 - Nếu phu nhân thấy đi lại đã khó khăn như thế, đáng ra là nên đi hương xa, thì đâu đến nỗi như thế. Đó chính là vì trẫm chưa thật chu đáo, không nghĩ đến chuyện điều độ, vừa phải cho các khanh, nên đến nỗi này! 

 Sa phu nhân đáp trong nước mắt: 

 - Cũng bởi tại tiện thiếp phúc mỏng mệnh bạc, đến nỗi không giữ trọn hậu duệ của chúa thượng. Thiếp thật đáng tội, bệ hạ nào có lỗi gì đâu? 

 Rồi lại giọt ngắn giọt dài, Dượng Đế phán: 

 - Phu nhân chẳng nên phiền não. Tần Vương Dương Hạo, hoàng hậu rất thương yêu. Triệu Vương Dương Cảo, nay đã bảy tuổi, do Lã Phi sinh ra, chẳng may Lã Phi đã qua đời. Trẫm đem Dương Cảo làm con của khanh, thế là kẻ mất mẹ nay có mẹ, người mất con nay có con. Không biết của phu nhân thế nào? 

 Quý Nhi đứng bên cạnh liền thưa: 

 - Triệu Vương cốt tướng khác thường, nếu được như vậy, thì thật là ơn sâu của bệ hạ. Sa phu nhân sao lại không mừng. Chúng thiếp rồi cũng được nhờ đội ơn sâu. 

 Sa phu nhân định trở dậy tạ ơn, Dượng Đế vội cản lại không cho. Bảo Nhi thưa: 

 - Phu nhân ngọc thể chưa an. Để chúng thiếp thay mặt lạy tạ ơn chúa thượng. 

 Các Mỹ nhân tề nhất quỳ lạy. Dượng Đế vội kéo dậy, rồi truyền: 

 - Đợi trẫm chọn ngày nhất định. Phu nhân hãy lo điều dưỡng cho chóng khỏi để rồi còn cùng trẫm tuần du Quảng Lăng nữa. 

 Bỗng thấy một nội giám, tay bưng một cái bình đẹp quỳ thưa: 

 - Tâu bệ hạ! Vương Nghĩa vừa mới nấu được cao "Vạn thọ diên niên", đến chờ ở cửa để dâng lên bệ hạ. 

 Dượng Đế cả mừng, nói: 

 - Ta đương có chuyện này định nói với y, cho gọi vào đây! 

 Vừa nói vừa đi ra phía điện, Vương Nghĩa vào quỳ lạy dưới thềm. Dượng Đế hỏi: 

 - Nhà ngươi nấu được cao gì quý vậy? 

 Vương Nghĩa thưa: 

 - Hạ thần vừa rồi nhân dịp tiết xuân, về vùng Nam Hải dâng hương. Giữa đường gặp một đạo trưởng, nói có bắt được ở trong núi một con hươu, chuyên ăn linh dược thảo, đem về nấu với nhụy của trăm hoa, thành một loại cao, uống vào có thể giữ cho khí huyết phương cương, kéo dài tuổi thọ. Hạ thần đem về, chăm chú pha chế, kính dâng bệ hạ, để tỏ chút lòng hiếu kính vậy. 

 Dượng Đế phán: 

 - Đó cũng là một việc thật đáng khen. Không lâu nữa trẫm sẽ tuần du Quảng Lăng, khanh phải thu xếp để cùng đi với trẫm. Ta ủy cho khanh coi sóc mấy chiếc thuyền rồng đệ nhất đẳng, không được sai sót. 

 Vương Nghĩa thưa: 

 - Cuộc tuần du này, nhất định hạ thần xin được theo hầu bệ hạ. Còn Khương Đình Đình xin cũng được theo hầu hoàng hậu. 

 Dượng Đế mừng nói: 

 - Ở dưới thuyền không như ở trong cung, nếu được cả hai vợ chồng khanh cùng di theo, càng thấy rõ tấm lòng hiếu thuận của khanh. Lại còn việc này nữa, đêm qua, trẫm cùng các phu nhân làm một cuộc chơi trăng, chẳng ngờ Sa phu nhân ở viện Bảo Lâm bị động thai, đẻ non mất một hoàng nam. Phu nhân đang rất đau xót. Trẫm còn thương cả Triệu Vương mất mẹ, nên đem cho làm con Sa phu nhân, cùng nương dựa lẫn nhau, khanh thấy thế nào? 

 Vương Nghĩa thưa: 

 - Hạ thần nghe Sa phu nhân vốn khoan hậu, đoan trang, Triệu Vương làm con thật là hợp ý, cũng đủ thấy tấm lòng nhân đức cao cả của bệ hạ. 

 Dượng Đế phán: 

 - Đó chính là do lòng yêu con của trẫm. Nếu như khanh nói, thì bên trong đã có Sa phu nhân cùng các mỹ nhân bảo dưỡng, còn bên ngoài thì phiền khanh trông nom hộ cho, giữ chức Phó bảo. Khanh hãy vì trẫm mà khắc một cái ấn ngọc phù hình vuông, trên có mấy chữ: "Triệu Vương, Dương Cão, tứ dữ Sa Ánh Phi tử vi tự" (l). Khắc xong, khanh cứ lặng lẽ đem vào đây cho trẫm. 

 1 Triệu Vương, Dương Cảo, ban cho phi tử Sa Ánh làm con. 

 Vương Nghĩa thưa: 

 - Thần hiểu rồi! 

 Dượng Đế truyền Bảo Nhi: 

 - Hãy đem ra đây cho ta hai tấm lụa dệt bằng tơ của loại sâu lạ trên núi, ban cho Vương Nghĩa. 

 Bảo Nhi đem tới, Vương Nghĩa lạy tạ ơn rồi ra khỏi ngự uyển. 

 Chính là: 

 Tình chàng gửi lại cho nàng 

 Vì yêu nhan sắc lời vàng chẳng quên 

 Nhưng rồi cuộc thế biến thiên 

 Thị phi sau trước có bền được đâu! 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Ba Mươi Bảy

Tôn An Tổ thuyết phục Đậu Kiến Đức hết lẽ,

 Từ Mậu Công kết giao Tần Thúc Bảo buổi đầu.

 Từ rằng: 

 Vua sáng suốt hoang dâm hết mực, 

 Trời cao xanh đùa cợt đầy vơi 

 Đua nhau một điểm hùng tài 

 Mịtt mù khói bụi, sáng ngời can qua 

 Chẳng phân biệt đâu là thật mộng 

 Rối bòng bong hai giống tình hoài 

 Huệ lan thơm nức trên đời 

 Buồn vui tan hợp an bài từ lâu. 

 Theo điệu "Ô dạ đề". 

 Làm khổ trăm họ hơn cả công việc thổ mộc là việc đánh nhau giặc giã. Nó cướp đoạt tài sản, sức lực, tính mạng của dân chúng, làm cho vợ chồng, anh em, họ hàng, mỗi người một nơi, trẻ em mồ côi, đàn bà góa chồng, toàn những chuyện thương tâm, nghe ra đã thấy đỏ mắt, cay mũi. 

 *** 

 Lại nói chuyện Sa phu nhân sẩy thai, Dượng Đế đem Triệu Vương, đứa con mồ côi mẹ của mình làm con Sa phu nhân, lại sai Vương Nghĩa khắc ngọc tỷ ban cho, thêm nữa, chuyển Chu Quý Nhi sang viện Bảo Lâm, để cùng lo việc chăm sóc Triệu Vương, những mong nghĩ kế lâu dài. Nhưng có thấy đâu rằng, khắp thiên hạ, chúng dân nổi lên như ong, đến nỗi nước mất nhà tan ngay trước mất. 

 Hãy nói Vũ Văn Chúc, Vũ Văn Khải sau khi được lệnh, lập tức làm văn thư đi khắp chín châu, lấy dân phu, đòi lương tiền, chẳng kể sức dân ra sao, chỉ cốt dùng hình phạt nặng nề để đốc thúc, đến nỗi dân lành chẳng còn đường nào khác là làm giặc cướp. Những kẻ có nhà cửa, gia đình, thì luôn bị bọn tham quan ô lại, mượn gió bẻ măng làm tình làm tội, thuế má nặng nề, lao dịch khổ sở, dầu có muốn tìm chốn Đào nguyên để tránh vạ Tần cũng khó (1). 

 1 Nguồn Đào: Một người đánh cá, bơi thuyền ngược suối, thấy hai bờ toàn hoa đào, đi sâu qua hang, thấy làng xóm dân cư trù phú. Hỏi ra là dân đời Tần, trốn vào đây để tránh sự hà khắc của Tần Thủy Hoàng, rồi chẳng bao giờ ra bên ngoài nữa (Đào hoa nguyên ký) 

 Lúc này Thôi Nhượng tụ tập ở Ngõa Cương, Chu Sán ở Thành Phụ, Cao Khai Đạo chiếm Bắc Bình, Ngụy Diêu Nhi cát cứ vùng Yên, Vương Tuy Bạt xây đồn lũy ở Thượng Cốc, Lý Tử Thông giữ Đông Hải. Tiết Cử thì vùng Lũng Tây, Lương Sư Đô ở Sóc Phương, Lưu Vũ Chu cố giữ Phần Dương, Tả Hiếu Hữu thì giành vùng Tế Quận, Hách Hiếu Đức ngồi ở Bình Nguyên, Từ Nguyên Lãng xưng vua ở Lỗ Quận, Đỗ Phục Uy tại Chương Khâu, Tiêu Tiên xưng bá vùng Giang Lăng. Bọn này phần lớn cũng đều là quan quân nhà Tùy cũ, tụ tập lính tráng, dân đinh nổi dậy làm giặc cướp, chiếm giữ một vùng. Lại thêm rất nhiều lục lâm, hảo hán, những bậc hiền đức quay về ẩn dật, ngồi đợi thời, chưa xuất đầu lộ diện. 

 Lại nói chuyện Đậu Kiến Đức, đem con gái cùng đến Nhị Hiền trang ở với Đơn Hùng Tín. Thỉnh thoảng cũng có đi đây đi đó, thường thì một giờ một khắc cũng lâu quá, nhưng nếu gặp tri kỷ, thì hàng năm cũng là ngắn. Hùng Tín vẫn giao kết rộng rãi, thường có bạn bè đến chơi, rủ đi quận này phủ khác, cho nên cũng biết ngay chuyện Tần Thúc Bảo trỡ về sống cuộc đời ẩn dật, phụng dưỡng mẹ già. Biết được việc này Hùng Tín rất vừa lòng, cho nên lại càng thận trọng, chưa muốn ra mặt thi thố với đời vội, vẫn ngồi ở Nhị Hiền trang, cùng Kiến Đức luyện bàn võ nghệ. 

 Quang âm thấm thoát, Kiến Đức ở Nhị Hiền trang đã được hơn hai năm. Một hôm, Hùng Tín có việc đi khỏi trang, Kiến Đức buồn bã ra cổng trang trại lang thang đi lại, thấy dưới bóng râm của rặng liễu bên đường, năm sáu nông phu ngồi nghỉ, có người đang ăn cơm, trước mặt là một dòng suối trong suốt, một chiếc cầu nho nhỏ bắc qua, phía nam cầu là một nhà sàn chênh vênh. Kiến Đức thong thả qua cầu, đến đứng bên nhà sàn, xem mấy con trâu lội qua suối, lại nghe cả tiếng suối chảy róc rách qua những khe đá, lẫn với tiếng chim hót thật êm ả, thanh bình. Lúc này thì lòng những quên chuyện lợi danh, để vui với cây cỏ chim muông. 

 Bỗng thấy từ xa, một thanh niên cao lớn đi lại, đầu đội mũ cỏ, mình mặc áo ngắn, vai khoác tay nải, ngực rộng, lộ trần hai tay vạm vỡ. Trên đường có một con chó săn, nhận ra người ở xa tới, xông vào sủa rất hăng. Hảo hán thấy con chó hung dữ, giơ chân đá một cái, vào ngay đùi sau, chó văng ngay xuống giữa dòng suối. Mấy nông phu trông thấy, một người đứng lên la lớn. 

 - Cái con chó sói này ở đâu đến? Dám đá con chó nhà của ta xuống suối thế này? 

 Hảo hán đáp: 

 - Anh không nhìn thấy sao? Sao lại thả rông để cho chó cắn người? 

 Bác nông phu nổi giận, chạy lại, giơ tay đấm một cú. Hảo hán nhanh mắt, giơ ngay tay ra đỡ, thì đã thấy bác nông phu ngã lăn quay ra đất rồi, vội lồm cồm bò dậy, lu loa. Mấy nông phu thấy thế, xông lại, nhưng đều bị hảo hán đánh cho chẳng khác gì hoa rơi nước chảy. 

 Kiến Đức đứng xem, hiểu rõ những nông phu của trang trại Hùng Tín đều là những người chỉ biết làm lụng, bị hảo hán đánh quá rát, vội chạy qua cầu lớn tiếng: 

 - Anh kia ở đâu tới, mà dám giở thói càn rỡ ngang ngược đến thế? 

 Hảo hán nhìn kỹ Kiến Đức, rồi mừng rỡ: 

 - Thì ra là Đậu đại ca! Quả nhiên là ở đây thật? 

 Vội vàng cúi lạy, Kiến Đức hỏi ngay: 

 - Ta cứ tưởng là ai, hoá ra là Tôn hiền đệ, sao lại lạc bước tới đây? 

 Hảo hán đáp: 

 - Tiểu đệ có việc cần phải gặp đại ca, cũng may lại biết đại ca đem lệnh ái đi Phần Dương. Trước đây tiểu đệ có tới Giới Hưu tìm chẳng thấy đâu, may giữa đường gặp một người bạn họ Tề, mách bảo đại ca đang ở Nhị Hiền trang, tiểu đệ cứ tới đó tìm, thế nào cũng gặp. Vì vậy tiểu đệ tìm đến, may mắn lại gặp đại ca ở đây. 

 Vốn là hảo hán này họ Tôn, tên An Tổ, cùng quê với Kiến Đức, dạo trước An Tổ có ăn trộm một con dê, bị huyện lệnh bắt giam, đánh đập chửi mắng trăm đường, An Tổ cầm dao đâm chết huyện lệnh, chẳng ai dám đứng ra truy bắt. Từ đó mang tên hiệu Mô dương công (1), rồi lẩn trốn trong trang trại Kiến Đức, có đến hơn năm trời. Sau đó gặp chuyện vua tuyển cung nữ, mới mỗi người một nơi, cho đến tận nay. Lúc này Kiến Đức mới bảo An Tổ: 

 1 Mô dương công: ông bắt trộm dê. 

 - Kia chính là Nhị Hiền trang! 

 Rồi chỉ tay ra phía trước: 

 - Đây chính là Đơn viên ngoại! 

 Hùng Tín cưỡi một con ngựa to lớn, cùng với bốn năm người theo đang trên đường về trang trại, thấy Kiến Đức, vội nhảy xuống ngựa hỏi: 

 - Vị này là ai? 

 Kiến Đức đáp: 

 - Đây chính là người bạn cùng quê Tôn An Tổ. 

 Hùng Tín liền cùng Kiến Đức mời vào trong trang trại. An Tổ cúi chào Hùng Tín rồi thưa: 

 - An Tổ này vốn là kẻ vong mạng, từ lâu đã nghe đại danh của viên ngoại như sét đánh bên tai, nay mới được thấy mặt, thật thỏa nguyện bình sinh. 

 Hùng Tín đáp: 

 - May được tiếp quý khách, cũng thấy rõ thịnh tình vậy. 

 Rồi sai đầy tớ bày tiệc rượu. Kiến Đức hỏi An Tổ: 

 - Vừa rồi anh bạn trẻ, nói có gặp một người bạn họ Tề, biết rõ ta ở đây, là người nào vậy? 

 An Tổ đáp: 

 - Năm ngoái tiểu đệ ở Hà Nam, ngẫu nhiên trong quán rượu, gặp một người họ Tề, tên Quốc Viễn, cũng có vẻ hảo hán ngang tàng, cùng nhau trò chuyện giang hồ, hết lời ngợi ca Đơn viên ngoại trọng nghĩa khinh tài, biết chuyện đại ca, nên mới biết chỗ mà tìm đến vậy. 

 Hùng Tín hỏi: 

 - Quốc Viễn giờ hiện ở đâu? 

 An Tổ đáp: 

 - Quốc Viễn đi Tần Trung tìm một người tên là Lý Huyền Thúy nào đó. Nói những chuyện này, mới thấy Quốc Viễn quen thuộc khá nhiều các bậc anh hùng hào kiệt, nhất định anh ta mai kia sẽ làm nên sự nghiệp. 

 Hùng Tín than thở: 

 - Đường đời thế đấy! Có được mấy đám bạn bè, chẳng ẩn nhẫn được mãi, rồi cũng phải xuất đầu lộ diện thôi! 

 Tiệc rượu bày ra, mọi người ngồi vào. Kiến Đức hỏi tiếp: 

 - Anh bạn trẽ hai năm vừa qua đi những đâu? Gần đây cảnh tượng bên ngoài ra sao rồi? 

 An Tổ đáp: 

 - Đại ca ẩn ở đây không rõ cảnh thế. Bên ngoài quả không ra đất nước nữa rồi. Tiểu đệ từ biệt đại ca, đi khắp Yên cho đến Sở cho đến Tề, trăm họ bốn phương, thì triều đình làm cho vợ chẳng thấy chồng, cha chẳng thấy con, mỗi người mỗi phương, của tiền tan nát, căm giận thấu xương, chỉ giận chưa kéo nhau làm giặc được để may ra còn sống nổi. Trước mặt, các nơi đều có người chiếm giữ, có nơi là tụ mà chính là tan, có nơi tan mà chính là tụ, nhưng nhìn lại, thì cùng chỉ thấy lợi vong nghĩa, cũng là phường tửu sắc cả thôi. Nếu được bậc huynh trưởng trí dũng kiêm toàn như hai đại ca ở đây đứng ra, xướng nghĩa tập hợp mọi người, anh em bốn phương nhất định sẽ trông gió mà theo cả. 

 - Vừa rồi anh bạn trẻ, nói có gặp một người bạn họ Tề, biết rõ ta ở đây, là người nào vậy? 

 An Tổ đáp: 

 - Năm ngoái tiểu đệ ở Hà Nam, ngẫu nhiên trong quán rượu, gặp một người họ Tề, tên Quốc Viễn, cũng có vẻ hảo hán ngang tàng, cùng nhau trò chuyện giang hồ, hết lời ngợi ca Đơn viên ngoại trọng nghĩa khinh tài, biết chuyện đại ca, nên mới biết chỗ mà tìm đến vậy. 

 Hùng Tín hỏi: 

 - Quốc Viễn giờ hiện ở đâu? 

 An Tổ đáp: 

 - Quốc Viễn đi Tần Trung tìm một người tên là Lý Huyền Thúy nào đó. Nói những chuyện này, mới thấy Quốc Viễn quen thuộc khá nhiều các bậc anh hùng hào kiệt, nhất định anh ta mai kia sẽ làm nên sự nghiệp. 

 Hùng Tín than thở: 

 - Đường đời thế đấy! Có được mấy đám bạn bè, chẳng ẩn nhẫn được mãi, rồi cũng phải xuất đầu lộ diện thôi! 

 Tiệc rượu bày ra, mọi người ngồi vào. Kiến Đức hỏi tiếp: 

 - Anh bạn trẽ hai năm vừa qua đi những đâu? Gần đây cảnh tượng bên ngoài ra sao rồi? 

 An Tổ đáp: 

 - Đại ca ẩn ở đây không rõ cảnh thế. Bên ngoài quả không ra đất nước nữa rồi. Tiểu đệ từ biệt đại ca, đi khắp Yên cho đến Sở cho đến Tề, trăm họ bốn phương, thì triều đình làm cho vợ chẳng thấy chồng, cha chẳng thấy con, mỗi người mỗi phương, của tiền tan nát, căm giận thấu xương, chỉ giận chưa kéo nhau làm giặc được để may ra còn sống nổi. Trước mặt, các nơi đều có người chiếm giữ, có nơi là tụ mà chính là tan, có nơi tan mà chính là tụ, nhưng nhìn lại, thì cùng chỉ thấy lợi vong nghĩa, cũng là phường tửu sắc cả thôi. Nếu được bậc huynh trưởng trí dũng kiêm toàn như hai đại ca ở đây đứng ra, xướng nghĩa tập hợp mọi người, anh em bốn phương nhất định sẽ trông gió mà theo cả. 

