Truyen2U.Top - Tên miền mới của Truyen2U.Net. Hãy sử dụng ứng dụng 1.1.1.1 để đọc truyện nhé!

Võ Lâm Phong Thần Bảng31-40

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 31

Đường Gươm Vô Địch

Quan Sơn Nguyệt đã sai lầm trong một dự tính mà thành ra phải lâm vào cảnh chí nguy.

Chàng định vận dụng toàn lực bình sanh vung chiếc kim thân độc cước đánh bay ngọn trường mâu của Kỳ Hạo. Thân vóc của chàng cường tráng, giả dĩ công lực hùng hậu so với Kỳ Hạo, chàng thấy mình phải có khí lực hơn nhiều. Ngờ đâu Kỳ Hạo tuy nhỏ vóc hơn song công lực của hắn vẫn hùng hậu chẳng kém. Tuy chàng đánh gãy ngọn trường mâu, ngược lại chiếc kim thân cũng phải vuột tay bay đi.

Để bây giờ Kỳ Hạo dùng hai đoạn mâu đó, một đâm một đập, cả hai đoạn cùng vút đi, đương nhiên phải nhanh. Chàng làm sao trước thế công của địch?

Trong khi tay chàng chẳng có tấc sắc nào?

Những người đặt kỳ vọng nơi chàng dù còn tin tưởng nơi chàng cũng phải rợn mình.

Đành rằng hai đoạn mâu đó của Kỳ Hạo không thể làm cho Quan Sơn Nguyệt phải chết, nhưng sự tình nào phải chỉ dừng lại ở một Kỳ Hạo mà thôi? Kỳ Hạo bất quá là một tên tướng xung trận lót đường do vị chủ soái phát xuất để đo lường công lực địch, để làm giảm bớt công lực địch, khởi đầu cho một cuộc chiến xa luân.

Thế mà chàng không thắng được thì còn mong gì giao thủ với vị chủ soái của cánh đối lập? Nhất là lúc đó thì chàng kiệt quệ lắm rồi qua cuộc chiến xa luân.

Nếu chàng không thắng nổi Kỳ Hạo, và thắng nhanh chóng thì cục diện hôm nay sẽ kết thúc với cái thảm bại của bọn Lý Trại Hồng, và cái thảm bại đó sẽ tạo thành sự diệt vong của toàn thể đồng đạo.

Bên ngoài, phe của chàng lo ngại như thế.

Bên trong cuộc chiến, chàng cũng lo ngại như thế. Chàng tự hỏi làm cách nào dùng tay không đối phó với Kỳ Hạo! Chẳng lẽ chàng rút thanh kiếm bên mình ra?

Thanh kiếm đó chỉ dành để đối phó duy nhất với một Tạ Linh Vận thôi.

Kiếm pháp Đại La chỉ có bảy chiêu, nếu mang ra dùng một chiêu, hạ được Kỳ Hạo rồi thì chỉ còn lại sáu chiêu, như vậy vô hình trung Tạ Linh Vận có lợi, chàng tạo cái lợi đó cho Tạ Linh Vận. Bởi y đã thấy kiếm rồi thì chàng còn đánh bất ngờ làm sao được nữa? Tạ Linh Vận sẽ nghĩ ra phương pháp hóa giải chiêu kiếm. Còn sáu chiêu sao bằng còn đủ cả bảy chiêu?

Trong khi chàng đắn đo thì Kỳ Hạo không để mất một phút giây nào. Hắn vung tay, đoạn mâu nhọn đâm, đoạn mâu tà đầu một đâm ngang một từ trên đập xuống, cả hai đoạn mâu chỉ còn cách Quan Sơn Nguyệt độ tấc.

Cho đến bây giờ, Quan Sơn Nguyệt mới nghĩ ra cách hóa giải thế công của địch mà chẳng cần dùng đến thanh kiếm Bạch Hồng.

Ép hai gối vào hông lạc đà, kẻ nhún mình, chàng lấy đà vọt thẳng lên cao đồng thời dựng đứng một bàn chân dùng mũi giày đá vào đầu đoạn mâu dưới.

Đoạn mâu đó bị hất mạnh lên, trong khi đoạn mâu đập mạnh xuống. Hai đoạn chạm vào nhau, một tiếng «bốp» vang lên, lửa bắn tung tóe.

Mâu của hắn chạm vào mâu, cũng của hắn luôn, ngọn trên do công lực của hắn giáng xuống, ngọn dưới do công lực của Quan Sơn Nguyệt hất lên, hai kình lực chạm mạnh, Kỳ Hạo không tài nào kềm vững hai vũ khí bất thường đó. Hai đoạn mâu bay đi, hổ khẩu tay của hắn tê buốt.

Hóa giải xong thế công của địch, Quan Sơn Nguyệt dùng «Thiên cân trụy» đáp xuống lưng lạc đà, bật cười ha hả, buông giọng ngạo nghễ khích Kỳ Hạo:

- Bình sanh ta chưa từng thấy một người tự dùng vũ khí của chính mình kích lại mình, hóa giải một vũ khí khác của mình! Đấu pháp đó nghĩ cũng ngoạn mục đó. Nếu ta sớm biết như vậy thì ta có cần xuất trận làm gì, cứ để một mình ngươi tự giao đấu với ngươi, xem cho vui!

Đã đánh hụt địch, lại mất vũ khí, ngoài ra còn bị ê ẩm cả hai tay, dù ai ở trong trường hợp Kỳ Hạo cũng phải thẹn, phải tức, phải hận mà lồng lên hét la vang dội. Nhưng Kỳ Hạo giữ bình tĩnh như thường.

Nhìn hổ khẩu tay rướm máu, máu từ từ rịn thành giọt rơi xuống, hắn lạnh lùng thốt:

- Đừng dùng xảo ngôn mà che dấu một sự thất thế, cái bại sẽ đến với ngươi trong phút giây đây thôi. Họ Quan kia! Hôm nay ngươi không hy vọng gì thoát khỏi tay ta đâu.

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

- Ngươi muốn kết thúc cuộc đấu gấp? Dù ngươi không muốn, chính ta đây cần phải hạ sát ngươi ngay, tuy nhiên, giao đấu tay không thì chẳng có thú vị gì, mà cho ngươi nhặt cái thứ vũ khí vô dụng kia thì hai tay ngươi thọ thương cũng trở thành vô dụng nốt, như vậy làm gì ngươi chiếm được tiện nghi mà hăm dọa ta?

Kỳ Hạo bĩu môi:

- Thế ngươi muốn chúng ta phải giao đấu như thế nào? Về phần ta, nhất định là ta không nhặt hai đoạn mâu đó rồi, mà ta cũng quyết dứt khoát hôm nay trường hợp của Phi Đà Lịnh và Minh Đà Lịnh. Vậy ngươi đưa ra một đề nghị đi.

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

- Giả như ta nhặt chiếc Độc Cước Kim Thân, thế ngươi có dùng tay không mà đối phó chăng?

Kỳ Hạo đáp:

- Trước hết ta cho ngươi biết là chẳng bao giờ ta xuống lưng lạc đà, thì không thể có việc nhặt hai đoạn mâu đó dùng làm vũ khí. Ta đã nói với ngươi cuộc đấu hôm nay phải kết thúc minh bạch với sự mất một bên, còn một bên, và chỉ khi nào ta bị ngươi đánh rơi xuống lưng lạc đà thì ta mới bằng lòng thủ tiêu Phi Đà Lịnh. Còn như ta có giao đấu với ngươi bằng tay không hay bằng một vũ khí nào thì ngươi cứ nhìn nơi lưng ta đây, sẽ rõ.

Nơi đó có chuôi kiếm ló khỏi đầu vai.

Đúng lúc Quan Sơn Nguyệt nhìn sang thì Kỳ Hạo cũng vừa hoành tay chụp chuôi kiếm rút ra khỏi vỏ.

Thanh kiếm sáng lạ lùng, những tia chớp do sự phản chiếu của dương quang làm hoa mắt của số người đứng về phía thuận.

Hắn dùng đến kiếm, hiển nhiên là hắn định bức Quan Sơn Nguyệt phải dùng kiếm đối phó.

Suy nghĩ một chút, chàng thúc lạc đà tiến về phía chiếc Kim Thân rơi, cúi mình xuống nhặt nó cầm tay, đoạn quay lạc đà trở lại đối diện với Kỳ Hạo, thốt:

- Được rồi, ngươi muốn kết thúc trường hợp của chúng ta thì cứ xuất thủ.

Kỳ Hạo không tưởng là Quan Sơn Nguyệt có thể hành động như vậy, trố mắt nhìn chàng một chút, đoạn hỏi:

- Da mặt của ngươi dày đến độ chẳng biết thẹn à?

Quan Sơn Nguyệt thản nhiên điểm một nụ cười:

- Hôm nay là hai đà lịnh tranh chấp với nhau, Minh Đà chống với Phi Đà, mà Minh Đà Lịnh thành danh trên chốn giang hồ toàn bằng chiếc Kim Thân, thì trong bất cứ trường hợp nào cần bảo trì danh dự Minh Đà, ta cũng phải dùng đến Kim Thân. Điều đó rất hợp đạo lý, có chi khiến ta phải hổ thẹn?

Kỳ Hạo sững sờ. Hắn không tưởng Quan Sơn Nguyệt còn dùng đến Kim Thân nữa nên hắn dùng kiếm. Bây giờ Quan Sơn Nguyệt nêu một lý do chính đáng, với lý do đó chàng nhặt Kim Thân mà dùng, chẳng hề sợ ai chỉ trích. Như vậy là hắn chưa đánh đã thấy thất thế rồi, bởi kiếm là vật nhẹ, Kim Thân là vật nặng, kiếm làm sao chống đỡ nổi Kim Thân?

Kiếm hữu dụng là khi nào địch kém thế hoặc địch cũng dùng kiếm, chứ địch là kẻ đồng tài, trên tài, thì hắn mong gì thủ thắng khi địch có ưu thế với một vũ khí nặng cân hơn?

Phía sau Kỳ Hạo, Tạ Linh Vận cười lạnh gọi hắn:

- Kỳ Hạo! Trở vào đây. Nếu Minh Đà Lịnh thành danh nhờ thủ đoạn đó thì ngươi chưa phải là địch thủ của đối phương, ngươi không thể tiếp tục cuộc tranh chấp.

Giọng nói đã mỉa mai, chua chát, lời nói lại bén nhọn, ai nghe cũng phải khó chịu vô cùng, huống hồ kẻ đương cuộc là Kỳ Hạo.

Nhưng hắn làm sao cãi lịnh Tạ Linh Vận được? Hắn lấy chiếc Minh Đà Lịnh trong mình ra, chiếc Minh Đà Lịnh mà Quan Sơn Nguyệt đã trao cho hắn trước kia để ước hội ngày giao đấu, hắn nhổ ra một bãi nước bọt trên mặt chiếc lịnh bài đoạn ghim nó vào mũi kiếm, hắn đưa kiếm tới bảo Quan Sơn Nguyệt:

- Hoàn lại ngươi đó. Cái vật làm cho Minh Đà Lịnh Chủ quang vinh trên giang hồ thì Lịnh Chủ của nó cất giữ mà làm bảo vật!

Thu chiếc lịnh bài rồi, Quan Sơn Nguyệt vô cùng phẫn nộ trước thái độ miệt thị của Kỳ Hạo. Cử chỉ của Kỳ Hạo lăng nhục chàng rõ rệt, người ngoài trong thấy cũng phải tức uất thay chàng.

Nhưng trong trường hợp này, chàng giữ bình tĩnh hơn là cứ mỗi việc bất bình là một phát tác. Bởi sau Kỳ Hạo còn có những người khác sẽ ra trận thực hiện chiến pháp xa luân, để cuối cùng Tạ Linh Vận xuất hiện lấy khỏe đánh mệt.

Chàng có ngu dại gì phí phạm sức khỏe, lại giận dữ cho mất tinh thần.

Thản nhiên, chàng lau mặt chiếc lịnh bài vào vạt áo cho sạch nước bọt của Kỳ Hạo rồi cất nó vào mình. Đoạn chàng nhẹ buông tiếng thở dài, thốt:

- Tạ Linh Vận! Dù cho ngươi dùng trăm mưu ngàn kế, nhất định là ta không mó đến thanh kiếm Bạch Hồng, bởi nó là vật dành cho ngươi, chỉ khi nào ngươi xuất trận thì nó mới ra khỏi vỏ.

Tạ Linh Vận thoáng giật mình. Nếu Quan Sơn Nguyệt giữ đúng lời nói thì cái mưu đồ của y cầm như bị hủy diệt ngay từ trong trứng. Tuy nhiên y chưa tin là chàng thừa bản lĩnh đối phó với một chuỗi người do y sắp xếp mà chẳng cần sử dụng đến thanh kiếm đó. Y đưa mắt qua một bên ngầm ra hiệu.

Một người vận y phục đen, mặt bao kín, bước ra cục trường, sau đó cất giọng khàn khàn gọi Quan Sơn Nguyệt:

- Tiểu tử họ Quan! Nếu ta khiêu chiến với ngươi thì ngươi sẽ đối phó với ta bằng phương pháp nào?

Quan Sơn Nguyệt nhìn qua con người đó, lạnh lùng đáp:

- Ta cự tuyệt! Không khi nào ta chấp nhận giao thủ với ngươi.

Người đó là Bắc Mang Quỷ Sứ, lại bật cười khàn khàn:

- Không ngờ Hoàng Hạc Tán Nhân lại thu nạp một tên vô dụng!

Hắn khích tướng, song Quan Sơn Nguyệt không nao núng. Chàng cười lạnh đáp:

- Ngươi cho rằng ta khiếp sợ không dám nhận lời giao đấu với ngươi?

Bắc Man Quỷ Sứ «hừ» một tiếng:

- Thế cái thái độ của ngươi còn có một giải thích khác hơn à?

Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả:

- Ngươi bất quá chỉ là một gã đứng đầu Quỷ Bảng, địa vị của ngươi còn thấp kém dưới xa Thiên Tề Ma Quân, Kỳ Hạo đã không làm gì ta nổi, liệu ngươi có tài năng gì mà ta phải khiếp sợ? Ta nghĩ trước khi nói câu như vậy, ngươi nên biết thẹn và nếu biết thẹn thì câm miệng là hơn!

Bắc Mang Quỷ Sứ nổi giận:

- Nhưng ngươi cự tuyệt vì lý do gì?

Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:

- Ta nói ngươi đứng đầu Bảng là nói tâng ngươi đó thôi, bất quá Kỳ Hạo cho ngươi điều khiển một ban nào đó trong Bảng, không hơn không kém. Ngươi đừng tưởng qua sự chọn lựa của Kỳ Hạo, lại cho mình là siêu việt, tài năng hoặc ngang hoặc trên Kỳ Hạo. Rồi ngươi hợm mình mà đòi giao đấu với người đã thắng lãnh tụ của ngươi! Ngươi hỏi lý do? Cái lý do rất đơn giản. Lý do đó là vấn đề thân phận. Ta là người thừa kế gia sư, trong Long Hoa Hội gia sư ta có thân phận gì là ta có thân phận đó. Ngươi không xứng đáng đối trận với ta.

Bắc Mang Quỷ Sứ càng sôi giận, hét to:

- Long Hoa Hội là cái quái gì? Long Hoa Hội đã giải tán rồi, ngươi còn dựa vào nó mà xưng thân phận à?

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

- Cũng có lý. Nhưng ta đường đường chánh chánh như thế này lại đi động thủ với kẻ chẳng dám để lộ mặt mày với người đời hay sao? Ngươi cũng biết chứ, chỉ có những tên đê tiện mới giấu mặt thật, ta đâu có thể giao đấu với kẻ đê tiện?

Bắc Mang Quỷ Sứ sôi giận cực độ. Hắn hét lên một tiếng, nhảy vọt tới, đồng thời vươn cả hai ta xòe đủ mười ngón tay trắng nhợt chụp vào mặt Quan Sơn Nguyệt.

Quan Sơn Nguyệt bĩu môi khinh thường.

Chàng không cần làm một cử động nào cả, nhưng Minh Đà là linh thú, tự nó đối phó với địch thay chàng.

Nó không xuất thủ mà lại xuất cước, nó không đá địch nhân, chỉ nhảy qua một bên tránh cái chụp của Bắc Mang Quỷ Sứ.

Chụp hụt địch, khi nào Bắc Mang Quỷ Sứ bỏ cuộc? Hắn xoay mình nhào theo luôn.

Nhưng một bóng người xám xám đã lướt tới chận đường hắn. Bóng đó là Khổ Hải Từ Hàng. Lão ung dung thốt:

- Quan công tử không muốn giao đấu với ngươi, thì ngươi hãy trở về chỗ cũ.

Bắc Mang Quỷ Sứ nổi giận:

- Lão trọc có cút đi nơi khác hay không thì bảo? Cho ngươi biết, nơi đây không ai cần sự có mặt của ngươi.

Khổ Hải Từ Hàng chính sắc:

- Nếu ngươi phóng túng hung hăng, bần tăng sẽ can thiệp, đó là lẽ tự nhiên, ngươi cần động thủ, bần tăng sẵn sàng hầu tiếp ngươi.

Bắc Mang Quỷ Sứ chợt đổi giọng:

- Việc của ta với Quan tiểu tử, lão trọc cứ để song phương giải quyết với nhau, đừng can thiệp làm gì. Ngươi không được chen vào, ta nói rõ cho ngươi biết như vậy đó.

Khổ Hải Từ Hàng trầm gương mặt:

- Tại sao?

Bỗng Bắc Mang Quỷ Sứ đưa tay giật chiếc khăn đen bao mặt. Chiếc khăn rơi xuống cuốn theo suối tóc dài đen mượt, suối tóc bao quanh một khuôn mặt trắng nhợt. Hiển nhiên người đó là một nữ nhân! Nữ nhân cao giọng bảo Khổ Hải Từ Hàng:

- Tại sao? Ngươi cứ hỏi tiểu tử họ Quan kia thì rõ!

Khổ Hải Từ Hàng giật mình:

- Ngươi! Ngươi chẳng phải là Bắc Mang Quỷ Sứ.

Tây Môn Vô Diệm cười lạnh:

- Bắc Mang không tuân lịnh dụ, ta đã xuất thủ trừng trị rồi, ta chỉ định nàng thay thế, thiết tưởng phàm các sự vụ về Quỷ Bảng ta có quyền định đoạt chứ.

Khổ Hải Từ Hàng cau mày:

- Đành là thế, song ít nhất ngươi cũng thông tri qua đại hội.

Tây Môn Vô Diệm bĩu môi:

- Nếu quy luật của Long Hoa Hội còn hiệu lực thì việc làm của ta là bất hợp pháp. Song theo diễn tiến sự tình thì ta nghĩ sự thông tri đòi hỏi đó chẳng còn cần thiết nữa.

Khổ Hải Từ Hàng thực sự sửng sốt trước sự xuất hiện của nữ nhân.

Quan Sơn Nguyệt từ trên lưng lạc đà, nhảy xuống đến gần Khổ Hải Từ Hàng thốt:

- Đại sư nên tránh qua một bên đi. Nàng ấy nói đúng, việc này chỉ có mỗi một mình tại hạ có tư cách giải quyết mà thôi, chẳng ai thay thế được.

Khổ Hải Từ Hàng do dự.

Quan Sơn Nguyệt tiếp luôn:

- Nàng ấy tên là Khổng Linh Linh, phụ thân của nàng chết nơi tay tại hạ ...

Khổ Hải Từ Hàng lại giật mình lượt nữa:

- Nếu vậy thì ... bần tăng không tiện can thiệp rồi ...

Lão lui về phía hậu.

Khổng Linh Linh nhìn trừng trừng Quan Sơn Nguyệt:

- Bây giờ thì ngươi không còn cự tuyệt động thủ với ta?

Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:

- Tuy phụ thân ngươi chết đi là hợp đạo lý, tuy cái chết đó chẳng do ta hoàn toàn chịu trách nhiệm, song phụ thù là điều quan trọng nhất của con người, ta chấp nhận dành cho ngươi một cơ hội bày tỏ hiếu tâm đối với đấng sanh thành.

Khổng Linh Linh «hừ» một tiếng:

- Giả như ta bắt buộc ngươi phải dùng thanh kiếm Bạch Hồng giao đấu với ta thì ngươi nghĩ sao?

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm suy nghĩ. Một lúc sau, chàng hướng qua Tạ Linh Vận thốt:

- Ngươi có thủ đoạn lắm đó Tu La Tôn Giả! Cái biện pháp của ngươi chung quy rồi cũng buộc ta phải thi triển những đường kiếm Bạch Hồng.

Tạ Linh Vận đắc ý phi thường, bật cười vang.

Kỳ Hạo xách kiếm từ từ tiến tới cục trường, chừng như hắn định trao thanh kiếm của hắn cho Khổng Linh Linh.

Nhưng Khổng Linh Linh hoành tay lên đầu vai, nắm chuôi kiếm của nàng đeo nơi lưng rút ra khỏi vỏ. Thanh kiếm của nàng giống thanh kiếm của Kỳ Hạo như hai giọt nước.

Quan Sơn Nguyệt quát:

- Ngươi còn trở lại đây làm gì?

Kỳ Hạo điểm một nụ cười hiểm độc:

- Nàng là vợ của ta, tình chồng vợ đương nhiên phải đậm đà, thì việc của vợ phải là việc của chồng và ngược lại. Huống chi, là con rể ta cũng phải có một phần hàng trong cái việc báo thù nhạc trượng. Ngươi từng tự hào là trọng đạo nghĩa, lại đi hỏi ta một câu ngớ ngẩn như thế được sao?

Thì ra hắn trở lại cục trường chẳng phải để trao kiếm cho Khổng Linh Linh mà chính là để tham gia cuộc chiến, tiếp trợ vợ hắn.

Quan Sơn Nguyệt dù bất mãn song cũng phải nhìn nhận hắn có đạo lý.

Chàng giữ tâm bình tĩnh, cười lạnh thốt:

- Cũng được. Ta chấp cả vợ chồng các ngươi. Cả hai cứ vào đi!

Chàng lùi lại cạnh con lạc đà, đặt chiếc Kim Thân lên yên nó, sau đó nắm chuôi kiếm rút ra khỏi vỏ.

Thanh kiếm ngân lên một tiếng dài. Kiếm quang chớp sáng, kiếm khí tỏa rợn người. Đúng là một thanh kiếm báu, chưa vung lên đã khiếp đảm cho mọi người rồi.

Tại cục trường, ai ai cũng buông tiếng thở dài ngán cái khí sắc của một thanh kiếm thần.

Tại cục chiến, Kỳ Hạo và Khổng Linh Linh không tránh khỏi chột dạ.

Đôi kiếm của hai vợ chồng vốn là báu kiếm sắc lạnh phi thường, song trước thanh Bạch Hồng Kiếm thì hào quang của hai thanh kiếm đó tan biến mất, chẳng khác nào ánh sao sáng phải mờ đi khi vầng trăng tròn xuất hiện không trung.

Có một thanh kiếm báu là nắm được một ưu thế rồi, tuy nhiên muốn phát uy ưu thế đó cần phải có một kiếm thuật tinh vi.

Kỳ Hạo và Khổng Linh Linh tin tưởng nơi tài nghệ của họ nên chưa đến đổi thất vọng, cả hai cùng thủ thế, tay giữ kiếm quyết, chân đứng theo bộ vị thất tinh.

Cái tư thế đó đúng theo kiếm pháp Tu La.

Quan Sơn Nguyệt không khỏi giật mình. Chàng nghĩ bọn này cũng biết kiếm pháp Tu La, như vậy chúng cũng lợi hại lắm đấy. Do đó, chàng cũng chẳng dám khinh thường, ngưng trọng thần sắc giới bị chặt chẽ.

Chàng phải phục Tạ Linh Vận có cơ trí hơn người, chẳng những y nghĩ ra được phương pháp bức chàng phải sử dụng đến kiếm, chẳng những thế y còn có cách bắt buộc chàng phải thi triển luôn kiếm pháp Đại La. Bởi chống với kiếm pháp Tu La, chàng chẳng còn cách nào khác hơn là đem kiếm pháp Đại La mà ứng dụng.

Thi triển «Đại La Kiếm Pháp», chàng dù thắng được vợ chồng Kỳ Hạo cũng chẳng thành vấn đề. Vấn đề là ở chỗ Tạ Linh Vận sẽ nhìn vào những chiêu thức của chàng, rồi nghiên cứu cách hóa giải. Đến lúc chàng chánh thức giao đấu với y thì tuyệt học của chàng mất hẳn hiệu dụng mong muốn rồi. Chính với dụng ý đó Tạ Linh Vận mới đem «Tu La Kiếm Pháp» truyền thụ cho Khổng Linh Linh.

Song phương ngưng thần chờ đợi. Bởi chưa bên nào chịu xuất thủ trước và dĩ nhiên chẳng bao giờ Quan Sơn Nguyệt chịu tấn công đầu tiên, dù có phải chờ vợ chồng Kỳ Hạo xuất thủ chờ đến bao lâu cũng phải chờ.

Bỗng từ phía hậu có tiếng quát to:

- Hãy khoan! Song phương chờ một chút!

Phía hậu là hậu phương của Quan Sơn Nguyệt, và người quát lên chính là Liễu Y Ảo. Nàng lướt tới cạnh Quan Sơn Nguyệt, tay nàng cầm một thanh trường kiếm. Nàng thốt:

- Lấy hai đấu một thì bất công, dùng đông toan áp đảo ít là một điều kỵ trên giang hồ. Để có sự công bình, ta tình nguyện chia bớt một địch thủ với Quan công tử.

Sự can thiệp đột ngột của Liễu Y Ảo làm cho Tạ Linh Vận giật mình. Thần sắc của y biến đổi ngay. Lấy lại bình tĩnh sau phút giây sửng sốt, y kêu lên:

- Sư muội làm cái gì thế?

Liễu Y Ảo cười nhẹ:

- Tham gia nhiệt náo chứ còn làm cái gì nữa?

Nàng nhìn thoáng qua Quan Sơn Nguyệt đoạn tiếp luôn:

- Với lại ta có chủ ý là giúp Quan công tử dành trọn vẹn kiếm pháp Đại La chờ ngươi. Chỉ khi nào ngươi xuất hiện tại cục chiến thì kiếm pháp đó mới được thi triển.

Tạ Linh Vận mỉa mai:

- Người ta là chồng là vợ với nhau, người ta liên thủ là hợp lý, còn sư muội tham gia cuộc chiến với danh nghĩa gì chứ?

Liễu Y Ảo thoáng đỏ mặt nhưng gượng cứng đáp liều:

- Họ là vợ chồng, họ liên thủ là hợp lý, chứ ta đây tham gia cuộc chiến không hợp lý sao? Cho ngươi biết, ta là vị hôn thê của Quan công tử, chính là đại sư tỷ đã hứa tác thành cho ta với Quan công tử đó.

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp gọi nàng:

- Liễu Tiên Tử! Thiếu chi cách đáp lời hắn, sao Tiên tử lại đùa như thế?

Đáng lẽ Quan Sơn Nguyệt nín lặng là hơn, cứ vờ như sự thể đã được quyết định như vậy rồi, cho qua cái trường hợp này. Nhưng chàng lại thanh minh giữa thập mục sở thị, sự thanh minh đó làm cho Liễu Y Ảo cứng trân mình thành trơ trẽn cực độ.

Nàng biến sắc, giọng rung rung:

- Sao gọi rằng đùa? Không lẽ đại sư tỷ chưa nói chi với công tử?

Quan Sơn Nguyệt tình thật toan phủ nhận, song Khổ Hải Từ Hàng đã bước tới khẽ nắm tay chàng thấp giọng thốt:

- Hương Đình Tiên Tử có cho bần tăng biết, quả đúng như Liễu Tiên Tử nói đó, Hương Đình muốn tác hợp cả hai thành đôi bạn với nhau và nhờ bần tăng lãnh phận sự của ông tơ. Hương Đình Tiên Tử cũng có nói là Quan thế huynh đã chấp nhận rồi. Thì giờ đây nếu Quan thế huynh phủ nhận, chẳng hóa ra gây bẽ bàng cho Liễu Tiên Tử mà Hương Đình biết được cũng phiền lòng không ít, không kể là bên kia Tạ Linh Vận sẽ khai thác trường hợp để ngạo tiếu chúng ta.

Quan Sơn Nguyệt suýt nhảy dựng lên vì bực tức.

Khổ Hải Từ Hàng lại tiếp:

- Muốn nói gì, Quan thế huynh hãy ẩn nhẫn, sau này còn có dịp nói, nào phải hết dịp đâu? Thế huynh đừng vì một việc nhỏ mà làm cho kỳ vọng của hằng trăm người sau lưng thế huynh kia phải tan biến. Đại cuộc là trọng, tiểu tiết là khinh, hẳn thế huynh thừa hiểu.

Quan Sơn Nguyệt lặng người như chết. Làm sao chàng thừa nhận công khai?

Mà nín lặng là đương nhiên mặc nhận rồi.

Khổ Hải Từ Hàng đưa ánh mắt ra hiệu với chàng trước, đoạn tuyên bố sau:

- Liễu Tiên Tử nói đúng, chính Hương Đình Tiên Tử và Hoàng Hạc Tán Nhân đã cộng đồng quyết nghị cuộc hôn nhân đó. Cả hai lại ủy thác bần tăng làm công việc mai dong, đồng thời tuyên bố cho mọi người được biết. Đáng lẽ bần tăng đã thông tri cho toàn thể nhân số trong hội Long Hoa từ lâu, song mấy hôm nay biến cố dồn dập bần tăng không có một dịp thuận tiện nào.

Tạ Linh Vận lắc đầu:

- Hoang đường! Ngươi dựng đứng một chuyện hoang đường ta không tin nổi.

Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:

- Tôn giá chẳng thấy Liễu Tiên Tử và Quan thế huynh xứng đôi vừa lứa lắm sao? Trai là trai tài, gái là gái sắc, lứa đôi còn có lứa đôi nào hơn? Một cuộc hôn nhân giữa hai người là hợp lý sao lại gọi là hoang đường? Huống chi hôn nhân nào phải một trò đùa, có ai dám xem thường một sự kiện như vậy để có thể tùy cái hứng mà tuyên bố lên, khi hết hứng lại bỏ qua? Thế thì tôn giá đừng tưởng là sự hoang đường.

Lão tăng dừng lại một chút, đoạn tiếp:

- Có lẽ tôn giá định nói rằng Quan thế huynh là người ngoài hội nên chẳng thể kết duyên với người trong hội? Điều đó đúng là tôn giá lầm! Bởi Quan thế huynh là môn đệ của Hoàng Hạc Tán Nhân, sớm muộn gì cũng thừa kế cái thân phận của Hoàng Hạc trong hội. Ngoài ra, Quan thế huynh gần đây đã được một bậc dị nhân truyền thụ võ công, mà bậc dị nhân đó không phải xa lạ gì đối với người sáng lập Long Hoa Hội. Như vậy Quan thế huynh nghiễm nhiên trở thành bạn đồng môn rồi! Chúng ta không còn xem người là ngoại nhân được nữa.

Liễu Y Ảo đắc ý phi thường. Càng đắc ý nàng càng đỏ mặt, tuy nhiên niềm cao hứng làm cho nàng bất chấp dè dặt, cao giọng gọi Tạ Linh Vận:

- Ngươi còn lời chi để nói nữa chăng?

Tạ Linh Vận không biểu hiện một cảm nghĩ nào tiếp theo đó.

Nhưng Kỳ Hạo chớp ánh mắt ngụy dị, ánh mắt đó chỉ có mỗi một mình Tạ Linh Vận hiểu được ý nghĩa mà thôi. Bởi hiểu, y sợ sanh biến, vội hét lên:

- Kỳ Hạo! Cố gắng hết sức mình làm tròn nhiệm vụ! Đã có ta chịu mọi trách nhiệm.

Trách nhiệm gì? Chịu như thế nào? Giả như Kỳ Hạo hoặc vợ hắn là Khổng Linh Linh chết nơi tay Liễu Y Ảo thì y có chết thay để cho họ sống chăng? Cái lối chịu trách nhiệm đó không ai làm được chứ?

Người ngoài hẳn nghĩ thế, song sự tình có uẩn khúc như thế nào chỉ có Tạ Linh Vận và Kỳ Hạo biết được mà thôi.

Nghe câu nói hứa hẹn một sự bảo đảm vững chắc của Tạ Linh Vận, Kỳ Hạo lên tinh thần ngay, vẻ hung hãn hiện nơi gương mặt, khoát thanh kiếm một vòng cao giọng thốt:

- Hai đấu hai cũng chẳng có gì đáng thắc mắc, chúng ta bất đầu gấp đi!

Khổ Hải Từ Hàng lùi lại phía sau.

Khổng Linh Linh mất cái vẻ hung hăng lúc đầu, mường tượng nàng e dè sao đó.

Kỳ Hạo quét ánh mắt sang nàng giọng căm căm, hét:

- Đừng ngây người ra đó, đã có ta ngươi còn sợ gì nữa?

Khổng Linh Linh giật mình trở về thực cảnh, ngưng trọng tinh thần, lăm lăm thanh kiếm chực chờ xuất thủ.

Quan Sơn Nguyệt nhận thấy thái độ của đôi vợ chồng này hết sức kỳ quái, họ tuyên bố là vì báo thù cho Khổng Văn Thông nên khiêu chiến với chàng, song chừng như dụng ý của họ không hoàn toàn vì danh nghĩa đó. Chàng không cần suy nghĩ lâu cũng thức ngộ ra, sở dĩ họ khiêu chiến là vì họ tiếp nhận chỉ thị của Tạ Linh Vận, khiêu chiến để chàng dùng «Đại La Kiếm Pháp» phản công. Tạ Linh Vận đứng bên ngoài theo dõi, nghiên cứu, nhiên hậu thực hiện một mưu đồ.

Song phương ở trong cái thế cung thẳng giây tên lắp sẵn, ngón tay buông là giây bật tên bắn vút đi liền, tình hình cực kỳ khẩn trương.

Nhìn bàn tay nổi gân của Liễu Y Ảo cầm kiếm cũng đủ biết nàng hết sức chú ý đến đối phương.

Không gian trầm đọng nặng nề, tử khí bao trùm cục trường.

Bỗng Kỳ Hạo và Khổng Linh Linh cùng hét to lên một tiếng, cùng tấn công một lượt.

Chiêu thứ nhất trong «Tu La Kiếm Pháp» có cái tên là «Vân Thảm Vụ Sầu», hai thanh kiếm cùng phát xuất một lượt theo thế liên thủ tạo nên một oai lực khủng khiếp.

Kiếm khí tỏa ra thành một vầng sương mờ xanh xám, kiếm phong rít vi vu, cả màu sắc lẫn thinh âm cấu tạo cho cục trường cái vẻ ảm đạm thê lương, tưởng chừng như cõi ngục u tối dưới đất sâu những âm hồn hiện về oán than rên rỉ.

Liễu Y Ảo tuy được liệt vào hàng Tiên tử trong Long Hoa Hội, song trước chiêu kiếm tân kỳ của địch nàng chẳng dám khinh thường, vung kiếm nơi tay tạo nên một vầng ngân quang bao bọc quanh mình kín đáo. Đồng thời nhận định phương hướng của Khổng Linh Linh, nàng thấy Khổng Linh Linh yếu kém hơn Kỳ Hạo rõ rệt, nàng bèn nhường Kỳ Hạo cho Quan Sơn Nguyệt, nàng chuyên tâm phản công Khổng Linh Linh.

Cái đó không do lánh nặng tìm nhẹ mà là lối phản ứng đương nhiên. Bởi nàng thừa hiểu sau khi Quan Sơn Nguyệt được Ôn Kiều huấn luyện thêm chàng tinh tiến lạ lùng, hiện tại về kiếm thuật chàng hơn hẳn nàng ít nhất cũng vài bậc, thì chàng phải đương đầu với kẻ mạnh bên đối phương, có vậy nàng mới yên tâm công kích đối thủ đồng hạng với nàng.

Khác với nàng, Quan Sơn Nguyệt vẫn giữ thái độ trầm ổn phi thường, mường tượng chàng không xem Kỳ Hạo ra cái quái gì cả, thanh kiếm Bạch Hồng nơi tay chàng nhẹ nhàng bay ra phong trụ kiếm của Kỳ Hạo, hai thanh chạm nhau một tiếng xoảng vang lên nháng lửa, tia lửa bắn tung tóe.

Kỳ Hạo rợn người, không dám hung hăng, thu thanh kiếm lùi lại.

Chiêu thức của Quan Sơn Nguyệt đúng là chiêu sơ khởi của «Đại La Kiếm Pháp» có cái tên gọi là «Càn Khôn Thi Định».

Kiếm pháp Đại La tuy thuộc về võ học tà môn, song nó rất giống võ học chánh phái. Chiêu kiếm do chàng vừa phát xuất bằng vào sự lấy tịnh chế động, lấy giản đơn chế phức tạp, dù nó rất đơn thuần nhưng cũng đủ phá kiếm khí của Kỳ Hạo tỏa rộng khắp cục trường, mường tượng một vùng đen tối âm u bị một tia sáng rực rỡ chiếu vào, bóng tối liền tan biến.

Gia dĩ, Bạch Hồng Kiếm lại sắc bén hơn thanh kiếm cổ màu xanh kia, hai thanh chạm nhau, thanh cổ kiếm màu xanh của Kỳ Hạo mẻ đi một mảnh nhỏ độ bằng móng tay.

Chiêu thứ nhất song phương trao đổi nhau, kết quả như thế đó.

Người xem chung quanh có những phản ứng dị đồng trong tâm tư của họ.

Bọn người ủng hộ Quan Sơn Nguyệt thì không dấu vẻ hài lòng, trừ một Lý Trại Hồng thì nàng lại khẻ buông tiếng thở dài. Còn bọn người do Tạ Linh Vận dẫn đến đây thì tỏ ra ưu tư, nhưng Tạ Linh Vận và Tây Môn Vô Diệm lại điểm một nụ cười.

Liễu Y Ảo đang ngưng thần chú ý điều khiển cuộc đấu với Khổng Linh Linh.

Dù sao thì kiếm thuật của nàng cũng hơn hẳn sở đắc của địch cho nên nàng luôn luôn tạo khó khăn cho địch.

Lúc đó, thấy Quan Sơn Nguyệt tạo thành tích rồi, nàng cũng lộ vẻ ưu uất, không dằn lòng được nàng thấp giọng hỏi Quan Sơn Nguyệt:

- Có đúng là thanh kiếm Bạch Hồng thật đó chăng?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

- Phải! Tại hạ tin rằng Ôn Kiều lão tiền bối không khi nào lừa dối tại hạ.

Liễu Y Ảo nhếch nụ cười khổ:

- Ta chỉ sợ bên trong có những tình tiết éo le sao đó. Thanh kiếm không thể có sự thần hiệu như ta đã hiểu về thanh Bạch Hồng thật.

Quan Sơn Nguyệt bình tĩnh đáp:

- Oai lực của thanh kiếm tùy người sử dụng phát huy, tại hạ chỉ phát huy đến trình độ đó thôi, nếu cần tại hạ cũng có thể phát huy một uy lực cao hơn, như vậy sự thần hiệu của nó vô cùng, cô nương làm sao hiểu nổi!

Bên kia Tạ Linh Vận nhẹ điểm một nụ cười, lên tiếng thôi thúc Kỳ Hạo:

- Thiên Tề! Phát xuất luôn cả hai chiêu thứ năm và thứ sáu đi, cho hắn giở hết ba chiêu nữa ra mà đối địch.

Trong ánh mắt của Kỳ Hạo niềm oán độc hiện ra, hắn hú vọng một tiếng nhỏ mà dài, rồi vung thanh kiếm mẻ công tới.

Khổng Linh Linh cũng phát động thế công phối hợp với thế đánh của Kỳ Hạo.

Lần này Kỳ Hạo phát xuất hai chiêu «Ma Hỏa Luyện Thiên» và «Liệt Viêm Đằng Tiêu» trong «Tu La Kiếm Pháp».

Hai chiêu thức cùng mang tên Hỏa dĩ nhiên thế đánh phát huy toàn là lửa, lửa màu xanh lục, một thứ lửa ma làm rợn người hơn là thiêu đốt.

Liễu Y Ảo lập tức phản công, kiếm thì nàng phổ cập tinh túy thu hoạch qua bao nhiêu năm luyện tập, còn thân mình thì phát xuất chân khí Băng Y, chân khí đó vừa bảo vệ toàn thân mà cũng vừa chuyền vào thanh kiếm tỏa ra ngoài để chống lại vầng lửa xanh của Kỳ Hạo.

«Tu La Kiếm Pháp» là một môn cực kỳ lợi hại trong các loại kiếm pháp Ma, nhưng Khổng Linh Linh còn kém nàng quá xa nên không phát huy nổi ma lực của kiếm pháp đúng mức.

Dù vậy, hỏa lực từ thanh kiếm của Khổng Linh Linh phát ra cũng có nhiệt độ cao xuyên thấu vầng lãnh khí của Liễu Y Ảo, xâm nhập vào cơ thể nàng làm cho nàng xuất hạn ướt mình.

Ứng phó chiêu thứ nhất Quan Sơn Nguyệt rất ung dung, song lần này thì chàng thay đổi thái độ, hét lên một tiếng, vung thanh kiếm Bạch Hồng tạo thành một đóa kiếm hoa rất lớn, kiếm khí từ mũi phóng ra, dài hơn thước, gây tiếng động vu vu rợn người.

Đạo kiếm khí bắn vào vầng kiếm quang của Kỳ Hạo.

Với thủ pháp nhanh như chớp, chàng phát xuất chiêu thứ hai trong kiếm pháp Đại La, chiêu «Húc Nhật Đông Thăng».

Chiêu của Kỳ Hạo thuộc dương, chiêu của chàng cũng thuộc dương, lấy dương chế dương, song cái dương của chàng cường mãnh hơn, thoáng mắt đã quét sạch lớp mây mờ như khói nóng của Kỳ Hạo.

Tiếp theo đó chàng sử dụng luôn chiêu thứ ba tên «Bạch Hồng Quán Nhật», chiêu thức phát huy tiếng động ầm ầm như sấm gầm lồng lộn giữa không gian.

Kết quả đầu tiên là thanh kiếm của Kỳ Hạo bị gãy, oai lực của chiêu kiếm còn thừa, lấn sang mặt trận giữa Khổng Linh Linh và Liễu Y Ảo, chặt gãy luôn thanh kiếm của Khổng Linh Linh.

Chẳng những thế, kiếm phong lan rộng quét ào ào vào mình Kỳ Hạo và Khổng Linh Linh, đâm thủng áo của họ khoét thành những lỗ to, đồng thời điểm vào nhiều huyệt đạo nơi mình vợ chồng Kỳ Hạo.

Quanh cục trường mọi người đều im lặng, hồi hộp theo dõi trận đấu.

Bây giờ một bên thắng, một bên bại, hậu thuẫn của bên thắng reo lên oang oang, cánh bại thì tiu nghỉu.

Quan Sơn Nguyệt thu hồi công lực đã phổ vào thân kiếm, nhìn sang vợ chồng Kỳ Hạo, cả hai hết sức phờ phạc tiêu điều qua cuộc thảm bại, trong đáng thương hại vô cùng. Quan Sơn Nguyệt nghiêm giọng nói:

- Đáng lý ta nên giết luôn bọn các ngươi, song ta chẳng thể tàn nhẫn như vậy được.

Kỳ Hạo không nói gì, quay mình dợm bước đi.

Khổng Linh Linh trừng mắt quát:

- Tại sao? Tại sao ngươi không giết bọn ta?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

- Cái lý do trước hết là ta không tàn độc. Còn tại sao khác hơn thì ta cũng chưa biết rõ. Tuy nhiên cái bại hôm nay cũng có thể báo phục sau này nếu các ngươi muốn. Vì ta nghĩ ngươi quyết báo thù cho phụ thân ngươi, điều đó rất chánh đáng, cho nên ta có thể giết các ngươi nhưng ta lại không giết, bởi ta dành cho các ngươi cơ hội báo thù cho chính các ngươi. Ta cần cảnh cáo cho ngươi rõ là cơ hội đó sẽ không có được một lần thứ hai đâu nhé! Ta chỉ dành cho ngươi một lần duy nhất thôi.

Khổng Linh Linh nghiến răng, tiếng kêu ken két. Nàng nghiến quá mạnh, nứu răng rướm máu, máu rỉ ra hai bên mép miệng. Nàng nhổ một búng nước bọt có máu pha lộn, đoạn cao giọng thốt:

- Trong tương lai ngươi đừng hối hận vì cử chỉ đại phương của ngươi hôm nay đấy. Một ngày nào ta gặp lại ngươi, nhất định là ta chẳng lấy việc hôm nay làm một cái ơn đâu! Ta sẽ giết ngươi như thường.

Quan Sơn Nguyệt cười nhạt:

- Thì ngươi cứ tùy tiện, gặp ta rồi ngươi cứ hành động theo sở nguyện.

Muốn hành động sớm thì tìm gặp ta sớm, luôn luôn ta sẵn sàng nghinh tiếp ngươi.

Chàng dừng lại một chút, đoạn tiếp luôn:

- Đối với những người chưa đáng tội chết, ta dành cho một khoảng đất lui chân, nếu kẻ đó chẳng biết ăn năn thì lần sau ta bắt buộc phải hạ thủ đoạn để trừ một họa hoạn cho đời. Còn riêng với ngươi, ta không giết ngươi là vì một nguyên nhân nữa. Cái nguyên nhân đó là như thế này, là trong những ngày ta ở tại Côn Lôn Sơn ngươi đã chiếu cố giúp đỡ ta nhiều việc, tuy lúc đó ta hoàn toàn mất tri giác, song sau này ta nghe thuật lại, tự nhiên ta phải nương tay với ngươi.

Khổng Linh Linh biến sắc mặt. Nhưng nàng nín lặng, quay mình bước đi theo Kỳ Hạo.

Liễu Y Ảo đưa tay áo lau mồ hôi mặt, chẳng rõ nghĩ sao nàng lại điểm một nụ cười rồi thốt:

- Tôi cứ tưởng tham gia cuộc chiến là để tiếp trợ công tử, không ngờ lại gây phiền lụy đến công tử, cuối cùng lại được giúp đỡ ngược lại!

Quan Sơn Nguyệt cười, lắc đầu đáp:

- Không đâu, chính Tiên tử giúp tại hạ nhiều lắm đấy.

Liễu Y Ảo không tin, tiếp:

- Rõ ràng công tử có cần chi tôi tiếp trợ đâu.

Quan Sơn Nguyệt thành thực:

- Tại hạ không nói ngoa đâu Tiên tử. Kiếm pháp Đại La tuy ảo diệu, song đây là lần thứ nhất tại hạ sử dụng đến, đương nhiên là phải lúng túng. Nếu chẳng có Tiên tử quan sát, phòng ngừa bất trắc cho tại hạ yên tâm đối địch thì chắc chắn là không thu thập kết quả nhanh chóng như thế đâu.

Liễu Y Ảo trầm ngâm một chút:

- Tôi cứ tưởng là có thanh kiếm Bạch Hồng với kiếm pháp Đại La công tử sẽ nắm vững cái cơ tất thắng. Nếu biết vậy, tôi đã để cho nhị sư tỷ xuất trận rồi.

Quan Sơn Nguyệt lại lắc đầu:

- Việc đã qua rồi Tiên tử, bỏ đi. Còn như việc sắp tới đây, nghĩa là tại hạ sắp sử dụng đến chiêu thứ tư, thì tuyệt đối các vị không nên xuất trận. Bởi cái oai lực của chiêu thức rất hùng mạnh, tại hạ sợ mình kềm chế không nổi lại để xâm phạm đến các vị luôn và như vậy là đáng hận lắm đó.

Liễu Y Ảo xong phận sự rồi, bắt buộc phải lùi lại với niềm luyến tiếc, tuy chẳng phải là xa hẳn Quan Sơn Nguyệt.

Trong khi đó, Tạ Linh Vận từ từ bước tới với niềm tự tin rõ rệt.

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 32

Khiếp Quỷ Kinh Thần

Quan Sơn Nguyệt thản nhiên, đứng nguyên tại chỗ, không hề vì sự xuất hiện của Tạ Linh Vận mà khích động tâm thần.

Tạ Linh Vận cứ ung dung, miệng điểm nụ cười. Khi còn cách Quan Sơn Nguyệt độ mươi bước, y dừng chân lại.

Quan Sơn Nguyệt bình tịnh thốt:

- Cuối cùng rồi, ngươi cũng ra mặt.

Tạ Linh Vận vẫn giữ nụ cười:

- Phải đó, ta nhận thấy, làm sao cũng phải tự tay thu thập ngươi mới được.

Ta không thể giao phó phần việc đó cho ai khác.

Quan Sơn Nguyệt mỉa:

- Thế ra, những thủ hạ của ngươi toàn bọn vô dụng! Cái bọn chồn bầy, chó lũ của ngươi đó!

Tạ Linh Vận mất ngay bình tĩnh, nổi giận, dửng cao đôi mày quát:

- Tiểu tử! Ngươi đừng quá ỷ trượng vào thanh kiếm Bạch Hồng và «Đại La Kiếm Pháp» của ngươi! Thực ra, bọn ngươi là chi, nếu chẳng phải là một lũ chồn, một lũ chó? Sao ngươi dám khinh miệt bọn ta? Cho ngươi biết, chưa chắc gì kiếm pháp Đại La của ngươi hơn hẳn kiếm pháp Tu La của ta! Bằng cớ là vừa rồi, ngươi chẳng tạo nên một kỳ công nào cả!

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

- Ta hiểu lắm! Và ta tin là do ngươi thi triển, kiếm pháp Tu La phải có oai lực phi thường, chứ không như vợ chồng Kỳ Hạo vừa múa may rối mắt đó đâu!

Và, ta cũng tin luôn là ngươi sẽ gây khó khăn chật vật cho ta lắm đó.

Trước cũng như sau, chàng vẫn giữ sự bình tịnh, như chẳng xem đối tượng ra gì. Dù chàng nói là Tạ Linh Vận sẽ gây khó khăn cho chàng, chàng vẫn không tỏ lộ gì lo lắng, sợ hãi.

Cái thái độ của chàng làm cho Tạ Linh Vận phải ngán, và y tự dặn lòng phải hết sức dè dặt. Y khích một câu:

- Ngươi tự biết vậy, nhưng ngươi tự kiểm soát lại xem, có đủ dũng khí giao đấu với ta chăng?

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

- Kiểm soát lấy mình mà làm chi nữa? Dù ta có dũng khí, dù ta có khiếp hãi, ta vẫn giao đấu với ngươi, ta không còn cách nào khác. Bổn phận của ta, là mang lại một bảo đảm cho mạng sống của bao nhiêu người kia, ta không có quyền từ khước bổn phận!

Nghe giọng nói của Quan Sơn Nguyệt yếu quá, Tạ Linh Vận đắc ý vô cùng.

Y cười ha hả, thốt:

- Ngươi buông lời vô lễ, khích nộ ta, chứ thực ra thì ta đâu có thích giết ngươi? Ngươi chẳng biết đó thôi, ta vốn là người có đại lượng lắm, nếu bọn kia đừng làm chi trái ý ta, thì ta sẽ duy trì Long Hoa Hội, mọi người ở bảng nào, theo bảng đó như cũ, tuân theo quy luật mà hành động, giữ hòa khí trong mọi sinh hoạt hàng ngày. Ta chỉ mong được vậy thôi, tất cả sẽ được vui vẻ như ngày trước, còn ta thì khỏi phải làm cái việc lạm sát.

Quan Sơn Nguyệt cứ giữ vẻ yếu mềm, lắc đầu đáp:

- Khó lắm! Một mình ta không thuyết phục nổi tất cả, ta chỉ sợ sau này có người sanh lòng riêng rẽ, thì chung quy cũng có phiền phức như thường!

Bỗng chàng đổi giọng, pha cái vẻ mỉa mai, tiếp:

- Huống chi, Long Hoa Hội là một tổ chức điên loạn, trước kia, họ bị bức bách mà gia nhập, họ sợ một uy thế nào đó, mà thành cúi đầu chúi vào lao lung ...

Tạ Linh Vận nổi giận:

- Nói nhảm! Trước kia nào có ai uy hiếp sư phụ ngươi đâu, thế tại sao lão ta cam tâm tình nguyện vào hội, và giữ mãi thân phận Hội Chủ suốt hai mươi năm dài? Chẳng lẽ sư phụ ngươi cũng mất lý trí đến độ lao đầu vào một tổ chức điên loạn?

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

- Có gì lạ đâu? Chỉ vì lúc sư phụ ta vào hội, thì hội do Hương Đình Tiên Tử chủ trì, hoạt động của hội còn hợp với chánh nghĩa phần nào. Nhờ Hương Đình Tiên Tử lãnh đạo, hội mới còn tồn tại đến ngày nay, chứ nếu hội do ngươi điều khiển, thì những ai đã lỡ bị ngươi dụ hoặc vào hội rồi, cầm như sống để chờ chết, chết sướng hơn sống!

Tạ Linh Vận phẫn uất cực độ, hét lên:

- Câm ngay cái mõm chó của ngươi lại! Tiểu súc sanh đã chán sống rồi nên khích ta đưa gấp về với tổ tiên phải không?

Quan Sơn Nguyệt thản nhiên như thường, điểm nụ cười nhạt gật đầu:

- Phải! Ta chán sống lắm rồi! Ta chờ ngươi giết hộ đây! Ngươi làm được việc đó, ta vừa phục ngươi, vừa cảm kích vô cùng!

Bổng, Tạ Linh Vận dằn cơn phẫn uất, lấy lại bình tĩnh, từ từ nói:

- Tiểu tử biết không, bình sanh ta không hề làm một việc gì mà chưa tin là thành công chắc chắn ...

