Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị và ý nghĩa nhân đạo

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

BÀI LÀM
Tô Hoài sinh tại Hà Tây (nay là Hà Nội), là một nhà văn lớn của dân tộc. Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước. Ông cũng là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, cách miêu tả giàu chất tạo hình, ngôn ngữ phong phú và đậm chất khẩu ngữ. Vợ chồng A Phủ được sáng tác năm 1953 trích trong tập Truyện Tây Bắc – được tặng giải nhất về truyện và kí của Hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Đó là kết quả chuyến đi dài tám tháng cùng bộ đội tham gia chiến dịch giải phóng Tây Bắc của tác giả. Từ đó ông đã phản ánh chân thực và đầy xúc động cuộc bị áp bức và quá trình vùng lên đấu tranh của nhân dân nơi đây thông qua số phận của những người tiêu biểu như Mị, một nhân vật gây ấn tượng với sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Vợ chồng A Phủ

Đoạn trích kể về cuộc đời của Mị. Nhân vật là cô gái trẻ đẹp, hiếu thảo, vì món nợ của bố mẹ mà cô đã trở thành con dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra. Mị sống kiếp nô lệ năm này qua năm khác cho đến khi gặp Anh Phủ - một chàng trai nghèo mồ côi, dũng cảm, lao động giỏi, do đánh con quan nên phải ở đợ không công cho nhà thống lí. Vì để hổ ăn mất con bò nên A Phủ bị trói đứng vào cột suốt mấy đêm liền. Cảm thương cho Anh Phủ, Mị đã cởi trói cho anh và cùng anh bỏ trốn khỏi Hồng Ngài. Cuộc đời chia làm hai chặng: Hồng Ngài và Phiềng Sa. Ở nơi tăm tối đọa đày, nổi bật ở Mị là sức sống tiềm tàng mãnh liệt được biểu hiện cụ thể qua những diễn biến hành động, tâm trạng ở hai thời điểm quan trọng đêm tình mùa xuân và đêm đông khi chứng kiến cảnh A Phủ bị trói. Vợ chồng A Phủ

Mùa xuân trên núi cao với bao điều đẹp tươi, rộn rã: "Gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng", "những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mõm đá xòe hoa như con bướm sặc sỡ" và đám trẻ con "chơi quay, cười ầm ầm trên sân chơi trước nhà". Quan trọng nhất chính là tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình mùa xuân. Ngoài đầu núi tiếng sáo rủ bạn đi chơi như chạm vào bao nỗi niềm của Mị. Tiếng sáo được miêu tả bằng những từ láy, đi từ xa đến gần: đầu tiên là "ngoài đầu núi lấp ló", rồi "vọng lại thiết tha, bồi hồi" sau đó là "văng vẳng đầu làng", "lửng lơ bay ngoài đường" và cuối cùng "trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo". Không chỉ là chi tiết đặc tả nét đẹp văn hóa tinh thần của người dân Tây Bắc, tiếng sáo gọi bạn này đã khơi gọi lại tươi đẹp, đồng thời đánh thức niềm khao khát sống, khao khát yêu đương trong tâm hồn tưởng đã nguội lạnh của Mị. Vợ chồng A Phủ

Khi nghe tiếng sáo vọng lại, Mị bừng tỉnh, thoát khỏi trạng thái vô cảm nay, cô đã cảm nhận tiếng sáo bằng tâm trạng "thiết tha bổi hổi". Sau đó, Mị "nhẩm theo bài hát của người dang thổi sáo" và lấy rượu uống, uống rất lạ: "cứ uống ừng ực từng bát". Từ lúc ấy, dường như "lòng Mị đang sống về ngày trước", ngày còn tự do, khi mùa xuân về Mị thổi sáo và "có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị". Sức sống trong Mị bắt đầu hồi sinh: "Đã từ này, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước", Mị đã nhận thức ra vấn đề mình vẫn còn là con người, vẫn còn quyền sống của một con người: "Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi". Đồng thời Mị ý thức được mình rất cần hạnh phúc: "bao nhiêu người có chồng cũng được đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau". Khi lòng khao khát sống hạnh phúc trào dâng cũng là lúc Mị nhận ra được nỗi tủi nhục, bất hạnh của mình và cô đã nghĩ đến cái chết: "nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra". Trong tiếng sáo là tiếng gọi của tình yêu cuộc sống kéo Mị về nỗi khát khao tự do hạnh phúc, tự do trỗi dậy mãnh liệt trong Mị: "Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi". Do đó, Mị đã hành động nhanh chóng: "lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng, ...quấn lại tóc, với tay lấy váy hoa vắt ở trong vách, rút thêm cái áo" chuẩn bị đi chơi. Vợ chồng A Phủ

Thế nhưng, khi A Sử về, thấy Mị chuẩn bị đi chơi, hắn đã thẳng tay vùi dập Mị tàn tệ: "lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa". Lúc đầu, Mị không hề phản ứng bởi Mị vẫn còn sống trong tâm trạng thiết tha bồi hồi, vẫn còn thấy "hơi rượi còn nồng nàn", vẫn còn nghe tiếng sáo, "như không biết mình đang bị trói" mà vẫn hướng theo "tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi". Nhưng rồi, khi "vùng bước đi" mà "chân tay đau không cựa được", và "không nghe tiếng sáo nữa", chính lúc ấy Mị trở về với thực tại đắng cay. Mị khóc cho thân phận mình "không bằng con ngựa". Ngọn lửa mà Mị thắp lên đã bị A Sử dập tắt. Nhưng A Sử chỉ có thể trói buộc về thể xác mà không trói buộc được tâm hồn Mị. Cuộc trỗi dậy ấy đã đứt đoạn trong đau đớn nhưng ngọn lửa của khao khát sẽ bùng lên mãnh liệt, dữ dội hơn trong tương lai. Vợ chồng A Phủ