 Kiến Đức nghe An Tổ nói, đưa mắt nhìn Hùng Tín mà không 

 Đáp. Hùng Tín lên tiếng: 

 - Vũ trụ thênh thang, riêng hai chúng tôi, đáng kể vào đâu. Nhưng trời sinh ra thân mình bảy thước, nhất định phải làm nên sự nghiệp oanh liệt, tung hoành một phen, thành bại cũng do mệnh trời cả chỉ khác nhau ở chỗ chữ thời mà thôi vậy. 

 An Tổ tiếp lời: 

 - Nếu được hai vị huynh trưởng cứu dân ra khỏi chốn nước lửa, ra cửa một phen. Tiểu đệ hiện có khoảng hơn nghìn người, đang đóng giữ ở Cao Kê Bạc chờ các huynh trưởng tới sẽ hành sự. 

 Kiến Đức đáp: 

 - Chỉ khoảng nghìn người thì cũng chưa phải là nhiều, đến lúc làm rồi thì sẽ phải đông hơn, kẻo rồi vua không ra vua, cướp không ra cướp, thì chi cho bằng không ra khỏi cửa còn hơn! 

 Hùng Tín đáp: 

 - Ngắm núi cao, thưởng suối trong, nói cho cùng ra cũng không phải thân phận của anh em chúng ta. Việc thành bại cũng khó mà định liệu. Đậu đại huynh đã muốn ra đi, thì đệ Hùng Tín này xin thay lo liệu công việc nhà vậy. 

 Đang chuyện trò, bỗng có người nhà đến báo tin tức xa gần, Hùng Tín nghe xong, quay lại, đập bàn mà than thở: 

 - Thật đúng là một tên vua ngu tối, đến bây giờ mà vẫn còn lo tu bổ Trường Thành, lo đem binh đi chinh phạt Cao Ly, chẳng những nhiễu nhương dân chúng, mà còn tự làm nước mất nhà tan cho mà xem. Dù có được Lai Tổng quản tài cán đến đâu chăng nữa, thì nhà lớn đã xiêu, một cây cột khôn chống đỡ. Hôm trước Từ Mậu Công đến đây, Hùng Tín đã nhờ đưa thư cho Tần Thúc Bảo. Nay mà Lai Tổng quản xuất chinh thế này, làm sao mà lại không phiền đến Thúc Bảo cho được, rồi ra Thúc Bảo cũng khó mà ngồi ngắm hoa, nghe chim hót được đâu. 

 An Tổ tiếp: 

 - Người xưa nói rất đúng: "Dẫu có trí khôn, không bằng thừa thể”. Nay mà không tìm thấy cách tung hoành, th phục nhân tâm, để đến nỗi lòng người ngày càng ly tán, tìm nơi tụ tập rồi, thì sẽ không còn đâu thời cơ. 

 Kiến Đức tiếp: 

 - Đây cũng không phải chuyện lo gần nghĩ xa. Nhưng quả là có hai việc: Ơn che chở của Đơn nhị ca thật là chu đáo, chưa phải một lúc mà bỏ ngay đất này được, hai là còn cháu gái vẫn phải nhờ cậy Đơn nhị ca, xin phiền nhị ca lo liệu giùm cho. 

 Hùng Tín đáp: 

 - Đậu đại huynh nói thế sai rồi! Đại phàm cha con anh em, dẫu có chuyện lợi danh nữa, cũng khó mà có thể ngăn cách dược. Huống chi chuyện bạn bè sum họp, chia tay, lại thêm lệnh ái cùng với cháu trong nhà thân thiết quá ruột thịt, con của đại huynh cũng là con của Hùng Tín này. Đại huynh cứ đi trước, công việc thành bại ra sao, về đây đón lệnh ái cũng chưa muộn. Còn về phía Hùng Tín này, nếu có chuyện thay đổi, thì sẽ đưa lệnh ái đến tận chỗ đại huynh, xin cứ yên lòng. 

 Kiến Đức nghe nói thế, cũng ứa nước mắt, nghẹn ngào nói: 

 - Nếu được như vậy, cha con Kiến Đức này xin ghi xương khắc cốt vậy! 

 Chí đã quyết, Kiến Đức thu thập hành lý, dặn dò con gái, cùng với Hùng Tín say sưa chuyện trò suốt đêm. Sáng ngày ra, Hùng Tín lấy hai gói bạc, một gói năm mươi lạng, giao tặng Kiến Đức, một gói hai mươi lạng, đưa tiễn An Tổ. Cả hai từ tạ lên đường. 

 Chính là: 

 Lòng dạ anh hùng sáng tựa sao 

 Gặp nhau bèo nước chẳng rời đâu 

 Những phường xảo quyệt, vô nhân nghĩa 

 Chẳng thể giao du đến bạc đầu. 

 *** 

 Nay lại nói tiếp chuyện Tần Thúc Bảo, từ ngày bị Ma Thúc Mưu đuổi về, chuyển ra ở ngoài thành Tế Châu, ngày ngày tưới hoa trồng trúc, sống trong cảnh thanh nhàn, thấm thoát đã hơn một năm trôi qua. Một hôm đang lững thững dạo chơi phía ngoài vườn, dưới gốc một cây du lớn, đưa mắt nhìn ra phía bãi trước thấy một hảo hán dung mạo khôi ngô, dáng vẻ đàng hoàng, dắt một con ngựa, đội một chiếc nón lá đi về phía Thúc Bảo lễ phép hỏi: 

 - Xin chỉ giùm tiểu đệ Tần gia trang đi lối nào? 

 Thúc Bảo bèn hỏi: 

 - Hiền đệ người ở đâu đến? Tìm Tần gia trang có việc gì? 

 Hảo hán đáp: 

 - Tiểu đệ là người nhà của Đơn viên ngoại ở Lộ Châu, được sai đem thư đến Tần Thúc Bảo ở Tế Châu, hỏi thăm đều được chỉ đã dọn nhà ra vùng này. 

 Thúc Bảo vội nói: 

 - Hiền đệ định tìm Thúc Bảo, thì chính là tiểu đệ rồi vậy! 

 Rồi cùng hảo hán dắt ngựa vào nhà. Hảo hán cởi nón lá, xốc lại quần áo. Thúc Bảo cũng vuốt lại áo ngoài, cùng nhau làm lễ lạy chào. Hảo hán lấy thư đưa. Thúc Bảo mở ra xem, thì đúng là thư của Hùng Tín, lâu ngày cách mặt, biết chuyện Thúc Bảo rời khỏi Thư Dương về quê nên viết thư hỏi thăm tin tức. Cuối thư lại giới thiệu hảo hán cầm thư, là Từ Thế Tích, tự Mậu Công, người vùng Ly Hồ, gần đây cũng là bạn "bát bái chi giao" của Hùng Tín, nhân Mậu Công đến Hoài Thượng thăm người thân, nên Hùng Tín nhờ đến thăm Thúc Bảo. Thúc Bảo xem xong, nói: 

 - Hiền đệ đã là bạn bè của Đơn nhị ca, thì cũng chính là bạn của Thúc Bảo này vậy. 

 Liền sai bày bàn, thắp hương, làm lễ kết giao huynh đệ, thề cùng sống chết. Sau đó dọn tiệc rượu cùng ngồi. Hào kiệt gặp hào kiệt, chuyện lập tức thân mật đầy vẻ thân thiết. Thúc Bảo rất mừng, mấy lần sai lấy thêm rượu, thức nhắm. Lúc to, lúc nhỏ, cùng nhau bàn chuyện người đời, thế sự. 

 Rượu đã ngà say, Thúc Bảo vốn có ý ngại Mậu Công tuổi còn ít, giao du chưa nhiều, hiểu chưa rộng nên hỏi thêm: 

 - Mậu Công hiền đệ, hiền đệ ở chỗ Đơn nhị ca lại đây, có thấy bậc anh hùng nào đến Nhị Hiền trang không? 

 Mậu Công đáp: 

 - Tiểu đệ tuổi chưa nhiều, nhưng cũng đã thấy lắm sự đời, nghe lắm tình người. Chúa thượng thì đến cha đến anh cũng giết, đạo lớn chẳng vững, nói gì đến chuyện tu dưỡng luân thường, thi hành nhân nghĩa mà chỉ chú trọng những việc thổ mộc, xây đắp Đông Kinh, đào sông khơi ngòi. Từ Trường An cho chí Dư Hàng, đất trời như đảo lộn, dân chúng đói rách, từ hàng dặm lũ lượt kéo tới để phu dịch, năm này chất năm khác, dẫu có về được thì vườn cũ, ruộng xưa đã hoang tàn, còn sức lực đâu mà khai phá, chỉ còn cách tụ tập nhau ở hang núi, cùng nhau làm giặc. Chúa thượng ngày càng hoang dâm xa xỉ, ngày hôm nay thì từ Đông Kinh ngự chơi Giang Đô, ngày mai lại từ Giang Đô ngự về Đông Kinh. Lại còn muốn tu bổ Trường Thành, ngự du Hà Bắc, chẳng lúc nào xa giá chịu yên, việc cung đốn, thiên hạ làm sao chịu nổi. Bọn gian thần, sớm tối còn ngang ngược trăm phần, đón ý vua để làm điều ác nghiệt. Chẳng cần đến bốn năm năm nữa, chín châu sẽ đại loạn, chính vì vậy mà tiểu đệ cũng muốn tìm cách kết giao với các bậc hảo hán, tìm cho kỳ được minh chủ. Cứ như con mắt của tiểu đệ thì các bậc như Đơn nhị ca, Vương Bá Đương, đều có thể là những vị tướng giỏi. Nhưng nếu nói tới việc bàn mưu tính kế nơi màn trướng, quyết thắng ngoài nghìn dặm, thì sợ chưa đủ tài. Còn ngoài ra thì không thiếu hạng ếch ngồi đáy giếng, chứ bậc minh quân thì quả là tiểu đệ chưa từng được gặp vậy. Kẻ này người khác, nhân thời mà chiếm cứ nơi nọ chỗ kia, nhưng sợ rồi đến cái đầu mình cũng chẳng giữ nổi. Đáng buồn thay, bậc minh quân vẫn chẳng thấy đâu! 

 Thúc Bảo nói: 

 - Hiền đệ đã gặp Lý Huyền Thúy chưa? 

 Mậu Công đáp: 

 - Tiểu đệ cũng đã gặp. Huyền Thúy rõ là kẻ hơn người, nhiều thông minh tài chí, lại dũng lược, biết lấy lễ mà kết giao với bậc hào kiệt, thật đáng là bậc anh hùng đời này. Nhưng thực ra thì quá ỷ vào tài năng của mình, không tin kẻ khác. Mà theo ý của tiểu đệ một vị minh chủ mở nước, khó không phải ở chỗ hạ mình để chiêu nạp nhân tài mà cái chính là ở chỗ biết dùng họ, biết quý cái mưu lược, tính toán của kẻ khác, chứ không phải chỉ khư khư ở tài chí của mình. 

 Cho nên nếu đặt ở ngôi chân chúa, thì Huyền Thúy sợ rằng cũng chưa xứng, Đại huynh có thấy thế chăng? 

 Thúc Bảo vẫn hỏi: 

 - Cứ như hiền đệ nói, thì tài năng của bậc tướng quân, thì xứng đáng hơn cả có lẽ là bạn thân của tiểu đệ: Trình Tri Tiết ở Đông A, vừa khỏe mạnh, vừa dũng cảm. Trước đây, Lý Dược Sư có nói chuyện với tiểu đệ: "Vượng khí hiện rõ ở vùng Thái Nguyên". Nên Dược Sư cũng đang ở vùng này tìm kiếm. Còn như tiểu đệ với hiền đệ thì thuộc loại người nào? 

 Mậu Công cười đáp: 

 - Thì cũng chỉ là bậc hào kiệt một thời. Ra trận giữ thành, chiếm đất, tiểu đệ không theo được đại huynh. Tính kế bày mưu, đại huynh lại không bằng tiểu đệ. Nhưng đều là những kẻ phò tá chân chúa, lập công một thuở, nên đều phải tìm chân chúa mà thờ. Chứ không thể có tài năng đứng đầu vậy. 

 Thúc Bảo tiếp: 

 - Người tài trong thiên hạ nhiều lắm, nhưng cứ như lời hiền đệ, thì chỉ có vậy thôi à? 

 Mậu Công đáp: 

 - Đúng là hào kiệt trên đời nhiều thật, tầm mắt chúng ta có hạn, nên phải còn xem xét thêm nhiều. Nhưng nếu bàn tới bậc tướng sĩ thì vẫn còn có thể trông cậy vào lớp trẻ phía sau. Mới rồi tiểu đệ có thấy một trong những người này; không biết đại huynh có biết không? 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Người nào thế? 

 Mậu Công đáp: 

 - Trên đường tìm đến đây, tiểu đệ qua thôn trước mặt, gặp lúc hai con trâu đang húc nhau, chắn ngay giữa đường. Tiểu đệ bèn dừng ngựa bên cạnh đứng nhìn, thấy có một đứa trẻ, bất quá mười tuổi, chạy đến gào lớn: "Đồ súc sinh, không được húc nhau, mau mỗi con mỗi ngả ngay!". Hai con trâu vẫn không chịu nghe, bốn sừng vẫn như quấn lấy nhau, đứa trẻ liền nạt tiếp: "Ra ngay!". Rồi mỗi tay túm sừng một con, hai chân xoãi rộng. Lập tức mỗi con một phía. Đứa trẻ liền nhảy lên lưng một con, thổi sáo đi mất. Tiểu đệ đang định hỏi họ tên, thì thấy phía sau có một đứa trẻ khác chạy tới gọi: "Anh họ La kia ơi! Làm sao mà sừng trâu nhà em gãy mất một nửa thế này?" Vì vậy tiểu đệ biết được đứa trẻ này họ La, chăn trâu ở đây, nên nhà có lẽ cũng chẳng xa đâu. Nó đã có sức lực như vậy, nếu có người bảo ban võ nghệ, nhất định sẽ trở thành một võ tướng tài năng. 

 Đâu chẳng có người tài, 

 Chưa biết nhau đấy thôi 

 Đánh thành rồi cướp trại 

 Lưới thỏ dễ tìm tòi. 

 Hai người tâm đầu ý hợp, cầm tay dài ngắn trò chuyện suốt ba ngày trời, Mậu Công vì đã quyết ý đến Ngõa Cương xem Địch Nhượng động tĩnh ra sao. Thúc Bảo bèn sắm quà hậu đưa tiễn, viết thư phúc đáp Đơn Hừng Tín, thêm một thư nhờ Hùng Tín chuyển cho Ngụy Trưng. Nâng chén từ biệt, cả hai ân cần dặn dò, nếu gặp được minh chủ, tiến dẫn lẫn nhau, để cùng lập nghiệp. 

 Thúc Bảo đưa tiễn xong, lững thững quay về, thấy từ ven rừng tiếng la hét ồn ào, một toán trẻ con có đứa mười bảy, mười tám, cũng có đứa khoảng mười lăm, mười sáu, mười hai, mười ba, kể cả có đến ba bốn chục. Sau rốt là một đứa khoảng mười tuổi. Trên người mỗi một chiếc quần rách, mình để trần, hai tay nắm chặt, mất long lanh tròn xoe, chạy theo đuổi đánh bọn này. Bọn này có đứa lấy đất đá ném túi bụi, đứa trẻ này mặc cho đất đá trúng người, vẫn lau xả vào bọn kia. Thúc Bảo thầm nghĩ: "Đây có lẽ chính là đứa bé Mậu Công kể hôm trước chăng?". 

 Hai bên ẩu đả, một đứa trong bọn bị đuổi riết chạy về phía Thúc Bảo ngã sóng soài. Thúc Bảo đỡ dậy hỏi: 

 - Này cháu, thằng bé kia là con nhà ai mà dữ tợn thế? 

 Đứa bé ngã vừa khóc vừa nói: 

 - Đó chính là thằng ở chăn trâu cho nhà Trương Thái Công. Ngày ngày đều đóng vai tướng quân, bắt chúng cháu hầu hạ. Nó thì nằm trên bãi cỏ ngủ suốt, bắt chúng cháu thay nhau chăn trâu cho nó. Không chịu chăn thì nó đánh. Hầu hạ không vừa ý, cũng bị nó đánh. Chúng cháu đánh không lại, nhưng cũng không chịu hầu hạ nó được nên đã nhiều lần rủ nhau đánh lại nó, có cả nhiều đứa hơn nó sáu bảy tuổi, vẫn không làm gì được, nên rồi vẫn phải nghe nó sai phái. 

 Thúc Bảo nghĩ: "Mậu Công nói thằng bé họ La, đường này lại là người họ Trương. Hay lại là đứa ở chăng?". Rồi chạy lại, nắm tay thằng bé kia, bảo: 

 - Chú em hãy từ từ xem nào! 

 Thằng bé giương to hai mắt hỏi: 

 - Can hệ gì đến bác. Nó họ hàng gì với bác mà bác định giúp nó một tay chăng ? 

 Thúc Bảo nói: 

 - Ta không muốn đánh nhau với chú em đâu, mà chỉ muốn hỏi chú em vài câu thôi. 

 Thằng bé đáp: 

 - Nếu muốn nói chuyện gì, hãy đợi cháu cho thằng bé tóc vàng này một trận đã. 

 Nói rồi cố giằng tay ra kỳ được, nhưng làm sao mà thoát khỏi tay Thúc Bảo. 

 Đang giằng co, thì thấy bọn trẻ vỗ tay reo ầm: 

 - Tới rồi! Tới rồi! 

 Rồi một ông già bước tới, nắm lấy trái đào của thằng bé mà kéo. Thúc Bảo nhận ra Trương xã trưởng ở thôn trước. Trương xã trưởng lớn tiếng mắng: 

 - Bảo mày chăn trâu, trâu chẳng chăn, chỉ chuyên đánh nhau. Từ nay trở đi thì ngồi ở nhà thôi, chứ còn cứ đánh con nhà người ta thế này, ngộ nhỡ xảy chuyện gì, ta làm sao mà cáng đáng nổi? 

 Thúc Bảo lên tiếng khuyên giải: 

 - Xin thái công nguôi giận, đây liệu có phải lệnh tôn chăng? 

 Trương xã trưởng đáp: 

 - Chúng tôi nào có con cháu thế này. Đây chính là con ông láng giềng La Đại Đức, vợ con đều chết, chỉ còn mỗi thằng này. Đại Đức bị bắt đi đào sông, đem thằng này nhờ lão cai quản hộ. Cơm nước nuôi trong nhà, rồi ngày ngày chăn trâu. Gần đây nghe nói Đại Đức đã chết ở chỗ đào sông, lão đành phải nuôi thằng báo hại này vậy. 

 Thúc Bảo nói: 

 - Chuyện này không có gì đáng ngại. Thái công cứ để thằng bé này cho Tần Thúc Bảo, tiền thuê đã trả bao nhiêu, xin trả lại đủ cho thái công. 

 Trương xã trưởng đáp: 

 - Cũng chẳng có thiếu đồng xu nào đâu. Tần đại ca đã muốn nuôi, thì xin cứ nhận cho. Nhưng mai kia có xảy ra chuyện gì, xin nhớ kỹ cho là lão đây không có tội lỗi đâu nhé. 

 Thúc Bảo cười: 

 - Chuyện này thì thái công đừng ngại. Nhưng không biết chú em có bằng lòng không? 

 Thằng bé họ La quay lại hỏi Trương xã trưởng: 

 - Thái công định giao cháu cho người này sao, làm sao mà đi với người không quen biết gì cả cho được? 

 Trương xã trưởng quát: 

 - Cai quản mày không được, lão chỉ ôm lấy bực mình suốt ngày này sang ngày khác. 

 Nói xong bỏ đi, Thúc Bảo nhỏ to: 

 - Chú em đừng lo lắng gì cả. Ta là Tần Thúc Bảo, trong nhà không có anh em, chỉ có mẹ già cùng vợ, một con trai nhỏ, nên cũng muốn kết anh em với chú, cứ về nhà ta rồi sẽ xong cả thôi. 