Quan Sơn Nguyệt chận lời ngay:

- Điều đó thì ta biết rõ lắm, chả hạn, trước kia, ngươi đâu có chịu cam phận thấp hèn, bởi ngươi không tin là mình thắng nổi Hương Đình Tiên Tử, nên ngươi ẩn nhẫn đến hôm nay!

Tạ Linh Vận thỏa thích vô cùng:

- Đúng quá! Và, gần đây, nhận thấy Lâm Hương Đình không còn đáng sợ nữa, ta định đến ngày đại hội Long Hoa vừa qua, bức bách Hương Đình chuyển nhượng quyền lãnh đạo toàn thể nhân vật trong Phong Thần Bảng, gồm ba hạng như ngươi đã biết. Ngờ đâu, bà ấy cũng khá thông minh ...

Quan Sơn Nguyệt cười mỉa:

- Hương Đình Tiên Tử thấy rõ cái dã tâm của ngươi, tự nhiên bà phải chuẩn bị. Bà cũng hiểu là chẳng thể chế phục ngươi dễ dàng ...

Tạ Linh Vận bật cười ha hả:

- Và bà ta chuồn mất!

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

- Tránh cái thủ đoạn thứ nhất của ngươi, bà ta bắt buộc phải lánh mặt. Hay nói một cách khác, trước kế hoạch của ngươi gồm nhiều giai đoạn, bà cũng chuẩn bị một chương trình ứng phó gồm nhiều giai đoạn, những giai đoạn của song phương đối chọi nhau, ta nhận thấy, phần hữu hiệu thiên hẳn về Hương Đình Tiên Tử. Cho nên, vắng mặt trong ngày đại hội, Tiên tử đã thi triển một thủ đoạn trong nhiều thủ đoạn đó.

Tạ Linh Vận cao ngạo:

- Rồi kế đó, bà ấy đã làm như thế nào? Bà ta chọn ngươi, đại diện cho bà ta, để chế phục ta?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

- Đúng vậy! Bà biết rõ, ta thừa sức làm cái việc đó hộ bà!

Thoạt đầu, Tạ Linh Vận có giật mình một chút, song sau đó, y lấy lại bình tĩnh, bật cười cuồng dại, thốt:

- Hương Đình chọn ngươi! Một cuộc tuyển chọn sáng suốt cực độ. Thật không ngờ bà ấy thông minh quá chừng!

Y nói thật, trong câu nói, không hàm chứa một hậu ý gì chứng tỏ y mỉa mai, còn như thái độ cuồng ngạo của y, sở dĩ hiện lộ ra bên ngoài, chẳng qua y khinh thường Quan Sơn Nguyệt thôi. Y tiếp:

- Ta không hiểu ngươi có thấu đáo câu nói của ta chăng, nhân dịp này, ta công bố ra đây, cho toàn thể nhân số trong ba bảng nghe rõ, đồng thời nếu ngươi chưa hiểu, sẽ có dịp hiểu luôn với mọi người.

Y dừng lại một chút, đảo mắt nhìn quanh cục trường một vòng, đoạn tiếp:

- Trước kia ta ngán sợ Lâm Hương Đình, là vì nàng có thanh kiếm Bạch Hồng và kiếm pháp Đại La. Chính Lâm Hương Đình cũng ỷ trượng vào hai lợi thế đó, chế phục ta. Nhưng, sau nhiều năm nghiên cứu, ta biết rõ kiếm pháp Đại La cũng như thanh kiếm Bạch Hồng, thuộc thuần dương, do đó, một nữ nhân chẳng hề đạt đến mức tinh vi của kiếm thuật, dù cố công luyện tập như thế nào ... Một nữ nhân chẳng bao giờ phát huy trọn vẹn tất cả oai lực của kiếm pháp qua thanh Bạch Hồng!

Quan Sơn Nguyệt chận lời y:

- Ngươi nói phải, trước kia, vì ngán sợ Lâm tiên tử, ngươi cố đè nén dã dâm, rồi từ ngày ngươi phát hiện ra cái đạo lý vừa kể thì ngươi bắt đầu buông lung tàn bạo, thực hiện mưu gian. Trước cái dã tâm bừng dậy như sóng cồn của ngươi, Hương Đình Tiên Tử bắt buộc phải lánh mặt. Bà lánh mặt để truyền thọ kiếm pháp Đại La cho ta, bà lại giao luôn thanh Bạch Hồng Kiếm cho ta ...

Tạ Linh Vận cao giọng chận chàng lại:

- Ta cho, Lâm Hương Đình sơ suất một điều rất quan trọng, là hấp tấp truyền thọ sở học cho ngươi, lại hấp tấp sai ngươi xuất trận đối phó với ta!

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

- Sơ suất như thế nào, ngươi giải thích cho ta nghe xem?

Tạ Linh Vận đáp:

- Bất cứ kiếm pháp nào cũng vậy, muốn đạt đến mức tinh vi, người luyện phải cần một thời gian thích ứng, phàm môn học nào, nếu học viên đốt giai đoạn để mong chóng thành công, thì sự thành công đó, dù có, cũng phù phiếm, cái căn cơ rất mỏng manh, do đó mà hiệu lực không được biểu hiện đúng mức. Lâm Hương Đình chọn ngươi là nam để truyền sở học thuần dương, là hợp lý, song làm sao trong thời gian mấy hôm mà ngươi lãnh hội được chỗ ảo diệu của kiếm pháp?

Làm sao ngươi sử dụng thuần thục được thanh kiếm báu? Mới đây, ta thấy ngươi thi triển kiếm thuật đó, tuy ngươi có thắng được bọn Kỳ Hạo, song ta nhận ra thủ pháp của ngươi còn miễn cưỡng lắm, và công lực của ngươi chưa đủ để phát huy cơ năng của một kiếm pháp tân kỳ với một thanh kiếm cổ truyền. Tuy nhiên, ta cũng thành thật khen ngươi, trong vòng ba hôm, mà ngươi tập luyện được như vậy kể ra cũng khá lắm!

Quan Sơn Nguyệt phải phục sự nhận xét của Tạ Linh Vận. Sự khâm phục đó hiện rõ nơi ánh mắt của chàng.

Tạ Linh Vận nhìn vào mắt chàng, hiểu được tâm tư của chàng, y càng đắc ý hơn, bật cười sang sảng:

- Giả như ngươi luyện tập được ba năm trở lên, thì ta phải sợ ngươi. Chứ còn hiện tại thì ta không hề nao núng ...

Y vừa thốt, vừa cười, giọng càng sang sảng, tiếng cười giành tiếng nói, cuối cùng thì tiếng cười lấn át cả tiếng nói, thành ra đoạn sau của câu nói, chẳng ai nghe lọt.

Chưa biết được cái kết quả như thế nào, những người trước đó, hoàn toàn tin tưởng nơi Quan Sơn Nguyệt, bây giờ bị Tạ Linh Vận gieo niềm hoang mang, họ đã bắt đầu lo ngại.

Niềm tin, đặt nơi Quan Sơn Nguyệt giảm sút đi phần nào.

Họ lo ngại cũng phải, bởi họ nhìn Quan Sơn Nguyệt, xem thần sắc của chàng có biến đổi chăng, sau câu nói của Tạ Linh Vận. Họ nhận ra chàng có vẻ suy tư. Chàng càng suy tư, họ càng lo ngại.

Một lúc lâu, chàng đáp:

- Ngươi nhận xét rất đúng, tuy nhiên ngươi quên một điều.

Tạ Linh Vận ngưng cười, hỏi:

- Ta quên điều gì?

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

- Ngươi quên nghĩ đến tín tâm của ta! Phàm làm việc gì, việc đó có thành công hay không, phần lớn là do niềm tin của người làm. Việc khó, mà niềm tin vững, việc hẳn phải thành. Việc dễ, mà mất hẳn niềm tin, thì việc đó cầm như vô công.

Tạ Linh Vận trố mắt:

- Tín tâm? Tín tâm có quan hệ gì trong công cuộc này?

Quan Sơn Nguyệt nghiêm giọng:

- Tín tâm giúp ta lập những kỳ công, tín tâm có hiệu lực cải biến tình hình, chuyển bại thành thắng, đổi nguy ra an.

Tạ Linh Vận trầm ngâm một chút:

- Hay!

Bỗng, y bật cười ha hả, tiếp:

- Thế ra, nếu hôm nay bọn các ngươi thoát khỏi tay ta, là do một kỳ công, mà cái kỳ công đó do sự tín tâm của ngươi mang lại! Được lắm! Ta muốn thấy sự tín tâm của ngươi có nhiệm mầu gì, cứu bọn ngươi thoát chết dưới tay ta! Vào đi, Quan Sơn Nguyệt, vào mà lập kỳ công, cứu nhân độ thế! Cái nhân thế ở sau lưng ngươi kia!

Quan Sơn Nguyệt không hề mất bình tĩnh trước sự khiêu khích mỉa mai của Tạ Linh Vận. Chàng điềm nhiên nói:

- Bởi ta có cái chách nhiệm lớn lao, bảo toàn sanh mạng hơn trăm người, ta mới nuôi dưỡng tín tâm, nắm cơ tất thắng. Rồi ngươi sẽ thấy những màu nhiệm tín tâm phát sanh, rồi ngươi sẽ thấy kỳ công của ta tạo ra!

Tạ Linh Vận ngưng cười. Y đã thức ngộ một điều gì đó, qua câu nói của Quan Sơn Nguyệt. Y nhận ra, chàng trai đối diện đó quả là một kình địch đáng sợ cho y, y sợ là vì giao đấu với một người chấp nhận sự vong ngả, thì cuộc chiến phải ác liệt phi thường.

Vong ngả, là bất chấp an nguy cho bản thân, vong ngả để thực hiện một lợi ích cho nhiều người, sự vong ngả đó rất kiên định, và phàm ai nuôi dưỡng một lý tưởng, bằng mọi giá, người đó phải thực hiện lý tưởng cho bằng được! Chiến đấu với một lý tưởng chánh đáng, lẻ tất thắng đã hiện lộ trước khi cuộc chiến bắt đầu rồi.

Còn như y, y chiến đấu với cái gì? Y có lý tưởng chăng? Hay là chỉ để thỏa mãn một tham vọng?

Những kẻ có tham vọng, phần đông đều tham sống, sợ chết, nội cái việc đó cũng đủ chứng tỏ là Tạ Linh Vận yếu! Đem tinh thần không dám chết, giao đấu với một kẻ sẵn sàng chết, cái khí hùng đã kém, thì mong gì chiếm tiên cơ?

Tạ Linh Vận không còn dám khinh thường đối phương nữa. Y từ từ rút kiếm ra khỏi vỏ, thanh kiếm chạm vỏ kêu xoang xoảng, ra khỏi vỏ rồi, nó bổng sáng ngời ngời.

Thanh kiếm của y quý hơn hai thanh kiếm của Kỳ Hạo và Khổng Linh Linh là cái chắc, song dù sao thì vẫn còn kém xa Bạch Hồng Kiếm.

Tạ Linh Vận khẽ búng tay vào thân kiếm, bật lên những tiếng kêu «coong coong», đoạn y trang trọng thốt:

- Thanh Minh Kiếm đây! Nó là vật thường dùng của Tôn Quyền thời Tam Quốc phân tranh. Thanh Minh Kiếm đành rằng không sánh kịp Bạch Hồng Kiếm, song ta tin là nó có thể chịu đựng bảy tám chiêu, mà chẳng gãy!

Quan Sơn Nguyệt nhìn thoáng qua Thanh Minh Kiếm, điểm nhẹ một nụ cười:

- Phải! Một thanh kiếm quý! Càng quý hơn nữa, là kiếm pháp phổ vào thanh kiếm. Nhưng, dù sao «Tu La Kiếm Pháp» có thể bảo trì cho thanh kiếm khỏi gãy, ngược lại nó không bảo đảm nổi chiếc đầu của ngươi còn dính liền nơi cổ.

Tạ Linh Vận cười nhạt:

- Hơn một trăm người trong cánh của ngươi, hoặc sanh, hoặc tử, đều do nơi sự tín tâm của ngươi. Hơn một trăm người trong cánh của ta, ký thác sự tồn vong vào sở học của ta, cuộc đấu giữa ta và ngươi hẳn là công bình đúng mức rồi đó!

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

- Ngươi nói sai! Ta thất bại, là hơn trăm người phải mất mạng. Còn ngươi thất bại, thì bất quá máu chỉ loang trong một địa điểm năm bước tròn, và số người thiệt mạng, chỉ giới hạn với một mình ngươi! Duy nhất một mình ngươi thôi!

Tạ Linh Vận sợ đồng bọn nghe lọt, vội cười to, thốt:

- Đó là chủ trương của ngươi, đối với ta chẳng quan hệ gì. Bởi, ta chết rồi, thì ta làm sao chiếu cố đến ai được nữa? Ngươi cố chấp, họ vẫn chịu, ngươi rộng rãi, họ được nhờ. Đó là việc sau, còn hiện tại thì ta chỉ biết là cuộc đấu giữa chúng ta rất công bình. Ta biết vậy là đủ.

Họ đối thoại, bốn mắt nhìn nhau, bốn chân cùng xê dịch.

Bước đi của họ trầm trọng, đá dưới chân nát nghiền, bật thành tiếng kêu rạo rạo.

Song phương cùng di động, toàn diện cục trường im phăng phắc.

Họ càng đến gần nhau, sự im lặng càng nặng nề.

Trong cảnh im lặng nặng nề đó, đột nhiên một tiếng quát vang lên, rồi một ánh chớp lóe sáng, Thanh Minh Kiếm nơi tay Tạ Linh Vận vút ra. Y xuất phát chiêu đầu.

Chiêu đó, có cái tên là «Vân Thảm Vụ Sầu», kiếm pháp thuộc Ma đạo mà thành, chiêu kiếm cũng có cái tên tà quái, cho nên kiếm vừa xuất phát, là phát sanh mây đen, mây đen che kín ánh dương quang, biến cục trường đang sáng thành tối, nhưng chẳng tối hẳn, rồi trong bóng tối mờ mờ đó, văng vẳng lên tiếng quỷ rú, ma gào. Kiếm pháp Tu La với chiêu thức đó, biến trần gian thành địa ngục, gieo khủng khiếp trọn vùng mờ tối, phàm những ai hiện diện tại cục trường, đều khiếp đảm kinh tâm.

Những người nhát, trong cả hai bên, đều run sợ.

Lo ngại! Đương nhiên là những người đặt trọn tin tưởng nơi Quan Sơn Nguyệt phải lo ngại là cái chắc, những người bên cánh của Tạ Linh Vận, vì vũ đạo cũng lo ngại như thường, bởi những kẻ thực tâm vì vũ đạo, chỉ chú trọng đến vũ công, mà không hề xem thù oán là quan hệ.

Họ tự hỏi:

"Quan Sơn Nguyệt sẽ làm sao đối phó với chiêu kiếm quỷ khóc thần sầu đó?".

Họ tự hỏi như thế, chứ có ai tìm được câu giải đáp? Bởi chẳng có một dữ kiện nào giúp họ tìm câu giải đáp. Vì, ít nhất họ cũng phải trông thấy Quan Sơn Nguyệt như thế nào, thần sắc chàng ra sao, chàng ứng phó với chiêu thức gì? Họ chẳng thấy gì cả, hiện tại Quan Sơn Nguyệt đang bị một lớp mây đen, không dày lắm, song mờ mờ đủ che khuất chàng trước tầm mắt của mọi người. Lớp mây đen đó, dần dần lan rộng, che trọn ánh dương quang đang chiếu xuống cục trường, lớp mây bao gồm trọn vẹn số người hiện diện của song phương.

Lớp mây đen bây giờ dày lại, bóng tối càng phút càng dày, chừng như người ta không còn nhìn thấy rõ người đứng bên cạnh!

Đúng là một đường kiếm có ma thuật đáng sợ!

Không lâu lắm, lớp mây đen đó vẫn còn dày, còn đen, song từ bên trong, có một tia sáng xuyên thủng ra ngoài, như vầng mây mưa sau cơn trút nước, mỏng dần, rồi ánh dương quang gặp chỗ hở, lóe ngang, rọi xuống trần gian, dương quang rọi tia hy vọng xuống cho người đời là, sau cơn mưa, trời sẽ sáng lại.

Thì tia sáng nầy cũng mang lại một niềm hy vọng cho những kẻ lo ngại về trường hợp của Quan Sơn Nguyệt.

Dương quang, nếu tỏa rộng khắp không gian trống trải, thì chẳng có chi lạ, bởi người ta xem rất thường, xem suốt ngày, xem ngày này sang ngày khác.

Dương quang có lạ chăng, là bỗng dưng lại tắt mất, bỗng dưng lại bị che khuất đi, làm cho con người bực bội khó chịu rồi sau đó bất thình lình lại rọi xuống.

Những tia sáng nào cũng thế, có đẹp là khi nó phát xuất từ chỗ tối chiếu ra.

Thì, giờ đây, tia sáng từ trong lớp mây mờ bắn ra, vừa đẹp, lại vừa gây niềm tin tưởng, một niềm tin tưởng lung lay, bắt đầu củng cố lại rồi.

Tia sáng đó hiện ra rồi, thoạt đầu rất nhỏ, nhỏ như đường tơ, rồi dần dần lớn, từ cổ họng, lớn dần bằng cành cây, một thân trúc, một cội cây to ...

Tia sáng đó hiện ra, là mây đen phải mờ, bóng tối bớt dày, tia sáng càng lớn, mây đen càng tan biến.

Tia sáng lấn át dần dần qua lớp mây đen, cuối cùng thì mây cuốn, sương biến hoàn toàn, trả không gian trở về quang đãng.

Một loạt tiếng thở phào vang lên, những tiếng thở phào cùng phát ra một lượt, nghe như luồng gió đùa qua đầu cỏ, cỏ chạm nhau kêu lào xào.

Họ nhìn vào cuộc chiến.

Thanh kiếm Bạch Hồng vẫn chiếu sáng nơi tay Quan Sơn Nguyệt, tuy nhiên, nơi trán chàng, lâm râm những hạt mồ hôi. Thần sắc của chàng vẫn vững như thường.

Tạ Linh Vận có phần nào thở mạnh hơn trước, tiếng thở của y nghe hơi nặng, điều đó không thể có được nơi những người có công lực tu vi thâm hậu, trừ trường hợp bị chấn động tâm thần quan trọng.

Hiện tại thì bọn Lý Trại Hồng, Liễu Y Ảo, hai bà họ Lạc cũng như Khổ Hải Từ Hàng đều thấy rõ là Quan Sơn Nguyệt đã phá xong chiêu thứ nhất của Tu La Tôn Giả Tạ Linh Vận.

Họ hết lo sợ thì họ cười, nụ cười hàm chứa cái ý thán phục Quan Sơn Nguyệt.

Tạ Linh Vận dường như mất thần sau cái bại đầu tiên, thừ người một chỗ rất lâu, cuối cùng, y mới điểm nụ cười nhạt, từ từ thốt:

- Ta đánh giá ngươi rất thấp. Ta khinh thường sở đắc của ngươi! Thì ra đối phó với Kỳ Hạo và Khổng Linh Linh, ngươi không vận dụng toàn công lực! Ngươi đã dành một phần nào kín đáo, dấu ta!

Quan Sơn Nguyệt đưa tay lau mồ hôi trán, gương mặt trầm nghiêm, giọng nói cũng trầm nghiêm:

- Đừng nói những chuyện mơ hồ, Tạ Linh Vận! Công lực đâu phải là một vật hữu thể, mà người có cách phát huy từng giọt, từng giọt, nhiều ít tùy ý? Đối với vợ chồng Kỳ Hạo, ta dùng bao nhiêu công lực, thì đối phó với ngươi, ta cũng chỉ dùng bao nhiêu công lực đó thôi, ta đã dùng tất lực bình sanh cho cả hai lần, lần nào cũng như lần nào, thì làm gì có việc dành, để? Không, chẳng có việc đó được. Có điều, đối phó với ngươi, đấu pháp của ta tăng cường bằng cái tín tâm mà ta đã giãi bày cho ngươi hiểu trước đây mấy phút.

Chàng gật gù, tiếp:

- Đúng vậy! Tạ Linh Vận, chính tín tâm chi trì ta, nhờ thế mà ta có đủ sức chi trì cuộc đấu.

Tạ Linh Vận chừng như cười, mà cũng như mếu. Y trầm ngâm một chút, đoạn thốt:

- Cái tín tâm của ngươi có bền không? Nó có thể giúp ngươi chi trì cuộc đấu với những chiêu thức kế tiếp của ta chăng?

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:

- Tín tâm tương quan với hơi thở. Hơi thở còn, là tín tâm còn, tín tâm diệt là khi nào hơi thở tắt!

Tạ Linh Vận hét:

- Hay! Hùng tráng thay thái độ của ngươi? Ta sẽ dập tắt hơi thở ngươi qua chiêu này, cho ngươi mang tín tâm về địa phủ mà biểu hiện với ma sầu quỷ đói.

Y vung kiếm. Chiêu thứ hai của kiếm pháp Tu La! Nó có cái tên là «Sưu Hồn Đoạt Phách». Lần này, y không cần biểu dương oai khí, nên cái thế công chẳng mở rộng ra khắp cục trường, y tập trung kiếm khí trên mình Quan Sơn Nguyệt.

Khác hơn lần trước, mọi người đều thấy rõ, song họ chỉ thấy hai vầng kiếm quang chứ không thấy người. Bởi chung quanh Quan Sơn Nguyệt và Tạ Linh Vận, có một vầng kiếm quang bao bọc. Hai vầng kiếm quang của song phương, từ nhỏ, lan dần lớn ra, rồi từ lớn, thu dần dần hẹp lại.

Vầng kiếm quang lớn, là song phương biểu dương oai khí, kiếm quang thu hẹp là xong phương tập trung kiếm pháp để áp đảo lẫn nhau.

Hai vầng kiếm quang nhỏ dần, nhỏ đến vừa đủ cho bao bọc cả hai, như mỗi người mặc một bộ y phục chẹt bằng kiếm quang vậy.

Hai vầng kiếm quang thu nhỏ đến đó rồi ngưng lại.

Quan Sơn Nguyệt lộ vẻ ung dung, không nói gì.

Tạ Linh Vận cất tiếng:

- Tiểu tử! Ta xem, ngươi đang giả tạo một tư thế rõ ràng! Bởi không lẻ ngươi ỷ trượng vào tín tâm mà chống lại nổi chiêu thứ hai của ta?

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:

- Ta không nhờ tín tâm thì nhờ gì chứ? Bất quá lần này thì cái tín tâm phát xuất có phần khác hơn vậy thôi!

Tạ Linh Vận «hừ» một tiếng:

- Khác như thế nào? Tiểu tử ơi, thôi đi, đừng vẽ vời!

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

- Lần trước, tín tâm của ta ở nơi ý chí, lần này tín tâm ở nơi chiêu kiếm.

Chiêu kiếm của ta, tên là «Sơn Nhạc Vĩnh Tri», hoàn toàn thủ thế, thủ vững vàng, chắc chắn, cái chiêu của ngươi dù lợi hại, cũng không thể thu hồn bạc phách một hòn núi được.

Tạ Linh Vận quát to:

- Giỏi! Cho ngươi giỏi! Ta sẽ đánh luôn ra cả bốn chiêu sau, cùng một lúc, xem ngươi có còn là Sơn, Nhạc nữa chăng. Xem ngươi có nát như tro bụi hay chăng! Dù cho ngươi nấp dưới lòng biển sâu, ta cũng đốt cạn khô cả biển, xem ngươi có vững vàng, chắc chắn nữa chăng!

Câu nói buông dứt, y xuất thủ liền. Và, đúng như lời, y xuất phát đủ bốn chiêu. Những chiêu đó có tên là:

«Cuồng Phong Bạo Vũ», «Nộ Lôi Tật Thiểm», «La Hỏa Luyện Thiên» và «Liệt Việm Đằng Tiêu».

Bốn chiêu phát xuất rồi, là cục trường nổi dậy gió, mưa, sấm, chớp, tất cả trợ oai cho lửa bốc bừng bừng.

Trên đời, có cái chi đáng sợ hơn là Thủy Hỏa Phong Lôi? Bốn chiêu kiếm phát xuất, tập họp tất cả bốn thứ đáng sợ, khuấy động cục trường, dù cho núi cũng chẳng chịu đựng nổi, huống hồ con người?

Tất cả đều tập hợp để đổ ào ào xuống thân hình Quan Sơn Nguyệt.

Thoạt tiên, gió lộng, tóc chàng rối bùng lên, phất loạn, rồi đến y phục bốc lửa. Dần dần, sấm nổ từ trên đầu giáng xuống, chớp sáng dăng dăng trước mắt, gió cuốn, nước đùa, chàng sẽ tan như cát bụi ...

Nhưng, oai lực của Thủy Hỏa Phong Lôi không làm dao động ý chí kiên quyết của chàng nổi. Chàng từ từ đưa thanh kiếm Bạch Hồng lên, trước hết, vẽ một vòng tròn đùa khói lửa và nước ra ngoài, một vầng sáng thoạt đầu còn mờ mờ hiện ra nơi khoảng trống đó, mường tượng ánh bình minh vừa lên, và ánh bình minh thu dọn dần dần màn đen tối, ánh bình minh từ từ rạng rỡ với những màu sắc huy hoàng.

Cuối cùng, trong vầng sáng đó, một điểm đỏ hiện ra, điểm đỏ lớn nhanh, càng lớn càng lan ra, lấn áp màu đen tối đang phủ xuống cục trường.

Cái chiêu đó, chính là chiêu «Hút Nhật Sơ Thăng», chàng có sử dụng qua, lúc giao đấu với vợ chồng Kỳ Hạo, cho nên ai ai cũng hiểu.

Bình minh lên, là Thủy Hỏa Phong Lôi đều phải tiêu tan, bởi thái dương hiện ra, là bao nhiêu mây mờ phải biến mất.

Y như lần giao đấu với vợ chồng Kỳ Hạo, tạo nên vầng sáng rồi, Quan Sơn Nguyệt lại gặt tay. Cái gặt tay đó tạo cho vầng sáng, luôn cả điểm hồng tượng trưng thái dương, sự linh động phi thường.

Vầng sáng chiếu ngời ngời, điểm hồng xoay chuyển, đồng thời gian, một chiếc bóng hiện ra.

Đó là Quan Sơn Nguyệt phát xuất luôn chiêu «Bạch Hồng Quán Nhật».

Kỳ Hạo và Khổng Linh Linh, người bị phong bế huyệt đạo, kẻ lại bị gãy kiếm, do chính chiêu «Bạch Hồng Quán Nhật».

Chiếc mống hiện ra, vút đến Tạ Linh Vận.

Tạ Linh Vận cố vận công lực, loang thanh kiếm Thanh Minh, tăng gia oai thế, song vô ích. Bạch Hồng Kiếm áp đảo Thanh Minh Kiếm rõ ràng, dù Tạ Linh Vận cố gắng đến đâu, cũng chẳng làm sao phát huy một kháng lực hữu hiệu.

Có tiếng ngân dài, loang trong không gian, từ nơi thanh kiếm Thanh Minh, những điểm sáng như những hạt mưa, vừa chớp vừa rơi rụng ...

Tạ Linh Vận hết sức hãi hùng, nhún chân tung mình lên không, chênh đà vọt về phía hậu, đáp xuống, cách vị trí ngoài năm trượng xa.

Quan Sơn Nguyệt không bỏ, thân kiếm hợp nhất, theo ngay.

Tây Môn Vô Diệm rú lên một tiếng, bất chấp hiểm nguy, lướt tới chận chàng.

Bà ta vung tay không, chụp vào kiếm quang của Quan Sơn Nguyệt.

Liều như thế, thà tự tử còn hơn, bất quá bà ta ngăn chận cái thế tiến của Quan Sơn Nguyệt, chứ bà làm gì chàng nổi? Và, cái gì đến, đã đến với bà. Bà rú lên một tiếng thứ hai, lần nầy đúng là tiếng rú thảm.

Máu! Trong vầng kiếm quang của Quan Sơn Nguyệt, máu tươi bắn ra như hạt mưa bị gió bốc quăng đi.

Bạch Hồng Kiếm bám theo Tạ Linh Vận, nhưng Tạ Linh Vận không ngã, mà người ngã chính là kẻ đem xương thịt làm bình phong, người ngã chính là Tây Môn Vô Diệm. Hai cánh tay của bà biến thành hai đống xương vụn, da thịt cũng đồng số phận.

Không ai tưởng nổi hiệu lực của nhát kiếm đó, phàm một nhát kiếm nếu có thành công, thì bất quá chỉ tiện lìa một vật gì, hoặc giả gây nên một vài vết thương mà thôi. Chứ làm gì có một nhát kiếm lại chặt cả hai cánh tay thành da thịt xương vụn vằn?

Hay nhiều nhát kiếm? Nếu là nhiều nhát, sao chẳng một ai nhận định kịp?

Gương mặt của Tây Môn Vô Diệm đã xấu, bây giờ máu vấy khắp nơi, máu nhuộm cả y phục, đỏ ngời, trông bà ta đáng khiếp vô cùng, chẳng khác nào một quỷ sứ từ trong ao máu vươn mình lên đòi mạng ai đó.

Quan Sơn Nguyệt thu kiếm về, nhìn xuống Tây Môn Vô Diệm đang lăn lộn trên mặt đất.

Tạ Linh Vận biến sắc mặt như tàu lá, lâu lắm y mới buông tiếng thở dài:

- Tiểu tử tàn độc thật! Tàn độc không phải ở hành động, mà tàn độc vì cái dụng ý của ngươi! Ngươi che giấu sở đắc khiến cho ngoại nhân tin tưởng ngươi là một tay tầm thường ...

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:

- Phải! Ta đến đây, không ngoài mục đích giết ngươi, tất cả mọi người trao cho ta cái sứ mạng đó, thì thực lực của ta được dành lại, dành để cho ngươi, duy nhất mình ngươi! Chẳng một ai khiêu khích ta để bắt buộc ta phải sử dụng tuyệt kỹ, tiêu hao công lực. Ta trừ diệt ngươi rồi, những kẻ kia cầm như rắn không đầu, dù họ có muốn làm gì cũng chẳng dám làm!

Tạ Linh Vận lạnh lùng:

- Thế sao ngươi còn dần dà? Sao ngươi chưa bước tới kết liễu mạng sống của ta? Ta không bao giờ tưởng là phải bại nơi tay ngươi ... Hừ! Tại ta! Nhãn lực của ta quá kém! Ta khinh thường ngươi chẳng làm sao phát huy nổi uy lực của thanh kiếm Bạch Hồng!

Quan Sơn Nguyệt hiện tại vẫn còn thở gấp. Tuy thắng trận, chàng cảm thấy cái thắng này đánh đổi rất nhiều gian khổ, nếu không nói là chàng đánh đổi giá sanh mạng.

Ngươn khí và tinh thần tiêu hao quan trọng qua cuộc đấu. Mãi một lúc lâu sau, chàng mới lấy lại bình thường.

Trong khi đó, Tạ Linh Vận còn rung người, chừng như y không đứng vững tại chỗ.

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu, nói:

- Không! Ta không giết ngươi, dù sứ mạng của ta là phải giết ngươi, trừ diệt ngươi như chặt đầu một con rắn, để toàn thân rắn tê liệt muôn đời.

Tạ Linh Vận trố mắt, không tin là chàng nói thật.

Bọn người sau lưng chàng cũng trố mắt hãi hùng, tự hỏi chàng nói thế là nghĩa gì?

Chẳng lẽ chàng buông tha Tạ Linh Vận thật sự?

Bọn Lý Trại Hồng và Liễu Y Ảo, Giang Thượng Nhất Âu đều lộ vẻ khẩn cấp, Lý Trại Hồng kêu lên:

- Quan công tử! Bây giờ không giết hắn, sau này ...

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

- Ai muốn giết hắn cũng được, riêng tại hạ thì ... tại hạ không thể xuất thủ làm cái việc đó.

Liễu Y Ảo hỏi gấp:

- Tại sao?

Quan Sơn Nguyệt vỗ nhẹ tay vào thanh kiếm Bạch Hồng, đáp:

- Lúc tại hạ thọ nhận thanh kiếm này, tại hạ có lập trọng thệ là:

«Nếu không gặp một trường hợp quyết định sự sống chết của hàng trăm, hàng ngàn người thì tại hạ không hề sử dụng đến nó. Và, mỗi lần sử dụng đến nó, thì chỉ cho nó đẫm máu một người thôi», giờ đây, trước khi giao đấu với Tạ Linh Vận, tại hạ đã để nó đẫm máu của một người rồi. Tuy sự đẫm máu đó chẳng phải do ý muốn của tại hạ, dù sao thì sự kiện cũng đã xảy ra, cho nên tại hạ không thể dùng nó mà làm cho máu chảy thêm một lần nữa.

Lý Trại Hồng và Liễu Y Ảo sững sờ, nhìn nhau thừ người ra đó.

Giữ được một lời thề như vậy, dù biết rằng đối phương, nhân sự giữ lời thề của chàng, mà thực hiện một kế hoạch phục thù, trên đời này chỉ có chàng thôi.

Bởi, ai không muốn nhổ cỏ, nhổ tận gốc rễ? Bởi, có ai muốn nuôi dưỡng một hậu hoạn bao giờ?

Hiện tại thì Tạ Linh Vận tin được là Quan Sơn Nguyệt thực sự không có ý muốn giết y. Thần sắc của y biến đổi, song chẳng ai nhận định những ý niệm đang hiện lên trong tâm tư y qua thần sắc đó. Mãi một lúc lâu sau, y bật cười, tiếng cười của y chấn dội màng tai của bọn Lý Trại Hồng.

Cười một lúc, y cao giọng thốt:

- Có ai tưởng tượng được một sự kiện như thế chăng? Ta đường đường là một nhân vật thượng đỉnh trong Long Hoa Hội, lại bị một tiểu tử đánh bại, rồi còn được tiểu tử tha chết cho!

Y lại cười. Tiếng cười của y nghe như tiếng khóc, khóc căm, khóc hận, tiếng cười đó khó nghe hơn tiếng khóc. Y dùng tiếng cười thay cho tiếng khóc, bởi làm sao y khóc được? Khóc là hèn nhát, mà trường hợp này, y phải khóc mới đúng hơn. Y mượn tiếng cười thay tiếng khóc, để tiết bớt niềm phẫn uất, để phôi phai tủi nhục.

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên cất tiếng:

- Tu La Tôn Giả! Đừng khó chịu như thế! Thực ra cái ý giết người của ta, kiên quyết lắm chứ, song ta vì lời thề, không thể thực hiện cái ý đó trong dịp này.

Ngươi nên nhớ, mất dịp nầy ta còn nhiều dịp khác, nếu ngươi còn ham sống, thì từ nay nên lánh mặt ta!

Những đường gân, những thớ thịt trên mặt Tạ Linh Vận giật liên hồi. Song y chẳng nói gì cả, y cúi xuống, vòng tay bế Tây Môn Vô Diệm lên, điểm vào mấy huyệt đạo nơi mình bà, ngăn chận máu chảy, đoạn quay mình, lặng lẽ bước đi.

Y đi được mấy bước, Khổ Hải Từ Hàng lướt tới, chận đầu, vòng tay chào, rồi thốt:

- Tôn giả, biển khổ không bờ, quay đầu là thấy bến, bần tăng hy vọng Tôn Giả nghe cho mấy lời.

Tạ Linh Vận trừng mắt, căm hờn gằn giọng:

- Cho lão trọc biết, linh hồn ta sẽ mãi mãi đắm chìm trong khổ ải, ta cam tâm với cảnh trầm luân, ngươi đừng uốn cái lưỡi mà giở giọng thuyết pháp! Vô ích!

Khổ Hải Từ Hàng thở dài:

- Tôn Giả chấp mê, trong khi thừa khả năng thức ngộ! Được lắm, tùy Tôn Giả, bần tăng chẳng nói chi nhiều, chỉ mong Tôn Giả giải tán cái tổ chức dẫy đầy tội ác kia, còn như cần siêu độ thì nơi nào bần tăng lại chẳng thuyết pháp được?

Nơi nào lại thiếu chúng sanh? Tôn Giả xem kìa, bần tăng chẳng cần phải đi xa hơn địa phương nầy ...

Lão đưa tay về phía hậu, chỉ một số người theo sau lão.

Tạ Linh Vận nhếch nụ cười khổ nói:

- Ngươi yên trí, đường ngươi ngươi đi, đường ta ta tiến, ngươi cảm hóa được bao nhiêu người, mặc ngươi, ta không cần biết đến làm gì, cái điều đáng lưu ý nhất, là sau cuộc thảm bại hôm nay, ta chẳng còn mặt mũi nào lãnh đạo họ như trước kia.

Khổ Hải Từ Hàng vòng tay chào lượt nữa:

- A Di Đà Phật! Tôn Giá có ý niệm đó, cầm bằng một công việc đại công đức với đời.

Bởi, lão yêu cần Tạ Linh Vận giải tán tổ chức phi nhân, bất đạo, mà Tạ Linh Vận thì nói là chẳng có mặt mũi nào lãnh đạo bao nhiêu người cũ, như vậy là y gián tiếp thừa nhận giải tán tổ chức rồi.

Khổ Hải Từ Hàng tán một câu, để tạ cái ý niệm đáng ngợi của Tạ Linh Vận!

Tạ Linh Vận mặc cho lão nói gì, làm gì, bế Tây Môn Vô Diệm tiếp tục bước tới. Y đi, không lưu ý đến phía sau lưng.

Sau lưng y, còn có Kỳ Hạo, Khổng Linh Linh, sau đôi vợ chồng này, có thêm một số người nữa. Ai ai cũng lộ cái vẻ thiểu não, như con gà chọi bại cuộc, xù lông, rũ cánh, cụp đuôi, thất thểu bước.

Một đoàn người rất đông, âm thầm đi, trông như một đám tang ...

Bọn Tạ Linh Vận đi rồi, đến lượt bọn Quan Sơn Nguyệt cũng đi, cục trường trở về im lặng, trong không gian cò phảng phất tử khí ...

Xuống đến chân Thần Nữ Phong rồi, mọi người bao quanh Quan Sơn Nguyệt.

Người ta xem chừng như vị anh hùng vừa tạo chiến thắng đánh đuổi quân thù, đem an ninh về cho đất nước, thoát khỏi cái nạn giẫm nát quê hương. Niềm hoan hỉ hiện lên gương mặt, người ta suýt công kênh chàng lên như một thần tượng.

Riêng Liễu Y Ảo tuy hân hoan, song vẫn còn bất mãn, nàng gằn giọng hằn học:

- Sư phụ sao, đệ tử vậy, chẳng khác tý nào! Cái gì mà lời thề? Cái gì mà không thể? Ngày nay, tha cho hắn, ngày sau, hắn có tha lại cho không?

Lý Trại Hồng cười nhẹ:

- Sư muội nói gì thế? Nói gì thì Quan công tử cũng buông tha cho hắn rồi, nói làm chi khi việc đã rồi? Sư muội phải biết, lời thề đối với nam nhân là cái gì trọng nhất đấy, Quan công tử phải hành động như vậy, là vì lời thề, sư muội không thể trách cứ được!

Liễu Y Ảo vẫn tức:

- Giữ lòng nhân theo phường nữ nhân, câu chấp từng tiểu tiết một, lời thề hảo mà phải giữ! Thế thì còn gọi là anh hùng sao được? Phàm anh hùng là trừ hung diệt bạo, tạo an toàn cho đồng loại, chứ vì cố chấp mà lưu hậu hoạn cho thế nhân thì sao gọi được là anh hùng chứ? Theo tôi, làm như vậy là thả cọp về rừng, là duy trì hậu hoạn cho người đời đấy!

Lý Trại Hồng lại cười:

- Ai thì sợ, chứ sư muội mà cũng sợ nữa à? Đã có hòn núi chở che, sấm sét búa rìu gì hại nổi sư muội chớ?

Liễu Y Ảo thẹn đỏ mặt, kêu lên:

- Sư tỷ đừng đùa chớ! Tôi nói chuyện nghiêm chỉnh mà!

Nhất Âu nhếch nụ cười khổ:

- Lão phu đồng tình với Liễu Tiên Tử! Tạ Linh Vận còn sống ngày nào, là ngày đó chẳng ai ăn ngon ngủ yên.

Lão cười khổ, Quan Sơn Nguyệt cũng cười khổ:

- Thú thật với các vị, tại hạ chẳng hề phát thệ như đã tuyên bố, tại hạ cũng không tưởng là phải buông tha cho Tạ Linh Vận. Mà ...

Tất cả đều giật mình.

Liễu Y Ảo hấp tấp hỏi:

- Thế thì vì lý do gì, công tử chẳng giết hắn?

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

- Bởi lúc đó tại hạ không giết hắn nổi, chứ chẳng có lý do gì quan trọng cả.

Trái lại, nếu hắn muốn giết tại hạ, thì dễ như trở bàn tay ...

Mọi người đều kinh ngạc.

Quan Sơn Nguyệt giải thích:

- Với công lực của tại hạ, thì tại hạ chỉ phát huy oai thế một lần thôi, lần đầu tiên lại không làm gì nổi hắn, trái lại bị hắn chống trả! Hụt thế công đầu, tại hạ tiêu hao rất nhiều chân khí, nhưng tại hạ cố gắng đánh tiếp chiêu thứ hai, chẳng khác nào đánh liều lĩnh, giả như Tạ Linh Vận hoàn thủ, thì chẳng biết cái hậu quả như thế nào xảy đến cho tại hạ! May thay, Tây Môn Vô Diệm xuất hiện, người ngoài ai cũng cho rằng bà ấy cứu Tạ Linh Vận, song ngược lại thì chính nhờ sự can thiệp của bà ta, mà tại hạ thoát chết dưới tay Tạ Linh Vận!

Một số người đã hiểu, số khác còn mơ hồ.

Quan Sơn Nguyệt giải thích tiếp:

- Oai lực của Bạch Hồng Kiếm hùng mãnh phi thường, nếu phát huy ra, là đối phương phải mất mạng. Tuy vậy, tại hạ chỉ chém đứt hai bàn tay của Tây Môn Vô Diệm thôi. Điều đó chứng tỏ là tại hạ kiệt sức rồi. Nếu Tạ Linh Vận nhận ra, tiến tới tấn công, thì tại hạ cầm chắc cái chết trong tay. Do đó, tại hạ không dám quyết liệt ...

Liễu Y Ảo trố mắt:

- Rồi công tử bịa chuyện để lừa hắn?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

- Phải! May thay hắn lại tin ngay!

Mọi người đều nín lặng.

Niềm vui kém giảm đi phần nào.

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 33

Cái Khổ Sanh Ly

Quần hùng lần lượt ly khai Thần Nữ Phong.

Chẳng một ai thốt lời cáo biệt với Quan Sơn Nguyệt, vì lúc đó chàng quá mệt nhọc, tựa mình vào một khối đá to lớn, nhắm mắt lại.

Chàng ngủ, hay chàng không gượng nổi, mà phải mê man trầm trầm, hay chàng hành công, điều tức?

Quần hùng ly khai, chẳng phải tất số, bởi chàng đang ở trong hoàn cảnh đó, ít nhất cũng phải có một vài người, lưu lại tại chỗ, làm cái việc hộ pháp cho chàng.

Những người ở lại, là Liễu Y Ảo, Lý Trại Hồng, Nhất Âu và Linh Cô.

Bất cứ cuộc hội họp nào cũng thế, lúc tụ thì vui vẻ bao nhiêu, lúc phân tán càng buồn lạnh bấy nhiêu.

Bốn người còn lại, bên cạnh Quan Sơn Nguyệt, không khỏi bâng khuâng man mác, nhìn qua khung cảnh vừa náo nhiệt đó, giờ đây hoang vắng đến se lòng.

Cảnh vẫn hoang vắng như thường, dù hiện diện có đến năm người, một thì hồn chơi vơi tận phương trời xa, bốn thì nín lặng để giữ an tịnh cho người cần ngơi nghỉ. Họ trầm lặng một lúc lâu, Nhất Âu khẽ thở dài, thấp giọng thốt:

- Lần này thì giải tán thật sự rồi! Long Hoa Hội! Ba cái tiếng đó từ nay không còn là một bí mật đối với bất kỳ một ai, người trong hội hay ngoài hội. Tất cả đều giã biệt chúng ta để lui vào dĩ vãng! Tất cả bám vào ký ức, để thỉnh thoảng hiện lên qua những phút dây mơ màng của chúng ta! Cái chi cũng thế, dù đến với chúng ta, hoặc dữ, hoặc lành, lúc ra đi rồi, cũng lưu lại cho ta một niềm luyến tiếc!

Xa xa, nơi tàng cây, cũng còn mấy người. Trong số đó có Khổ Hải Từ Hàng, lão nghe Nhất Âu thở than như thế, nhìn về phía lão, nhà sư điểm một nụ cười, tiếp:

- Trong thiên hạ, làm gì lại có những cuộc họp không tan? Cuộc họp vĩnh cửu hơn hết, là cuộc hôn nhân, dù người không muốn tan, nhưng cái số đã định, kẻ trước người sau, thì không sanh ly cũng tử biệt như thường! Huống chi, có những cuộc hội họp không lành? Lành còn không trường cửu, thì dữ phải tan rã nhanh, là điều rất thường, chẳng có gì phải lấy làm lạ. Long Hoa Hội giải tán được như thế này, đáng cho chúng ta mầng lắm đó, tại sao ngươi còn lưu luyến thiết tha?

Nhất Âu cười khổ:

- Nào phải ta lưu luyến, thiết tha? Ngay từ ngày ta gia nhập, là ta đã có ý ly khai rồi, ta chỉ mong được ly khai, càng sớm càng tốt, bây giờ, ta dù không muốn, cũng được ly khai rồi, bất quá, ta nghĩ về tương lai, sau cuộc giải tán này, ta sẽ về đâu? Lão trọc, nghĩ hộ ta đi!

Khổ Hải Từ Hàng gật gù:

- Không lưu luyến thiết tha, là thức thời đấy! Bần tăng mầng cho! Song, chứa chấp một Ma Vương như ngươi, trên trời không chỗ, dưới đất không nơi, bần tăng còn biết chỉ bảo ngươi về phương hướng nào? Ngươi đừng hỏi bần tăng, hãy hỏi nơi hắn đó!

Hắn đây là Quan Sơn Nguyệt.

Khổ Hải Từ Hàng thốt xong, đưa tay về Quan Sơn Nguyệt đang trầm trầm bên cạnh khối đá.

Nhất Âu kinh ngạc:

- Hỏi hắn? Lão trọc có ý tứ gì lại bảo ta hỏi hắn?

Khổ Hải Từ Hàng chỉnh nghiêm sắc mặt:

- Ma chướng, tuy đã được diệt trừ trong hiện tại, song Ma nạn sẽ phát sanh ở tương lai, và trách vụ nặng nề diệt trừ Ma nạn, đều nằm trọn trên đôi vai của tiểu tử. Bần tăng chỉ sợ tiểu tử không đảm đương nổi cái trọng trách đó. Tài, thì hắn có thừa, song cái sức của con người có giới hạn, và sự việc trong tương lai, chẳng phải do một người đơn độc là hoàn thành nổi. Ngươi hiểu cái ý của bần tăng muốn nói chứ? Ngươi phải tiếp trợ hắn, cũng như Lý Tiên Tử phải tiếp trợ hắn.

Lý Trại Hồng «hừ» một tiếng:

- Sao lão trọc ghép ta vào vụ? Tiểu sư muội của ta, bởi cái đạo nghĩa đương nhiên, chẳng thể từ chối sự tiếp trợ hắn, chứ còn ta thì phi lý quá!

Khổ Hải Từ Hàng cười nhẹ:

- Liễu Tiên Tử tiếp trợ tiểu tử, việc làm đó có một ý nghĩa khác. Còn Lý Tiên Tử tiếp trợ, bất quá, nhận miếng trả miếng vậy thôi, bởi Lý Tiên Tử được an nhàn trong phút giây này, thì sự an nhàn đó chính do tiểu tử tạo nên, với cái giá sanh mạng của hắn. Lý Tiên Tử phải làm một cái gì đáp lại mới cân xứng chứ?

Huống chi, một kẻ có lòng nhân, chẳng bao giờ chỉ nghĩ đến mình!

Lý Trại Hồng khoát tay:

- Được rồi, ta biết ngán cái lưỡi của ngươi rồi! Đừng nói nữa! Bây giờ ta hỏi ngươi, ngươi dồn bọn ta vào cuộc, còn ngươi? Ngươi đứng ngoài cuộc để thung dung với ngày tháng, để nhìn người trong thiên hạ tranh chấp nhộn nhàng.

Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười bí mật, thốt:

- Có một địa phương an tịnh, địa phương đó được dành cho bần tăng từ lâu lắm rồi. Vì bần tăng còn nặng mang trần vụ, thành ra phiêu lưu ngày tháng, cái thời gian đảm trách đó đã kéo dài đến hai mươi năm. Bây giờ Long Hoa Hội chấm dứt, đồng thời trần vụ của bần tăng cũng chấm dứt, thời cơ đã đến cho bần tăng, về địa phương an tịnh, sống cuộc đời an tịnh.

Lý Trại Hồng cười lạnh:

- Ngươi đừng nuôi mộng, lão trọc. Nuôi mộng đẹp là quyền của ngươi, thực hiện mộng đẹp là một việc còn tùy thuộc nhiều yếu tố, nào phải ngươi tùy tiện mà định đoạt được đâu? Bao lâu nay, ngươi âm thầm bày bố, ngươi hí lộng cả thân lẫn thù, trường nhiệt náo dứt rồi lại nối, nối mãi không thôi, tất cả đều do ngươi, giờ đây, sự việc mới bắt đầu, mà ngươi tưởng là chấm dứt cho ngươi! Đâu dễ dàng như ngươi tưởng! Ngươi chưa rút lui được đâu, lão trọc ạ!

Khổ Hải Từ Hàng chấp tay trước ngực, đầu cúi xuống, điểm một nụ cười, nhưng nét cười không hiện rõ, lão đáp:

- Việc đời, đã được an bài từ trước, cho mỗi người, đến một lúc nào phải gặp cảnh huống nào, đó là cái số đã định, chúng ta chỉ là những con cờ của tạo vật, chúng ta là những kẻ thụ động, không hơn, không kém, đừng ai tưởng là mình có thể tác chủ được cuộc đời của mình. Lý Tiên Tử tin? Lý Tiên Tử không tin?

Điều đó thì tùy Tiên Tử, tin cũng tốt chẳng tin cũng được. Tuy bần tăng thường hội họp với các vị, song vẫn không hề có cái ý tìm nhàn riêng mà để cho các vị gánh trọn trọng trách đâu ...

Nhất Âu «hừ» một tiếng:

- Ngươi nói cái gì mà ta nghe ra quá mơ hồ như thế, lão trọc? Ngươi vừa nói là có một địa phương an tịnh chờ ngươi, rồi ngươi lại cho rằng không tham nhàn về mình, bỏ lụy cho bằng hữu, ta muốn biết thực sự ngươi có chủ ý như thế nào?

Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:

- Bần tăng là con nhà phật, mà phật gia khi đề cập đến mảnh đất an lạc, thì phải hiểu mảnh đất đó không giống với bất cứ khung cảnh nào của trần gian ...

Lý Trại Hồng chận lời:

- Ngươi muốn nói đến khung cảnh viên mãn? Khung cảnh viên mãn của cái tâm?

Khổ Hải Từ Hàng gật đầu:

- Các vị là người của trần thế, các vị hành động trong khuôn khổ trần thế, bần tăng là kẻ xuất gia, bần tăng có đường lối của Phật gia. Ngày sau gặp nhau, các vị sẽ minh bạch. Bây giờ, đem việc chưa xảy ra mà bàn, mà luận, thì làm sao chúng ta đi đến chỗ hòa đồng?

Lời nói của lão mênh mông quá, kỳ bí quá, chẳng ai hiểu được.

Chẳng ai tiếp nối câu chuyện, chính lúc đó, một bọn người tụ hội bên ngoài, xa xa, cùng rời bỏ vị trí, bước tới.

Những người đó là Huyết La Sát Lạc Hành Quân, Xú Sơn Thần Liễu Sơ Dương và Bạch Cốt Ma Thần Lạc Tương Quân.

Theo sau, Lạc Tiểu Hồng bước chân thất thểu, vẻ sầu muộn hiện rõ nơi gương mặt.

Nhất Âu nghiêng mình chào, rồi hỏi:

- Tam vị muốn đi?

Lạc Hành Quân gật đầu, rồi thốt:

- Niềm cừu hận mênh mang từ ngày nào, giờ đây đã được thanh toán, cái ơn của Quan công tử rất nặng, chẳng bao giờ họ Lạc quên được. Bọn tôi muốn kính lời cảm tạ, song Quan công tử đang ngủ say, vậy nhờ Âu lão chuyển lại hộ nhé!

Nhất Âu không đáp, chỉ gật đầu.

Hai bà họ Lạc và Liễu Sơ Dương chào qua mọi người, rồi quay mình toan đi, Lạc Tiểu Hồng còn lưu luyến, chưa chịu cất bước. Nàng gọi mẹ:

- Mình không thể nán lại một chút sao mẹ? Con muốn chờ Quan đại ca thức dậy, nói lời cáo biệt ...

Lạc Hành Quân thở dài, nắm tay con gái, bảo:

- Con! Tỉnh ngộ đi con! Đừng hy vọng nói gì với công tử! Hiện tại người chẳng còn là đại ca của con nữa, như ngày nào đâu!

Mí mắt của Lạc Tiểu Hồng mọng lên, vì lệ thảm đang cuộn trào ứ đọng chực đổ ra ngoài. Nàng nhìn Quan Sơn Nguyệt một lúc, rồi chuyển ánh mắt sang Liễu Y Ảo.

Liễu Y Ảo giật mình, ngầm giới bị, đoạn nhìn trả lại nàng, ánh mắt của Liễu Y Ảo chẳng có vẻ hiền hòa chút nào.