Đêm đông trên núi kéo dài trong cái lạnh buốt giá ghê người, khi đang thức sưởi lửa để xua đi cái lạnh của "những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn", vô tình Mị "lé mắt trông sang" và thấy "hai mắt của A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Đầu tiên, Mị lạnh lùng, vô cảm khi vẫn "thản nhiên thổi lửa, hơ tay"; cô đã nghĩ "Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi". Nhưng khi chợt chứng kiến nước mắt của A Phủ, Mị dần thay đổi, Mị nhớ lại hoàn cảnh của mình trước đây khi bị A Sử hạnh hạ: "Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được". Cô bắt đầu thấy cảm thông cho A Phủ "Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết" và căm phẫn tội ác của cha con thống lí "nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác". Cô nghĩ đến thân mình "là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình mà nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi" và nhận thức được sự vô lí đối với A Phủ: "người kia việc gì mà phải chết thế", đồng thời Mị tưởng tượng cảnh nếu A Phủ trốn được, Mị sẽ phải chết thay. Dần dần Mị đã thắng sự sợ hãi "nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ..." để dẫn đến kết quả là hành động cắt dây trói của nhanh chóng, dứt khoát. Và sau phút giây ngắn ngủi "đứng lẳng lặng trong bóng tối", Mị đã "vụt chạy ra" trốn thoát cùng A Phủ. Vợ chồng A Phủ

Hành động này hoàn toàn phù hợp với quá trình phát triển của tâm lí nhân vật. Tuy có tính tự phát song đó là kết quả tất yếu của một quá trình bị dồn nén, bức xúc về tinh thần đòi hỏi phải được giải thoát. Với hành động ấy, Mị không chỉ cứu người mà cô còn cứu được chính bản thân mình; đồng thời nó còn thể hiện khát vọng sống, ngọn lửa yêu thương sự sống mãnh liệt đã cháy bừng lên trong con người Mị. Việc cắt đứt dây trói cho A Phủ còn là tượng trưng cho việc cắt đứt sợi dây vô hình của cường quyền, thần quyền đã trói buộc cuộc đời Mị, A Phủ trong vòng nô lệ suốt bao năm qua. Hành động này xuất hiện rất thích hợp vào vào đúng khoảnh khắc có tính chất quyết định cho sự trỗi dậy của nhân vật, có ý nghĩa to lớn bởi nó là sự hồi sinh, là biểu tượng của tinh thần phản kháng quyết liệt với kẻ ác khởi đầu từ sự tự phát đến quá trình tự giác đi theo cách mạng. Vợ chồng A Phủ

Khi miêu tả Mị, nhà văn chủ yếu khắc họa tâm tư của nhân vật. Với ngôn ngữ đầy chất thơ, lời văn giàu chất tạo hình, đặc biệt là ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo, tác giả đã thể hiện thành công cuộc đời nô lệ lay lắt đói khổ, nhục nhã của Mị, nhân vật tiêu biểu cho người phụ nữ lao động nghèo khổ miền núi dưới ách thống trị của giai cấp phong kiến. Họ có tâm hồn trong sáng, yêu đời, khao khát hạnh phúc, sức sống mãnh liệt, bị chà đạp nhưng đã vùng dậy tự giải thoát và mở ra hướng giải thoát cho bản thân và bao người khác. Vợ chồng A Phủ

Xây dựng bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi Tây Bắc, tác giả đã tố cáo tội ác và bản chất xấu xa, tàn bạo của bọn thống trị vùng cao. Ông cũng bày tỏ sự cảm thông sâu sắc với cuộc sống cơ cực, tủi nhục của người lao động nghèo Tây Bắc khi phát hiện và trân trọng những phẩm chất tốt đẹp, khát vọng sống, khát khao hạnh phúc và cũng như tin tưởng vào khả năng làm cách mạng, đấu tranh, tự giải phóng, tự thức tỉnh của những người bị áp bức cũng như tình hữu ái giai cấp của họ. Hơn thế, nhà văn đã mở ra cho nhân vật một hướng đi, một lối thoát tìm đến tương lai tươi sáng. Tất cả những điều này mới làm nên giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của tác phẩm.

Tác phẩm là một bước tiến của Tô Hoài trong việc phản ánh hiện thực cách mạng và thể hiện chủ nghĩa nhân đạo theo quan điểm cách mạng. Với những hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán, về tâm hồn đồng bào miền núi và giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc và phong vị Tây Bắc, vừa giàu tính tạo hình, vừa giàu chất thơ; tác giả chẳng những làm sống lại trước mắt người đọc cuộc đời đầy tủi cực của đồng bào miền núi ở giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám mà còn cho thấy khả năng to lớn của họ trong quá trình tự giải phóng và đến với cách mạng. Sức cuốn hút của những tác phẩm chính là ở những yếu tố ấy. Vợ chồng A Phủ

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top