 Họ La bỗng sáng mắt nói: 

 - Bác chính là Tần Thức Bảo sao. Cháu là La Sĩ Tín, ngày thường cháu vẫn nghe người trong thôn nói bác bỏ quan về ở đây, lại kể bác rất giỏi võ nghệ, dùng thương, múa giản rất điêu luyện. Nếu được bác thương đến cảnh bố mẹ mất, anh em không mà bảo ban cho, đừng nói tới việc kết giao anh em khác họ, mà dẫu có làm tôi tớ, cháu cũng tình nguyện theo ngay. 

 Rồi định cúi lạy, Thúc Bảo vội giơ tay cản lại: 

 - Đừng chào lạy vội, hãy chờ về nhà, trước tiên hãy gặp mẫu thân, rồi sauẽ làm lễ kết giao cũng chưa muộn. 

 Thúc Bảo đưa Sĩ Tín về nhà, trình mẫu thân, rồi sai Trương Thị tìm một bộ quần áo ngắn cho Sĩ Tín mặc. Sĩ Tín lạy chào Tần mẫu, thưa: 

 - Cháu lúc nhỏ cũng chẳng có mẹ, nay được có lão mẫu đây, thật là mẹ của cháu vậy. 

 Rồi đốt nến thắp hương, làm lễ kết nghĩa, bái lạy tám lạy, để rồi từ lúc ấy gọi Tần mẫu là mẫu thân. Sau nữa cùng Thúc Bảo, mỗi người vái bốn vái, nhận nhau là anh em, xưng là đại huynh, tiểu đệ. Cuối cùng, lạy chào Trương thị, nhận làm chị dâu, Trương thị cũng coi như em trai vậy. 

 Đại phàm sức lực, khí huyết người ta, khi không có chỗ dùng, thường phải tìm những việc bậy bạ để khuây khỏa, phát tiết. Nay có chỗ thi thố, thì chuyên tâm gắng sức làm cho tốt, nên bao tính cách ngang ngược đều như mất đâu cả. Người ta không gặp kẻ bảo ban dạy dỗ, thì rồi cũng đến uổng phí cả năng lực, nay như thép gặp lò, khi gặp thầy dạy giỏi, tự nhiên thuần phục, chịu cho sai bảo, vì vậy từ một La Sĩ Tín ngang dọc, biến thành một người nền nếp, chăm chỉ. Thúc Bảo ngày ngày dạy cho võ nghệ, sớm tối rèn luyện, mỗi giờ mỗi hơn. 

 Một hôm Thúc Bảo cùng Sĩ Tín đang tập luyện trên sân, thấy một kỳ bài quan, cưỡi ngựa, mình ngựa còn đầm đìa mồ hôi, tới gần, lên tiếng hỏi: 

 - Đây có phải là Tần gia trang chăng? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Đại nhân hỏi Tần Thúc Bảo chăng? 

 Kỳ bài quan đáp: 

 - Đúng, cần gặp Tần Thúc Bảo! 

 Thúc Bảo nhận: 

 - Thúc Bảo chính là tiểu nhân đây! 

 Rồi bảo Sĩ Tín dắt ngựa, mời vào nhà. Kỳ bài quan vái chào xong, lên tiếng: 

 - Vâng lệnh của Hải đạo đại nguyên soái, đem theo tướng lệnh, đến mời tướng quân làm tiền bộ tiên phong. 

 Thúc Bảo không cầm tướng lệnh, chỉ đáp: 

 - Tiểu nhân cũng vì có mẹ già tuổi cao, nhiều bệnh, nên về ẩn ở đây không ra nhận quan chức đã lâu. Ngày ngày cày cuốc, gân sức hao mòn, sao có thể gánh vác được trọng trách này. 

 Kỳ bài quan nói: 

 - Tướng quân không nên chối từ. Trọng trách này bao nhiêu người ước mơ mà không được, chẳng nói đến chuyện thê phong tử ấm, chỉ nói tới chuyện lương tiền, lộ phí cũng đủ để cả nhà phú quý. Tướng quân lại càng không nên phụ tình sâu nghĩa nặng của Lai Nguyên soái, ngu ý của hạ quan này là thế. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Quả thật là mẹ già tuổi cao sức yếu! 

 Rồi dọn cơm rượu thết đãi kỳ bài quan, lại đưa tặng hai mươi lạng bạc làm tiền lộ phí, viết thêm một lá thư, nhờ kỳ bài quan nói thêm ít nhiều. Kỳ bài quan thấy Thúc Bảo kiên quyết, đành lên ngựa ra đi. 

 Vốn là Lai Tổng quản sau khi nhận được sắc chỉ của vua Tùy, liền nghĩ: "Từ Đăng Lai tới Bình Nhưỡng, cả đường thủy lẫn đường bộ, dẹp cướp chống giặc, nhất định phải có được một võ tướng hơn người. Tần Quỳnh vốn có sức khỏe vạn người khôn địch, cử làm tiền bộ, thì chẳng còn điều gì đáng phải lo ngại". Liền sai kỳ bài quan đi mời, không ngờ thấy kỳ bài quan về thưa: 

 - Tần Quỳnh viện cớ mẫu thân bệnh tật già nua không chịu nhận chức, xin về trình nguyên soái rõ. 

 Lai Tổng quản xem thư xong liền nói: 

 - Tần Quỳnh chỉ vịn chuyện mẹ già, không chịu nhận chức, nhưng từ xưa muốn có trung thần, phải cầu ở cửa nhà con hiếu. Tần Quỳnh đã không phụ mẹ già, há lại có thể phụ chủ hay sao. Huống chi ta hiện nay đang không thiếu dưới trướng một người như Tần Quỳnh được. 

 Lai Tổng quản lại nghĩ thầm: "Ta đã có cách này!" Liền viết một phong thư, nói với kỳ bài quan: 

 - Ta sai ngươi đến phủ Trương Quận thừa ở Tế Châu, nhờ đến khuyên Tần Quỳnh nhận chức mới xong. 

 Kỳ bài quan lại lên ngựa, đến Tế Châu vào phủ Trương Quận thừa. 

 Viên Quận thừa này vốn họ Trương, tên Tu Đà, là người trung hậu, văn võ toàn tài, có lòng thương dân, kính trọng hiền tài, xứng đáng là bậc hào kiệt trong đời. Xem xong thư của Lai Tổng quản. Tu Đà lại hỏi kỹ thêm mọi chuyện qua kỳ bài quan, từ lâu đã nghe tiếng Thúc Bảo là bậc anh hùng, nay thấy Thúc Bảo lại giữ ý không chịu nhận chức, thấy rõ Thúc Bảo không những có tài, mà còn có phẩm cách hơn người. Liền sai đem ngựa, tìm đến Tần gia trang ngay. Được người nhà báo cho biết Trương Quận thừa tới thăm, Thúc Bảo cũng vì thấy đây là quan bản quận, không tiện gặp mặt, cho nên sai nói thác là không có nhà. Trương Quận thừa liễn xin gặp Tần mẫu, Tần mẫu đành phải ra tiếp. Sau khi chào lễ, Trương Quận thừa lên tiếng: 

 - Lệnh lang vốn dòng dõi tướng môn, anh hùng hơn người. Nay quốc gia hữu sự, là lúc kiến công lập nghiệp, sao lại chối từ không nhận chức? 

 Tân mẫu đáp: 

 - Cháu nhà chỉ sợ mẹ già bóng xế cành dâu. Trong người cháu lại cũng có bệnh, nên không dám mãi theo đòi việc quân. 

 Trương Quận thừa cười: 

 - Phu nhân tuy tuổi cao, nhưng tinh thần vẫn sáng suốt, hà tất quá quyến luyến. Còn như bệnh tật, thì làm kẻ trượng phu, nên chọn cách chết da ngựa bọc thây, chẳng hơn là nằm trên giường bệnh, trong vòng tay đàn bà hay sao. Phu nhân chẳng nghĩ đến tấm gương mẫu thân Vương Lăng sao? (1) Nếu phu nhân đã dạy, thì lệnh lang thế nào chẳng phải nghe. Ngày mai, hạ quan lại sẽ xin đến gặp vậy! 

 1 Vương Lăng thờ Lưu Bang, mẹ Vương mẫu bị Hạng Võ bắt. Lăng đi sứ sang Hạng Võ. Hạng Võ bắt Vương mẫu dụ con theo mình, Vương mẫu ngầm dặn con phải tận tụy thờ Lưu Bang, rồi cầm kiếm đâm cổ chết, để con khỏi do dự. Về sau Vương Lăng làm đến tả thừa tướng đời Hán (Từ Hải). 

 Nói rồi đứng dậy ra về. 

 Tần mẫu liền nói với Thúc Bảo: 

 - Khó mà không nghe Trương Quận thừa cho được, con lại phải đi một chuyến thôi. Chỉ nhờ trời phù hộ, công thành danh toại, rồi lại được về sum họp với gia quyến! 

 Thúc Bảo vẫn trù trừ không quyết, Sĩ Tín liền khuyên: 

 - Chuyện bình Liêu này, với tài cán của đại huynh, nhất định sẽ thành công, công việc trong nhà đã có chị cáng đáng. Giặc cướp giờ nhiều như ong như kiến, nếu không Sĩ Tín này cũng xin theo giúp đại huynh một phen, nhưng cũng xin ở nhà, trông coi cửa ngoài, bọn trộm cướp tất không dám bén mảng đâu! 

 Ba người bàn định xong xuôi, ngày hôm sau, Thúc Bảo lại sợ Trương Quận thừa lại đến, thì thật khó nói, nên vội vào thành, nai nịt gọn gàng, vào phủ gặp Trương Quận thừa. Quận thừa cả mừng, gọi kỳ bài quan, đem tướng lệnh giao ngay cho Thúc Bảo. Quận thừa lại sai mang ra hai gói bạc lớn: một gói để Thúc Bảo làm lộ phí lên đường, một gói để Thúc Bảo phụng dưỡng mẹ già. Thúc Bảo không dm chối từ, xin cáo biệt ra về. Quận thừa còn cầm tay căn dặn. 

 - Với tài năng của hiền huynh, lần này nhất định "Mã đáo công thành". Binh tướng Cao Ly tuy ít, nhưng hay dối trá, nên phải chia quân ra mà đóng giữ. Đường ven biển binh tướng càng ít hơn, hiền huynh lại đi tiền bộ, nhớ đừng giao chiến ở vùng sông Liêu Thủy, áp Lục Giang. Duy chỉ có sông Bối Thủy, cách Bình Nhưỡng không xa, vốn là quốc đô của Cao Ly, phải nhân lúc không phòng bị mà đánh thẳng vào. Lúc này địch có quay về, thì cả hai cánh thủy bộ cùng hiệp lực nhất định sẽ thắng. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Những lời chỉ giáo sáng suốt của đại nhân, xin nhớ kỹ? 

 Rồi cảm tạ ra khỏi phủ, về sắp xếp việc nhà, chuẩn bị hành trang, cùng kỳ bài quan lên đường. Sĩ Tín tiễn đến hai ba dặm đường, căn dặn đủ điều, kẻ đi người ở rồi mới quay về. 

 Thúc Bảo cùng kỳ bài quan, đi suốt ngày đêm, tới tận Đăng Châu, vào soái phủ ra mắt, Lai Tổng quản cả mừng, liền giao cho Thúc Bảo hai vạn thủy quân, thuyền thanh long, hoàng long mỗi loại trăm chiếc. Chỉ chờ có tin tức đưa về của Tả Vũ vệ tướng quân Chu Pháp Thượng, xem vua Tùy đã ra khỏi kinh đô, là lập tức xuất quân. 

 Chính là: 

 Cờ bay rợp biển oai ghê nhỉ, 

 Buồm gióng Cao Ly thế dữ chưa? 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Ba Mươi Tám

Dương Nghĩa Thần ra quân phá giặc cỏ,

 Vương Bá Đương dùng mẹo cứu bạn hiền.

 Từ rằng: 

 Ấy việc đời như hơi bong bóng 

 Bọn ngu si lên giọng ta đây 

 Gươm đao chật đất đùn mây 

 Rắn rồng vật lộn, lang sài cắn nhau 

 Rồi gió thảm mưa sầu cũng hết 

 Ngẫm nguồn cơn coi chết như về 

 Còn ra cái xác con ve 

 Vợ chồng nam bắc lỗi bề keo sơn 

 Góc trời bể lần khân đắm đuối 

 Để cái danh làm lụy cái thân 

 Mày chau một chén rượu tàn 

 Mưu càng sâu, nỗi oán hờn càng to 

 Hạc kêu vượn hú mà lo. 

 Theo điệu "ý nan vong” 

 Người ta sinh ra gặp buổi thái bình, kẻ có gia tư sản nghiệp, đều nghĩ tới chuyện vui thú ruộng vườn, bậc anh hùng hào kiệt, nếu chẳng có chỗ thi thố tài năng, cũng chỉ đành nhìn trời mà than dài. Gặp buổi ly loạn, người người đều nghĩ mình đáng tài võ tướng, xứng mưu Gia Cát Khổng Minh. Có biết đâu chân ít giả nhiều, để rồi bỏ thân nơi đất khách, làm trò cười cho người đời. Bởi vậy chính kẻ biết thời, hiểu mình mới xứng tài tuấn kiệt. Nhưng nào đã mấy ai? 

 *** 

 Chưa nói chuyện Tần Thúc Bảo ở Đăng Châu rèn luyện thủy quân, chỉ chờ Dượng Đế rời đô là xuất binh chinh phạt Liêu Đông, hãy nói chuyện Dượng Đế, một hôm ngồi vui tiệc với Tiêu Hậu, nói: 

 - Vương Hoằng đóng thuyền rồng, tưởng cũng sắp xong. Bộ công lo việc may buồm gấm, bện dây lụa ngũ sắc cũng đã đầy đủ. Chỉ còn việc tuyển đội "Điện cước nữ" của Cao Xương là chưa biết đến đâu rồi. 

 Tiêu Hậu bàn: 

 - "Điện cước nữ” nghe tên thì có vẻ đẹp, nhưng thiếp sợ sức lực con gái yếu đuối, thuyền rồng vừa lớn vừa nặng, dẫu có hàng trăm cô gái nữa, liệu có kéo nổi. Bằng không phải cho cả nội thị giúp vào, mới có thể xong việc. 

 Dượng Đế đáp: 

 - Dùng con gái kéo thuyền rõ ràng là rất đẹp. Nếu thêm cả nội thị vào, sợ không giữ được vẻ tự nhiên nữa. 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Nhưng nếu chỉ dùng toàn con gái, thuyền khó mà chạy nhanh cho được. 

 Dượng Đế hỏi: 

 - Như thế thì làm thế nào bây giờ? 

 Tiêu Hậu ngừng chén, nghĩ ngợi một hồi rồi thưa: 

 - Người xưa dùng dê kéo xe ngự, trông cũng rất tao nhã. Nay ta hãy chọn lấy khoảng một nghìn con dê to khỏe, có thể kéo được mười chiếc thuyền rồng. Cũng như kéo xe ngự vậy thôi, rất thanh tao, cứ xen lẫn giữa người với dê lại càng ngoạn mục. 

 Dượng Đế cả mừng: 

 - Hoàng hậu thật chiều ý trẫm hết lòng. 

 Liền sai nội thị truyền dụ cho hữu ty, chọn ngay một nghìn con dê khỏe mạnh, lông mượt, dáng đẹp để chuẩn bị kéo thuyền. 

 Hoàng hậu cùng chúng phu nhân bận rộn sắp xếp cung nữ, hành trang cho cuộc ngự du Giang Đô, thì thấy trung môn sứ Đoàn Đạt đem tấu chương dâng. Dượng Đế xem qua, thì ra Tôn An Tổ cùng Đậu Kiến Đức, chiếm cứ vùng Cao Kê Bạc, dẫn quân đánh vào Trác Quận, giết chết thái thú Quách Huyến, lại liên kết với Trương Kim Xứng ở Hà Khúc, và bọn Cao Sĩ Đạt ở Thanh Hà, cả ba làm thành một thế chân vạc, tương cứu lẫn nhau, cướp bóc các quận huyện, quan binh địa phương nhiều lần đánh dẹp không nổi vì vậy phải tâu về triều đình, xin binh tiễu trừ. Dượng Đế xem xong, nổi giận: 

 - Lũ đầu trâu mặt ngựa này dám ngang ngược đến thế. Nay cần một viên quan đại tướng, kéo đến quét sạch, đem lại yên ổn cho vùng này mới xong. 

 Nhưng nghĩ mãi vẫn không biết cử ai cho xứng. Lúc này quý nhân Viên Tử Yên đứng bên cạnh thưa: 

 - Có thái bộc Dương Nghĩa Thần, nghe nói tài kiêm văn võ, không biết hiện giờ trấn thủ ở đâu? 

 Dượng Đế kinh ngạc hỏi: 

 - Quý nhân làm sao mà biết được Nghĩa Thần tài kiêm văn võ? 

 Tử Yên thưa : 

 - Thái bộc vốn là cậu của thiếp. Thiếp tuy chưa bao giờ thấy mặt, nhưng từ nhỏ đã được nghe phụ thân thiếp lúc sinh thời thường ngợi ca tài năng của thái bộc, vì vậy thiếp mới biết. 

 Dượng Đế nói: 

 - Thì ra Dương Nghĩa Thần là cậu của quý nhân. Nếu quý nhân không nhắc kịp, thì ta cũng quên mất người này. Nghĩa Thần hiện đã về chí sĩ, đúng là một người có tài. 

 Nói xong, liền viết sắc chỉ cử thái bộc Dương Nghĩa Thần làm Hành quân đô tổng quản. Chu Vũ, Hầu Kiều làm tiên phong, dẫn mười vạn tinh binh, chinh thảo giặc cỏ vùng Hà Bắc. Truyền nội quan đem sắc chỉ cho bộ Binh, bộ Lại xong, Dượng Đế nói với Tử Yên: 

 - Nghĩa Thần thuở xưa chỉ là có nghĩa quân thần, nay lại thêm quốc thích, nhất định sẽ không phụ lòng tin cậy của trẫm. Ngày khải hoàn, trẫm sẽ cho gọi vào cung, để được gặp quý nhân. 

 Từ Yên cúi đầu tạ ơn. 

 Chính là: 

 Số trời muôn dứt nhà Tùy 

 Hôn quân cố cưỡng sao đây 

 Tà nịnh cặp kè bên nách 

 Trung trinh hết cách cứu nguy. 

 Lại kể, Dương Nghĩa Thần tiếp được sắc chỉ, bèn tập họp tướng sĩ chọn ngày tốt phát binh, vài ngày sau, binh tướng đã kéo tới cửa Tề Cừ. Chỉ mới nghe trong vòng bốn mươi dặm quanh vùng này, là nơi đi về cướp bóc của Trương Kim Xứng, nên vội đồn quân đóng trại. 

 Cũng bởi chưa rõ đường đi lối về của Kim Xứng, nên nghiêm cấm quân sĩ không được tự tiện hành động, lại cho lính đi thám sát hư thực, để tìm cách đánh gọn. 

 Kim Xứng nghe tin quân triều đình đến, kéo ngay lâu la tới trước doanh trại Nghĩa Thần khiêu chiến, thấy quân sĩ cố thủ không chịu ra, nên suốt ngày cho lâu la chửi bới thậm tệ, cứ như thế kéo dài hơn một tháng, ai cũng ngờ rằng Nghĩa Thần khiếp nhược, không dám giao chiến. Nguyên là Nghĩa Thần chờ cho kẻ địch mệt mỏi, rồi mới ngầm sai Chu Vũ, Hầu Kiều hai tướng, dẫn hai nghìn kỵ binh tinh nhuệ, đang đêm vượt sông ở bến Quán Đào mai phục, chờ cho lâu la của Kim Xứng rời khỏi trại, khiêu chiến. 