Lạc Hành Quân thấy thế, vội lôi con gái chạy đi.

Rời xa bọn Lý Trại Hồng rồi Lạc Tiểu Hồng mới òa lên khóc, vừa khóc vừa rên rỉ:

- Con không tin là Quan đại ca thay đổi khác hơn ngày trước! Bất quá, vũ công của đại ca tiến bộ nhiều, chính đó là sự thay đổi duy nhất, còn con người thì vẫn là đại ca của con!

Câu nói của nàng tuy nhỏ, song không gian tịch mịch, vẫn vọng đến tai Liễu Y Ảo.

Liễu Y Ảo «hừ» một tiếng, hằn học:

- Cái con nhỏ đó đáng ghét lạ!

Lý Trại Hồng liếc xéo nàng, nói:

- Sư muội! Nếu ngươi có một người chồng như thế đó, thì tốt hơn hết đừng bao giờ nói những câu như vậy, mà dù có nói, thì nên tìm những chốn hoang vu mà nói, tuyệt nhiên đừng để lọt vào tai chàng ta!

Bà ta thốt rất khẻ, vừa thốt vừa đưa tay chỉ Quan Sơn Nguyệt.

Liễu Y Ảo bất phục, lại «hừ» một tiếng:

- Tại sao chứ? Chẳng lẽ tiểu muội gương mắt to, nhìn cái thứ bé con học đòi yêu đương, làm màu làm mè với chàng?

Lý Trại Hồng thở dài:

- Ngu thơ nói lời phải, đành rằng ngươi là sư muội của ta, cái lẽ là ta phải tiếp trợ ngươi trong mọi việc, đại sư tỷ đã có lời dặn dò, bảo ta thời thường chiếu cố đến ngươi, song ta cảm thấy ...

Bà dừng lại, bỏ lửng câu nói.

Liễu Y Ảo nóng nảy, hỏi gấp:

- Sư tỷ cảm thấy như thế nào?

Lý Trại Hồng trầm ngâm một lúc:

- Người như Quan công tử, chẳng phải chỉ thuộc về ngươi duy nhất đâu!

Liễu Y Ảo biến sắc. Lâu lắm, nàng mới cất tiếng, âm thinh của nàng cũng biến đổi quái dị:

- Nếu có kẻ nào toan chia sớt tình yêu của chàng, thì tiểu muội ...

Đoạn cuối của câu nói, nàng nhốt luôn trong lòng, không cho thoát ra, nhưng thần sắc của nàng thì biểu hiện rõ rệt tâm ý của nàng.

Lý Trại Hồng hiểu, nàng hết sức kinh hãi, day qua Khổ Hải Từ Hàng, đưa ánh mắt cầu cứu. Khổ cho bà, lão tăng không hề có một phản ứng. Lý Trại Hồng thở dài:

- Sư muội chưa được người, sao vội ly khai người?

Liễu Y Ảo càng biến sắc hơn, cứ «hừ hừ» mấy tiếng, rồi cười lạnh mấy tiếng thay vì đáp.

Không gian trầm tịch, tuy ở giữa khoảng không, mà ai ai cũng cảm thấy ngột ngạt vô cùng.

Bây giờ mọi người đã ly khai trọn vẹn, chỉ trừ có bọn họ, bên cạnh một Quan Sơn Nguyệt đang thiêm thiếp giấc nồng.

Bỗng họ phát hiện ra, nơi góc núi, còn có một người. Người đó từ lúc nào đến bây giờ, bất động, thành ra chẳng ai để ý đến, bây giờ, họ khó chịu với cảnh trầm tịch, họ đảo mắt nhìn quanh, nhìn để lơi sự căng thẳng, họ mới phát hiện.

Nhất Âu vội bước tới gần người đó, nhận ra là ai rồi, lão kêu lên:

- Trời! Ngươi! Ngươi chưa đi à?

Người đó, là Phi Thiên Dạ Xoa Bành Cúc Nhân, gương mặt bà ta lạnh hơn tiền, đừng ai mong tìm được một nét cảm nghĩ nào nơi gương mặt đó.

Nhất Âu hỏi, bà bất động một lúc lâu, sau cùng bà đáp:

- Ta còn đợi Quan Sơn Nguyệt!

Liễu Y Ảo đang mang nặng niềm uất tức, không nơi phát tiết, gặp dịp này, khi nào nàng bỏ qua? Nàng lướt tới như bay, đồng thời hét:

- Tại sao ngươi dám gọi tên chàng?

Bành Cúc Nhân điềm nhiên:

- Hắn xưng hô ta là đại nương, tại sao ta không gọi được tên hắn? Trước mặt hắn, ta vẫn gọi như vậy, chẳng có gì lạ thường cả!

Liễu Y Ảo dửng cao đôi mày, nhìn sững Bành Cúc Nhân.

Khổ Hải Từ Hàng hấp tấp thốt:

- Liễu Tiên Tử! Quan thế huynh từng thọ trọng thương, nhờ bà ấy chiếu cố mới khôi phục được nguyên trạng như ngày nay, cái việc gọi họ, xưng tên, chẳng có gì quá đáng đâu!

Bành Cúc Nhân lạnh lùng nói tiếp:

- Long Hoa Hội đã giải tán rồi, giữa chúng ta chẳng còn sự cách biệt nào nữa, hiện tại, trong tương lai, chúng ta ai cũng như ai, chẳng còn ai cao ai thấp!

Liễu Y Ảo cố dằn cơn tức uất, hỏi:

- Ngươi chờ Quan công tử để làm gì?

Bành Cúc Nhân bĩu môi:

- Hỏi hắn một việc! Và cho hắn biết một việc.

Liễu Y Ảo cười mỉa:

- Hỏi việc gì? Cho biết việc gì? Ngươi cứ nói với ta, nói với ta cũng như nói với chàng.

Bành Cúc Nhân «hừ» một tiếng:

- Ngươi thay thế hắn được?

Liễu Y Ảo thoáng biến sắc:

- Tại sao ta không thay thế chàng được? Chẳng lẻ ngươi không nghe ...

Bành Cúc Nhân «hừ» một tiếng lớn hơn:

- Nghe chứ! Nhưng, ta có lưu ý đến làm gì!

Liễu Y Ảo đặt bàn tay lên đốc kiếm, song còn cố dằn lòng chưa rút kiếm ra khỏi vỏ. Nàng gằn từng tiếng:

- Thế phải làm sao ngươi mới lưu ý?

Bành Cúc Nhân so hai vai:

- Khi nào chính miệng hắn thốt lên!

Liễu Y Ảo sôi giận cực độ.

Lần nầy thì nàng rút kiếm khỏi vỏ thực sự, đồng thời nàng quát:

- Mụ già đáng hận kia, ngươi khinh người thái quá ...

Tuy nhiên, nàng không vung kiếm được, bởi Lý Trại Hồng lúc đó đã bước tới nơi, nắm cổ tay nàng giữ lại. Lý Trại Hồng trách:

- Sư muội nóng nảy quá ...

Liễu Y Ảo vùng mạnh, kêu lớn:

- Để cho cái mụ già mạt lưu cùng hạng kia khinh miệt, thử hỏi tiểu muội làm sao chịu nổi chứ? Sư tỷ buông tôi ra, cho tôi trừng trị mụ một phen, nhất định là từ nay, mụ phải kiêng cái mặt nầy, ăn nói có lễ độ hơn!

Khổ Hải Từ Hàng nhẹ giọng khuyên:

- Liễu Tiên Tử, Long Hoa Hội đã giải tán rồi, đâu còn phẩm trật, thứ bậc Tiên - Ma - Quỷ nữa, từ nay ai cũng như ai. Trước khi mình sỉ nhục người ta, cần nhất là mình phải tẩy trừ quan niệm giai cấp. Quan niệm giai cấp hảo kia còn ngày nào, là Tiên Tử vẫn còn khổ ngày ấy!

Đối với vị lão tăng đó, Liễu Y Ảo có phần nào kính phục, lão đã khuyên nàng, tự nhiên nàng phải vâng theo, dằn cơn tức uất, rút tay về, tra kiếm vào vỏ, rồi quay mình trở lại cạnh Quan Sơn Nguyệt, lắc mạnh chàng gọi cho tỉnh lại:

- Thức dậy! Thức dậy chứ!

Quan Sơn Nguyệt mở mắt, đưa tay chà chà cho bớt cay, đoạn hỏi:

- Việc gì mà ...

Liễu Y Ảo còn hận, đang thở mạnh, không thể đáp.

Bành Cúc Nhân và mấy người kia bước tới, tất cả cùng im lặng, chẳng ai mở miệng.

Cái cảnh tượng đó lạ kỳ quá chừng, Quan Sơn Nguyệt trố mắt, cất tiếng hỏi, song chẳng biết hỏi ai:

- Cái gì thế? Chừng như có sự xung đột ...

Bây giờ Bành Cúc Nhân mới đằng hắng, rồi thốt:

- Chính già cũng Liễu Tiên Tử tranh luận ...

Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc:

- Đại nương! Việc gì đến nỗi phải tranh luận với Liễu Tiên Tử?

Nghe chàng gọi Bành Cúc Nhân với hai tiếng đại nương, Liễu Y Ảo biến sắc mặt. Bực tức cực độ, nàng hét lên:

- Quan Sơn Nguyệt! Sự việc giữa chúng ta, có thành hay không thành?

Hãy cho ta biết ngay!

Quan Sơn Nguyệt chợt hiểu. Tuy nhiên, chàng vờ vẻ mơ hồ, hỏi:

- Việc vì giữa tại hạ và Tiên tử?

Liễu Y Ảo tức uất đến chết được. Tay nàng sờ lên đốc kiếm, định rút kiếm ra, nhưng kiếm chưa ra khỏi vỏ nàng ngã xuống liền. Nàng hôn mê vì cơn tức uất khích thích quá mạnh.

Lý Trại Hồng cấp tốc bước tới, nâng nàng, niềm ưu tư hiện nơi mặt, bà thở dài, thốt:

- Quan công tử! Tiểu sư muội vì cái việc hôn nhân, do đại sư tỷ an bài đó, mà ra nông nổi! Sự tình đã được tuyên bố công khai trước mặt nhiều người, công tử còn vờ vĩnh nữa ...

Quan Sơn Nguyệt khẩn cấp vô cùng:

- Điều đó ... tại sao ... do đâu ...

Lý Trại Hồng trừng mắt:

- Tại sao? Chẳng lẽ đại sư tỷ không nói rõ với Quan công tử?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

- Không hề có ...

Đến lượt Lý Trại Hồng biến sắc:

- Thế tại sao giữa đông người, công tử lại mặc nhận?

Quan Sơn Nguyệt đưa mắt sang Khổ Hải Từ Hàng:

- Đại sư! Việc nầy hoàn toàn do đại sư, hãy giải thích cho tất cả được hiểu.

Lúc đó, chính đại sư bảo tại hạ ...

Khổ Hải Từ Hàng há hốc miệng ra, như sửng sốt, lâu lắm mới thốt được thành tiếng:

- Bần tăng vâng chỉ thị của Hương Đình Tiên Tử, tác hợp lương duyên, hơn nữa, Hương Đình Tiên Tử sai Linh Cô đến cho bần tăng biết là Quan thế huynh đã đồng ý ...

Lý Trại Hồng nhìn sang Linh Cô, cao giọng hỏi:

- Tiểu quỷ còn đứng đờ đó à? Sao không giải thích rõ ràng cho mọi người biết sự tình? Đại sư tỷ bảo gì ngươi?

Linh Cô bối rối, lí nhí:

- Được ... được ... tôi nói! Đúng là Lâm Tiên Tử có bảo tôi thông tri đại sư ...

Đúng là Lâm Tiên Tử cho biết, Quan công tử đã chấp nhận ...

Quan Sơn Nguyệt khẩn cấp ra mặt:

- Nói nhảm! Tại hạ đồng ý lúc nào?

Linh Cô đáp:

- Hương Đình Tiên Tử cho biết, Quan công tử đã đáp ứng một việc với bà ấy và công tử còn cam kết là không khi nào hối hận về sự đáp ứng đó ...

Quan Sơn Nguyệt trấn định tâm thần, hồi ức lại những việc đã qua, cuối cùng chàng minh bạch. Chàng hét lên:

- Lầm! Đúng là một sự nhầm lẫn!

Lý Trại Hồng gương tròn mắt:

- Phàm là việc hôn nhân, chỉ có hai lẽ thôi, ưng hoặc không ưng, chứ làm gì có sự nhầm lẫn?

Quan Sơn Nguyệt thở ra:

- Lâm Tiên Tử có yêu cầu tại hạ, giúp làm tròn một việc, bà chỉ nói như vậy thôi, chứ chẳng hề cho biết rõ là vấn đề hôn nhân. Bởi tại hạ cảm kích ơn Lâm tiên tử thành toàn học nghiệp, nên có hứa là sẽ hết lòng làm công việc do bà giao phó. Sự tình như thế đó ...

Linh Cô chen vào:

- Quả đúng như vậy. Song, công tử nghĩ lại xem, Lâm Tiên Tử đã lánh xa trần tục, thì còn có sự việc gì dính dấp với thế gian nữa đâu mà phải nhờ công tử thanh toán?

Lý Trại Hồng giậm chân:

- Khổ chưa! Chung quy cũng tại Lâm đại sư tỷ hồ đồ. Tại sao không nói rõ mà chỉ mơ mơ màng màng?

Linh Cô cãi:

- Không thể trách Lâm Tiên Tử được! Bà có quyết định như vậy, song bà có nói với tôi là thời cơ chưa đến, có thể vì vậy mà bà chưa tiện nói ra chăng?

Tuy nhiên, bà bảo tôi thông tri với đại sư, nhờ đại sư lo liệu, tiến hành.

Mọi người đổ dồn ánh mắt về Khổ Hải Từ Hàng.

Lão hòa thượng thở dài một tiếng:

- Bần tăng nào có muốn gấp tuyên bố đâu? Chỉ tại Liễu Tiên Tử bỗng dưng tham gia cuộc chiến, gây nên khó khăn ... Liễu Tiên Tử nóng nảy quá!

Lý Trại Hồng cũng thở dài:

- Ta cũng có một phần trách nhiệm trong việc nầy! Trước khi ra đi, đại sư tỷ có lưu lại cho ta một phong thơ, đại sư tỷ cho ta biết về cuộc hôn nhân của Liễu sư muội thì người đã an bài rồi. Tuy người chưa nói rõ cái người được chọn làm chồng cho tiểu sư muội là ai, song bằng vào những diễn tiến vừa qua, ta đoán là đại sư tỷ đã đặt vấn đề nơi Quan công tử. Ta muốn tạo nên cái hứng cho tiểu sư muội sớm một chút, thành ra bao nhiêu rắc rối phát sanh ...

Quan Sơn Nguyệt thừ người tại chỗ một lúc lâu, từ lâu lắm rồi bây giờ như chợt tỉnh, trở về thực tại, cũng nhẹ buông tiếng thở dài:

- Lý Tiên Tử ... Tiên tử ...

Nghĩ cũng lạ lùng!

Một cuộc hôn nhân, chẳng biết sẽ có thể kết thúc hay chăng, lại khởi đầu bằng những tiếng thở dài, những vẻ sửng sốt, những bất bình, hằn học.

Người bàn qua, kẻ luận lại, ai ai cũng lắc đầu, cũng tặc lưỡi, ai ai cũng khổ sở quanh vấn đề!

Lý Trại Hồng nhìn nghiêng chàng, gằn giọng:

- Công tử lại định trách cứ tôi lộng giả thành chân, nhân đùa mà đưa mọi người vào cảnh khó xử, phải không?

Quan Sơn Nguyệt không đáp bằng lời, song thái độ, thần sắc của chàng còn rõ rệt hơn lời nói.

Lý Trại Hồng tiếp nối với giọng u buồn có ẩn ước niềm oán hận:

- Thực ra thì lần thứ nhất, tiểu sư muội gặp công tử tại Thiên Tề Biệt Phủ của Kỳ Hạo, con tim của tiểu sư muội đã hướng về công tử rồi. Sư muội trở về cứ nhắc nhở mải đến công tử, chính đại sư tỷ cũng có nghe, và người chẳng hề khiển trách. Có lẽ vì thấy tình ý của tiểu sư muội như vậy, mà đại sư tỷ an bài chăng? Xưa nay, đại sư tỷ có khi nào hành động hồ đồ đâu?

Sự tình càng được diễn giải, càng rõ rệt hơn, nhưng lại càng phức tạp hơn.

Phàm sự việc rõ rệt, thì dễ giải quyết, song ở đây, thì trái lại sự tình càng rõ rệt, mọi người càng nhận thấy càng rối rắm hơn.

Lý Trại Hồng luôn miệng thở dài. Sau cùng, nàng nhìn Quan Sơn Nguyệt, tiếp:

- Tôi hy vọng Quan công tử cho biết thái độ rõ ràng.

Quan Sơn Nguyệt lộ vẻ khó khăn.

Lý Trại Hồng lại nói tiếp:

- Tiểu sư muội sở dĩ tình nguyện xuất trận tiếp trợ công tử, là vì quá lo lắng cho sự an toàn của công tử. Bởi đại sư tỷ đã cho tất cả biết cái ý định tác hợp cuộc hôn nhân đó, nên tiểu sư muội mới dám công khai nhận là vợ của công tử.

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

- Tại hạ biết như vậy, nên tại hạ rất cảm kích Liễu Tiên Tử khẳng khái tiếp trợ ...

Lý Trại Hồng thở nhẹ:

- Thế là tốt! Tôi chỉ ngại công tử khinh thị Liễu sư muội thôi!

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp đáp:

- Tại hạ chẳng hề có ý đó.

Lý Trại Hồng trang trọng hỏi:

- Bây giờ, công tử tính sao?

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc:

- Tại hạ ... tại hạ không thể kết hôn với Liễu Tiên Tử!

Giọng chàng rất nhẹ, trừ một Bành Cúc Nhân đứng ngoài xa xa, tại đó ai ai cũng nghe rõ.

Và dĩ nhiên ai ai cũng sững sờ, bầu không khí đã nặng nề, càng thêm trầm trọng.

Lý Trại Hồng «hừ» một tiếng:

- Tại sao? Tiểu sư muội không xứng đáng?

Quan Sơn Nguyệt buông được câu nói khó khăn rồi, cứ tiến tới luôn, chàng chính sắc mặt, đáp:

- Vấn đề không ở nơi người có xứng hay không xứng. Vấn đề là ở nơi tình cảm. Tại hạ không thể lấy một người vợ thiếu hẳn tình cảm, có thế thôi!

Lý Trại Hồng cao giọng:

- Nói nhảm! Tình cảm của tiểu sư muội so với bất cứ thiếu nữ nào, cũng chẳng kém phần nồng nàn, không thể cho rằng tiểu sư muội thiếu hẳn tình cảm!

Điều đó, tôi dám bảo chứng.

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

- Tiên tử hiểu lầm! Tại hạ nói tình cảm, là chỉ về cá nhân, tại thiếu tình cảm đối với Liễu Tiên Tử, chứ còn Liễu Tiên Tử có như thế nào, thì điều đó tại hạ chưa có dịp nhận xét.

Lý Trại Hồng u buồn ra mặt:

- Thế thì thôi! Không ai có quyền cưỡng ép ai làm một việc trái ý muốn!

Huống chi, về hôn nhân, lại càng không nên cưỡng ép!

Quan Sơn Nguyệt đinh ninh là Lý Trại Hồng phải sôi giận về lời tuyên bố của chàng, song lạ lùng thay, nàng hết sức bình tịnh, bất quá, nàng chỉ để lộ vẻ u buồn, vậy thôi, và cũng chẳng phiền trách chi chàng.

Chàng tưởng cần phải nói một câu xoa dịu:

- Lý Tiên Tử! Tại hạ hết sức áy náy ...

Lý Trại Hồng lắc đầu, điểm nụ cười khổ:

- Tôi là người ngoại cuộc, công tử nói sao, tôi nghe thế, chẳng có gì quan hệ đến tôi cả. Bất quá ...

Nàng dừng lại một chút, đoạn tiếp:

- Tôi có mấy lời thành thật muốn tỏ bày với công tử!

Quan Sơn Nguyệt chỉnh nghiêm thần sắc:

- Xin Tiên tử cho nghe.

Lý Trại Hồng đưa mắt nhìn qua Liễu Y Ảo lúc đó còn đang đứng sững như chết lặng. Với giọng rung rung, chứng tỏ nàng bị khích động mãnh liệt, Lý Trại Hồng tiếp:

- Công tử không thể lấy Liễu sư muội, thì tốt hơn hãy giết nàng ...

Quan Sơn Nguyệt giật mình trố mắt nhìn Lý Trại Hồng. Chàng tự hỏi, nàng nói thế là có ý tứ gì? Oán hận chàng mà nói hay thực ra nếu chàng từ chối thì sẽ có điều tai hại xảy đến cho Liễu Y Ảo, chẳng hạn như nàng quẩn chí rồi tìm cách quyên sinh? Hay Lý Trại Hồng muốn đùa chàng? Đùa để mỉa mai chứ chẳng phải để phôi pha một sự bẽ bàng?

Lý Trại Hồng lại tiếp:

- Không đâu, công tử! Tôi không thốt những lời nông nổi! Trong tình cảnh nầy, còn ai có tâm tư nghĩ đến những lời đùa? Trừ ra những người phi phàm thì phần đông thiếu nữ, khi đã yêu hay khi hận, họ đều đi đến chỗ cực đoan, họ có thể làm bất cứ việc gì, kể cả những điều mà họ biết là sẽ mang tai hại đến cho họ.

Riêng về Liễu sư muội thì, theo tôi hiểu, còn vượt qua cái mức cực đoan, có thể bảo nàng hiện tại ở cái chỗ tuyệt đoan rồi đó. Công tử đương diện khước từ, chẳng khác nào dùng ngọn roi mà quất mạnh vào đầu nàng, nàng vừa thất tình, vừa bị chạm tự ái, niềm hận bốc cao, nàng sẽ mất bình tĩnh, nàng sẽ trở nên đáng sợ hơn Tạ Linh Vận nữa đó.

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu.

Chẳng ai hiểu cái lắc đầu của chàng có nghĩa gì. Lắc đầu vì chạnh nổi niềm dang dở của Liễu Y Ảo, hay chàng muốn xác nhận lại một lần nữa là chàng không thể miễn cưỡng làm một việc chiếm trọn cuộc đời nàng? Hôn nhân là quan trọng, do đó ai ai cũng phải thận trọng, đâu có thể xem như trò đùa, muốn cột thế nào tùy thích, rồi khi cái hứng lắng xuống lại mở ra?

Lý Trại Hồng tiếp luôn:

- Tuy nàng là sư muội của tôi, mối liên quan giữa tôi và nàng rất mật thiết, tôi cũng không oán trách công tử, mà bất cứ ai có hảo tâm với nàng, cũng không thể vì nàng mà oán trách công tử.

Nhất Âu khẻ gật đầu.

Khổ Hải Từ Hàng không gật đầu theo những người đó, song lão tăng không tỏ thái độ phản đối.

Bành Cúc Nhân chớp chớp ánh mắt, ánh mắt đó có ẩn ước ít nhiều ý chí khích lệ Quan Sơn Nguyệt.

Lý Trại Hồng ngưng câu chuyện lại một lúc lâu, chờ xem Quan Sơn Nguyệt quyết định như thế nào.

Nhưng, chàng vẫn bất động.

Bắt buộc, nàng phải cất tiếng:

- Cho rằng công tử không nỡ xuống tay, song bọn chúng tôi lại muốn công tử phải dứt khoát sự tình bằng cách hạ sát nàng. Trên đời nầy, một Tạ Linh Vận đã đủ gây khổ cho bao nhiêu người, thì khi mình biết là sẽ còn một họa hoạn lớn hơn sắp sửa phát sanh, tại sao mình không hủy diệt cái hậu hoạn đó?

Phụ họa với lời nói, nàng đưa cao một bàn tay, như chuẩn bị đánh vào tử huyệt của Liễu Y Ảo.

Quan Sơn Nguyệt nhanh chân, vọt mình tới, ngăn chận:

- Không nên! Đừng, Tiên tử!

Lý Trại Hồng trầm giọng:

- Tại sao? Công tử đã bằng lòng lấy nàng?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu, tỏ vẻ kiên quyết:

- Điều đó thì không! Tại hạ không thể kết hôn với nàng, mà tại hạ cũng không thể giết nàng. Cả hai điều, không thể thực hiện được, tuy nhiên, tại hạ sẽ ngăn trở bất cứ ai gây tổn thương cho nàng.

Lý Trại Hồng buông tay xuống, thở dài:

- Công tử đã nhất định cái hậu quả như thế nào chứ?

Quan Sơn Nguyệt nghiêm sắc mặt:

- Dù hậu quả như thế nào, tại hạ xin một mình đảm trách, giả như Liễu Tiên Tử vẫn là con người tốt, thì tại hạ sẽ nhận lỗi của mình, dù thực sự tại hạ chẳng có lỗi chi cả, bởi không thể yêu ai đó, là có lỗi với kẻ đó sao? Còn như vì bất mãn, mà nàng trở nên tàn độc, thì lúc đó, tại hạ sẽ giết nàng cũng chẳng muộn.

Dù sao, tại hạ mong muốn thanh kiếm Bạch Hồng nầy sẽ chẳng bao giờ có dịp sử dụng cho trường hợp của nàng.

Lý Trại Hồng suy tư một chút:

- Tôi chỉ sợ, đến lúc đó thì cầm như quá muộn rồi.

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

- Cũng có thể là muộn, song chúng ta đâu có thể vô cớ mà giết người, huống chi người đó lại cùng một cánh với chúng ta? Phải chờ xem nàng có phạm tội như Tiên tử dự đoán. Dù nàng phạm tội, là một điều đáng tiếc cho cả nàng lẩn nạn nhân, song chúng ta phải chờ.

Lý Trại Hồng lại trầm ngâm một lúc nữa. Nàng nhìn Liễu Y Ảo một thoáng, đoạn thở dài, thốt:

- Tôi chưa biết cách an bài như công tử có kết quả như thế nào, song tôi cảm thấy kính phục công tử vô cùng. Về đạo lý, thì tôi không tranh luận được với công tử. Cho nên, tôi giao nàng cho công tử đó.

Quan Sơn Nguyệt nhận ra, tuy nàng nói thế, song ánh mắt của nàng ngời lên cái sát ý rõ rệt. Chẳng những sát cơ hiện nơi ánh mắt nàng, mà trong tia nhìn của Nhất Âu và Linh Cô, sát khí cũng bốc bừng quá lộ liễu.

Khổ Hải Từ Hàng niệm phật hiệu, thốt:

- Bần tăng xin mang nàng theo!

Lão cúi mình xuống, nắm áo Liễu Y Ảo, tay kia lão áp nơi huyệt tâm khẩu của nàng.

Nhanh như chớp, Quan Sơn Nguyệt đánh ra một chưởng, trúng cánh tay lão hòa thượng.

Bàn tay của lão hòa thượng rời ngay huyệt tâm khẩu của Liễu Y Ảo.

Chàng hét:

- Đại sư làm gì thế?

Qua cái chạm đó, Khổ Hải Từ Hàng bị dội lại ba bước, còn Quan Sơn Nguyệt cũng bị đẩy lui về phía hậu, xa hơn nửa trượng.

Không chậm trễ, Khổ Hải Từ Hàng dùng phách không chưởng đánh xuống Liễu Y Ảo đang nằm mê man dưới đất.

Không thể can thiệp kịp thời, Quan Sơn Nguyệt hét lên một tiếng lớn.

Ngờ đâu, Liễu Y Ảo lăn qua một bên, lấy thế tung bổng mình lên không, lộn luôn một vòng, đáp xuống. Nàng nhìn mọi người, ánh mắt bốc lửa căm thù, gằn từng tiếng:

- Tốt lắm! Các ngươi cho rằng chỉ có các ngươi hiểu ta, chứ ta lại chẳng hiểu các ngươi sao? Thái độ của các ngươi đã rõ rệt lắm rồi!

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

- Tiên tử ... không hôn mê ... thực sự ...

Liễu Y Ảo cười lạnh:

- Ta có hôn mê thật đấy, song chỉ một thoáng thôi, ta tỉnh lại ngay! Cũng may là ta tỉnh lại sớm, nhờ thế mới nghe rõ các ngươi nói với nhau những gì! Hừ!

Sư tỷ, chúng ta cùng sống bên nhau qua nhiều năm, sư tỷ quên đi chăng? Hừ!

Ngươi! Ta cùng ngươi thường sóng đôi nhau, dạo khắp các ngọn đồi, đỉnh núi quanh vùng! Hừ! Ngươi nữa, mở miệng ra là nói toàn những lời đạo đức, luôn luôn nhắc nhở đến chúng sanh! Hừ!

Nàng trách luôn bà người, Lý Trại Hồng, Linh Cô và Khổ Hải Từ Hàng!

Lý Trại Hồng và Linh Cô thẹn đỏ mặt.

Chỉ có Khổ Hải Từ Hàng, giữ vẻ mặt thản nhiên, đáp:

- Bất cứ hành động nào của bần tăng, cũng dựa vào cái đạo từ bi, bác ái.

Cho nên, làm một việc gì, bần tăng chẳng bao giờ thẹn với lương tâm, bất quá, cái quan niệm của mỗi người mỗi khác, do đó sự nhận xét phải bất đồng!

Liễu Y Ảo không buồn lưu ý đến lão nữa, nàng hướng qua Quan Sơn Nguyệt, những biểu lộ trên gương mặt nàng vô cùng phức tạp, chứng tỏ tâm tư nàng đang có ngàn ý niệm dâng lên.

Nàng nhìn chàng một lúc lâu, rồi buông nhẹ tiếng thở dài, thốt:

- Còn ngươi! Ta biết nói sao bây giờ! Ngươi là kẻ mà ta hận nhất trong thế gian này, ngươi là kẻ mà ta kính phục nhất trong thiên hạ, giữa hai cực đoan đó, từ nay ta áp dụng một chủ trương! Cái chủ trương của ta, là tận dụng mọi thủ đoạn, đối phó với ngươi, quyết trừ diệt ngươi khỏi dòng đời, cho đến khi nào ngươi ngã gục dưới chân ta mà chết, ta sẽ vì ngươi khóc lên cho vơi niềm uất hận, rồi ta tự tuyệt để đáp lại thịnh tình của ngươi! Cái thịnh tình do ngươi dành cho ta hiện tại, có mọi người chứng kiến!

Quan Sơn Nguyệt thừ người ra đó, chẳng biết phải đối đáp làm sao với nàng.

Nàng thốt xong, còn nhìn chàng một lượt cuối, một phút sau, nàng quay mình nhún chân tung bổng người lên không, thoát đi nhẹ nhàng như con chim lướt gió ...

Nàng đã đi lâu rồi, những người tại cục trường vẫn còn bất động.

Mãi một lúc sau, Bành Cúc Nhân bước tới nắm chéo áo của Quan Sơn Nguyệt, thốt:

- Quan công tử, nếu hiện tại công tử chẳng còn việc gì bắt buộc phải lưu lại đây, thì xin đi theo già, đi gặp một người!

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:

- Ai? Ai?

Bành Cúc Nhân thở dài:

- Trương Thanh! Vị cô nương đáng thương hơn bất cứ ai trên trần gian nầy!

Nàng vì công tử mà trải qua chẳng biết bao nhiêu gian khổ mà giờ đây hầu như chẳng còn là một con người ...

Quan Sơn Nguyệt biến sắc, cấp tốc hú vọng một tiếng dài, con Minh Đà từ đâu đó chạy bay đến.

Chàng không thốt một tiếng cáo từ, nắm tay Bành Cúc Nhân, cùng nhảy lên lưng Minh Đà.

Con thú chẳng đợi chủ nhân giục, cất vó chạy đi ngay ...

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 34

Tình Là Dây Oan

Minh Đà lướt vó xuống núi như bay, gió chiều từ đồng nội cuộn về, mang cái mát dịu xoa mệt cho khách lữ hành, song riêng Quan Sơn Nguyệt không nghe nhiệt độ trong người lắng xuống mảy mai.

Chàng nôn nóng cực độ, Minh Đà vừa rời cục trường là chàng hỏi ngay Bành Cúc Nhân:

- Đại Nương! Việc gì đã xảy đến cho Trương Thanh?

Bành Cúc Nhân thở dài:

- Bịnh! Cơn bịnh đến hồi nguy kịch!

Chừng như Quan Sơn Nguyệt không tin như vậy, lại hỏi:

- Làm sao mà nàng thọ bịnh?

Bành Cúc Nhân «hừ» một tiếng:

- Bịnh đến, là thọ bịnh, là mang bịnh, chứ còn làm sao nữa? Chẳng lẽ con người ăn ngũ cốc, ăn đủ loại vật thực, trong một cơn bất thường nào đó, không thể ngã bịnh à?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

- Tiểu điệt đâu có ý nghĩ như thế đâu, đại nương! Chẳng qua, tiểu điệt lấy làm lạ là, ngoại tổ nàng, thân phụ nàng, đều là những bậc danh y, nàng phải được hai vị đó truyền cho ít nhiều tri thức về y học, nàng phải biết cách bảo dưỡng, dù có lâm bịnh đi nữa, hẳn nàng cũng hiểu phương pháp chữa trị hữu hiệu chứ! Tại sao lại để cho cơn bịnh chuyển sang giai đoạn nguy kịch?

Bành Cúc Nhân nhếch nụ cười khổ:

- Dược liệu chỉ chữa trị những chứng bịnh về cơ thể, chứ còn về tâm bịnh thì dù cho Hoa Đà, Biển Thước có sống lại cũng phải chào thua!

Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Một lúc lâu, chàng hỏi tiếp:

- Nàng còn thắc mắc về thân phụ của nàng à? Nàng uất hận về phong thinh quanh phụ thân nàng à?

Bành Cúc Nhân gật đầu.

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

- Lạ thật! Gia gia nàng làm sao thì làm, hành vi của lão ấy có quan hệ gì đến nàng đâu! Huống chi, tại đại hội Long Hoa vừa qua, tiểu điệt có gặp Trương Vân Trúc, cứ theo lời lão thuật sơ lược thì bên trong sự tình có nhiều uẩn khúc, và chừng như những việc đó, chẳng phải do y làm nên ...

Bành Cúc Nhân gật đầu:

- Nàng cũng có nghe như vậy. Chính nàng có đến từng môn phái một, những nơi có bị thiệt hại ít nhiều, người ta cũng cho nàng biết là không hẳn Trương Vân Trúc đã hành động như vậy, và ai ai cũng nghi ngờ có một bàn tay bí mật nào đó gây ra tội tình ...

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:

- Thế thì Trương Thanh còn lý do gì mà uất hận đến độ, phải mang bịnh nặng?

Bành Cúc Nhân lộ vẻ buồn thảm ra mặt:

- Hầu hết các môn phái đều không tin quyết là Trương Vân Trúc có làm điều thiệt hại cho họ, riêng tại Âm Sơn thì ...

Bà thở dài, rồi tiếp:

- Vô Cực Kiếm Phái lại quả quyết là người dụ hoặc thiếu nữ tiên Âm Lệ Hoa, chính là Trương Vân Trúc!

Quan Sơn Nguyệt giật mình, lắc đầu luôn mấy lượt:

- Không! Không thể có điều đó! Chính tiểu điệt có hỏi qua Trương Vân Trúc, lão cực lực phủ nhận việc ấy. Và tiểu điệt rất tin tưởng Trương bá bá không thể có hành động quá hèn đến mức độ đó!

Bành Cúc Nhân cười lạnh:

- Công tử dễ tin người quá chừng! Trương Thanh cô nương đã điều tra đích xác sự tình rồi, nhất định không thể lầm.

Quan Sơn Nguyệt vẫn không tin:

- Bằng vào đâu mà Trương Thanh dám quả quyết là Trương bá bá có tội?

Bành Cúc Nhân lắc đầu:

- Già nói làm sao được? Công tử muốn biết, cứ hỏi nàng thì biết! Già thú thật không được hiểu rành cho lắm, bất quá, già dám đoán định là Trương Vân Trúc không nói đúng sự thật với công tử. Nếu lão ta là con người tốt, thì chẳng khi nào lão lại chịu giao tiếp với bọn sứ giả Ma Cung.

Quan Sơn Nguyệt nín lặng. Chàng không cãi lý, song chàng vẫn tin tưởng là Trương Vân Trúc không bao giờ làm cái việc quá khốn nạn đó được. Còn như, lão ta có theo bọn sứ giả Ma Cung, thì điều đó hiểu nhiên rồi, lão có dụng ý gì, chỉ có lão mới biết được mà thôi. Chàng không biết, thì làm sao biện hộ cho lão được, trước lời trách cứ của Bành Cúc Nhân?

Chàng trầm ngâm lâu lắm, lại hỏi:

- Trương Thanh hiện tại ở tại Đại Ba Sơn? Nàng làm gì ở đó?

Bành Cúc Nhân «hừ» lạnh:

- Già chẳng đã nói với công tử là nàng mang bịnh sao? Mang bịnh thì tự nhiên dưỡng bịnh, chứ còn làm gì nữa?

Quan Sơn Nguyệt cười gượng, mặc nhận là mình hỏi vớ vẩn nên chàng không lấy làm khó chịu về thái độ của Bành Cúc Nhân trong thái độ mỉa mai chàng. Chàng có vẻ mơ màng, suy tư một lúc, đoạn lắc đầu thốt:

- Thật là kỳ quái! Tiểu điệt chẳng làm sao hiểu nổi! Dưỡng bịnh, ở đâu lại chẳng được, vì lý do gì, nàng lại tìm đến Đại Ba Sơn, cam với cảnh tịch mịch giữa chốn hoang vắng lạnh lùng ...

Bành Cúc Nhân «hừ» một tiếng:

- Điều đó không đáng trách! Bởi, ngoài Đại Ba Sơn ra, trong trần gian rộng lớn bao la nầy, chẳng còn nơi nào cho nàng dung thân được!

Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc, toan hỏi gì đó, Bành Cúc Nhân vội khoát tay ngăn chận:

- Công tử đừng hỏi già nữa, già không thể nói, dù là về vấn đề gì, già cũng không thể giải thích cho công tử hiểu. Khi gặp nàng rồi, tự nhiên công tử sẽ hiểu.

Thú thật với công tử, cả cái việc đi tìm công tử, với công tử đến đó gặp nàng là do chủ ý riêng của già đó thôi, chứ nàng không còn tưởng là gặp mặt công tử.

Quan Sơn Nguyệt lại càng mơ hồ, đôi mày cau lại, kêu khẽ:

- Đại nương càng nói, tiểu điệt càng hoang mang ...

Bành Cúc Nhân thở dài:

- Hoang mang là phải, bởi công tử chẳng cần hiểu làm gì.

Bà tiếp luôn:

- Hiểu cho nàng, cũng tốt, không hiểu cho nàng cũng chẳng sao! Tình trạng của nàng ngày nay cầm như vô cứu rồi, tuy nhiên, già nghĩ rằng, sự chí tình của công tử có thể giúp nàng thoát ly vòng thống khổ ...

Trước kia, thì chàng còn hiếu kỳ, gặp một bí mật nào, quyết khám phá cho kỳ được bí mật đó. Song từ lúc tham dự cuội đại hội Long Hoa, giữ một vai trò trọng yếu trong những diễn tiến của tổ chức ma quái đó, chàng đã tạo cho mình một tập quán tiếp xúc với mọi bí mật, cái tập quán đó giúp chàng giữ được thản nhiên, và đè nén mọi hiếu kỳ. Và, chàng cũng thu thập luôn một kinh nghiệm, là đừng bao giờ hỏi nơi ai một sự bí mật nào, muốn hiểu một bí mật, chẳng khác gì hơn là tự mình khám phá, có hỏi ai cũng vô ích.

Cho nên, hiện tại, chàng không hỏi gì thêm nơi Bành Cúc Nhân, chàng thừa hiểu, có hỏi bà, vị tất bà lại chịu tiết lộ với chàng? Chàng im lặng, suốt một quãng đường dài.

Bành Cúc Nhân chừng như lấy làm lạ về thái độ của chàng, qua một lúc, lại hỏi:

- Sao công tử không nói gì?

Quan Sơn Nguyệt cười khổ:

- Biết nói gì bây giờ, đại nương? Mà nói gì để làm gì? Điều mà tiểu điệt muốn hỏi, muốn biết, thì đại nương lại chẳng thể nói ra, tiểu điệt nghĩ, nên nín lặng là hơn! Cứ đi, khi nào đến rồi, chạm trán với sự tình rồi, nhìn sự tình, hiểu được cũng tốt, không hiểu được thì đành vậy thôi, đại nương ạ!

Bành Cúc Nhân căm hờn:

- Không hỏi thì đành đi, song ít nhất công tử cũng phải nói gì chứ? Ít nhất công tử cũng phải biểu hiện một vài cảm nghĩ nào đó, chứng tỏ từ ngày chia tay đến nay, công tử vẫn dành cho nàng một điểm nhỏ quan hoài ...

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

- Vừa nghe đại nương cho biết về tình trạng của nàng, tiểu điệt chẳng kịp giã từ ai, cấp tốc lên đường, như vậy chưa đủ sao, đại nương?

Bành Cúc Nhân cười lạnh:

- Đủ à? Bao nhiêu đó mà cũng cho là đủ à? Công tử có hiểu được đâu, từ lúc đó đến bây giờ, nàng đã hy sinh như thế nào cho công tử? Mà thôi, những gì nàng đã làm, sau lưng công tử, công tử không hiểu, cũng chẳng đáng trách. Hãy nói đến cái việc nàng trải qua bao nhiêu gian lao, nguy hiểm, đưa công tử từ Lạc Hồn Cốc đến Côn Lôn Sơn, đem sanh mạng của nàng, thử thách với bất thường trên quãng đường vạn dặm, công tử sống lại, nếu không nhờ nàng thì nhờ ai chứ?

Nàng đã khóc cho công tử lúc đó, nàng dùng những hạt lệ bi sầu tẩm liệm lúc công tử mê man như chết, nàng liệm công tử bằng cái tâm thành, trước khi gởi công tử nằm vĩnh viễn trong đất lạnh! Công tử sống lại nhờ nàng, bây giờ nàng hấp hối, thử hỏi vì ai, mà cũng thử hỏi ai có nghĩ đến nàng, ai sẽ cứu nàng?

Quan Sơn Nguyệt hoảng hốt:

- Sao đại nương nói là nàng chỉ thọ bịnh, chứng bịnh có phần nặng, mà thôi?

Thế tình trạng của nàng nguy kịch đến mức độ đó à? Nàng hấp hối?

Bành Cúc Nhân có cái dáng như kẻ lỡ lời, thốt ra rồi là hối hận ngay. Bà hối hận, nên bà sửa chữa:

- Công tử hỏi nhiều, cũng thế thôi, già chỉ tóm lược là nàng hiện tại thống khổ phi thường, nàng đã từ bỏ tất cả những gì đáng tha thiết nhất trên đời chỉ vì công tử đó!

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

- Nàng đã dành cho tiểu điệt một mối tình tha thiết, thế sao nàng không tưởng gặp lại tiểu điệt?

Bành Cúc Nhân rơi vào mâu thuẫn:

- Ai nói là nàng không tưởng gặp công tử?

Quan Sơn Nguyệt nhìn lại bà:

- Đại nương quên rằng chính đại nương vừa nói đó sao?

Bành Cúc Nhân thở dài:

- Phải! Già có nói như vậy! Già hồ đồ quá chừng! Bởi hồ đồ nên nói đầu xuôi đuôi ngược! Thì ra thì, nàng có nói là không muốn gặp lại công tử, tuy nhiên, già hiểu, miệng nàng thốt, mà lòng nàng nghĩ trái ngược. Già hiểu rõ là nàng đang trông chờ công tử, từng phút, từng giây, từng ngày, từng tháng đó, công tử!

Chừng như, nàng nghĩ là thà chết chứ không chịu tỏ ra tha thiết trông chờ!

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc lâu. Sau cùng chàng cất giọng u buồn, thốt:

- Tiểu điệt minh bạch rồi, đại nương! Tiểu điệt trước sau, vẫn gìn giữ một sự chân thành đối với nàng, đại nương đã thấy là tiểu điệt từ khước Liễu Y Ảo.

Bành Cúc Nhân chận lời:

- Cũng vì công tử biểu hiện tâm tình như thế, già mới tiết lộ hành tung của Trương Thanh với công tử đó!

Quan Sơn Nguyệt chính sắc:

- Đại nương! Giả như đại nương tin tưởng nơi tiểu điệt, thì hãy tỏ thật tình hình cho tiểu điệt hiểu. Hiện tại, nàng ra sao? Nàng ở tại Đại Ba Sơn ...

Bành Cúc Nhân lắc đầu, thấp giọng đáp:

- Công tử lượng xét cho già. Già không thể nói những gì khó nói. Đưa công tử đến gặp Trương Thanh, là già làm một điều sái quấy rồi đó, làm sao già dám bép xép hơn? Già biết là sái quấy, song vẫn làm, bởi già thọ ơn Tuyết Lão Thái Thái, già mến cái nghĩa của Trương Thanh. Già phải làm một cái gì cho họ. Nếu không vậy, thì đừng mong già hở miệng đối với bất kỳ ai.

Để biểu lộ sự cương quyết, bà cắn môi, nín lặng.

Trước thái độ đó, Quan Sơn Nguyệt còn hỏi han gì được nữa? Chàng thất vọng đến chán chường, cúi đầu, giục lạc đà chạy nhanh.

Đường đến Đại Ba Sơn, dài ngàn dặm, một con đường hầu như hoang vắng, lâu lâu mới có khách lữ hành đi qua, đường hoang vắng thì không được phẳng bằng cho lắm, tuy nhiên Minh Đà vốn quen cất vó trên những nẻo đường gồ ghề, nên không lâu sau, họ cũng đến nơi.

Minh Đà vừa đến chân núi, Bành Cúc Nhân bổng lộ vẻ bất an. Bà nhìn qua Quan Sơn Nguyệt, thốt:

- Già không thể cùng đi với công tử lên đó, thôi thì công tử cứ lên, rồi tùy cơ mà xử trí. Cần nhất là công tử phải kiên tâm, trì chí, vô luận làm sao, công tử cũng phải nghĩ đến Trương Thanh, vô luận làm sao, công tử cũng đừng khinh phụ nàng. Thôi, công tử đi đi, già vái van hoàng thiên phù hộ, trợ giúp công tử thành công!

Bà thốt xong, nhảy xuống đất, rồi phóng chân chạy đi, không đợi nghe Quan Sơn Nguyệt nói gì.

Thái độ của bà kỳ lạ quá, chàng đâm lo, song chàng chẳng chút nghi ngờ về tâm ý của Bành Cúc Nhân. Qua phút giây sửng sốt, chàng giục Minh Đà vượt qua dòng suối trước mặt, rồi tìm đường lên núi.

Con đường trải ra trước mặt, thoạt đầu rất rộng rãi, nhưng càng lên cao, càng hẹp lại, hẹp đến độ chỉ vừa vặn cho một người lách mình mà đi mới lọt.

Đường lên lại nằm giữa hai vách đá, trên đường rêu xanh mọc dày, trơn trượt.

Người chỉ lách mà đi, thì còn lạc đà, to lớn làm sao qua được? Bắt buộc chàng phải để con vật lại, rồi lấy chiếc Độc Cước Kim Thần giắt vào mình, dè dặt bước đi.

Qua hơn bảy tám dặm đường, chàng trông thấy một khoảng trống vừa cao, vừa bằng phẳng, bên trên có mây che phủ.

Mồ hôi đổ ra ướt đẫm cả mình chàng.

Lên đến bình đài rồi, chàng thở mệt một lúc, rồi nhìn về phía trước, bất giác chàng lắc đầu, cau mày. Thì ra, con đường đến đây là đoạn cuối, nếu muốn tiếp tục lên cao, thì chẳng còn cách nào khác hơn là biến thành con vượn, chuyền cây.

Cây cao chi chít, dây leo chằng chịt, giây khá lớn, có thể chi trì sức nặng một người đeo. Như vậy, đối với chàng, có gì khó khăn đâu? Thế tại sao chàng cau mày, lắc đầu? Phải có một nguyên do nào đó, khiến chàng cau mày lắc đầu.

Nguyên do, chẳng phải khó leo, chẳng phải thân thể chàng quá nặng, sợ dây leo không chịu nổi chi trì. Nguyên do, là chiếc Kim Thần Độc Cước sau lưng chàng. Chiếc Kim Thần nặng lối ba bốn trăm cân, sức nặng của nó, cộng với sức nặng của thân thể chàng, phải là quan trọng.

Đường dây kia có chịu nổi hay chăng?

Dây leo đứt, tự nhiên phải rơi xuống, mà bên dưới thì đá nhọn tủa lên chơm chởm, như ngàn muôn lưỡi gươm giáo chong lên, xương thịt nào rơi xuống mà còn nguyên vẹn với những mũi nhọn đó? Giá như chàng lừa thế, rơi êm được, thì làm sao chàng trở lên bên trên? Lòng hố sâu gần như trăm trượng, vách đá lại không có chỗ vịn, làm sao chàng trở lên được?

Trong khung cảnh đó, chàng dù có học được một thân bản lĩnh, cái bản lĩnh của chàng cũng cần như vô dụng.

Chàng trầm ngâm một lúc lâu, suy tư, tìm biện pháp vượt qua đoạn đường đó. Sau cùng, chàng phải dùng đến biện pháp cuối cùng, một biện pháp mà ai ai cũng có thể dùng, chẳng cần vận dụng trí óc tìm kiếm.

Chàng lấy chiếc Kim Thần, vận thần lực ấn xuống mặt đá dưới chân, đến khi Kim Thần lún sâu ngang cổ, chàng dừng lại, đoạn chàng lấy chiếc Minh Đà Lịnh, quấn dây quanh cổ kim thần. Sau đó, chàng dùng chỉ lực, viết mấy chữ lên mặt đá, cạnh kim thần:

«Minh Đà Lịnh Chủ để lại».

Cái ý của chàng là chẳng hề có một người nào lấy nổi chiếc Kim Thần. Giả như có người thừa công lực lấy ra, thì người đó hẳn phải là một nhân vật siêu phàm, và nếu là nhân vật siêu phàm, thì chẳng khi nào lại tham cái vật đó. Còn nếu ai lấy lên được rồi, mà lại muốn đoạt luôn thì, người ấy quả có ý muốn chống đối chàng. Kim Thần mất đi, người nào có chống đối chàng, hẳn phải để lại bút tích, cạnh mấy chữ của chàng, và do theo bút tích đó, chàng tìm thấy dễ dàng.

Bởi, người ta dám chống đối, tất phải lưu bút khiêu khích, chỉ rõ địa chỉ.

Làm xong các việc đó, chàng thở phào. Thở phào rồi, chàng ngẩng đầu lên, bất giác chàng giật mình. Bởi, chẳng rõ xuất hiện từ lúc nào, một người đang đứng trước mặt chàng.

Người đó có thân pháp nhẹ nhàng quá, đến gần chàng, mà chàng chẳng hay biết gì cả. Người đó từ nơi nào đến? Từ một nơi bí ẩn dưới hố sâu, hay từ trên cao xuống?

Người đó tuổi độ ba mươi, dung mạo đoan chính, mặc y phục nho sinh, nhìn thoáng qua cũng thấy rõ cái vẻ tư văn thanh nhã.

Nhưng, cái dáng đó không đánh lạc hướng nghĩ của Quan Sơn Nguyệt, vì chàng nhận ra, con người đó phải là một nhân vật hữu danh trên giang hồ, một nhân vật mà cái dáng nho nhã bên ngoài không che dấu nổi một công phu tu vi thâm hậu bên trong.

Ít nhất, Quan Sơn Nguyệt cũng nhận xét như vậy, và chàng tin tưởng nơi nhãn lực của chàng lắm. Bởi, đánh bại được Tạ Linh Vận, chàng tỏ ra là một tay lợi hại lắm rồi, nhãn quang, thính giác của chàng phải linh diệu vô cùng. Thế mà người đó xuất hiện bên cạnh chàng, chàng chẳng hề hay biết! Nếu người đó chẳng có một bản lãnh tân kỳ, thì làm sao có thân pháp nhẹ như chiếc lá rơi?

Người đó đằng hắng một tiếng, hỏi:

- Tôn giá là «Minh Đà Lịnh Chủ»?

Quan Sơn Nguyệt vòng tay nghiêng mình chào lại:

- Phải, tại hạ là Quan Sơn Nguyệt.

Người đó như không lưu ý đến tên họ của chàng, y cứ nhìn xuống mấy chữ trên mặt đá, buộc miệng tán:

- Khắc chữ được như thế, quả thật đáng phục!

Quan Sơn Nguyệt khiêm tốn:

- Huynh đài quá khen!

Người đó chớp mắt, tiếp:

- Hay thì có hay, song cái cách viết chữ chưa đúng mức hỏa hầu. Điều đó, hiện tại tôn giá không thể nhận ra được, mà chính tại hạ cũng chẳng biết phải giải thích làm sao cho tôn giá hiểu. Sau ba mươi năm, nếu tôn giá có dịp trở lại đây, nhìn bút tích cũ, sẽ thấy rõ là tại hạ phê bình không sai, cho nên, phàm tả tự, cũng phải mất lắm công phu mới luyện được một thủ pháp khả quan!

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

- Đa tạ các hạ chỉ giáo những sự khuyết kém, song tại hạ học viết, bất quá chỉ để dùng thay lời, dùng chữ để lưu cái ý lại mà thôi, chứ chẳng phải với niềm kỳ vọng trở thành danh gia ...

Người đó «hừ» một tiếng:

- Tôn giá nói thế là tự mình xem rẻ lấy mình rồi! Tả tự như tôn giá, là có thiên tài đó, có điều cái thiên tài chưa được trau dồi đúng mức thôi. Như một viên kim cương, nó còn nguyên hình, nguyên trạng, là cái giá của nó không được trọng lắm, nó cần phải qua tay thợ khéo đẽo, chuốt, giũa mài, nó mới trở thành một vật ngang giá trị liên thành. Các hạ có thiên tài, không trau dồi thiên tài, thì uổng biết bao? Các hạ xem rẻ thiên tài, là điều đáng tiếc vậy! Phải làm mọi cách để phát huy thiên tài chứ!

Bất ngờ mà bị người chỉnh như vậy, bất ngờ mà tiếp thọ một sự giáo huấn như vậy, Quan Sơn Nguyệt dở khóc, dở cười. Chàng có thích cái đề tài thảo luận này đâu mà phải bàn bạc dài dòng?

Chàng không biết phải giải đáp làm sao cho xuôi, vừa tránh phí phạm thì giờ, vừa không thất lễ độ.

Người đó chưa chịu buông tha chàng, trầm gương mặt tiếp luôn:

- Tại hạ không có ý mạo phạm đến tôn giá đâu, chỉ vì tại hạ có cái tâm liên ái thiên tài, thấy tôn giá không khai thác thiên tài, nên tiếc vậy thôi. Chúng ta là hai kẻ xa lạ, khi nào tại hạ dám vô lễ với tôn giá?

Quan Sơn Nguyệt bắt buộc phải đáp:

- Các hạ có hảo ý, tại hạ hết sức cảm kích ...

Người đó khoát tay:

- Chẳng cần phải khách khí. Tại hạ rất tinh tường về pháp tả tự, bình sanh rất thích xem nét bút của thế nhân, cho nên gặp tôn giá, tại hạ nhận thấy quả có thiên tài, thành hứng khởi, khuyến khích, hy vọng tôn giá trở nên danh gia, mình sẽ cùng nhau nghiên cứu ...

Quan Sơn Nguyệt chán lắm rồi, để chấm dứt câu chuyện, chàng hứa liều:

- Được rồi, ngày sau tại hạ sẽ nhờ các hạ chỉ điểm, hiện tại thì ...

Người đó cười tươi, không đợi chàng dứt câu, chận ngay:

- Hay lắm! Tại hạ ngụ trên đỉnh núi kia, lúc nào các hạ thấy hứng, xin cứ đến đó.

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

- Các hạ ở trên đó?

Người đó cũng giật mình:

- Tôn giá lấy làm lạ? Thế ra, tôn giá cũng ở trên đó? Thế ra chúng ta ở gần nhau, mà từ lâu không ai hay biết?

Quan Sơn Nguyệt khoát tay nhanh:

- Không! Tại hạ là người viễn phương, có một bằng hữu trên đó.

Người ấy thở nhẹ:

- Ạ!

Rồi y tiếp luôn:

- Người ở trên đó không nhiều, chẳng hay vị bằng hữu của tôn giá là ai?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

- Một thiếu nữ, nàng tên là Trương Thanh.

Người đó thoáng biến đổi thần sắc, chú mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt kỹ hơn một chút, đoạn hỏi:

- Đúng rồi, trên đỉnh núi, có một nữ nhân. Tôn giá đến tìm nàng ấy? Có việc chi chăng?

Tại sao y lại hỏi việc riêng tư của người? Mà lại là việc liên quan giữa một nam một nữ?

Tự nhiên, Quan Sơn Nguyệt bất bình, nhưng nghĩ lại, chẳng phải lúc chàng tranh luận với kẻ xa lạ, và lại điều đó không mang lại cho chàng một mảy mai tiện ích nào cả. Chàng dằn lòng đáp:

- Trương cô nương là người quen biết của tại hạ, hôm nay tiện đường qua Đại Ba Sơn, dừng chân lại thăm viếng nàng ...

Người đó nhìn xuống, lắc đầu:

- Trương tiểu thơ không tiếp khách.

Lần này thì sự bất bình tăng lên một phần và cái phần tăng đó là giọt nước làm tràn cái chén đầy. Chàng trầm gương mặt, lạnh lùng thốt:

- Lời nói đó, chỉ có mỗi một mình Trương cô nương thốt được mà thôi, chính nàng nói mới hợp lý.

Người đó «hừ» một tiếng, so vai:

- Tại hạ thốt, cũng như Trương tiểu thơ thốt, cả hai cùng thốt được cả và vẫn hợp lý như thường. Bởi từ ngày lên đỉnh núi ẩn cư, Trương tiểu thơ biểu hiện ngay cái ý tạ khách. Bất quá, nàng còn giao du với những người trên đỉnh, chứ khách phương xa thì đừng hòng được nàng tiếp kiến.

Quan Sơn Nguyệt nổi giận:

- Tại hạ không tin! Nàng có thể từ khước tất cả mọi người, nhưng nàng phải dành cho tại hạ một ngoại lệ. Nhất định là nàng sẽ tiếp kiến tại hạ.

Người đó liếc xéo qua chàng, rồi lạnh lùng nói:

- Tại hạ chỉ thay mặt Trương tiểu thơ, biểu lộ cái ý của nàng, với bất cứ ai muốn tìm gặp nàng. Các hạ không tin thì cứ tìm đến nàng. Nàng có tiếp kiến hay không, điều đó chẳng liên quan gì với tại hạ.

Biết là đối tượng có ý mỉa mai chàng, bởi y nghĩ rằng không có đường lên núi, chàng làm gì lên trên đó được mà hòng gặp Trương Thanh? Y thách thức chàng rõ rệt. Chàng cười nhạt, thốt:

- Tuy không có đường lên đỉnh, nhưng chẳng có gì ngăn trở nổi tại hạ, khi tại hạ muốn làm một cái gì.

Người đó cười mỉa:

- Tự nhiên! Các hạ đến được đây rồi, thì còn một đoạn đường ngắn nữa, hẳn cũng thừa khả năng vượt qua. Vậy xin mời các hạ!

Núi, đâu phải là giang san riêng biệt của y? Quan Sơn Nguyệt có cần chi y mời? Giả như chàng cứ tiến tới, thì liệu y ngăn chặn chàng được sao? Chẳng qua, y buông lời mời thỉnh, là có cái ý xác nhận lại một lần nữa sự thách thức đó.

Xác nhận lại sự thách thức, là y tin chắc chẳng bao giờ Quan Sơn Nguyệt lên được.

Quan Sơn Nguyệt trừng mắt nhìn y một phút, đoạn nhún chân, nhảy cao hơn hai trượng, hai tay chụp vào sợi dây cỏ leo.

Chụp dược đường dây rồi, chàng nhìn trở xuống, thấy người đó rút chiếc kim thần từ trong lòng đá ra, cầm nơi tay, quan sát. Chàng kinh hãi, buông tay, đáp xuống chỗ cũ, hét:

- Đó là vật của tại hạ, các hạ không được phép mó đến.

Người đó điểm một nụ cười, tay vẫn cầm chiếc kim thần. Quan Sơn Nguyệt vừa đáp xuống thì y nhún chân nhảy lên, chụp đường dây. Qua mấy lượt uốn mình, y biến mất trong vùng sương mù bên trên đầu Quan Sơn Nguyệt.

Thân pháp của y rất nhẹ, rất nhanh, nhanh đến độ làm cho Quan Sơn Nguyệt phải kinh hãi, bình sanh chàng chưa gặp một nhân vật nào luyện được thuật khinh công đến mức đó.

Từ lúc người đó xuất hiện, chàng đã nhận xét y là người có tài nghệ phi thường, song bất quá chỉ ở trong mức độ mà chàng tưởng tượng nổi. Nhưng, bây giờ, chàng phát hiện ra, cái tài của người đó trên xa chỗ ức đoán của chàng.

Không nói chi đến việc khác, chỉ nội cái việc y rút dễ dàng chiếc kim thần khỏi lòng đá, cũng là phi thường rồi. Trên giang hồ, luyện nội lực được như y, phỏng có mấy tay?

Y là người ẩn cư trên đỉnh núi, mà trên đó, chẳng phải chỉ có một mình y, thế thì trên đó có những ai? Họ sống riêng biệt nhau hay hợp thành tổ chức, chẳng hạn như, Long Hoa Hội?

Cái gì thì chưa biết chắc làm sao, chứ có thể hiểu là những người trên đó có bản lãnh đáng sợ lắm vậy.

Tại sao Trương Thanh lại hòa hợp với những người đó, và cam tâm tình nguyện sống đơn độc trên đỉnh Đại Ba Sơn, quên hẳn những người cũ, vui vầy với những người mới?

Quan Sơn Nguyệt nhớ lại những ngôn từ úp mở, những cử động ngập ngừng của Bành Cúc Nhân, chàng không còn phiền trách Bành Cúc Nhân như trước nữa.

Bởi chàng nghĩ là bà ấy khó nói rõ sự thật, dù biết, dù không biết, bà cũng không thể nói ra với chàng. Nói, để gây hoang mang, chứ có ích gì? Vì, chính bà cũng chẳng tạo nên một ảnh hưởng nào đối với nàng, thì thà câm lặng là hơn, sự thế đã vậy rồi, bà câm lặng là phải. Thà để dành cho chàng nhìn tận mắt, nghe tận tai, rồi tùy chàng liệu định.

Nhưng, điều thắc mắc quan trọng của chàng hiện tại, chẳng phải hoàn cảnh của Trương Thanh, dù chàng tha thiết với nàng. Điều đáng được chàng lưu ý là cái nhóm người đang ở trên đỉnh núi. Họ là những ai?

Xưa nay, những bậc ẩn cư không hề thích để lộ hành tung, họ chẳng muốn người đời nhắc nhở đến tên tuổi của họ nữa, họ tuy còn sống, song chỉ muốn tất cả những ai từng tiếp xúc với họ trong quá khứ, cầm như họ đã chết rồi. Có như vậy, họ mới tiêu dao ngày tháng, sống nốt chuỗi đời còn lại giữa trăng gió, trời mây ...

Bằng cớ, là những người trong Long Hoa Hội, ai không thường đến Thần Nữ Phong, ai không ở trong cái hội kỳ hoặc đó, thì khi nào lại biết được bao nhiêu cao thủ chôn chặt tiếng tăm tại Thần Nữ Phong chứ?

Còn như họ ẩn cư vĩnh viễn, hay họ tạm thời lánh xa trần thế, để chờ một thời cơ nào đó, tái hiện trên giang hồ, thì lại là một việc khác, chỉ có họ biết cho họ mà thôi. Không ai quan tâm đến họ.

Những người trên đỉnh Đại Ba Sơn là ai? Chắc chắn phải là những bậc cao tài, nếu vị nho sinh vừa rồi là một đại biểu. Họ là những bậc cao tài, họ ẩn cư, tự nhiên họ không muốn cho Bành Cúc Nhân tiết lộ sự gì.

Chàng tin chắc là Bành Cúc Nhân cũng ở trên đó, như Trương Thanh và cả hai đều bị một luật lệ quái dị chi phối, như những người trong Long Hoa Hội. Song, Bành Cúc Nhân đã có chân trong Long Hoa Hội, sao lại cũng có liên quan đến nhóm người trên đỉnh Đại Ba Sơn?

Qua khỏi cái khó khăn tại Thần Nữ Phong, Quan Sơn Nguyệt lại cảm thấy chàng sẽ đương đầu với một khó khăn khác, có lẽ không kém quan trọng.

Chàng đắn đo, thầm hỏi:

"Lên? Hay bỏ tất cả, để quay trở về?".

Lên, chắc chắn là chàng không được hoan nghinh rồi, mà biết đâu lại chẳng nhân đó mà phát sanh ra nhiều cừu hận vô lý.

Còn như không lên? Nếu bỏ dở chuyến đi này, thì làm sao chàng tái ngộ Trương Thanh? Nàng lại đáng thương quá chừng, huống chi nàng lại có ơn với chàng, có thể bảo đó là cái ơn tái sanh, cũng chẳng ngoa, bởi không có nàng thì hẳn là chàng đã chết vì chất độc của Lạc Hồn Cốc chủ. Chàng không có quyền phụ phàng nàn! Chàng còn sống đây, sự sống thừa do nàng ban cho, chàng phải dành nó, để làm bất cứ điều gì hữu ích cho nàng.

Nàng có lâm bịnh thật chăng? Điều đó, chàng chưa biết thế nào mà đoán.

Tuy nhiên chàng nghi ngờ là nàng đang sống trong một sự uy hiếp rõ ràng, dù Bành Cúc Nhân không nói ra cho chàng hiểu. Và cũng vì bị uy hiếp, mà nàng thống khổ triền miên. Bởi lẽ đó, Bành Cúc Nhân mới cố công phiêu bạt khắp bốn phương trời tìm chàng đưa về đây.

Nếu chàng không đến Thần Nữ Phong, thì Bành Cúc Nhân đến bao giờ mới gặp chàng?

Sau một lúc đắn đo, chàng quyết định lên núi.

Lên, trước hết để biết thực trạng của Trương Thanh như thế nào, tình cảm của chàng đối với nàng, cũng nồng nhiệt như của nàng đối với chàng, có khác chăng là khác ở chỗ Trương Thanh lộ liễu còn chàng thì kín đáo.

Kế đó, chàng truy tầm luôn vị thanh niên nho sinh kia, người đã lấy mất chiếc Kim Thần của chàng. Bằng mọi giá, chàng phải giữ vật đó bên mình, chỉ trừ khi nào chàng chết đi, thì ai muốn chiếm lấy, tùy thích.

Nếu còn một lý do thứ ba, là bất quá để quan sát sinh hoạt trên núi thôi.

Trước khi đi, chàng giậm chân phá hủy mặt đá có ghi mấy chữ của chàng, bởi chiếc Kim Thần mất rồi, thì những chữ đó còn lưu lại làm gì? Quái dị thay, hàng chữ của chàng được xóa mất rồi, bên dưới lại có một hàng chữ khác. Chàng trố mắt đọc:

«Trên Vọng Nguyệt Phong, có một gã thơ cuồng, tạm thời lấy chiếc Kim Thần, chờ hội ngộ với Lưu Lang. Tự tích này lưu lại cho khách viễn phương là Minh Đà Lịnh Chủ, cuồng sinh đang chờ để cùng thưởng trăng sáng nơi đồi cao.» Vọng Nguyệt Phong! Hẳn là đỉnh núi mà chàng sắp sửa vượt lên.

Thơ Cuồng! Hẳn là danh hiệu của vị nho sinh trước đó. Thảo nào mà hắn chẳng thích thơ, thích chữ ...

Bút tích lưu lại, chẳng biểu hiện một ác ý nào. Bất quá, hai chữ Lưu Lang làm cho chàng phần nào hoang mang thôi, bởi, chàng không tìm được một sự giải thích nào thỏa đáng.

Nhưng, suy nghĩ một chút, chàng chợt tỉnh ngộ, có lẽ Thơ Cuồng định mượn chuyện xưa, nói đến chuyện nay. Lưu Lang, nếu chẳng phải là Lưu Thần ngày trước, ngẫu nhiên lạc lối đến Thiên Thai, thì là gì?

Đem việc hiện tại, so với việc vừa qua, bất giác Quan Sơn Nguyệt nhếch nụ cười khổ.

Thần tiên! Tại sao người đời lại thích đắm chìm trong mộng ảo?

Long Hoa Hội, là một tổ chức quy tụ những người nuôi mộng thần tiên, họ đang còn là người, bằng xương, bằng thịt, song họ tập dần lối sống của thần tiên, lâu rồi họ cứ tưởng mình là thần tiên thật sự!

Họ si mê đến độ điên dại, họ cho rằng họ hóa kiếp vẹn toàn rồi!

Giờ đây, rời Thần Nữ Phong, chàng lại đặt chân đến Vọng Nguyệt Phong!

Rời Long Hoa Hội, chàng lại chạm phải một tổ chức cũng giống Long Hoa Hội, có điều thành phần của tổ chức khác hơn thôi, còn cứu cánh thì cũng lồng trong khung mộng ảo!

Ngoài ra, người trong Long Hoa Hội thì vũ công kém, còn bọn người tại đây chừng như tài nghệ rất cao.

Người ở đây cũng tự ví mình như bậc thần tiên, họ tập luyện ngôn từ, cử động như thần tiên, họ sống cái nếp sống của thần tiên, quên cả thực tại quanh mình, mơ mộng về không gian siêu trần thoát tục. Họ cũng đọc sách, họ cũng làm văn, song về văn, thì họ dốt rõ ràng, bằng cớ là thanh niên nho sinh vừa rồi lưu lại một câu rất dốt.

Lưu Thần vào Thiên Thai, gặp tiên nữ, thì hắn đâu có thể xem chàng là Lưu Thần, và hắn đang đợi Lưu Thần? Một nam nhân, chờ đợi một nam nhân, thì đâu có thể dùng cái điển tích Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai? Huống chi, Lưu Thần vào động tiên, với trọn niềm thích thú, còn chàng lên đỉnh núi với bao nhiêu suy tư trầm trọng, hai cảnh ngộ khác biệt bởi hai con người có những hoài bão khác biệt!

Đem sánh với Lưu Thần là sự đáng buồn cười! Không nói đến trường hợp của Lưu Thần là thung dung, tự tại, còn chàng thì đôi vai hằn nặng bao nghĩa vụ, trên đường trần còn phải xuôi ngược nhiều năm ...

Qua những nhận xét đó, Quan Sơn Nguyệt nghĩ rằng ở đây cũng như tại Thần Nữ Phong, tổ chức trên đỉnh núi kia, cũng chỉ là một tổ chức của bọn điên dại, có điều cái lối điên hơi khác, đối với Long Hoa Hội thôi.

Chàng tự hỏi sao con người quá u mê đến độ xa rời thực tế, chạy theo cái bóng ma xa xôi? Họ đang làm người, lại cứ mơ tiên, tưởng mình là tiên, rồi khi họ là tiên thực sự, thì họ sẽ mơ điều chi nữa? Họ muốn thoát tục, siêu phàm, song họ cứ đào sâu cái đáy tham vọng. Lòng tham không đáy họ lại đào sâu lòng tham hơn, như thế là họ còn đam mê tục vị, phàm danh, chứ đâu phải là siêu nhiên, ngoại vật?

Tại sao có một số người mơ vọng thành tiên?

Quan Sơn Nguyệt suy tư mãi về một Long Hoa Hội đã giải tán rồi, và một tổ chức nào đó, trên đỉnh Vọng Nguyệt Phong nầy mà chàng sắp sửa tiếp xúc trong chốc lát nữa đây. Cuối cùng, chàng cho rằng nguyên nhân rất giản dị, bởi họ là những người sợ chết. Họ muốn sống lâu dài, sống như trời đất, thiên thu bất diệt mà con người được cấu tạo bằng xương, bằng máu, con người là vật hữu hoại, thì làm gì thọ ngang với đất trời? Chỉ có những bậc thần tiên mới trường tồn với vũ trụ. Do đó mà họ tầm tiên. Tầm chưa gặp tiên, họ tự ví mình là thần tiên, rồi phỏng theo cái lối sống của thần tiên qua truyền kỳ mà tạo cho họ một khung cảnh dị biệt, khác hẳn lối sống của thế nhân.

Họ cũng hiểu, thần tiên là những nhân vật huyền hoặc, song họ nuôi mạnh niềm tin, và niềm tin đó biến họ thành những kẻ tuy chưa điên, song không còn tỉnh nữa.

Tà dương nhuộm những áng mây chiều thành muôn màu rực rỡ, trên nền trời, mây lơ lửng trôi, sáng lạn, huy hoàng, dưới núi cây cỏ mờ dần theo hoàng hôn đậm bóng, rồi từng cơn gió nhẹ cuốn về, trên cao, một vầng sương mỏng phủ giăng ...

Tất cả đều huyền ảo, đúng là cái huyền ảo của cảnh tiên.

Niềm tin của những kẻ ở trên cao kia, được cái khung cảnh ấy khuyến khích hàng ngày, và họ luôn luôn mơ mộng cũng chẳng có gì đáng lấy làm lạ.

Quan Sơn Nguyệt đã quyết định rồi thì cứ lên, lên cho biết không gian bao bọc quanh Trương Thanh có cái gì khác biệt hơn đời ...

Chàng nhún chân, tung mình lên cao, với tay nắm lấy đường dây, thử đu mình, xem giây có chắc lắm không. Rồi chàng phăng lần lên.

Đường dây có chỗ lớn, chỗ nhỏ, đoạn nào lớn thì chi trì thể xác của chàng rất vững, đến đoạn nhỏ thân hình chàng chao chao mường tượng đường dây sắp đứt.

Bây giờ, chàng nhận thấy cái ý kiến lưu chiếc Kim Thần lại, rất hay, nếu chàng mang nó theo mình, thì chắc chắn là hai sức nặng cộng lại sẽ quan trọng và đường dây không thể nào chịu đựng nổi.

Nhưng, chàng giật mình, bởi tự chàng cho là không thể mang chiếc Kim Thần theo, thì tại sao cái gã thơ cuồng kia lại mang được? Xem đó, đủ biết y có vũ công ghê gớm, y hóa trọng làm khinh được như thế, hẳn phải dày công tu vi.

Phàm, vật đồng tính, thường quy tụ nhau, thì những kẻ cùng chung sống với gã, hẳn cũng là những tay phi phàm ...

Chàng cứ lên, càng lên càng cao giới bị, bởi chàng biết rõ hạng người mà chàng sắp sửa tiếp xúc chẳng phải tầm thường.

Lên mãi thì cũng có lúc phải đến đích.

Trăng đã lên, trăng sáng vô cùng, dưới chân chàng, sương mù kết đọng thành một vùng biển mênh mang, nhuốm đen dần dần.

Trước mắt chàng, một thân cổ tùng hiện ra, ngoài cây cổ tùng chẳng có một cái gì khác. Chung quanh là khoáng đãng, là mông lung man mác như vùng trời vô tận ...

Đong đưa đường dây, lấy tư thế, Quan Sơn Nguyệt quăng mình sang cành tùng, chụp cứng.

Cành tùng đó không lớn lắm, chỉ to độ cánh tay, bởi khoảng cách từ đường dây đến cành tùng khá xa, chàng không quăng mình sát thân cây nổi, đành phải với lấy cành ngoài.

Cành tùng đó làm sao chịu đựng nổi sức nặng của thân thể chàng, gia dĩ cái sức nặng đó lại được tăng gia qua sự trìu níu của chàng, vì nhảy sang đó là chàng hỏng chân rồi, thân hình đu xuống phải nặng hơn ...

Một tiếng «rắc» vang lên, cành tùng gãy. Cành gãy, là chàng phải rơi, rơi từ khoảng cao ngàn trượng, gần đỉnh, rơi chẳng biết đến đâu, bởi bên dưới là biển sương mù đen đen, tuy không thấy gì qua biển sương mù, song cứ tưởng tượng cũng đủ sợ rồi.

Sự tình xảy ra ngoài sở liệu của Quan Sơn Nguyệt. Bởi không dự liệu nên chàng không đề phòng. Rơi xuống ba trượng, cảnh giác của chàng mới thức tỉnh, cơ trí động, phản ứng sanh, tay còn cầm đoạn tùng gãy, chàng quăng mạnh nó ra xa, mượn cái quăng đó lấy phản lực, rồi nương theo phản lực, đạp không khí vọt vào vách núi.

Đồng thời gian, chàng vận công lực vào bàn tay, năm ngón cứng như cái móc sắt, năm ngón chụp vào vách đá.

Nhưng, nếu là vách cứng, thì năm ngón tay đó bám sâu vào, giữ chàng như năm cái móc câu treo chàng nơi vách. Khổ thay, vách là đá núi, sao đá lại quá mềm? Tay chàng chạm vào, chẳng khác chạm bùn, thì làm sao chịu nổi sức nặng của chàng? Chàng hết sức kinh khiếp, mồ hôi lạnh toát ra đẫm ướt mình.

Thế là nguy vẫn hoàn nguy. Và chàng cứ rơi như trước ...

Cũng may, từ mấy lúc sau này, từng gặp nhiều nguy hiểm, chàng luyện được tâm tính bình tịnh, bất cứ trong trường hợp nào, chàng cũng không hề bối rối, lý trí vẫn sáng suốt, nhờ thế mà chàng đã vượt qua bao khó khăn suýt mất mạng mấy lần.

Bàn tay không bám víu vào vách đá được, chàng rút thanh kiếm Bạch Hồng chém loạn vào nơi đó. Trong khi đó, chàng giở thuật Du Long bò dần lên, chui mình vào khoảng sâu.

Bò trên một chất nhão, chẳng phải là việc dễ, nếu không lún xuống thì đã khá lắm rồi, huống hồ trườn tới khi hai tay, hai chân chẳng có chỗ chịu?

Vào chỗ trũng đó rồi, Quan Sơn Nguyệt không còn sợ rơi tuột xuống dưới nữa. Chàng thở mệt một lúc.

Nơi đó, cách cây cổ tùng ba trượng, khoảng cách ba trượng đối với chàng chẳng nghĩa lý gì.

Chân đạp lên đất cứng, chàng nhún mình, vọt lên, lần này chàng cẩn thận hơn, nhắm trước cành nào khả dĩ nắm cứng mà không sợ gãy như trước, chàng hướng về cành đó.

Chàng không dùng tay chụp, mà lại đáp chân xuống. Theo sự ức đoán của chàng, thì dù chàng có nhún mạnh đến đâu, cành cùng đó không thể gãy nổi. Trừ ra, có người nào đó ẩn mặt, ngầm giở trò quỷ quái gì ...

Lên đến cành tùng rồi, chàng nhún chân, thân hình vừa tung cao, cành tùng lại gãy như trước.

Cũng may, chàng đã rời nó rồi, chứ nếu không thì chẳng làm sao chàng có chỗ chịu chân lấy đà nhảy lên.

Đồng thời gian, chàng thấy một vệt sáng chớp lên, vệt sáng xuất hiện rồi lại tắt nhanh. Bất giác chàng sôi giận, buông giọng khinh bỉ:

- Ám toán là một thủ đoạn hèn hạ! Nếu cho mình có tài, cứ xuất hiện so tài, bằng sợ chết, thì lủi như chuột đi, đỡ bẩn mắt ta.

Chàng đáp xuống một khoảng đất bằng, cách đó độ năm, sáu trượng.

Không một tiếng người đáp lại.

Chàng chờ đợi một phút, chẳng thấy động tịnh gì, ngẩng mặt nhìn ra phía trước, một khu rừng trúc giăng mắc, ngăn chận nhãn tuyến của chàng.

Gió quét qua, khua động cành trúc, có tiếng kẽo kẹt hòa lẫn với tiếng xạc xào do cành lá phát lên.

Quan Sơn Nguyệt nghĩ, người ám toán chàng hẳn nấp trong khu rừng trúc đó, chứ chẳng lẽ kẻ ấy từ dưới lòng đất chui lên, phóng ám khí rồi lại chui xuống ẩn trốn? Chàng cất cao giọng, mắng luôn:

- Bọn hèn nhát nào đó, làm gì ẩn mặt như chồn? Chẳng biết hành động như vậy, kém hẳn nhân cách sao?

Từ trong rừng trúc, một âm thinh vọng ra, đáp lời chàng:

- Cái gã ngu xuẩn kia, sợ quá rồi thành mất trí phải không? Một trò đùa chào nhau lúc ban đầu, đùa cho vui với nhau, cớ sao lại phẫn nộ rồi dùng lời thô tục, la hét vang rền? Lên đến đây mà còn mang theo lòng tục, thì thà đừng lên là hơn!

Âm thinh vang lên, nghe rất gần.

Quan Sơn Nguyệt càng sôi giận, quát lên một tiếng lớn, vung thanh kiếm Bạch Hồng, vừa tạo một bức bình phong với kiếm quang, che trước mặt vừa lướt tới.

Kiếm quang đến đâu, cành trúc rơi ào ào, vòng kiếm quang dần dần lan rộng, chiếm một khoảng tròn độ bốn năm trượng.

Nhưng, chẳng có một bóng người!

Xông xáo một lúc, chẳng phát hiện ra được gì, Quan Sơn Nguyệt hết sức lạ lùng, chàng tin chắc là chẳng bao giờ nghe lầm hướng, nhưng tại sao lại có sự thể như vầy được?

Chàng dừng lại, đảo mắt nhìn ra bốn phía, trông thấy một phiến đá xanh, bằng phẳng như mặt bàn, hai bên bàn có hai chiếc đôn, trên bàn có một bàn cờ đen trắng còn bày ra đó, chứng tỏ cuộc cờ đang bỏ dang dở. Như thế, là vừa rồi có người chơi cờ, và hiện tại, người chơi cờ đã thoát đi, có lẽ còn lẩn trốn đâu đây.

Và, như thế, là chàng không nhận định lầm phương hướng.

Chàng nghĩ, tại vì chàng đến chậm một phút, thành ra không phát hiện kịp thời, chàng lại suy tư, chưa biết làm thế nào sưu tra tung tích người đó ...

Bỗng, có âm thinh vang lên, từ đâu đó vọng đến tai chàng:

- Tư Kỳ! Cái lối đùa đó, cũng thích thú chứ! Tuy nhiên ngươi gây ra một thiệt hại không nhỏ! Ngươi nghĩ, một khu rừng trúc tốt đẹp, bị ngươi đùa ác mà thành ra khuyết mất một khoảng lớn, khiến cho mười cảnh đẹp của cung Quảng Hàn lại mất đi một, còn chín! Làm sao chúng ta đối đáp với Nguyệt Hoa Phu Nhân đây?

Câu nói buông dứt, hai bóng người bước ra ...

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 35

Nguyên Nhân Tội Lỗi

Dưới ánh trăng khi mờ khi tỏ, Quan Sơn Nguyệt cố nhận xét hai người vừa đến để hiểu nhân phẩm của họ, cũng như ức đoán tâm tư của họ để lấy thái độ thích ứng.

Hai người đó cùng đội mão cao, cùng vận nho phục, hình vóc thì một người cao, một thấp, họ suýt soát tuổi nhau, cả hai vào trên dưới năm mươi.

Người cao có râu dài đến ngực, người thấp thì râu ngắn quẳng ngược lên, cả hai có nhãn quang sáng rực.

Quan Sơn Nguyệt thầm nghĩ trong hai người hẳn phải có một là kẻ đã ám toán chàng vừa rồi, nhưng may mắn thay chàng lại thoát nạn. Và cứ theo lời nói của một trong hai người thì kẻ đó chính là Tư Kỳ. Nhưng trong hai người, ai là Tư Kỳ? Người cao hay người thấp? Chàng nghiêm giọng nói:

- Vị nào vừa rồi ám toán tại hạ?

Người thấp trừng mắt nhìn chàng đáp:

- Ta! Ngươi là chi? Bất quá là một tiểu tử, ngươi lỗ mãng quá chừng, ta chỉ đùa với ngươi, ngươi lại không dằn được tính khí, chẳng những mắng ta lại còn phá hủy một góc rừng trúc! Ta nghĩ ngươi đã gây thiệt hại thì ngươi phải bồi thường.

Quan Sơn Nguyệt càng sôi giận, chàng biết người thấp là Tư Kỳ. Dung mạo hình dáng của Tư Kỳ không gây nổi một hảo cảm nào nơi chàng rồi, cái giọng nói của lão ấy lại còn làm cho chàng khó chịu hơn.

Tư Kỳ không tạo nổi một ấn tượng tốt đẹp nơi chàng, thì chàng cần gì phải đối xử lễ độ? Giả dĩ chính lão ám toán chàng kia mà? Đùa cái gì mới được chứ?

Giả như chàng không tránh kịp thì đã mất mạng rồi! Nhưng thế mà gọi là đùa được sao? Đùa trên sanh mạng người ta à?

Chàng mắng luôn:

- Vô lý! Các hạ xem mạng người như cỏ rác, dám đem sự sống chết của người ra làm trò đùa. Con người như vậy liệu có tư cách đáng trọng chăng?

Lão thấp đưa tay vuốt qua hàm râu ngắn, cao ngạo tiếp:

- Tiểu tử, ngươi đừng có mở miệng là mắng người ta, ta đã nói ta đùa, là đùa, nếu ta có ác ý muốn giết ngươi thì hai quân cờ vừa rồi không nhắm vào cành tùng đâu.

Quan Sơn Nguyệt thấy lão ngoan cố dùng cưỡng từ để đoạt lý, bất giác sôi giận phừng phừng toan phát tác, nhưng người cao khoát tay, điểm một nụ cười thốt:

- Thế huynh không nên phẫn nộ làm gì. Thật sự thì Tư Kỳ muốn đùa thế huynh đấy, điều đó tại hạ dám bảo chứng. Giả như thế huynh không nhảy được xa, dù có vì cành cây gãy mà rơi ngay xuống bên dưới vị tất phải mất mạng mà lo.

Quan Sơn Nguyệt trừng mắt:

- Đừng nói nhảm! Từ trên cao như thế đó ...

Người cao mỉm cười tiếp:

- Xem thì bên dưới rất sâu, song khi nào thế huynh rơi đến đáy được? Bởi bên dưới có lưới hứng, bất quá thế huynh phải một phen khiếp hãi thôi.

Quan Sơn Nguyệt giật mình. Cái lão cao này xem ra cũng là con người thức thời vụ, tánh tình hòa dịu, đáng tin tưởng được. Như vậy là lão nói đúng sự thật, chàng không còn căm hận lão thấp nữa.

Một phút sau, chàng lẩm nhẩm:

- Các hạ nói sao tại hạ hay vậy, chứ tại hạ nào biết được.

Lão thấp «hừ» một tiếng:

- Nếu ngươi hiểu được thì trò đùa của ta còn thú vị gì nữa?

Quan Sơn Nguyệt không thể có thiện cảm đối với lão thấp, lập tức chàng trả miếng:

- Dù cho bên dưới thật sự có lưới hứng đi nữa, các hạ cũng không nên đùa như thế, bởi núi thì cao trăm trượng hố thì sâu chẳng biết bao nhiêu trượng, cao và sâu cộng lại, cái khoảng cách đó quan trọng như thế nào chứ? Nếu gặp một người không biết võ công mà các hạ đùa như vậy, thì có khác nào giết chết người ta chăng?

Lão thấp cười lạnh:

- Người không biết võ công thì chẳng bao giờ lên được nơi đây, đường dây đó đâu phải mỗi ai cũng phăng theo lên được? Như vậy thì làm gì có việc hại chết kẻ không biết võ công? Còn những kẻ biết võ công thì khi nào lại ngã mà chết được? Thị Thơ có nói là ngươi mường tượng thông minh, bây giờ ta nhận ra ngươi chẳng thông minh chút nào, trái lại ngươi ngu xuẩn thì có.

Thị Thơ? Có phải là Thơ Cuồng chăng?

Cái lý của Tư Kỳ vững quá, Quan Sơn Nguyệt không đánh đổ nổi, chàng đành nín lặng.

Lão thấp đắc ý, nhìn chàng trừng trừng, tiếp:

- Tiểu tử! Sao không tranh luận nữa? Ngươi hồ đồ quá, tưởng là vung kiếm sẽ gây trọng thương cho người, không ngờ chỉ có tài chém trúc. Trúc của ta ngã đổ hết rồi, ngươi làm sao bồi thường cho ta? Phải biết, trên núi cao, trồng được một khu rừng trúc là cả một sự khó khăn không tưởng nổi đấy.

Quan Sơn Nguyệt tức uất, lại muốn phát tác.

Lão cao cười nhẹ chen vào:

- Tư Kỳ, đừng quy trách nhiệm về ai cả. Đành rằng trúc do vị thế huynh kia chém ngã, song truy ra căn nguyên thì lỗi về phần ngươi bởi ai bảo ngươi đùa?

Lão thấp kêu lên:

- Cầm Khiêu! Ngươi bênh vực người ngoài toan bức hiếp ta ...

Lão cao cười hì hì:

- Ta chỉ luận theo đạo lý, việc làm sao, ta luận như vậy, ngươi lỗi, ta phải nhận xét là ngươi lỗi, tốt hơn ngươi nên nhận lỗi, dù sự tình này có được đưa đến Nguyệt Hoa Phu Nhân, ta dám chắc phu nhân cũng phán đoán lỗi về ngươi thôi.

Lão thấp tặc lưỡi:

- Nguy! Thế thì nguy cho ta rồi. Cứ như thế này thì ta phải đến tận Đại Thanh Sơn, nói khó với lão Bạch Đà làm khổ công cho lão ta ba tháng, xin một bình nước Tái Sanh Tuyền đem về đây tưới mấy đoạn trúc ngã cho sống lại.

Lão cao lại cười:

- Sự việc đâu có đơn giản như vậy. Điều thứ nhất là cái lão Bạch Đà đó khó thương lắm, xưa nay lão ta có dễ dãi với ai bao giờ đâu? Lão bằng lòng hay không thì sự đó cũng chẳng cần nói làm gì. Chính cái điều thứ hai mới rắc rối hơn, là ba tháng khổ công đó ngươi có chịu nổi hay không?

Lão thấp kêu khổ:

- Thế thì ta phải làm sao? Tự ta làm, ta phải chịu, khổ ơi là khổ!

Lão cao lại cười hì hì:

- Còn điều thứ ba nữa là dù ngươi xin được Tái Sanh Tuyền Thủy mang về đây, những đoạn trúc đó hẳn là khô thành gỗ mất!

Lão thấp gãi đầu, gãi tai, kêu lớn:

- Làm sao bây giờ? Tiểu tử ơi, ngươi hại chết ta!

Trước đó, Quan Sơn Nguyệt thấy lão đáng ghét lạ, bây giờ thì chàng thương hại lão vô cùng. Bất giác động tính hùng, chàng cao giọng thốt:

- Vị tiên sinh đó không nên khẩn cấp, tại hạ đã chém ngã bao nhiêu trúc, nghĩ ra cũng có lỗi phần nào.

Lão thấp kêu lên:

- Nói làm gì? Ngươi có nói cũng vô ích. Bởi chẳng lẽ ngươi dám vỗ ngực nhận lỗi khi Nguyệt Hoa Phu Nhân trách cứ ta?

Nguyệt Hoa Phu Nhân! Chàng đã nghe hai lão này nhắc đi nhắc lại mãi danh xưng đó, đã thành phu nhân thì hẳn là nữ nhân.

Thị Thơ là Thơ Cuồng, hẳn chuyên về thơ. Cầm Khiêu hẳn chuyên về cầm, mà Tư Kỳ thì dĩ nhiên là chuyên về kỳ.

Cầm, Kỳ, Thơ là ba nhã thú, còn Họa?

Cả ba có thể là những người thường tiếp cận Nguyệt Hoa Phu Nhân. Và Nguyệt Hoa Phu Nhân hẳn phải trên bậc cả ba người này. Họ có quan hệ gì với nhau?

Chàng buông gọn:

- Chẳng sao. Tại hạ có lỗi, dù đến nơi nào, trước mặt người nào tại hạ cũng nhận lỗi như thường.

Lão thấp hấp tấp hỏi:

- Ngươi nhận lỗi như thế nào?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

- Tại hạ nói rằng chính tại hạ đã chém ngã những thân trúc đó, tại hạ tuyệt đối không hề đề cập đến việc tiên sinh đùa cợt.

Lão thấp tươi ngay nét mặt:

- Ngươi khẳng khái như vậy thì tốt quá! Tốt quá! Mà tại sao ngươi lại chặt ngã một khoảng trúc như thế?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

- Tại hạ nói rằng khi lên đến đỉnh núi, tại hạ nghe hai vị đàm đạo với nhau.

Tại hạ hỏi han chi đó, ngôn ngữ đối chọi nhau, tại hạ nổi nóng động thủ với các vị nên chém ngã bao nhiêu thân trúc.

Lão cao cười nhẹ:

- Như vậy là thế huynh giúp Tư Kỳ một việc vô cùng quan trọng đó! Tại Quản Hàn Cung có tất cả là mười cảnh đẹp, riêng về khu rừng trúc này thì Nguyệt Hoa Phu Nhân ưa thích hơn hết. Nếu Tư Kỳ hủy hoại một số trúc như thế, hẳn phu nhân phải trách cứ nặng nề, lão ta không làm sao chịu nổi hình phạt. Bây giờ thế huynh đảm nhận trách nhiệm, mà thế huynh lại là ngoại nhân, có lẽ vì lý do đó phu nhân sẽ khoan hồng không bắt tội. Ngoài ra, tại hạ và Tư Kỳ sẽ hết lòng van cầu phu nhân châm chước cho thế huynh ...

Lão thấp không còn khẩn trương nữa, tâm tư lão cởi mở dần dần, niềm vui hiện rõ nơi gương mặt. Lão gật đầu:

- Phải đó! Nhất định là chúng ta sẽ cố hết mình thuyết phục phu nhân bỏ qua. Chẳng lẽ phu nhân không vị tình chúng ta?

Quan Sơn Nguyệt khẳng khái:

- Hai vị không phải thắc mắc. Dù sự việc kết thúc như thế nào, tại hạ đã hứa rồi thì sẵn sàng gánh chịu hậu quả!

Dừng lại một chút, chàng hỏi:

- Bất quá tại hạ muốn biết Nguyệt Hoa Phu Nhân là người ra sao?

Hai vị đó sững sờ. Họ không tưởng là Quan Sơn Nguyệt đột nhiên hỏi như vậy. Một phút sau, lão thấp thốt:

- Không biết Nguyệt Hoa Phu Nhân là ai, thế mà ngươi lên đỉnh núi cao tìm gặp?

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp giải thích:

- Tại hạ lên đây chẳng phải có ý đi tìm Nguyệt Hoa Phu Nhân, mà chính là muốn gặp một người quen họ Trương.

Cả hai đồng thanh kêu lên:

- Trương Thanh.

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

- Phải. Nghe nói nàng đang ở tại đây!

Người thấp cau mày lẩm nhẩm:

- Quái chưa. Tại sao Thị Thơ không nói rõ?

Người cao đưa tay ra hiệu rồi thấp giọng:

- Đừng bàn luận gì cả, ta đã biết cái ý của hắn rồi.

Đoạn hướng qua Quan Sơn Nguyệt, lão hỏi:

- Làm sao các hạ biết Trương cô nương hiện ở đây?

Thoạt đầu Quan Sơn Nguyệt định đáp là chính Bành Cúc Nhân cho biết, nhưng chàng kịp suy nghĩ, Bành Cúc Nhân có cố kỵ như thế nào đó nên đã nửa úp nửa mở với chàng, bây giờ tiết lộ ra thì thành phụ lòng tốt của bà ấy. Biết đâu sự tiết lộ đó chàng sẽ đẩy Bành Cúc Nhân vào cảnh khó, và bà sẽ gặp sự bất lợi sau này?

Người cao không chờ nghe chàng đáp lại tiếp luôn:

- Tại hạ nghĩ rằng có thể là mụ họ Bành tố cáo với các hạ, mà các hạ nhất định là họ Quan, các hạ là người mà Trương cô nương thường nhắc nhở qua ba tiếng Quan đại ca.

Quan Sơn Nguyệt không thể không thừa nhận, đành gật đầu:

- Đúng vậy, tại hạ là Quan Sơn Nguyệt.

Người cao chỉnh nghiêm thần sắc, thấp giọng tiếp:

- Gặp Nguyệt Hoa Phu Nhân, tốt hơn hết là các hạ đừng tiết lộ danh tánh mà cũng đừng đề cập đến mụ họ Bành, ngoài ra cũng không nên hỏi han gì đến Trương cô nương.

Quan Sơn Nguyệt kinh dị:

- Tại sao thế?

Người cao lại tiếp:

- Các hạ đừng hỏi gì cả, tại hạ chẳng thể giải thích rõ ràng hơn được, bởi sự tình bắt buộc phải vậy thì đành chịu vậy. Nếu các hạ muốn gặp Trương cô nương, thư thả rồi bọn tại hạ sẽ nghĩ ra biện pháp giúp các hạ.

Quan Sơn Nguyệt hoang mang vô cùng.

Mặc dù cho người cao đã bảo chàng đừng hỏi gì nhiều, song làm sao chàng im lặng với sự hoang mang đó nổi. Chàng toan cất tiếng yêu cầu người cao cho biết lý do, chàng nhất định phải biết mới được, chàng chưa kịp mở miệng thì người thấp đã chen vào, thần thái của y khẩn trương thấy rõ:

- Có người đến rồi đó, ta phải chận đầu họ, có lẽ bọn này đi tìm cảnh để vẽ vời chắc. Cầm Khiêu, ngươi hãy chỉ điểm thêm cho vị thế huynh này mấy điều cần thiết nhanh lên đi, đừng để dở dang mọi việc.

Thốt xong y bước đi liền.

Người cao hấp tấp chỉ thanh trường kiếm của Quan Sơn Nguyệt, bảo:

- Dấu thanh kiếm trước đi, rồi các hạ chú ý ghi nhớ những gì tại hạ dặn dò thêm.

Quan Sơn Nguyệt tra kiếm vào vỏ, kéo tà áo phủ bên ngoài.

Người cao vẫn với giọng gấp, tiếp:

- Trong cung Quản Hàn của Nguyệt Hoa Phu Nhân có tất cả bảy thị giả, tại hạ là Cầm Khiêu và hai người nữa là Tư Kỳ và Thị Thơ thì các hạ đã biết rồi, còn lại bốn người:

Chử Trà, Nhập Hoạch, Đạn Kiếm, Phi Thương, trong bốn người đó chỉ có Đạn Kiếm là nam nhân, y có thể giúp các hạ, còn ba người kia đều là nữ nhân, đối với những lão phụ đó, các hạ phải hết sức cẩn thận giữ gìn từng cử động từng ngôn từ, tuyết đối không nên tiết lộ lai lịch với ba mụ ấy. Ngoài ra còn một ...

Lão chưa dứt câu, từ nơi rừng trúc Tư Kỳ đằng hắng một tiếng, người cao lập tức nín lặng, lại còn lắc nhẹ một đầu vai ra ý bảo Quan Sơn Nguyệt hãy đề cao cảnh giác.

Liền theo đó có giọng nói của một nữ nhân vang lên:

- Phu nhân truyền lịnh đưa tiểu tử đến gấp, các ngươi còn dần dà ở đây, ý muốn giở trò gì phải không?

Câu nói vừa dứt âm vang, hai bóng người xuất hiện. Hai người đó là Tư Kỳ và một nữ nhân tuổi chưa tròn ba mươi, nhan sắc cực kỳ xinh đẹp, trong cái đẹp có vẽ xảo chứng tỏ con người không có tính tình hiền dịu.

Vừa đến nơi, nữ nhân quắc mắt quan sát Quan Sơn Nguyệt liền, từ đầu đến chân, rồi gượng cười rộng miệng, rồi thốt:

- Thị Thơ khoe khoang là tiểu tử có nghi biểu phi phàm, ta không tin, bây giờ thấy hắn rồi, ta phải nhìn nhận hắn đúng là một mỹ nam tử.

Nàng gọi Quan Sơn Nguyệt tiếp:

- Tiểu huynh đệ. Có phải tiểu huynh đệ tên là Minh Thiên Lý chăng?

Quan Sơn Nguyệt giật mình. Cái tên đó nàng tìm ở đâu mà gán cho chàng?

Tư Kỳ hấp tấp đáp:

- Phải. Minh lão đệ quả thật là một nhân tài trong thiên hạ ngày nay, con người tuấn tú thanh kỳ mà võ công cũng siêu quần bạt tụy, vừa rồi Minh lão đệ chỉ thi triển mấy chiêu kiếm mà ta và Cầm Khiêu suýt thảm bại.

Y vừa đáp thay Quan Sơn Nguyệt vừa láy mắt ra hiệu. Đến lúc đó chàng mới tỉnh ngộ là cái tên Minh Thiên Lý do y bịa ra mà, mà cũng có lẽ Thị Thơ bịa ra trước mặt Nguyệt Hoa Phu Nhân.

Cởi Minh Đà vượt thiên lý đến đây, nhân sự kiện đó mà đặt tên, quả thật bọn này cũng cao nhã.

Thay họ đổi tên là điều tối kỵ đối với Quan Sơn Nguyệt, song trong trường hợp này chàng không thể không thừa nhận mình là Minh Thiên Lý. Chàng vòng tay chào nữ nhân, đoạn gật đầu:

- Tại hạ là Minh Thiên Lý, dám hỏi ...

Tư Kỳ lại chận lời:

- Nhập Hoạch đấy, Minh lão đệ chỉ nhỏ hơn nàng mấy tuổi, có thể dùng hai tiếng đại thơ xưng hô nàng.

Nhập Hoạch cười duyên, hơi uốn éo thân hình, buông nhẹ:

- Đâu dám nhận hai tiếng đại thơ. Tuổi tác có chênh lệch bao nhiêu đâu mà dám làm lớn chứ.

Nàng biểu lộ phong tình quá rõ rệt, Quan Sơn Nguyệt cảm thấy xốn mắt vô cùng. Có thể là chàng phản ứng ngay, song Tư Kỳ không ngớt ra hiệu bảo chàng nhẫn nại thành thử chàng miễn cưỡng gọi:

- Đại thơ ...

Nhập Hoạch bật cười khanh khách:

- Thôi thì ta cũng cam chịu với thân phận đại thơ vậy, tại ta lớn hơn ngươi một chút, chính cái một chút đó hại ta đấy nhé.

Rồi nàng hỏi:

- Thị Thơ khoe rằng ngươi có lối tả tự rất đẹp còn hai gã quái vật này lại khoe ngươi có kiếm pháp rất cao, ngươi còn sở trường nào khác nữa chăng?

Cầm Khiêu cười nhẹ:

- Cái gì Minh huynh đệ cũng hay, có thể bảo Minh huynh đệ quán trường chứ chẳng phải chỉ sở trường về một vài điểm mà thôi. Văn cũng quán tuyệt, võ cũng quán tuyệt. Cầm là thánh thủ hoặc là truyền thần, kỳ là vô địch, thi là thần cú, mà tửu thì bậc trưởng thượng của Lưu Linh.

Nhập Hoạch «ạ» lên một tiếng:

- Thế thì hay quá, Quản Hàn Cung có thêm Minh huynh đệ thì thật là hoàn toàn. Ta phải chạy về báo cáo ngay với phu nhân mới được.

Tuy nói thế, nàng chưa đi ngay, nàng suy tư một chút rồi lẩm nhẩm:

- Chúng ta mỗi người có một sở năng nên tùy theo khả năng mà đặt tên, bây giờ Minh huynh đệ lại đến và là người vạn năng, thế chúng ta phải xưng hô làm sao?

Tư Kỳ cười khanh khách:

- Điều đó thì tùy phu nhân chứ, ngươi nghĩ đến làm chi cho mệt?

Nhập Hoạch gật đầu:

- Phải. Chúng ta không có quyền quyết định, cứ để tùy phu nhân là phải hơn. Đi, Minh huynh đệ, chúng ta đi thôi.

Nàng quay mặt lại. Đến bây giờ nàng mới phát hiện ra một khoảng rừng trúc bị chém ngã, thân trúc nằm ngổn ngang trông điêu tàn vô cùng. Bất giác nàng kêu lên thất thanh:

- Ai? Ai dám phá hoại khu rừng trúc như thế này? Nếu phu nhân biết được thì ... thì ...

Tư Kỳ đâm lo nhìn thoáng qua Quan Sơn Nguyệt, sợ chàng thay đổi chủ ý.

Nhưng chàng ưỡn ngực bước tới một bước, dõng dạc đáp:

- Chính tại hạ.

Nhập Hoạch hoảng hốt hỏi:

- Trời! Tại sao ngươi gây nên đại họa?

Tư Kỳ thở phào, cười khan mấy tiếng:

- Ta và Cầm Khiêu có ý muốn trắc nghiệm võ công của Minh huynh đệ nên vờ ngăn trở, Minh huynh đệ chẳng hiểu, sôi giận lên vung kiếm phản công, hai chúng ta chạy thoát kịp, thành để khổ bao nhiêu thân trúc ...

Nhập Hoạch giậm chân thình thịch:

- Các ngươi quả là một lũ vô dụng! Muốn sanh sự, sao không đưa nhau đến một nơi nào khác lại chọn ngay chỗ này?

Tư Kỳ vờ nhếch nụ cười khổ:

- Nào có ai ngờ Minh lão đệ dễ nổi tính khí như vậy đâu! Một con người ở lứa tuổi đó, lại có kiếm pháp rất cao, thiết tưởng trong một thời gian nữa tài nghệ của Minh lão đệ sẽ siêu việt không lường nổi!

Nhập Hoạch đưa hai tay lên trời kêu lớn:

- Bây giờ phải ăn nói làm sao với phu nhân? Minh huynh đệ vừa đến lại gây nên cớ sự ...

Quan Sơn Nguyệt thản nhiên đáp:

- Việc đã xảy ra rồi, tại hạ cứ chờ cái hậu quả đến làm sao nhận làm vậy, các vị không nên quá quan tâm!

Nhập Hoạch khoát tay:

- Đừng, Minh huynh đệ. Gặp phu nhân rồi, tuyệt đối Minh huynh đệ không nên buông tính quật cường. Tôi khuyên Minh huynh đệ nên ăn nói nhún nhường một chút, bên ngoài còn có bọn tôi, tất cả sẽ tùy cơ mà cầu tình với phu nhân, may ra phu nhân khoan dung không nỡ bắt tội Minh huynh đệ.

Tư Kỳ mỉm cười:

- Phải đấy. Phu nhân từng tỏ ra là thiên vị ngươi lắm, ngươi chịu khó nói giúp là cầm chắc phu nhân nghe liền. Ngươi cứ khoe khoang Minh huynh đệ có nhiều tài năng, hẳn phu nhân liên tài trọng đãi.

Nhập Hoạch trầm ngâm một chút đoạn thở dài:

- Thì đành là vậy rồi chứ còn cách nào khác hơn đâu. Tại ta! Ai bảo ta nhận là đại thơ của Minh huynh đệ làm chi, đã là đại thơ thì phải lo chu toàn cho tiểu đệ chứ.

Nàng hướng qua Quan Sơn Nguyệt, điểm nụ cười duyên dáng tiếp:

- Minh huynh đệ đừng cười nhé, chứ ... sự thật thì ... vừa trông thấy Minh đệ là ... ta ...