 Quân Nghĩa Thần, nghe tiếng pháo hiệu, cả hai phía cùng nhất tề tấn công. Nghĩa Thần tự thân nai nịt gọn gàng, dẫn quân nghênh địch. Kim Xứng thấy quân triều đình hàng lối lộn xộn, trận pháp chẳng nghiêm, dẫn lâu la xông vào. Hai bên giao chiến, chưa được vài hợp, quân mai phục hai bên đông tây cùng kéo ra, cắt lâu la ra làm mấy mảnh, trước sau cùng đánh, Kim Xứng đại bại, một người một ngựa chạy về cửa Thành Hà, gặp ngay quận thừa Thanh Hà Dượng 

 Thiện, theo lệnh kéo quân đi bắt giặc, chém chết Kim Xứng ngay ở vùng Phần Khẩu, sai người đem thủ cấp nạp ở quận doanh Nghĩa Thần. Tàn quân của Kim Xứng ngày đêm chạy về với Kiến Đức. 

 Nghĩa Thần đem tất cả vàng bạc, của cải, trâu bò, lừa ngựa ở sào huyệt Kim Xứng thưởng cho binh lính. Những đàn bà, con gái bị bắt đều thả cho về, rồi kéo quân về phía Bình Nguyên, tiến công Cao Kê Bạc, trừ sạch dư đảng. 

 Lúc này ở Cao Kê Bạc, Kiến Đức cùng An Tổ giúp Cao Sĩ Đạt đóng giữ, biết ngay tin Nghĩa Thần phá tan bọn Kim Xứng, đang thừa thắng kéo đến, nay đang hạ trại ở Vu Thương, chỉ cách Cao Kê Bạc chưa đầy hai mươi dặm. Kiến Đức nghe tin hoảng sợ, bàn với An Tổ, Sĩ Đạt: 

 - Từ thuở ta chưa tới đây, đã nghe tiếng Nghĩa Thần là kẻ tài kiêm văn võ, dụng binh như thần, nhưng chưa từng giao chiến lần nào. Nay đã giết Kim Xứng, thừa thắng tới đây, nhuệ khí đang hăng, khó lòng địch nổi. Sĩ Đạt hiền đệ hãy tạm dẫn quân nấp kín ở vùng hiểm trở, chờ cho khí thế đối phương suy giảm ít nhiều, khoảng một vài tháng sau, lương thực cạn dần, lúc ấy hãy chia binh công kích, thì có cơ bắt được Nghĩa Thần. 

 Sĩ Đạt không nghe lời khuyên của Kiến Đức, tự coi mình là vô địch, để lại ba nghìn quân ốm yếu cho Kiến Đức coi giữ sào huyệt, rồi cùng An Tổ nhân đêm kéo một vạn lâu la đi cướp trại Nghĩa Thần. Không ngờ Nghĩa Thần đã dự tính đến mưu mô này nên điều binh ra cả bốn phía mai phục. Canh ba đêm hôm đó, Sĩ Đạt kéo quân xông thẳng vào trại Nghĩa Thần, thấy trại trống không, biết là trúng kế, đang lúc quay ra, thì pháo hiệu bốn bề nổ ran, gặp ngay tướng đi đầu của Nghĩa Thần là Đặng Hữu Kiến, bắn một phát tên. Sĩ Đạt ngã ngựa, bị Hữu Kiến chém dầu, thừa thắng bốn bên tung hoành. An Tổ thấy Sĩ Đạt đã chết, vội quay ngựa chạy, Kiến Đức lập tức kéo quân ứng cứu, nhưng thế quân triều đình quá mạnh, chẳng làm gì nổi, lâu la mười phần chết đến tám chín. Kiến Đức cùng An Tổ chỉ còn hơn hai trăm quân kỵ, nhân thấy thành Nhiêu Dương không phòng bị, liền chiếm lấy. Khoảng ba bốn ngày sau, bọn lâu la thua chạy dần dần tìm về, cũng được khoảng hơn hai nghìn, bàn nhau cách chống cự quan triều đình. Kiến Đức nói với An Tổ: 

 - Trước mắt thế quân Nghĩa Thần rất lớn, lại thêm Nghĩa Thần túc trí đa mưu, nhất thời khó mà địch nổi, tòa thành nhỏ này khó mà giữ được. 

 An Tổ hỏi: 

 - Nghĩa Thần không rút quân, chúng ta đành ngồi trong thành này chờ chết hay sao? 

 Kiến Đức đáp: 

 - Ta có một kế này: cần có một người tin cẩn, mang theo vàng ngọc, lên ngay kinh đô, hối lộ bọn gian thần, bắt chúng điều Nghĩa Thần đi chỗ khác, thì chúng ta chẳng còn gì phải sợ nữa. 

 An Tổ nói: 

 - Nếu đã như vậy, tiểu đệ xin đi một chuyến, nhưng chưa điều y đi được ngay thì sự thể sẽ ra sao? 

 Kiến Đức đáp: 

 - Không có chuyện đó. Hôn quân chỉ tin bọn gian thần. Một khi bọn này đã nắm mọi quyền hành trong triều thì kẻ trung nghĩa chẳng làm được việc gì ở ngoài biên này đâu. 

 Rồi Kiến Đức thu thập vàng ngọc, châu báu, giao cho An Tổ chọn một tên tay chân tin cẩn, cõng hành lý, từ biệt Kiến Đức, đương đêm lên đường. 

 Hôm ấy đi đến thôn Bạch Tửu, vùng Lương Quận, trời đã về chiều, chỉ sợ phía trước không còn hàng quán, lại thấy có ngay quán trọ bên đường, thầy trò liền vào, Tiểu nhị niềm nở hỏi chào: 

 - Quý khách hai vị, còn ai nữa phía sau chăng? 

 An Tổ thật thà đáp: 

 - Chúng ta chỉ có hai người thôi. 

 Tiểu nhị liền đon đả: 

 - Ở đây còn một gian lớn, chưa có khách trọ, có thể chứa được bốn năm vị, nhưng sợ còn có khách tới nữa. Phía tây kia, có một gian rất sạch sẽ, yên tĩnh, hiện đã có một vị khách ở, thêm hai vị nữa là vừa, xin để tiểu nhân dẫn quý khách vào nghỉ ngơi. 

 Nói rồi dẫn thầy trò An Tổ vào phòng phía tây, mở cửa bước vào thấy một hảo hán, nằm ngang giữa giường, ngáy như sấm. Tiểu nhị nói: 

 - Quý khách chẳng qua ngủ có một đêm, như thế này cũng tươm tất chán! 

 An Tổ đáp: 

 - Được rồi! 

 Tiểu nhị ra khỏi, thầy trò đặt hành lý xuống một góc. An Tổ nhìn kỹ người nằm ngủ trên giường, dáng cao lớn, vai rộng, lưng có đến mười vòng, mặt mày sáng sủa, râu tóc đều rất đẹp. 

 An Tổ nghĩ thầm: "Ông bạn này cũng không phải kẻ tầm thường. Đợi thức dậy sẽ hỏi chuyện xem sao". An Tổ mệt mỏi bèn sai tên tay chân trải chăn chiếu, thì thấy tiểu nhị đem trà nước vào. Vị khách đang ngủ, nghe tiếng người nói chuyện, nhổm dậy, nhìn kỹ An Tổ một hồi, rồi hỏi: 

 - Xin được biết họ tên huynh trưởng? 

 An Tổ đáp: 

 - Tiểu nhân họ Tổ, hiệu An Sinh, xin hỏi quý tính cao danh đại huynh? 

 Khách đáp: 

 - Tiểu đệ họ Vương, tự Bá Đương. 

 An Tổ cả mừng: 

 - Thì ra đại huynh Vương Bá Đương ở Tế Dương. 

 Rồi vội vàng vái lạy, Bá Đương đáp lễ, hỏi: 

 - Hiền huynh sao biết tên tuổi tiểu đệ? 

 An Tổ: 

 - Tiểu đệ không phải Tổ An Sinh đâu, mà thực là Tôn An Tổ. Nhân năm ngoái ở Nhị Hiền trang, nghe Đơn viên ngoại nói tới đại danh, vì vậy mới rõ. 

 Bá Đương hỏi: 

 - Hiền huynh đến Đơn viên ngoại có việc gì? Nay đang trên đường đi đâu mà lại đến đây? 

 An Tổ đáp: 

 - Vì tìm đại huynh Đậu Kiến Đức, nên tìm đến Nhị Hiền trang. 

 Bá Đương lại hỏi: 

 - Nghe nói Đậu đại huynh dấy binh ở Cao Kê Bạc, thanh thế rất lớn, sao hiền huynh không theo, lại tới chốn này? 

 An Tổ bèn đem chuyện Nghĩa Thần dẫn quân giết chết Kim Xứng, Sĩ Đạt, thừa thắng dồn ép Kiến Đức, Kiến Đức về Nhiêu Dương, mình phải tìm về kinh đô, kể lại một lượt, rồi quay ra hỏi Bá Đương: 

 - Thế hiện nay đại huynh đi đâu mà lại một thân một mình ở đây? 

 Bá Đương thấy hỏi, thờ dài định lên tiếng trả lời, thì thấy tên tay chân An Tổ đi lại, nên yên lặng không nói nữa. An Tổ vội giục: 

 - Tên này vốn là tiểu hiệu tâm phúc của tiểu đệ, đại huynh không phải ngần ngại gì cả. 

 Nhân đó nói với tên tay chân: 

 - Mày ra ngoài kia gọi đem rượu, thức nhắm vào! 

 Tên này nghe lời ra bưng rượu thịt bày lên bàn tươm tất rồi bỏ ra ngoài. Hai người ngồi vào bàn, An Tổ lại hỏi. Bá Đương mới đáp: 

 - Tiểu đệ có một người anh em kết nghĩa, cùng là bạn bè với Đơn viên ngoại, họ Lý tên Mật, mắc phải chuyện lớn, nên tiểu đệ phải tìm đến dây. 

 An Tổ hỏi: 

 - Tiểu đệ dạo trước có gặp Tề Quốc Viễn, cũng thấy Quốc Viễn nói đang tìm Lý Mật mưu việc lớn, bây giờ thế nào rồi, xảy ra chuyện gì vậy? 

 Bá Đương đáp: 

 - Chả cần phải hỏi. Tiểu đệ nhân có việc phải tìm đến vùng Sở, cùng Huyền Thúy chia tay. Không ngờ Huyền Thúy được Dương Huyền Cảm mời về Quan Trung, cùng với Huyền Cảm dấy binh. Tiểu đệ thì rất rõ Huyền Cảm chỉ là hạng người ếch ngồi đáy giếng, cũng đồ vô dụng bỏ đi, nên đời nào theo về, nhưng không ngờ Huyền Thúy vẫn đi, tất nhiên công việc bại hoại. Huyền Cảm bị sứ của triều đình là Sử Vạn Tuế chém đầu. Lúc này đệ đang ở Ngõa Cương với Địch Nhượng, nghe tin Huyền Thúy và Quan Trung sau đó bị lính bắt, đưa về kinh đô, nghĩ tất phải giải qua đường này, nên tiểu đệ chờ sớm tối ở đây vậy. 

 An Tổ lên tiếng: 

 - Cái này thì không có chuyện gì khó, nếu như đại huynh cùng tiểu đệ đón gặp, đại huynh nói có Huyền Thúy trong bọn, tiểu đệ chỉ cần vung tay mấy cái, vài đứa về chầu Diêm vương là xong ngay thôi mà! 

 Bá Đương đáp: 

 - Nơi này là đường hiểm yếu đi kinh đô, nếu làm to chuyện quá, cũng chẳng hay ho gì, phải dùng mưu mới xong, không nên dùng sức. 

 Chỉ cần làm thế này... thế này... mới là kế vạn toàn vậy. 

 Đang thì thầm, nghe bên ngoài tiếng người ngựa huyên náo, Bá Đương cùng An Tổ ra cửa phòng nhìn, thấy có sáu bảy viên công sai, giải bốn kẻ tội phạm, đều bị đóng gông dài, đeo còng lớn, ngồi ngay trước cửa quán. Bá Đương nhìn kỹ một lượt, thấy rõ Huyền Thúy trong đó, còn ba người kia, nhận ra được Vi Phúc Tự, một người là Dương Tích Thiện, một người là Bính Nguyên Chân, nhưng vẫn yên lặng không nói, chỉ đưa mắt liếc một cái rồi bỏ đi. Bốn người nhận ra Bá Đương, Huyền Thúy thầm mong: "May lắm, có mấy tay này ở đây, ta phải tìm được kế thoát thân mới xong, nhưng không biết họ có cùng một bọn không?". Đang lúc trù trừ, thì thấy Bá Đương vứt ra bàn mấy tấm lụa, nói lớn: 

 - Tiểu nhị đâu rồi! Ta thiếu một ít tiền, có mang theo mười tấm lụa Lộ Châu đây, xin nhượng lại nguyên vốn, vừa khỏi mang theo nặng, vừa có cái trả hết nợ, lại có tiền ăn đường. 

 Tiểu nhị đứng dậy đáp: 

 - Quý khách, tiểu nhân lấy đâu ra tiền mà mua cả mười tấm lụa này, dù quý khách chỉ lấy vốn cũng vậy thôi. Thôi thì quý khách trọ ở quán mấy ngày, cứ thế tính ra, chứ bọn tiểu nhân đây, mấy khi dám dùng đến thứ hàng quý như thế này. 

 Bá Đương mở ra một tấm giơ ra trước quầy, nói với mọi người: 

 - Các bác xem đây, nào phải hàng giả, hàng xấu gì để phải lừa đảo người mua, đều là những tấm thượng hạng chọn lựa chu đáo. Mua ngay tận nguồn cũng đã phải hai lạng rưỡi bạc một tấm rồi. Nếu là loại bạc tốt, xin bớt cho một hai tiền gì đó cũng được. 

 Viên đô đầu cùng mấy người công sai cũng lại bên quầy hàng, cầm lụa lên xem. Viên đô đầu nói: 

 - Đúng là loại lụa tốt, vừa dày vừa nhỏ, vừa nặng, đem về vùng dưới kia, chẳng sợ không được bốn lạng một tấm hay sao. Đáng tiếc là chúng ta chẳng ai có dư tiền để mua cả. 

 Tất cả đang xúm lại bàn cãi, thì thấy Huyền Thúy cũng tiến lại bên quầy xem, Bá Đương đưa mắt cho Huyền Thúy, rồi lớn tiếng: 

 - Tay tử tù này, ngươi cũng lại xem lụa làm gì? Ngươi lấy đâu ra tiền, vì vậy mới mắc phải tội chứ. 

 An Tổ đứng bên cười: 

 - Đại huynh chẳng nên cười họ. Có khi họ có tiền mua cũng chưa biết chừng. 

 Huyền Thúy lên tiếng: 

 - Bác lái buôn ơi, bác có bao nhiêu lụa quý, xin cứ mang cả ra đây anh em chúng ta sẽ mua kỳ hết, nếu không mua, không phải là kẻ hảo hán! 

 Bá Đương nói với An Tổ; 

 - Hiền huynh, còn năm tấm ở trong phòng kia, hiền huynh đem cả ra đây. 

 Huyền Thúy tiến lại, gọi một tên công sai nhiều tuổi tên gọi 

 Trương Long: 

 - Trương đại ca, đại ca xem loại lụa Lộ Châu này có tốt không. 

 Ta có mười lạng bạc ở đây, biếu đại ca mua lấy mấy tấm, cũng đủ tiền để đại ca đi đường đấy? 

 Trương Long đáp: 

 - Chuyện ấy thì chẳng cần. Anh hãy mua lấy mấy tấm mà biếu Huệ đô đầu đây, thì ít nhiều ta còn dễ bề chiếu cố đến anh hơn. 

 Huyền Thúy đáp: 

 - Ta thì ngày chết đã định, một ngày qua là gần một ngày, giữ tiền hạc bên người cũng chẳng ích lợi gì, chi bằng mua lấy số lụa tốt này. Đem một nửa với mười lăm lạng bạc biếu Huệ đô đầu, còn thì tặng mỗi vị mỗi tấm, với năm lạng bạc. Về kinh khi chết nhờ các vị chôn cất hộ. Chúng tôi có lời thưa như vậy, nếu được, xin tặng thêm mười lạng bạc nữa để ta làm một bữa rượu vậy. 

 Trương Long thấy thế, liền vội nói lại với mọi người. Huệ đô đầu vốn là kẻ hám tiền, lập tức đồng tình. 

 Trương Long nói lại với Huyền Thúy, Huyền Thúy liền đến bên Phúc Tự cùng Tích Thiện, lấy ra đủ một trăm lạng bạc, giao cho Trương Long. 

 - Xin nhờ đại ca chia cho mọi người hộ. 

 Trương Long cầm mười lạng bạc, lại ném xuống mặt quầy, nói 

 Với tiểu nhị: 

 - Nhờ bác chủ cứ liệu tiền đó mà cân cho đúng đưa cho các vị giùm cho! 

 Tiểu nhị đáp: 

 - Xin có ngay! 

 Rồi vừa quay ra vừa tính toán: 

 - Tất cả có mười lăm tấm lụa. Tính thành tiền là ba mươi bảy lạng năm tiền. Tất cả đều là bạc loại tốt, một ly cũng không thiếu. 

 Cứ thế giao cho Bá Đương, còn bao nhiêu trả lại cho Huyền Thúy, Huyền Thúy lấy từng tấm trải ra xem, lóng lánh, rực rỡ một màu, tấm nào cũng như tấm nào. Bèn đưa cho Trương Long, biếu từng người, ai nấy đều lên tiếng cảm tạ. Huyền Thúy lại thò tay vào trong túi lấy ra một thỏi bạc, khoảng hơn một lạng, nói với tiểu nhị: 

 - Xin thêm cho một ít rượu nữa, gọi là qua cơn nhọc nhằn vậy! 

 Bá Đương cười: 

 - Ta cũng quên mất, số bạc lẻ này, bảy lạng năm tiền cả đây, cũng xin đem một lạng ra thêm vào với tiểu nhị vậy. 

 Vừa nói vừa lấy ra một lạng đưa cho tiểu nhị. Tiểu nhị lên tiếng: 

 - Tiểu nhân không dám, có nhọc nhằn gì lắm đâu mà được cả hai vị thưởng cho thế này. 

 Lời qua tiếng lại mãi, An Tổ khuyên: 

 - Tiểu đệ xin góp một lời vậy. Đại huynh của tiểu đệ góp một lạng, xin cứ đưa đây. Vị này góp một lạng. Cũng xin đưa cho tiểu đệ. 

 Tiểu đệ cũng xin góp vào một lạng nữa là ba. Phiền chủ quán bày cho mấy đĩa nhấm, bưng cho một hũ rượu nữa, coi như chủ quán đãi anh em chúng ta, để cùng nhau nâng chén, có phải là vui vẻ cả không? 

 Mấy viên công sai nhất tề hưởng ứng: 

 - Ông bạn này lý sự như vậy, thật chẳng sai chút nào, chúng ta cũng thêm vào ít nhiều uống cho thoải mái vậy! 

 Tám viên công sai lần lượt đưa tiền cho An Tổ, An Tổ cân tất cả được ba lạng bảy, liền đưa cho tiểu nhị: 

 - Xin chủ quán cầm cho, cứ thế mà bày rượu thịt cho chúng tôi. 

 Tiểu nhị cười đáp: 

 - Cái này thì tiểu nhân biết rồi. Xin quý khách cứ ngồi vào bàn xơi cơm trước. Chờ tiểu nhân dọn rượu cùng thức nhắm, thong thả uống sau càng ung dung. 

 An Tổ dặn: 

 - Thức nhắm không cần nhiều lắm, nhưng rượu thì phải thật ngon. Lại thêm đông người, nên phải cho nhiều nhiều vào. 

 Tiểu nhị đáp: 

 - Nhất định rồi? 

 Mọi người vào bàn ngồi. Chẳng mấy chốc, hoàng hôn đã xuống, chủ quán bày rượu thịt ra các bàn. Lại bày cho Huệ đô đầu một bàn riêng, xếp cho Trương Long ngồi tiếp, không ngồi cùng với công sai và tù nhân. Huệ đô đầu vốn cũng là phường xiểm nịnh, xu thời tầm thường, nay lại được ít nhiều lễ vật, liền nôi với Trương Long: 

 - Thôi thì cũng là ý tốt của mọi người, ta cũng chẳng đang một mình ngồi một tiệc. Vả lại ở đây là nơi thôn vắng hoang dã, ai mà biết được, cùng ngồi một bàn chẳng sao, lại càng dễ ăn uống. 

 Trương Long đáp: 

 - Với nói cho cùng, bốn tay tù nhân này, cũng đều là loại "con ông cháu cha" cả, chẳng may mang phải sự nhẹ dạ của tuổi trẻ, mà phạm tội, chỉ cần Huệ đô đầu cho phép là xong ngay. Chúng tôi xin gọi họ vào luôn. 

 Huệ đô đầu đáp: 

 - Nãy giờ đều nhờ Trương Long xếp đặt, vậy hãy ra gọi bọn họ vào đây luôn. 

 Thế là cả bọn bày ba bốn bàn cơm rượu tại ngay trong gian phòng lớn, kể cả chủ quán là có đến mười bảy, mười tám người. Ai nấy ngồi yên vị rồi, chén lớn, bát nhỏ, anh rót, tôi mời, thật là ầm ĩ, không còn phân biệt được nữa. Tiểu nhị cứ việc khuân rượu hết chai này đến chai khác như nước chảy. An Tổ nói với tiểu nhị: 

 - Bác nếu có mệt, xin cứ đi ngủ trước, đã có anh em chúng tôi đây đỡ đần bác một tay. 

 Tiểu nhị uống liền mấy chén nữa rồi bỏ đi ngủ. Huệ đô đầu cũng là phường tửu hữu, uống hết chén này đến chén khác, nói cười ầm ĩ. 

 Thấy bọn này đã say đến bảy tám phần, lúc này mới độ canh hai. Bá Đương liền nói: 

 - Rượu không nóng, uống buồn lắm. 

 An Tổ đáp: 

 - Hãy đợi tiểu đệ một chốc, vào bếp là có rượu nóng ngay thôi. 

 Rồi đi ra, lát sau bưng vào một vò rượu nóng, vừa cười vừa nói: 

 - Bác chủ cùng vào bếp với tiểu đệ đây. Giờ thì cứ uống thật say, rồi nằm quay ngay ra đây, cho bõ công tiểu đệ hâm rượu chứ! 

 Bá Đương đỡ vò rượu, rót ra một bát lớn, bưng lại cho Huệ đô đấu rót tiếp bảy tám bát nữa, nói với bọn công sai: 

 - Xin mời các vị cạn ngay cho, rồi sẽ đến lượt chúng tôi. 

 Bọn công sai nói: 

 - Cảm tạ thịnh tình của các vị, quả là không thể nào uống nữa. 

 An Tổ nói: 

 - Lần này thì xin các vị cứ phải cạn cho, còn bao nhiêu chúng tôi xin gánh tất. 

 Trương Long nâng bát, uống một hơi cạn sạch, bọn công sai cũng lần lượt uống hết. Phút chốc, cả Huệ đô đầu lẫn tám tên công sai đều ngã lăn quay ra đất, An Tổ cười nói: 

 - Thế, thế, đúng rồi! Chỉ sợ thuốc không mạnh, bọn này tỉnh ngay mất thôi? 

 Rồi vội lục trong hành lý một cây nến thắp lên. Bá Đương thì phá cả mấy cái gông, còng cho bốn người. Huyền Thúy lại ngay túi của Huệ đô đầu, tìm ra tờ công văn đốt ngay trên lửa nến. Thu lại tất cả mười lăm tấm lụa Lộ Châu, cùng số bạc đưa cho Bá Đương bỏ vào tay nải. Tên tay chân lại khoác hành lý lên vai, bảy người lặng lẽ rời khỏi quán rượu. Chỉ thấy bầu trời đầy sao, ánh sáng mờ mờ, tất cả yên lặng không một lời, rảo bước như chạy. 

 Khoảng năm canh, đi cách quán rượu được sáu bảy mươi dặm rồi, An Tổ nói với Bá Đương: 

 - Tiểu đệ phái chia tay với chư huynh ở đây thôi, không thể nào theo tiễn Lý đại huynh cùng mọi người đến Ngõa Cương được đâu. 

 Huyền Thúy nói với An Tổ: 

 - Tiểu đệ được hiền huynh thương đến, nên thoát được nạn lớn này, xin hãy đến phía trước, cùng uống với nhau ba chén rượu đã rồi hãy chia tay. 

 Bá Đương đỡ lời: 

 - Không phải thế đâu. Tôn hiển đệ còn phải có việc phải lo với Đậu đại ca, không thể trù trừ được nữa đâu. 

 An Tổ tiếp: 

 - Tiểu đệ còn có lời này, phải nói với chư huynh ngay. Nên chia làm ba nhóm, hoặc hai nhóm gì đó mà đi, chạy trốn mà đi cả bọn như thế này, thì chỉ cần một hai dặm nữa là sẽ bị tóm tất cả. Phải chia tay nhau ngay đi! 

 Huyền Thúy đáp: 

 - Điều này là lẽ đương nhiên. Xin hiền huynh cho gửi lời thăm Kiến Đức. Tiểu đệ mà tới được Ngõa Cương yên ổn, sẽ có dịp đến Nhiêu Dương. Nếu được gặp cả Đơn viên ngoại, cũng cho gửi lời thăm của Huyền Thúy này! 

 Nói xong, chia đông tây hai ngả. Còn lại Bá Đương, Huyền Thúy, Nguyên Chân, Phúc Tự, Tích Thiện, đi thêm vài dặm, đã tới ngã ba Tam Soa, Bá Đương lên tiếng: 

 - Cũng chẳng cần nói nhiều, giữa chốn lưới giăng, bẫy chờ này, sống chết là chuyện bất ngờ. Nay may đã được sổ lồng tới đây, chính là lúc mạnh ai nấy bay. Nhân đến ngã ba Tam Soa này rồi, xin mỗi người mỗi đường. Tiểu đệ xin đi cùng với Lý đại huynh vậy. 

 Phúc Tự cùng với Tích Thiện vốn là bạn thân với nhau, liền lên tiếng tiếp: 

 - Nếu đã như vậy, chúng tôi xin theo đường nhỏ, đi ngược mãi lên phía bắc vậy? 

 Nguyên Chân nói: 

 - Tiểu đệ cũng chẳng theo đường lớn, cũng chẳng chọn đường nhỏ, sẽ có cách đi riêng của mình, xin chư huynh cứ đi trước vậy. 

 Họ Vi cùng họ Dương chọn đường nhỏ mà đi, còn họ Vương, họ Lý theo đường lớn đi tiếp. 

 Chưa được hơn một dặm. Bá Đương thấy phía sau có người đuổi theo, vỗ vào hai vai Huyền Thúy mà rằng: 

 - Chư huynh sao không đợi tiểu đệ với, cứ thế mà đi mãi? 

 Bá Đương đáp: 

 - Đại huynh nói có cách đi riêng rồi, sao lại còn chạy theo làm gì? 

 Nguyên Chân đáp: 

 - Đại huynh thật thà quá. Lúc nãy là tiểu đệ lừa hai người kia, để họ chọn lấy đường chết đấy thôi! 

 Huyền Thúy hỏi: 

 - Tại sao thế? 

 Nguyên Chân đáp: 

 - Bọn công sai tỉnh lại, tất cả phải tìm đến nhờ lính tráng địa phương tầm nã, đường nhỏ sẽ nhiều người tìm đến, đường lớn nhất định sẽ ít hơn. Nay ba chúng ta cứ đàng hoàng mà đi, dẫu có hàng trăm quan quân kéo qua, cũng chẳng để mắt đến. Chỉ cần lúc nào thuận lợi, phải kiếm lấy vài thứ vũ khí mà giữ thân nữa là xong. 

 Bá Đương nói: 

 - Cứ đi cho nhanh đã, được bước nào hay bước đó. 

 Thế rồi, Huyền Thúy giả đóng Toàn Chân (1) đạo sĩ, Bá Đương cùng Nguyên Chân giả làm khách buôn, cứ nhìn phía trước mà đi. 

 1 Toàn Chân: Đời Kim, đạo sĩ Vương Triết, tu ở am Toàn Chân, truyền đạo "Toàn Chân giáo", từ đó đồ đệ đều xưng là Toàn Chân đạo sĩ. 

 Chính là: 

 Ruột gan chưa rõ sự tình 

 Mà người đã nhớ câu Bình Nguyên Quân. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Ba Mươi Chín

Vua Trần, vua Tùy nhắc chuyện tình thâm u,

 Nàng Trương, nàng Doãn lại mang vạ biếm trích.

 Thơ rằng: 

 Vương sư dập khói lửa, 

 Đại tướng tài dọc ngang 

 Anh sớm chói cờ đỏ 

 Mây chiều phơi lọng vàng 

 Động rừng trống trận nổi 

 Rẽ sóng mái chèo vang 

 Lòng quyết trừ Huyền Thố (1) 

 Công ghi sườn Am San (2). 

 1 Huyền Thố. Cũng đọc Huyền Thỏ, tên một quận ở Bắc Trung Quốc, gần các tỉnh Sát Cáp Nhĩ và Nhiệt Hà. Đây chỉ Liêu Đông. 

 2 Am San: Dải núi sát phía bắc Trung Quốc quãng vùng Cát Lâm hiện nay. 

 Đại phàm chuyện các bậc vua chúa rất là rối ren, ngòi bút dù tài giỏi đến đâu, một lúc cũng không tài nào ghi chép cho tường tận. Sự việc trong vũ trụ này, từ ngày có mặt trời chiếu sáng đã đủ chuyện, trong khoảnh khắc, tài nào nói cho hết. Chỉ bằng một đôi mắt nhìn của mình, làm sao mà thấu cả mọi chuyện. Người làm sách cũng như kẻ rút một sợi tơ trong búi tơ rối, từ từ rút lần từng đoạn, có trước có sau khiến cho người xem thấy được thứ tự rõ ràng, không phải khổ công đoán trước nghĩ sau. 

 *** 

 Nói chuyện Tôn An Tổ, từ biệt Lý Huyền Thúy, Vương Bá Đương về kinh đô, tìm đến bạn bè quen biết, đưa mối lần manh, đem vàng ngọc, vật quý dâng cho bọn Đoàn Đạt, Ngu Thế Cơ, cùng một loạt bọn nịnh thần khác, rồi tìm chỗ yên ổn chờ tin tức. Quả là thần tiên linh ứng không lường, chẳng qua mấy ngày sau, đã có thánh chỉ ban xuống: 

 "Dương Nghĩa Thần xuất binh đã lâu chưa thấy báo tin thắng trận, án binh bất động, là ý làm sao? Trẫm nghĩ thương bậc lão thần, cho về nguyên quán hưu trí. Tiên phong Chu Vũ tạm thay cầm việc quan, chờ điều tướng khác, trừ diệt dư khấu.” 

 An Tổ nghe được tin xác thực, vội ngày đêm rời kinh đô về Nhiêu Dương báo ngay cho Đậu Kiến Đức. Chính lúc Nghĩa Thần bày xong mưu kế để phá Kiến Đức, thấy thánh chỉ ban xuống, nhìn tả hữu mà thở than rằng: 

 - Cơ ngơi nhà Tùy thật đáng đổ lắm rồi. Ta chỉ chưa biết nó sẽ mất về tay ai. 

 Rồi đem vàng bạc của riêng, khao thường ba quân, gạt nước mắt, trở về vùng hồ Lôi Hạ, thuộc Bộc Châu đổi họ tên, giấu tung tích, lấy cày cấy, suối rừng làm vui. 

 Kiến Đức biết Nghĩa Thần đã về, lại đem quân về Bình Nguyên, chiêu tập binh lính, cũng được vài nghìn, rồi chẳng mấy chốc những quận huyện quanh vùng đều phải quy phục, quân lên tới hơn một vạn, thanh thế ngày càng lớn, mưu đồ ngày càng cao, sai tướng tâm phúc, mang thư về Nhị Hiền trang đón con gái, mời Đơn Hùng Tín cùng nhập bọn. Chuyện không nói nữa. 

 Chính là: 

 Đừng cho cốt nhục thành Ngô Việt 

 Luôn nhớ anh em chốn biển trời. 

 Chuyện chia làm hai mối, đây nói chuyện Dượng Đế kiểm điểm cung nữ cho việc ngự du Quảng Lăng. Đại để cung nữ được kén vào cung, thì nhất định không thể nào xấu cho được, ít ra cũng phải là loại có sắc đẹp trung bình mới có thể lọt vào cung cấm. Khi đã vào cung rồi, trang điểm phấn son, tô mày bôi môi, học cười học nói, nhan sắc cũng có thể tăng thêm hai ba phần. Cũng vì thế mà luôn suốt bảy tám ngày, Dượng Đế ở trong cung kén chọn cung nữ mà chẳng thể bỏ được một người nào, người có thể loại ra, thì lại mặt mày, vóc dáng không đến nỗi nào, hoặc là chỗ quen thân quyến luyến, giở mẹo khóc cười, cho nên càng làm càng rối. Dượng Đế không biết làm thế nào, trong lòng bực bội, liền bỏ mặc việc tuyển lựa cho Tiêu Hậu cùng các phu nhân, còn mình thì dẫn Chu Quý Nhi, Viên Bảo Nhi, cùng ba bốn viên tiểu thái giám, lên thuyền rồng, ra tận Bắc Hải, trèo lên Tam Thần Sơn xem mặt trời buổi chiều. Bỗng nhiên mây kéo mù mịt, ánh mặt trời như tắt hẳn. Dượng Đế vội chạy vào Quan Lan đình (l) ngồi một hồi, tâm thần hoảng loạn, thấy mặt hồ có một chiếc thuyền nhỏ, nhấp nhô trên sóng biếc, nhằm chân đảo mà vào. Dượng Đế ngỡ là thuyền của các phu nhân theo tìm, trong lòng thấp thỏm chờ đợi. Thuyền ghé sát bờ, thì ra không phải, chỉ thấy một viên thái giám tiến vào quỳ thưa: 

 1 Quan Lan đình: Lầu xem sóng biển, dựng ngay trên núi giữa hồ lớn. 

 - Trần Hậu Chủ muốn xin gặp bệ hạ. 

 Nguyên lai Dượng Đế cùng Trần Hậu Chủ thuở ban đầu cũng có đi lại thân mật, nên nghe Hậu Chủ xin gặp liền mời ngay vào. 

 Chẳng mấy chốc, Hậu Chủ từ trong thuyền bước ra, vào Quan Lan đình, định làm lễ quân thần. Dượng Đế vội giơ tay ngăn lại mà phán: 

 - Trẫm với khanh là bậc cố giao, chẳng cần phải giữ lễ làm gì? 

 Hậu Chủ theo lời, vái dài một cái rồi ngồi xuống. Hậu Chủ lên tiếng trước: 

 - Nhớ lại thuở còn ít tuổi, cùng bệ hạ vui chơi, thân thiết như cùng thanh khí, xa nhau đã lâu, chẳng biết bệ hạ còn nhớ những chuyện xưa chăng? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Chuyện chơi bời quen thuộc, thuở để tóc trái đào, tình hơn cốt nhục, lòng vẫn thường nghĩ tới, sao lại có thể quên cho được! 

 Hậu Chủ tiếp: 

 - Dẫu bệ hạ có nhớ đi chăng nữa, nhưng nay đã là thiên tử, bốn biển trong tay, khác hẳn ngày xưa, mọi người ngưỡng vọng. 

 Dượng Đế cười đáp: 

 - Phú quý chẳng qua là chuyện ngẫu nhiên. Khanh tình cờ mà mất, trẫm tình cờ mà được, chẳng nên lấy đó làm chuyện tỵ hiềm vậy. 

 Nhân đó bèn hỏi: 

 - Gần đây ba viện Lâm Xuân, Kết ỷ, Vọng Tiên quang cảnh ra sao? 

 Hậu Chủ đáp: 

 - Trăng gió vẫn cảnh xưa, chỉ có điều lầu gấm, hồ biếc nay đã thành bạch dương, cỏ mượt cả rồi! 

 Dượng Đế lại hỏi: 

 - Nghe nói khanh đã từng vì Trương Lệ Hoa mà xây Quế cung, ngay phía sau Quang Chiêu Điện, mở cửa tròn chẳng khác gì mặt trăng, bốn phía đều làm bình phong thủy tinh. Hậu đình xây bằng đá ngọc trắng, bên trong để trống không, chẳng hề bày trí gì cả, chỉ trồng một cây quế thật lớn, dưới gốc cây để sẵn chày cối giã thuốc bằng ngọc. Bên cạnh cối ngọc, lại nuôi một con thỏ trắng. Cho Trương Lệ Hoa mặc toàn đồ trắng, tóc búi cao như mây, chân đi hài giát ngọc mũi nhọn, ung dung thơ thẩn, chẳng khác gì Hằng Nga trên trăng (1). Quả có chuyện này chăng? 

 1 Những chi tiết này đều rút ở thần thoại, cổ thư như "Dậu Dương tạp trở", 

 "Hoài Nam Tử..." nói trong trăng có Hằng Nga lấy trộm thuốc trường sinh của chồng uống, rồi trốn lên cung trăng. Trên cung trăng có cây quế đỏ cao năm trăm trượng, có thỏ ngọc giã thuốc tiên... 

 Hậu Chủ đáp: 

 - Thực là có chuyện đó! 

 Dượng Đế nói: 

 - Nếu đúng như vậy thì thật là quá xa phí! 

 Hậu Chủ đáp: 

 - So với việc đền đài cung quán, để theo kịp vua chúa xưa, thì việc xây Nguyệt Cung này có đáng bao nhiêu, Thần chẳng may mất nước, vì vậy sau này mang tiếng xa hoa. Chẳng cần gì phải dẫn người xưa làm chứng, mà cứ xem ngay như Văn Hoàng Đế bệ hạ thôi, lúc còn ở ngôi, thì nào có chừng gì đâu, cũng vì Trần, Sái phu nhân dựng Tiêu Tương, Lục Ỷ bốn phía đều ghép hoa phù dung bằng vàng. Phía trên cũng lưu ly làm cột, gỗ hạnh có vân làm xà, điêu khắc đủ cảnh chim bay cá lượn, cứ một bước một nghìn vàng. Tất cả cảnh đó, mắt bệ hạ đều thấy rõ, thử hỏi có xa xỉ không? May mà thiên hạ thái bình, truyền ngôi đến bệ hạ, ngày sau sử quan ghi chép chuyện này, nếu cứ nói là tiết là kiệm, thì thử hỏi có thỏa đáng không? 

 Dượng Đế cười đáp: 

 - Khanh cũng giỏi chuyện trào phúng nhỉ. Nếu cứ như thế mà nói, thì khi tiên đế ngự Giang Nam, khanh cũng oán hận lắm thì phải? 

 Hậu Chủ đáp: 

 - Làm một ông vua mất nước thì dám oán hận gì nữa. Chỉ nghĩ tới cảnh hoa đào trước núi, theo chiến thuyền lên phía bắc. Lúc ấy Trương Lệ Hoa đương ở trên Lâm Xuân Các, thử bút Từ Hào của Đông Quách Nguy, trên giấy Hồng Tiên bóng, họa lại bài thơ "Ánh trăng chiếu vách bên sông", mà vẫn chưa xong, thì bỗng Hàn Cầm Hổ dẫn binh ập vào, rồi hết chuyện bức bách này sang sự trói buộc khác, làm cho bài thơ của Trương Lệ Hoa vẫn chưa xong, để hận mãi đến giờ vậy. 

 Dượng Đế hỏi: 

 - Giờ Trương Lệ Hoa đang ở đâu? 

 Hậu Chủ đáp: 

 - Hiện đang ở dưới thuyền. 

 Dượng Đế nói: 

 - Sao không mời lên cùng gặp gỡ? 

 Hậu Chủ sai thái giám xuống thuyền mời, thì thấy trong thuyền bước ra có đến mười mấy cung nữ, cầm theo đàn địch, bưng theo cả rượu thức nhắm, một đoàn đi lên, thấy Dượng Đế, nhất tề quỳ lạy. 

 Dượng Đế vội mời đứng dậy, nhìn kỹ trong bọn, một người hai vai như ngọc rũ xuống, mặt trắng như tuyết ngưng, phong thái mười phần yểu điệu. Dượng Đế nhìn không nháy mắt. Một hồi lâu, Hậu Chủ mới cười hỏi: 

 - So với dung mạo Tuyên Hoa phu nhân nhà thần (1) thì ai hơn ai kém? 