Nàng đưa ánh mắt lơi lả quá chừng, Quan Sơn Nguyệt gớm đến buồn nôn, nàng lại buông cái giọng đẩy đưa, chàng càng bực, tưởng chừng như ai lấy mũi nhọn mà chích chích màng tai. Tuy nhiên chàng cũng phải ỡm ờ phụ họa:

- Mới thấy nhau mà mường tượng như có quen nhau từ muôn thuở! Xin đại thơ chiếu cố cho tiểu đệ!

Nhập Hoạch cười hì hì:

- Tự nhiên! Phải vậy rồi, tiểu huynh đệ! Chúng ta trước đây chưa biết mặt biết mày nhau, bây giờ thì có khác nào đôi bằng hữu thân nhau từ thuở bé?

Tư Kỳ sờ hàm râu, vừa vuốt vuốt vừa thốt:

- Chúng ta sống bên cạnh nhau từ lâu rồi, sau ngươi không thân mật?

Minh huynh đệ mới đến mà ngươi tha thiết quá chừng!

Nhập Hoạch đỏ mặt, vẩu môi mắng:

- Lão quỷ lùn, ăn nói dè dặt một tí chứ, liệu hồn, ta sẽ bứt đứt râu cằm của ngươi đấy nhé!

Tư Kỳ rụt cổ lè lưỡi.

Nhập Hoạch hướng sang Quan Sơn Nguyệt thốt gấp để khỏa lấp sự đùa cợt của Tư Kỳ:

- Minh huynh đệ không khinh đại thơ ...

Nàng bỏ lửng câu nói.

Quan Sơn Nguyệt dở khóc dở cười, biết đáp làm sao cho thích hợp với xử cảnh?

Cầm Khiêu chen vào:

- Nhập Hoạch về gấp đi, đừng để phu nhân chờ đợi, phàm ai chờ đợi cũng phải nóng nảy, phu nhân nóng tính lên là bất lợi cho cả bọn đấy.

Nhập Hoạch gật đầu:

- Phải! Ta trở về mà các ngươi cũng theo ta về luôn, phu nhân bảo ta đi gọi các ngươi, ta quên cho các ngươi biết.

Cầm Khiêu cười nhẹ:

- Thì ngươi cứ về trước báo cáo với phu nhân, ta và Tư Kỳ đưa Minh huynh đệ về sau, nên nhớ là khéo ăn khéo nói một chút đấy nhé. Cố gây một ấn tượng tốt cho Minh huynh đệ, có như vậy phu nhân mới dành một mỹ cảm rất lợi cho chúng ta.

Sợ Nhập Hoạch không hiểu hết ý của lão, lão đưa tay chỉ khoảng trúc bị chặt ngã.

Nhập Hoạch gật đầu:

- Ta hiểu. Phu nhân nổi giận lên rồi, hai ngươi cũng chết luôn!

Nàng quay mình thoát đi nhanh hơn trốt lốc.

Nàng đi rồi Quan Sơn Nguyệt thở phào xem như thoát nạn, song nhận thấy thân pháp nàng linh diệu vô cùng chàng không khỏi kinh hãi.

Tư Kỳ mỉm cười, bước đến gần chàng thốt:

- Lão đệ có số đào hoa thật. Cái mụ điên đó vừa thấy lão đệ là si tâm ngay, có nàng tiếp trợ thì trong cung Quản Hàn lão đệ sẽ là người được ưu đãi nhất!

Quan Sơn Nguyệt thẹn đỏ mặt.

Cầm Khiêu trách:

- Tư Kỳ đừng ăn nói hồ đồ như thế. Người ta đã nhận tội thế cho ngươi, ngươi không ghi ơn lại còn châm chích, thế là nghĩa làm sao?

Nhìn qua Quan Sơn Nguyệt, lão tiếp:

- Quan thế huynh, tại hạ thấy rõ cái nàng đó có ý tứ với thế huynh lắm đấy!

Tại hạ biết là thế huynh không thích những trò lẳng lơ, song dù sao thì thế huynh cũng nên chịu khó một chút, đừng quá lạnh nhạt với nàng, chẳng những nàng được phu nhân tin cậy mà nàng có võ công rất cao, trong cung nàng chỉ nhường có mỗi một mình phu nhân thôi!

Quan Sơn Nguyệt bất bình, trầm giọng:

- Tại hạ bắt buộc phải đóng kịch với nàng à? Không được đâu, vừa thấy mặt nàng là tại hạ lợm giọng rồi, bảo tại hạ làm hơn thế, tại hạ làm sao kham nổi chứ? Còn các vị nữa, bỗng dưng lại đặt cho tại hạ một cái tên! Đặt tên rồi lại bày vẽ đủ điều, bảo tại hạ làm thế này tránh thế kia.

Cầm Khiêu thở dài:

- Xin Quan thế huynh nhẫn nại một chút. Việc thay tên đổi họ là do chủ ý của Thị Thơ chớ nào phải bọn tại hạ tự chuyên? Thế huynh nên tin là bọn tại hạ thành thật tiếp trợ thế huynh, tiếp trợ Trương cô nương. Hiện tại thì bọn tại hạ không đủ thì giờ giải thích rõ ràng cho thế huynh hiểu, sau này có cơ hội chúng ta sẽ trở lại vấn đề.

Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:

- Về những gì khác, tại hạ không cần hỏi đến, chỉ muốn biết Nguyệt Hoa Phu Nhân là con người như thế nào! Tại hạ cần biết bà ta, để chốc lát nữa đây lấy thái độ thích ứng đối phó với bà ta. Mong quý vị đừng từ khước sự thỉnh cầu của tại hạ.

Cầm Khiêu thở dài:

- Nguyệt Hoa Phu Nhân là một nữ nhân vĩnh viễn chẳng ai hiểu nổi. Bất quá tại hạ chỉ thế huynh biết đại khái là bà ấy có võ công rất cao, cao đến mức độ vô lường. Biết như vậy cũng đủ lắm rồi đó thế huynh! Thôi, chúng ta đi, đừng để phu nhân chờ lâu sanh giận mà thành bất lợi cho chúng ta.

Dừng lại một chút, lão tiếp luôn:

- Nhập Hoạch tuy có thái độ cử chỉ không thuận nhãn thế huynh, song thực ra nàng là con người rất tốt, có tâm địa thiện lương, nàng cũng như một viên ngọc tốt nhưng chẳng được trau dồi, hoặc giả cũng có thể ví nàng như một kẻ thông minh nhưng kém học, nàng thẳng thắn lắm, chẳng bao giờ nuôi dưỡng một mưu cơ nào đối với bất kỳ ai. Thế huynh có thể tín nhiệm nàng ...

Lão lại thở dài rồi vẫy tay giục mọi người:

- Đi thôi, có lẽ trễ lắm rồi đấy.

Tư Kỳ nắm chéo áo của Quan Sơn Nguyệt, lôi chàng đi, xuyên qua khu rừng trúc.

Quan Sơn Nguyệt nhận ra khí lực của y rất hùng mạnh, chàng muốn cưỡng lại song không cưỡng nổi, bắt buộc phải bước theo y.

Khí lực của Tư Kỳ phát huy hết sức quái dị, y nắm tay phía trước nhưng Quan Sơn Nguyệt lại nghe như một lực đạo ở phía sau đẩy tới, chàng bước thì thôi, chàng cố dừng lại thì lực đạo đó như hốt chàng hổng đất quăng tới.

Qua hết khu rừng trúc đến khu rừng hoa, trong rừng hoa có đài có các, nhưng họ không dừng chân lại những đài những các đó, họ đi hết rừng hoa đến một dãy nhà khác ở phía sau, lối kiến trúc cực kỳ hoa lệ.

Nơi cổng chánh có tấm biển, bốn chữ to lớn hiện trong tầm mắt của Quan Sơn Nguyệt từ xa xa:

«Quảng Hàn Cung Khuyết». Hai bên có đôi câu liển, đại khái tả cái đẹp của trăng nhưng phảng phất cái ý niệm tịch mịch của người trong trăng.

Bên trong cửa ẩn ước có bóng người, Quan Sơn Nguyệt nhận ngay chính là Thị Thơ. Hắn chạy tới nghinh đón bọn Cầm Khiêu.

Hắn muốn nói gì đó, Cầm Khiêu vội khoát tay bảo:

- Ta biết nỗi khổ tâm của ngươi rồi Thị Thơ! Khỏi cần nói!

Thị Thơ thấp giọng:

- Tại hạ chỉ biết làm tròn những gì có thể làm cho các hạ, về cái việc đổi họ thay tên thì bất đắc dĩ lắm tại hạ mới mạo muội như vậy. Gặp phu nhân rồi, các hạ cứ nói là chúng ta gặp nhau nơi chân núi, tại hạ đưa các hạ lên đây yết kiến phu nhân, chứ đừng bao giờ nói là các hạ vì Trương ...

Cầm Khiêu chận lời:

- Bọn ta đã giải thích điều đó với Quan thế huynh rồi, ngươi chẳng cần dặn dò thêm.

Quan Sơn Nguyệt chưa kịp tỏ thái độ, từ trong hoa sảnh Nhập Hoạch bước ra cao giọng thốt:

- Phu nhân truyền lịnh Minh Thiên Lý vào ngay.

Nàng nhìn chăm chú Quan Sơn Nguyệt, trong ánh mắt ẩn ước có sự van cầu chàng nên có thái độ cung kính đối với phu nhân.

Quan Sơn Nguyệt vốn tính quật cường, dù biết rằng Nguyệt Hoa Phu Nhân là một nhân vật siêu phàm, song bảo chàng hạ mình đối với một người xa lạ khi chưa biết tư cách người đó ra sao thì khi nào chàng vâng theo! Do đó chàng ngẩng cao mặt chững chạc bước tới.

Khi đi ngang qua Nhập Hoạch, chàng nghe nàng buông nhẹ một tiếng thở dài.

Khách sảnh đúng là một cung điện trần thiết hết sức huy hoàng.

Nơi trung ương có một đài khá cao, trên đài có một chiếc ghế dài và ghế cẩn vàng chạm ngọc, trên ghế có một phụ nhân tác trung niên đang ngồi, thần thái ung dung.

Tự nhiên, phụ nhân chính là Nguyệt Hoa Phu Nhân.

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 36

Kiếm Quang Cầm Điệu

Nguyệt Hoa Phu Nhân trác độ tứ tuần, tóc vấn cao, mặc áo lụa trắng, tuổi tuy cao, sắc còn đẹp, một vẻ đẹp trang nghiêm, ai nhìn qua cũng sanh lòng tôn kính.

Sau lưng bà, có hai nữ nhân, ngoài ba mươi tuổi, trang phục y như Nhập Hoạch, Quan Sơn Nguyệt thầm nghĩ hai người nầy hẳn là Phi Thương và Chữ Trà.

Bên tả, có một đại hán trung niên, thần thái oai mãnh, râu ngắn đen ngời bọc quanh hàm, mặc y phục võ sĩ, mang giày cao ống, đeo trường kiếm nơi hông.

Người ấy hẳn là Đạn Kiếm.

Cái ngạo khí của Quan Sơn Nguyệt bốc bừng từ bên ngoài tiêu tan phần lớn khi chàng chạm mặt với Nguyệt Hoa Phu Nhân. Vô hình trung, chàng trở nên khiêm tốn, không còn cao hãnh như lúc còn ở bên ngoài cửa hoa sảnh. Chàng vòng hai tay, cung kính thốt:

- Tại hạ là Minh ... Thiên Lý, kính tham kiến phu nhân.

Suýt chút nữa, chàng đã buông tiếp Minh Đà Lịnh Chủ theo sau tiếng Minh, và nếu xưng được là Minh Đà Lịnh Chủ, thì chàng cũng có thể tiết lộ luôn tánh danh thật của mình. Cũng may là chàng thức ngộ, kịp thời đổi lại.

Bọn Tư Kỳ đi theo sau chàng, buộc miệng thở phào, như thoát nạn.

Nguyệt Hoa Phu Nhân bình thản đến lạnh lùng, chưa nói gì, một trong hai nữ nhân đứng sau lưng bà, hét lớn:

- Sao ngươi chưa quỳ xuống?

Chỉ một câu nói ngắn đó đủ làm cho tính khí quật cường của Quan Sơn Nguyệt sôi động trở lại. Chàng ngẩng cao mặt, hỏi:

- Tại sao tại hạ phải quỳ?

Nữ nhân đó trầm gương mặt, định phát tác, Nguyệt Hoa Phu Nhân vẫy tay ngăn chận:

- Phi Thương, không nên lắm lời. Hắn mới đến, tự nhiên hắn chưa hiểu rõ nghi lễ trong cung, thư thả rồi sẽ giáo huấn hắn dần dần.

Bà gọi:

- Minh Thiên Lý! Ngươi bước lại gần đây một chút nữa đi!

Nữ nhân đó im lặng, Quan Sơn Nguyệt thì bước tới, gần hơn mấy thước.

Hiện tại, chàng cách bình đài độ nửa trượng.

Phu nhân quan sát chàng một lúc lâu, gật gật chiếc đầu, tỏ vẻ hài lòng, thốt:

- Được lắm! Một thiếu niên hùng tráng, có khí thái hiên ngang, tinh hoa hàm túc sung mãn! Tương lai hẳn phải huy hoàng! Thị Thơ thì bảo ngươi có nét bút thần kỳ, còn Nhập Hoạch thì nói là ngươi có kiếm pháp linh diệu, một con người kiêm toàn văn võ, gẫm rất hiếm trên đời nầy!

Âm thinh của bà rất dịu dàng, nhưng trong cái dịu dàng đó, ẩn ước một cái oai, người nghe không vì chỗ dịu mà dám lờn. Bởi, oai phong của bà, không nương nơi cái đạo, cái oai của bà xuất từ cái đức của bậc thức ngộ hoàn toàn đạo lý của nhân sinh.

Tuy nhiên, đối với một người chưa hề quen biết, trong lần gặp gỡ đầu tiên, mà bà đưa ra một nhận xét như vậy, có khác nào bà tự xem mình là bậc trưởng thượng? Bà quen tánh bắt buộc mọi người phải cúi đầu khuất phục trước mặt bà sao? Bà quở trách, là lẳng lặng nghe, bà khen tặng, là quỳ lạy tạ ơn, bà muốn ở cao mà nhìn xuống như vậy sao?

Chỉ nội cái chỗ ngồi của bà cũng đủ nói lên tánh cách tự cao của bà. Trên thế gian nầy, trừ bậc vua, chúa ra, có ai tiếp khách mà phải ngồi trên ngai cao vòi vọi chứ?

Bà lập dị đến độ giữa khách sảnh, tạo cho mình một chiếc bình đài, trên bình đài lại có ghế cao, bất cứ ai vào đây yết kiến bà, cũng đều đứng dưới chân bà!

Như thế, Quan Sơn Nguyệt khi nào chịu nổi trước cái ngông nghênh của bà?

Huống chi, chàng vốn tính quật cường, lại từ lúc xuất thân hành hiệp đến nay, chàng đã tạo nhiều thành tích phi thường, gần đây nhất, chàng đã nổi bật rõ ràng giữa đại hội Long Hoa, đánh bại Tạ Linh Vận. Dù muốn dù không, chàng cũng phải cao hãnh phần nào. Cho nên, hai cái cao hãnh gặp nhau, đương nhiên chẳng thể dung nhau được.

Chàng bật cười ngạo nghễ, đáp:

- Tại hạ có xứng đáng chi đâu mà bà quá khen! Văn, bất quá tại hạ có một số vốn gồm vài trang sách, vũ thì cầm như biết múa may một vài cách thức đủ tạo cười cho bọn trẻ con vậy thôi! Bà không nên tin lời bịa của kẽ khác mà lầm nhận xét tại hạ!

Lời nói thì thấp, khí khái thì cao, sự mâu thuẫn đó được biểu hiện do chàng cố ý, chứ tuyệt nhiên không vì khiêm cung, từ tốn. Và, như vậy là vô lễ rồi!

Nhập Hoạch hoảng hốt, kêu lên:

- Minh ... Thiên Lý! Sao ngươi ăn nói như thế trước mặt phu nhân?

Suýt chút nữa, là nàng gọi chàng với ba tiếng Minh huynh đệ! Nàng không thể nói tròn ý bằng lời, ánh mắt nàng thay lời, làm nốt cái việc đó.

Quan Sơn Nguyệt lờ đi, cứ tiếp với thái độ ngạo nghễ:

- Chứ tại hạ phải ăn nói như thế nào mới hợp lý?

Nhập Hoạch càng khẩn cấp, giậm chân, toan nói chi đó, Nguyệt Hoa Phu Nhân nở một nụ cười, cất tiếng:

- Nhập Hoạch! Không phải việc của ngươi, đừng nên lắm lời! Thái độ của hắn chứng tỏ niềm bất phục, mà hắn bất phục tất nhiên phải có lý do, cái lý do đó, cái lý do khiến hắn bất phục, phát xuất từ nơi các ngươi đó! Cho đến phút giây nầy, các ngươi chưa làm được cái gì khiến cho hắn phục, đáng trách là các ngươi chứ không phải hắn đâu!

Bà không giận vì thái độ ương ngạnh của Quan Sơn Nguyệt, bà giữ vẻ bình tịnh như thường, điều đó làm cho bọn Nhập Hoạch bảy người vô cùng kinh ngạc.

Bà lại cười, rồi tiếp:

- Quanh ta, có tất cả bảy người, mỗi người có một sở trường, và sở trường của chúng cầm như tuyệt kỹ, chắc chắn là chẳng có ai hơn chúng. Ngươi có biết như vậy chăng?

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:

- Tại hạ có nghe nói!

Nguyệt Hoa Phu Nhân tiếp luôn:

- Nhân tuyệt kỹ của chúng, mà thành danh, gọi đến tên người nào là biết ngay người đó sở trường về môn gì. Ta công nhận chúng đã đạt đến mức siêu việt, giữa cõi đời nầy, tìm được một người siêu việt về một tuyệt kỹ như chúng, hẳn không phải dễ đâu! Thế mà chúng lại cho rằng ngươi cao minh hơn chúng ...

Quan Sơn Nguyệt lần này thì khiên tốn thực sự:

- Bà nói quá lời, tại hạ đâu dám tiếp nhận? Về nét bút, tại hạ làm sao sánh được Thị Thơ tiên sanh? Còn như kiếm pháp, kỳ pháp, hoạch pháp, bất quá tại hạ biết qua vậy thôi, mong phu nhân đừng quá tặng, tại hạ thẹn lắm!

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhìn sang Thị Thơ.

Thị Thơ hấp tấp trình bày:

- Thực ra thì, Minh huynh đệ chưa tả tự đúng mức hỏa hầu, song y là một thiên tài đó, phu nhân! Nếu y chịu khó trau dồi, chắc chắn một ngày nào đó, y sẽ vượt xa thuộc hạ ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười nhẹ:

- Thì ta cũng nghĩ như thế, chứ làm gì ở cái tuổi của hắn, hắn lại có nét bút thần kỳ, hơn hẳn ngươi được? Còn như trong tương lai, hắn thành tựu ra sao, điều đó chưa phải lúc cần bàn đến. Có điều, từ bao lâu nay, ngươi tự hào là trong thiên hạ, chẳng một ai tập luyện được như ngươi, mà có những nét bút thần, do đó ta nghĩ dù hắn khổ công trau dồi đến đâu, cũng khó theo kịp ngươi. Chí như Cầm Khiêu và Tư Kỳ thảm bại dưới tay hắn, thì ...

Tư Kỳ vội nghiêng mình, cung kính thốt:

- Quả thật kiếm pháp của Minh huynh đệ rất cao minh ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân mỉm cười:

- Ta không nói đến kiếm thuật, ta chỉ ...

Tư Kỳ cười gượng:

- Về cầm điệu và cầm lý, thuộc hạ chưa được biết Minh huynh đệ lãnh hội như thế nào, song bằng vào cuộc đàm luận giữa nhau, thuộc hạ đoán là ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân khoát tay:

- Được rồi! Ngươi bất tất phải giải thích. Ta lấy làm lạ, bình sanh các ngươi không hề nhận kém một ai, thế mà giờ đây bỗng nhiên đối với một thiếu niên, các ngươi lại thừa nhận bậc dưới! Thừa nhận mà không cần có cuộc so tài!

Bà vụt chỉnh nghiêm thần sắc.

Bọn Tư Kỳ Cầm Khiêu rợn người, Thị Thơ vội phân trần:

- Bọn thuộc hạ nhận thấy Minh huynh đệ có bẩm chất hơn người, do đó mạo muội dẫn kiến với phu nhân.

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười lạnh:

- Thật vậy à? Các ngươi hiệp nhau nói tốt cho hắn, tuy nhiên ta thấy khó tin.

Bà gọi:

- Đạn Kiếm! Hãy thực nghiệm hắn qua một vài chiêu xem sao!

Đại hán vận y phục võ sĩ vâng một tiếng, rút thanh trường kiếm bên hông ra khỏi vỏ, thanh kiếm màu xanh nhạt, thép mờ mờ, không chớp lên như các loại kiếm khác. Thanh kiếm lại có hình thức cổ quái.

Quan Sơn Nguyệt giật mình, thốt:

- Tại hạ đến đây, không vì mục đích so kiếm!

Nguyệt Hoa Phu Nhân hừ nhẹ:

- Thế ngươi đến với mục đích gì?

Thị Thơ đổ mồ hôi lạnh.

Quan Sơn Nguyệt biết rõ, hắn sợ chàng nói lên sự thật. Chàng cười nhạt, đáp:

- Thị Thơ tiên sanh mời tại hạ đến đây, để tiếp xúc với mấy vị cao nhân!

Thị Thơ thở phào:

- Thuộc hạ thấy Minh lão đệ có nhân tướng phi phàm, nên nảy sanh cái ý đưa đến đây, giới thiệu với phu nhân ...

Phu nhân «hừ» một tiếng, lớn hơn tiếng trước một chút:

- Thế là vừa rồi, ngươi nói dối với ta!

Thị Thơ rung người.

Cầm Khiêu vội biện bạch:

- Thị Thơ khi nào dám lừa dối phu nhân! Thị Thơ tuy không nói rõ tình hình tại đây cho Minh huynh đệ biết, song có ủy thác bọn thuộc hạ làm hộ cái việc đó.

Và bọn thuộc hạ đã tỏ bày cho Minh huynh đệ hiểu rồi!

Nguyệt Hoa Phu Nhân hướng sang Quan Sơn Nguyệt:

- Ngươi đã biết tình hình tại đây, tại sao ngươi từ khước cuộc trắc nghiệm?

Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc:

- Cuộc trắc nghiệm gì?

Cầm Khiêu vội giải thích:

- Tại sao lão đệ mau quên thế? Tại hạ đã nói với lão đệ, phàm muốn lưu lại Quảng Hàn Cung, tất phải có một sở trường, một tuyệt kỹ chi đó. Phu nhân bảo Đạn Kiếm so tài với lão đệ, là muốn trắc nghiệm cái sở trường về kiếm pháp của lão đệ vậy.

Thấy lão ta có vẽ khẩn cấp cực độ, Quan Sơn Nguyệt không nở gieo thất vọng cho lão, nên liền điểm một nụ cười, đáp:

- Thì ra là thế! Chỉ vì tại hạ không hiểu rõ ràng cái ý của phu nhân, cứ tưởng đấu kiếm là sát phạt nhau, quyết tranh thắng bại, thắng thì sống, bại thì chết, bởi nghĩ như thế, tại hạ phải từ khước. Huống chi dù là một cuộc trắc nghiệm đi nữa, tại hạ cũng không thấy hứng chút nào, bởi dù sao thì đao kiếm vẫn là vật vô tình, vô duyên vô cớ mà động thủ, biết đâu may rủi sẽ như thế nào, và ai tránh được khỏi gây ra điều tiếc hận?

Chàng có cái vẽ thanh thản vô cùng, giả như có một cuộc đấu trí mạng, chàng cũng xem thường, huống hồ là một cuộc trắc nghiệm xuông? Vẽ thanh thản đó chứng tỏ chàng tự tín tột độ, chàng nắm chắc cái thắng trong tay.

Nguyệt Hoa Phu Nhân «hừ» một tiếng, không biểu thị ý kiến nào nữa.

Đạn Kiếm sửa dáng nghiêm trang, bên trong dáng nghiêm trang đó, ẩn ước có chiều tự đắc. Hắn vòng tay, thốt gọn:

- Mời!

Vung tay, hoành thanh kiếm ngang ngực, hắn chờ.

Nhìn tư thế của hắn, bất giác Quan Sơn Nguyệt giật mình. Chàng nhận ra tư thế đó không lạ gì với chàng, bởi đó là một trong bảy tư thế của «Tu La Kiếm Pháp».

«Tu La Kiếm Pháp», là một tuyệt học, Bách Lý Bất Bình chỉ truyền dạy độc một mình Tạ Linh Vận, thì làm sao đại hán nầy lại biết được để hôm nay mang ra sử dụng đối phó với chàng?

Tư thế thì đúng vậy rồi, song chiêu thức chưa được phát xuất, Quan Sơn Nguyệt trước khi thấy chiêu thức, không thể đoán định quả quyết.

Chàng từ từ rút thanh kiếm Bạch Hồng, ánh kiếm chớp lên, chàng nhìn qua phu nhân, thấy bà ta hơi biến đổi thần sắc.

Chàng cầm thanh kiếm nơi tay, có nghĩa là chàng chấp nhận cuộc đấu.

Đạn Kiếm nhẹ giọng thốt:

- Xin Minh huynh xuất thủ!

Bởi muốn thấy rõ chiêu kiếm của đối phương như thế nào, để chàng đoán định, chàng mỉm cười, lắc đầu đáp:

- Không! Tiên sanh nên xuất thủ trước là phải hơn.

Đạn Kiếm không khiêm nhượng quá độ, bước tới một bước, phát chiêu ngay.

Đúng rồi! Hắn sử dụng đúng kiếm pháp Tu La! Hắn đang phát xuất chiêu «Vân Thảm Vụ Sầu». Tuy nhiên, có điểm bất đồng là thanh kiếm không phát sanh vân thảm vụ sầu, như lúc Tạ Linh Vận đánh ra, mà cũng chẳng có tiếng ma gào quỷ hú. Có điều, oai lực thì hùng mãnh hơn nhiều.

Không do dự, Quan Sơn Nguyệt sử dụng ngay kiếm pháp Đại La, ứng phó với địch. Chàng đánh ra chiêu «Càn Khôn Thỉ Định».

Hai đạo kiếm khí chạm nhau, quấn vào nhau thành một khối, không gây nên một tiếng động nhỏ. Một phút sau, hai đạo kiếm khí rời nhau ra.

Quan Sơn Nguyệt thở phào, chừng như chàng kiêu hãnh phần nào, bởi chàng nhận thấy, cái oai lực do Đạn Kiếm phát huy, đành là hùng mãnh, song hắn không biểu hiện nổi những hiện tượng ma quái như Tạ Linh Vận đã cho thấy.

Hơn thế, chàng cũng nhận rõ từng sự biến hóa nơi thanh kiếm của đối phương, mà «Đại La Kiếm Pháp» lại chuyên khắc chế những biến hóa đó. Nhờ vậy, chàng tiếp nhận nổi chiêu đầu.

Nhưng, sự nhận xét của những người đứng bên ngoài lại bất đồng.

Bất đồng, chẳng phải là dị đồng; Nguyệt Hoa Phu Nhân âm thầm thán phục, còn bọn Cầm Khiêu và Nhập Hoạch thì không trầm lặng như phu nhân, họ tỏ lộ rõ sự thán phục, họ suýt reo hò.

Đạn Kiếm cũng tán thưởng đường kiếm của Quan Sơn Nguyệt vô cùng.

Một phút trôi qua, Đạn Kiếm phát xuất chiêu thức thứ hai, cũng là một trong những chiêu của «Tu La Kiếm Pháp», có cái tên là «Sưu Hồn Lạc Phách».

Quan Sơn Nguyệt đưa liền chiêu «Sơn Nhạc Vĩnh Kỳ» ra nghinh đón.

Hai đạo kiếm khí lại quyện vào nhau, tuy nhiên Quan Sơn Nguyệt cảm thấy công lực của Đạn Kiếm mường tượng thâm hậu hơn Tạ Linh Vận, bởi công lực của hắn quá mạnh, thành ra luồng khí của Quan Sơn Nguyệt bị kiếm khí của hắn từ từ đè nặng, như bị kềm cứng lại, không còn linh động như lần chạm kiếm đầu tiên.

Cũng may, chiêu «Sơn Nhạc Vĩnh Kỳ», là một chiêu chuyên về thế thủ, do đó, chàng cố gắng giữ vững tư thế, cũng chẳng đến đổi nào. Giả như chàng sử dụng một chiêu chuyên tấn công, thì lúc đó hẳn chàng không làm sao phát huy thế công nổi.

Song phương lại rời nhau ra.

Đạn Kiếm lùi lại hai bước, thần sắc ngưng trọng, tựa hồ hắn không tin là sự thật như thế.

Nguyệt Hoa Phu Nhân không còn giữ vẽ bình thản như cũ, buột miệng kêu lên một tiếng «ạ» rất nhẹ.

Sau chiêu kiếm thứ hai, Quan Sơn Nguyệt bắt đầu thở mạnh, hơi thở mạnh, hơi thở của chàng nghe rõ ràng.

Tuy nhiên, thay vì nghỉ mệt, chàng lập tức bước tới, tấn công. Với thủ pháp cực kỳ nhanh, chàng đánh ra luôn cả hai chiêu cùng một lúc, chiêu «Húc Nhật Đông Thăng» và chiêu «Bạch Hồng Quán Nhật».

Hai chiêu đó, thuộc về thế công, chàng đánh ra, kể cũng hợp lý, bởi đúng là chiêu công, chứ không phải chiêu thủ. Song, đánh như vậy, là sai với tuy tắc của kiếm pháp. Vì «Đại La Kiếm Pháp» chỉ được dùng với cái thế thụ động, phải chờ khi địch tấn công, chàng mới thi triển, tuyệt đối không nên xuất thủ trước. Rồi tùy ý, lúc phản công, chàng dùng chiêu công, hay chiêu thủ, mặc chàng, do theo sự ức độ của chàng. Bây giờ, chàng bỏ cái thế thụ động, không chờ địch tấn công, chính chàng tấn công trước.

Sở dĩ chàng vi phạm quy tắc, là vì chàng nhận ra, Đạn Kiếm có đấu pháp rất kín đáo, khi hắn xuất chiêu, là cái thế rất chặt chẽ, chẳng có một sơ hở nhỏ nào, chàng có chờ hắn xuất thủ trước cũng không lợi dụng một thời cơ nào được.

Hơn nữa, công lực của hắn quá mạnh, chàng ước lượng sức mình, không làm sao giữ vững thế thủ nổi, nếu bình lặng mà chờ hắn tấn công, đúng theo quy tắc, thì cầm chắc là bị hắn đánh bay, rời xa vị trí. Do đó, chàng phải liều.

Thà liều mà còn có cái may, hơn là đứng một chỗ với cái bại chắc chắn.

Chiêu thứ nhất, «Húc Nhật Đông Thăng» vừa bay sang, Đạn Kiếm khoa kiếm một vòng, tạo thành bức tường phong vững, kín che chở toàn diện. Hắn hóa giải dễ dàng chiêu kiếm đó của Quan Sơn Nguyệt.

Nhưng chiêu kế tiếp lại đến liền, vừa nhanh, vừa ảo diệu, Đạn Kiếm không làm sao xoay kiếm, biến thế, ngăn chặn, thành ra phải để kiếm Bạch Hồng xuyên vào màu kiếm quang của hắn.

Một tiếng «rẻng» vang lên.

Ngàn tia lửa bắn ra, chớp ngời, hai vũ khí chạm nhau, Quan Sơn Nguyệt lùi lại một bước, tay cầm kiếm tê dại, chàng phải cố gắng lắm mới giữ cho nó khỏi rơi.

Vẻ hãi hùng hiện ra nơi gương mặt chàng.

Chàng hãi hùng, không vì chiêu kiếm kỳ ảo của đối phương, mà vì công lực quá thâm hậu của Đạn Kiếm.

Đúng là chàng đâm trúng nhược điểm của đối phương, đối phương cũng không làm sao hóa giải kịp. Thế mà trong cơn nguy cấp, Đạn Kiếm vận dụng kình lực, dồn vào kiếm, thanh kiếm phát huy một áp lực kinh hồn đẩy bật Bạch Hồng kiếm trở về, hắn thoát nạn, mà Quan Sơn Nguyệt lại bị chấn dội đến tê dại cánh tay, suýt buông rơi kiếm.

Chàng còn nhận ra, thanh kiếm màu xanh của Đạn Kiếm rất quý, Bạch Hồng Kiếm chạm vào, nó chẳng hề sứt mẻ, đừng nói là gãy.

Đạn Kiếm không đến đổi mất bình tĩnh như Quan Sơn Nguyệt, hắn vòng tay hướng lên không vái một lượt, rồi tra kiếm vào vỏ, sau cùng quay nhìn Quan Sơn Nguyệt, lại vòng tay thốt:

- Minh huynh có kiếm thuật tuyệt luân, tại hạ không dám sánh!

Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc cực độ, câu nói đó, đáng lý phải do chàng phát xuất, sao hắn lại thốt lên, bởi rõ ràng là chàng kém hắn xa kia mà? Dù bên ngoài, không ai thấy rõ, chàng cũng phải tự ức lượng sức mình chứ? Tại sao hắn nhận bại?

Suy nghĩ một lúc, Quan Sơn Nguyệt chợt tỉnh ngộ.

Trước khi đến đây, chàng được nghe Cầm Khiêu cho biết là Đạn Kiếm là con người rất tốt, sẵn sàng tiếp trợ bất cứ ai nếu hắn có dịp làm, huống hồ chàng đã được bằng hữu của hắn là bọn Cầm Khiêu, Tư Kỳ, Thị Thơ, luôn đến Nhập Hoạch dành cho nhiều hảo cảm? Có lẽ vì thế nên trong lúc đấu kiếm, hắn vờ kém thế, rồi khi dứt cuộc hắn lại tuyên bố phục tài chàng.

Tuy nhiên, chàng đâu phải thuộc hạng người chấp nhận một hư danh khi chẳng có thực tài làm hậu thuẫn? Cái tánh đó, tốt thật, song chàng không thể tiếp nhận được. Chàng cười lạnh, đáp:

- Tiên sanh khách khí quá chừng, tại hạ còn giữ được kiếm trong tay, là nhờ tiên sanh châm chước cho đấy, chứ nếu không thì ...

Đạn Kiếm nhếch nụ cười khổ, không đáp.

Nhập Hoạch bổng nói:

- Thật không tưởng nổi, Minh huynh đệ đã luyện kiếm pháp đến mức cao minh như vậy! Đạn Kiếm từng khoe khoang là ngoài phu nhân ra, chẳng một ai tiếp được mấy chiêu kiếm của hắn! Thế mà Minh huynh đệ lại đánh bại hắn không khó khăn gì.

Quan Sơn Nguyệt quay mặt sang nàng, mắt hơi trừng, hỏi:

- Tại hạ đánh bại Đạn tiên sanh?

Nhập Hoạch bật cười khanh khách:

- Chứ sao! Lão đệ nên kiêu hãnh mới phải! Nếu hắn không nhờ diệu năng của thanh kiếm thần đó thì hắn đã mất đầu trong chiêu kiếm thứ nhất của lão đệ rồi. Ta dám quả quyết là kiếm pháp của lão đệ xứng đáng được coi là thiên hạ đệ nhất kiếm khách!

Chừng như nàng tỉnh ngộ là mình lỡ lời, vội chữa:

- Đương nhiên là tôi không gồm phu nhân trong cái gọi là thiên hạ đó!

Vừa thốt câu bổ túc, nàng vừa liếc sang Nguyệt Hoa Phu Nhân, chỉ sợ bà ta không ưng ý câu đó.

Ngờ đâu, phu nhân mỉm cười nói:

- Nhập Hoạch, ngươi lầm rồi đó nhé! Có thể là ta dựa vào công lực thủ thắng trước hắn, nhưng luận về chiêu thức thì ta còn kém Đạn Kiếm một phần, kém Đạn Kiếm thì ta phải bại nơi tay hắn là cái chắc!

Không ai tưởng là bà ta thốt một câu như vậy, và có lẽ đây là lần thứ nhất, bà nhận kém trước một người.

Ai ai cũng kinh ngạc, Quan Sơn Nguyệt trái lại chẳng lấy đó là một vinh dự, chàng thản nhiên như thường. Hay đúng hơn, chàng không lưu ý đến ai, chàng không nghe phu nhân nói gì, đôi mắt chàng chăm chú nơi thanh kiếm trong tay Đạn Kiếm.

Kiếm đã tra vào vỏ rồi, tay Đạn Kiếm bất quá sờ lên vỏ, có gì lạ mà chàng nhìn?

Chàng đang suy nghĩ về cái tên của thanh kiếm! Cái tên kiếm là Thanh Sách Kiếm!

Lúc học kiếm với Ôn Kiều, chàng có nghe lão bà kể tên vài thanh kiếm, ngoài thanh Bạch Hồng. Chẳng hạn, thanh Tử Sính, thanh Thanh Sách ...

Những thanh kiếm đó, có oai lực trên hẳn thanh Bạch Hồng. Giờ đây, chàng gặp một trong hai thanh, hiện ở nơi tay Đạn Kiếm.

Chàng cũng hiểu, chiêu thức «Bạch Hồng Quán Nhật» rất tuyệt diệu, đối phương không làm sao tiếp nhận nổi.

Sở dĩ Đạn Kiếm thoát khỏi áp lực của thanh kiếm Bạch Hồng qua chiêu thức đó, là nhờ sự thần hiệu của thanh Thanh Sách!

Thảo nào hắn chẳng nhận bại?

Nguyệt Hoa Phu Nhân điểm nụ cười thốt:

- Minh Thiên Lý! Bắt đầu từ phút giây này, ngươi là một phần tử trong cung Quảng Hàn đấy ...

Quan Sơn Nguyệt giật mình, hấp tấp đáp:

- Không! Không thể được!

Nguyệt Hoa Phu Nhân vẩn cười tươi:

- Tại sao?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

- Tại hạ không thể làm một người tùy hầu cho phu nhân ...

Phu nhân gật đầu:

- Đương nhiên! Khi nào ngươi là kẻ thị giả của ta được? Ngươi học rộng tài cao, bắt một kẻ như ngươi sung vào hàng ngũ tùy hầu, thì có khác nào mai một bậc anh tài? Phải vậy chăng?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

- Tại hạ không nghĩ như vậy, phu nhân đoán sai!

Nguyệt Hoa Phu Nhân không cho chàng nói tiếp, chận lại liền:

- Ta hiểu rõ ý tứ của ngươi rồi. Tài năng của ngươi phát hiện trên nhiều phương diện, mà sung vào hàng ngũ thị giả, bất quá ngươi chỉ đảm trách một đặc vụ nào đó thôi, ngươi không làm sao biểu hiện hoặc trau dồi những ưu điểm khác cho được tận thiện tận mỹ. Tuy nhiên, ngươi thử nghĩ xem, bất quá về kiếm pháp, ngươi có phần nào cao minh hơn cả bọn kia, chứ về cầm, kỳ, thi họa, đã chắc gì ngươi vượt bọn Cầm Khiêu, Tư Kỳ, Thị Thơ, Nhập Hoạch? Ta cho rằng với sở trường của bọn đó, họ thừa khả năng chỉ điểm ngươi, họ không là sư, cũng là trưởng! Hạng thanh thiếu, quật cường, cao hãnh, tự đắc, ngạo mạn, là sự thường, có thể là cần phải có những tính đó nữa là khác, song quật cường, cao hãnh tự đắc, ngạo mạn, nếu giúp ngươi bảo trì phẩm cách, khí thái thì hay, trái lại nếu khuyến khích ngươi nuôi cuồng vọng, thì rất dở!

Bà nói có lý lắm, song bà nói sai quan niệm của Quan Sơn Nguyệt. Dĩ nhiên, chàng bất bình, khi nào chàng chịu nổi những lời phủ đầu của Nguyệt Hoa Phu Nhân? Chàng cau mày, toan tranh biện, Nguyệt Hoa Phu Nhân lại chận tiếp:

- Ta biết ngươi bất mãn, song ta còn biện pháp nào hơn? Có thể ... bởi ta nhận thức ngươi quả là một nhân tài, có thể ... ta bổ nhậm ngươi làm một hộ pháp trong cung, với chức hộ pháp, người cai quản cả bảy thị giả của ta, như vậy là thích hợp với ngươi lắm rồi!

Nhập Hoạch thấy rõ là Quan Sơn Nguyệt còn phản đối, vội ngăn:

- Minh huynh đệ! Phu nhân đã dành cho lão đệ một vinh dự lớn lao lắm đó, tuy cai quản bọn ta, lão đệ chẳng thu hoạch ích lợi gì, song tiếp cận với phu nhân thường xuyên, lão đệ sẽ học hỏi được những điều hay, lão đệ sẽ trở nên bậc đại thành ...

Nàng vừa thốt, vừa nheo nheo mắt, ngầm truyền cái ý cho chàng, cái ý đó là niềm khuyến khích chàng nên tiếp thọ đề nghị của Nguyệt Hoa Phu Nhân.

Đồng thời bọn Thị Thơ, Cầm Khiêu, Tư Kỳ, cũng ra hiệu bằng ánh mắt với chàng như vậy.

Quan Sơn Nguyệt dở khóc dở cười, tiến thoái lưỡng nan. Nếu chàng chấp nhận? Thì biết đến bao giờ chàng giải thoát được sự ràng buộc tại nơi nầy? Và, trong khi chờ đợi sự giải thoát, chàng sẽ có những tao ngộ như thế nào? Lợi hay hại? Không hiểu được ngày mai cái gì sẽ xảy đến với chàng, thì làm gì ức độ được một hậu quả xa xôi?

Bất giác, chàng lấy một chủ ý. Thực hiện chủ ý đó, chàng phải khoác một thái độ trái ngược với tư cách của chàng. Chàng biểu hiện vẻ cao ngạo cực độ, bật cười ha hả, cười một lúc, lại cất giọng sang sảng:

- Lời nói, là như vậy, sự sắp xếp, xem ra thì rất đẹp, rất hợp lý, tuy nhiên, dù sao, phu nhân cũng vẫn xem tại hạ là kẻ dưới tay, một kẻ tùy sai, bất quá là một thị giả có chút vinh diệu hơn các thị giả khác, huống chi cái quyền cai quản các thị giả kia, chỉ là một hư quyền, bởi cai quản họ, mà tại hạ được lợi lộc gì, ngoài cái khổ nhọc giám thị họ phục vụ phu nhân tận tụy? Tại hạ chẳng biết được, khi phu nhân nhận tại hạ làm một hộ pháp trong cung thì phu nhân đã định dành cho tại hạ những đặc huệ gì?

Nhập Hoạch biến sắc, kêu lên:

- Minh huynh đệ điên rồi! Làm sao bỗng nhiên lại xúc phạm phu nhân?

Quan Sơn Nguyệt chỉ cười không đáp.

Trái với sự lo sợ của tất cả, Nguyệt Hoa Phu Nhân nở một nụ cười, thốt:

- Chẳng có gì phải trách hắn. Nếu ta không biểu lộ một vài tuyệt kỹ cho hắn thấy trong trường hợp nầy, thì chẳng khi nào hắn phục! Gã trẻ tuổi kia, ngươi định tranh cao thấp với ta, phải không?

Quan Sơn Nguyệt cười nhạt:

- Tranh cao thấp, thì hơi quá đáng, phu nhân đừng nói thế, bất quá, khi chưa thấy sở học, sở năng của phu nhân như thế nào, thì tại hạ không thể đi sâu vào vấn đề, và đương nhiên là không đáp ứng được.

Nguyệt Hoa Phu Nhân vẩn giữ nụ cười:

- Ngươi cứ nêu cái ý, muốn thử thách ta như thế nào ta sẽ cho ngươi thấy cái giải pháp thích ứng của ta.

Quan Sơn Nguyệt cao ngạo gần như ngông cuồng, bà ta cũng cao ngạo không kém. Gặp kẻ cao ngạo ngang độ, Quan Sơn Nguyệt càng nâng cái độ ngông lên cao hơn, bật cười ha hả, thốt:

- Tại hạ nhận thấy, có thể miễn cưỡng ứng phó trước sự thi triển mọi sở năng của phu nhân!

Nguyệt Hoa Phu Nhân giật mình. Từ lâu lắm rồi, trong Quảng Hàn Cung, chưa có một ai dám thốt câu đó. Lần thứ nhất, phu nhân mới nghe nói như vậy, và là một thiếu niên nói lên! Tự nhiên bà phải sững sờ.

Bảy thị giả cũng sững sờ như bà. Một phần, họ lo ngại cho Quan Sơn Nguyệt, phần khác họ kinh dị, không tưởng nổi Quan Sơn Nguyệt là con người như thế nào, thành ra họ đâm hoang mang, chẳng hiểu sự lo ngại cho chàng đó, có thừa hay không?

Một lúc lâu, Nguyệt Hoa Phu Nhân cười nhẹ, thốt:

- Hay quá! Hay vô cùng! Đại khái, cái tài của ngươi bao gồm mọi mặt, thế mà ta cứ tưởng ngươi chỉ có một vài tuyệt kỹ thôi! Vậy thì, bảy ngón nghề trong Quảng Hàn Cung, ta sẽ biểu hiện cho ngươi thấy rõ, bảy ngón nghề đó là cầm, kỳ, thi, họa, kiếm, trà, tửu, ta sẽ cho ngươi thấy chỗ tuyệt diệu của mỗi thứ, có như thế, ngươi mới khẩu phục, tâm phục.

Bà gọi:

- Cầm Khiêu, lấy đàn đem ra đây!

Cầm Khiêu vâng một tiếng, bước vào một góc đại sảnh, mang ra túi đàn.

Lão ta lấy chiếc đàn trong túi, đặt trên bàn.

Nguyệt Hoa Phu Nhân đứng lên, bước đến cạnh chiếc đàn, điểm một nụ cười, thốt:

- Nói rằng làm một cuộc so hơn kém với ngươi, thì đúng là một chuyện đáng buồn cười quá chừng. Song ngươi đã muốn thấy cái chỗ hơn kém, thì ta cũng chẳng quản công, biểu hiện cho ngươi thấy. Ta sẽ dạo lên bản Ỷ Lan, nếu nghe rồi mà ngươi chẳng xúc động tâm tình, thì ta công nhận ngươi là một danh cầm, hoặc giả ngươi muốn xưng là đệ nhất danh cầm trong thiên hạ, ta cũng chấp nhận cho luôn!

Bây giờ, Quan Sơn Nguyệt muốn thoái thoát để chấm dứt một sự việc lạ lùng, cũng chẳng còn kịp nữa!

Chàng hết sức lạ lùng, tại sao chàng có những tao ngộ như thế này! Long Hoa Hội vừa dứt, liền theo đó, lại gặp cái tổ chức quái dị cho rằng điên cũng chẳng sai lắm!

Ngày trước, chàng từng nghe sư phụ là Độc Cô Minh dẫn và giảng qua cầm lý cho chàng hiểu. Nhưng sự hiểu biết của chàng còn trong một phạm vi nhỏ hẹp, chàng chưa xứng đáng là một tay cao minh về cầm lý cũng như cầm điệu.

Tuy nhiên, chàng cũng rõ, cao thủ dạo đàn, có phổ hóa công lực theo tiếng đàn, nếu người nghe không cẩn thận, sẽ bị kình lực do tiếng đàn phát huy, vô hình trung thọ thương ngay. Thương thế tinh thần, nguy hại hơn là thương thế thể xác.

Tuy nhiên chàng biết rõ, Nguyệt Hoa Phu Nhân không thực tâm sát hại chàng, mà chàng cũng biết luôn là thinh âm của đàn cầm có thể gây tại hại cho người nghe, cái tai hại đó bắt đầu từ sự rối loạn thần trí, rồi vì không tự chủ được, phải rơi vào vòng thao túng của người gảy đàn.

Đại khái chàng biết như vậy.

Chàng nghĩ, nếu chàng giữ được cái tâm thanh tịnh, cái ý kiên cường nghe mà như chẳng nghe, thì tiếng đàn kia làm gì dụ hoặc chàng nổi?

Chàng ngồi xuống, xếp bằng tròn, hai tay đặt lên gối, mắt nhắm hờ, mường tượng một nhà sư nhập định. Chàng thốt:

- Xin phu nhân cho nghe nhả tháo!

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhìn tư thế ngồi của chàng, gật gù tán:

- Xem ra, ngươi cũng hiểu biết đôi chút! Hãy chú ý, ta bắt đầu đàn đây!

Chàng có quyết tâm nghe đâu mà bảo chú ý?

Có lẽ phu nhân thách thức chàng, bảo chàng chú ý giữ mình dù cho cảnh giác của chàng có đề cao tột độ, vị tất chàng không bị ảnh hưởng của tiếng đàn.

Bà bắt đầu so dây. Mới so dây, bà cũng tạo nên một âm thanh huyền hoặc rồi!

Quan Sơn Nguyệt giật mình, thầm sợ âm điệu của phu nhân phát huy. Do đó, chàng cố trấn định tâm thần, ngồi yên như tượng gỗ.

Phu nhân lấy làm lạ. Bất cứ ai không thể nghe nổi những âm thanh đầu tiên của cung đàn Ỷ Lan của bà. Người khác thì rung rẩy mình, nhưng Quan Sơn Nguyệt bất quá chỉ lộ vẻ kinh dị rồi bình tĩnh lại ngay.

Chính bọn thị giả, nhất là Cầm Khiêu cũng hết sức hãi hùng, không tưởng nổi chàng định tâm vững chắc như vậy.

Phu nhân bắt đầu dạo bản Ỷ Lan thực sự.

Quan Sơn Nguyệt vẫn trơ trơ như tượng gỗ, ai ai cũng lấy làm kỳ. Chính phu nhân cũng lấy làm kỳ.

Bà bực tức, bởi bực tức nên bà đàn gấp, trong âm điệu ẩn ước có sát ý, sát ý càng phút càng bốc mạnh.

Bọn thị giả bên ngoài càng phút càng kinh sợ, nhưng Quan Sơn Nguyệt càng phút càng vững hơn, nơi mép miệng, thoáng hiện nở nụ cười.

Phu nhân nổi giận, thay vì đàn gấp, bà đàn chậm lại, cái ý trầm trầm, chứng tỏ sát ý bốc mạnh hơn trước.

Nhưng, Quan Sơn Nguyệt vẫn bình lặng như cũ.

Phu nhân sôi giận thực sự. Bà bỏ luôn cung điệu Ỷ Lan, định đàn sang một bản khác.

Trong ánh mắt của bà, hiện lộ rõ sát cơ.

Cầm Khiêu kêu lên thất thanh:

- Không được đâu, phu nhân!

Phu nhân không cần dè dặt nữa, nạt ngang:

- Ngươi muốn ta cúi đầu nhận bại trước tiểu tử à?

Cầm Khiêu không dám nói gì hơn.

Nguyệt Hoa Phu Nhân «hừ» một tiếng, nhếch mấy ngón tay, sắp sửa đàn tiếp. Vẽ cương quyết hiện rõ nơi gương mặt bà.

Cầm Khiêu sợ hãi quá chừng, nhắm mắt lại, nhưng lâu lắm rồi, lão ta chẳng nghe tiếng đàn nổi lên.

Bất giác, lấy làm lạ, lão mở mắt ra, nhìn phu nhân. Vừa nhìn qua bà, Cầm Khiêu càng kinh hãi.

Bà không đàn, mặt bà xanh lại, bàn tay còn đưa cao trên chiếc đàn, những dây đàn đứt hết, đứt tất cả.

Dây đàn đứt một cách lạ lùng, không gây lên một âm vang nào cả!

Bất thình lình, bà đưa tay chỉ ra ngoài cửa.

Tất cả bảy thị giả đồng một loạt, tung mình vọt ra ngoài. Nhập Hoạch nhanh chân hơn đồng bọn, dẫn đầu.

Họ vừa nhích động thân hình, thì bên ngoài có tiếng cười vang vọng vào, tiếp theo là một câu nói, cũng oang oang:

- Khách không mời, cho đến là hân hạnh lắm rồi, đâu dám nhận sự tiếp đón long trọng như thế!

Nhập Hoạch giật mình, nhận ra người đến, bất giác kêu lên:

- Lão Đà đã đến!

Người mới đến, là một lão nhân gù lưng, lão đưa tay véo vào má Nhập Hoạch, cười hì hì, thốt:

- Liễu đầu dám vô lễ với lão phu à? Cái tiếng lão Đà, ngươi xưng hô thế nào được?

Bị lão véo má đau quá, Nhập Hoạch đau quá song không dám thoát chạy.

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm gương mặt, lạnh lùng thốt:

- Đà Ông nên thận trọng một chút, cái bọn đó đâu phải ngang hàng đùa cợt với chúng làm chi!

Lão nhân gù bật cười ha hả:

- Tốt! Tốt! Lịnh đã ban ra rồi, lão phu đâu dám chẳng tuân!

Lão buông tay.

Nhập Hoạch trừng mắt nhìn về chỗ cũ, trừng mắt nhìn lão hận phừng phừng, nhưng chẳng dám nói gì.

Phu nhân vẫn với giọng lạnh lùng, hỏi:

- Đà Ông cao hứng thế nào, bỗng dưng lại cất công đến đây?

Lão nhân gù đáp:

- Nghe nói phu nhân không được an khương, lão phu đến tận vùng Tây Tạng, tìm nước của Tửu Đạt Mộc Hà, mang về tặng phu nhân.

Phu nhân cười lạnh:

- Đa tạ thạnh tình của Đà Ông, hiện tại già cảm thấy khỏe như lúc thường.