 1 Trần Phu nhân, được Tùy Văn Đế phong Tuyên Hoa phu nhân, vốn là con vua Trần Tuyên Đế, có họ với Trần Hậu Chủ, vì vậy Hậu Chủ xưng thế. 

 Dượng Đế đáp: 

 - Thì cũng như nàng Hinh so với nàng Doãn, suýt soát như chị như em vậy thôi. 

 Hậu Chủ nói: 

 - Bệ hạ nhìn kỹ người nào, thì người ấy chính là Trương Lệ Hoa đấy! 

 Dượng Đế cười: 

 - Thì ra là Trương Quý Phi, thật đúng là danh bất hư truyền. Từ lâu đã nghe tiếng Quý Phi, nay mới thấy mặt, chẳng khác gì được gặp lại người quen cũ, chỉ hận không tiệc rượu, để cùng vui với hai khanh. 

 Hậu Chủ đáp: 

 - Thần có đem theo mấy chén, chỉ sợ bệ hạ quen dùng ngự tửu, nên không dám dâng. 

 Dượng Đế nói: 

 - Trẫm gặp cố nhân, nhất thời thích chí, việc gì phải quá giữ lễ. 

 Hậu Chủ liền gọi Trương Lệ Hoa dâng rượu lên, Dượng Đế uống liền ba chén, rồi nói với Hậu Chủ: 

 - Trẫm nghe nói khúc hát "Hậu đình hoa", hay vào nhất trên trời dưới thế suốt từ xưa tới nay, giờ may gặp nhau đây, sao lại không cho trẫm nghe một lần? 

 Trương Lệ Hoa từ tạ: 

 - Thiếp từ ngày phí hoài năm tháng đến nay, lời ca điệu múa của nhân gian không nhớ đã lâu. Huống chi lần ở dưới giếng lên đến nay, xương cốt đau nhức, chẳng còn giữ được phong thái thuở xưa, sao lại dám trước mặt thiên tử mà cuồng ca loạn xướng cho được. 

 Dượng Đế nói: 

 - Quý phi hình dung yểu điệu, chẳng cần ca chẳng cần múa cũng làm người tiêu hồn lạc phách, lại thêm ca múa nữa, thì chưa nghe chưa xem cũng đã thấy hay thấy đẹp, hà tất phải quá khiêm nhường. 

 Hậu Chủ lên tiếng: 

 - Bệ hạ đã ân cần đến thế, khanh hãy cố múa ca một khúc vậy. 

 Trương Lệ Hoa không tiện chối từ, liền bảo cung nữ giải thảm, tấu nhạc, rồi bước lên, theo nhịp nhạc du dương, giải lụa phất phơ, lưng cong uốn éo, nhẹ nhàng như bướm lượn trong hoa, chập chờn như chuồn chuồn điểm nước biếc, lúc đầu thì như chập chờn đùa giỡn chẳng chậm không mau, về sau tiếng nhạc càng dồn dập, Trương Lệ Hoa cũng quay tít đến không nhận ra rõ hình người, rồi lại từ từ trở lại hiện rõ nét mặt tươi hồng, chẳng khác gì ráng mây sáng sớm, nhẹ nhàng di chuyển giữa từng không. Tiếng nhạc ngừng, điệu múa hết, lúc này Trương Lệ Hoa mới cao giọng hát: 

 Cảnh đẹp rừng hương kề cao các 

 Điểm trang diễm lệ bậc khuynh thành 

 Lộng lẫy dừng chân bên cửa điện 

 Chúm chím hoa đào hé trước mành 

 Sương đọng lung linh vẻ diễm kiều 

 Ngọc thụ ngời ngời Hậu đình hoa. 

 Dượng Đế hồn phách như tiêu đâu mất, ngẩn người ca ngợi, sai rót ngay hai chén rượu, một chén đưa mời Hậu Chủ, một chén mời Trương Lệ Hoa. Hậu Chủ đỡ chén rượu, bỗng nức nở mà nói: 

 - Thần làm ra khúc hát này, phí không biết bao nhiêu tâm lực, mà chẳng được hưởng bao nhiêu, cuối cùng hát câm, đàn lặng. Đến nay mới nghe lại, khiến lòng không ngăn nổi niềm đau mất nước. 

 Dượng Đế nói: 

 - Khanh tuy mất nước, nhưng khúc hát "Ngọc thụ Hậu đình hoa" nay nghìn thu sẽ còn mãi, hà tất phải đau đớn đến thế. Khanh vốn có tài văn chương, từ ngày xa nhau đến nay, nhất định có nhiều bài hay, hãy đọc một hai bài, để trẫm nghe thử xem sao! 

 Hậu Chủ đáp: 

 - Thần gần đây tình cảnh không được thư thái, nên chẳng có hứng làm thơ, chỉ có hai bài thơ tặng cung nữ Bích Ngọc, Tiểu Song, cũng là vụng về cho xong, xin bệ hạ đừng cười. 

 Rồi đọc bài tặng Tiểu Song: 

 Giữa trưa đang ngon giấc 

 Bỗng dưng sao giật mình 

 Bóng chiều như ý ghẹo 

 Cánh cửa nhỏ rung rinh. 

 Tiếp theo, Hậu Chủ đọc bài tặng Bích Ngọc: 

 Biệt ly lòng muốn dứt 

 Tương tư bóng hao gầy 

 Hồn theo mưa lất phất 

 Tựa cửa lặng nhìn theo. 

 Dượng Đế nghe xong hết lời tán thưởng, Hậu Chủ lên tiếng: 

 - Mất nước nằm dài, sao bằng được bệ hạ hùng tài thao lược, nổi tiếng một thời. 

 Trương Lệ Hoa cũng thưa: 

 - Thiếp nghe bệ hạ thi từ tao nhã, nay may được chiêm bái long nhan, xin được nghe một vài câu để lấy làm nỗi vinh hạnh suốt một đời. 

 Dượng Đế cười đáp: 

 - Trẫm xưa nay chưa từng biết làm thơ bao giờ, thật phụ lời thỉnh cầu của Quý phi, làm thế nào bây giờ? 

 Trương Lệ Hoa thưa: 

 - Bệ hạ trong khi say làm từ "Vọng Giang Nam" rồi ngự chế "Thanh dạ du khúc", đều trong một khoảnh khắc mà xong, sao lại nói là không biết? Hay vì thần thiếp thô lậu, không đáng để bệ hạ buông lời châu ngọc, nên nói thác ra như vậy chăng? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Quý phi nào có lỗi gì ở đâu. Trẫm xin cố nghĩ vài câu để đáp Quý phi vậy. 

 Trương Lệ Hoa sai cung nữ đem văn phòng tứ bảo bày ra, Dượng Đế giở giấy hoa tiên viết ngay một bài sau đây: 

 Gặp mặt sao ngần ngại 

 Nghe danh kể những khi 

 Rốn ngồi trăm vẻ đẹp 

 Thật đáng bậc tương tri. 

 Dượng Đế viết xong, đưa cho Trương Lệ Hoa, Trương Lệ Hoa cầm xem một lượt, thấy lời thơ có ý khinh bạc, lại hàm cả vẻ đùa cợt, bất giác hai má ửng đỏ, một lúc lâu không nói gì. Hậu Chủ thấy Trương Lệ Hoa có vẻ giận dữ, trong lòng cũng thấy bực bội, liền hỏi Dượng Đế: 

 - Nhan sắc như người này, không biết nếu so với Tiêu Hậu của bệ hạ, thì hơn kém ra sao? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Quý phi so với Tiêu Hậu thì xinh tươi hơn, Tiêu Hậu so với Quý phi yểu điệu hơn, cũng chẳng khác gì mùa xuân thì của hoa lan, mùa thu thì của hoa cúc. Mỗi hoa đều có vẻ đẹp nhất thời của riêng mình, làm sao mà so được? 

 Hậu Chủ nói: 

 - Nếu đã là vẻ đẹp nhất thời cả, sao trong lời thơ của bệ hạ lại hàm ý khinh bạc Trương Lệ Hoa đến thế? 

 Dượng Đế khẽ cười đáp: 

 - Thơ của trẫm là thơ của thiên tử, chẳng qua là cũng để ghi lại cái hứng nhất thời, làm gì có chuyện khinh bạc hay không ở đây? 

 Hậu Chủ giận dữ: 

 - Ta cũng từng làm thiên tử, nhưng không đến nỗi tự cao tự tôn như ngươi. 

 Dượng Đế cũng nổi giận: 

 - Ngươi là kẻ mất nước, sao lại dám vô lễ? 

 Hậu Chủ càng tức tối: 

 - Thử xem ngươi còn được bao lâu nữa để vênh vang, mà dám chê ta là ông vua mất nước. Chỉ sợ đến lúc ngươi mất nước, kết cục sẽ chẳng có điều gì được như ta thôi! 

 Dượng Đế điên cuồng: 

 - Trẫm đường đường thiên tử ngôi cao, sao lại thèm so với ngươi? 

 Rồi đứng dậy định túm lấy Hậu Chủ. Hậu Chủ hỏi: 

 - Ngươi định bắt ta chăng? 

 Trương Lệ Hoa vội kéo Hậu Chủ ra: 

 - Đi thôi! Đi thôi! Một hai năm sau, xuống dưới dạ đài, sẽ còn nhiều dịp gặp nhau nữa mà! 

 Cả hai cùng ra phía bờ biển, Dượng Đế vội chạy theo kéo lại, chỉ thấy bóng Trương Lệ Hoa lúc ẩn lúc hiện, lúc mờ lúc tỏ, rồi mất hẳn, Dượng Đế đành đứng ngây ra nhìn theo. 

 Dượng Đế bỗng sực tỉnh, như vừa thoát khỏi cơn mơ, liền nhớ lại cả hai người này chết đã lâu, thì sợ hãi lạnh cả chân tay, mở mắt nhìn ra, thấy trước mắt là Quý Nhi, Bảo Nhi đang lấy ống tay áo rộng che người Dượng Đế. Dượng Đế vội hỏi: 

 - Các khanh có thấy gì không? 

 Hai mỹ nhân đáp: 

 - Chẳng thấy gì cả. Chỉ thấy bệ hạ như ngủ thiếp đi, nói ú ớ trong mơ, chân tay nâng lên đặt xuống luôn luôn. 

 Dượng Đế ra lệnh: 

 - Mau xuống thuyền về thôi! 

 Tất cả kéo xuống thuyền rồng, Dượng Đế đem những điều tai nghe mắt thấy vừa rồi kể lại tỷ mỹ, Quý Nhi, Bảo Nhi vô cùng kinh sợ. Dượng Đế trong lòng cũng lo lắng, giục thuyền chèo mau hơn nữa. 

 Bỗng nghe tiếng đàn tiếng sáo du dương, theo gió đưa đến. Dượng Đế trong lòng nghi ngại, thì bỗng đã thấy Ỷ Âm viện xa xa, Tần phu nhân, Sa phu nhân, cùng Triệu Vương lẫn Viên Quý nhân, Tiết Dã Nhi cả bọn cùng ra đón. Lại thấy cả Hạ phu nhân đang gảy đàn, Dượng Đế vội vàng lên bờ nói: 

 - Các khanh hãy làm thế nào để trẫm được vui lên xem nào. Hãy cùng nhau kéo cả ra đây cho đủ mặt? 

 Mọi người tranh nhau thưa: 

 - Chúng thiếp tìm khắp nơi chẳng thấy bệ hạ đâu cả, chẳng ai ngờ bệ hạ lại ra tận Bắc Hải. 

 Dượng Đế đáp: 

 - Hạ phu nhân hôm nay tại sao lại mang theo cả đàn ra đây? 

 Hạ phu nhân thưa: 

 - Thiếp đội ơn bệ hạ đặt cho ở viện này, đã bốn năm năm nay, cũng khác nào Phật tử say mùi thiền rồi, bóng tùng xanh mát, dáng núi lại nhấp nhô, mưa nhỏ hoa thêm sắc, tường cao đón ánh trăng, đài tạ ngâm nga, lại đã cùng chứng kiến bao sự buồn vui cùng bệ hạ, nay nhất đán bỏ mà đi, sông núi linh thiêng cũng như rơi lệ. Vì vậy thiếp đem đàn eo, cũng là có ý từ biệt cùng cảnh vật, để sông núi cũng không đến nỗi cười thiếp là kẻ bạc tình vậy! 

 Dượng Đế nghe nói thế, cũng than thở: 

 - Nơi này trẫm cũng thật không muốn rời bỏ đâu, bởi hoàng hậu bỗng nổi cơn hứng muốn ngự du Giang Đô. Ngỡ là mọi việc khó mà thu xếp xong, nào ngờ giờ đây ước nguyện đã thành. Đây cũng là chuyện số trời. Sức người thì làm gì nổi? 

 Bỗng thấy Cao Xương cùng bảy tám kẻ tay chân tâm phúc thái giám, tới quỳ tâu: 

 - Một nghìn cô gái trong đội "Điện cước nữ" bọn bề tôi này đã đi về vùng Giang Nam tuyển, nay đã đủ số. 

 Dượng Đế cả mừng: 

 - Nay đang ở đâu? 

 Thái giám thưa: 

 - Vương Hoằng vâng lệnh đã chia làm thành từng đội theo số hiệu thuyền rồng, để tiện cho việc tập dượt. Không biết đến bao giờ thì bệ hạ ngự giá? 

 Dượng Đế nghĩ ngợi: 

 - Trẫm chinh Liêu chẳng qua chỉ là lấy danh vậy thôi, thực ra là tuần du Giang Đô. Nhưng nay dã mang tiếng là thiên tử thân chinh, không thể nào giống kẻ khác, lẽ ra phải phân làm hai mươi tư đội cả thảy. 

 Đắn đo một hồi, Dượng Đế quay về đại diện, viết một tờ sắc rằng:

 "Nay ban rằng: Vũ Trọng Văn làm Tả dực vệ đại tướng quân, Tân Thế Hùng làm Hữu dực đại tướng quân, Kinh Nguyên Hằng làm Tả kiêu vệ đại tướng quân, Tiết Thế Hùng làm Hữu kiêu vệ đại tướng quân; Mạch Thiết Trượng làm Tả đồn vệ đại tướng quân, Trần Lăng làm Hữu đồn vệ đại tướng quân; Trương Cẩn làm Tả ngự uy tướng quân, Triệu Hiếu Tài làm Hữu ngự uy tướng quân; Chu Pháp Thượng làm Tả vũ vệ tướng quân, Thôi Hoằng Thăng làm Hữu vũ vệ tướng quân, Vệ Văn Thăng làm Tả ngự vệ hổ bôn lang tướng, Khuất Đột Thông làm Hữu ngự vệ hổ bôn lang tướng. Cộng tất cả là hai mươi tư viên tổng quản. Lại lệnh cho Lưu Sĩ Long làm Tuyên dụ sứ, hiệp đồng với Tổng đốc lục quân đội nguyên soái Vũ Văn Thuật, Thủy quân thống lãnh nguyên soái Lai Hoạch Nhi, làm tiểu đội vương sư, cùng tiến vào Bình Nhưỡng.” 

 Viết xong, Dượng Đế đưa cho nội giám, truyền cho các bộ, các ty biết rõ, chọn ngày tốt, thiên tử ngự tế trời đất, miếu tổ, khao thưởng ba quân, thống lãnh một vạn Vũ lâm quân, chia đường hướng Liêu Đông cùng tiến. 

 Tướng quân Lai Hoạch Nhi rõ tin hoàng đế đã rời đô thành, liền lệnh cho Tần Thúc Bảo xuất quân. Thúc Bảo từ lâu đã tìm người hiểu rõ đường sông biển làm hướng đạo, lại đinh ninh lời dặn dò của Trương Tu Đà, trước tiên sai tướng hiệu tâm phúc đi trước phát hiện những ổ mai phục dọc theo áp Lục Giang, rồi chờ sẵn ở Bình Nhưỡng đón đại quân đến sau, tiễu trừ tận sào huyệt, nội ngoại cùng giáp công. 

 Chính là: 

 Mẹo thần đã chẹn họng rồi 

 Bọn tiểu nhân rối tơi bời, vỡ gan. 

 Lại nói Dượng Đế sau khi đã ban một loạt thánh chỉ cho việc ngự du Giang Đô, liền vào cung hỏi Tiêu Hậu: 

 - Chúng cung nữ cùng đi Giang Đô, tuyển đã xong chưa? 

 Tiêu Hậu cười đáp: 

 - Bệ hạ ra cho thiếp một cái đề thật muôn ngàn khó khăn, bảo thiếp làm sao mà làm cho xong được. Cung nữ thì nhiều kẻ chẳng nói chẳng rằng, đi cũng không nói, ở cũng chẳng một lời. Ai cũng như người say rượu, thấy bệ hạ đi khỏi, cả ba bốn trăm cung nữ nhất tề kéo đến quỳ trước thềm tâu rằng: "Chúng thiếp giữ Tây Uyển từ lúc hoa sớm nở đến lúc trăng khuya mọc, trải đủ mọi sóng hồ gió núi, rồi cũng đã từng ở điện Chiêu Dương đội nhiều ơn mưa móc của chúa thượng, bao cảnh phồn hoa đã trải đủ. Chúng thiếp cũng từ Tây Kinh lại Đông Kinh, hai phen theo ngự giá. Tuy chẳng phải châu quý ngọc lành, nên chẳng dám nghĩ tới chuyện bệ hạ sủng ái, trước mắt âu cũng chỉ là cảnh trâm gãy vòng rơi, nhưng cảnh ngoài muôn dặm, Giang Đô tiên giới, tuy tai đã được nghe, mắt chưa từng thấy, dẫu chúa thượng có bỏ chúng thiếp, xin hoàng hậu hãy nói đỡ cho vài lời vậy!" 

 Nói xong, tất cả như cha mẹ chết, khóc lóc ầm ĩ, thì thử hỏi thiếp làm sao mà phân xử cho được? 

 Dượng Đế cười đáp: 

 - Bọn tiện tỳ này giỏi thật, cũng biết kéo tới cả để kêu xin kia à? 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Cũng có nguyên cớ dấy. Nhân hai phi tử họ Trương họ Doãn xúi bẩy: "Hai chúng ta thì tuổi đã cao rồi, nhan sắc đã tàn tạ rồi, nhưng các ngươi đều còn như đóa hoa tươi cả, ngày tháng còn dài, sao không nhân lúc này mà tìm cách chiếm được sự lưu tâm của chúa thượng, còn chờ đến lúc bị bỏ rơi, bị quên lãng nữa sao?". Vì vậy mà chúng cung nữ mới cùng nhau kéo đến van xin vậy. 

 Dượng Đế vừa nghe vừa gật gật đầu, gọi một thái giám truyền ngay binh bộ, chuẩn bị ngay bốn mươi chiếc thuyền, thái giám lĩnh chỉ đi ngay. 

 Thì ra Trương Phi tử, vốn có tên Diễm Tuyết, Doãn Phi tử, vốn có tên Cầm Sắt, cả hai đều cùng một lứa với Tuyên Hoa phu nhân thời Tùy Văn Đế, tuổi tác cũng xấp xỉ như Tuyên Hoa phu nhân thôi, nhưng nhan sắc thì không bằng, lúc này khoảng ba tám, ba chín gì đó. Bởi Dượng Đế chung tình với Tuyên Hoa phu nhân, nên chẳng bao giờ để ý tới hai phi tử này. Huống chi sau khi Tuyên Hoa phu nhân chết, tiếp đó là chuyện Dương Tố ngã lăn ra ở Tây Uyển, trước khi chết còn nói đủ chuyện oan cừu, chuyện hiển linh của Văn Đế giữa ban ngày, vì vậy Dượng Đế trong lòng cũng có phần sợ hãi, không dám nối mãi gót xưa. 

 Trường An lại bao phen lộn xộn, Hứa Đình Phủ bao phen tuyển cung nữ, Trương Phi tử cùng Doãn Phi tử cậy mình xưa kia được Văn Đế sủng ái, chẳng có lý nào dám đầy họ nơi này nơi khác. Mà dù có đẩy họ ra lãnh cung suốt đời đi chăng nữa, thì lòng họ cũng đã như tro tàn rồi còn hy vọng gì. Tiêu Hậu vốn là kẻ nhỏ nhen, đố kỵ, chỉ thích người khác tới xum xoe, nịnh hót, nay lại thấy cả hai người này không chịu tới xu phụng, vì vậy mới dựng nên chuyện này, để nhổ quách mấy cây cỏ dại ngứa mắt, mà vẫn được tiếng khoan nhân, rộng lượng. Dượng Đế làm thế nào mà biết được những mưu đồ đen tối đó. 

 Ngày hôm sau, những cung nữ không được chọn đi nhìn sau rèm cửa phòng, thấy Dượng Đế đang lên xe rồng, tất cả cùng kéo ra, níu lấy xe, kêu xin thảm thiết. Lại thấy khoảng chục viên nội giám, kéo đến nơi ở của Trương Phi tử, Doãn Phi tử, cao giọng nói: 

 - Chúa thượng có chỉ truyền: cả bốn trăm cung nữ chưa có trong số được chọn, lệnh cho Trương Phi tử cùng Doãn Phi tử đưa số này xuống thuyền ngay, không được sai sót. 

 Trương, Doãn hai người đều lấy làm ngạc nhiên: "Cả hai chúng ta đều chưa từng xin triều đình việc này, cũng chẳng lụy lục gì hoàng hậu, tại sao trong cái nồi hông lạnh, mà lại có hơi bay ra cho được!". 

 Bọn cung nữ lập tức vui mừng, thu thập tế nhuyễn riêng tư, chất cả lên mấy xe lớn, nhất tề ra khỏi cung cấm. Đi ròng rã một ngày trời, mãi tới hoàng hôn mới được lên thuyền. Sáng ngày hôm sau, Trương, Doãn hai người đều nghi ngờ, bèn hỏi bọn nội giám: 

 - Thuyền của chúa thượng ở đâu? 

 Nội giám đáp: 

 - Ở phía trước! 

 Trương Phi tử hỏi: 

 - Nghe nói triều đình mới đóng một trăm chiếc thuyền rồng, nay chúng ta đang đi là thuyền trưng dụng của dân chúng, chẳng phải thuyền rồng. Trong này nhất định có gì phải giấu giếm, che dậy rồi. Các người lừa chúng ta đi đâu, hãy mau nói ra xem nào? 

 Bọn nội giám thấy không thể giấu nổi, đều nhất tề quỳ thưa: 

 - Xin nhị vị phu nhân đừng nổi giận, đây chính là làm theo thánh chỉ của chúa thượng, sai bầy tôi đưa nhị vị phu nhân cùng các cung nữ về Tấn Dương cung. Nhược bằng nhị vị không tin, hiện có sắc chỉ chính tay chúa thượng ngự phê ở đây! 

 Bọn nội giám đưa sắc chỉ ra, các cung nữ trong thuyền, cùng hai Trương, Doãn Phi tử xúm lại đọc thì thấy ghi rõ: 

 "Trương Phi tử cùng Doãn Phi tử, vốn được tiên triều sủng ái quá nhiều, nay để lại đây cung phụng khó khăn, lệnh cho đem theo hơn bốn trăm cung nữ không có tên đi Giang Đô, trở về Tấn Dương cung ở Thái Nguyên trước. Truyền cho phó giám giữ cung Bùi Tịch đối chiếu sổ sách nhận đủ, trông coi chu đáo, không được sai sót.” 

 Các cung nữ đọc xong thánh chỉ, biết rõ không phải đi Giang Đô mà là trở về Tây Kinh, đều khóc lóc ầm lên, có cả kẻ đâm đầu xuống sông tự tử, có kẻ tìm dao đòi đâm cổ. Chỉ riêng Trương Phi tử thì cười ha hả mà nói: 

 - Ta xem ra các ngươi đều là một lũ ngốc. Dù có tới Giang Đô, cũng chẳng cha mẹ thân thích gì ở đó, bất quá chẳng qua là rong chơi một vùng. Việc sủng ái nào đến phần các ngươi. Cứ như ta đây còn đến thế này. Các ngươi sao không rõ số phận của mình. Về Thái Nguyên lại tự do tự tại, chẳng phải xin xỏ, chẳng phải lạy lục, chẳng người sai phái, sướng biết bao nhiêu. Cứ chờ đó mà xem bọn họ đắc ý ra thế nào! 

 Các cung nữ nghe nói thế, lòng cũng thanh thản hơn, lại nói nói cười cười trong vòng một tháng mới về đến Tấn Dương cung. Nội giám dẫn hai phi tử cùng bọn cung nữ, giao cho phó giám Bùi Tịch minh bạch, rồi quay về Giang Đô phục chỉ. 

 Không biết mọi chuyện sẽ ra sao, xin xem hồi sau phân giải. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Bốn Mươi

Đê sông Biện, ngự ban họ Dương cho cây liễu,

 Trong thuyền rồng, nàng Giáng Tiên đẹp gội ơn vua.

 Từ rằng: 

 Mây đụn mưa dầm 

 Hương thơm ngọc sáng 

 Tưởng rằng hồn vắng đã lâu 

 Ai dè oan trái đâu chốn này 

 Có hóa không, không bày ra có 

 Kia không hoa với nọ rượu thôi 

 Lời ngon ngọt miệng tươi cười 

 Bao nhiêu quyến rũ chào mời đong đưa 

 Dây lèo gấm trong mơ tay kéo 

 Đôi bờ xanh dương liễu thành hàng 

 Vì ai ai đấy bấy chầy 

 Tình kia canh nọ rộn ràng lòng ai. 

 Can qua bỗng chặn tay người lại 

 Chàng kịp cho mê mải thú vui 

 Khó mong hưởng thụ đời đời. . . 

 Theo điệu "Thiên hương dẫn" 

 * * *

 Lại nói chuyện Dượng Đế rời khỏi Đông Kinh, đi xe rồng ra sông Biện, không ghé vào hành cung nào cả, lên ngay thuyền rồng cùng với Tiêu Hậu dùng mười chiếc thuyền rồng đệ nhất đẳng. Phu nhân mười sáu viện, tiệp dư, quý nhân, mỹ nhân, chia vào thuyền rồng đệ nhị đẳng gồm năm trăm chiếc. Còn có tới mấy nghìn thuyền khác chở bọn nội giám, các công sai, tạp dịch, các bộ phận cung ứng ăn uống. Lại đặc cấp cho vợ chồng Vương Nghĩa ba thuyền, để y tuần tiễu hộ vệ quanh mười thuyền rồng đệ nhất đẳng. Còn văn võ trăm quan thì cưỡi ngựa, binh lính hộ vệ, theo hai bờ đê mà hành quân đóng trại, nếu không có lệnh triệu, không được tự tiện lên thuyền. 

 Mười thuyền rồng đệ nhất đẳng, đều dùng dây lụa kết thành một khối, đi ở chính giữa. Năm trăm thuyền rồng đệ nhị đằng, chia một nửa đi trước, một nửa đi sau, tuần tự mà tiến. Mỗi thuyền đều có cắm cờ hiệu, ghi rõ số mục, đoàn đội, các phu nhân, mỹ nhân cứ đối chiếu số mục đó mà nhận ra thuyền mình để dễ dàng mỗi khi có thánh chỉ gọi đến. Các thuyền còn lại cũng phải cắm các cờ màu vàng, chiếu theo các thuyền rồng mà đặt các số hiệu nhỏ hơn, theo đúng hiệu lệnh sai phái, không được đi nhanh hơn, cũng không cho đi chậm quá. Thuyền lớn bắn một hiệu pháo, thì các thuyền khác cứ theo lệnh đó mà tiến theo luồng nước. Một hồi thanh la nổi, tất cả các thuyền đều phải cặp neo vào bờ, không được làm cản trở lối đi chính. Một hiệu lệnh của thiên tử đã ban ra, tất tất nghiêm chỉnh nghe theo, không ai dám nhỏ to, rối loạn. 

 Thật đúng là: 

 Lệnh vua nghiêm tựa sấm ran trời 

 Muôn chiếc thuyền rồng một dãy xuôi 

 Đừng tưởng có tài thì nước trị 

 Hay đâu mất nước chính do tài. 

 Dượng Đế đang ngồi trong thuyền rồng, thì Cao Xương dẫn cả một nghìn cô gái trong đội "Điện cước nữ" tới triều kiến. Dượng Đế thấy các cô gái, ăn mặc theo kiểu Ngô, kiểu Việt xếp hàng đứng ngay trên bờ phong tư yểu điệu, mười phần đáng yêu, nên trong lòng rất hả hê, mới hỏi Cao Xương: 

 - Bọn họ đã chia thành các đội ngũ chưa? 

 Cao Xương quỳ thưa: 

 - Vương Hoằng phân chia đã xong, chỉ chưa kịp đưa trình bệ hạ xem qua. 

 Dượng Đế phán: 

 - Chẳng cần phải xem làm gì. Đợi đến ngày mai kéo thuyền trẫm dựa lan can mà ngắm là được lắm rồi! 

 Đội "Điện cước nữ được lệnh, ai về thuyền nấy. Hôm đó, trời đã về chiều, thuyền chưa thể nhổ neo, liền bày yến tiệc ngay trên thuyền, trước là tuyên triệu, bá quan văn võ cùng ăn uống, sau đó là Tiêu Hậu cùng các phu nhân, cung nữ, tiệc tùng mãi tới nửa đêm mới tan. 

 Ngày hôm sau, thánh chỉ truyền nhổ neo, lại gặp phải ngày không hề có một chút gió gọi là, chẳng thể nào giương buồm, chỉ còn cách kéo mà thôi. Trước tiên là lấy nghìn con dê béo khỏe, mỗi thuyền chia đều một trăm con, đuổi cho chạy trước. Rồi đến đội "Điện cước nữ”, cũng đều lên bờ kéo theo. Bọn "Điện cước nữ" đã qua diễn tập, tô son điểm phấn xinh đẹp mười phần, cứ theo số hiệu thuyền, thứ tự riêng mà xếp thành đội ngũ. Thuyền rồng đi đầu nổi hiệu, "Điện cước nữ” đều ra sức kéo, bầy dê cũng căng dây lụa ngũ sắc mà chạy. Mười chiếc thuyền rồng lớn được một trăm sợi dây đồng loạt kéo đi, từ từ, nhẹ nhàng tiến lên phía trước. Dượng Đế cùng với Tiêu Hậu, ngồi trên thuyền chăm chú theo dõi, thấy hai bờ dây ngũ sắc, màu áo, màu quần sặc sỡ, tiếng ngọc, tiếng vàng xen lẫn, thật đủ vẽ phong lưu, nghìn vẻ diễm kiều, từ xưa tới nay, chưa từng thấy cảnh kỳ thú như thế bao giờ. 

 Chỉ thấy: 

 Mày ngài thành đội, ngàn dây leo gấm kéo tay tiên 

 Son phấn xếp hàng, trăm bộ lưng ong gò đón chúa 

 Kỳ hương tỏa ngát, đôi bờ lan xạ ngát lừng 

 Diễm sắc đua chen, một dải the là tha thướt 

 Gặp khúc quanh, chân vàng rươn rướn 

 Tràn sóng vỗ, cánh ngọc cong cong 

 Lả lơi như trăng vờn nước mà không mờ 

 Uốn éo như hoa rung rinh mà chẳng tiếng 

 Thẹn thùng đỉnh Giáp non Thần 

 Dẫu Hằng Nga điện Quảng Hàn cũng thua 

 Anh Tương Phi Lạc Thủy mờ 

 Phi tần cung Hán thẫn thờ lảng xa 

 Buồn thương xuân vội vàng qua 

 Kéo dây ngũ sắc, căng ra lại chùng 

 Những lo người đẹp vẫy vùng 

 Dây tơ hồng buộc chân cùng, người ơi! 

 Thướt tha yểu điệu đi đời. 

 Dượng Đế cùng Tiêu Hậu dựa lan can nhìn ra, lòng hoan hỉ vô hạn. Giữa lúc chăm chú nhìn, thì đội "Điện cước nữ", kéo được khoảng trên dưới nửa dặm dường, má hồng hoen ố mồ hôi, bắt đầu thở không ra hơi. Nguyên do lúc này đã là cuối tháng ba, trời bắt đầu nóng, sáng ra, mới có bóng mặt trời phía đường đông, thì cũng chưa đáng sợ nhưng tới lúc mặt trời lên giữa đỉnh đầu, đội "Điện cước nữ” này đều là các cô gái mười sáu, mười bảy yểu điệu, làm sao chịu nổi. 

 Dượng Đế thấy thế, trong lòng thầm nghĩ: "Bọn con gái này, khi mà phấn điểm mày chau trông cũng ra dáng lắm, nhưng mồ hôi giọt này nối giọt khác thế kia, kéo lê từng bước khó nhọc, cũng chẳng còn thú vị gì nữa". Liền lập tức ra lệnh nổi hiệu dừng thuyền. Thuyền rồng đi đầu vội nổi thanh la, hai bên bờ, đội "Điện cước nữ" lập tức chùng dây, cùng nhau lên tiếng thở phào khoan khoái. Một hồi thanh la nữa vang lên, mọi người liền dùng dây buộc neo thuyền lại. Lại một hồi thanh la thứ ba, ai nấy thu dây kéo thuyền gọn gàng rồi lên thuyền của mình. Tiêu Hậu thấy vậy, bèn lên tiếng hỏi: 

 - Mới đi được một đoạn ngắn, sao bệ hạ lại lệnh cho dừng lại? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Hoàng hậu không thấy đội "Điện cước nữ" sao, mới có nửa dặm đường, mà họ đã thở hổn hển thế kia. Chỉ cần đi một hồi nữa, mồ hôi thánh thót một hồi nữa, thì quang cảnh sẽ ra sao. Trời nóng nực thế này, lại thêm ánh nắng gay gắt, vì vậy trẫm phải ra lệnh tạm dừng, nhất định phải tìm ra cách nào đó mà thay đổi chuyện này mới được. 

 Tiêu Hậu cười thưa: 

 - Thì ra bệ hạ thương hại bọn họ, sợ họ bị nắng thiêu đen cháy. Thiếp có một cách này, chẳng biết có vừa ý bệ hạ không? 

 Dượng Đế hỏi: 

 - Hoàng hậu có kế gì hay? 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Đội "Điện cước nữ" này, cả hai tay đều mắc cầm dây kéo thuyền, không còn tay nào để mà che ô, che lọng gì được, thì làm thế nào cho khỏi nắng chiếu. Cứ như ngu ý của thiếp, ta ở trên thuyền rồng cho hết mùa hạ, đợi đến mùa thu hãy đi, thì dẫu có nắng nữa cũng không đáng sợ. 

 Dượng Đế cười: 

 - Hoàng hậu lại nói chuyện đùa rồi. Trẫm cũng chẳng thương hại gì họ đâu, chẳng qua trông cảnh này chẳng đẹp đẽ chút nào cả. 

 Tiêu Hậu cũng cười: 

 - Thiếp không dám đùa bệ hạ, nhưng quả thực là chẳng có cách nào che nắng cho họ cả đâu. 

 Dượng Đế nghĩ ngợi một hồi, chẳng tìm ra cách gì cả, liền triệu quần thần đến thương nghị. Chẳng mấy chốc, quần thần đã tới đông đủ. Dượng Đế nói rõ chuyện mồ hôi giọt ngắn giọt dài của "Điện cước nữ" truyền bá quan tìm diệu kế thay đổi hiện tình. Mọi người ra vẻ nghĩ ngợi hồi lâu, nhưng chẳng ai tìm được kế sách gì. Chỉ có Hàn lâm học sĩ Ngu Thế Cơ tâu rằng: 

 - Chuyện này không có gì khó. Chỉ cần đem liễu trồng kín hai bên bờ, bóng râm nối bóng râm, xanh mượt hai hàng, thì chẳng sợ gì nắng nóng nữa. Chẳng những đội "Điện cước nữ" được mát mẻ, mà những cây liễu này bốn mùa xanh tốt, lại còn giữ cho hai bờ đê thêm vững chãi, khó mà sụt lở cho được, lá lại có thể dùng làm thức ăn cho đàn dê nữa. 

 Dượng Đế cả mừng: 

 - Thật là kỳ kế, nhưng chỉ ngại đê dài đến thế, làm sao mà trồng cho khắp được? 

 Thế Cơ thưa: 

 - Nên chia ra cho các quận huyện từng đoạn, nơi này thúc bách nơi kia. Nhược bằng bệ hạ sợ kéo dài, thì bất luận dân chúng hay quan nha, cứ trồng một cây liễu, thưởng một tấm lụa, trăm họ nghèo khổ sẽ vì lợi mà quên cả khó nhọc, trồng cả ngày lẫn đêm, thần tính rằng chỉ năm sáu ngày, công việc sẽ xong xuôi. 

 Dượng Đế vui mừng phán: 

 - Khanh thật chân tài đắc dụng. 

 Chỉ truyền đến hai bộ Binh, bộ Công, hỏa tốc viết cáo thị hiểu dụ trăm họ thôn hương, cứ trồng một cây liễu lớn, thưởng một tấm lụa. Lại sai bọn thái giám, cùng với bộ Hộ, sắp sẵn lụa tiền, cứ theo đúng số cây đã trồng mà cấp. Thực là tiền tài có sức mạnh của quỷ thần, chỉ vì để lấy thưởng mà chẳng nghĩ đến tính mạng, từ già chí trẻ, suốt ngày suốt đêm, từng đoàn từng lũ, kéo đi không ngớt. Có những nơi không có cây, phải khiêng vác từ nơi xa hàng bốn năm mươi dặm tới. Cây nhỏ thì còn dễ, những cây một người ôm không hết, thì phải xúm nhiều người đào đào bới bới rất kỳ công mà khiêng đến. 

 Dượng Đế từ trên gác cao của thuyền rồng nhìn ra, thấy dân chúng lũ lượt từng đoàn như ong như kiến tới trồng liễu, lòng vô cùng hân hoan, nói với quần thần: 

 - Ngày xưa Chu Văn Vương có công đức với thần dân, dân vì Văn Vương mà xây đài điện, đào ao hồ, chẳng khác gì con làm cho cha, nghìn đời vẫn coi đó là tấm gương tốt đẹp. Các khanh nhìn trăm họ hai bên bờ sông kia, tranh nhau kéo đến trồng liễu, thì nào có khác gì cảnh xưa. Trẫm cũng nên thân hành trồng một cây, để ai nấy đều thấy được vua tôi cùng vui cảnh thái bình thịnh trị! Âu cũng là một việc tốt đẹp vậy! 

 Rồi dẫn quần thần, kéo lên bờ, trăm họ trông thấy, đều quỳ lạy sát đất. Dượng Đế truyền lệnh đứng dậy phán rằng: 

 - Trăm họ phải trồng cây khổ cực, trẫm thấy áy náy không yên. Trẫm muốn cùng dân chúng trồng một cây, để tỏ ý thương yêu dân chúng vậy. 

 Rồi đến bên hàng liễu, chọn một cây, định tự tay bưng đi đặt xuống hố đã đào sẵn, thì đã có rất nhiều bọn nội giám đỡ lấy mang đi đặt xuống hố, lấp đất xong ngay. Dượng Đế chỉ còn đưa tay vuốt ve mấy cái, thế là cây đã trồng xong. Trăm họ xúm lại tung hô vạn tuế. Sau đó đến lượt các vị dại thần, theo cách đó, mỗi vị trồng một cây. Trăm họ la hét ầm ĩ, cũng chẳng ra ca, cũng chẳng ra hát, mà chỉ là thuận miệng làm mấy câu nôm na: 

 Trồng liễu, trồng liễu! 

 Bàn tay kheo khéo 

 Đã có bóng mát, lại nhiều củi đun 

 Vua trồng lại các quan trồng 

 Nào mời trăm họ cùng trồng liễu đi! 