Lão nhân gù mỉm cười:

- Lão phu cũng biết vậy, lúc đến Vọng Nguyệt Phong, nghe tiếng đàn, lão phu nhận ra phu nhân đã bình phục rồi.

Phu nhân chặn lại:

- Cái việc tìm thánh thủy, già xin tri ân, chỉ vì Đà Ông ...

Lão nhân gù vội phân trần:

- Hẳn là phu nhân trách cứ lão phu làm gián đoạn cao hứng ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười lạnh, không đáp. Mặc dù lão nhân ngưng câu nói chờ bà ta xoa dịu một tiếng. Phu nhân không nói gì, lão nhân gù lại tiếp:

- Phu nhân cũng nên lượng thứ cho lão phu. Đã lâu lắm rồi, lão phu không được nghe phu nhân buông nhả tháo, may mắn thay hôm nay lại có cơ hội lắng nghe âm diệu huyền, bất giác tâm thần phấn khởi, không kềm hãm được xúc cảm, ca lên mấy câu, hòa lại, thiết tưởng đó cũng là sự thông thường, bởi âm nhạc có sức truyền cảm nhiệm mầu ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân trừng mắt, nhìn lão rồi nhìn qua Quan Sơn Nguyệt, trừng mắt thốt:

- Già biết lắm, có kẻ thứ ba làm trò quỷ chi đó, chứ nếu không thì tiểu tử làm sao khống chế nổi áp lực của bản Ỷ Lan của già.

Bây giờ Quan Sơn Nguyệt mới vỡ lẽ. Thì ra, sở dĩ chàng giữ sự bình tịnh được là nhờ lão nhân gù đã phá hấp lực của điệu đàn. Thoạt đầu, chàng nghe tiếng đàn, như xói lỗ tai, suýt vùng lên, nhưng liền sau đó, có tiếng ca đâu đây vọng tới, tuy nhỏ song nghe rất rõ, tiếng ca rất dịu, xoa dịu ngay niềm khó chịu do tiếng đàn gây lên. Nhờ thế, chàng thản nhiên được, trái lại còn khoan khoái đến nở nụ cười sung sướng.

Lão nhân gù thốt:

- Bản Ỷ Lan là một bản êm dịu, nhưng lúc dạo lên, phu nhân tỏ lộ cái ý sát phạt. Do đó, lão phu mạo muội ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân lạnh lùng:

- Đà Ông bứt đứt dây đàn của già!

Lão nhân gù mỉm cười:

- Lão phu biết là phu nhân phẫn nộ, bắt buộc phải phát xuất «Chấn Thiên Thần Âm», tuy biết đó là hạ sách, song không còn cách nào khác hơn!

Phu nhân hừ một tiếng:

- Đà Ông khách khí quá đi thôi! «Chấn Thiên Thần Âm» dù lợi hại, vẫn chẳng làm gì nổi Đà Ông ...

Lão nhân gù lại cười:

- Phu nhân khỏi phải đấu khí với lão phu, bởi lão phu có muốn tranh hơn giành thắng với phu nhân đâu? «Chấn Thiên Thần Âm» vốn là một bản bất tường, gây thương tổn cho thiên hạ mà phu nhân bình nhật lại tu tâm dưỡng tánh, thiết tưởng không nên dạo đến khúc đàn đó!

Nguyệt Hoa Phu Nhân toan phát tác. Nhưng, bà có ý đắn đo, chừng như bà có đố kỵ lão nhân gù mấy phần, sau một phút, bà dằn cơn uất, lấy lại bình thường.

Đoạn, bà lạnh lùng thốt:

- Đà Ông đến đây, chỉ để mang thánh thủy đến cho già, hay còn chỉ giáo điều chi nữa chăng?

Lão nhân gù chỉnh nghiêm thần sắc:

- Ngoài việc đem thánh thủy đến cho phu nhân, lão phu còn muốn cho phu nhân biết là đã khám phá ra sự tình.

Phu nhân biến sắc mặt, hấp tấp khoát tay, bảo bảy thị giả bước ra ngoài.

Cầm Khiêu đến gần Quan Sơn Nguyệt, định lôi chàng ra luôn nhưng lão nhân gù vội ngăn:

- Để hắn ở lại đó!

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 37

Tình Yêu Và Luân Lý

Suy qua thái độ của bọn người trong Quảng Hàn Cung, đối với lão nhân gù, Quan Sơn Nguyệt tuy chưa có ấn tượng gì về lão, cũng có thể hiểu đại khái, lão là một nhân vật phi thường.

Bắt đầu từ khi tiếp xúc với Đạn Kiếm, Quan Sơn Nguyệt tin chắc là những người trong cung đều có tài nghệ siêu phàm, và vị thủ lãnh là Nguyệt Hoa Phu Nhân thì hẳn là một tay cao minh tột bậc. Cái tài của bà vừa được biểu hiện qua một khía cạnh, là âm điệu của đàn cầm.

Tiếng đàn của bà thừa làm điên đảo chàng, thì đủ hiểu căn cơ tu vi của bà thâm hậu đến đâu.

Nhưng lão nhân gù lại phá vỡ hấp lực đó thì ra lão nhân còn trên bà một bậc.

Cho nên, chẳng những bọn thị giả chẳng dám vô lễ với lão, mà chính Nguyệt Hoa Phu Nhân cũng phải nhân nhượng mấy phần.

Những sự kiện đó, thực sự không làm Quan Sơn Nguyệt chú ý cho lắm, bởi võ đạo mênh mang, người học võ chẳng biết học đến đâu cho cùng, và trên giang hồ cái câu cao nhân tắc hữu cao nhân trị được thực nghiệm nhiều nhất.

Thì, chàng không lạ gì cái sự hơn kém của khách giang hồ. Có lạ chăng đối với chàng là sự tiết lộ của lão nhân gù. Lão ta đã nói là khám phá được sự tình, thế ra, sự tình gì mà lão khám phá được? Và sự tình đó có liên quan đến chàng chăng?

Hẳn là có, không nhiều thì ít, cũng vì vậy mà lão nhân gù bảo Cầm Khiêu để chàng ở lại.

Nguyệt Hoa Phu Nhân cũng kinh ngạc như chàng, không hiểu sao lão nhân muốn cho chàng ở lại, trong khi bà ta chỉ muốn đàm thoại riêng với lão nhân.

Bà trừng mắt, hỏi:

- Tại sao lưu hắn lại đây?

Lão nhân gù điểm một nụ cười:

- Phải có đạo lý chứ, nếu không thì lão phu giữ hắn lại đây làm gì? Bởi vì, sự tình phu nhân muốn biết, tiểu tử này biết rõ hơn lão phu!

Nguyệt Hoa Phu Nhân nghi ngờ hỏi:

- Đà Ông nói sao? Hắn vừa lên đây chưa được một khắc ...

Lão nhân gù lại cười:

- Sao phu nhân không để cho lão phu nói hết ý?

Phu nhân cắn môi, rồi buông gọn:

- Thế thì Đà Ông nói đi.

Lão nhân gù đưa tay xoa lên hàm râu thưa, từ từ thốt:

- Trước hết, lão phu cho phu nhân biết một cái tin không vui lắm. Cái người mà phu nhân đang muốn biết hành tung đó, hiện tại không còn nữa! Y đã chết hai mươi bốn năm rồi! Y chết tại Hàng Ái Sơn!

Nguyệt Hoa Phu Nhân khích động mãnh liệt, song bà cố nén cơn xúc cảm, hỏi:

- Thật chứ?

Lão nhân gù gật đầu:

- Trăm lần thật, ngàn lần thật!

Lão lấy trong mình ra một chiếc vòng ngọc, nửa phần tròn, trao cho bà, đoạn tiếp:

- Để chứng minh sự việc, lão phu tìm đến ngôi mộ của y, quật mộ lên, lấy chiếc vòng ngọc này, chiếc vòng nằm giữa đống xương tàn của y!

Tiếp chiếc vòng, cầm nơi tay, phu nhân nhìn nó, ánh mắt của bà ngời lên, lệ thảm đã cài mi, bà chớp mắt, vài hạt nhỏ rơi xuống.

Tuổi già, lệ như sương, còn đâu đọng thành hạt lớn như hàng thanh thiếu có cả một hồ lệ trong lòng?

Lâu lắm, bà thở ra, cao giọng u buồn thốt:

- Già biết! Y không thể sống lâu! Lúc ly khai già, y đã mang trọng bịnh ...

Bổng, Quan Sơn Nguyệt biến sắc mặt, bước tới, van cầu:

- Phu nhân cho tại hạ được nhìn qua chiếc vòng!

Nguyệt Hoa Phu Nhân nạt ngang:

- Bước ra xa đừng làm rối trí ta!

Lão nhân gù mỉm cười:

- Chờ một chút, tiểu tử! Cái phần câu chuyện có liên quan đến ngươi, chưa tới, ngươi hãy đứng ngoài vòng, bình lặng mà nghe lão phu kể giai đoạn đầu với phu nhân, giai đoạn đầu không dính dấp đến ngươi.

Quan Sơn Nguyệt nổi tính quật cường, cao giọng gắt:

- Không được! Tại hạ muốn xem chiếc vòng, phu nhân không cho không được! Chỉ vì ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân toan phát tác, lão nhân gù nhướng đôi mày, hỏi:

- Tại sao ngươi nhất định đòi xem cho bằng được?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

- Bởi vì tại hạ cũng có một chiếc giống chiếc đó.

Lão nhân gù và phu nhân cùng giật mình. Lão nhân gù vội hỏi:

- Chiếc vòng của ngươi hiện ở đâu?

Quan Sơn Nguyệt lại suy nghĩ một chút:

- Tại hạ không biết, lúc tại hạ lên chín, sư phụ tại hạ lấy chiếc vòng cất luôn, từ đó đến nay, không hề trao lại cho tại hạ.

Lão nhân gù hấp tấp hỏi:

- Sư phụ của ngươi là ai? Hiện tại ở đâu?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

- Gia sư ngày trước là Minh Đà Lịnh Chủ, họ Độc Cô, tên là Minh, hiện tại hành tung bất định.

Chàng suýt tiết lộ hành tung của sư phụ, cũng may chàng kịp cảnh giác.

Chàng biết rõ, ngày nay sư phụ chàng đang sống cảnh thanh tu, rất ghét bị quấy nhiễu.

Lão nhân gù nhìn chàng, không nói gì.

Nguyệt Hoa Phu Nhân bỗng đổi thái độ, giọng nói của bà trở nên ôn nhu, bà trao chiếc vòng cho Quan Sơn Nguyệt, đồng thời thốt:

- Ngươi xem đi, có giống chiếc vòng của ngươi chăng?

Quan Sơn Nguyệt tiếp chiếc vòng, quan sát một lúc. Vì bị chôn hơn hai mươi năm dài trong đất, nó mất cái vẻ sáng của nó. Tuy nhiên, chàng cũng nhận rõ những nét chạm trên mình nó. Xem một lúc, chàng trao trả nó lại cho phu nhân, rồi thốt:

- Hình thể không sai bao nhiêu, có điều nó khác hơn chiếc vòng của tại hạ.

Nguyệt Hoa Phu Nhân lộ vẻ khẩn trương:

- Khác ở chỗ nào? Ngươi nói cho ta nghe!

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ về thái độ của bà. Tuy nhiên cũng giải thích:

- Tại hạ không nhớ rõ lắm, đại khái thì trên chiếc vòng của tại hạ, có khắc sơn cảnh, trên sơn đầu, có một vầng trăng. Còn của phu nhân thì khắc những hoa cúc ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân kêu lên một tiếng, bà đang ngồi, thế mà bà chao chao, như chực ngã xuống.

Quan Sơn Nguyệt kinh hãi, kêu lên:

- Phu nhân làm sao thế?

Nguyệt Hoa Phu Nhân cố gượng trấn định tâm thần, khẻ lắc đầu, đáp:

- Chẳng sao cả.

Rồi bà giục:

- Nói nữa đi, nói tiếp cho ta nghe. Do đâu, ngươi có chiếc vòng đó?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

- Tại hạ cũng chẳng biết do đâu có nó. Tại hạ nhớ mang máng là lúc nhỏ từng đeo nó nơi cổ, lúc đó tại hạ không chú ý đến những hình khắc trên mình nó có ý nghĩa gì. Mãi đến năm tại hạ được chín tuổi, đột nhiên nhớ ra tên mình là Quan Sơn Nguyệt, do đó tại hạ liên tưởng đến cảnh nơi chiếc vòng, và nghĩ rằng tên mình có liên quan với chiếc vòng, nên đem điều thắc mắc hỏi sư phụ. Sư phụ nổi giận, mắng luôn mấy câu, lấy luôn chiếc vòng, giữ mãi đến nay, không trao lại cho tại hạ.

Nguyệt Hoa Phu Nhân vội hỏi:

- Thế ngươi không phải là Minh Thiên Lý?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

- Không, tại hạ là Quan Sơn Nguyệt, cái tên Minh Thiên Lý do Thị Thơ cải biến mà thành.

Nếu là trước đó, thì việc chàng thay đổi tên họ sẽ gây nên phẫn nộ nơi phu nhân rồi, song hiện tại thì bà hỏi để mà hỏi, hỏi nhưng không lưu ý đến câu đáp.

Bà hỏi luôn:

- Sư phụ ngươi có giải thích điều thắc mắc của ngươi chăng?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

- Không hề! Gia sư chỉ khuyên tại hạ không nên nghĩ ngợi viển vông.

Nguyệt Hoa Phu Nhân cau mày:

- Ngươi họ Quan? Thân thế của ngươi như thế nào, ngươi có biết rõ chứ?

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

- Tại hạ không rõ. Từ lúc nhỏ, tại hạ được sư phụ nuôi dưỡng mãi đến lúc trưởng thành, cái tên Quan Sơn Nguyệt sở dĩ có là do gia sư đặt cho.

Phu nhân nhìn sững chàng:

- Lý do gì khiến sư phụ ngươi đặt cho ngươi cái tên đó?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

- Tại hạ không rõ.

Phu nhân bực tức:

- Cái gì ngươi cũng không rõ! Sao ngươi không rõ chi hết?

Quan Sơn Nguyệt cười khổ:

- Đúng như vậy đó, phu nhân! Gia sư dạy tại hạ tất cả, trừ một việc, là thân thế của tại hạ, chẳng bao giờ người đề cập đến việc đó. Người chỉ cho biết đại khái, tại hạ là một kẻ mồ côi, cha chết, mẹ chết, người đem tại hạ về nuôi dưỡng, giáo huấn ...

Phu nhân hấp tấp hỏi:

- Năm nay ngươi được bao nhiêu tuổi? Hẳn điều này ngươi cũng phải hiểu chứ?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

- Tự nhiên, ít nhất một con người cũng biết được tuổi của mình. Tại hạ năm nay được hai mươi sáu tuổi.

Nguyệt Hoa Phu Nhân co ngón tay tính.

Bổng, bà để rơi mấy giọt lệ thấp giọng thốt:

- Đúng! Hai mươi sáu năm rồi! Ta biết! Mãi đến lúc chết y vẫn còn hận ta!

Bà thốt xong câu đó, tự thốt với chính bà, chẳng hướng về lão nhân gù hay Quan Sơn Nguyệt.

Tuy nhiên, cả hai đều nghe rõ.

Lão nhân gù chợt kêu lên:

- Hay! Xảo diệu thay! Lão phu không tưởng là trong thiên hạ lại có sự tấu xảo lạ lùng như thế này!

Nguyệt Hoa Phu Nhân ngẩng mặt lên:

- Đà Ông! Việc này, cần phải được truy cứu rất kỹ!

Lão nhân gù khoát tay:

- Khỏi! Còn truy cứu gì nữa chứ? Lão phu dám bảo đảm là chẳng hề sai!

Sự thật là vậy, phu nhân ạ!

Nguyệt Hoa Phu Nhân lắc đầu:

- Không được đâu, Đà Ông! Già nghĩ, phải thận trọng để tránh những bẽ bàng sau này. Hiện tại, tâm tình của già rối loạn tơi bời, vả lại ...

Lão nhân gù hiểu ý bà, vội gật đầu, chận lời:

- Lão phu biết rồi, vậy phu nhân nên hồi tỵ một lúc, để mặc cho lão phu xử trí. Lão phu sẽ làm một cuộc phối kiểm thật kỹ, sau đó kết quả như thế nào, lão phu sẽ thông tri phu nhân.

Dừng lại một chút, lão tiếp:

- Có điều, lão phu tự hỏi, chẳng biết nên thuật hết sự tình chăng, hay lại phải giấu giếm?

Nguyệt Hoa Phu Nhân suy nghĩ một chút:

- Hiện tại, già không còn cố kỵ điều chi nữa, sự tình ngày cũ, Đà Ông có nhắc lại, kể cũng chẳng quan hệ gì. Xin Đà Ông lưu ý, nếu cuộc phối kiểm đem lại kết quả tốt đẹp, thì lập tức cho già biết nhé!

Lão nhân gù gật đầu:

- Tự nhiên! Phu nhân yên trí, và tự tiện!

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhìn Quan Sơn Nguyệt lượt cuối, đoạn bước ra ngoài.

Quan Sơn Nguyệt hoang mang, chẳng hiểu phu nhân và lão nhân gù nói gì với nhau.

Nhưng, chàng đâu có thì giờ để suy tư, phu nhân ra khỏi cửa rồi, lão nhân gù bắt chuyện với chàng liền.

Giữ thần sắc trang trọng, lão gọi Quan Sơn Nguyệt:

- Ngồi xuống đi, tiểu tử, lão phu sẽ cho ngươi biết một đoạn cố sự, có liên quan trọng đại đến ngươi, ngươi hãy chú hết tâm thần nghe lão phu thuật.

Quan Sơn Nguyệt hết sức lấy làm lạ, tự hỏi lão gù sẽ giở trò gì với chàng đây, xem có vẻ huyền huyền ảo ảo quá chừng. Chàng muốn hỏi, song thấy lão gù nghiêm nghị trở lại, nên thôi, chỉ ngồi xuống chờ nghe.

Lão nhân gù trầm ngâm một lúc, chừng như sắp xếp những gì sẽ nói, theo thứ tự thời gian. Sau cùng, lão đằng hắng mấy tiếng, rồi bắt đầu thuật:

- Sự việc đã xảy ra ba mươi năm trước, lúc lão phu còn là một thanh niên, bởi lúc đó, lão phu chỉ có năm mươi tuổi ...

Một con người ở lứa tuổi năm mươi mà xưng mình là thanh niên, thì hẳn lạ lùng, nếu không là muốn thốt một câu khôi hài.

Chàng điểm một nụ cười.

Lão nhân gù gắt:

- Tại sao ngươi cười? Tuy lão phu đã có năm mươi tuổi, nhưng tóc còn xanh, râu chưa dài, cũng xanh nốt, như vậy có khác chi bọn niên thiếu các ngươi?

Tóc xanh, râu xanh, thì cái tuổi xanh luôn chứ?

Rồi lão thuật tiếp:

- Ba năm trước đó, lão có kết giao với một người bằng hữu, người ấy với ngươi hiện tại, có rất nhiều điểm hơn người, văn tài rộng, vũ học cao, tuổi độ ba mươi. Chúng ta vừa gặp nhau, là có cảm tưởng là trời sanh ra cả hai để mà kết tình bằng hữu, đúng với câu ý hợp, tâm đồng ...

Lão mơ màng, như hồi ức lại thời xa xưa, tưởng niệm bóng hình người cố hữu. Một phút sau, lão tiếp:

- Lúc đó, lão phu có hai kẻ tử đối đầu, họ là một đôi vợ chồng, sánh với lão phu tuổi thì kém, song vũ công tương đương, trước sau, lão phu và họ giao đấu với nhau hơn mười mấy lần, mỗi lần giao đấu là mỗi lần lão phu nhận bại ...

Quan Sơn Nguyệt nhếch môi, như sắp sửa cười.

Lão nhân gù trừng mắt:

- Ngươi đừng tưởng là lão phu kém họ nên nhận bại như vậy! Chẳng qua, lão phu đơn độc, mà họ lại đủ đôi, ít phải thua đông. Tuy nhiên, không phải cả hai cùng liên thủ, nghinh chiến với lão phu. Một đấu một, nhưng lão phu thì trường kỳ, còn họ thì luân phiên với nhau, ai mệt thì ra ngoài vòng chiến, để cho kẻ khỏe thay vào, còn mình thì ngơi nghỉ, dù thân hình ta có là sắt cấu tạo thành, ta cũng phải phờ người. Làm sao ta không bại được chứ?

Lão lại dừng, vẻ tưng tức hiện nơi gương mặt, rồi lão tiếp:

- Đương nhiên, chúng ta không phải giao đấu vì thù. Chúng ta muốn so kém về vũ công, duy nhất vì vũ công, thuần túy mà giao đấu, cho nên bại rồi là nhận bại ngay, hẹn ngày tái đấu, trở về tập luyện, đúng kỳ lại gặp nhau ...

Lần này thì Quan Sơn Nguyệt cười thành tiếng:

- Càng giao đấu, càng bại, thế mà lão tiền bối cứ giao đấu luôn đến mười mấy lần, thật là cái chí khí hết sức kiên cường, tại hạ vô cùng khâm phục.

Lão nhân gù trầm giọng:

- Một đấu hai, ai bại mà không tức? Lão phu không phục nên tái đấu mãi.

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

- Người ta hai, lão tiền bối một, sao tiền bối không tìm một viện thủ?

Lão nhân gù «hừ» một tiếng:

- Tìm đâu? Ngươi tưởng lão phu không tìm à? Ngươi biết không, vào thời gian đó, tìm được một người có vũ công xuýt xoát với lão phu là tìm kim đáy biển đấy!

Quan Sơn Nguyệt đồng ý, chàng không cho rằng lão nhân khoác lác, bởi chàng biết rõ cái thực tài, và cái tài của lão, đừng nói là ba mươi năm về trước, dù cho là ngày nay, có lắm nhân tài xuất hiện, vị tất có một vài người đạt đến mức thành tựu của lão ta?

Lão nhân gù tiếp:

- Tuy nhiên, lão phu cũng cố làm một việc cầu may, đi khắp sông hồ, đến tận núi sâu, rừng thẳm, động vắng, hang cùng, tìm một viện thủ, bất ngờ lão phu gặp một người, lập tức lão phu đưa người đó đến luôn nơi ước đấu ... Song, khi bọn lão phu đến nơi ...

Quan Sơn Nguyệt chận hỏi:

- Thì sao? Đôi vợ chồng đó có bằng lòng cho viện thủ của tiền bối giao đấu với họ chăng? Kết quả như thế nào?

Lão nhân gù thở dài:

- Lão chồng đi vắng, chỉ có một mụ vợ ở nhà, cuộc tái đấu bất thành.

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

- Sao lại bất thành được? Trái lại đó là một dịp may cho lão tiền bối chứ?

Trước, họ lấy hai đấu một, thì sau họ phải chịu một đấu hai, họ đâu có lý do gì từ khước cuộc tái đấu? Chính là cái cơ hội cho lão tiền bối phục hận vậy!

Lão nhân gù nổi giận:

- Ngươi hèn quá! Ngươi đánh giá bọn lão phu thấp quá!

Quan Sơn Nguyệt không phiền:

- Theo ý tại hạ thì đó là một sự chí công! Bởi họ đã từng lấy hai đấu một, họ phải chấp nhận một đấu hai!

Lão nhân gù càng giận hơn:

- Đành là họ luôn luôn lấy hai đấu một, song hai của họ là hai vợ chồng, một nam một nữ, còn hai của lão phu là hai bằng hữu, hai nam. Hai nam đấu với một nữ, thì còn thể thống gì? Phải chi vợ vắng mặt, chồng ở nhà thì ngươi nói như vậy cũng được cho!

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

- Lão tiền bối có lý! Nhưng, ít ra lão tiền bối cũng có thể một đấu một chứ?

Chẳng lẽ đến nơi rồi lại trở về không?

Lão nhân gù thở dài:

- Thoạt đầu lão phu cũng nghĩ như ngươi, ngờ đâu, sau cuộc đàm thoại, vị bằng hữu của lão phu và nữ nhân đó lại có vẻ tâm đầu ý hợp quá chừng, cho nên ...

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

- Thế là chưa giao đấu, lão tiền bối lại bại nữa rồi! Khi người chồng trở lại, thì dù có tái đấu, lão tiền bối vẫn đơn độc như thường, bởi vị bằng hữu của lão tiền bối nghiễm nhiên trở thành đồng minh của đôi vợ chồng đó. Giả như có một cuộc tái đấu hai chống hai, thì người bằng hữu của lão tiền bối cũng không thể xuất toàn lực đánh bại người mà y nhận ra ý hợp tâm đầu. Như vậy, trước thì hai đấu một, sau thì ba đấu một.

Hận vì việc cũ, lại hận vì chàng cứ chận lời mãi, lão nhân gù phát cáu, gắt:

- Nếu ngươi nghe đoạn cố sự của lão phu mà không thấy hứng, thì thôi vậy, lão phu không thuật tiếp.

Quan Sơn Nguyệt lại cười:

- Lão tiền bối nghĩ oan cho tại hạ rồi, trái lại, tại hạ cao hứng vô cùng! Bởi quá cao hứng cho nên nóng nảy nghe, nóng nảy biết, do đó cứ hỏi chận lão tiền bối mãi. Tại hạ không có ý bắt bẻ chi đâu!

Lão nhân dịu tính khí lại, rồi tiếp:

- Vị bằng hữu của lão phu không trở mặt, bỏ mặc lão phu một mình, để bước sang cánh đối lập, giúp vợ chồng họ. Y chỉ đề nghị là nên chờ người chồng trở về, rồi một đấu một, cặp đấu cặp cho công bình. Lão phu phải nghe theo y và cả hai cùng tìm một địa phương cư trú, chờ người chồng trở về ... Bọn lão phu đợi đúng một tháng ...

Quan Sơn Nguyệt chớp mắt:

- Lúc đó, người chồng trở về?

Lão nhân gù lắc đầu:

- Nếu lão ta trở lại, thì còn nói làm già Lão thở dài.

Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc:

- Không lẽ lão ấy gặp biến cố gì trong thời gian xuất ngoại?

Lão nhân gù gật đầu:

- Suốt một tháng, chúng ta chờ đợi, người chồng vẫn không trở về. Trong khi đó, có người mang tin của lão đến, cho biết là vì một việc quan trọng, lão ta đến một địa phương rất xa, ngày về không hẹn trước được, lão phu và vị bằng hữu không thể chờ lâu hơn nữa, phải cáo biệt người vợ. Lão phu có biết đâu trong một tháng đợi chờ cuộc tái đấu, người bằng hữu của lão phu và người vợ của lão kia lại yêu nhau, tình yêu của họ đậm đà đến độ họ không rời xa nhau, nhưng vị bằng hữu của lão phu không thể bỏ lão phu trở lại một mình, bắt buộc phải theo lão phu mà về, về đến nhà rồi y tìm cách trở lại, hội hiệp với nữ nhân đó ...

Quan Sơn Nguyệt không chận lời lão nữa.

Lúc chàng chận, thì lão gắt, rồi lão thuật, khi chàng bình tịnh chờ nghe, thì lão lại im bặt. Thành ra, Quan Sơn Nguyệt không dằn được tánh hiếu kỳ, phải hỏi:

- Rồi sau đó, sự tình diễn tiến như thế nào, lão tiền bối?

Lão nhân gù lại thở dài:

- Sau đó, những gì đã xảy ra, lão phu không được rõ lắm. Bởi lão phu tìm được một bí kíp, để luyện thành một môn công phu kỳ diệu, lão phu dành tất cả thời giờ, chuyên luyện môn công đó trên đỉnh Đại Thanh Sơn. Sau đó, lão phu tìm đến chốn cũ, thì hay ra, nơi đó đã phát sanh lắm việc ...

Quan Sơn Nguyệt chớp mắt:

- Lão tiền bối có gặp đôi vợ chồng đó chăng? Việc gì đã phát sanh?

Lão nhân gù thở ra:

- Người vợ thọ thai, do mối tình vụng trộm với vị bằng hữu của lão phu.

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:

- Còn người chồng? Lão ấy có trở lại không?

Lão nhân gù lắc đầu:

- Không! Tuy nhiên, lão ta cũng có đưa tin về, là không lâu lắm, lão sẽ trở lại nhà ...

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

- Đúng là một việc khó! Bà ấy xử trí như thế nào, lão tiền bối?

Lão nhân gù đáp:

- Bà ta và vị bằng hữu của lão phu bối rối phi thường, họ chẳng biết phải làm sao, lại hỏi kế nơi lão phu.

Quan Sơn Nguyệt nóng nảy:

- Lão tiền bối sắp xếp cho họ làm sao?

Lão nhân gù lộ vẻ thương tâm:

- Lão phu còn biết làm sao? Trong hoàn cảnh đó, lão phu chỉ còn có cách là hỏi bà ta, trong hai người bà tha thiết với ai, giả như bà yêu vị bằng hữu của lão phu, thì ngay từ lúc đó phải thu xếp hành trang, cùng người tình rời quê hương, tìm đến một phương trời xa lạ, chung sống với nhau may ra còn kịp, chứ nếu không thì khi người chồng trở về, sóng gió sẽ dấy lên, tang tóc sẽ phủ trùm. Còn như bà không chịu nghe người tình trốn tránh chồng bà, thì dù muốn dù không, cũng phải diệt cái bào thai lúc nó chưa lớn lắm. Dù là một hành động vô nhân đạo, song cần bảo vệ hạnh phúc của bà, thì bà phải vô nhân đạo, trong tình thế đó bà không cưỡng lại được.

Quan Sơn Nguyệt tặc lưỡi:

- Không thể làm khác hơn những lời của lão tiền bối, trừ ra bà tự tử! Bà ấy có nghe lời lão tiền bối chăng?

Lão nhân gù đáp:

- Tự nhiên là bà ta tha thiết với vị bằng hữu của lão phu, điều đó thì bà có thừa nhận với lão phu, cho nên bà ta và vị bằng hữu của lão phu chấp nhận giải pháp thứ nhất, cùng bỏ nhà ra đi đến một địa phương hoang vắng ...

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

- Họ đến nơi nào, hắn lão tiền bối biết chứ?

Lão nhân gù gật đầu:

- Đại Ba Sơn! Họ xây tổ uyên ương tại đó.

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

- Và bắt đầu từ ngày ấy, họ thỏa thích yêu nhau, họ hưởng thụ trong khi người chồng ...

Chàng không dứt câu, bỏ lửng như thế rồi kết thúc bằng một tiếng tặc lưỡi, đệm thêm một cái cau mày.

Lão nhân gù càng lộ vẻ buồn hơn:

- Người muốn, mà sự muốn không lành, thì khi nào cao xanh chấp thuận?

Khi người chồng trở lại, biết vợ ra đi, tự nhiên lão ta phải đi tìm. Một năm sau, lão biết bà ta trú ẩn nơi nào, lão biết bà đã làm gì, trong thời gian lão vắng mặt. Lúc đó, bà ta đã sanh đứa bé, nó vừa tròn năm tháng ...

Quan Sơn Nguyệt khẩn trương ra mặt:

- Rồi việc gì xảy ra nữa?

Lão nhân thở ra:

- Còn việc gì nữa, nếu không phải là một cuộc ác chiến? Rất tiếc, lúc đó lão phu không có mặt tại cục trường!

Quan Sơn Nguyệt hỏi gấp:

- Kết quả cuộc chiến như thế nào?

Lão nhân gù đáp:

- Người chồng không thủ thắng nổi trước vị bằng hữu của lão phu, đang lúc lão ta đang bị dồn vào nguy cảnh, thì đột nhiên bà ấy xúc động tình chồng nghĩa vợ của những ngày nào, vội nhảy vào vòng chiến, tiếp trợ chồng, phản công lại người tình ...

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

- Lòng dạ nữ nhân! Không ai hiểu được lòng dạ nữ nhân như thế nào!

Lão nhân gù gật đầu:

- Đừng ai mong hiểu nổi một nữ nhân! Ngươi thấy không, lão phu may mắn có một tướng mạo xấu xí, cũng nhờ thế mà nữ nhân buông tha cho, cũng thế mà lão phu được an nhàn sống đến tuần tuổi này!

Quan Sơn Nguyệt mơ màng:

- Nữ nhân là nguồn gốc của mọi sự phiền lụy trên đời!

Rồi chàng hỏi:

- Sau đó, còn gì nữa chăng, lão tiền bối?

Lão nhân gù đáp:

- Tự nhiên, vị bằng hữu của lão phu hết sức kinh ngạc trước sự thay đổi của người tình. Tuy vậy, y không hề nao núng, chấp cả hai vợ chồng liên thủ, y một mình nghinh chiến ung dung. Nhưng qua mấy chiêu đầu, y bỏ cuộc, có lẽ vì chán ngán, y bắt đứa bé mang theo, ly khai Đại Ba Sơn, về một phương trời xa lạ ...

Quan Sơn Nguyệt chớp mắt:

- Đoạn cố sự lão tiền bối chấm dứt tại đó?

Lão nhân gù lắc đầu:

- Việc cũ còn dài, song lão phu không hiểu rõ ràng giai đoạn tiếp nối. Bất quá lão phu hiểu mang máng là đôi vợ chồng đó làm lành trở lại, sống luôn tại Đại Ba Sơn không trở về cố hương nữa. Độ hai năm sau, người vợ hạ sanh một nam hài nhi, rồi sau mấy năm nữa, người chồng chết. Người vợ ở luôn tại Đại Ba Sơn, nuôi dưỡng hài nhi, tuyển dụng một số người quanh quẩn bên mình cho đỡ tịch mịch ...

Quan Sơn Nguyệt thốt:

- Tại hạ biết, nữ nhân đó hẳn là Nguyệt Hoa Phu Nhân! Còn người bằng hữu kia ...

Dừng lại giây lát, chàng lại hỏi:

- Sau đó, y ra sao? Và, hiện tại y còn sống hay đã chết rồi?

Lão nhân gù đáp:

- Y ra đi, biền biệt, chẳng ai biết rõ y hạ lạc ở địa phương nào, lão phu có đi khắp nơi tìm y song không hiệu quả. Mãi đến mấy hôm trước đây, nhân có việc đi ngang qua Hàn Ái Sơn, lão phu mới biết được tin tức của y. Thì ra, sau ngày xa lánh người tình, y đến Hàn Ái Sơn dựng nhà ở đó, sống cuộc đời quy ẩn, không được mấy năm, y chết, còn đứa con thì y trao cho một trung niên thơ sanh, nhờ nuôi dưỡng ...

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:

- Người trung niên thơ sanh là ai?

Lão nhân gù đáp:

- Sự việc cách nhiều năm, những người tại địa phương nào còn nhớ rõ lắm, bất quá họ nhớ mang máng là người thơ sanh đó, một hôm, từ xa đến, làm khách của vị bằng hữu của lão phu, cả hai tương đồng thinh khí, thành dễ thân nhau.

Chính thơ sanh mai táng thi hài vị bằng hữu của lão phu. Không ai biết tên họ của người thơ sanh đó.

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

- Người thơ sanh đó có đặc điểm gì chăng? Cư dân không biết tên họ, ít nhất cũng thấy hình dáng, tướng mạo của người thơ sanh như thế nào chứ?

Lão nhân gù gật đầu:

- Cư dân còn nhớ là người thơ sanh đó có một ngón thừa nơi bàn tay tả.

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

- Thế là gia sư rồi!

Lão nhân gù cũng kêu lên:

- Vậy ngươi là đứa bé lão mang đi!

Quan Sơn Nguyệt khích động phi thường. Trong phút giây thảng thốt, chàng chẳng nói được tiếng nào.

Lão nhân gù thở dài:

- Thực ra, ngay từ lúc ngươi cho biết là ngươi cũng có một chiếc vòng ngọc như chiếc của Nguyệt Hoa Phu Nhân, lão đã đoán sự tình như thế rồi. Vòng ngọc đó, vốn là một đôi, một chiếc chạm hoa cúc, một chiếc chạm núi và trăng, cúc và trăng tượng trưng tên của Nguyệt Hoa Phu Nhân và vị bằng hữu của lão phu, mà cũng là phụ thân của ngươi. Phu nhân tên là Lê Thu Cúc, còn phụ thân ngươi tên là Vạn Tân Nguyệt. Sở dĩ phu nhân chọn cái hiệu Nguyệt Hoa là vì bà muốn tưởng niệm mãi phụ thân ngươi!

Quan Sơn Nguyệt sững sờ, thừ người một lúc lâu, cuối cùng chàng khóc.

Khóc một lúc chàng lẩm nhẩm:

- Đáng lý ra là tại hạ phải mang họ Vạn mới phải! Chẳng hiểu tại sao gia sư lại dùng họ Quan mà đặt tên cho tại hạ!

Lão nhân cười khổ:

- Điều đó, ngoài sư phụ ngươi ra, còn ai biết được?

Bỗng từ bên ngoài, Nguyệt Hoa Phu Nhân xô cửa, lách mình bước nhanh vào. Mặt bà đầm đìa lệ thảm, bà thốt:

- Khỏi cần hỏi sư phụ hắn! Già đã biết rồi. Tân Nguyệt hận già vô cùng, đến chết cũng còn hận, vì muốn hận nên không muốn cho già sau này tìm con, nhìn con, do đó, y đổi họ. Tuy nhiên cái tên Quan Sơn Nguyệt tự nó cũng nói rõ lai lịch của kẻ mang nó, bởi Quan Sơn Nguyệt, ám chỉ sự quan hệ của thân thế một người đối với vầng trăng núi! Còn như cái việc chôn luôn chiếc vòng ngọc bên mình, đúng là Tân Nguyệt muốn hủy một chứng tích!

Lão nhân gù điểm một nụ cười bước tới mầng:

- Phu nhân! Sự tình đã khám phá, mẫu tử trùng phùng, phần việc của lão phu cầm như hoàn tất, lão phu kính mầng cho phu nhân và xin cáo từ!

Lão vái chào đoạn quay mình bước ra cửa.

Phu nhân gọi gấp:

- Khoan đi, Đà Ông, già xin đa tạ ơn trọng của Đà Ông và mời Đà Ông lưu lại nơi biệt xá, cho già bày tiệc mừng, thết đãi Đà Ông.

Lão nhân gù cười lớn:

- Phải! Nói là cáo từ, chứ khi nào lão phu đi ngay cho, ít nhất cũng uống một vài chén rượu rồi sẽ đi chứ!

Lão nhân gù ra ngoài rồi, còn lại trong phòng, hai mẹ con nhìn nhau, họ nhìn nhau, họ nhìn nhau song chẳng ai nói một lời gì trước.

Mẫu tử trùng phùng, tất phải vồ vập, thổ lộ tâm tình, hoài niệm đó là lẽ thường, nhưng họ không vồ vập, không kể lể ngay như những người khác, là vì dù sao họ cũng bỡ ngỡ, bởi từ lúc nào đến bây giờ, họ có gặp gỡ nhau đâu?

Hiện tại, họ như hai kẻ xa lạ, do một tình cờ, biết được quan hệ giữa nhau như thế nào, và riêng về Quan Sơn Nguyệt thì chàng không thấy bi hoài về sự xa cách qua nhiều năm tháng. Từ nhỏ, chàng không hưởng được sự âu yếm của mẹ, từ nhỏ chàng không được ấp ủ bởi tình mẫu tử, thì giờ đây mọi sự đối với chàng quá lạ, bất quá thiên luân bừng dậy, mà chàng khích động, chứ thực ra, sự xa cách của mẹ con chàng, chẳng có một ảnh hưởng nào đối với chàng. Chàng có biết mẹ mình ra sao mà nhớ nhung, mong tưởng?

Nếu có một người nhớ nhung một người, thì chính là Nguyệt Hoa Phu Nhân nhớ chàng. Cho nên bà phải cất tiếng trước:

- Con! Sao con thừ người ra thế? Con không thể gọi một tiếng mẹ được sao?

Quan Sơn Nguyệt mấp máy môi, lâu lắm chàng mới để thoát lọt được hai tiếng:

- Mẫu thân!

Đến lúc đó Nguyệt Hoa Phu Nhân mới ôm chầm lấy chàng.

Nguồn lòng tuông ra, tình cảm bốc rạt rào, qua một lúc lâu Nguyệt Hoa Phu Nhân thốt:

- Bây giờ, mẹ con đã gặp nhau, con nên đổi họ lại đi, bởi cái họ con đang mang đó, chẳng phải họ của phụ thân con!

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

- Không nên đâu mẹ, cái họ của con đang mang, sở dĩ có là do ý muốn của phụ thân, dù sao con cũng tôn trọng ý muốn của phụ thân.

Nguyệt Hoa Phu Nhân giật mình:

- Phụ thân con chọn họ đó cho con, là vì hận mẹ, con muốn giữ luôn họ đó, thế ra con cũng hận mẹ sao?

Quan Sơn Nguyệt không đáp được.

Chàng không đáp được, bởi sự tình diễn tiến ngoài chỗ tưởng của chàng!

Bỗng nhiên mà có một người mẹ, trong khi chàng chưa biết thân thế ra sao, trong khi chàng không hề nghĩ là sẽ gặp bất ngờ, chàng chưa hiểu nổi cái cảm giác thực sự trong lúc này như thế nào.

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 38

Vân Tiêu Nguyệt Xuất

Theo lịnh của Nguyệt Hoa Phu Nhân, bọn Cầm Khiêu bảy người trở vào hoa sảnh của Quảng Hàn Cung.

Vào đến nơi, cả bảy người cùng lộ vẻ kinh dị. Bởi, từ nhiều năm qua, họ xem phu nhân như thần như thánh và chính phu nhân cũng giữ khoảng cách quá đáng đối với mọi người, chẳng riêng gì đối với bọn họ. Tuy bà chấp nhận những cuộc đối thoại, song không một ai được tiếp cận bà.

Giờ đây, cái khoảng cách đó không còn nữa, giữa bà và Quan Sơn Nguyệt, dù Quan Sơn Nguyệt chỉ là một kẻ mới đến, dù chàng ta chưa tiếp thọ một chức vị nào trong cung.

Hiện tại, bà đặt tay lên đầu vai của Quan Sơn Nguyệt, một cử chỉ mà bọn Cầm Khiêm chẳng hề trông thấy bao giờ.

Tại sao bà có vẻ thân mật với Quan Sơn Nguyệt như thế? Bà vừa hận chàng kia mà? Nhiệm mầu nào đã xảy ra, làm tan niềm hận đó nhanh chóng thế?

Còn lão nhân gù, miệng không cười nhưng toàn gương mặt hân hoan, ánh mắt của lão sáng rực lạ thường.

Bảy người cùng sửng sốt như nhau, cùng im lặng chờ một sự giải thích. Họ tin chắc thế nào rồi họ cũng hiểu được nguyên nhân của sự thay đổi thường thái của chủ nhân.

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhìn quanh bảy người một vòng, đoạn cất tiếng:

- Chữ Trà! Ngươi theo ta từ lâu, những việc gì của ta, ngươi hiểu khá nhiều.

Ta tin rằng, trong những lúc cao hứng, ngươi cũng có thuật lại cho các thị giả kia nghe!

Chữ Trà kinh hãi, hấp tấp thốt:

- Tiểu tỳ đâu dám ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân mỉm cười, chận lại:

- Chẳng có gì đâu, ngươi không phải hoang mang! Ta chẳng trách cứ chi ngươi, bất quá ta muốn biết ngươi có nói gì với chúng hay không vậy thôi!

Chữ Trà mất mấy phút mới lấy lại bình tĩnh, tuy nhiên giọng nói của nàng vẫn còn rung rung:

- Thật sự thì, trong những lúc nhàn rỗi, đàm đạo với Nhập Hoạch và Phi Thương, tiểu tỳ cũng có nói qua ...

Lão nhân gù cười lớn:

- Bất cứ việc chi, vào lỗ tai Nhập Hoạch rồi là lập tức thoát ra khỏi miệng nàng ta! Do đó, ta quyết chắc tất cả bảy người cùng biết như nhau cả!

Bảy thị giả giật mình, chính Nhập Hoạch sợ hãi hơn hết.

Nhưng, Nguyệt Hoa Phu Nhân không hề biểu hiện vẻ phẫn nộ, bà chỉ thoáng đỏ mặt, rồi cười tiếp:

- Các ngươi đừng sợ hãi, ta không tra cứu, trừng phạt đâu. Các ngươi đã hiểu việc tư riêng của ta rồi, thế thì càng hay, ta khỏi phí công giải thích. Các ngươi cũng biết, ta có một đứa con trai, mẹ con ta cách biệt nhau hơn hai mươi năm dài ...

Bảy thị giả cùng đưa mắt nhìn nhau, như muốn hỏi nhau là phu nhân có dụng ý gì mà đề cập đến việc đó.

Lão nhân gù không để cho họ hoang mang lâu, thốt ngay:

- Đứa con của phu nhân, ngày nay phu nhân đã tìm được rồi, và chính là hắn đó!

Lão đưa tay chỉ Quan Sơn Nguyệt.

Bảy thị giả sững sờ.

Một lúc lâu, Nhập Hoạch kêu lên:

- A! Minh huynh đệ! Không ngờ Minh huynh đệ lại là đại công tử! Từ nay Nhập Hoạch nầy không còn dám gọi là Minh lão đệ nữa rồi!

Quan Sơn Nguyệt vội chữa:

- Tại hạ là Quan Sơn Nguyệt ...

Nhập Hoạch trố mắt:

- Cái gì? Quan Sơn Nguyệt?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu.

Nguyệt Hoa Phu Nhân mỉm cười:

- Phải!

Bà nhìn Thị Thơ, tiếp:

- Thị Thơ, ngươi đừng lo sợ, ngươi thay hắn, đổi tên để lừa ta, ngươi cũng to gan lắm, song lần nầy ta tha cho, tuy nhiên ngươi cũng phải giải thích cho ta biết, vì lý do gì, ngươi đổi tên hắn?

Bổng, bà nhớ đến một việc, thần thái hơi biến đổi, bà lẩm nhẩm:

- Quan Sơn Nguyệt ... Quan Sơn Nguyệt! Trương Thanh nhắc mãi ... Cái người Trương Thanh nhắc đó, có phải là con chăng?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

- Phải! Con đến đây, không ngoài mục đích tìm nàng.

Nguyệt Hoa Phu Nhân hấp tấp hỏi:

- Tại sao con biết nàng ở tại đây?

Quan Sơn Nguyệt dợm đáp, lại thôi.

Phu nhân mỉm cười:

- Không quan hệ gì, con cứ nói, hôm nay gặp con, mẹ vui, mẹ có thể bỏ qua lỗi lầm của bất cứ ai.

Quan Sơn Nguyệt do dự một chút rồi nói:

- Chính Bành Cúc Nhân đại nương mách cho con biết.

Tuy đã nói là không bắt tội ai, nghe Quan Sơn Nguyệt tiết lộ rồi, phu nhân cũng biến đổi sắc mặt.

Thị Thơ bước tới một bước, cất tiếng biện bạch thay Bành Cúc Nhân:

- Sở dĩ Bành Cúc Nhân nhạy miệng như vậy, là vì bà ta có ý tốt đó, phu nhân. Bà ta thấy Trương cô nương ngày ngày ưu sầu, phiền muộn ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân trừng mắt nhìn Thị Thơ, gạt ngang:

- Ta biết!

Thị Thơ nín lặng, không dám tiếp tròn câu.

Nguyệt Hoa Phu Nhân cau mày, chừng như bà gặp một việc khó xử vô cùng.

Lão nhân gù lộ vẻ kinh dị, hỏi:

- Tại sao thế? Trên núi còn có người ngoài à?

Nguyệt Hoa Phu Nhân không đáp.

Thị Thơ lên tiếng giải thích:

- Bốn tháng trước đây, bỗng nhiên Trương cô nương lạc bước đến chốn nầy.

Lúc đó, phu nhân bị bịnh cũ tái phát hoành hành dữ dội, may thay, Trương cô nương đến kịp lúc, trổ tài y thuật chữa trị cho phu nhân lành mạnh ...

Lão nhân gù ngạc nhiên:

- Hừ! Vị tiểu cô nương đó trị lành chứng bịnh kinh niên của phu nhân? Thế thì tài thật!

Thị Thơ đắc ý, quên dè dặt:

- Chẳng những y thuật cao minh, Trương cô nương lại là một trang quốc sắc thiên hương, trong thế gian rất hiếm thiếu nữ nào sánh bằng.

Lão nhân gù day qua Quan Sơn Nguyệt:

- Làm sao ngươi quen được Trương cô nương, hở tiểu tử?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

- Tiểu tử nhờ nàng cứu mạng hai lượt ...

Lão nhân gù cười lớn:

- Lão phu thấy các ngươi có cảm tình với nhau quá nặng đấy! Chứ nếu không thì làm gì ngươi vượt ngàn dặm đường đến tận nơi này, tìm nàng?

Quan Sơn Nguyệt chưa kịp nói gì, Thị Thơ chen vào:

- Trương cô nương có cảm tình thâm hậu đối với công tử, cho nên thời thường cứ nhắc nhở đến công tử luôn!

Lão nhân gù càng cười lớn hơn:

- Lão phu nghĩ cái điều đó cũng là thường, bởi phụ thân hắn ngày xưa chẳng như thế sao? Cha con hắn quả thật có cái sức hút người! Cha chết rồi, còn con. Lão phu cao hứng có một vị cố hữu thú vị quá chừng ...

Lão chợt nhớ là có Nguyệt Hoa Phu Nhân bên cạnh, chừng như bà có cau mày một chút, lão ngưng bặt tràng cười, đổi giọng liền:

- Phu nhân có vẻ không vui thì phải? Người ta, tìm đặng con thì mầng chứ, huống chi, vừa đặng con lại đặng luôn dâu, như vậy là phước đến có đôi, một sự hy hữu trên đời ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài, không nói tiếng gì.

Bà không vui, bảy thị giả cũng chẳng dám vui, tất cả đều trầm gương mặt.

Lão nhân gù lấy làm kỳ.

Quan Sơn Nguyệt cũng không khỏi thắc mắc.

Một lúc sau, lão nhân gù không kềm chế nổi tính hiếu kỳ, hỏi:

- Việc gì thế, phu nhân?

Phu nhân lại thở dài, buông nhẹ:

- Thư thả rồi sẽ biết.

Bà lảng sang chuyện khác:

- Già có hứa là đãi Đà Ông một tiệc rượu, bây giờ chúng ta bắt đầu khai cuộc đi!

Bà gọi to:

- Phi Tràng, lựa thứ Bách Hoa Lộ lâu năm của ta đó, còn Nhập Hoạch tìm thức nhắm. Gấp lên nhé!

Hai nàng vâng lịnh đi ngay.

Lúc đó, Chữ Trà bước đến cạnh Quan Sơn Nguyệt, giọng có phần nào khích động:

- Nhất định là công tử nhận ra tôi! Lúc nhỏ, công tử được tôi bế rất thường ...

Lão nhân gù cười hì hì:

- Lúc đó, hắn mới được năm tháng gì đó, nếu hắn nhớ được ngươi, thì đúng là hắn là thần tiên rồi!

Chữ Trà bạo dạn một chút, nói:

- Công tử lớn lên dáng dấp hùng tráng, có phần khôi ngô hơn lão gia, chắc lão gia vẫn được mạnh như ngày nào chứ?

Phu nhân trầm gương mặt:

- Chữ Trà, khép bớt cái miệng ngươi lại!

Lão nhân gù thở ra:

- Vạn lão gia đã chết rồi, còn đâu mà ngươi hỏi mạnh với chẳng mạnh!

Chữ Trà thoáng biến sắc, mắt chớp chớp hạt lệ sầu, nàng lẩm nhẩm:

- Chết rồi? Vạn lão gia là con người tốt, tại sao những người tốt lại không được sống lâu? Giả như người còn sống, hẳn ngày nay còn tốt hơn xưa nhiều, nhiều lắm ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân vổ bàn kêu bốp một tiếng, hét:

- Ngươi muốn chết phải không, Chữ Trà?

Chữ Trà ngưng khóc, rung rung giọng đáp:

- Phu nhân thứ cho! Trong cơn xúc động, tỳ nữ mất bình thường, thành ra kém dè dặt. Thực ra, gặp công tử, tỳ nữ cao hứng quá chừng ...

Lão nhân gù khuyên giải:

- Phu nhân không nên trách nàng. Năm xưa, Tân Nguyệt đối với nàng rất tốt, động niềm cố cựu, thấy con như thấy cha, tự nhiên nàng phải xúc động, phàm con người trong cơn xúc động thì còn ai giữ được trạng thái trầm tĩnh? Nàng khóc là hợp lý lắm đó, phu nhân!

Lão hướng qua Quan Sơn Nguyệt, tiếp:

- Ngươi có thể gọi nàng là sư tỷ, bởi ngày xưa, Vạn Tân Nguyệt thường nói là muốn thu nhận nàng làm đồ đệ. Giả như ngươi muốn hiểu mọi chi tiết về sinh hoạt, hành vi của phụ thân ngươi thì không ai đủ tư cách hơn Chữ Trà. Nàng sẽ cung cấp cho ngươi nhiều giải đáp xác thực.

Quan Sơn Nguyệt thấy có hảo cảm ngay đối với nữ nhân chân thành chất phác đó.

Chàng cung kính gọi:

- Sư tỷ!

Chữ Trà suýt đổ lệ như trước, nhưng gương mặt của Nguyệt Hoa Phu Nhân khác hẳn ngày thường, nàng không đám để lộ xúc cảm nữa, chỉ vái chào đáp lại tiếng gọi của Quan Sơn Nguyệt thôi, thay vì bước tới hoặc vuốt ve chàng, hoặc nắm tay chàng, biểu hiệu niềm thân mật.

Nàng khiên tốn, thốt:

- Công tử khách khí quá, làm sao tôi dám nhận là sư tỷ của công tử!

Lão nhân gù nói:

- Tiểu tử! Lão phu tìm cho ngươi một người mẹ, ngươi chẳng có gì để tạ ơn lão phu à? Cho đến một cái gật đầu suông cũng không?

Quan Sơn Nguyệt lại quỳ xuống, cúi đầu:

- Tiền bối ...

Lão nhân gù cao giọng:

- Sao lại tiền bối? Lão phu với phụ thân ngươi, tình đồng thủ túc, ngươi không thể dùng hai tiếng bá bá được sao?

Quan Sơn Nguyệt vừa lạy vừa gọi:

- Bá bá ...

Lão nhân gù vói tay kéo chàng đứng lên nói:

- Thôi được rồi, vậy cũng đủ lắm rồi. Bá bá đùa với ngươi cho vui, chứ một vài lạy của ngươi không đem dùng làm thức nhắm rượu được, thì bá bá cần chi?

Bây giờ, nghe bá bá hỏi ngươi đây? Công phu tập luyện của ngươi như thế nào?

Bá bá có thể thay cố nhân, chỉ điểm ngươi một vài cách múa may chứ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân mỉm cười:

- Về kiếm pháp, hắn thừa gây khó khăn cho Đạn Kiếm đó, kể ra cũng khá lắm chứ! Đà Ông muốn chỉ điểm cho hắn ...

Lão nhân gù cười lớn:

- Con trai của Vạn Tân Nguyệt đương nhiên phải khá mới được chứ! Lão phu giao tình với Tân Nguyệt rất thân, mà lão phu chẳng có truyền nhân, cái công phu của lão phu rồi chẳng lẽ bỏ theo mây gió? Nói thật với phu nhân, hắn rất hạp nhãn lão phu lắm đó! Chứ còn cái đứa con trai kia của phu nhân, lão phu không làm sao thích nổi, có cố gắng lắm là không ghét thôi, mỗi lần nhìn là mỗi lần lão phu cảm thấy xốn mắt!

Nguyệt Hoa Phu Nhân biến đổi thần sắc.

Lão nhân gù vội tiếp:

- Nói thế chứ, con cũng đồng con, chỉ có người ngoài mới thấy khác, chỉ có người ngoài mới chọn lựa, chứ còn mẹ thì nên xem tất cả như nhau ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài:

- Già biết, Đà Ông còn hận Lưu Dật Phu!

Lão nhân gù cười nửa miệng:

- Lão phu hận, nên không thể nào nói tốt cho cái người mình hận được!

Hẳn phu nhân cũng biết, đó là một sự thông thường!

Nguyệt Hoa Phu Nhân u buồn ra mặt:

- Hận làm chi đến người chết, thế nhân bảo rằng chết là hết. Đà Ông nên quên đi cho người chết!

Lão nhân gù cười gằn:

- Bảo Bạch Thiết Hận này quên cho lão ta? Cũng được đi, lão phu quên cho người chết, nhưng còn người sống? Còn con của lão ta kia chi? Con trai lão giống lão như cùng đúc một khuôn, giống thể xác, giống tâm hồn ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân đưa tay chỉ Quan Sơn Nguyệt:

- Thôi thì Đà Ông cứ rèn luyện cho hắn, về kiếm pháp thì Đà Ông khỏi phải bận tâm, nếu Đà Ông sẵn sàng, thì giúp cho hắn có khí lực dồi dào hơn, hắn học được «Quan Sơn Quyền Pháp» rồi, là thừa sức đối phó với mọi bất trắc trên đời.

Bạch Thiết Hận cười lớn:

- Lại phải cần đến phu nhân nhắc nhở à? Lão phu có những môn công dằn túi, cái túi công phu ấy mà! Lão phu sẽ tặng hắn trọn chiếc túi đó, nhất định không dành lại một món gì, lão phu không để hắn kém Lưu Ảo Phu!

Nguyệt Hoa Phu Nhân không nói gì. Bà suy nghĩ một lúc, bỗng thốt:

- Đà Ông, còn một việc nữa, đáng lẽ Đà Ông cho già biết luôn, việc đó cũng có liên quan đến hắn.

Bạch Thiết Hận giật mình, lắc đầu:

- Không! Không còn gì nữa cả!

Nguyệt Hoa Phu Nhân «hừ» một tiếng:

- Nói nhảm! Lúc đó, Đà Ông chưa biết hắn là con của Vạn Tân Nguyệt, cho nên Đà Ông bảo hắn lưu lại, điều đó chứng tỏ ...

Bạch Thiết Hận suy nghĩ một chút, đoạn thừa nhận:

- Ạ! Có! Và sự tình liên quan đến việc thứ hai, do phu nhân nhờ lão phu truy cứu hộ!

Nguyệt Hoa Phu Nhân biến sắc, hỏi gấp:

- Đà Ông nói sao? Đà Ông đã biết người đó hạ lạc ở đâu?

Bạch Thiết Hận gật đầu:

- Phải! Việc đó thì, thực sự lão phu không quan tâm, song vì phu nhân có điểm nghi ngờ về Vạn Tân Nguyệt, thành thử lão phu phải lưu ý đến, để chứng minh sự vô cô của vị cố hữu. Tân Nguyệt đã chết hơn hai mươi năm, điều hiềm nghi quanh lão ta tự nó hóa tiêu theo thời gian, thì lão phu không cần can dự vào nữa!

Nguyệt Hoa Phu Nhân cau mày:

- Không lẽ Đà Ông không tiếp trợ được già?

Bạch Thiết Hận mỉm cười:

- Nào phải là tiếp trợ phu nhân? Mà chính là tiếp trợ Lưu Dật Phu đấy!

Tiếp trợ Lưu Dật Phu, phải khác hơn tiếp trợ phu nhân chứ? Huống chi, sự tình có liên quan đến tiểu tử đó, lão phu không thích nói gì nhiều hơn. Phu nhân tưởng là con trai của Tân Nguyệt sẵn sàng tiếp trợ Lưu Dật Phu à?

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm gương mặt, nín lặng một lúc lâu.

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

- Mẫu thân và Bạch bá bá đề cập đến việc gì thế?

Bạch Thiết Hận vội đáp:

- Chẳng có gì cả, lão bá khuyên tiểu tử đừng tìm hiểu, phải nhớ là phụ thân ngươi ngậm hận mà về lòng đất lạnh, dù ngươi không có ý báo cừu, thì ít nhất ngươi cũng không nên gây nguy hại gì cho người thay thế phụ thân ngươi báo cừu.

Người ta đã làm cái việc đáng lẽ ngươi phải làm, làm cho phụ thân ngươi, thì ngươi nên để yên cho người ta, đừng chen vào, phá hoại!

Quan Sơn Nguyệt ngơ ngác:

- Mà việc gì chứ? Tiểu điệt chẳng hiểu làm sao cả, Bạch bá bá!

Nguyệt Hoa Phu Nhân trừng mắt nhìn Bạch Thiết Hận, dùng ánh mắt ngăn chặn lão, rồi bà thốt:

- Con nghe mẹ đây, Đà Ông đem việc xưa nói lại cho con biết rõ rồi, thiết tưởng mẹ không cần giải thích thêm, con cũng hiểu. Vạn Tân Nguyệt là phụ thân của con, Lưu Dật Phu là người chồng trước của mẹ ...

Bà trầm giọng hơn, hỏi luôn:

- Theo ý của con, con có hận Lưu Dật Phu chăng?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút rồi đáp:

- Con nghĩ chẳng nên hận, mẫu thân ạ! Bởi, ở vào địa vị của vị lão nhân đó, ai ai cũng phải hành động như vậy!

Bạch Thiết Hận kêu lên:

- Vô lý! Tiểu tử nói nhảm không nghe được! Lão phu nào đã nói hết cho ngươi nghe đâu? Năm xưa, phụ thân ngươi mang niềm uất tức mà ly khai Đại Ba Sơn, hơn nữa, lão ta thọ thương. Thương thế đó, do thanh kiếm nơi tay Lưu Dật Phu gây ra! Lưu Dật Phu đánh đuổi phụ thân ngươi chạy đi, lại còn lưu vết thương làm kỷ niệm! Cho ngươi biết rõ như vậy!

Đến lượt Quan Sơn Nguyệt biến sắc mặt.

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhìn sang Chữ Trà, cười lạnh:

- Có phải tại ngươi ngứa miệng chăng?

Chữ Trà kinh hãi:

- Chính ... Bạch lão gia ... bức tỳ nữ nói:

Nguyệt Hoa Phu Nhân vẫn cười lạnh:

- Ngươi nên nói cho rõ ràng hơn mới phải.

Hai lần cười lạnh, chứng tỏ bà hận, nhưng hận trầm, không thể phát tác, bởi bà phát tác với ai? Chung quanh bà nếu không là người thân tín, thì cũng là người ơn!

Chữ Trà hấp tấp thốt:

- Tỳ nữ đâu có thì giờ để nói cho đầy đủ lúc đó! Đang nói dở chừng thì phu nhân đến, mà Bạch lão gia cũng chẳng hỏi gì thêm!

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm giọng:

- Thế thì giờ đây, có mặt công tử, ngươi nên nói tiếp, cho sự tình được rõ ràng hơn ...

Chữ Trà suy nghĩ một chút rồi nói:

- Năm xưa, trong lúc giao đấu, Vạn lão gia nhờ có kiếm pháp cao minh hơn, nên bức bách Lưu lão gia luôn luôn thoái hậu. Sau lại, phu nhân xuất hiện, đứng giữa, ngăn chặn cả hai, Vạn lão gia sợ kiếm chạm trúng phu nhân, hấp tấp thu kiếm về, ngờ đâu Lưu lão gia nhân dịp đó, đâm qua một nhát kiếm, trúng đầu vai của Vạn lão gia. Vạn lão gia không nói một lời nào, quăng luôn kiếm rồi hoành thân đoạt công tử trong tay tỳ nữ, chạy đi.

Bạch Thiết Hận cười lạnh.

Nguyệt Hoa Phu Nhân hướng qua Quan Sơn Nguyệt, hỏi:

- Con có tin lời nàng chăng?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu.

Bạch Thiết Hận nổi giận:

- Vạn Tân Nguyệt tức uất, mang vết thương mà đi, vết thương nơi vai không quan trọng bằng vết thương nơi lòng, lão ta chạy, chạy mãi trên đường dài ngàn dặm, máu từ vết thương chảy ngày, chảy đêm, chảy đến khô cạn máu trong người! Chạy như vậy, máu chảy như vậy, làm sao lão ta không chết? Thêm vào đó, vết thương lòng càng lúc càng xoáy đau! Thế có phải là lão ta bị bức tử chăng? Không bị bức tử thì là gì chứ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân buột miệng thở dài:

- Trừ ra Tân Nguyệt từ lòng đất chui lên, cáo tố với các vị, thì vĩnh viễn các vị không hiểu nổi nguyên nhân chân chánh của cái chết mà y tiếp nhận!

Bạch Thiết Hận trố mắt:

- Chẳng lẽ cái chết của lão ta có một nguyên nhân khác?

Nguyệt Hoa Phu Nhân lại thở dài:

- Đúng vậy! Y chết, là do thương tâm, nhưng một thứ thương tâm khác với dự đoán của các vị. Y thương tâm vì sự thất bại! Đà Ông hẳn cũng hiểu tánh khí của y chứ, khi nào y chịu nổi một sự khuất nhục?

Bạch Thiết Hận thốt:

- Tự nhiên là lão ta không chịu nổi khuất nhục rồi, cho nên lão phải chết!

Giả như phu nhân quy cái nguyên nhân chết của lão vào sự thất bại, thì chính phu nhân gây nên sự thất bại cho lão ấy, phu nhân làm cho lão thất bại trên địa hạt cảm tình!

Nguyệt Hoa Phu Nhân lắc đầu:

- Không! Không phải vậy đâu, Đà Ông lầm rồi! Trên địa hạt cảm tình, y là người chiến thắng, nếu y thất bại là thất bại về kiếm pháp mà thôi. Giờ đây già dám nói mà không sợ thẹn, là năm xưa, già mong Vạn Tân Nguyệt đánh bại Lưu Dật Phu, giết luôn Lưu Dật Phu ...

Bạch Thiết Hận kêu lên:

- Thế tại sao phu nhân tham gia cuộc đấu?

Nguyệt Hoa Phu Nhân đáp:

- Chỉ vì già muốn cứu Tân Nguyệt!

Bạch Thiết Hận giật mình.

Quan Sơn Nguyệt cũng giật mình.

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài tiếp:

- Đà Ông và con, hẳn không tin lời nói đó. Sự thực thì, lúc đó già không xuất đầu lộ diện, thì Vạn Tân Nguyệt đã thành cái xác không hồn, nằm trong vũng máu rồi. Bởi lúc đó, Lưu Dật Phu dùng một chiêu kiếm rất lợi hại, công thì mạnh, mà có thủ, chiếm phần thắng dễ dàng, đó là một chiêu chuyển bại thành thắng. Già xuất hiện bắt buộc Lưu Dật Phu lệch mũi, tránh già, nhờ thế mà thay vì bị trúng chỗ nhược, Vạn Tân Nguyệt chỉ bị điểm nơi đầu vai thôi.

Bạch Thiết Hận không tin, thốt:

- Với kiếm pháp, làm gì có việc Vạn Tân Nguyệt kém Lưu Dật Phu? Chính điểm đó không làm cho lão phu tin được thiện chí của phu nhân! Biết Vạn Tân Nguyệt còn ai hơn lão phu? Là bằng hữu với nhau, lão phu biết tài nghệ của y rõ ràng hơn. Phu nhân thì bất quá là biết y về mặt cảm tình, không hơn không kém!

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười khổ:

- Đà Ông nói cũng có lý, song đã là vợ chồng, thì ít nhất già cũng phải hiểu phần nào tài năng của chồng chứ! Kiếm pháp của Vạn Tân Nguyệt, nhẹ và nhanh, bởi nhanh, nên thắng địch dễ dàng và vì nhẹ nên dù có thắng cũng chẳng làm hại địch quan trọng. Đó là nhược điểm kiếm pháp của Tân Nguyệt.

Bạch Thiết Hận gật đầu:

- Nhận xét rất đúng! Vạn Tân Nguyệt thường nói, kiếm pháp của y khác hơn người thường, y hướng cái mục đích dụng kiếm về con đường nhân đạo hơn là dùng kiếm làm một phương tiện thực hiện một tham vọng.

Nguyệt Hoa Phu Nhân mơ màng:

- Bởi cảm mến cái khí chất thanh nhã của y, già bỏ chồng, quyết theo y đến tận vùng xa, để sớm hôm kề cận y, nhưng nghĩ lại, y đã nghĩ sai phần nào, bởi lòng nhân không bảo vệ được sanh mạng con người, mang lòng nhân mà dấn thân vào kiếp sống giang hồ, nơi trùng trùng cạm bẫy, có khác nào tìm đường tự tử? Trước thép kiếm của địch, lòng nhân sẽ làm được gì? Kiếm pháp của Vạn Tân Nguyệt từ nhân đạo mà ra, trái lại kiếm pháp của Lưu Dật Phu tàn độc không tưởng nổi, như thế bảo sao Tân Nguyệt không bại?

Bạch Thiết Hận nín lặng.

Nguyệt Hoa Phu Nhân lại nói tiếp:

- Cho nên, khi cuộc giao đấu bắt đầu, Vạn Tân Nguyệt biết ngay là phải bại.

Lúc chạy đi y bỏ kiếm lại tại cục trường, phàm một kiếm khách bỏ kiếm như vậy, là hiển nhiên kiếm khách có biểu hiện cái ý vĩnh viễn không hề cầm đến kiếm nữa.

Quan Sơn Nguyệt không đồng ý về quyết định đó của Vạn Tân Nguyệt, dù cho là một dự đoán của Nguyệt Hoa Phu Nhân. Chàng thốt:

- Về vũ công, thất bại là sự thường, bởi người cao vẫn có kẻ cao hơn. Một lần thất bại có nghĩa gì đâu? Thất bại lần này thì tìm dịp khác mà chuộc bại.

Phàm bậc anh hùng lấy cứu cánh làm tiêu chuẩn, há đặt tiến thủ trong phạm vi thành bại hay sao?

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười khổ:

- Phụ thân con đã có cái thành kiến đó mất rồi, muốn hành động như con vừa nói, thì phụ thân con phải bỏ tất cả, bắt đầu học tập trở lại điểm ban sơ.

Nhưng phụ thân con lúc đó đâu chịu nghĩ như con! Bởi cái tâm thanh khiết, nên đem lòng nhân vào kiếm đạo, phụ thân con đã đi lầm đường, cứ cho rằng cầm kiếm mà dạy người, chứ không hiểu là cầm kiếm lên là kêu gọi địch giết gấp. Học làm chi cái thứ kiếm pháp giết đời? Trước khi cảm hóa được ai thì mình đã ra ma rồi!

Bạch Thiết Hận thở dài:

- Dù sao thì lúc đó, phu nhân không ra mặt là phải hơn! Thà cứ để cho Vạn Tân Nguyệt bị Lưu Dật Phu giết chết như thế mà hay cho y, vì ít nhất y cũng khỏi phải đau đớn cả tâm hồn lẩn thể xác trong một thời gian sau đó ...

Bây giờ Bạch Thiết Hận đã tin lời nói của Nguyệt Hoa Phu Nhân rồi.

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhếch nụ cười thảm:

- Phải! Đáng lẽ già không nên ra mặt. Cho nên y hận già, hận vì già can thiệp cứu y, y thà chịu chết dưới lưỡi kiếm địch hơn là bị mang tiếng có già cứu, con người của y, thà chịu cứng mà chết chứ không mềm mà sống. Huống chi bảo y van xin sự sống thì khi nào y lại chịu?

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

- Con không thấy có điểm nào chứng tỏ phụ thân con van xin sự sống!

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài:

- Phụ thân con tuy không van xin nhưng đối phương đã dung tha cho, như vậy cũng đủ rồi, còn mong phụ thân con mở miệng nữa sao? Đáng lẽ phụ thân con phải chết vì nhát kiếm của Lưu Dật Phu, song vì có mẹ can thiệp, Lưu Dật Phu bắt buộc phải lệch mũi kiếm, tránh chém trúng người của mẹ. Mẹ đã gián tiếp van cầu Lưu Dật Phu, cho nên Vạn Tân Nguyệt mới mang thương thế mà bỏ đi!

Bà thở dài luôn một tiếng nữa, rồi tiếp:

- Mang niềm hận đó mà đi, thì làm sao sống lâu với niềm hận? Cho nên, khi biết là phụ thân con chết, mẹ không xúc động mạnh, chẳng qua mẹ hiểu như thế nào rồi cha con cũng chết với niềm hận đó ...

Một lúc lâu sau, Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:

- Lưu Dật Phu có truyền nhân chăng?

Bạch Thiết Hận đáp nhanh:

- Có chứ, truyền nhân của lão ta, chính là con trai lão, tên Lưu Ảo Phu.

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhìn lão, như trách móc:

- Có lẽ Đà Ông muốn cho anh em chúng nó đánh nhau một lần?

Bạch Thiết Hận chỉ cười, không đáp.

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

- Điều đó thì khó tránh rồi vậy, mẹ ạ! Bất quá ... mẹ yên trí, chỉ cần con không bại thì thôi, máu sẽ không đổ trong cuộc chiến đâu mà mẹ sợ. Tuy con không học kiếm đạo nhân nghĩa của phụ thân, nhưng kiếm pháp của con cũng vẫn có tinh thần nhân nghĩa như thường.

Bạch Thiết Hận kêu lên:

- Phải! Có như thế mới xứng đáng là giọt máu của Vạn Tân Nguyệt.

Lão lại nói với Nguyệt Hoa Phu Nhân:

- Thử hỏi cái con chó con của phu nhân có được khí độ đó hay không chứ?

Lão lại day qua Quan Sơn Nguyệt, tiếp luôn:

- Hiền điệt làm cho bá bá khoan khoái vô cùng! Như vậy mới phải chứ, nên luôn luôn làm cho bá bá mở mày mở mặt, hiền điệt nhé!

Nào phải chỉ mỗi một mình lão ta cao hứng mà thôi, đến bọn thị giả Cầm Khiêu, Thị Thơ, Tư Kỳ, Đạn Kiếm đều thích thú như lão ta.

Còn Chữ Trà thì cảm kích đến rơi lệ.

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài, nhìn quanh mọi người một vòng, nhẹ giọng thốt:

- Con đến đây, chưa tròn một ngày, mà chừng như Quảng Hàn Cung đã thuộc về con rồi đó! Con xem kìa, ai ai cũng hướng vọng tâm tư về con ...

Bạch Thiết Hận cười hì hì:

- Đương nhiên rồi! Quản Hàn Cung phải thuộc về hắn! Sự nghiệp nầy, do Vạn Tân Nguyệt dựng nên, thì hắn thừa hưởng là hợp lý lắm chứ!

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm buồn gương mặt, lâu lắm, bà thở ra, nhìn Quan Sơn Nguyệt nói:

- Tiểu đệ của con, có thể nó kém con, điều đó cũng chẳng lạ gì, bởi nó còn nhỏ tuổi quá, cho nên mẹ mong con chiếu cố nó ...

Quan Sơn Nguyệt khích động, niềm khích động phát sanh, không phải vì xúc cảm, mà là vì bất mãn, chàng gằn từng tiếng:

- Mẹ! Con chẳng có tiểu đệ!

Nguyệt Hoa Phu Nhân sa sầm gương mặt. Bà im lặng một lúc rất lâu, sau cùng mới thốt với giọng buông trôi:

- Cũng được! Chúng ta tạm thời hãy đặt vấn đề đó qua một bên, chỉ nói đến điều cần nói bây giờ thôi. Điều cần nói, là con cho mẹ biết cái người đó là ai.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

- Người đó? Ai chứ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân lạnh lùng:

- Cái người đã giết Lưu Dật Phu!

Quan Sơn Nguyệt biến sắc! Nguyệt Hoa Phu Nhân tiếp luôn:

- Phải, người đã giết chết Lưu Dật Phu năm xưa. Bởi Lưu Dật Phu chết vì bị người hãm hại, sự việc đó đã xảy ra cách đây hai mươi năm, mẹ và Lưu Dật Phu đang du ngoạn bên bờ sông, bỗng một người bao mặt xuất hiện, người đó có kiếm pháp cực kỳ lợi hại, y và Lưu Dật Phu giao chiến ngay, đến chiêu thứ bảy thì Lưu Dật Phu bị y chặt đứt cánh tay tả, trở về núi thì Lưu Dật Phu chết luôn. Mai táng Lưu Dật Phu rồi, mẹ có dọ hỏi khắp nơi, tìm tung tích của người bao mặt đó, nhưng suốt một thời gian dài, mẹ không thu hoạch được một kết quả nào, chẳng ai biết con người đó cả. Con đừng lấy làm lạ sao mẹ tìm tung tích một người mà mẹ không biết mặt, vì lúc đó y bao mặt. Mẹ không hỏi về người, mẹ chỉ hỏi về kiếm pháp thôi. Tìm lai lịch một người trong võ lâm ai ai cũng bắt đầu từ vũ công mà dọ thám, bởi vũ công cũng nói lên xuất xứ của một người.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

- Mẹ hỏi về một người mà con không biết, thì làm sao con nói được?

Bạch Thiết Hận mỉm cười:

- Tuy vậy, hiền điệt vẫn biết được như thường. Bởi vì hiền điệt từng đối kháng kiếm pháp của người đó, loại kiếm pháp mà ngươi đã gặp một lần trên Vu Sơn, và một lần nữa, tại đây, trong khi so tài với Đạn Kiếm.

Lão lại tiếp luôn:

- Trong cả hai lần, ngươi đều thắng!

Nguyệt Hoa Phu Nhân gấp giọng, nối lời:

- Kiếm pháp đó, mẹ nhìn y thi triển, còn nhớ được mấy chiêu, về núi rồi, mẹ bảo Đạn Kiếm tập luyện.

Bà nhìn chàng, hỏi:

- Thế cái người sử dụng kiếm pháp đó trên Vu Sơn là ai?

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 39

Cốt Nhục Khó Thân

Nguyệt Hoa Phu Nhân đề cập đến «Tu La Thất Thức», Quan Sơn Nguyệt hết sức lạ lùng. Chàng tự hỏi:

"Làm thế nào Bạch Thiết Hận lại biết được sự tình diễn tiến trên đỉnh Thần Nữ Phong?" Miên man với niềm tâm tư, chàng không đáp câu hỏi của phu nhân.

Phu nhân thất vọng, tiếp:

- Con! Có thể là con không muốn nói! Con không nói, là cái quyền của con, mẹ không trách ...

Quan Sơn Nguyệt vội thốt:

- Không phải đâu, mẹ! Chẳng phải con không muốn nói, bởi thực sự thì làm sao con biết rõ ai đã giết Lưu Dật Phu? Theo con hiểu thì trên thế gian nầy, người am tường kiếm pháp đó rất ít.

Nguyệt Hoa Phu Nhân trố mắt:

- Họ là những ai?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

- Những người biết kiếm pháp đó, hầu như quy tụ lại một nơi. Và họ lập thành một tổ chức, lấy tên là Long Hoa Hội, hội đó có ba hạng người:

Tiên, Ma và Quỷ. Người trong hội đều biết kiếm pháp đó.

Nguyệt Hoa Phu Nhân càng kinh dị hơn:

- Long Hoa Hội? Tiên, Ma, Quỷ? Con nói cái gì thế?

Quan Sơn Nguyệt nhận ra, nếu giải thích rõ ràng, thì phải mất một thời gian dài.

Chàng suy nghĩ một chút, rồi nói:

- Mẹ không cần phải tìm hiểu, bởi sự tình dài dòng lắm, khi nào rỗi rảnh, con trình bày cho mẹ rõ. Hiện giờ, mẹ hãy tả hình dáng của người bao mặt đó, con sẽ suy đoán xem y là ai, rất có thể là một trong các hội viên của Long Hoa Hội, và như vậy thì con nhận thức được liền.

Nguyệt Hoa Phu Nhân hồi ức việc xa xưa, đoạn nói:

- Người đó tác không cao lắm, giọng nói hơi ồ ề, mẹ nghe rồi không đoán được là nam hay nữ, song bằng vào cử động của người đó, thì mẹ nghĩ là một nữ nhân.

Quan Sơn Nguyệt giật mình. Người trong Long Hoa Hội rất ít nữ nhân, mà chẳng phải tất cả nữ nhân trong hội am tường «Tu La Kiếm Pháp». Huống chi, luận về niên kỷ, thì lại càng ít người có thể hoạt động trong thời gian hai mươi năm về trước.

Về tuổi, Lâm Hương Đình cao hơn tất cả các nữ nhân kia, mà lúc đó bà lại chưa tiếp nhận chức hội trưởng. Lý Trại Hồng thì không hề luyện tập kiếm pháp đó. Liễu Y Ảo lúc ấy chỉ là một cô bé con. Chỉ còn lại một Tây Môn Vô Diệm, mà bà nầy cũng chẳng đáng được nghi ngờ cho lắm. Thế thì, là ai?

Thấy chàng trầm ngâm mãi, Nguyệt Hoa Phu Nhân hỏi giục:

- Con đã đoán được là ai chưa?

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

- Khó quyết định lắm, mẹ! Con có biết mấy nữ nhân, song nghĩ ra thì họ chẳng đáng cho chúng ta chú ý ...

Bạch Thiết Hận gật đầu:

- Đúng vậy! Những nữ nhân đó, đành là có vũ công khá, song tất cả chưa phải là địch thủ của Lưu Dật Phu.

Quan Sơn Nguyệt kinh hãi:

- Bá bá nhận thức họ?

Bạch Thiết Hận mỉm cười:

- Làm sao lão phu nhận thức được họ?

Quan Sơn Nguyệt hoang mang:

- Tại sao bá bá biết được tiểu điệt đã làm gì tại Vu Sơn?

Bạch Thiết Hận cười hì hì:

- Lão phu nghe nói lại thôi! Cái người nói với lão phu đó là một bằng hữu của lão phu, người ấy biết rất rõ về ngươi, lúc lão phu hỏi y về việc của phu nhân và Lưu Dật Phu, thì y có đề cập đến ngươi, y cho biết là chỉ có ngươi mới hiểu rõ sự tình. Tự nhiên, lão phu đâu biết ngươi là ai, bất quá, lúc lên đây, lão phu trông thấy con Bạch Đà ...

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

- Người bằng hữu đó là ai?

Bạch Thiết Hận đáp:

- Cho ngươi biết, người bằng hữu đó là một lão hòa thượng.

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

- Khổ Hải Từ Hàng!

Bạch Thiết Hận lại cười:

- Cái lão trọc đó dám làm những trò quỷ lắm! Với đức tách của lão ta, làm sao lão dám xưng một danh hiệu như thế chứ!

Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc:

- Cái lão hòa thượng đó kỳ quái thật, chừng như bất cứ việc gì cũng có lão ta dự phần! Thực sự thì, con người của lão như thế nào?

Bạch Thiết Hận mỉm cười:

- Lão phu không hiểu rõ lắm, vì một cuộc đánh nhau với lão trọc, mà song phương trở thành bằng hữu của nhau. Một hôm, trên đường vân du, lão trọc đến Đại Thanh Sơn là vùng lão phu cư trú, định trộm nước trong Tái Sanh Linh Tuyền của lão phu, lão phu bắt gặp, cuộc chiến diễn ra liền, lão phu dùng «Khai Sơn Huyền Công», lão trọc dùng «Đại Lực Kim Cương Chưởng Pháp», lão trọc kém thế, bị lão phu đánh trúng gây thương thế nơi nội phủ, sau đó lão phu nhận thấy con người của hòa thượng cũng chẳng đến đổi nào nên chữa trị cho lão. Lão cảm cái ơn của ta, bằng lòng kết giao, lão gọi ta là lão gù, ta gọi lão là lão trọc ...

Lão nói mãi, toàn là những việc ngoài đề, Nguyệt Hoa Phu Nhân nóng nảy vội chận:

- Đà Ông không nói đến việc của già ...

Bạch Thiết Hận cười hì hì:

- Lão phu chỉ có biết bao nhiêu đó thôi, còn thì phu nhân cứ hỏi tiểu tử!

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

- Con ... con cũng chẳng biết được chi nhiều, bất quá, con có quen mấy nữ nhân, đành là họ cũng có tập luyện qua kiếm pháp đó, song con dám chắc là họ không thủ thắng nổi trước Lưu Dật Phu.

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm tư một phút, bổng thốt:

- Người bao mặt đó, chẳng những công lực rất cao thâm, mà tuổi lại rất lớn, vóc ốm cao gầy như que củi, làn da đen ...

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

- Con biết rồi! Đúng là bà ta!

Nguyệt Hoa Phu Nhân hấp tấp hỏi:

- Ai, con? Ai?

Biết đã lỡ kêu lên rồi, Quan Sơn Nguyệt cảm thấy khó khăn vô cùng. Chàng liên tưởng đến Ôn Kiều, căn cứ vào sự mô tả của Nguyệt Hoa Phu Nhân, thì đúng là Ôn Kiều rồi, chẳng còn nghi ngờ chi nữa. Nhưng làm gì có việc Ôn Kiều sát hại Lưu Dật Phu chứ? Bà đã ẩn cư từ nhiều năm qua, hầu như bà tịnh tu, thì khi nào bà rời nơi ẩn cư, tìm người mà sát hại?

Nguyệt Hoa Phu Nhân giục:

- Ai thế, con? Con nói cho mẹ nghe đi!

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ giây lâu, đoạn đáp:

- Con nhớ đến một vị tiền bối, nhưng bà ấy từ lâu rồi xa lánh hồng trần, không thể là bà ấy gây thù kết oán với bất cứ ai ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân khoát tay:

- Không cần biết là chính bà ta hay không phải là bà ta gây ra cuộc sát hại đó, con cứ chỉ chỗ ở của bà, mẹ sẽ tìm đến nơi gặp bà, mẹ có cách dọ xét xem có đúng bà ta là người bao mặt năm xưa hay không.

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

- Mẹ! Thứ cho con ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân trừng mắt:

- Sao? Không lẽ con giấu mẹ?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

- Không! Nào con có muốn giấu mẹ đâu? Chỉ vì, con thọ ơn trọng của bà ấy, con đã hứa với bà ta chẳng khi nào tiết lộ hành tung của bà với bất cứ ai, hơn nữa, chỗ ở của bà, chính con cũng chẳng hiểu đích xác thuộc địa phương nào, thì làm sao con nói được với mẹ? Giả như bây giờ, con muốn tìm lại bà, con cũng chẳng biết phải làm sao nữa đó mẹ!

Nguyệt Hoa Phu Nhân biến sắc, một lúc lâu, bà thở dài, thốt:

- Thật tình, mẹ không biết tâm ý chân chánh của con như thế nào, mẹ nghĩ là mẹ không có quyền bức bách con phải tiết lộ những gì con không thể tiết lộ.

Nhưng, cần gì, con! Miễn là mẹ biết được có người đó, trước sau gì mẹ cũng tìm ra!

Quan Sơn Nguyệt nói:

- Đừng mẹ! Bởi con đã hứa với bà, thì con không thể giúp mẹ tìm bà, tuy nhiên, con sẽ giúp mẹ truy nguyên việc đó. Con sẽ tự mình điều tra, mẹ khỏi phải động thân, bởi mẹ không lam sao tìm gặp bà ấy được đâu.

Nguyệt Hoa Phu Nhân hỏi:

- Con có biện pháp gì?

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút, nói:

- Thì còn cách nào bây giờ, hở mẹ? Con sẽ hồi ức lại, trong trường hợp nào, con gặp bà, con sẽ phăng lần, dọ dẫm, xem bà ở đâu, tìm đến, hỏi ngay nơi bà.

Nguyệt Hoa Phu Nhân lại hỏi:

- Giả như bà ấy xác nhận?

Quan Sơn Nguyệt chính sắc mặt:

- Con sẽ mời bà ấy xuất hiện, đối thoại với mẹ, rồi tùy mẹ, tùy mẹ có thái độ với bà ấy.

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhìn thẳng vào chàng:

- Nếu song phương động thủ, con sẽ đứng về phía nào?

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

- Con sẽ chẳng tiếp trợ bên nào cả!

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm giọng:

- Nếu mẹ thất thế? Con điềm nhiên nhìn mẹ bị người đánh bại?

Quan Sơn Nguyệt lộ vẻ khổ sở:

- Phải vậy rồi, mẹ! Bởi, mẹ vì chồng mà báo cừu, điều đó thì chỉ liên quan đến mỗi một mình mẹ mà thôi!

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài:

- Đủ lắm rồi, mẹ không thể đòi hỏi ở con nhiều hơn!

Quan Sơn Nguyệt nói:

- Mẹ còn sống, con không tiếp trợ mẹ, bởi con không có bổn phận báo thù cho một người hoàn toàn xa lạ đối với con, song nếu mẹ chết đi, thì con sẽ báo thù cho mẹ, vì con có lý do chánh đáng để hành động.

Bạch Thiết Hận vổ bàn kêu bốp một tiếng, hét lên:

- Hay! Ân oán phân minh! Như vậy ngươi mới đáng mặt trượng phu! Lão đệ của ta nơi suối vàng, hẳn phải hài lòng về ngươi lắm đó!

Nghe Bạch Thiết Hận nhắc đến cha, một người cha mà chẳng bao giờ chàng biết mặt, lòng chàng nao nao, song thực sự chàng chẳng hiểu cái tư vị nao nao đó như thế nào.

Trong cảnh sanh ly, cha mẹ tìm con, con tìm cha mẹ, còn có thể gặp nhau, dù con không biết mặt cha, gặp nhau rồi cũng biết.

Nhưng Quan Sơn Nguyệt trong cảnh tử biệt, thì mong gì còn gặp lại cha?

Dù chàng có muốn tìm cha nơi suối vàng, không biết mặt cha thì chàng cũng chẳng làm sao tìm được người giữa cõi mênh mang lạnh lùng của hồn ma bóng quỷ? Vĩnh viễn, chàng không biết mặt cha, thì cái ân tình phụ tử không lưu một ấn tượng nào trong lòng chàng. Cho nên, chàng khó thấy cái tư vị nồng đượm thâm trầm của một mối tình thiêng liêng nhất.

Nếu giờ đây, chàng có một phản ứng nào thích hợp, quanh sự tình có liên quan đến tiên phụ chàng thì chẳng qua cái ý thức bừng dậy mà thôi. Từ lâu, chàng chấp nhận sự đơn côi, thì đơn côi vẫn còn ảnh hưởng mãi mãi nơi tâm hồn chàng. Một Nguyệt Hoa Phu Nhân kia, còn sống sờ sờ đó, là mẹ chàng, gặp nhau rồi, chàng cũng chưa có một cảm xúc của trùng phùng, thì nói chi với người chết từ lâu? Chung quy, chàng vẫn thấy mình đơn độc, xa vắng quá, đối với phần còn lại trong nhân loại, trong cái phần đó, có mẹ chàng!

Nhập Hoạch đã mang thức ăn lên, bày biện trên mặt bàn xong, nàng rỉ vào tai Nguyệt Hoa Phu Nhân:

- Công tử sắp đến nơi!

Công tử, là Lưu Ảo Phu, con trai của Lưu Dật Phu, người em cùng mẹ của Quan Sơn Nguyệt!

Bạch Thiết Hận hét to:

- Ai bảo ngươi thông tri cho hắn chứ? Tiểu tử đó đến đây là lão phu lợm giọng ngay, còn ăn uống gì được chứ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân khẽ cau mày:

- Nhập Hoạch! Ngươi thật là lắm chuyện! Thế ngươi không biết là Đà Ông không ưa thích nó sao chứ?

Nhập Hoạch thấp giọng:

- Nào phải tôi thông tri đâu mà phu nhân quở trách? Chính Phi Tràng đấy, tôi ngăn trở thế nào cũng không được.

Bạch Thiết Hận nổi giận:

- Phu nhân lập tức sai người ngăn chặn tiểu súc sanh, nếu không thì lão phu cáo từ ngay.

Nguyệt Hoa Phu Nhân cau mày:

- Đà Ông nên vì Sơn Nguyệt, nán lại một chút!

Bạch Thiết Hận chưa kịp nói gì, từ bên ngoài cửa, có giọng nói vọng vào:

- Mẹ! Lão gù có muốn đi, cứ để cho lão đi!

Câu nói chưa dứt âm vang, một thiếu niên bước vào.

Thiếu niên vận y phục lam, hông đeo trường kiếm, thân tình cực cao ngạo.

Quan Sơn Nguyệt đoán là Lưu Ảo Phu, chàng chú ý đến hắn kỹ hơn, nhận ra tướng mạo hắn cũng thanh tú, có điều vẻ thanh tú đó che dấu một sát khí như chực chờ bốc mạnh bất cứ lúc nào.

Nguyệt Hoa Phu Nhân hét gấp:

- Ảo Phu! Sao ngươi vô lễ với khách như thế?

Lưu Ảo Phu cười lạnh:

- Từ nhiều năm qua tại Quảng Hàn Cung, chẳng hề có hạng khách lỗ mãng như vậy, mẹ không nhận thấy à?

Bạch Thiết Hận quát:

- Tiểu súc sanh! Ngươi định ám chỉ ai chứ?

Lưu Ảo Phu trừng mắt về phía lão:

- Còn ai nữa chứ, lão gù, nếu không là lão?

Bạch Thiết Hận giận quá thở phì phì, hơi thở của lão vừa mạnh vừa gấp, thổi bay lất phất chòm râu bên dưới cằm, mà cũng có lẽ vì thịt giật, da rung, mà râu lung linh như vậy. Lão mắng lớn:

- Tiểu súc sanh, nếu lão phu không nghĩ ngươi là kẻ hậu sanh, thì sớm đã cho ngươi một bài học rồi đó!

Lưu Ảo Phu bật cười hắc hắc:

- Lão gù ơi, đừng sừng sộ, trong Quảng Hàn Cung, không có việc thừa nhận cái thứ tiền bối như lão đâu nhé, cảnh cáo lão đó!

Nguyệt Hoa Phu Nhân không tưởng hắn vô giáo dục đến mức độ đó, vội đập tay xuống bàn vang lên bốp bốp, rồi hét:

- Ảo Phu! Ta có còn là mẹ của ngươi không chứ?

Lưu Ảo Phu vẫn cao ngạo như thường, dù mẹ hắn đã hai lượt chỉnh hắn.

Hắn đảo mắt sang Quan Sơn Nguyệt, hắn bĩu môi, rồi hỏi mẹ:

- Mẹ vừa có đứa con nữa đây mà? Đứa con nầy khá lắm, mẹ có cần gì con nữa đâu? Đáng lẽ con phải hỏi là con có còn là con của mẹ nữa không, mới phải chứ!

Nguyệt Hoa Phu Nhân sững sờ.

Lưu Ảo Phu lạnh lùng tiếp:

- Hắn mới đúng là đứa con yêu quý của mẹ, mẹ có thấy không, hắn khôi ngô, anh tuấn, hắn lại có khí khái hào hiệp, hắn là hình bóng của người tình của mẹ năm xưa, từ nay khi nào mẹ nhớ đến người xưa, cứ nhìn hắn cũng đủ khuây niềm tương tư ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân rung người lên, trong cơn tức uất cực độ, bà không nói được một tiếng nào.

Bạch Thiết Hận đột nhiên bật cười ha hả:

- Phu nhân ơi! Lưu Dật Phu có một đứa con như thế, nghĩ cũng đáng kiêu hãnh đấy chứ.

Lưu Ảo Phu nổi giận:

- Im đi, lão gù! Ta cấm lão nói chạm đến cha ta! Cha ta chết là vì cái tâm tiểu nhân của lão đó, hãy nín lặng cho ta đỡ tức, ta có quên lão, thì ta mới không nói những tiếng vô lễ với lão! Đừng buộc ta vào điều mà ta chưa muốn làm!

Bạch Thiết Hận quát:

- Tiểu súc sanh! Ngươi nói gì? Cha ngươi chết là vì cái tâm tiểu nhân của lão phu?

Lưu Ảo Phu cười lạnh:

- Đừng tưởng là ta chẳng hiểu chi cả! Lầm! Chính ta mới hiểu rõ hơn ai hết, lão gù ơi!

Nguyệt Hoa Phu Nhân vụt đứng lên, đưa tay chỉ thẳng vào mặt Lưu Ảo Phu, rung rung giọng hỏi:

- Ngươi hiểu gì? Hở? Ngươi có nó nhanh đi cho ta biết hay không chứ?

Lưu Ảo Phu lạnh lùng:

- Chuyện, là chuyện của mẹ, chính mẹ không biết, lại chờ con nói cho mẹ nghe à? Mẹ có ý tứ gì chứ? Con nghĩ, chúng ta nên dành lại một chút nào danh dự cho gia đình đó mẹ à! Sao mẹ giục con nói?

Nguyệt Hoa Phu Nhân «hự» lên một tiếng, phun ra một búng máu tươi. Rồi bà rơi xuống ghế trở lại, như một trái cây chín muồi, sút cuống. Nhập Hoạch và Chữ Trà cấp tốc bước tới đỡ bà. Bà vung tay hất cả hai ra ngoài xa, đoạn cao giọng thê thảm thốt:

- Được! Được lắm đó, Ảo Phu! Lúc phụ thân ngươi chết, thì ngươi vừa lên bốn thôi, ta trải qua bao nhiêu gian lao, tân khổ, nuôi dưỡng ngươi đến ngày nay, ngươi đã trưởng thành rồi, lại đáp ơn ta bằng thái độ đó!

Lưu Ảo Phu chỉ cười lạnh, không hề xúc động trước tình trạng của mẹ.

Quan Sơn Nguyệt hết sức bất mãn, chịu không nổi tánh cách của Lưu Ảo Phu, cao giọng hét:

- Ngươi ăn nói thế mà nghe được à? Có quỳ xuống trước mặt mẹ hay không, tên nghịch tử?

Lưu Ảo Phu liếc xéo qua chàng, nhếch môi cười mỉa:

- Đừng to tiếng với ta, tuy ngươi lớn hơn ta một vài tuổi, tuy ngươi và ta đồng một mẹ sanh ra, ta chẳng hề nhìn nhận ngươi là huynh trưởng. Ngươi đừng nuôi mộng, vô ích!

Quan Sơn Nguyệt trừng mặt, quát:

- Ta có thích là huynh trưởng của ngươi đâu?

Lưu Ảo Phu cười ngạo nghễ:

- Thế là tốt! Thế là giữa chúng ta chẳng có một liên hệ nào! Vậy ngươi hãy lấy lại lời nói vừa rồi đi, nghĩa là ngươi không có quyền năng gì bảo ta phải quỳ xuống.

Quan Sơn Nguyệt nổi giận:

- Ta muốn giáo huấn ngươi về đạo lý làm người, ta sẽ chỉ cho ngươi biết cách tôn kính mẫu thân!

Lưu Ảo Phu cười lớn, đưa tay chỉ Nguyệt Hoa Phu Nhân nhấn từng tiếng một:

- Mẫu thân của ngươi mới đúng hơn! Bà ấy có phải là mẹ của ta đâu?

Hắn lại bật cười, tràng cười của hắn vang dội, rồi hắn tiếp:

- Chính ngươi mới là con của bà, vì ngươi là kết quả của một cuộc tình đầm ấm của đôi bạn tâm đồng ý hợp, chính ngươi là kết quả của ái tình nồng nhiệt.

Còn như ta ... ha ha ha! Ta là sản phẩm của sự bội phản, sản phẩm của sự bất đắc dĩ mà bà ta dành cho phụ thân ta! Vì không thể để ta ở trong bụng, bà bắt buộc phải sanh ta, sanh ta rồi, chẳng lẽ bà đem giết, do đó bà bắt buộc phải nuôi dưỡng ta! Ha ha!

Nguyệt Hoa Phu Nhân rú lên một tiếng, hôn mê ngay!

Bạch Thiết Hận cực kỳ phẫn nộ, vổ bàn kêu bốp một tiếng, đứng lên liền.

Lưu Ảo Phu lấy trong mình ra một vuông lụa, bạc màu, hắn quăng nó xuống đất, cao giọng thốt:

- Bạch Đà! Bức huyết thơ của cha ta đó, người viết lên, khi chết, cha ta bí mật giao cho Phi Tràng, gìn giữ đến khi nào ta lớn lên rồi giao lại cho ta. Các ngươi xem đi, xem cho biết những điều tâm sự đau buồn của một người bạc phước, song giữa sự phản bội của thân nhân, các ngươi xem rồi tức khắc hiểu cái thái độ của ta hôm nay! Và, có thể là thái độ nầy sẽ tồn tại mãi mãi cho đến khi nào ta hắt hơi thở cuối cùng!

Quan Sơn Nguyệt sững sờ, bước tới một bước, đưa tay toan nhặt bức lụa, song Lưu Ảo Phu cấp tấp tuốt kiếm loang xuống một đường, chận bàn tay chàng.

Bắt buộc, Quan Sơn Nguyệt phải thu tay về.

Lưu Ảo Phu tiếp luôn:

- Riêng về ngươi, đừng vội xem, trước khi xem phải giải quyết vấn đề chúng ta. Chẳng muộn chi đâu!

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

- Vấn đề gì giữa chúng ta?

Lưu Ảo Phu cười lớn:

- Tuy chúng ta chưa hề gặp nhau lần nào, tuy chúng ta là hai kẻ hoàn toàn xa lạ, song chừng như số mệnh đã an bài cho chúng ta một cuộc tử chiến, không cần gì phải có tình cừu ân oán làm hậu thuẫn, cuộc chiến đó vẫn đã được an bài từ lâu. Cho ngươi biết, ta chờ đợi cuộc chiến nầy ngay từ hôm ta biết trên đời nầy có ngươi, ngay từ hôm ta biết, bà ấy còn có một đứa con riêng!

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

- Không lẽ phụ thân ngươi di ngôn trong mảnh huyết thơ kia, bảo ngươi phải quyết đấu với ta một lần?

Lưu Ảo Phu lắc đầu:

- Làm gì có? Chẳng những phụ thân ta không hề bảo ta cùng ngươi quyết tử chiến, trái lại người còn dặn dò ta phải tìm cho được ngươi, cùng ngươi hóa trừ mối hiềm khích ngày trước, người chúc phó ta phải xem ngươi như đồng bào cốt nhục ...

Quan Sơn Nguyệt vô cùng kinh ngạc, vụt kêu lên một tiếng «ạ», chàng chưa kịp nói gì, Lưu Ảo Phu lộ vẻ đanh ác, tiếp:

- Nhưng giờ đây, gặp ngươi, ta khiêu chiến, điều đó hoàn toàn tùy thuộc lý do cá nhân của ta. Bình sanh, ta nuôi cái chí quyết đấu với hai người, may mắn cho ta là ta khỏi phải tìm đủ hai người, bởi hai người mà ta quyết tử đấu đó, lại tập trung làm một, và người đó, chính là ngươi! Sự việc của ta cầm như được giản dị nửa phần.

Quan Sơn Nguyệt hết sức hoang mang. Nhưng, bản tính quật cường, khi nào chàng chịu kém, kẻ kia ngang nhiên khiêu khích, thì chàng cứ động thủ, sợ gì chứ?

Chàng rút thanh kiếm Bạch Hồng ra khỏi vỏ, cầm sẵn nơi tay, cao giọng thốt:

- Muốn đánh nhau, cứ đánh, hà tất phải là hai người, một người ...

Lưu Ảo Phu «hừ» một tiếng:

- Ta phải nói cho rõ ràng chứ, ngươi không muốn nghe, cũng có người khác muốn nghe!

Hắn giải thích luôn:

- Bình sanh, ta chỉ nhắm vào hai người mà thôi! Hai người đó, một là con trai của Vạn Tân Nguyệt, người con trai được cấu tạo bởi mối tình vụng trộm của mẹ ta, cái lý do rất giản đơn, bởi nhân sự có mặt của người đó trên đời nầy, mà ta mất chỗ tựa nương trong con tim của mẹ ta!

Nguyệt Hoa Phu Nhân đã tỉnh lại rồi, nghe hắn nói thế, vội thét lên:

- Ảo Phu, ngươi hồ đồ mất rồi! Những gì ta dành cho ngươi từ bao nhiêu năm qua, chưa đủ lắm sao?

Lưu Ảo Phu cười lạnh:

- Đối xử tốt, là một việc, dành cho một chỗ nhỏ trong tim, là một việc khác, trong bao nhiêu năm qua, đành là mẹ có lo cho con, song cái lo đó rất tổng quát, người ta có thể đối xử với một dưỡng tử hơn thế nữa, mẹ ạ. Nhưng lòng của mẹ thì luôn luôn hướng về kẻ xa xăm, sở dĩ trong bao nhiêu năm qua, con còn được mẹ lo lắng cho, là vì kẻ xa xăm chưa về với mẹ. Ngày nay, kẻ xa xăm đã đoàn tụ với mẹ rồi, thì cái bóng của con vốn đã mờ, kể từ phút giây nầy, phải tiêu tan mất luôn. Nếu có một cái gì còn miễn cưỡng ràng buộc chúng ta, thì đó là lòng thương hại của mẹ và sự van xin của con. Con chỉ chực chờ những thừa thãi nơi mẹ.

Hắn mỉm cười, nụ cười chua chát làm sao, hắn tiếp:

- Sự thật là thế, có phải vậy chăng, mẹ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân sững sờ.

Lưu Ảo Phu hướng sang Quan Sơn Nguyệt, lạnh lùng tiếp:

- Người thứ hai, ta quyết tìm, mang cái tên Quan Sơn Nguyệt! Sự đời tấu xảo cho ta một cách lạ lùng, là con của Vạn Tân Nguyệt lại mang tên Quan Sơn Nguyệt!

Quan Sơn Nguyệt trố mắt nhìn hắn:

- Ta có làm gì ngươi, mà ngươi phải tìm ta, quyết tử đấu? Chúng ta từ trước chưa hề gặp nhau lần nào kia mà?

Lưu Ảo Phu càng lộ vẻ hung ác, gằn từng tiếng:

- Đành là chỉ mới hôm nay chúng ta chạm mặt nhau, song cái tên của ngươi chẳng phải lạ gì đối với ta, bởi ít nhất mỗi ngày, ta cũng có nghe Trương Thanh nhắc nhở đến tên ngươi năm bảy lượt. Ta có thể mở tung lồng ngực, cắt lấy quả tim trao cho nàng, nàng vẩn lẩm nhẩm cái tên của ngươi mãi, trong con mắt nàng, chỉ có một con người thôi, và con người đó chính là ngươi, là Quan Sơn Nguyệt, là Quan đại ca của nàng! Cho nên, một hôm ta phát trọng thệ, là nếu ta gặp ngươi tại đâu, ta nhất định khiêu chiến, ta quyết tử đấu với ngươi một lần thôi, qua cuộc tử đấu đó, phải có một người còn, một người mất ...

Quan Sơn Nguyệt đã hiểu.

Và Thị Thơ thay tên đổi họ cho chàng, cũng có dụng ý và Cầm Khiêu luôn luôn dặn dò chàng đừng bao giờ tiết lộ lai lịch, cũng có dụng ý. Thì ra, những dụng ý đó do một sự tình phát xuất từ lời thề nặng của Lưu Ảo Phu mà có!

Bất giác, chàng thở dài thốt:

- Lưu Ảo Phu, ta sẽ không từ khước một cuộc đấu với ngươi, nhưng ta có đấu với ngươi thì cuộc đấu đó dựa trên một nguyên nhân nào khác, chứ tuyệt nhiên không vì hai lý do mà ngươi vừa nêu ra. Bởi ...

Chàng nhấn mạnh:

- Ta không tranh giành lòng thương của mẹ, ta không tranh giành tình yêu của một thiếu nữ. Ta có thể chết vì bất cứ một sự việc nào, nhưng ta không liều mạng bởi những lý do mà chỉ bọn tiểu nhân nại ra để hậu thuẫn cho một cuộc tranh chấp!

Lưu Ảo Phu hét lớn:

- Thế ngươi có lý do gì?