 Dượng Đế nghe thế, lòng càng hớn hở, sai lấy rất nhiều tiền bạc, thưởng cho mọi người, sau đó cùng kéo lên thuyền. Dân chúng được lợi chẳng ngại gần xa, đều kéo tới trồng liễu rất đông, nên chỉ hai ba ngày sau, hai bờ đê dài hàng nghìn dặm, đều đã được phủ xanh mượt mà, bóng râm mát che khắp mặt đường, ngọn đâm thẳng trời xanh. Gió khe khẽ lay động, càng thêm mát mẻ, đêm tới, trăng lên cảnh càng mơ màng huyền ảo. Dượng Đế cùng Tiêu Hậu dựa lan can mà ngắm nhìn không chán. Dượng Đế nói với Tiêu Hậu: 

 - Liễu rũ thật thướt tha, chẳng khác gì một tấm màn màu thanh thiên vậy! 

 Tiêu Hậu đáp: 

 - Màn thanh thiên làm gì có được vẻ tự nhiên phong lưu thế được! 

 Dượng Đế tiếp: 

 - Trẫm phải phong cho giống liễu này một chức quan nào đó. Nay nhân những hàng liễu chen lẫn lộn xộn với đám cung nữ thế kia, trông quả có chỗ không được tao nhã, trẫm ban cho những cây liễu này họ vua, gọi Dương Liễu là hợp hơn cả? 

 Tiêu Hậu cười đáp: 

 - Bệ hạ thưởng công lao của cây cỏ, mà cũng đúng thể chế lắm! 

 Dượng Đế sai lấy văn phòng ngự bảo, tự tay viết hai chữ to: "Dương Liễu" trên đoạn màu hồng, sai tả hữu treo lên một cây liễu cao nhất phía trước, coi như làm lễ ban quốc tính họ Dương cho giống liễu vậy. 

 Mọi chuyên xong xuôi, ra lệnh nhổ neo, thuyền rồng đi đâu nổi một hồi trống,"Điện cước nữ" cứ thứ tự mà kéo dây lụa ngũ sắc. Giờ thì đã có hai hàng dương liễu che, màu xanh dày kín, bóng nắng không xuống được đến mặt đường, chỉ nghe tiếng gió thổi rì rào, thật là mát mẻ khoan khoái. "Điện cước nữ" cũng vì vậy mà thoải mái hơn nhiều, không còn khó nhọc lắm, trông dáng điệu lại càng thướt tha, vừa kéo vừa cười cười, nói nói. Dượng Đế thấy thế, trong lòng vô cùng thanh thản, liền gọi phu nhân mười sáu viện, cùng các mỹ nhân tới vừa uống rượu, vừa thưởng ngoạn. 

 Dượng Đế uống đến nửa say nửa tĩnh, thấy lòng hớn hở, đem theo Bảo Nhi đi khắp các thuyền rồng, xem các đội "Điện cước nữ ”, chỉ thấy các cô gái đất Ngô, đất Việt lụa là rực rỡ, phất phới bay theo chiều gió, càng hiện rõ vẻ yêu kiều trong hàng liễu xanh tươi, thật là trăm hoa đua nở. Đến thuyền rồng đệ nhất đẳng thứ ba, thấy một cô gái, mười phần xinh đẹp, lưng cong uốn éo, cốt cách duyên dáng, khuôn trăng đầy đặn, da trắng như tuyết, đôi mắt đen lay láy như sơn. Dượng Đế thấy thế, kinh ngạc thốt lên: 

 - Cô gái này dáng vẻ thần tiên, chẳng khác gì Tây Thi, Vương Chiêu Quân, sao lại lẫn lộn trong đám này. Người xưa nói: "Tú sắc khả san", sắc đẹp có thể no được. Nay đứng trước thiên hương quốc sắc thế này, không thể không nâng chén được vậy. 

 Bảo Nhi thưa: 

 - Cô này quả hơn hẳn mọi người, chúa thượng thưởng giám không sai! 

 Tiêu Hậu thấy Dượng Đế lâu không quay về, liền sai Quý Nhi, Dã Nhi mời về uống rượu, Dượng Đế đời nào chịu về, chỉ chăm chú nhìn người dẹp không chớp mắt. Quý Nhi mời không được, liền quay về thưa với Tiêu Hậu, Tiêu Hậu cười: 

 - Hoàng đế lại bị ma quỷ nào ám rồi đây! 

 Liền dẫn đám phu nhân đến thuyền rồng thứ ba xem xét ra sao. 

 Thấy cô gái này quả là nghiêng nước nghiêng thành, Tiêu Hậu lên tiếng: 

 - Cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi chúa thượng chăm chú đến thế, cô gái này quả là đẹp thực. 

 Dượng Đế cũng cười đáp: 

 - Trẫm nhìn có bao giờ sai đâu? 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Bệ hạ chưa nên vội vàng như thế, nhìn xa thì hay thế, nhưng xem gần chưa chắc ra sao. Sao bệ hạ không triệu cô ta lên thuyền xem thế nào? 

 Dượng Đế bên sai nội giám gọi lên. Ban đầu Dượng Đế nhìn xa, chẳng qua chỉ nhận ra dáng điệu chung chung, nay đến trước mặt, thì mới thấy hai hàng lông mày vừa đen vừa dài, như hai vành trăng non, hàm răng đều đặn trắng óng ánh như ngọc, vẻ đen trắng càng lộ rõ, một vẻ đẹp thơm ngát như tỏa ra từ làn da, từ dáng điệu. Dượng Đế thấy thế, mười phần hớn hở, liền nói với Tiêu Hậu: 

 - Không ngờ hôm nay lại gặp được bậc mỹ nhân như thế này. 

 Tiêu Hậu cười đáp: 

 - Bệ hạ thật có phúc hưởng chuyện phong lưu. Cho nên trời sinh người đẹp, đem tới để bệ hạ thưởng ngoạn vậy! 

 Dượng Đế hỏi cô gái: 

 - Khanh người ở đâu? Tên gọi là gì? 

 Cô gái thẹn thùng thưa: 

 - Tiện thiếp người vùng Ngô Quận, họ Ngô, tên là Giáng Tiên. 

 Dượng Đế lại hỏi: 

 - Năm nay mười mấy tuổi? 

 Giáng Tiên thưa: 

 - Tiện thiếp năm nay mười bảy tuổi? 

 Dượng Đế liền tiếp: 

 - Đúng ở tuổi đẹp nhất? 

 Rồi cười hỏi: 

 - Đã lấy chồng chưa? 

 Giáng Tiên nghe hỏi, bất giác xấu hổ, cúi đầu không đáp, Tiêu Hậu cười nói: 

 - Chẳng việc gì phải e thẹn, chỉ sợ rồi đêm nay phải đi lấy chồng thôi? 

 Dượng Đế cười: 

 - Hoàng hậu giống như người làm mối vậy! 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Thì cũng không thể không nói bệ hạ giống như chú rể vậy! 

 Lương phu nhân thưa: 

 - Chúng thiếp sợ không có dịp để uống rượu mừng thôi! 

 Các phu nhân được dịp nói cười ầm ĩ. Trời đã về chiều, lệnh dừng thuyền ban ra, lại một hồi thanh la, dây kéo nhất tề cuốn lại, các "Điện cước nữ” được về thuyền. 

 Tiệc rượu được bày ra, Dượng Đế cùng Tiêu Hậu ngồi ở ngôi cao, phu nhân mười sáu Viện, cùng tài nhân, quý nhân ngồi thành hai hàng. Quý Nhi dẫn theo Triệu Vương, lúc nào cũng ở bên cạnh Sa phu nhân. Các mỹ nhân chỉnh tề đứng hầu phía sau, hết hát lại đàn, hết đàn lại múa, rồi cùng nhau say sưa ăn uống. Dượng Đế tuy uống rượu nhưng lòng thì nghĩ đến Ngô Giáng Tiên, cầm chén rượu nhưng trầm ngâm. Tiêu Hậu thấy vậy, biết ngay nguyên do, bèn lên tiếng thưa: 

 - Bệ hạ chẳng cần phải nghĩ ngợi. Người mới so làm sao được với người cũ. Ngô Giáng Tiên vừa được vào cung, sao không cho lên ngồi một bên bệ hạ, để cùng uống một chén rượu hợp cẩn? 

 Dượng Đế bị Tiêu Hậu nói một câu trúng ngay nỗi lòng, nên cất tiếng cười vang. Tiêu Hậu liền gọi Giáng Tiên rót một chén rượu, đưa mời Dượng Đế, Dượng Đế một tay đỡ lấy chén rượu, còn tay kia nâng dải tóc của Giáng Tiên rồi hỏi: 

 - Hoàng hậu cho khanh ngồi một bên, khanh thấy thế nào? 

 Giáng Tiên thưa: 

 - Thiếp vốn phận nghèo hèn, được đứng hầu ở đường sau đã là vạn hạnh, đâu dám ngồi. 

 Dượng Đế mừng đáp: 

 - Thế là khanh cũng biết nghi lễ, ngồi hay không cũng không sao, nhưng rượu không uống được một chén sao? 

 Liền gọi tả hữu, rót một chén rượu, ban cho Giáng Tiên, Giáng Tiên không dám chối từ, đỡ lấy uống cạn. Các phu nhân thấy Dượng Đế có vẻ cuồng đãng, đều cùng hứng khởi, người này chuốc một chén, người kia dâng một chén, chẳng mấy lúc, Dượng Đế đã say mềm, bèn đứng dậy, bọn cung nhân nhanh nhẩu đưa Giáng Tiên, cùng về phía hậu cung. 

 Tiêu Hậu miễn cưỡng cùng ăn uống với chúng phu nhân, Tử Yên lấy cớ đau bụng, xin phép về thuyền trước. Nói rằng trên thuyền rồng đệ nhất đẳng, được làm như cung như điện, nhưng vì khoảng rộng có hạn, làm sao cho bằng cung điện ở trên mặt đất cho được, tường ngăn vách cách, mặc sức cười đùa, chẳng ai nghe thấy. Ở đây, tuy Dượng Đế cùng Giáng Tiên về hậu cung, nhưng cũng trong gang tấc, gió đưa mây thoảng trước sau, sau trước đều yên tĩnh một vùng, nên tiếng cười tiếng nói líu lo, nghiêng tai nghe rõ. Dã Nhi lên tiếng: 

 - Đã làm người thì không nên làm đàn bà. Vì đàn bà phải chịu không biết bao nhiêu chuyện nổi trôi sóng gió. 

 Tiêu Hậu đáp: 

 - Làm đàn ông chưa chắc đã hơn làm đàn bà đâu. Đàn bà không phải lo nhiều chuyện, chỉ cần lo giữ tiết hạnh thói thường, ngộ biến tòng quyền, mặc cho biển biếc thành nương dâu, ta chỉ như con thuyền theo gió, gặp đâu cũng vừa lòng, cũng thoải mái. 

 Lý phu nhân đáp: 

 - Hoàng hậu nói đúng lắm! 

 Tần phu nhân quay nhìn Sa phu nhân, Sa phu nhân lại quay nhìn Địch phu nhân, Hạ phu nhân. Im lặng hồi lâu. Tiêu Hậu đứng dậy chúng phu nhân đưa tiễn ra thuyền rồng đệ nhất đẳng, rồi ai về thuyền ấy. Sa phu nhân nói với Tần, Hạ, Địch, ba phu nhân: 

 - Chúng ta lại xem Viên Quý nhân, vì sao lại đau bụng đi! 

 Các phu nhân vừa mới tới thuyền Tử Yên, thì thấy trên không một tiếng sét lớn, chẳng khác nào trời long núi sập, các phu nhân người ngã lăn quay, hàng trăm chiếc thuyền cửa đập rầm rầm, rèm màn, xiêm y bay tứ tung, Dượng Đế vội vàng gọi nội giám truyền lệnh: 

 - Vương Nghĩa cùng bá quan, xem xét ngay chung quanh, sét đánh nơi nào, có gây hỏa hoạn, cứ phải thực mà tâu ngay.Vương Nghĩa vâng, cùng các quan tuần sát một vòng. Bốn vị phu nhân, sau khi đã trấn tĩnh được cơn sợ hãi, liền hỏi bọn cung nữ: 

 - Viên Quý nhân đã đi ngủ chưa? 

 Cưng nữ thưa: 

 - Viên Quý nhân hiện đang ở trên "Quan Tinh đài” từ lâu. 

 Vốn ở thuyền rồng của Tử Yên, có dựng cả một gác cao xem trăng sao. Cả bốn vị phu nhân cùng kéo lên dài, thì thấy Tử Yên, Quý nhân dẫn Triệu Vương, theo sau là vợ Vương Nghĩa, Khương Đình Đình. Sa phu nhân nói với Triệu Vương: 

 - Ta đang đi tìm con. May con lại ở đây sao? 

 Đình Đình lạy chào Sa, Tần, Hạ, Địch, bốn vị phu nhân, Đình Đình trước kia vốn cũng là cung nữ, các phu nhân cho phép cùng ngồi. Hạ phu nhân hỏi Tử Yên: 

 - Quý nhân vừa rồi cáo đau bụng, sao lại lên đài làm gì? 

 Tử Yên cười đáp: 

 - Thiếp không phải phường nghiện rượu Cao Dương (1) cũng không phải anh hề Mạn Thiến (2). chúa thượng đã trở về hậu cung, bọn ta đương nhiên cũng nên cáo lui, dồn cả lại một nơi, định để làm gì. Lại thêm, đêm qua thiếp xem thiên văn, thấy vùng Khảm đàn khí sắc không tốt, không ngờ lại ứng vào lúc vừa rồi, chỉ sợ tử vi đàn lung lay không biết lúc nào, có lẽ cũng chẳng lâu nữa đâu. Làm thế nào bây giờ, tính toán ra sao đây? 

 1 Phường nghiện rượu Cao Dương: Nguyên văn là "Cao Dương tửu đồ". Trâu 

 Sinh xin gặp Lưu Bang hỏi Trâu Sinh là ai, bọn tay chân thưa: "Giống nhà nho", Lưu Bang nói: "Ta không tiếp, việc của ta là cả thiên hạ, không rỗi hơi đâu mà tiếp mấy anh nhà nho". 

 2 Mạn Thiến: tên của Đông Phương Sóc, giỏi văn chương, hài hước, làm quan thi trung thời Hán Vũ Đế. Thường được xem như anh hề mua vui cho các bậc vua chúa. (Từ Hải) 

 Sa phu nhân hỏi Đình Đình: 

 - Chúng ta ở trong cung cấm, chẳng hiểu sự thể bên ngoài ra sao? 

 Đình Đình thưa: 

 - Cảnh tượng bên ngoài, chỉ còn có mỗi chúa thượng là chẳng thấy gì cả thôi. Công việc chín châu, cứ như vợ chồng kẻ ngu ngốc này được nghe, được thấy, thì không phải chỉ thở dài nữa, mà thực là phải khóc rống lên mới đáng! 

 Tần phu nhân thất kinh hỏi: 

 - Sao lại đến thế kia ư? 

 Đình Đình đáp: 

 - Triều đình năm này liền năm khác hưng công dựng đài xây điện, đào sông quật biển, du ngoạn liên miên, đến nỗi trăm họ nhà tan, thân chết. Gần đây lại khắp nơi giặc giã, trộm cướp, lừa đảo, cướp đoạt giết chóc, chẳng mấy chốc sẽ dẫn đến việc giặc cướp còn nhiều hơn cả dân chúng. 

 Tử Yên hỏi: 

 - Trước đây chúa thượng có sai Dương Nghĩa Thần đi dẹp giặc cướp ở vùng Hà Bắc, chẳng biết sự thể ra sao rồi? 

 Đình Đình đáp: 

 - Dương lão tướng thu được rất nhiều công trạng. Diệt được Trương Kim Xứng, đang tìm cách trừ nốt Đậu Kiến Đức. Không ngờ có kẻ ganh ty với công lao của lão tướng, nói lão tướng binh quyền quá lớn, bắt về hưu trí rồi tìm người khác thay mất. 

 Địch phu nhân nói: 

 - Xưa nay vốn vui quá hóa buồn. Tiệc rượu nào là tiệc rượu chả tan. Nhưng chẳng biết rồi đám chúng ta đây gửi mảnh xương tàn ở đâu được hay cũng đến vùi lấp ở ngòi rãnh nào đó thôi! 

 Quý Nhi lên tiếng: 

 - Sống chết, vinh nhục trên đời này, lòng trời đã xếp đâu đó cả rồi. Chẳng cần phải ngồi để chờ làm người tù nước Sở ngồi nhìn nhau làm gì. (1) 

 Chuyện trò một hồi, rồi ai về thuyền nấy. Thôi chẳng nói nữa! 

 1 Tả truyện: Tấn Hầu ngồi trong phủ, thấy Chung Nghi liền hỏi: "Người bị trói, đội mũ phương Nam kia là ai?". Bọn tay chân thưa: "Đó là người tù nước Sở..." 

 Thế thuyết: Những kẻ chạy giặc Hồ về nam, gặp ngày đẹp trời, tụ nhau uống rượu ở Tân Đình rồi nhìn nhau mà khóc. Vương Thừa tướng biến sắc mặt mà nói: "Phải ra sức giúp vua, lấy lại chín châu, sao lại làm người tù nước Sở nhìn nhau mà khóc thế này" (Từ Hải). 

 *** 

 Lại nói Dượng Đế được người đẹp Giáng Tiên, vui vầy được bảy tám ngày, thì cũng vừa lúc thuyền đến Thư Dương, nhân thấy sông đào rất cạn, lại biết long mạch thành Thư Dương chưa bị đào bới gì cả, tìm nguyên do, sai bắt Lệnh Hồ Đạt đến tra hỏi ngay trước ngự tiền. 

 Lệnh Hồ Đạt đem chuyện Ma Thúc Mưu ăn thịt trẻ con, thông đồng với Đào Liễu Nhi gian trá, ăn tiền của dân sở tại. Lệnh Hồ Đạt cũng không quên thưa: mình đã dâng ba lần tấu chương kể rõ, đều bị Trung môn sứ Đoàn Đạt, ăn của Ma Thúc Mưu hàng nghìn lạng vàng, nên những tờ giấy tấu chương đó bị giữ lại không được đến tay vua. 

 Dượng Đế đùng đùng nổi giận, liền sai Lưu Sầm tra xét công thự của Ma Thúc Mưu, xem có những gì làm tang chứng. Lưu Sầm đi không lâu đã thấy đem những vàng bạc châu báu của Thúc Mưu về trình trước mặt vua. Thì thấy có ba nghìn lạng vàng, ngọc trắng mà Thái thường khanh Ngưu Hoàng đem đến tế ở đền Lưu Hầu cũng thấy ở đây, lại còn thấy cả con dấu ngọc truyền quốc từ đời này sang đời khác. Dượng Đế thất kinh: 

 - Ngọc tỷ này chính là vật báu truyền quốc của trẫm. Dạo trước bỗng nhiên mất, trẫm đã tìm khắp trong cung, tịnh không dấu vết, không ngờ thằng giặc già này sai Đào Liễu Nhi ăn trộm về đây. Cung cấm thâm nghiêm đến thế, chúng dùng cách gì mà vẫn lấy được. Hiểm nguy đến thế! 

 Liền truyền lệnh cho nội sứ Lý Bách Nhạc, dẫn một nghìn quân kỵ mã đến vây kín thôn Thượng Mã, huyện Ninh Lăng, bắt cả nhà Đào Liễu Nhi. Vì không biết gì cả, bị quan quân vây kín thôn, kín nhà, toàn bộ họ hàng già trẻ, cộng tám mươi bảy người, đều bị bắt gọn. Lại thêm bọn tay chân Trương Yến Tử cũng đều bị giải đến, các quan đại thần được lệnh tra kháo tàn khốc, bắt khai mọi chuyện, rồi trở về tâu lại Dượng Đế. 

 Dượng Đế ra lệnh: Tất cả nhà Đào Liễu Nhi đem ra chợ chém đầu. Ma Thúc Mưu chém một nhát ở cổ, một nhát ở lưng, chia làm ba đoạn, ứng đúng như lời Hoàng Phủ Quân nói với Địch Khứ Tà: "Sang năm ta sẽ tặng Ma Thúc Mưu hai lưỡi dao vàng". Đoàn Đạt ăn hối lộ, dối vua, tội đáng chém đầu, nhưng vì trước cũng có nhiều công lao, tha cho tội chết, giáng làm Giám môn lệnh Lạc Dương. 

 Chính là: 

 Lưới trời thật rộng 

 Quả báo rất gần! 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top

Tags: #tuy