Quan Sơn Nguyệt nghiêm sắc mặt:

- Nếu là ngày trước, thì có thể vì ngươi là con của Lưu Dật Phu, còn như hiện tại thì, ta thay mẹ mà giáo huấn ngươi, ta thay mẹ trừng trị một nghịch tử.

Lời nói của chàng rõ rệt một chánh khí, Lưu Ảo Phu nghe ra bất giác phải khiếp hãi.

Nhưng, sự khiếp hãi qua nhanh, hắn trở lại với cái tánh hung tàn, hắn cất cao ngọn kiếm quát:

- Dù cho ngươi dựa vào lý do nào, cuộc chiến giữa chúng ta không thể không diễn ra! Trong hai chúng ta, phải có một chết một sống! Nào cứ vào đi, ta chờ đây!

Hắn không chờ, chính hắn vung kiếm tiến tới.

Quan Sơn Nguyệt khoa kiếm, chận lại, cất giọng sang sảng:

- Ngươi lầm! Nếu trong hai chúng ta, có một chết một sống, thì người chết là ta! Hôm nay, ngươi có thể giết ta, chứ ta thì không hề giết ngươi! Ngày xưa phụ thân ta sử dụng một kiếm pháp lấy nhân đạo làm căn bản, ngày xưa, phụ thân ta đã dung tha cho phụ thân ngươi, thì ngày nay, ta không thể làm khác hơn phụ thân ta! Ta cũng dùng một kiếm pháp nhân đạo, ta cũng dung tha cho ngươi!

Lưu Ảo Phu sôi giận, chém luôn một nhát. Đồng thời, hắn rít lên:

- Câm ngay! Ta rất chán cái thứ giả nhân giả nghĩa! Nếu cha ngươi là người quân tử, thì chẳng bao giờ đi quyến rũ vợ người! Chỉ có hạng lưu manh mới dụ dỗ gái có chồng, ngươi biết chưa?

Lời nói đó phải làm cho Quan Sơn Nguyệt tức uất. Hắn nói chạm chàng, chàng còn tha thứ được, hắn nói chạm đến kẻ khuất mặt, lại là bậc sanh thành, thì khi nào chàng dung tha?

Cuộc chiến bắt đầu khai diễn thực sự.

Kiếm pháp của Lưu Ảo Phu cực kỳ ngụy dị, công lực của hắn cũng mãnh liệt vô cùng, Quan Sơn Nguyệt chống đỡ mấy chiêu đầu, cảm thấy chân khí tiêu hao quan trọng. Chẳng đặng đừng, chàng phải giở đến tuyệt kỹ «Đại La Tứ Thức» ra, đối phó với Lưu Ảo Phu.

Tuy «Đại La Kiếm Pháp» chuyên đối địch với «Tu La Kiếm Pháp», song vẫn có công hiệu như thường đối với bất cứ kiếm pháp nào.

Đưa ra hai chiêu «Càn Khôn Thỉ Định» và «Sơn Nhạc Vĩnh Kỳ», Quan Sơn Nguyệt dồn đối phương trở về thế thủ ngay, và Lưu Ảo Phu cảm thấy đường kiếm mất hẳn sự linh hoạt.

Kế đó, Quan Sơn Nguyệt phát xuất luôn chiêu «Bạch Hồng Quán Nhật».

Kiếm khí tỏa rộng ngoài nửa trượng tròn, bao bọc hẳn Lưu Ảo Phu.

Lưu Ảo Phu kinh hãi, không tưởng là đối phương tài nghệ cao siêu đến mức độ đó. Tự nhiên, hắn không có cách ứng phó kịp thời, và hắn đứng đờ ra đó, như chờ chết.

Nguyệt Hoa Phu Nhân hoảng sợ, thét lên một tiếng lớn.

Nhưng, Quan Sơn Nguyệt đâu có ý gây thương tổn cho Lưu Ảo Phu, nên chiêu thức vừa đưa ra, là chàng thu ngay lại.

Rồi chàng trầm giọng bảo:

- Quăng kiếm đi!

Lưu Ảo Phu cười lạnh, thay vì buông kiếm, hắn lại cử cao lên, từ thanh kiếm, phát xuất một luồng kình lực mãnh liệt vô cùng.

Hắn cử kiếm rất nhanh, trong lúc Quan Sơn Nguyệt dừng tay, thành ra Quan Sơn Nguyệt không làm sao xoay trở kịp, thanh kiếm Bạch Hồng bị bắn vuột khỏi tay chàng, bay đi rất xa.

Liền theo đó, Lưu Ảo Phu hoành kiếm, công tới.

Bắt buộc, chàng phải lùi lại.

Lưu Ảo Phu tiến lên, quát:

- Nằm xuống ngay!

Nhát kiếm của Lưu Ảo Phu đã xuống quá gần.

Quan Sơn Nguyệt nhắm mắt chờ chết.

Đang cơn chàng tất tử vô sanh, một bóng người từ xa lao vút đến, một đạo thanh quang chớp lên, một tiếng xoảng vang theo, thanh kiếm của Lưu Ảo Phu bị ngăn chặn, bật trở về.

Nghe tiếng xoảng, Quan Sơn Nguyệt giật mình, mở mắt ra thấy Đạn Kiếm can thiệp cứu chàng.

Lưu Ảo Phu phẫn nộ cực độ, hét to:

- Đạn Kiếm! Ngươi to gan lắm đấy!

Đạn Kiếm không thốt tiếng nào, cứ vung kiếm tấn công luôn.

Lưu Ảo Phu cười lạnh, hoàng ngang ngọn kiếm, quét một vòng. Ánh kiếm vừa chớp, máu bắn tung tóe, nhát kiếm của hắn chém đứt người Đạn Kiếm làm hai đoạn.

Lưu Ảo Phu hạ sát Đạn Kiếm rồi, chẳng dừng tay, thuận thế chém luôn Quan Sơn Nguyệt.

Một loạt tiếng rú vang lên, Cầm Khiêu, Tư Kỳ, Nhập Hoạch, Thị Thơ đồng thời xuất thủ, quyết cứu Quan Sơn Nguyệt.

Lưu Ảo Phu không hề nao núng, vung kiếm ngăn chặn bốn phía.

Trong khi đó, Nguyệt Hoa Phu Nhân và Bạch Thiết Hận cũng phát động rồi, họ đâu có thể điềm nhiên ngồi chờ một kết cuộc thê thảm?

Cái chết của Đạn Kiếm đã quá đau thương, họ không thể để cho cảnh đó tiếp diễn nữa!

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhanh hơn, bà vừa lướt tới, vừa phất ống tay áo.

Tay áo bay ra, quấn ngọn kiếm của Lưu Ảo Phu, bà khẽ giật, bạt ngọn kiếm lệch ra ngoài.

Bạch Thiết Hận tiếp nối, vung tay đánh ra một quyền, quyền phong đẩy Lưu Ảo Phu thoái hậu hai bước.

Lưu Ảo Phu cười rợn, nghiến răng, trầm giọng:

- Tốt lắm! Tất cả đều chống đối ta!

Nguyệt Hoa Phu Nhân hét lớn:

- Ảo Phu! Ngươi ...

Lưu Ảo Phu chẳng nói gì nữa, quay mình, thoát ra ngoài cửa.

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 40

Những Nỗi Bất Bình

Bạch Thiết Hận lập tức phóng mình lao vút theo ra, vượt qua mặt Lưu Ảo Phu, chận hắn lại, đồng thời vung tay đánh một quyền.

Lão ngăn chặn, chưa chắc gì Lưu Ảo Phu chịu dừng chân thoái hậu, chính tay quyền của lão bắt buộc Lưu Ảo Phu phải lùi lại.

Hắn quắc đôi mắt bắn hàn quang sang Bạch Thiết Hận, lạnh lùng hỏi:

- Lão gù quỷ, ngươi muốn gì?

Bạch Thiết Hận hét:

- Lão phu muốn đánh chết tiểu súc sanh!

Lưu Ảo Phu bĩu môi:

- Phải đấy! Nên nhân dịp hôm nay có đông người, các ngươi ra tay là hợp lúc lắm! Chứ để cho ta sống sót thì hẳn là trong tương lai tất cả sẽ khổ vì ta!

Bạch Thiết Hận thét lớn:

- Câm ngay, tiểu súc sanh! Giết ngươi là việc dễ dàng như lão phu trở một bàn tay, cần gì phải có đông người trợ giúp!

Lưu Ảo Phu bật cười ha hả:

- Lão gù ơi, đừng khoe khoang cực độ, ta nghĩ nếu ngươi quả có thực tài thì ngày trước hẳn không bại liên miên nơi tay phụ thân ta, ta vẫn thừa sức tiếp nhận một cuộc tử chiến với ngươi! Ta có sợ chi ngươi đâu mà hòng dọa nạt?

Niềm phẫn nộ bốc mạnh, đôi mắt đổ lửa, Bạch Thiết Hận không còn nhìn rõ sự vật gì trước mặt, đúng hơn là lão không nhìn vật gì khác ngoài Lưu Ảo Phu, lão cứ nhắm cái duy nhất hiện ra nơi tầm mắt lão mà vung quyền đánh tới tấp. Quyền phong rít vù vù, quyền ảnh chớp chớp, ngàn muôn nắm tay tạo thành một màng lưới bao bọc quanh Lưu Ảo Phu.

Lưu Ảo Phu khi nào chịu kém, lừa thế thoát ra khỏi vòng áp lực của quyền phong, đoạn vung tay phản kích kịch liệt.

Bạch Thiết Hận kinh ngạc, thoái hậu mấy bước, hét to:

- Tiểu súc sanh! Ngươi học ở đâu cái công phu đó chứ?

Lưu Ảo Phu cười lạnh, không đáp, cứ phản kích đều đều. Không đầy một phút, hắn đánh trả hơn mười chiêu. Những chiêu thức của hắn đưa ra, cực kỳ ngụy dị, lại nhanh không tưởng nổi.

Tuy nhiên, Bạch Thiết Hận không ngán gì môn công của Lưu Ảo Phu, bất quá lão kinh ngạc nhận ra ngày nay Lưu Ảo Phu đã tiến bộ lạ lùng vậy thôi, so với trước, hiện tại hắn hầu như hoàn toàn khác biệt, mường tượng là hai người.

Lão thi triển quyền pháp cũng linh động phi thường, giữ thế quân bình, rồi thừa một sơ hở của Lưu Ảo Phu, đánh tới một chiêu độc. Nhưng, cái chiêu đó có hình thức thông thường, gia dĩ Bạch Thiết Hận lại đánh ra rất chậm.

Lưu Ảo Phu bật cười khanh khách:

- Cái chiêu dằn túi áo của ngươi đó phải không? Ngươi mang nó ra dùng, chẳng sợ sạch túi hay sao chứ?

Hắn đứng đờ ra đó, khinh thường, không buồn làm một động tác gì khi chưa cần thiết lắm.

Tay quyền của Bạch Thiết Hận dù chậm, mà vẫn kích tới từ từ, cuối cùng còn cách Lưu Ảo Phu không hơn hai thước.

Dùng quyền pháp, trong một khoảng cách đó, đương nhiên là chẳng cần để tay chạm vào mình đối phương. Đánh như thế, là bằng vào quyền phong, chính quyền phong mới làm cho đối phương thọ thương. Và cái đích của quyền phong phải là một huyệt đạo yếu hại, chứ chẳng thể trúng vào bất cứ một nơi nào.

Khoảng cách đó vừa tầm dự định của Bạch Thiết Hận, lập tức lão phát xuất kình đạo. Kình đạo tuy vô hình, song lúc phát ra lại bật thành âm thanh ầm ì như sét, như sấm động xa xa, gầm chuyển trong không gian. Kình đạo dồn không khí, biến thành sóng, xao xao dợn dợn, nhìn ngang qua lớp không khí dao động, người ta có cảm tưởng đất trời lung linh.

Bỗng, Lưu Ảo Phu ngã ngửa thân mình, nằm dài theo mặt đất, nhường cho đạo kình lực lướt qua.

Kình lực trượt bên trên cái đích, quét tới mảng tường gần đó, làm rung chuyển luôn bức tường.

Bằng một thân pháp cực kỳ ảo diệu, Lưu Ảo Phu chỏi tay xuống đất lấy đà, vọt xuôi mình theo mặt đất, đến Bạch Thiết Hận, đồng thời dang hai chân ra tạo thành một miệng kềm, khép lại hai bên chân Bạch Thiết Hận. Hai chân của hắn hơi lệch chiều, hai chân đó siết vào nhau như hai lưỡi kéo nhấp.

Nếu Bạch Thiết Hận không có biện pháp tránh khỏi cái nhấp đó, thì đôi chân của lão phải bị tiện lìa.

Đúng là một chiêu công hy hữu, bình sanh Bạch Thiết Hận chưa hề thấy nhân vật nào sử dụng đến nó. Dĩ nhiên, lão không thể suy nghĩ ngay cách hóa giải, chỉ một thoáng sững sờ lão cũng bị Lưu Ảo Phu kẹp cứng đôi chân.

Cũng may, hắn chưa dụng lực siết ngược đôi chân, nhưng hắn kẹp như vậy cũng đủ làm cho Bạch Thiết Hận ngã ngang người qua một bên.

Nhờ ngã xuống, lão rút đôi chân khỏi gọng kềm của Lưu Ảo Phu, lão phải lộn người thêm mấy vòng nửa, rời xa vị trí hơn sau thước, cố gượng lắm mới dừng lại. Tuy bị quật ngã, Bạch Thiết Hận vẫn không việc gì.

Lưu Ảo Phu lúc đó đã đứng lên rồi, thấy Bạch Thiết Hận vô sự hắn hết sức lấy làm lạ. Hắn nhếch nụ cười lạnh thốt:

- Khá lắm đó, lão gù! Ta không ngờ ngươi cũng có một chút ít tài năng, ngươi lại thoát chết được với cái chiêu «Kim Giao Tiễn Cước» của ta!

Bạch Thiết Hận nghiến răng, niềm căm phẫn sôi bừng, râu tóc dựng ngược, không biết lão vận kình thế gì mà xương của lão bật kêu lên rắc rắc.

Nguyệt Hoa Phu Nhân thấy thế, rút thất thanh:

- Đà Ông! Xin nể mặt già, buông tha cho súc sanh ...

Bạch Thiết Hận cười gằn:

- Hắn đã quật ngã lão phu, có ai nghĩ đến lão chăng? Hắn cũng là tay khá, hắn thi thố bản lĩnh của hắn, chứ đâu phải cuồng vọng? Hắn có lý do tự hào, thì cứ để hắn tự hào luôn, đừng nói đến hai tiếng buông tha, phu nhân!

Nguyệt Hoa Phu Nhân hấp tấp thốt:

- Dù sao thì hắn cũng còn nhỏ tuổi, Đà Ông ơi! Đà Ông không thể vì tình già mà nương tay một chút sao?

Bạch Thiết Hận «hừ» một tiếng:

- Ai đền bù cái ngã cho lão phu chứ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhận ra điều đó, vội quay sang Lưu Ảo Phu, gọi hắn:

- Súc sanh, bước lại tạ lỗi với Bạch bá bá đi! Ngươi chưa phải là đối thủ của Bạch bá bá đâu, nếu để cho bá bá phát xuất «Phá Ngọc Quyền Pháp», thì cầm chắc là ngươi mất mạng đó nhé!

Dù là thốt với con trai bà, bà lại có vẽ khẩn cầu, điều đó chứng tỏ bà rất hiểu «Phá Ngọc Quyền Công» của Bạch Thiết Hận rất lợi hại, bà không muốn Lưu Ảo Phu chuốc lấy thảm bại. Nhất là cuộc tranh chấp hôm nay không có lý do chánh đáng, thì bằng mọi giá, tất cả mọi người phải cố tránh sự đáng tiếc xảy ra.

Bà cũng biết, cái quyền của mẹ đối với con chẳng còn hiệu lực trước một Lưu Ảo Phu ngoan cố, ngỗ nghịch, cho nên bà phải dùng đến giọng tha thiết van cầu.

Nhưng, làm gì Lưu Ảo Phu nghe bà? Đang lúc huyết khí phương cương, mọi hoạt động đều do lòng hiếu thắng chi phối, nghe mẹ ca tụng đối phương, bảo hắn tạ lỗi là có khác nào mẹ khinh thường hắn? Cái gì, hắn cũng chịu nổi, chứ cho rằng hắn kém đối phương, là chẳng làm sao hắn tiêu hóa được.

Hắn bật cười ngạo nghễ:

- Con trai của Lưu Dật Phu chỉ biết có mỗi một việc chết mà thôi, chứ chẳng bao giờ khuất mình tạ tội trước bất cứ ai!

Bạch Thiết Hận quát to:

- Phu nhân có nghe hắn nói đó chăng? Thế thì đừng trách lão phu hạ độc thủ đấy!

Lão đánh ra một quyền, chiêu thức đưa ra, rất bình tịnh, không gây một tiếng động nhỏ.

Lưu Ảo Phu nói cứng, song hắn vẫn gờm lão. Hắn biết là chiêu quyền đó rất lợi hại. Trước khi Bạch Thiết Hận xuất thủ, hắn đã chuẩn bị rồi. Chiêu thức của Bạch Thiết Hận vừa phát xuất, hắn chúi mình tới, tay nắm chắc đầu bàn chân, đưa lưng chịu cho Bạch Thiết Hận đánh trúng.

Cách biểu hiện một kháng lực trước chiêu công của đối phương, kể ra cũng ngụy dị.

Bàn tay của Bạch Thiết Hận chạm lưng hắn, như chạm vào một lớp lông dày.

Lạ lùng thay, lão không nghe một phản ứng nào cả!

Còn Lưu Ảo Phu sau khi bàn tay của Bạch Thiết Hận chạm trúng lưng, liền lăn tròn trên mặt đất, như cái quay.

Bạch Thiết Hận rít lên:

- Được lắm! Tiểu tử! Hãy tiếp thêm một chiêu nữa.

Nhưng, lão chưa kịp tấn công, Lưu Ảo Phu từ mặt đất tung mình lên không, cao hơn trượng, từ bàn tay hắn, bắn ra một đạo hồng quang, rực sáng chóa mắt, đạo hồng quang chiếu xuống đầu Bạch Thiết Hận.

Thì ra, nhân lúc hứng chiêu quyền của Bạch Thiết Hận, Lưu Ảo Phu đã liếc về nơi thanh kiếm của hắn bị Nguyệt Hoa Phu Nhân dùng ống tay áo cuốn văng ra xa, hắn ức độ khoảng cách, cấp tốc lăn mình đến đó, chụp thanh kiếm, lấy đà vọt lên cao, đoạn vung kiếm chém xuống.

Hắn thừa hiểu quyền pháp Phá Ngọc của Bạch Thiết Hận cực kỳ lợi hại, bằng mọi cách hắn phải chiếm tiên cơ mới có hy vọng áp đảo lão ta.

Bạch Thiết Hận khinh thường, cười lạnh, ung dung phát xuất chiêu thức.

Lưu Ảo Phu chưa đáp xuống vội xoay chiêu kiếm, quét rộng ra một vòng, định hóa giải chiêu quyền của Bạch Thiết Hận. Ngờ đâu, cái chiêu của lão ta, là một hư chiêu, thành thử Lưu Ảo Phu quét vòng kiếm vô ích.

Nếu hư chiêu đi trước, thì thực chiêu sẽ nối theo liền, biết vậy nên Lưu Ảo Phu đâm lo. Chiêu thực bay ra, hắn không đón đỡ kịp, bắt buộc hắn phải liều đâm thẳng mũi kiếm tới.

Bạch Thiết Hận giữ vững ấn quyết, hét lớn:

- Ngã!

Lưu Ảo Phu bị quyền phong hất tung trở lên không, mà Bạch Thiết Hận cũng hú vía vì suýt chết.

Thanh kiếm của Lưu Ảo Phu chưa đến gần Bạch Thiết Hận, kiếm khí từ mũi kiếm bắn ra, Bạch Thiết Hận đã đoán trước như vậy, nên đánh xong quyền là lùi lại nhanh, thế mà vẫn không kịp, kiếm khí phớt qua hàm râu, cắt mất một đoạn.

Bị quyền phong bật tung lên, uốn cầu vồng, Lưu Ảo Phu thấy trước mắt có bức tường chắn ngang, nếu không kịp tránh là hắn phải chạm người vào đó. Hắn vội vươn kiếm, đâm tới, kiếm khí bay ra, bắn vở một mảng tường, theo lỗ trống, hắn vọt mình luôn ra ngoài.

Bạch Thiết Hận nổi giận, lao mình vút theo.

Quan Sơn Nguyệt và Nguyệt Hoa Phu Nhân cũng cấp tốc theo sau.

Lưu Ảo Phu đang gắng gượng đứng lên giữa đống gạch vụn, hai bên miệng hắn, máu hắn rỉ dài xuống cằm.

Bạch Thiết Hận hét to:

- Tiểu súc sanh! Lão phu không thể tha ngươi được!

Lão vung tay, toan đánh ra một quyền.

Một bóng người chớp lên, hiện ra trước mắt lão, ngăn chặn chiêu phát xuất.

Người đó chính là Quan Sơn Nguyệt.

Bạch Thiết Hận nổi giận, quát:

- Ngươi làm gì thế, tiểu tử?

Quan Sơn Nguyệt nhẹ nhàng:

- Buông tha cho hắn đi, bá bá!

Bạch Thiết Hận gắt:

- Ngươi nói sao? Ta phải buông tha cho tiểu súc sanh?

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên, gật đầu:

- Phải, bá bá! Tiên phụ bại nơi tay gia gia hắn mà ôm hận về chốn suối vàng, nếu bá bá giết hắn, tiên phụ không thể nào nhắm mắt!

Bạch Thiết Hận chẳng hiểu chàng muốn nói gì, cao giọng hỏi:

- Ý tứ của ngươi như thế nào? Ngươi nói hồ đồ thế, lão phu làm sao hiểu chứ?

Quan Sơn Nguyệt nghiêm sắc mặt:

- Thọ nhục vì kiếm, chỉ có kiếm mới rửa được cái nhục đó. Lưu Dật Phu chết, may mắn thay, lão ta còn có một đứa con và đứa con đó hiện còn sống, giả như tiểu điệt không giết hắn nổi, thì tiểu điệt có tội với người khuất mặt, và cái nhục của tiên phụ phải do lưỡi kiếm của tiểu điệt rửa sạch, chắc bá bá cũng hiểu như vậy và đồng ý chứ?

Dĩ nhiên, Bạch Thiết Hận phải hiểu, và cũng đồng ý. Nhưng rồi lão hỏi:

- Mà ngươi liệu có làm nổi việc đó chăng?

Quan Sơn Nguyệt vẫn dùng giọng trang nghiêm giãi bày:

- Bá bá đã chứng kiến cuộc động thủ giữa tiểu điệt với hắn vừa qua, hẳn bá bá cũng thấy rằng, về kiếm pháp, tiểu điệt không kém hắn, bất quá hắn dùng một kiếm pháp rất quái dị, lần đầu tiên tiểu điệt chưa nhận định những chiêu thức của hắn biến hóa như thế nào, do đó hắn đắc chí vậy thôi. Nếu tái đấu, tiểu điệt nhất định không thất thế như trước nữa đâu! Huống chi, tiểu điệt đã nương tay cho hắn khi tiểu điệt tạo được áp lực kia mà!

Bạch Thiết Hận buông xuôi tay xuống, thở dài:

- Được! Lão phu đáp ứng tạm thời buông tha cho hắn, dành hắn lại đó cho ngươi. Ngươi nên nhớ là tiểu súc sanh cực kỳ gian trá, phải đề phòng cho lắm mới không mắc kế hắn đấy. Nếu ngươi khinh thường thì hậu quả rất tai hại, mà cũng đừng oán trách là lão phu không đề tỉnh ngươi trước.

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

- Tiểu điệt hiểu. Bá bá yên trí, tiểu điệt chẳng bao giờ oán trách bá bá đâu!

Lưu Ảo Phu xốc thanh trường kiếm cho thuận tay, sẵn sàng chờ Quan Sơn Nguyệt tấn công.

Nhưng, Quan Sơn Nguyệt mỉm cười, thốt:

- Ngươi thọ thương rồi, nếu tái đấu bây giờ, ta có thắng ngươi, ngươi cũng bất phục. Đừng nóng nảy, cứ lo dưỡng thương thế đi, khi nào ngươi cảm thấy công lực dồi dào như cũ, thì chúng ta sẽ tử chiến với nhau một lần!

Lưu Ảo Phu không nói gì, lặng lẽ quay mình bước đi. Thoạt đầu, hắn còn vững bước, đi độ mấy bước, hắn chao chao mình, chừng như thương thế của hắn nặng lắm, hắn không còn đủ sức chi trì.

Nguyệt Hoa Phu Nhân chạy tới dìu hắn, hắn hoành kiếm chận lại, trầm giọng thốt:

- Bà đừng lại gần tôi!

Nguyệt Hoa Phu Nhân sửng sốt:

- Ảo Phu! Đến mẹ ngươi mà ngươi cũng không nhìn nhận nữa sao?

Lưu Ảo Phu há miệng phun ra một búng máu tươi, cao giọng đáp:

- Đợi khi nào bà chết rồi, tôi sẽ đến trước mộ bà, cúi đầu đáp tạ công ơn sanh dưỡng của bà. Một ngày bà còn sống, là một ngày tôi không muốn thấy bà.

Nguyệt Hoa Phu Nhân khóc ròng. Trước thái độ của Lưu Ảo Phu, bà còn nói gì được nữa?

Lưu Ảo Phu cố gắng dằn cơn đau đang sôi động càng phút càng dâng cao, vẫy vẫy tay:

- Phi Tràng! Lại đây, dìu ta xuống núi!

Phi Tràng bước tới, gương mặt sầu thảm nặng nề, đưa tay nắm lấy cánh tay Lưu Ảo Phu, hỏi:

- Công tử muốn xuống núi?

Lưu Ảo Phu hừ một tiếng:

- Đương nhiên là xuống núi! Ngươi tưởng ta còn có thể lưu lại đây được nữa sao?

Nguyệt Hoa Phu Nhân hấp tấp hỏi:

- Ngươi nói gì thế, Ảo Phu?

Lưu Ảo Phu cười lạnh:

- Nơi đây, là tổ ấm của bà và Vạn Tân Nguyệt, nơi đây chứa chất biết bao nhiêu kỷ niệm êm đềm của bà và Vạn Tân Nguyệt, đâu còn chỗ nào trống trải cho tôi dung thân? Họ Lưu nầy không có tư cách ở đây đâu, bà!

Nguyệt Hoa Phu Nhân khóc rống lên, thê thảm cực độ.

Trong khi đó, Phi Tràng bước từng bước, từng bước, đưa Lưu Ảo Phu xuống núi. Nàng không hề quay đầu nhìn lại.

Nguyệt Hoa Phu Nhân bừng tỉnh trở lại, bà toan chạy theo, gọi Lưu Ảo Phu, khuyên hắn không nên đi đâu cả. Cầm Khiêu ôn tồn khuyên ngăn bà:

- Nên để cho công tử đi là hơn, phu nhân! Công tử không muốn ở lại đây, có lẽ vì một lý do khác, chứ chẳng phải quyết liệt với phu nhân đâu!

Nguyệt Hoa Phu Nhân lấy làm lạ:

- Lý do gì?

Cầm Khiêu thở dài:

- Vì Trương cô nương, công tử mới bỏ đi như thế!

Nguyệt Hoa Phu Nhân giật mình. Bà day qua, nhìn Quan Sơn Nguyệt, gương mặt đượm vẻ u buồn, bà lắc đầu, thở dài lẩm nhẩm:

- Tại sao con không là Minh Thiên Lý thật sự đi, tại sao con lại là Quan Sơn Nguyệt?

Bà hỏi như thế, chỉ có trời mới đáp được, Quan Sơn Nguyệt còn biết ăn nói làm sao?

Nếu chàng không là Quan Sơn Nguyệt, thì làm gì có việc nhận con, nhìn mẹ, làm gì có việc Lưu Ảo Phu hận thù? Làm gì có tất cả những việc vừa rồi, xảy ra?

Mà cũng làm gì có việc chàng phải vượt nghìn dặm dài, tìm đến đây? Tuy nhiên, chàng cũng biết cái ý của bà!

Bà thở than tại sao con của Vạn Tân Nguyệt và người yêu của Trương Thanh, chẳng phải là hai người, mà lại tập trung vào mỗi một mình chàng! Chàng thông cảm nổi niềm của mẹ, trái lại Bạch Thiết Hận hết sức hân hoan.

Lão cười hì hì, mặc cho phu nhân sa sầm giận mình, lão thốt oang oang:

- Phu nhân ơi! Phu nhân hằng nhớ nhung, mong đợi đứa con, lão phu chẳng quảng gian lao, tìm đến cho phu nhân, từ bao lâu nay, phu nhân vẫn sống với một đứa con, bây giờ đứa con ngỗ nghịch bỏ đi, liền có đứa khác thay vào, phu nhân có tổn thất chi đâu mà phải ưu tư sầu khổ? Huống chi, mất một đứa vô dụng, được một đứa hữu tài, như thế phu nhân có lợi chứ không thiệt hại ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân lau lệ, thở dài:

- Đà Ông không hiểu già đâu! Già, là một nữ nhân, là mẹ, có mẹ nào cầm lòng được khi mất một đứa con, cho dù nó là một đứa ngỗ nghịch? Bởi nó là giọt máu mà già cưu mang suốt mấy tháng dài, già nuôi dưỡng qua bao nhiên năm gian khổ, già giáo huấn nó với trọn vẹn thiết tha ... Không có cái gì thay thế trong lòng người mẹ khi tấm lòng đó trống vắng hình bóng một đứa con!

Bạch Thiết Hận trừng mắt:

- Nói như thế, là phu nhân không thừa nhận tiểu tử này!

Phu nhân hấp tấp khoát tay:

- Sai! Đà Ông không hiểu câu nói của già.

Đoạn, bà thở dài, tiếp:

- Đối với đứa con cách biệt từ ngày nó còn bé bỏng, già nầy luôn luôn tha thiết mong chờ ngày trùng phùng. Bây giờ mẹ con gặp lại nhau, đương nhiên già cao hứng lắm. Nhưng, cao hứng vì một đứa con, chẳng có nghĩa là phải bỏ một đứa con, sự cao hứng không thể là một cuộc đổi thay, bằng lòng với con mới, quên đi con cũ. Do đó, già không thể để mất Ảo Phu, bởi dù nó có ra sao đi nữa, nó vẫn là giọt máu của già, do già cưu mang, già sanh hạ, già nuôi dưỡng, giáo huấn qua bao nhiêu năm dài. Nó là cốt nhục của già, nó là con của già, phàm trên đời từ cổ chí kim, chẳng có mẹ nào lại không thương con, dù là một đứa con bất hiếu! Hận nó thì có, ghét bỏ thì không! Nếu có trường hợp cha mẹ từ con, thì chẳng qua đó là một hình thức chứng minh sự phủ nhận hành vi của đứa con, bất bình tư cách đứa con, chứ trong thâm tâm, cha mẹ nào cũng tưởng nhớ đến con, dù nó hư hỏng cực độ!

Bạch Thiết Hận giật mình, đưa tay vuốt chòm râu đã đứt mất một phần, thốt:

- Phu nhân nói thế, lão phu tạm thời chấp nhận như thế, chứ thực ra, lão phu cũng chẳng hiểu làm sao cả. Bởi, lão phu là một con người đơn độc, cha mẹ không còn, suốt đời không lấy vợ, nên chẳng sanh con, thì cái sự ân tình cha mẹ đối với con và ngược lại, lão phu không thông cảm được! Bây giờ, chúng ta nên xem qua bức huyết thơ của Lưu Dật Phu, xem lão ấy lưu lại lời gì?

Nguyệt Hoa Phu Nhân cúi đầu, mặc cho lệ thảm tuôn tràn, chân nặng như đeo đá, bà đứng nguyên tại chỗ, đôi mắt mơ màng vọng qua màn lệ, xuống chân núi xa xôi.

Lưu Ảo Phu và Phi Tràng đã khuất dạng từ lâu.

Và bà đứng đó đã lâu lắm, mới đặt tay lên vai Quan Sơn Nguyệt, theo chàng trở lại đại sảnh.

Vuông lụa do Lưu Ảo Phu quăng ra, còn nằm tại chỗ, trên nền. Vuông lụa ngả màu, vàng vàng, chứng tỏ nó được giữ gìn từ lâu lắm rồi, nó có cái số tuổi suýt soát với Lưu Ảo Phu.

Họ đã vào đến đại sảnh, song chưa ai nghĩ đến việc nhặt nó lên xem, mặc dù Bạch Thiết Hận có nhắc đến nó.

Bạch Thiết Hận do dự một chút, gọi Quan Sơn Nguyệt:

- Hiền điệt nhặt lên, đọc cho biết ...

Quan Sơn Nguyệt nhìn qua Nguyệt Hoa Phu Nhân.

Phu nhân gật đầu, chàng bước tới, nhặt vuông lụa lên, trao qua phu nhân.

Nguyệt Hoa Phu Nhân lắc đầu:

- Mẹ không xem được đâu, con cứ đọc cho mọi người nghe.

Cầm Khiêu, Thị Thơ, Nhập Hoạch, Tư Kỳ chuẩn bị bước ra ngoài.

Nguyệt Hoa Phu Nhân khoát tay:

- Việc ngày xưa, các ngươi đã biết rõ, có ở lại đây mà nghe, cũng chẳng quan hệ gì.

Năm người vâng một tiếng, rồi đứng lại, giữ sự nghiêm trang.

Quan Sơn Nguyệt từ từ đọc:

«Lưu bút cho Ảo Phu con!

Cha chết, cha mang theo một nỗi bất bình nặng nề, nếu cha cần nói rõ vì sao cha chết, thì cha phải nhắc lại sự việc xa xưa, mà nhắc đến việc xa xưa, là lòng cha thêm đau đớn, trong khi ngàn cái đau đớn đang dày vò cha, tất cả đều giục cha chết gấp!

Con muốn biết rõ sự thực? Con cứ hỏi Phi Tràng! Nó biết tận tường, nó trung thành với cha, nó sẽ nói hết cho con hiểu.

Đời cha, cha có ba điều hận.

Vạn Tân Nguyệt là đầu mối họa, mà Bạch Thiết Hận lại trợ giúp kẻ hung ác, loại trừ cha!

Song, cả hai dù sao, cũng là ngoại nhân, con ạ.

Ngoại nhân, họ có quyền chống đối lại cha, họ có quyền giở mọi thủ đoạn, để đoạt thắng lợi, họ vẫn là cừu nhân của cha, song họ có cái lý do trở thành cừu thù của cha, cho nên trong việc báo thù, con có thể giết họ, chỉ giết họ là đủ.

Cái điều mà cha không tiêu hóa nổi, cái điều mà dù chết ngàn kiếp, cha không quên được là mẹ con! Cha nói cái điều, chứ không nói cái người, là vì người dù sao cũng là mẹ con, người đáng hận nhưng cũng có thể dung tha. Còn như cái điều mà mẹ con đã làm, thì thật là không thể tha thứ được. Giả như, cha có thể giết được mẹ con, thì thật ra, cha không phải giết một người, mà chính là cha giết chết nguồn cội phát xuất ra cái điều đáng hận đó. Mẹ con là nguồn cội của cái điều đó, thì đúng là cái kiếp số của bà ta! Mỉa mai chưa con?

Cha lâm bịnh, nằm giường, mẹ con một lòng vì kẻ khác, thiết tha tưởng nhớ kẻ khác, khiến cha phải phẫn nộ, ôm bịnh đến ngày cuối cùng không phương chữa trị nổi!

Cha giận bà ta, song cha còn thương bà ta, nên không muốn con hạ thủ giết mẹ, bởi làm thế là con bội nghịch luân thường, trời sẽ tru, đất sẽ diệt. Cha bảo với con như thế nầy:

Mẹ con lấy Vạn Tân Nguyệt, sanh hạ một đứa con trai, hắn lớn hơn con hai tuổi. Bà ta nhớ thương đứa con đó lắm, bà ta cũng nhớ luôn người tình ấy lắm, vậy con hãy sát hại Vạn Tân Nguyệt, mang lão ta đến trước mặt bà, mổ bụng móc tim lão ta, chà đạp tim lão ta trước mặt bà, cho bà vĩnh viễn khổ đau và sống trong khổ đau đến ngày cuối đời.

Lúc cha dạo chơi miền hải ngoại, cha có thu nhặt được những pho bí kíp chỉ dẫn về quyền và kiếm, trở về nhà, cha không có thì giờ luyện tập, nên giấu kín một nơi, chỉ có mỗi một mình Phi Tràng biết được chỗ dấu mà thôi. Khi con được mười lăm tuổi, gân cốt cứng rồi, hãy tìm nơi vắng vẻ y theo những pho bí kíp đó mà tập luyện, trong mười năm, con sẽ thành công. Đến lúc đó, con hãy nghĩ đến việc báo thù. Nên nhớ là khi học nghiệp chưa xong, thì đừng nên vọng động. Bởi, Vạn Tân Nguyệt và Bạch Thiết Hận có bản lĩnh siêu phàm, con tuyệt đối phải ẩn nhẫn, ngược lại là con sẽ mất mạng với bọn đó đấy nhé! Con mất mạng, là thù cha không được báo, là cha sẽ ôm hận vĩnh viễn nơi tuyền đài! Nhớ nghe con!

Cái người gây thương thế cho cha, là một lão bà tướng mạo cực kỳ xấu xí, kiếm thuật rất cao, khi nào con học thành tài rồi, hãy tìm bà ấy, báo thù một nhát kiếm cho cha. Gặp bà ấy, con dùng Tam Dương Thần Công của Xích Hà Giáo, con khắc chế bà ta dễ dàng ...» Quan Sơn Nguyệt đọc xong, mọi người còn mơ màng, nghĩ ngợi xa xôi.

Mãi một lúc lâu, Nguyệt Hoa Phu Nhân buông nhẹ tiếng thở dài, thốt:

- Không ngờ Lưu Dật Phu căm hận sâu xa như thế! Trước khi chết, còn an bài cho con trai, làm những điều y không có thời gian làm!

Bạch Thiết Hận lộ vẻ ngạc nhiên, nói:

- Thảo nào mà vừa rồi tiểu tử chẳng chống trả nổi hai chiêu «Phá Ngọc Quyền Pháp» của lão phu! Thì ra, Lưu Dật Phu đã để lại cho hắn mấy pho bí kíp kỳ diệu! Lưu Dật Phu ức độ cho hắn một kỳ hạn mười năm, hắn bắt đầu tập luyện từ lúc lên mười lăm tuổi, năm nay hắn vừa đúng hai mươi bốn tuổi, thế là chỉ còn một năm nữa thôi, công phu của hắn sẽ thành tựu. Lúc đó, chỉ sợ lão phu không làm sao thủ thắng nổi, nếu hắn quyết tìm lão phu mà giải quyết chuyện ngày xưa!

Nguyệt Hoa Phu Nhân thừ người một lúc:

- Từ lúc nhỏ, hắn vẫn ở bên cạnh già, khi hắn được mười lăm tuổi, bỗng nhiên hắn yêu cầu ở riêng một mình, hắn lên đỉnh Chiết Quế Phong dựng nhà tại đó, già thấy hắn cũng đã lớn rồi, không tiện lưu hắn lại mãi mãi ở bên mình, nên không ngăn trở chi. Ngờ đâu, hắn tìm chỗ vắng vẻ, để luyện công!

Nhập Hoạch chen vào:

- Phải đó, phu nhân! Công tử cấm bọn tỳ nữ bén mảng đến đó, chỉ chấp thuận cho mỗi một mình Phi Tràng tới lui thôi! Cả hai ở tại đó, âm thầm luyện công.

Nguyệt Hoa Phu Nhân lắc đầu:

- Ngươi nói sai! Chỉ một mình Ảo Phu luyện tập, chứ Phi Tràng thì không!

Nhập Hoạch không tin:

- Không lẽ suốt mười năm dài, nàng ta bỏ dở vũ công, không hề luyện tập?

Nguyệt Hoa Phu Nhân thốt:

- Sau ngày từ hải ngoại trở về, Lưu Dật Phu tinh tiến lạ lùng, vũ công của y như đã đạt đến mực thập thành. Già có hoài nghi về điểm đó, song biết có hỏi, y cũng chẳng chịu nói thật cho ngươi. Lưu Dật Phu chết rồi, già tìm cách dọ thám nơi Phi Tràng, Phi Tràng cũng im lặng như Lưu Dật Phu. Nàng ấy cùng Lưu Dật Phu, rất thân cận nhau, mãi về sau nầy, già mới biết, họ giữ rất kín đáo sự thân mật đó suốt mấy năm qua ...

Nhập Hoạch trố mắt:

- Tại sao có sẵn những pho bí kíp vô giá như vậy, Phi Tràng lại không luyện?

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài:

- Có gì đâu, chẳng qua nàng quá thông minh, nàng thừa hiểu nếu có tập luyện môn công kỳ lạ, hẳn già sẽ khám phá ra ngay, nàng không tập luyện, cốt để bảo tồn trọn vẹn bí mật cho Ảo Phu.

Nhập Hoạch cau mày:

- Phi Tràng là thị tỳ của phu nhân, thế tại sao nàng ngầm giúp Ảo Phu, man trá cả phu nhân?

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười khổ:

- Trong bọn các ngươi, Phi Tràng là người nhập môn trước hết! Trước khi Lưu Dật Phu chết, nàng ở cái lứa tuổi mười tám, mười chín, nàng là một cô nương, không còn nhỏ, nhưng chưa lớn lắm!

Nhập Hoạch giật mình:

- Phu nhân! Phu nhân muốn nói là Phi Tràng và Lưu ...

Nàng không dứt câu, song ai ai cũng hiểu nàng muốn nói gì ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân điểm một nụ cười:

- Phải! Nàng tư tình với Lưu Dật Phu! Lưu Dật Phu rất yêu nàng!

Nhập Hoạch phẫn nộ:

- Tại sao nàng làm như vậy được chứ? Sánh với phu nhân, nàng chỉ là một đóm lửa đem sánh với vầng trăng sáng ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân lại thở dài:

- Ái tình và nhan sắc là hai việc, Nhập Hoạch ạ! Lưu Dật Phu không tìm được ưu ái nơi già, tự nhiên y phải nhìn sang Phi Tràng, nếu Phi Tràng yêu y, thì ngược lại y cũng chẳng yêu gì nàng một cách chân chánh! Chúng ta cứ chấp nhận, Phi Tràng có vẻ ưa nhìn đối với Lưu Dật Phu đi, chính cái ưa nhìn đó mà mê hoặc Lưu Dật Phu, chứ thật sự không hẳn là Lưu Dật Phu yêu nàng tha thiết.

Nhập Hoạch hỏi:

- Phu nhân có biết việc đó chăng?

Nguyệt Hoa Phu Nhân gật đầu:

- Biết!

Nhập Hoạch «hừ» một tiếng:

- Thế tại sao phu nhân dung dưỡng ...

Phu nhân trầm buồng gương mặt:

- Già tuy là vợ Lưu Dật Phu, song lại là vợ không tròn tiết hạnh, thì già còn nói làm sao được đến sự đổi thay của lòng người? Luôn luôn, già có mặc cảm của con người tội lỗi, càng nhìn mặt Lưu Dật Phu, già càng hổ thẹn. Hơn nữa, biết được Vạn Tân Nguyệt rồi, già nhận ra không còn yêu Lưu Dật Phu như trước. Nếu có kẻ nào thay thế già, bên cạnh Lưu Dật Phu thì già càng mầng, cầm như được thoát nợ, già khỏi phải miễn cưỡng làm phận sự một người vợ trong vấn đề ân ái, già có lợi chứ! Cho nên, già không phản đối, trái lại còn ngấm ngầm khuyến khích họ yêu nhau, càng công khai càng tốt!

Nhập Hoạch gật đầu:

- Thảo nào mà Phi Tràng chẳng dành trọn tâm tình đối với công tử! Nàng nhìn công tử, như thấy người xưa ...

Mọi người lại im lặng.

Thời khắc trôi qua ... lâu lắm, Bạch Thiết Hận cất tiếng:

- Hiện tại, đừng ai nói gì nữa về những việc đã qua, bởi có nói nhiều đến đâu, cũng chẳng ích lợi chi! Lưu Ảo Phu đã đi rồi, là cầm như hắn đi luôn, vĩnh viễn hắn không hề trở lại bên cạnh phu nhân đâu!

Nguyệt Hoa Phu Nhân gật đầu:

- Nếu không có mặt Trương Thanh tại đây, thì may ra hắn còn trở lại, thăm già ...

Bạch Thiết Hận hấp tấp hỏi:

- Trương Thanh là ai? Mà việc gì đây chứ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài:

- Trương Thanh là một tiểu cô nương có dung nhan cực kỳ lộng lẫy, am tường y thuật, nàng cùng mụ họ Bành một hôm bất thình lình đến vùng núi non nầy, lúc đó, bịnh tim của già tái phát, Trương Thanh trổ tài, chữa trị cho già, phước cho chủ, mà cũng may cho thầy, già được lành bịnh. Nàng có nết na thùy mị, ăn nói dịu dàng, Ảo Phu si mê nàng cực độ. Già cũng rất mến nàng. Con thì mê, mẹ thì mến, đó là hai lý do khiến già cầm nàng ở lại núi. Già định sẽ thuyết phục nàng bằng lòng kết hôn với Ảo Phu. Ngờ đâu, con tim nàng đã có chủ ...

Bạch Thiết Hận cười lớn:

- Lão Phu hiểu rồi! Nàng yêu Quan Sơn Nguyệt là cái chắc! Phải mà, nàng không yêu hiền điệt của lão phu làm sao được chứ! Nhân phẩm của hắn như vậy đó, bảo sao nàng chẳng chọn hắn chứ! Còn như tiểu súc sanh Lưu Ảo Phu kia, thì có nghĩa gì bên cạnh Sơn Nguyệt? Có họa chăng Trương Thanh mù cả đôi mắt mới yêu tiểu súc sanh được!

Nguyệt Hoa Phu Nhân lại thở dài:

- Lưu Ảo Phu thì quá tha thiết với nàng, còn nàng thì luôn luôn mơ hoài đến Quan Sơn Nguyệt! Già chẳng còn biện pháp nào làm cho nàng xiêu lòng, đàng nhờ mụ họ Bành xuống núi tìm Quan Sơn Nguyệt ...

Bạch Thiết Hận cười lạnh:

- Phu nhân cho mụ Bành đi tìm Quan Sơn Nguyệt, hẳn là để giết hắn cho tuyệt tích luôn! Mục đích của phu nhân là thế?

Nguyệt Hoa Phu Nhân nín lặng, không thốt một tiếng nào.

Bạch Thiết Hận hỏi dồn:

- Sao phu nhân không đáp?

Nguyệt Hoa Phu Nhân cắn răng:

- Phải! Quả thật lúc đó, già có ý ấy! Chỉ vì già không nỡ để cho Ảo Phu thống khổ. Làm mẹ, ai cũng thế, không ai muốn cho con phải khổ cả! Có người mẹ nào lại chẳng muốn tạo hạnh phúc cho con chứ?

Chừng như Quan Sơn Nguyệt có phần nào hận về cái ý của Nguyệt Hoa Phu Nhân, dù cái ý đó thuộc về dĩ vãng. Chàng trầm giọng thốt:

- Thào nào mà các vị đó chẳng bảo con dấu hẳn lai lịch!

Nguyệt Hoa Phu Nhân đảo mắt nhìn sang Cầm Khiêu, Tư Kỳ và Thị Thơ.

Cả ba cúi đầu, tránh ánh mắt của bà.

Quan Sơn Nguyệt cảm thấy hận lên nhiều hơn trước. Chàng tiếp luôn:

- Mẫu thân! Có lẽ con không nên phê bình mẫu thân, song mẫu thân hành động như vậy là không phải lắm! Phàm vấn đề tình cảm, chẳng phải miễn cưỡng mà nên chuyện, hơn thế, mẫu thân lại dùng đến một thủ đoạn bất chánh, nhân ưu thế mà toan lợi dụng ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân có ý thẹn:

- Mẹ làm sao biết được Quan Sơn Nguyệt chính là con của mẹ!

Quan Sơn Nguyệt buông luôn, lần này thì chàng để lộ liễu niềm căm hờn, không cần dè dặt, như đang đối thoại với một kẻ thù, chứ chẳng phải với một người sanh ra chàng:

- Không kể là mẹ có biết hay không biết, hành vi của mẹ rất đê hèn, giả như mẹ có giết được con đi nữa, giả như mẹ dùng quyền uy cưỡng ép sự kết hợp Lưu Ảo Phu và Trương Thanh, cái kết quả bao giờ cũng bi thảm, con dám chắc như vậy đó mẹ. Chính mẹ từng sống qua sự thử thách đó rồi, sao mẹ không rút kinh nghiệm của bản thân, mẹ lại toan tái diễn sự lầm lạc đó lên số phận của những người khác?

Nguyệt Hoa Phu Nhân biến sắc.

Bạch Thiết Hận thích chí bật cười ha hả. Cười một lúc, chưa đủ biểu hiện hứng thú, lão lại thốt:

- Cũng may! Lão phu đến đúng lúc! Chứ nếu không thì bao nhiêu việc đáng tiếc đã phải xảy ra rồi! Và thêm một lần nữa phu nhân ôm hận ngàn thu!

Nguyệt Hoa Phu Nhân còn nói gì được chứ?

Quan Sơn Nguyệt cảm thấy tức uất đến nghẹn ngào:

- Trương Thanh bây giờ ở đâu?

Nguyệt Hoa Phu Nhân đáp nhẹ:

- Tại biệt phủ! Con hãy đến đó gấp, để gặp nàng!

Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:

- Biệt phủ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân gật đầu:

- Lưu Ly Biệt Phủ.

Quan Sơn Nguyệt «hừ» tiếp một tiếng:

- Mà ở đâu?

Thị Thơ bước tới:

- Thuộc hạ xin dẫn đường, cho đại công tử đến đó!

Nguyệt Hoa Phu Nhân gật đầu.

Quan Sơn Nguyệt vòng tay hướng về Thị Thơ:

- Đa tạ đại ca ...

Thị Thơ đi trước, Quan Sơn Nguyệt theo sau, vào phía hậu đại sảnh, đến con đường núi nhỏ, đi hơn dặm còn xa xa, Quan Sơn Nguyệt đã thấy một tòa kiếm trúc huy hoàng lồ lộ trên đỉnh non cao.

Tòa kiến trúc đó, huy hoàng vì sắc thái chứ chẳng do quy mô, bởi nó chỉ là một lâu các nhỏ, nó lại được dựng lên đơn độc hầu như chơ vơ giữa vùng mây trắng lững lờ.

Thị Thơ đưa tay chỉ:

- Tòa lâu các đó, là Lưu Ly Biệt Phủ đấy, công tử cứ lên một mình, thuộc hạ không tiện theo.

Giọng nói của Thị Thơ có vẻ khác thường, một giọng nói ẩn ước niềm phấn khởi song chừng như cũng có cái ý u buồn.

Quan Sơn Nguyệt nhìn thoáng qua y, thấy đôi mắt y long lanh, một vài hạt lệ vừa tan qua cái chớp của đôi mi, lệ biến thành một màn sương mờ che đôi mắt sáng. Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

- Đại ca làm sao thế?

Thị Thơ đưa bàn tay gạt vội mấy hạt lệ cài mi, thấp giọng đáp:

- Không có chi! Thuộc hạ cao hứng vì công tử, vì Trương cô nương, công tử và Trương cô nương là một đôi trời sanh ra để kết hợp với nhau, không có một lý do nào mà không gặp nhau được, không một động lực nào chia rẽ nhau được!

Công cuộc hôm nay, do tấu xảo mà thành, cũng do ý trời mà nên đó công tử ạ!

Thuộc hạ cao hứng vô cùng ...

Y vừa thốt, vừa rơi lệ, dù bàn tay y vét qua, lệ vẫn rơi, y vét hết hạt nầy, thì hạt khác lại trào ra, lệ trào mãi, lệ thấm âm thinh, tiếng nói của y dần dần sệt sệt ...

Quan Sơn Nguyệt thay vì cảm động, trái lại chàng lấy làm lạ, giục:

- Đại ca hãy nói thật với tại hạ đi! Lúc ở dưới chân núi, đại ca đã biết tại hạ là Quan Sơn Nguyệt, nhưng lại không hiểu sự liên quan của tại hạ và Nguyệt Hoa Phu Nhân, tuy vậy đại ca vẫn tìm cách giúp đỡ tại hạ lên núi, đại ca còn mạo hiểm bịa một tên giả cho tại hạ, che dấu lai lịch của tại hạ. Như vậy là phải có một nguyên nhân đặc biệt chứ?

Thị Thơ giật mình, trầm ngâm một chút, buông tiếng thở dài, đáp luôn:

- Nói cho công tử biết, cũng chẳng quan hệ gì. Cả Cầm Khiêu, Tư Kỳ và Đạn Kiếm cũng có tình cảm với Trương cô nương, chứ nào chỉ riêng một thuộc hạ ...

Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc:

- Các vị ...

Thị Thơ nhếch nụ cười khổ:

- Bọn thuộc hạ hết sức ngưỡng mộ tiên dung của Trương cô nương, chứ không hề có một ý tưởng xấu xa, vô lễ. Chỉ vì Trương cô nương dành cho công tử một chân tình sâu hơn biển, cao hơn núi, do đó bọn thuộc hạ quyết liều sống chết, giúp cho cả hai được hội ngộ với nhau. Trương cô nương hoài niệm công tử ngày đêm, đã đến đây rồi, công tử hãy gấp lên đó gặp người xưa, an ủi nhau cho thỏa niềm tương tư mơ vọng ...

Y cúi đầu chào, rồi quay mình, bước đi liền.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Top